Sứ điệp video của Đức Thánh Cha gửi Giáo Hội tại Campuchia

Sứ điệp video của Đức Thánh Cha gửi Giáo Hội tại Campuchia

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 gửi Sứ điệp Video chào thăm và khích lệ mọi thành phần dân Chúa tại Campuchia, nhân dịp Hội nghị kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2.

Trong sứ điệp công bố sáng hôm 7 tháng 1-2012 tại thủ đô Phnom Penh, ĐTC nói:

“Anh chị em thân mến ở Campuchia!

”Thật là một niềm vui lớn cho tôi được đến với anh chị em qua kinh nguyện và qua tâm hồn, và có thể gửi đến anh chị em lời chào thăm nồng nhiệt của tôi giữa lúc anh chị em tụ họp nhau quanh các mục tử của mình để cử hành 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican và và kỷ niệm 20 năm Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. Tôi cầu mong rằng bản dịch các văn kiện Công đồng và Sách Giáo Lý ra tiếng Campuchia mà anh chị em nhận được trong dịp này, giúp anh chị em hiểu rõ hơn Giáo huấn của Giáo Hội và tăng trưởng trong đức tin”.

Trong Năm Đức Tin này, tôi mời gọi anh chị em luôn hướng nhìn về Chúa Giêsu Kitô, là nguồn gốc và đích điểm đức tin của chúng ta (Xc Dt 12,2) và tái khẳng định rằng Ngài là Tin Mừng cho thế giới ngày nay. Chính nơi Ngài mà các mẫu gương đức tin đã đánh dấu lịch sử chúng ta, tìm được ánh sáng trọn vẹn. Cũng vậy, khi nhớ đến thời kỳ xáo trộn xô đẩy đất nước anh chị em vào bóng tối, tôi muốn nhấn mạnh rằng đức tin, lòng can đảm và kiên trì của cá vị mục tử cũng như bao nhiêu anh chị em Kitô của anh chị em, trong đó có nhiều người đã chết, là một chứng tá cao cả dành cho chân lý Tin Mừng. Và chứng tá ấy đã trở thành một sức mạnh tinh thần khôn lường để tái thiết cộng đồng Giáo Hội tại đất nước anh chị em. Ngày nay đông đảo các dự tòng và những cuộc rửa tội cho người lớn chứng tỏ sức sinh động của anh chị em và là một dấu hiệu tốt đẹp về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi anh chị em”.

Cũng trong sứ điệp, ĐTC khẳng định rằng: ”Anh chị em thân mến, theo bước thánh Phaolô tông đồ, tôi nhắn nhủ anh chị em ”hãy duy trì tình đoàn kết trong Thánh Linh nhờ mối giây an bình” (Ep 4,3). Hãy chắc chắn về lời cầu nguyện của những người anh chị em đã đổ máu đào trong đồng ruộng! Hãy trở thành men trong bột xã hội của anh chị em, làm chứng về tình bác ái của Chúa Kitô đối với tất cả mọi người, bằng cách kiến tạo những quan hệ huynh đệ với mọi thành phần của các truyền thống tôn giáo khác, và tiến bước trên con đường công lý và từ bi. ”Các bạn trẻ thân mến, là những người đã được rửa tội trong những năm gần đây, các bạn đừng quên rằng Giáo Hội là gia đình của các bạn; Giáo Hội hy vọng nơi các bạn để làm chứng về Sự Sống và Tình thương mà các bạn đã khám phá trong Chúa Giêsu. Tôi cầu nguyện cho các bạn và mời gọi các bạn hãy trở thành những môn đệ quảng đại của Chúa Kitô.

”Và hỡi các linh mục và chủng sinh Campuchia, anh em là dấu chỉ hạt giống của Giáo Hội đang được kiến thiết. Cuộc sống dâng hiến và kinh nguyện của anh em là nguồn mạch hy vọng, và cũng là một lời mời gọi cho những người trẻ khác hãy dâng hiến cuộc sống như những linh mục theo con tim của Thiên Chúa.

”Hỡi các thừa sai, tu sĩ nam nữ, giáo dân thánh hiến đến từ năm châu, anh chị em là dấu chỉ tươi đẹp về tình hiệp thông Giáo Hội quanh các vị mục tử của anh chị em để tình huynh đê của anh chị em, trong những đoàn sủng khác nhau, dẫn đưa nhiều người mà anh chị em phục vụ và nồng nhiệt yêu mến đến gặp chúa Giêsu Kitô. ”Và hỡi tất cả anh chị em đang tìm kiếm Thiên Chúa, xin anh chị em hãy kiên trì và tin chắc rằng Chúa Kitô yêu thương và trao tặng an bình của Ngài cho anh chị em!

Và ĐTC kết luận rằng: ”Anh chị em rất thân mến, là những mục tử và tín hữu ở Campuchia, xin Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ Mekong, trong sự khiêm tốn và trung thành của Mẹ đối với thánh ý Chúa, soi sáng cho anh chị em suốt trong Năm Đức Tin này. Hãy chắc chắn rằng tôi mang anh chị em trong kinh nguyện và tôi rất vui lòng gửi đến tất cả anh chị em phép lành Tòa Thánh quí mến của tôi!”

Hội nghị về ”Công đồng chung Vatican 2 và Giáo Hội” diễn ra tại Phnom Penh, thủ đô Campuchia, từ 5 đến 7 tháng 1-2013 với sự tham dự của hơn 400 người.

Hội nghị được tổ chức nhân dịp Năm Đức Tin. Đức Cha Olivier Schmitthauesler thuộc Hội thừa sai Paris, Đại diện Tông tòa giáo phận Phnom Penh, cho biết mục đích Hội nghị này là để ”cử hành và suy tư về các văn kiện Công đồng chung Vatican 2, kín múc từ đó sức mạnh và sự đào sâu mới mẻ để tiếp tục xây dựng Giáo Hội tại Campuchia”. Trong dịp này, các bản dịch văn kiện công đồng và Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo bằng tiếng Khmer cũng được giới thiệu cho công chung.

Hội nghị được khai mạc với cuộc triển lãm về Công đồng, một buổi cầu nguyện, tiếp theo đó là bài thuyết trình của Đức Cha Schmitthauesler về đề tài ”Giáo Hội”.

Chúa nhật 6 tháng 1-2013, có các cuộc hội luận nhóm về 8 lãnh vực khác nhau: cầu nguyện, loan báo Tin Mừng, đối thoại liên tôn, ơn gọi, các phương tiện truyền thông xã hội, phục vụ người nghèo, giáo dục nói chung và giáo dục về đức tin, sự dấn thân của Giáo Hội trong xã hội. Ngày hội nghị kết thúc với một buổi hòa nhạc do các cộng đoàn trong giáo phận trình bày.

Thứ hai, 7 tháng 1, có phần tường trình kết quả các cuộc Hội luận, và trình chiếu sứ điệp Video của ĐTC, và lúc 10 giờ rưỡi có thánh lễ kết thúc hội nghị, với phần phân phát các bản dịch tài liệu Công đồng và Sách giáo lý Công Giáo. (SD 7-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP

Phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của chủ thuyết bất khả ngộ

Phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của chủ thuyết bất khả ngộ

Các Giám Mục phải là những người quan tâm hướng về Thiên Chúa để có thể quan tâm tới con người. Phải phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của chủ thuyết bất khả ngộ thống trị thế giới ngày nay.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ các tân Giám Mục như trên trong bải giảng thánh lễ truyền chức cử hành tại đền thờ thánh Phêrô trong khung cảnh lễ Hiển Linh 6 tháng 1-2013.

Bốn Tân Tổng Giám Mục được truyền chức là Đức Cha Georg Ganswein, 56 tuổi, Bí thư riêng của Đức Thánh Cha, được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng. Trong chức vụ mới Đức Cha sẽ đặc trách về các buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha và chuẩn bị các chuyến viếng thăm của ngài ở Italia. Ba vị Tổng Giám Mục còn lại là Đức Cha Vincenzo Zani, người Italia, Tổng thư ký Bộ giáo dục công giáo, Đức Cha Fortunatus Nwachukwu, người Nigeria, tân Sứ Thần Tòa thánh tại Nicaragua, và Đức Cha Nicolas Thévénin, người Pháp, Sứ Thần Tòa Thánh.

Hai vị phụ phong trong buổi lễ là Đức Hồng Y Tarcicsio Bertone, Quốc vụ Khanh Tòa thánh và Đức Hồng Y Zenon Grocholewski, Tổng trưởng Bộ giáo dục công giáo.

Tham dự thánh lễ có gần 100 vị gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cùng với các linh mục, tu sĩ nam nữ, thân nhân bạn bè của các tiến chức, ngoại giao đoàn canh Tòa Thánh và 10.000 tín hữu và du khách hành hương.

Sau Phúc Âm Phó tế đã hát lời loan báo Phục Sinh. Tiếp đến cộng đoàn đã hát kinh Cầu Xin Chúa Thánh Thần, rồi Đức Hồng Y Marc Ouellet, người Canada, Tổng trưởng Bộ Giám Muc giới thiệu các tiến chức với Đức Thánh Cha.

Trong bài giảng Đức Thánh Cha đã nói về ý nghĩa của biến cố Hiển Linh và mời gọi các tiến chức noi gương ba nhà Đạo sĩ phương đông. Hiển Linh là sự biểu lộ lòng lành và tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Dưới sự hướng dẫn của ngôi sao các Đạo sĩ đã tìm ra con đường tới Bếtlêhem; nhưng đối với Giáo Hội đó chỉ là bước khởi đầu của một cuộc rước vĩ đại dọc dài lịch sử. Các Đạo sĩ đến từ Phương Đông đại diện cho thế giới các dân tộc, Giáo Hội của các người không do thái, qua các thế kỷ tiến bước về với Con Trẻ ở Bếtlêhem, phủ phục và thờ lậy Con Thiên Chúa. Thật ra ngay từ đầu lịch sử Giáo Hội, con người đến từ mọi nơi thuộc mọi lục địa, mọi nền văn hóa và các kiểu suy nghĩ và cách sống khác nhau đã và đang tiến bước về với Chúa Kitô.

Các Đạo sĩ là những người bị thúc đẩy bởi sự âu lo kiếm tìm Thiên Chúa và ơn cứu rỗi của thế giới, nên không hài lòng với địa vị và của cải họ có, mà muốn biết làm sao để là người, và biết sự thật về chính con người, về Thiên Chúa và thế giới. Họ là những người kiếm tìm Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã khuyến khích các tân chức noi gương ba nhà Đạo sĩ phương đông và định nghĩa Giám Muc như sau:

Nhất là vị Giám Mục phải là người quan tâm hướng về Thiên Chúa, bởi vì chỉ như thế Giám Mục mới thực sự quan tâm tới con người. Chúng ta cũng có thể nói ngược lại: một Giám Mục phải là một người có con tim chú ý tới con người, bị đánh động bởi các chuyện của con người. Giám Mục phải là một người sống cho người khác. Nhưng ngài chỉ thực sự được như vậy, nếu là một người bị Thiên Chúa chinh phục. Nếu đối với ngài, sự lo lắng đối với Thiên Chúa trở thành một sự lo lắng đối với con người là thụ tạo của Chúa. Giám Mục phải là người đi trước và chỉ đường cho con người tiến tới đức tin, đức cậy và đức mến. Như là người hành hương của Thiên Chúa Giám Mục phải là con người cầu nguyện và sống trong sự tiếp xúc nội tâm liên lỉ với Thiên Chúa.

Giám Mục là người được mời gọi có can đảm và sự khiêm tốn của đức tin như các nhà Đạo sĩ, chắc hẳn đã bị nhạo cười vì được hướng dẫn bởi một ngôi sao họ du hành về nơi vô định. Xem ra họ đáng nực cười, nhưng bởi vì các vị đã được Thiên Chúa đánh động trong nội tâm, nên đối với họ việc tìm kiếm chân lý quan trọng hơn sự chế nhạo của thế giới, bề ngoài xem ra thông minh. Cũng thế vị Giám Mục ngày nay sẽ thường xung khắc với sự thông minh thống trị của những người bám víu vào cái xem ra chắc chắn. Ai sống và loan báo đức tin của Giáo Hội, trong nhiều điểm không phù hợp với các ý kiến thống trị của thời đại chúng ta ngày nay. Và Đức Thánh Cha giải thích lý do các xung khắc đó như sau: Chủ thuyết bất khả ngộ đang thống trị rộng rãi ngày nay có các tín điều của nó, và nó rất bất khoan nhượng đối với tất cả những gì đặt nó trong vấn nạn và cật vấn các tiêu chuẩn của nó. Vì thế can đảm chống lại các hướng dẫn thống trị là điều đặc biệt cấp bách đối với một Giám Mục này nay. Do đó Giám Mục phải là người can đảm. Sự can đảm ấy không hệ tại việc đánh trả với bạo lực, trong tính hiếu chiến, nhưng là để cho mình bị đánh và đương đầu với các tiêu chuẩn của các ý kiến thống trị. Can đảm ở lại một cách vững vàng với chân lý là điều được đòi hỏi nơi nhưng người Chúa gửi đi như chiên con giữa sói. Ai kính sự Chúa, thì khộng sợ hãi gì hết” sách Huấn Ca nói vậy (Hc 34,16). Lòng kính sợ Chúa giải thoát khỏi sự sợ hãi loài người. Nó khiến được tự do”.

Cũng như đã xảy ra cho các Tông Đồ, cũng thế các Giám Mục là những người kế vị các Tông Đồ phải chờ đợi bị đánh đập nhiều lần, một cách tân tiến, nếu không ngừng loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô một cách dễ nghe và dễ hiểu. Dĩ nhiên, các Giám Mục không được mời gọi khiệu khích, trái lại phải kêu mời mọi người bước vào trong niềm vui của chân lý, bằng cách chỉ đường như các ngôi sao lóng lánh trên bầu trời lich sử. Sự ưng thuận của các ý kiến thống trị không phải là tiêu chuẩn phải vâng phục. Tiêu chuẩn là chính Chúa. Nếu chúng ta bảo vệ lý lẽ của Chúa, thì nhờ Người, chúng ta sẽ luôn luôn chinh phục được các người mới cho con đường Tin Mừng. Nhưng một cách không thể tránh né được, chúng ta sẽ bị đánh bởi những người sống trái nghịch với Tin Mừng, và khi đó chúng ta sẽ biết ơn vì được coi là xứng đáng thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chủa Kitô.

Sau khi các tiến chức đã thề hứa trung thành với các nhiệm vụ Giám Mục của mình cho tới chết, cộng đoàn đã hát kinh cầu các Thánh xin các vị bầu cử cho các tiến chức nằm phủ phục trước bàn thờ. Tiếp đến hai vị phụ phong, các Hồng Y và các Tổng Giám Mục đặt tay trên đầu các tiến chức. Các Phó tế cầm sách Phúc Âm mở trền đầu các tiến chức, trong khi Đức Thánh Cha đọc công thức truyền chức. Rồi từng vị tiến lên để được Đức Thánh Cha xức dầu thánh hiến, trao sách Phúc Âm, đeo nhẫn, nhận mũ và gậy Giám Mục. Sau đó càc Tân Tổng Giám Mục trao hôn bình an với Đức Thánh Cha, các Hồng Y, và các Tổng Giám Mục, và nhận lời chúc mừng của các vị.

Vì thánh lễ kéo dài nên Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin trễ 15 phút. Ngài đã xin lỗi mọi người vị sự chậm trễ này. Đức Thánh Cha đã gửi lời cầu chúc bình an, và đặc biệt chúc mừng các Giáo Hội Đông Phương mừng lễ Giáng Sinh ngày mùng 7 tháng Giêng theo lịch Giuliano. Ngài cũng nhắc tới Ngày Thánh Nhi cử hành tại Italia hôm qua và cám ơn các thiếu nhi đã dấn thân loan báo Tin Mừng và trợ giúp các trẻ em nghèo. Đức Thánh Cha xin các em đem tình yêu Chúa đến cho mọi người. Ngài cũng đặc biệt chào mừng hiệp hội Các Gia đinh Tự Do Âu châu tổ chức cuộc diễn hành lịch sử dân ca vũ, năm nay theo các truyến thống của vùng Arezzo trung Italia. Hàng chục đoàn người mặc các sắc phục địa phương với cờ quạt hộ tống ba vua cỡi ngựa, đã bắt đau diễn hành lúc 10 giờ trên đại lộ Hòa Giải đế tiến về quảng trường thánh Phêrô tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha.

Trong bài huấn dụ ngắn Đức Thánh Cha nói tuy có hơi khác nhau nhưng lễ Hiển Linh mà Giáo Hội Latinh Roma mừng hôm qua, và lễ Giáng Sinh mà các Giáo Hội Đônb phương mừng ngày mùng 7 tháng Giếng, đều nêu bật rằng Hài Nhi sinh trong hang đá Bếtlehem là ánh sáng thế gian, dẫn lối cho mọi dân tộc. Trên bình diện đức tin thì một đàng trong lễ Giáng Sinh chúng ta thấy ở trước Đức Giêsu có đức tin của Mẹ Maria, của thánh Giuse và các mục đồng. Hôm nay trong lể Hiển Linh có đức tin của các Đạo sĩ đến từ Phương Đông để thờ lậy vua Do thái. Ngài nói:

Đức Trinh Nữ Maria cùng với chồng mình diễn tả ”nhánh” của Israel, ”số sót” đã đươc các tiên tri loan báo, từ đó Đấng Cứu Thế xuất thân. Trái lại các Đạo sĩ diễn tả các dân tộc, và chúng ta cũng có thể nói các nền văn hóa, và các tôn giáo đang tiến bước về với Thiên Chúa, trong sự kiếm tìm vương quốc hòa bình, công bằng, chân lý và tự do của Người. Nhân tố đức tin của dân Israel là dân đã nhận biết và tin nơi Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải cho các Tổ Phụ và trong con đường lịch sử, đã được biểu hiện nơi Đức Maria, ”Con gái Sion”. Vào thời viên mãn đức tin ấy đã thành toàn nơi Mẹ là ”người có phúc vì đã tin”; và nơi Mẹ Ngôi Lời đã nhập thể, Thiên Chúa đã xuất hiện” trong thế giới. Đức tin của Mẹ trở thành mẫu gương đức tin của Giáo Hội, Dân của Giáo Ước mới, một dân đại đồng ngay từ đầu. Nó có thể được để bên cạnh đức tin của tổ phụ Abraham: nó là sự khởi đầu của cùng một lời hứa của cùng một chương trình bất biến của Thiên Chúa, giờ đây được thành toàn nơi Đức Giêsu Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô trong sáng và mạnh mẽ khiến cho có thể hiểu được ngôn ngữ của vũ trụ cũng như ngôn ngữ của Thánh Kinh, và như thế tất cả những ai, như ba nhà Đạo sĩ, rộng mở cho chân lý có thể nhận biết nó và đạt tới việc chiêm ngưỡng Đấng Cứu Độ thế giới.

Sau đó Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-31-2012 đến 01-06-2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 12-31-2012 đến 01-06-2013

Trích từ XBVN

Linh mục ở Gp Boston được bổ nhiệm làm công tố viên về lạm dụng tình dục.Thúc giục tín hữu Công Giáo Ái Nhĩ Lan lên tiếng nhân danh quyền được sống.Cuộc trưng cầu dân ý và Hiến pháp ở Ai Cập là một sự sỉ nhục cho đạo Hồi.Thỉnh nguyện thư trên phạm vi Châu Âu để bảo vệ quyền được sống.Đền thờ xây năm 750 trước CN được tìm thấy ở Israel. –Hãy là chứng nhân cho sự hiệp nhất Kitô giáo.12 linh mục, các nhà hoạt động mục vụ khác bị giết năm 2012. –HĐGM Hoa Kỳ và Cơ Quan Cứu trợ Công Giáo và tu chính viện trợ nước ngoài.Những người phản đối chiếm văn phòng Sứ thần Toà Thánh ở Paris. –Những công việc từ thiện cá nhân của Đức Thánh Cha.Giáo phận Westminster chấm dứt ‘các thánh lễ Soho’.Kế hoạch làm việc bận rộn năm 2013 của Đức Thánh Cha.BỔ NHIỆM MỚI.Hàng ngàn giáo dân đón chào thánh tích Thánh Nữ Têrêxa.2.3 triệu người tham dự các buổi triều yết và các nghi lễ năm 2012.Hồng Y Vatican viết về vai trò những bà mẹ các linh mục.Cải tổ bộ luật hình sự có nghĩa là Tập Cận Bình phải thả các GM và LM bị tù. (Xem chi tiết . . .Tuần tin Công giáo từ 12-31-2012 đến 01-06-2013 )

LỄ HIỂN LINH

LỄ HIỂN LINH

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Chúa Hiển Linh.  Hiển linh là gì, nếu không phải là Chúa tỏ mình ra cho muôn dân biết Ngài là Đấng Mê-si-a  mà các ngôn sứ, tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa, nay đã ra đời ở Bêlem qua Hài Nhi Giêsu. Các mục đồng tìm đến ngợi khen chúc tụng, và các nhà đạo sĩ Phương Đông cũng tìm về triều bái và dâng lễ vật, mà hôm nay ta mừng lễ cũng gọi là lễ Ba Vua.

 Bài đọc 1, sách tiên tri Isaia cho ta thấy hình ảnh vinh quang chiếu tỏa từ Giêrusalem, trong khi các dân tộc còn sống trong u tối. Giêrusalem không phải tự nó chiếu sáng nhưng là nhờ vinh quang củaThiên Chúa, bởi đó mà các dân tộc dập dìu kép tới, nguồn phú túc và lạc đà cũng tuôn về.  Với viễn tượng mà Isaia nhìn Giêrusalem toả sáng, chắc chắn tiên báo về thời Đấng cứu Thế. Phải, thời Đấng Mê-si-a đã đến và thời đó sẽ viên mãn như lời Chúa Giêsu nói:  Rồi đây người Phương Đông, Phương Tây sẽ tuôn đến, trong khi con cái trong nhà bị loại ra ngoài, ám chỉ ngày quang lâm, lời tiên tri được thực hiện hoàn toàn. Nhưng hiện nay đã khởi sự nơi Hài Nhi Giêsu mà hôm nay ngôi sao dẫn đường ba vua đã dừng lại ở Bêlem nơi Hài Nhi Giêsu sinh ra. Giêrusalem bừng sáng, chính nơi đây ba nhà đạo sĩ tìm đến thờ lạy.

Giáo Hội ngày nay là hình ảnh Giêrusalem đang bừng sáng để muôn dân nhận ra và tìm về.  Mỗi một cộng đoàn, giáo xứ, gia đình, hay mỗi một cá nhân là một Giáo Hội được thu nhỏ.  Giê-ru-sa-lem xưa bừng sáng, thì nay qua mỗi người chúng ta cũng phải bừng sáng bởi ngày chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội.  Mỗi tín hữu được trao cây nến thắp sáng để chiếu dọi vào thế giới u tối.  Khi chúng ta lãnh nhận ba chức năng:  ngôn sứ- tư tế và vương đế; nghĩa là: rao giảng, tế tự và cai quản.  Cho nên, hôm nay, chúng ta là những hình ảnh tiếp nối các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Ngôi Hai, để ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa chiếu dọi vào lòng trí chúng ta, giúp chúng ta thêm đức tin, đức cậy và lòng mến, có như thế chúng ta mới đem Tin Mừng yêu thương đến với mọi người; mọi người ở đây, trước hết là mỗi thành phần trong gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, dòng tu, mỗi người phải hiển linh cho nhau, nghĩa là phải sống làm sao, nói thế nào để cho khuôn mặt nhân từ của Chúa ra qua cử chỉ, lời nói đối với mọi người chung quanh.

Tin Mừng, tin vui mà Chúa muốn cho chúng ta mang đi loan báo, cho mọi người là một Tin Mừng sống động khởi đi từ Hài Nhi bé bỏng, nhưng lại là Vua muôn vua, Vua của sự bình an.  Chính vì sự nghịch lý này mà xưa cũng như nay đã không biết bao nhiêu người không chấp nhận đã đành mà còn xua đuổi, loại trừ Chúa ra khỏi cuộc đời của mình và còn hung bạo hơn nữa là muốn không cho Thiên Chúa hiện hữu trên mặt đất này, cũng chỉ vì sự kiêu căng ngạo mạn, muốn mình làm chúa để quyết định vận mệnh của thế giới nhân loại.  Lại nữa, vì sự ích kỷ của con người sợ ảnh hưởng tới địa vị, sợ mất quyền lợi này, quyền lợi kia, hay nói khác đi, khi người ta sợ đụng chạm đến quyền lợi,  sự phiền phức cho cuộc sống của mình; như trường hợp vua Hêrôđê sợ mất ngôi vua của ông nên ông đã có những âm mưu nham hiểm để triệt hại Hài Nhi Giê-su không được nên ông giết tất cả các trẻ em ở Giê-ru-sa-lem và các vùng phụ cận cho chắc ăn.

Hình ảnh một Hêrôđê xưa thật đáng sợ, nhưng ngày nay biết bao nhiêu Hêrôđê còn đáng sợ hơn nhiều; bởi vì, Hêrôđê xưa chỉ giết những đứa trẻ không phải là máu mủ ruột thịt của ông, thế mà ngày nay biết bao người mẹ đang tay giết chết ngay chính con của mình.  Rồi bạo chúa Hêrôđê hôm nay là những người tiếp tay cho những bà mẹ phá thai.  Hêrôđê ngày nay là những kẻ dùng đồng tiền để đẩy bao nhiêu trẻ thơ vô tội vào con đường huỷ hoại cuộc đời.  Ôi ngày nay Hêrôđê bạo chúa đang ẩn núp dưới mọi hình thức.

Phúc cho những ai thành tâm thiện chí, những tâm hồn khiêm tốn, bé nhỏ để đón nhận mầu nhiệm giáng sinh. Mẹ Maria, thánh Giuse, các mục đồng, ba nhà đạo sĩ, đó là những người có phúc, đó là những người sẽ được dự phần vinh phúc trong nước Chúa.

Ước gì lễ hiển linh hôm nay mời gọi mỗi người trở thành sự Hiển Linh của Chúa trong môi trường chúng ta sống; nghĩa là để cơ hội cho Chúa sinh ra và lớn lên trong lòng mình, đó phải chăng là sự Hiển Linh của Chúa đang được thể hiện qua chúng ta.  Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình SDD

CHÚNG TÔI ĐẾN ĐỂ THỜ LẠY NGƯỜI

CHÚNG TÔI ĐẾN ĐỂ THỜ LẠY NGƯỜI

Cuộc kính viếng Chúa Hài Nhi của Ba Vua trong đoạn Phúc Âm  Thánh Mátthêu hôm nay (x. Mt 2, 1-12)  được cấu trúc bằng bốn đoạn văn:

– Câu văn khởi đầu để xác định vị trí và thời điểm: “Khi Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh phương Đông đến Giêrusalem” (Mt 2, 1); – Cuộc hành trình dừng lại  ở Giêrusalem để hỏi thêm tin tức (x .Mt 2, 2-8); – Tiếp tục cuộc hành trình đến Bêlem và được diện kiến Chúa Hài Nhi (x. Mt 2, 9-11); – Và câu văn kết thúc: “Sau đó các ông được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình” (Mt 2, 12).

Trong cả hai đoạn văn tường thuật lại cuộc hành trình đến Giêrusalem và tiếp tục từ Giêrusalem đến Bêlem, chúng ta có  hai yếu tố đáng chú ý và suy ngẫm: ngôi sao và cuộc bái lạy:

– “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện, bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người ” (Mt 2, 2). – “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người ” (Mt 2, 10-11).

Dựa vào hai yếu tố  nổi bậc đó của hai đoạn văn, chúng ta có thể  suy niệm ý nghĩa của biến cố ba Nhà Chiêm Tinh ( hay Ba Vua) đến thờ lạy Chúa Hài Nhi.

a. “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện”.

Theo các xác tín từ ngàn xưa, mỗi người chúng ta đều có số mệnh hay có vì sao hộ mệnh. Khi mỗi người sinh ra có một vì  sao mọc lên và lặn đi, khi chúng ta mất. Trong văn chương thời cỗ, nhất là Cựu Ước, các biến cố vừa kể trên không gian có liên hệ đến lúc một vị vua hay một vị hoàng đế sinh ra. Có lẽ khi viết những dòng Phúc Âm vừa kể, Thánh Mátthêu liên tưởng đến những gì được báo trong Cựu Ước, liên quan đến dân Do Thái: “Tôi thấy nó (ngôi sao), nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;một vì sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng nổi dậy từ Israel, sẽ đập vào màng tang Môáp, đánh vở sọ tất cả con cái Sét và chiếm Êđom, cả Syria cũng bị chiếm nữa, Israel sẽ biểu dương sức mạnh” (Num 24, 17-18).

Đó là lời của nhà tướng số Balaam, một người ngoại đạo, được vua Môáp mời đến xem vận mạng và chúc dữ cho Israel, nhưng thay vì chúc dữ, nhà tướng số lại thốt lên những lời chúc phúc của Thiên Chúa, tiên báo tương lai huy hoàng cho Israel. Những lời tuyên bố vừa kể của Balaam, thời Thánh Mátthêu được dân chúng lưu truyền, chuyền miệng nhau như là những lời tiên báo Đáng Cứu Thế mà Israel đang mong đợi sẽ đến.

Hiểu như vậy, ngôi sao được Thánh Mátthêu đề cập là dấu hiệu tuyên bố cho dân chúng biết Hài Nhi mới sinh ở Bethlem là Đấng Cứu Thế của Israel. Và cũng chính vì đó mà ba Nhà Chiêm Tinh xác tín rằng Hài Nhi mới sinh là “Đức Vua dân Do Thái: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh , hiện ở đâu?… ” (Mt 2, 2). Người là Đấng được Thiên Chúa sai đến để đem lại hoà bình và giải thoát, mà thế lực của cường quyền không thể kềm kẹp nổi. Nhưng rồi dù có điềm lạ  trên trời tiên báo và hướng dẫn, các Nhà Chiêm Tinh cũng chưa đến được với Chúa  Hài Nhi.

Thánh Mátthêu không cho chúng ta biết các Nhà Chiêm Tinh đến Giêrusalem là do ánh sao hướng dẫn hay do sự chỉ dẫn và mời mọc của vua Hêrôđê. Điều đó cho thấy Thánh Mátthêu viết Phúc Âm nhằm phổ biến sứ điệp tôn giáo và thần học hơn là liệt kê chi tiết lịch sử chính xác của đoạn văn tường thuật. Mục đích của Thánh Mátthêu là  nói cho chúng ta biết các Nhà Chiêm Tinh là những vị thông thái, biết giải thích các hiện tượng trên trời, biết cắt nghĩa ý nghĩa trong tạo vật, cho chúng ta thấy sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nói cách khác, các Vị có hiểu biết và sống theo đạo tự nhiên: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người ” (Mt 2, 2).

Nhưng mặc dầu hiểu biết, tin và theo đạo tự nhiên, các Vị chỉ  có thể đến được gần Chúa Hài Nhi, nhưng chưa đến được tận nơi Ngài. Để biết tường tận nơi Chúa Hài Nhi, để biết tường tận Thiên Chúa, chúng ta phải nhờ chính sự mạc khải của Người, mạc khải qua Thánh Kinh, qua các ngôn sứ và nhứt là chính Ngài mạc khải Ngài cho chúng ta, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mạc khải chính Thiên Chúa cho chúng ta. Đó là ý nghĩa tại sao Thánh Mátthêu kể lại các Nhà Chiêm Tinh phải dừng lại ở Giêrusalem hỏi thêm tin tức và được các kinh sư và thượng tế nhờ Thánh Kinh giải thích cho: “Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki Tô sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bêlem, miền Giuđêa, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi hởi Bêlem, miền đất Giuđêa, ngươi đâu phải là thành phố nhỏ nhất của Giuđêa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời ” (Mt 2, 3-6).

Theo cách suy nghĩ đó, chúng ta có  thể nghĩ rằng Thánh Mátthêu dựa theo truyền thống biết được Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem và từ  đó Ngài sắp đặt lại tường thuật thành cuộc hành trình của các Nhà Chiêm Tinh, có đặc tính thần học của bài tường thuật.

Bài đọc sách tiên tri Isaia cho thấy vương quyền của Thiên Chúa trên nhân loại được thể hiện trên thành phố (Giêrusalem) và trên dân chúng:

Chư dân sẽ kéo về ánh sáng của ngươi (của thành Giêrusalem),      vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.      Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập họp kéo đến với ngươi…      Vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,      Của cải muôn dân sẽ tràn đến với ngươi ” (Is 60, 3-5).

Trong khi đó thì Thánh Vịnh 72 không chú ý đến quyền năng của Thiên Chúa thể hiện trên thành phố (Giêrusalem) cho bằng qua vai trò của  vị vua dân Do Thái:

Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho Tân Vương,     trao công lý Ngài vào tay Thái  Tử,     để Tân Vương xét dân Ngài theo công lý,     và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.     Núi  đem lại cảnh hòa bình trăm họ,     đồi rước về nền công lý vạn dân” (Tv 72, 1-3).

Và vị Tân Vương đó là  vua Do Thái, trước nhan Người mọi vua dân nước phủ  phục:

Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,      muôn dân nước thảy  đều phụng sự ” (Tv 72, 11).

Khi viết đoạn Phúc  Âm hôm nay, tường thuật lại việc các Nhà Chiêm Tinh đến bái lạy Chúa Hài Nhi, một người Do Thái có nhiều kinh nghiệm về Thánh Kinh như Thánh Matthêu, chắc chắn phải  có liên tưởng đến hai đoạn sách tiên tri Isaia và Thánh Vịnh vừa kể. Các Nhà Chiêm Tinh là những nhà thông thái đến từ dân ngoại. Việc nhận biết và thờ lạy Hài Nhi Giêsu, “Yhwh” (Yahvé)  “Chúa của dân Do Thái, cho thấy uy quyền của Chúa đã được cả nhân loại chấp nhận, Do Thái hay dân ngoại cũng vậy: “Đức vua Do Thái mới sinh ở đâu? Chúng tôi thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người… Họ vào nhà thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, liền sắp mình thờ lạy Người ” (Mt 2, 2.11).

Đức vua Do Thái ” được các Nhà Chiêm Tinh, đến từ các dân ngoại nhận biết và thờ lạy, còn dân Do Thái thì không. Đó là những gì Thánh Mátthêu kể tiếp trong Phúc Âm Ngài: “Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao…” (Mt 2,3). “Bối rối và xôn xao” bởi vì cả vua và dân chúng không muốn tiếp nhận Hài Nhi Giêsu là vua họ. Vua Hêrôđê tìm cách để giết Người, đó là những gì thiên sứ báo cho các Nhà Chiêm Tinh: “Sau đó họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Erode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình ” (Mt 2, 12). Cũng như sẽ báo cho Thánh Giuse phải đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập: “Nầy ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đó ” (Mt 2, 13). Chúng ta không biết tình trạng lúc đó căng thẳng như thế nào, giữa thái độ bất thân thiện hay thù địch của Hêrôđê và dân chúng Do Thái đối với Chúa Giêsu và giáo lý của Ngài: “Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao”, và cử chỉ  thân thiện tiếp nhận đối với Ki Tô giáo của dân ngoại, được biểu hiệu bởi ba Nhà Chiêm Tinh.

Nói cách khác, viết lên những dòng trên, Thánh Mátthêu thuật lại cho chúng ta thái độ không chấp nhận của dân Do Thái và cử chỉ tiếp đón “ …liền sắp mình thờ lạy Người ”, của Cộng Đoàn Ki Tô hữu lúc đó, được diễn tả qua hình ảnh ba Nhà Chiêm Tinh. Chắc chắn những dòng Phúc Âm vừa kể, Thánh Mátthêu viết cho người Do Thái, bởi vì Ngài cũng là người Do Thái, để nói lên cho họ gương nhận biết “liền sắp mình thờ lạy Người” của dân ngoại “mới  trở lại ” hay của các Cộng Đồng Ki Tô Hữu tiên khởi.

Thái độ bất thân thiện và không chấp nhận Ki Tô giáo của người Do Thái lúc đó cũng được Thánh Phaolô đề cập đến trong thư gởi các tín hữu Êphêsô, nói đến việc tham dự của dân ngoại vào lời hứa và gia tài của dân được chọn: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Giêsu Ki Tô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).

Qua những điều vừa suy niệm, chúng ta thấy chương trình cứu rỗi của Chúa không ai có thể tiên đoán được và  được thực hiện vượt lên trên những gì các ngôn sứ đã tiên báo: dân Do Thái là trung gian cần thiết để hướng dẫn và chuyển đạt thánh ý Chúa, nhưng vai trò đó của dân được chọn đã được biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu thay thế: “Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân chúng lại, hỏi cho biết Đấng Ki Tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bethlem, vì trong sách các ngôn sứ có chép rằng: Phần ngươi, hởi Bêlem, miền đất Giuđêa, ngươi đâu phải là thành phố nhỏ nhất của Giuđêa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân ta sẽ ra đời ” (Mt 2, 4-6).

Thái độ từ chối của những người Do Thái, nhất là các kinh sư và phái Pharisêu và thái độ mở rộng cửa lòng đón rước Chúa của những người nghèo khỗ, “quân tội lỗi” và “bọn thu thuế”, chúng ta sẽ còn gặp lại trong Phúc Âm Thánh Mátthêu ở những chương tới:

– “Bỏ nơi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mátthêu đang ngồi ở trạm: Người bảo ông: “Anh hãy theo Ta! Ông đứng dậy và đi theo Người ” (Mt 9, 9). – “Khi Chúa Giêsu dùng bửa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tôi lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. Thấy vậy những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?…Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi ” (Mt 9, 10-11.13b).

Viết những dòng của Phúc Âm hôm nay, thuật lại chuyến đi tìm Chúa Hài Nhi của ba Nhà Chiêm Tinh, chắc chắn Thánh Mátthêu  đang chứng kiến những hiện trạng  trước mắt, hiện tượng của nhiều người  Do Thái không chấp nhận Chúa Giêsu và những người từ dân ngoại đến tìm kíếm Người, như đã nói.

Hình ảnh của ba Nhà  Chiêm Tinh từ phương Đông là hình ảnh của những ai tìm kiếm Chúa, nhận thức được giới hạn của khả năng con người, bản tính hèn mọn và thấp hèn của con người, nhu cầu con người phải có được Thiên Chúa để lấp đầy khát vọng hạnh phúc của mình, khát vọng, mà Chúa đặt vào tâm khảm mỗi người, khi Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài:

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,     Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,          Thiên Chúa sáng tạo con người có nam, có nữ ” (Gn 1, 27).

“…sáng tạo con người theo hình ảnh mình”, Thiên Chúa đã đặt trong tâm khảm con người, bất cứ ai, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, cũng có trí khôn ngoan và lòng ao ước tự do, hạnh phúc vô hạn, mà chỉ có Chúa mới thoả mãn được nỗi khao khát đó, bởi vì Người đã tiền định cho con người phải tham dự vào chính bản tính thần linh của Thiên Chúa”, mới thoả mãn được các khát vọng hướng về tuyệt đối của mình: “Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy (của Chúa Giêsu), Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian ” (2 Pr 1, 4 ).

* Cử chỉ  của ba Nhà Chiêm Tinh khiêm nhường, biết được giới hạn bản tính con người của mình và nhìn nhận Hài Nhi mới sinh là “vua dân Do Thái”, đến để bái lạy Người, * khác với thái  độ mù quáng của những ai tự mãn, bất cần thần thánh, xem mình trưởng thượng và khinh khi người khác như người Pharisêu: “Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: không tham lam, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 11-12).

Hay vì sợ nếu chấp nhận tôn giáo, đón tiếp Thiên Chúa và giáo lý  của Ngài sẽ bị mất đi ảnh hưởng và  quyền lực, lợi lộc như vua Hêrôđê: “Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao” (Mt 2, 3). Hình ảnh ba Nhà Chiêm Tinh lên đường đi tìm Chúa Hài Nhi, theo ánh sao chỉ  đường là hình ảnh ngoạn mục của những ai nghe theo tiếng gọi và sự chỉ dẫn của con người thoát ra khỏi khuôn thước  hạn hẹp của quan niệm loài người, ra đi theo tiếng gọi của lương tâm đi tìm Đấng Tối Cao.

Ra đi để tìm kiếm, chứng tỏ con người đó ý thức được những bất toàn, giới hạn của mình, đi tìm những gì mình chưa có, ý thức được những thiếu thốn, giới hạn và bất  hạnh của mình trong cuộc sống, để tìm đến hạnh phúc đích thực và bất diệt, đi tìm chính Thiên Chúa nguồn gốc phát xuất của chính mình và nguồn hạnh phúc bất diệt mà mình khao khát  đạt đến.

Ý thức được bản thể giới hạn, thấp hèn và bất hạnh của mình, nếu không có Thiên Chúa, là khởi đầu cho con đường đi đến hạnh phúc viên mãn, mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tám Mối Phước Thật: “Phước cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3).

Nói cách khác, con người tự mãn, từ chối Thiên Chúa, sống bất cần thần thánh, mù quáng tự mãn với quyền lực, sắc đẹp, tiền tài của trần gian, là con người tự trấn áp bản tính ước ao tôn giáo trong lương tâm của mình, phủi tai để ra bên ngoài câu hỏi ngàn đời mà hể ai là người, con nguời sống theo ảnh hưởng của ý thức hệ vô thần, nói một cách ngắn gọn, một lúc nào đó trong cuộc sống cũng sẽ tự hỏi: “Tôi từ đâu đến, tại sao tôi đang sống và rồi sẽ đi đâu sau cái chết?”.

Con người trấn áp tiếng gọi tôn giáo của mình, tiếng gọi mà Thiên Chúa đã đặt trong mỗi tâm hồn khi chúng ta sinh ra (x. Gn 1, 27), là con người đê tiện hoá phẩm giá  cao cả con người của mình; biến cuộc sống của con người ngang hàng với cuộc sống của thú vật, lối sống của bọn vô thần, coi mình và anh em đồng bào mình ngang hàng với súc vật, chỉ biết tìm kiếm đồ vật và điều kiện vật chất để thoả mãn cuộc sống vật lý và sinh lý bẩm sinh của mình.

Không ai là người, sống thành thật với lương tâm con người của mình, có thể  che giấu được nỗi khát vọng hạnh phúc vô tận của mình, bởi lẽ đó là khát vọng tự bản tính mà Thiên Chúa đã đặt vào tâm khảm chúng ta (x. Gn 1, 27).

Nguyễn Học Tập

SUY NIỆM LỄ CHÚA HIỂN LINH

SUY NIỆM LỄ CHÚA HIỂN LINH

“Tôi đã đợi như ngày tôi đã đợi,”

“Vẫn ngậm ngùi tình về như buổi ngậm tình đi”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 2: 1-12

 Ngày tôi đợi, vẫn ngậm tình về cả vào lúc đạo sĩ ở các nơi tìm đến như trình thuật nay đã kể. Trình thuật nay thánh Matthêu kể về danh nhân/đạo sĩ nước ngoài tìm gặp Đức Chúa, rất Hài nhi. Các ông không đến cùng một lúc với mục đồng trong vùng. Và, theo các tranh vẽ và máng cỏ do người thời sau diễn tả, không thấy vị nào quỳ bái giống như ai. Sự việc các ngài ghé viếng Hài nhi thánh cũng chẳng là điều để ta bàn cãi. Nhưng, vấn đề đặt ra, là: các ngài đã cảm nghiệm gì khi đến gặp? Phải chăng là cảm xúc và kinh nghiệm về một quan hệ?

Đúng thế. Cảm nghiệm căn bản về đời người là cảm nghiệm về quan hệ thân thương giữa người với người. Đó là nền tảng đích thực của mọi hiểu biết vẫn cho ta nghị lực để xử trí. Là, quay hướng về người nào đó mình đã biết yêu thương. Là, ngước mắt nhìn thẳng vào diện mạo của người đó vẫn muốn biết về nhiều thứ, về người, và về ngôn ngữ cùng mọi chi tiết.

Đây cũng là cung cách mà các bậc cha mẹ vẫn ngắm nhìn con trẻ bé nhỏ hoặc trẻ sơ sinh đang đắm mình trong giấc ngủ. Đây, là ánh nhìn của người trợ tá vẫn hướng về người bệnh đang bị cơn bệnh ngặt nghèo cất đi niềm vui thích rời sự sống. Đấy, còn là đường lối mà người đương yêu nhìn bằng ánh mắt mà tình yêu đánh thức cả hai người.

Ánh mắt ấy, đã phá vỡ chu kỳ của mọi thói tật. Ánh mắt nhìn thẳng vào diện mạo không gì có thể che đậy và cũng chẳng có gì để bắt chụp. Ánh nhìn, là thứ gì đó vượt quá đặc thù khiến ta có thể định nghĩa. Là, thứ gì và người nào đó vẫn gần bên. Là, mục tiêu của ước vọng. Là, đối tượng của sự hiền dịu. Là, tên gọi của sự sống có lời mời gọi mọi người hãy nhận biết. Trong khoảnh khắc đầy ân sủng, bề mặt ngoài dù đổ vỡ vẫn muốn sự sống của ta đi xuyên suốt vào với sự thật, rất trổi bật.

Khoảnh khắc ấy không ở lại lâu hơn. Bởi, nó là thời khắc đặc biệt, luôn chiếu toả ánh sáng rất lung linh. Nó có được ý nghĩa là để ta ra như thế. Và, trẻ bé sơ sinh cũng được yêu thương và sống được là nhờ vào ánh mắt của mẹ cha, là những vị vẫn làm việc và cam chịu đau khổ để con mình được lớn lên, có bạn bè nối kết với nhau trong hoàn cảnh riêng tư như họ vẫn kiên quyết thực hiện.

Ta sống sót, là bởi đã thấy ai đó có thể thay đổi con đường sống của ta. Ta không thể nào dính liền vào với khoảnh khắc nào đó dù nó có tốt đẹp đến mấy đi nữa. Bởi, khoảnh khắc đó không dừng lại một chỗ nhưng vẫn đổi thay hết mọi sự. Qua ánh sáng nó chiếu rọi, ta đọc được tất cả những gì xẩy đến với ta, biết được nền giáo dục ta hấp thụ. Biết được cả những ước ao và sự kiện mình từng thất bại hoặc hành tựu.

Nhờ ánh nhìn này, ta biết được tên tuổi của người khác. Bởi, đó không chỉ là tiếng khóc hoặc khoảnh khắc có cảm xúc lắng đọng về Đạo. Nhưng là ánh sáng; là sự khôn ngoan gồm đủ nội dung ở trong đó, có cả nội dung kết quả, chính là ta.

Ở nơi ánh nhìn này, luôn có khác biệt giữa sự việc ‘nhìn vào người nào’ và cảm giác như có người đang nhìn mình. Ta thường có cảm giác ấy khi chiêm ngắm nhìn tác phẩm nghệ thuật, lại thấy chân dung ta chiêm ngắm, lại cũng đang nhìn ta, đi vào hồn ta. Khi ngắm nhìn, ta đâu hãi sợ, dù ánh nhìn ấy đang đối diện nhìn vào ta khiến ta mất mát, để lạc mất nguyên nhân tạo ao ước. Chính đó là lý do cắt nghĩa tại sao khi nhìn sự vật, ta lại lẩn tránh ánh nhìn bằng cách quay lại nhìn bằng mắt.

Lại cũng có người khám phá ra Đức Kitô theo kiểu cách giống hệt thế. Họ vẫn cứ nhìn như thể đang kiếm tìm Đấng Cứu Độ đến độ không biết được rằng chính Chúa vẫn nhìn họ mà họ không thấy. Nhưng sau đó, họ mới hiểu và mới “thấy”.

Mừng Hiển Linh, ta vẫn nghe quen truyện kể về ba đạo sĩ cũng đã rơi vào tình huống tương tự một trò ảo thuật khi các ngài tìm đến với Bêlem nhưng không thấy Hài nhi đâu cả, mà chỉ gặp Đấng Thánh Hiền, là bậc thầy. Các đạo sĩ cũng không thấy trẻ bé nào sinh hạ tại Bêlem, mà chỉ thấy như chính mình được sinh ra ở nơi đó. Bởi, chính khi ấy các ngài mới phát giác ra được mình là ai. Chính vì thế, nên truyện kể nói rất ít về quá trình lý lịch của các ngài. Bởi, lai lịch thuộc lai thời của các ngài mới chính là vấn đề. Và, sự sống đích thực của các ngài khi ấy mới khởi sự.

Chả thế mà, các ngài đã phải tìm con đường khác mà về lại. Bởi, các ngài đã thấy được điều gì đó nơi hài nhi Giêsu, điều mà không ngôn ngữ nào diễn tả được. “Điều gì đó”, cũng chẳng bao giờ rời bỏ các ngài. Chẳng nói hoặc kể lại điều gì cho Hêrôđê nghe. Bởi, cũng chẳng có điều gì khiến các ngài có thể kể lại cho bất cứ ai. Bởi, các ngài đang ở vào tình trạng hiệp thông liên kết, rất đặc biệt.

Đó, mới là ý nghĩa đích thực ở truyện kể, nơi đây. Sự thật ấy, đã từ nơi chốn nào đó rất khác lạ nay đáp xuống ở nơi ta. Ta biết là điều đó cũng rất đúng, nên không có gì phải bàn cãi. Ta không nắm bắt được nó; nhưng nó lại nắm bắt được ta và biến hoá ta ra như thế. Tất cả chỉ tập trung vào mỗi chữ ‘tin’. Tiếng La tinh, cụm từ ‘Credo’ xuất tự tiếng Phạn có nghĩa là “cho đi” con tim và nghị lực sống động vẫn cứ trông chờ một hồi đáp rất hỗ tương. Đây là hành xử của niềm tin vẫn hàm ngụ rằng: ai đó sẽ tin vào ta; hoặc hơn nữa, đã tin tưởng vào nơi ta. Ta đặt nơi đó tất cả mọi ước vọng, mọi xảo thuật như người này đặt nơi người khác; như, ta đặt tin tưởng vào mối bận tâm của người nào đó, rất hiện thực.

Tận phần sâu thẳm của chính mình, con người vẫn cần đến niềm tin tưởng như thế. Mỗi người và mọi người vẫn cần liên hệ với thực tại hệt như vậy. Và ở đây, ta lại có cảm xúc về liên hệ đó. Có làm thế, ta mới hài lòng và thấy an toàn nên đã nhảy chồm trong phấn chấn khiến mình không còn lo ngại về bất cứ lằn ranh hạn chế hoặc ý nghĩa được diễn tả ở trong truyện. Truyện các đạo sĩ ghé viếng Bêlem đã dạy ta bài học hay điều gì đó, ở đây. Khi các đạo sĩ nhìn thấy Chúa, là họ thấy được điều gì đó. Là, các ngài biết chính là Đấng “đó”. Đấng mà mọi người gọi là ‘Đức Chúa’. Truyền thống về Đấng “đó” không bao giờ ngừng kể. Bởi ở thời nào cũng thế, truyện kể về các Đạo sĩ bao giờ cũng nói về các vị đã từng biết Đức Giêsu là Đấng “đó”. Các ngài chẳng khi nào có khả năng dùng ngôn ngữ diễn tả được kinh nghiệm đó cho đúng cách. Cuối cùng, điều đó cũng không cần thiết.

Đạo sĩ không là người Do thái chính thống. cũng chẳng là Do thái một chút nào. Ngược giòng lịch sử, người biết đến Đức Giêsu là ‘Đấng đó’ đều không phải là người Công giáo chính thống. Nhưng cuối cùng, điều đó cũng không thành vấn đề. Chỉ một vấn đề là ‘Đấng đó’ biết chúng ta. ‘Đấng đó’ đã biết hết. Và bao lâu ta biết được những điều này, thì đây là lễ Hiển Linh cho ta. Và, của ta.

Cảm nghiệm rõ điều này, ta hãy ngâm lại lời thơ trên, để hát rằng:

   “Tôi vẫn đợi như ngày tôi đã đợi.

Vẫn ngậm tình về như buổi ngậm tình đi’

(Nghĩa là tôi ấp úng chuyện yêu người,

Cỏ khô như những lời thú tội”

(Nguyễn Tát Nhiên- Tình Một Hai Năm)

Ấp úng chuyện yêu người, như đạo sĩ từng có cảm nghiệm từ ngày gặp Chúa là Hài nhi nhỏ bé. Có ấp úng, cũng đừng hát ‘Tình Một Hai Năm’. Bởi, đã thấy được Chúa rồi, ai cũng hát: “vẫn ngậm tình về như buổi ngậm tình đi” như vẫn đợi. Đợi, Chúa tỏ hiện với mọi người, rất Hiển Linh.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh Mai Tá lược dịch

DÂN SỐ CÔNG GIÁO GIA TĂNG TRÊN THẾ GIỚI

DÂN SỐ CÔNG GIÁO GIA TĂNG TRÊN THẾ GIỚI

Theo một bản báo cáo thống kê của hãng thông tấn Fides, bất châp cuộc khủng hoảng dân số và cuộc khủng hoảng ơn gọi ở Châu Âu, Giáo Hội Công Giáo vẫn phát triển trên toàn thế giới, với sự gia tăng đáng kể ở Châu Á và Châu Phi. Người Công giáo đã mang lại nhiều đóng góp cho xã hội.

Bản báo cáo của Fides lấy lại các con số được công bố trong cuốn « Niên giám thống kê của Giáo Hội » (được cập nhật cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2011) và liên quan đến các thành phần của Giáo Hội, các cơ cấu mục vụ của Giáo Hội, các hoạt động trong lãnh vực y tế, trợ giúp và giáo dục.

Số người Công giáo trên thế giới

Cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2010, dân số thế giới tăng hơn 6.8 tỉ người, trong đó số người Công giáo chiếm khoảng 1.2 tỉ, tức tăng 15 triệu người so với năm trước.

Sự gia tăng số người Công giáo này liên quan đến tất cả các châu lục. Cụ thể, Châu Phi tăng 6,140,000 người, Châu Mỹ Latinh tăng 3,986,000 người và Châu Á tăng 3,801,000 người ; tiếp đến là Châu Âu tăng 894,000 người và Châu Đại Dương tăng 185,000 người.

Người Công giáo chiếm 17.46% dân số thế giới. Tăng nhiều trong bốn châu lục : Châu Phi tăng 0. 21% ; Châu Mỹ Latinh tăng 0.07 % ; Châu Á tăng 0.06% ; Châu Đại Dương 0.03% ; đang khi đó so với dân số ở Châu Âu, phần trăm người Công giáo giảm 0.01%.

Số linh mục và chủng sinh tăng

Tổng số các linh mục đã gia tăng từ 1,643 người so với năm 2009, đạt tới con số 412,236. Đang khi Châu Âu giảm 905 linh mục, thì ở Châu Phi con số linh mục tăng 761, Châu Mỹ Latinh tăng 40, Châu Á tăng 1,695 và Châu Đại Dương tăng 52 vị.

Số các đại chủng sinh, giáo phận và dòng tu, đang gia tăng (118,990 người), tăng thêm 1,012 ứng viên linh mục. Con số đặc biệt gia tăng ở Châu Phi (tăng 752), Châu Á (tăng 513), Châu Mỹ Latinh (tăng 29), đang khi đó con số ở Châu Âu giảm đi (-282) và không thay đổi gì ở Châu Đại Dương.

Số tiểu chủng sinh, giáo phận và dòng tu, nói chung là giảm đi, lên đến 102,308. Gia tăng ở Châu Phi (+213) và ở Châu Á (+ 400), đang khi giảm ở Châu Mỹ Latinh (- 1,033), ở Châu Âu (-1,206) và ở Châu Đại Dương (- 57).

Các Giám mục tăng thêm một chút

Tổng số các Giám mục trên thế giới đã tăng 39 vị, trong tổng số 5,104 vị. Các Giám mục giáo phận tăng, nhưng các Giam mục tu sĩ giảm. Có 3,871 Giám mục giáo phận (tăng 43 vị so với năm trước) và 1,233 Giám mục tu sĩ (giảm 4 vị).

Các nam tu sĩ tăng, nữ tu sĩ không

Các nam tu sĩ không linh mục tăng 436 người, trong tổng số 54,665 người, ở Châu Phi (+254), Châu Á (+411), Châu Âu (+17) và Châu Đại Dương (+15). Họ chỉ giảm đi ở Châu Mỹ Latinh (-261). Số các nữ tu giảm nhiều (-7,436). Nhưng tổng số các nữ tu (721,935) vẫn cao hơn tổng số các nam tu sĩ. Đặc biệt ở Châu Phi tăng 1,395 và Châu Á tăng 3,047, đang khi con số nữ tu giảm ở Châu Mỹ Latinh (-3,178), ở Châu ÂU (-8,461) và ở Châu Đại Dương (-239).

Phó tế vĩnh viễn tăng mạnh

Các Phó tế vĩnh viễn trên thế giới đã gia tăng 1,409 người, trong tổng số lên đến 39,564. Ở Châu Mỹ Latinh tăng 859 và Châu Âu tăng 496 người, tiếp đến là Châu Á 58 vị và Châu Đại Dương 1 vị. Châu Phi giảm 5 vị.

Các nhà thừa sai giáo dân và các giáo lý viên

Có 335,502 nhà truyền giáo trên thế giới, tăng chừng 15,276 người, phân phối ở Châu Phi (+1,135 người), Châu Âu (+ 5,077) và Châu Đại Dương (+393). Châu Phi giảm 29.405 và Châu Á giảm 10,133 người.

Nhiều trường học Công giáo

Trong lãnh vực giáo dục, Giáo Hội có một gia sản đồ sộ, giáo dục và đào tạo hơn 61 triệu sinh viên.

Số trường mẫu giáo lên tới 70,544 trong tổng số 6,478,627 học sinh ; số các trường tiểu học lên tới 92,847 trong tổng số 31,151,170 học sinh ; các trường trung học lên tới 43,591 trong tổng số 17,793,559 học sinh. Có 2,304,171 học sinh của các trường cao đẳng và 3,338,455 sinh viên đại học.

Rất nhiều trung tâm y tế

Công việc cứu tế, từ thiện và săn sóc y tế được thực hiện bởi các trường, dòng tu Công giáo trên thế giới là rất nhiều. Số các bệnh viện lên tới 5.305, tập trung nhiều nhất ở Châu Mỹ Latinh (5.762) ; Châu Phi (5.312) và Châu Á (3.884) ; 547 trại phong cùi, chủ yếu ở Châu Á (285) và Châu Phi (198) ; 17,223 ngôi nhà cho người già, bệnh kinh niên và khuyết tật, đa số ở Châu Âu (8,021) và Châu Mỹ Latinh (5,650) ; 9,882 trại mồ côi ; 11,379 vườn trẻ ; 15,327 trung tâm tư vấn hôn nhân, chủ yếu ở Châu Mỹ Latinh (6.472) ; 34.331 trung tâm giáo dục hay cải tạo xã hội và 9,391 tổ chức các loại khác, đa số ở Châu Mỹ Latinh (3,546) và Châu Âu (3,159).

Tý Linh (XBVN) Theo ZENIT

Hãy luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, cả khi phải đương đầu với các khó khăn cam go nhất

Hãy luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, cả khi phải đương đầu với các khó khăn cam go nhất

Cả khi phải đương đầu với các khó khăn cam go nhất, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, bằng cách canh tân niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của Người trong lịch sử, như Đức Maria. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ gàn 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 2 tháng 1-2013. Trong số hàng trăm nhóm hiện diện có phái đoàn 50 tín hữu Việt Nam thuộc cộng đoàn Bergen bên Na Uy do cha tuyên úy Bùi Đức Tiến hướng dẫn. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, một lần nữa với ánh sáng của Người, Chúa Giáng Sinh soi chiếu các bóng tối thường bao phủ thế giới và con tim của chúng ta, bằng cách đem lại hy vọng và niềm vui. Ánh sáng đó đến từ đâu? Từ hang đá Bếtlêhem, nơi các mục đồng tìm thấy ”Đức Maria, Ông Giuse và Con Trẻ nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Trước Thánh Gia nảy sinh ra một vấn nạn sâu xa hơn: làm sao Con Trẻ bé bỏng yếu đuối ấy lại có thể đem đến một sự mới mẻ triệt để như vậy trong thế giới để thay đổi dòng lịch sử được? Có lẽ lại không có điều gì nhiệm mầu trong nguồn gốc của Người vượt xa hơn hang đá đó sao?

Vấn nạn liên quan tới nguồn gốc của Đức Giêsu luôn luôn lại nổi lên. Chính quan Ponzio Philato cũng đã hỏi trong vụ xử án: ”Ông từ đâu mà đến?” (Ga 19,9). Thật ra, đây là một nguồn gốc rất rõ ràng. Trong Phúc Âm thánh Gioan, khi Chúa khẳng định: ”Tôi là bánh từ trời xuống”, thì người Do thái phản ứng lẩm bẩm rằng: ”Người đó lại không phải là Giêsu, con Ông Giuse sao? Chúng ta lại không biết cha mẹ Ông sao? Làm sao Ông ta lại có thể nói: ”Tôi từ trời mà xuống” được? (Ga 6,42). Và sau này dân thành Giêrusalem mạnh mẽ chống lại tính cách cứu thế của Đức Giêsu, khi khẳng định rằng họ biết rõ ”Người từ đâu, trái lại Đức Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu” ( Ga 7,27). Chính Chúa Giêsu ghi nhận yêu sách của họ biết nguồn gốc của Người là không thích hợp, và cống hiến một định hướng giúp biết Người từ đâu mà đến: ”Tôi không tự mình mà đến, nhưng Đấng đã sai Tôi là Đấng chân thật, và các ông không biết Người” (Ga 7,28). Chắc chắn rồi, Đức Giêsu người gốc thành Nagiarét, đã sinh ra tại Bếtlêhem, nhưng nguồn gốc thật của Người là ở đâu? Đức Thánh Cha trả lời như sau:

Trong bốn Phúc Âm nổi lên rõ ràng câu trả lời cho vấn nạn Đức Giêsu tới từ đâu: nguồn gốc đích thật của Người là Thiên Chúa Cha; Người hoàn toàn đến từ Thiên Chúa Cha, nhưng trong một cách thế khác với bất cứ ngôn sứ hay người được Thiên Chúa sai đi trước Người. Nguồn gốc từ mầu nhiệm này của Thiên Chúa mà không ai biết, được chứa đựng trong các trình thuật thời thơ ấu trong Phúc Âm của hai thánh sử Mátthêu và Luca, mà chúng ta đang đọc trong mùa Giáng Sinh này. Sứ thần Gabriel loan báo:”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên tôn nương, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm bóng Người trên tôn nương. Vì thế Đấng sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Chúng ta lập lại các lời này mỗi khi chúng ta đọc Kinh Tin Kính tuyên xưng đức tin: ”Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria”. Và khi đọc lời này, chúng ta cúi đầu, bởi vì bức màn che dấu Thiên Chúa được mở ra, và mầu nhiệm khôn dò và không thể đạt đến được đụng chạm tới chúng ta: Thiên Chúa trở thành Đấng Emmanuel ”Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Khi chúng ta nghe các Thánh lễ được các nhạc sĩ vĩ đại của thánh nhạc sáng tác, chẳng hạn như của Mozart, chúng ta nhận ra ngay họ dừng lại cách đặc biệt trên câu này, như muốn tìm cách diễn tả với ngôn ngữ đại đồng của âm nhạc, điều mà các lời nói không thể diễn tả được: đó là mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa nhập thể làm người.

Khi chú ý xem xét câu này, chúng ta tìm thấy có bốn chủ thể hành động. Và Đức Thánh Cha giải thích như sau:

Được nhắc tới một cách rõ ràng là Chúa Thánh Thần và Đức Maria, nhưng được hiểu ngầm ”Người”, nghĩa là Người Con đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ. Trong kinh Tin Kinh Đức Giêsu được định nghĩa với các kiểu gọi khác khau: ”Chúa… Đức Kitô con duy nhất của Thiên Chúa… Thiên Chúa bởi Thiên Chúa… Ánh sáng bởi Ánh Sáng… Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (Kinh Tin Kính niceno-costantinopolitano). Khi đó chúng ta thấy ”Người” quy chiếu về một bản vị khác, là Thiên Chúa Cha. Chủ thể thứ nhất của câu này như vậy là Thiên Chúa Cha, cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa duy nhất.

Khẳng định của Kinh Tin Kính không liên quan tới Thiên Chúa vĩnh cửu cho bằng nói về một hành động có Ba Ngôi Thiên Chúa tham dự, và nó được thực hiện ”từ Đức Trinh Nữ Maria”.

Không có Mẹ thì việc Thiên Chúa bước vào lịch sử nhân loại sẽ không đạt đích, sẽ không xảy ra điều là trung tâm việc tuyên xưng đức tin của chúng ta: đó là Thiên Chúa là một vì Thiên Chúa ở với chúng ta. Như thế Đức Maria thuộc đức tin không thể chối bỏ của chúng ta nơi Thiên Chúa, là Đấng hành động và bước vào lịch sử. Mẹ đặt để toàn con người mình trong thế sẵn sàng, ”chấp thuận” trở thành nơi ở của Thiên Chúa.

Đôi khi cả trên lộ trình và trong cuộc sống đức tin chúng ta cũng có thể nhận ra sự nghèo nàn và không thích hợp của chúng ta trước chứng tá cần cống hiến cho thế giới. Nhưng Thiên Chúa đã chọn một phụ nữ khiêm hạ, trong một làng không được biết đến, tại một trong những tỉnh xa xôi nhất của đế quốc Roma. Cả giữa các khó khăn cam go nhất phải đương đầu, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, bằng cách canh tân niềm tin nơi sự hiện diện và hoat động của Người trong lịch sử, như Đức Maria.

Không có gì là không thể đối với Thiên Chúa! Với Người cuộc sống chúng ta luôn tiến bước trên đất vững chắc, và rộng mở cho một tương lai vững vàng.

Khi tuyên xưng trong kinh Tin Kính ”bởi phép Chúa Thánh Thần Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria” chúng ta khẳng định rằng Chúa Thánh Thần, như là sức mạnh của Thiên Chúa Tối Cao, đã cho thụ thai Con Thiên Chúa một cách nhiệm mầu nơi Đức Trinh Nữ Maria. Thánh sử Luca kể lại các lời của tổng lãnh thiên thần Gabriel: ”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên tôn nương, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao trùm tôn nương với bóng của Người” (Lc 1,35). Có hai quy chiếu đều hiển nhiên: thứ nhất là việc tạo dựng. Chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế rằng: ”Thần khí Chúa bay là là trên nước” (St 1,2); đó là Thần Khí tạo dựng trao ban sự sống cho tất cả mọi sự và con người. Điều xảy ra nơi Đức Maria, qua hoạt động của chính Thần Khí của Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới: Thiên Chúa, Đấng đã gọi sự sống từ hư không, với việc Nhập Thể, ban sự sống cho một khởi đầu mới của nhân loại.

Các Giáo phụ nhiều lần nói về Chúa Kitô như là Adam mới, để nhấn mạnh sự khởi đầu của một cuộc tạo dựng mới từ việc sinh ra của Con Thiên Chúa trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Điều này khiến chúng ta suy tư về việc làm sao đức tin cũng đưa vào trong chúng ta một sự mới mẻ mạnh mẽ tới độ làm sinh ra lần thứ hai. Thật thế, vào lúc khởi đầu việc là Kitô hữu có bí tích Rửa Tội làm cho chúng ta tái sinh như con cái của Thiên Chúa, cho chúng ta tham dự vào tương quan là con mà Đức Giêsu có với Thiên Chúa Cha. Chúng ta được rửa tội là thể thụ động, vì không có ai có khả năng tự mình trở thanh con: đó là một ơn được ban một cách nhưng không. Thánh Phaolô nhắc tới chức làm nghĩa tử của kitô hữu trong một đoạn chính của thư gửi tín hữu Roma khi viết: ”Tất cả những ai được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa. Và anh em đã không lãnh nhận một thần trí nô lệ để rơi vào sợ hãi, nhưng đã nhận được Thần Khí khiến cho anh em trở thành nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi”. Chính Thần Khí, cùng với thần trí chúng ta, chứng thực rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14-16). Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Chỉ khi chúng ta rộng mở cho hoạt động của Thiên Chúa, như Đức Maria, chỉ khi chúng ta tín thác cuộc sống chúng ta cho Chúa như một người bạn mà chúng ta tin cậy hoàn toàn, thì tất cả thay đổi, cuộc sống của chúng ta chiếm hữu đươc một ý nghĩa mới và một gương mặt mới: gương mặt con cái của một Người Cha yêu thương chúng ta và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Điểm sau cùng Đức Thánh Cha nhắc tới trong lời sứ thần truyền tin ”Quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao trùm tôn nương với bóng của Người”: đó là đám mây thánh, trong lộ trình sa mạc, dừng trên Lều Hội Ngộ, trên hòm bia giao ước, mà dân Israel đem theo, và nó ám chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 40,34-38). Đức Maria là lều thánh mới, hòm bia mới của giao ước: với tiếng ”xin vâng” với các lời của tổng lãnh thiên thần, Thiên Chúa nhận một nơi ở trong thế giới này, Đấng mà vũ trụ không chứa nổi, lại ở trong cung lòng một trinh nữ…

Đức Giêsu là Con duy nhất của Thiên Chúa Cha. Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm cao cả và đảo lộn, mà chúng ta cử hành trong mùa Giáng Sinh: Con Thiên Chúa, bởi công trình của Chúa Thánh Thần, đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một lời loan báo luôn mới mẻ vang lên và đem theo niềm hy vọng và niềm vui cho con tim, bởi vì nó cho chúng ta sự chắc chắn rằng cả thường khi chúng ta cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, bất lực trước các khó khăn và sự dữ của thế giới này, quyền năng của Thiên Chúa luôn hoạt động và làm những việc lạ lùng chính trong sự yếu đuối. Ơn thánh của Người là sức mạnh của chúng ta (x. 2 Cr 12,9-10).

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc mọi người một năm mới khang an thịnh vượng. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican  

Năm mới sẽ tốt lành, nếu chúng ta tiếp nhận và sống tình yêu của Thiên Chúa

Năm mới sẽ tốt lành, nếu chúng ta tiếp nhận và sống tình yêu của Thiên Chúa

Năm mới sẽ tốt lành, nếu chúng ta tiếp nhận, sống tình yêu của Thiên Chúa, để cho thánh nhan Chúa soi chiếu cuộc đời chúng ta và nỗ lực xây dựng hòa bình.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trong buổi đọc kinh Truyền Tin và trong bài giảng thánh lễ kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và là Ngày Hòa Bình Thế Giới 1 tháng 1-2013.

Lúc 9.30 sáng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chủ sự thánh lễ trong đền thờ thánh Phêrô, và lúc 12 giờ trưa ngài đã đọc Kinh Truyền Tin chung với hàng chục ngàn tín hữu tại quảng trường, trong đó có 40,000 bạn trẻ đang tham dự cuộc gặp gỡ của các bạn trẻ Âu châu do cộng đoàn đại kết Taizé tổ chức tại Roma. Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Tarcisio Bertone Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình. Tham dự thánh lễ có hàng chục Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh và 10,000 tín hữu. Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã nhắc đến Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay với đề tài ”Phúc cho người xây dựng hoa bình” và nói:

Mặc dù rất tiếc là thế giới còn bị ghi dấu bởi các ngọn lửa căng thẳng và chống đối, gây ra bởi các bất bình đẳng gia tăng giữa người giầu và người ghèo, bởi cái thắng thế của một não trạng ích kỷ và duy chủ nghĩa cá nhân, được diễn tả ra bởi một chủ thuyết tư bản tài chánh không luật lệ, ngoài ra cón có các hình thái khủng bố phá hoại và tội phạm, nhưng tôi xác tín rằng nhiều công tác hòa bình, mà thế giới có được một cách phong phú, chứng minh cho ơn gọi hòa bình bẩm sinh của nhận loại. Nơi mỗi một người ước mong hòa bình là khát vọng nền tảng, và trong một cách thế nào đó, nó trùng hợp với ước mong có một cuộc sống tràn đầy, hạnh phúc và được hiện thực một cách tốt đẹp. Con người được tạo dựng cho hòa bình là ơn của Thiên Chúa… Phúc thật về người xây dựng hòa bình nói rằng hòa bình là ơn cứu thế và đồng thời cũng là công trình của con người… Đó là hòa bình với Thiên Chúa, trong việc sống theo ý muốn của Người. Đó là sự an bình nội tâm với chính mình, và an bình bên ngoài với tha nhân và với toàn thụ tạo” (Messaggio 2,3). Phải, hòa bình là thiện ích tuyệt diệu cần nài xin như ơn của Thiên Chúa, đồng thời cũng cần phải xây dựng bằng mọi cố gắng.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói các bài đọc phụng vụ chứa đựng câu trả lời cho hòa bình, khi đề nghị tín hữu chiêm ngưỡng sự an bình nội tâm của Đức Maria. Dù phải đối đầu với biết bao nhiêu biến cố không thể thấy trước: không phải chỉ có chuyện sắp sinh con, mà trước đó là chuyến du hành mệt nhọc từ Nagiarét tới Bếtlêhem, việc không tìm ra chỗ trong nhà trọ, phải tìm một nơi tạm trú qua đêm, rồi tiếng hát của các thiên thần và sự viếng thăm của các mục đồng. Trong tất cả mọi chuyện đó, Đức Maria không hồn chồn âu lo, nhưng duyệt xét trong thinh lặng tất cả những gì xảy ra, gìn giữ chúng trong ký ức và trong tâm trí, suy tư với sự thanh thản và trầm tĩnh.

Bài đọc thứ nhất sách Dân Số cho chúng ta thấy hòa bình là ơn của Thiên Chúa và nó được gắn liền với ánh sáng rạng ngời của gương mặt Thiên Chúa, theo lời chúc lành mà xưa kia các tư tế ban cho dân Israel trong các buổi cử hành phụng vụ. Công thức như ghi trong sách Dân Số lập lại thánh danh Thiên Chúa ba lần: ”Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6,24-26).

Đối với Thánh Kinh, chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa là hạnh phúc tuyệt đỉnh… Từ sự chiêm ngưỡng gương mặt của Thiên Chúa nảy sinh ra niềm vui, an ninh và hòa bình. Chiêm ngưỡng gương mặt Chúa có nghĩa là biết Người một cách cụ thể chừng nào có thể trong cuộc sống này, qua Chúa Giêsu Kitô, nơi Thiên Chúa đã tự mạc khải ra. Hưởng nếm ánh quang rạng người gương mặt của Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong mầu nhiệm của Thánh Danh Người được Đức Giêsu biểu lộ cho chúng ta, hiểu biết một chút về cuộc sống thân tình và ý muốn của Người, để chúng ta có thể sống theo chương trình tình yêu của Người đối với nhân loại.

Đó là điều thánh Phaolô diễn tả trong thư gửi tín hiữu Galát, khi nói về Thần Khí kêu lên ”Abba, Cha ơi” trong sâu thẳm con tim của chúng ta. Đó là tiếng kêu vọt lên từ sự chiêm ngưỡng gương mặt thật của Thiên Chúa, từ việc mạc khải mầu nhiệm Thánh Danh Người. Chúa Giêsu đã khẳng định: ”Con đã biểu lộ danh Cha cho loài người” (Ga 17,6). Con Thiên Chúa nhập thể đã làm cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha, đã làm cho chúng ta nhận thức được trong gương mặt hữu hình của Người gương mặt vô hình của Thiên Chúa Cha, qua ơn Thánh Thần được đổ tràn đầy trong lòng chúng ta. Người đã làm cho chúng ta biết rằng trong Người chúng ta cũng là con cái của Thiên Chúa. Và Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng như sau:

Anh em thân mến, đó là nền tảng sự bình an của chúng ta: việc chắc chắn chiêm ngưỡng nơi Đức Giêsu Kitô gương mặt rạng người của Thiên Chúa Cha, là con cái trong Người Con, và như thế có được trên con đường cuộc sống chính sự chắc chắn, mà đứa con cảm thấy trong cánh tay của một người Cha tốt lành và toàn năng…. Không có gì có thể lấy mất đi niềm an bình ấy của tín hữu, kể cả các khó khăn và khổ đau của cuộc cuộc sống. Thật thế, các khổ đau, các thử thách và tối tăm không làm hao mòn, nhưng gia tăng niềm hy vọng, một niềm hy vọng không gây thất vọng, bởi vì ”tình yệu của Thiên Chúa đã được đổ vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Các lời nguyện đã được đọc trong các thứ tiếng: Bồ Đào Nha, A rập, Swahili, Pháp và Ba Lan cầu cho Đức Thánh Cha, cho hàng lãnh đạo chính trị xã hội, cho gia đình, cho các quốc gia khổ đau vì chiến tranh để tự do và phẩm giá con người được tôn trọng, cho tín hữu biết làm chứng cho Chúa và loan báo Nước Thiên Chúa.

Có 50 linh mục đã giúp Đức Thánh Cha phân phát mình thánh Chúa cho tín hữu. Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã ra cửa sổ phòng làm việc để đọc kinh Truyền Tin với tín hữu. Ngài chúc mừng năm mới mọi người như sau:

Anh chị em thân mến, xin chúc mừng năm mới tất cả mọi người. Trong ngày đầu năm 2013 này tôi muốn chuyển đến từng người nam nữ trên thế giới phước lành của Thiên Chúa. Tôi làm điều này với công thức cổ xưa trong Sách Thánh: ” Xin Chúa chúc lành cho bạn, và gìn giữ bạn, Xin Chúa làm cho gương mặt Người rạng ngời trên bạn và ban ân sủng cho bạn. Xin Chúa quay mặt nhìn bạn và ban cho bạn sự bình an” (Ds 6,24-26).

Như ánh sáng và sức nóng mặt trời là một phước lành đối với trái đất, cũng thế, ánh sáng của Thiên Chúa là một phước lành đối với nhân loại, khi Người khiến cho gương mặt Người chiếu sáng trên loài người. Và điều này đã xảy ra với biến cố Đức Giêsu Kitô sinh ra. Thiên Chúa đã khiến cho gương mặt Người rạng người cho chúng ta: ban đầu một cách rất khiêm tốn và dấu ẩn – tại Bếtlêhem đã chỉ có Mẹ Maria, thánh Giuse và vài mục đồng là chứng nhân của sự mạc khải ấy – nhưng từ từ như mặt trời từ rạng đông đạt chín ngọ, ánh áng Chúa Kitô lớn lên và lan tran khắp nơi. Trong cuộc sống dương thế ngắn ngủi của Người, Đức Giêsu thành Nagiarét đã làm cho gương mặt của Thiên Chúa rạng ngời tại Thánh Địa; và rồi qua Giáo Hội được Thần Khí Người linh hoạt, Người đã làm cho Tin Mừng lan ra cho tất cả mọi người: ”Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2,14). Đó là tiếng hát của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh, và đó là tiếng hát của các kitô hữu dưới mọi bầu trời; một tiếng hát từ con tim và môi miệng bước sang các cử chỉ cụ thể, trong các hành động của tình yêu, xây dựng đối thoại, thông cảm và hòa giải.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Vì thế tám ngày sau lễ Giáng Sinh, khi cũng như Đức Trinh Nữ Mẹ Maria cho thế giới thấy Hài Nhi Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình, Giáo Hội cử hành Ngày Hòa Bình Thế Giới. Phải, Hài Nhi đó là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể, đã đem đến cho con người một sự an bình mà thế giới không thể cho (x. Ga 14,27). Sứ mệnh của Người là triệt hạ ”bức tường của thù nghịch” (x. Ep 2,14). Và trên bờ hồ Galilea, khi Người công bố các Phúc Thật của Người, thì trong đó cũng có mối ”phúc cho những người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Ai là những người xậy dựng hòa bình? Đó là tất cả những người, ngày qua ngày, tìm chiến thắng sự dữ vởi sự thiện, với sức mạnh của chân lý, với các vũ khí của lời cầu nguyện và sự tha thứ, với các việc làm của lòng thương xót vật chất và tinh thần. Các người xây dựng hòa bình đông biết bao, nhưng họ không gây ồn ào. Như men trong bột, họ làm cho nhân loại lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa.

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin đầu tiên này của năm mới, chúng ta hãy xin Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, chúc lành cho chúng ta như một bà mẹ chúc lành cho con cái phải du hành. Một năm mới cũng giống như một cuộc du hành: với ánh sáng và ơn thánh Chúa nó có thể là một con đường hòa bình cho mỗi người và mỗi gia đình, cho mỗi quốc gia và toàn thế giới.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh đầu năm cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha lập lại lời chúc mọi người một năm mới an lành. Ngài nói: nó có thể và sẽ là một năm tốt đẹp thực sự, nếu chúng ta tiếp nhận trong chúng ta và giữa chúng ta tình yêu Chúa Kitô đã ban cho chúng ta. Đức Thánh Cha chúc mừng năm mới tổng thống, các giới chức chính quyền và toàn dân Italia. Ngài cũng chào các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ của giới Âu châu do cộng đoàn đại kết Taizé tổ chứ. Và ngài tỏ tình liên đới với các sáng kiến khác nhau như cuộc tuần hành trong Ngày Hòa Bình Thế Giới tại Roma, do cộng đoàn thánh Egidio tổ chức, và phong trào Tình Yêu Gia Đinh đã tổ chức đêm canh thức cầu nguyện cuối năm tại quảng trường thánh Phêrô. Các đoàn người tham dự cuộc tuần hành hòa bình đã đem theo nhiều biểu ngữ, với tến các nước có chiến tranh, và họ đã thả hàng trăm qủa bóng mầu xanh da trời như dấu chỉ hòa bình cho năm 2013 này.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Suy Niệm Phúc Âm Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa – MẸ LUÔN GHI NHỚ và SUY NIỆM TRONG LÒNG (Lc 2:16-21)

Suy Niệm Phúc Âm Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa – MẸ LUÔN GHI NHỚ và SUY NIỆM TRONG LÒNG (Lc 2:16-21)

Tại trụ sở Toà Nhà Liên Hiệp Quốc ở thành phố New York (Hoa Kỳ), có một căn phòng rộng rãi thoáng mát, không bàn thờ, tranh ảnh, không tài liệu máy móc, hoàn toàn trống trãi, gọi là Phòng Hồi Tâm, Cầu Nguyện. Các vị đại sứ cũng như phái đoàn ngoại giao của các nước, có thể tự do ra vào tìm phút thinh lặng trong phòng ấy, giúp thư giãn đầu óc, để trí lòng nhẹ nhõm thanh thoát mênh mang.

Bởi lẽ, bình thường trong các phiên họp thảo luận quốc tế, nhiều vấn đề nổi cộm khắp thế giới dễ tạo ra những cuộc tranh cãi gay go, đưa đến nhiều nghị quyết chung kết. Chính trong thời điểm căng thẳng đó, các đặc sứ ngoại giao cần tìm lại trong mình chút bình an, suy đi nghĩ lại trong lòng điều mình đang thao thức, hầu nhận định khôn ngoan sáng suốt thêm.

Trong các Buổi Họp Mặt đồng hương Việt Nam nơi xứ người, một chi tiết trong chương trình khai mạc không thể nào thiếu sót là nghi thức chào cờ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Luôn luôn sau đó, là Phút Tưởng Niệm Các Anh Hùng Chiến Sĩ đã hy sinh xương máu mình, chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trong khoảnh khắc linh thiêng ấy, mọi con dân đất Việt đều cúi đầu mặc niệm, thinh lặng tưởng nhớ công lao của tiền nhân, nguyện ghi sâu ân đức, quyết một lòng tiếp bước cha anh, sống xứng đáng con Rồng cháu Tiên, duy trì nòi giống Lạc Hồng.

Tưởng Niệm, Ghi Nhớ và Suy Đi Nghĩ Lại trong lòng, đều là những thái độ thiết thực trong cuộc sống. Ngày đầu Xuân mới, con cháu sum họp bên bàn thờ tổ tiên, ghi đậm Công Cha, Nghĩa Mẹ, Ơn Thầy.  Ngày khai mào của một Năm Dương Lịch mới, đi dâng lễ đầu năm Tạ Ơn Chúa, suy đi nghĩ lại những Hồng Ân Chúa đã ban cho ta vô vàn suốt một năm đã qua: thiết tưởng là tâm tình đáng khích lệ biết bao.

Đức Mẹ Maria, được sứ thần Gabriel chúc tụng là Đấng “đầy ơn phúc”(Lc 1:28). Cuộc đời trần thế của Mẹ luôn “có Chúa ở cùng”. Biết bao đặc ân Chúa toả sáng trên trinh nữ Maria.  Thế nên, Mẹ không ngừng suy đi nghĩ lại trong lòng muôn ngàn lần về tình thương Chúa đã tặng ban cách riêng cho Mẹ. Năm Mới 2012 đã đến, ta hãy cùng Đức Mẹ “tưởng nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” về những điều Chúa đã thi ân, đã thực hiện trong cuộc sống mình.

A. Những khoảnh khắc “ghi nhớ và suy niệm” trong cuộc đời Đức Mẹ.

Dựa theo Thánh Truyền, ta được biết: Mẹ Maria hoàn tất cuộc đời dương thế khi đã 72 tuổi.  Suốt những tháng năm dài trong cuộc lữ hành đức Tin ấy, Mẹ liên lỷ nhận thức Chúa hằng ở bên mình, thường xuyên “ghi nhờ và suy niệm trong lòng” từng phút giây:

  • Dâng mình trong đền thờ từ thuở thơ ấu, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” khi thực tập cầu nguyện, khi nghe các Thầy Tư Tế đền thờ dạy dỗ, khi phụ giúp từng công việc trong Nhà Chúa.
  • Trước lời sứ thần Gabriel loan báo Mẹ sẽ cưu mang Con Chúa giáng trần, Maria “ghi nhớ và suy niệm” mãi lời Xin Vâng chấp nhận thánh ý Chúa.
  • Khi đi thăm bà chị họ Isave, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” lời kinh Magnificat: Chúa hằng đoái thương các tỳ nữ thấp hèn của Người.
  • Cùng với Giuse lên đường về Bêlem khai kiểm tra dân số, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” những thiếu thốn mà Đấng Cứu Tinh phải chịu khi giáng sinh làm người giữa thế trần.
  • Chợt thấy các mục đồng và ba đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Nhi, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” mọi kỷ niệm ấy, mọi câu chuyện mà nhóm người chăn chiên thuật lại.
  • Suốt ba ngày tìm kiếm, Mẹ thấy lại Chúa Giêsu ngồi giữa các bậc thầy Do Thái, Maria “ghi nhớ và suy niệm” về sự kiện Con Chúa phải lo việc bổn phận ở nhà Cha Ngài.
  • Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ kín đáo “ghi nhớ và suy niệm” giờ của Con Chúa đến, âm thầm nhắc nhở người giúp việc gắng làm theo ý Chúa Giêsu dạy bảo.
  • Ba năm truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Mẹ theo Chúa trên từng cây số. Đôi khi muốn tìm gặp phút riêng tư với Chúa (Mc 3:31), Mẹ “ghi nhớ và suy niệm’ từng lời Chúa rao giảng.
  • Trên đường thập tự, Đức Maria đau đớn nhìn Con vác thánh giá, lòng Mẹ đau xót “ghi nhớ và suy niệm” từng chặng đường của Chúa phải đi qua.
  • Nơi đỉnh đồi Calvê, dưới chân Thập Tự nhìn Chúa chịu đóng đinh, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” những đau đớn mà Chúa đã phải hứng nhận, hy sinh chuộc tội, đền thay cho loài người.
  • Ôm xác Chúa Giêsu đem táng vào huyệt đá mới, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” lời Simêon nói khi xưa “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà”.
  • Sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ âm thầm hiệp thông với các tông đồ cầu nguyện trong nhà tiệc ly, “ghi nhớ và suy niệm” những điều Chúa đã báo trước, chờ đợi Ơn Thánh Linh kiện toàn.

Nhìn chung, từng biến cố xảy đến trong đời, Đức Mẹ hoàn toàn “lắng nghe và vâng theo ý Chúa” luôn.

B. “Ghi nhớ và suy niệm”: thái độ cần thiết trong cuộc sống.

Sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 9:1-19) thuật lại: đang khi hăng say bách hại kitô hữu ở thành phố Đamas, Saolô đã bị ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ, khiến ông ngã ngựa. Saolô chợt nghe tiếng Chúa cho biết việc làm sai trái của ông. Suốt ba ngày mù mắt, không ăn không uống, ông “ghi nhớ và suy niệm”:

  • những lầm lỗi quá khứ của mình, khi đồng loã trong vụ ném đá Stêphanô (Cv 7:58), khi lùng bắt doạ giết các môn đệ Chúa.
  • những đau khổ mà ông sẽ phải chịu vì danh Chúa (Cv 9:16) khi đi rao giảng Tin Mừng.

Saolô vẫn can đảm chấp nhận, quyết tâm làm theo Thánh Ý Chúa, sẵn sàng là vị “tông đồ dân ngoại” .

  1. Hàng năm, vào Mùa Vọng và Mùa Chay, các giáo xứ có thói quen mở Tuần Đại Phúc, giúp giáo dân sống Đạo sốt sắng, nghe giảng, học hỏi về Mầu Nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Cứu Chuộc “ghi nhớ và suy niệm” tình yêu thương mà Con Thiên Chúa đã hy sinh vì phần rỗi nhân loại.
  1. Các tu sĩ, chủng sinh trước khi Khấn Dòng hay Nhận Thánh Chức, thường trải qua một Tuần Tĩnh Tâm, nghe hướng dẫn và hồi tâm, “ghi nhớ và suy niệm” về hồng ân mà mình sắp được Chúa trao ban, về lời khấn Dòng mà mình sắp thề hứa.
  1. Chàng sinh viên, sau bao năm dùi mài kinh sử trên ghế nhà trường, nay dừng lại dành thời gian trong góc thư viện, nghiên cứu sách vở, “ghi nhớ và suy niệm” trong thầm lặng những kiến thức đã học hỏi, để tổng kết tư liệu chuẩn bị trình luận án tốt nghiệp.
  1. Đôi vợ chồng già sau bao năm sống đời Hôn Nhân con đàn, cháu đống; nay con cái đề nghị cha mẹ mừng Lễ Kim Khánh Thành Hôn, kỷ niệm 50 năm nhận bí tích Hôn Phối. Trước bàn thờ Chúa, khi nghĩ lại lời thề hôn nhân năm xưa, hai ông bà “ghi nhớ và suy niệm” trong lòng bao kỷ niệm khó quên của thời gian đầu sống chung lập nghiệp, tạ ơn Chúa muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương nâng đỡ họ.

Thế mới hiểu: cuộc sống nên ý vị nhờ những lần take a time “ghi nhớ và suy niệm” chuyện đã qua, từ đó rút kinh nghiệm và chuẩn bị hướng đi mới vững vàng hơn.

C. Nhận biết Thánh Ý Chúa nhờ “ghi nhớ và suy niệm” thường xuyên.

Trong bối cảnh Con Chúa giáng sinh, ắt hẳn đã một lúc nào đó, Đức Maria cũng hay tự thắc mắc:

  • Sao phải về Bêlem bấp bênh xa lạ, sinh hạ Đấng Cứu Thế, mà không ở lại Nazareth ổn định hơn?
  • Về nơi đó, không còn chỗ trọ, phải ghé máng có hôi tanh, trong khi nhà có đủ mà lại nằm đất?
  • Sinh con hẩm hiu nghèo túng, sao có người biết tin ( mục đồng, ba đạo sĩ ) mà tìm đến?

Với cái nhìn thô thiển ấy, rất có thể Maria “ghi nhớ và suy niệm” liên miên, đoạn từ từ nhận biết bàn tay quan phòng tốt đẹp của Chúa vẫn ở bên cuộc sống mình. Nhìn vào Kinh Thánh, ta còn thấy:

–   Môisen tin có Chúa ở cùng, nên ông lãnh đạo dân Israel vượt qua Biển Đỏ thành công.

–   David tin có Chúa ở cùng, nên trở thành Vị Vua tốt lành, cai trị Dân Chúa lâu năm.

–   Samson tin có Chúa ở cùng, nên ông có sức mạnh vô song, dẹp tan quân thù Philitinh.

–   Giuse tin có Chúa ở cùng, nên Ngài đã chu toàn vai trò dưỡng phụ Chúa Giêsu tốt đẹp.

Bình thường, trong “ghi nhớ và suy niệm”, ta cần:

+  Chú tâm lắng nghe tiếng Chúa.

+  Thực thi điều Ngài mời gọi.

+  Trung thành trọn hảo sứ vụ Chúa đã trao ban.

Để “ghi nhớ và suy niệm” thành công, ta phải:

–   Tách rời mọi sinh hoạt đang có, để ru mình vào phút hồi tâm.

–   Nâng hồn hướng thượng lên cao, nắm bắt ý tưởng.

–   Quan tâm trong hiện tại và thực hiện trong tương lai.

D. Lời Nguyện kết thúc.

Lạy Chúa!!! Ngày đầu Năm Mới, xin hướng tâm hồn con lên với Chúa, giúp con luôn “ghi nhớ và suy niệm”về Ngài  trong mọi lúc, sẵn sàng hành động theo Thánh Ý Chúa luôn.  AMEN.

Fr. Dominic Dieu Tran, SDD

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều và Te Deum cuối năm 2012

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều và Te Deum cuối năm 2012

VATICAN. Lúc 5 giờ 10 chiều 31 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi hát kinh chiều I lễ trọng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và kinh Te Deum Tạ Ơn Chúa, nhân dịp kết thúc năm dương lịch. Ngài mời gọi các tín hữu giữ vững niềm hy vọng trước những khó khăn.

Hiện diện tại Đền thờ Thánh Phêrô còn có hơn 20 HY, đặc biệt là ĐHY Agostino Vallini, Giám Quản Roma, các GM phụ tá và lối 20 GM khác, đông đảo các cha sở và lối 8 tín hữu cùng với Ông Đô Trưởng và chính quyền miền Lazio và thành phố Roma.

Bài giảng của ĐTC Trong bài giảng, ĐTC mời gọi các tín hữu ý thức về những điều thiện vẫn hiện hữu trên thế giới và dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Ngài nói:

”Thực vậy, trong kinh Te Deum, có chứa đựng một sự khôn ngoan sâu xa, sự khôn ngoan làm chúng ta nói rằng, dầu sao đi nữa, có điều thiện trong thế giới, và điều thiện này sẽ chiến thắng nhờ ơn Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, nhập thể, chịu chết và sống lại. Hẳn thực, đôi khi thật khó lãnh hội thực tại sâu xa này, vì sự ác gây ồn ào hơn sự thiện. Một vụ giết người tàn ác, bạo hành lan tràn, những bất công trầm trọng thường được báo chí nói đến như tin tức, trong khi những cử chỉ yêu thương, phục vụ, những vất vả cơ cực chịu đựng hằng ngày trong niềm trung thành và kiên nhẫn, thường bị đặt trong bóng tối, không được nói đến. Cũng vì lý do đó, chúng ta không thể chỉ dừng lại nơi những tin tức, nếu chúng ta muốn hiểu thế giới và cuộc sống; chúng ta phải có khả năng dừng lại trong thinh lặng, mặc niệm, suy tư trầm lặng và kéo dài. Qua đó tâm hồn chúng ta có thể được chữa lành khỏi những vết thương không thể tránh được những vết thương của đời sống thường nhật, có thể đi sâu vào các sự kiện xảy ra trong cuộc sống chúng ta và thế giới, và đạt tới sự khôn ngoan, giúp chúng ta lượng định sự việc với cái nhìn mới. Nhất là khi hồi niệm trong lương tâm, nơi Chúa nói với chúng ta, chúng ta học cách nhìn trong sự thật những hành động của mình, cả sự ác hiện diện trong và quanh chúng ta, để bắt đầu một hành trình hoán cải làm cho chúng ta khôn ngoan và tốt lành hơn, có khả năng hơn trong việc thực thi liên đới và hiệp thông, thắng sự ác bằng sự thiện. Kitô hữu là người hy vọng, cả khi và nhất là đứng trước tăm tối thường xảy ra trên thế giới, tăm tối ấy không tùy thuộc dự án của Thiên Chúa, nhưng là do những chọn lựa sai lầm của con người, vì Kitô hữu biết rằng sức mạnh của đức tin có thể chuyển núi dời non (Xc Mt 17,20): Chúa có thể chiếu sáng cả những tối tăm dầy đặc nhất”.

ĐTC cũng nhắc đến Năm Đức Tin và sứ mạng truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, đặc biệt cho các thế hệ trẻ, giúp họ thỏa mãn khát vọng chân lý mà mỗi người mang trong tâm hồn, nhưng khát vọng này thường bị lu mờ vì bao nhiêu sự việc trong cuộc sống. ”Sự dấn thân tông đồ này càng cần thiết giữa lúc đức tin có nguy cơ bị lù mờ trong bối cảnh văn hóa cản trở không đi sâu hơn vào cuộc sống con người và dần dần vắng bóng khỏi xã hội”. ĐTC nói về nhu cầu truyền giảng Tin Mừng tại Roma, trước sự gia tăng con số các tín đồ khác, và những khó khăn mà nhiều cộng đoàn giáo xứ gặp phải trong việc đến gần giới trẻ, sự lan tràn lối sống cá nhân chủ nghĩa và duy tương đối về luân lý. Đàng khác cũng có nhiều người tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của mình và tìm một niềm hy vọng vững chắc.

Với ý hướng trên đây, ĐTC mời gọi các tín hữu, nhất là các bậc phụ huynh, hãy sống phù hợp với niềm tin để có thể trở thành môn đệ và chứng nhân đáng tin cậy của Chúa Kitô. Ngài khuyến khích tăng cường việc mục vụ gia đình, tổ chức các nhóm liên gia trong đó các tín hữu lắng nghe Lời Chúa, chia sẻ kinh nghiệm cuộc sống đảo, giúp củng cố ý thức mình thuộc về cộng đoàn XX và tăng trưởng trong tình bạn với Chúa”.

Cuối kinh chiều, có nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và hát kinh Te Deum tạ ơn Thiên Chúa. Sau đó, ĐTC đã ra quảng trường thánh Phêrô viếng thăm và cầu nguyện hang đá khổng lồ tại đây.

Ngoài ra lúc 10 giờ rưỡi tối hôm 31 tháng 12-2012, đã có buổi canh thức tại Quảng trường thánh Phêrô để cầu nguyện cho sự hiệp nhất và hòa bình trong các gia đình và giữa các dân nước. Đây là lần thứ 10, Phong trào tình yêu gia đình tổ chức và cổ võ buổi canh thức thuộc loại này. (SD 31-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP- Vietvatican

TRUNG GIAN (ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA)

TRUNG GIAN (ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA)

Ds 6, 22-27; Gal 4, 4-7; Lc 2, 16-21).

Ngày đầu năm, mọi dân nước rộn rã hân hoan đón chào một sự khởi đầu mới. Chúng ta cùng dâng lời tạ ơn Chúa cho một năm qua với nhiều ân sủng và những niềm vui, nỗi buồn. Nhìn lại năm cũ để tính toán sổ sách cuộc đời và hướng tới năm mới để dự phóng những chương trình và mơ ước cho tương lai. Ôn cố tri tân. Đối với con người đang lữ hành, thời gian là hồng ân có quá khứ, hiện tại và tương lai. Thêm một năm, mỗi người già thêm một tuổi. Khi nhìn lên bàn thờ tổ tiên trong các gia đình Việt Nam, tôi suy gẫm về những hình ảnh của cha ông. Có nhiều hình ảnh ông bà tổ, ông bà nội ngoại hay cha mẹ rất trẻ, có vị chỉ sống được 20 xuân xanh đã qua đời. Trên bàn thờ con cháu vẫn luôn nhang đèn và tôn kính mến yêu. Có những người con, người cháu già cả 70, 80 tuổi vẫn cúi đầu vái lậy. Qua đời khi còn trẻ hay già không quan trọng, kẻ bề trên vẫn luôn là những vị tiền bối. Tổ tiên, ông bà và cha mẹ luôn được tôn kính mến yêu.

Hôm nay Giáo Hội Công Giáo mừng kính lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên xưng một người đàn bà đã hạ sinh Con Chúa: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật (Gal 4, 4). Người đàn bà chính là Đức Maria. Maria được Thiên Chúa tuyển chọn trong muôn vàn phụ nữ để cưu mang Con Chúa. Qua lời xin vâng, trinh nữ Maria đã thụ thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Dựa vào Kinh Thánh mạc khải, truyền thống, suy tư thần học và tâm tình con thảo, Giáo Hội đã tuyên tín: Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa quá nhiệm mầu và cao cả. Đức Maria không tự mình nhận tước hiệu này, nhưng Maria chỉ nhận là nữ tỳ của Chúa và là tôi tớ xin vâng như lời thiên thần truyền. Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa được các Công Đồng, các thánh Giáo Phụ và toàn thể Giáo Hội cùng tin nhận. Vì Đức Mẹ là mẹ của Chúa Giêsu và là đầu nhiệm thể. Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Khi Maria đi thăm viếng người chị họ Isave, bà qúa vui mừng đã thốt lên lời ca ngợi rằng bởi đâu tôi được mẹ của Chúa tôi đến viếng thăm.

Là Mẹ của con Thiên Chúa nhưng Đức Maria sống rất khiêm tốn và âm thầm. Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu con người toàn vẹn với hai bản tính Thiên Chúa và loài người. Con Chúa đã được dưỡng nuôi bằng chính máu thịt của mẹ. Đời Mẹ sống trong niềm tin yêu và hy vọng. Maria sống lặng lẽ trong cầu nguyện và chiêm ngắm những biến cố xảy ra trong đời. Thánh Luca viết vắn gọn: Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2, 19). Có Chúa ở cùng là một niềm vui hoan lạc. Mẹ có Chúa Giêsu hiện diện ngay bên để chia sẻ cuộc sống gia đình.Cuộc sống của Maria cũng giống như cuộc đời của các phụ nữ khác. Hằng ngày cũng lao động để lo miếng cơm manh áo nuôi sống gia đình. Mẹ an vui chu toàn bổn phận của người vợ và người mẹ trong gia đình.

Đức Maria cũng trải qua mọi ngày với những công việc bình thường như các bà mẹ trong gia đình. Mỗi việc làm với ý thức và tình yêu sẽ trở thành việc vĩ đại. Vĩ đại không phải vì to lớn nhưng vĩ đại vì tâm của con người vĩ đại. Mẹ làm tất cả vì con và cho con. Không có cung lòng nào có phúc hơn cung lòng của mẹ. Mẹ được diễm phúc ở bên cạnh Con Chúa cho tới khi Chúa hoàn tất sứ mệnh. Mẹ được chăm lo, săn sóc và yêu thương Con Chúa hết mình. Mẹ chung vui và xẻ buồn cùng Con trên mọi nẻo đường. Mẹ cũng lo buồn và sầu héo khi Con Chúa bị người đời khinh dể, xua đuổi, chối từ và tẩy chay. Mẹ luôn đồng hành với Con trong mọi bước đường, ngay cả khi Con bị bắt, bị vác thánh giá ngã gục trên đường lên núi sọ. Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn Con hấp hối và trút hơi thở cuối cùng. Có ai đứng đó để chia sẻ nỗi đớn đau và tan nát tâm can như mẹ. Mẹ xứng đáng lãnh nhận tất cả mọi tước hiệu ca khen của Giáo Hội.

Giáo Hội đã dâng kính Mẹ nhiều tước hiệu cao cả. Đức Mẹ là Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội. Mẹ là Hòm bia Thiên Chúa và là cửa thiên đàng. Mẹ là Nữ Vương các thiên thần và các thánh. Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông và được hồn xác lên trời. Đức Mẹ bầu chữa kẻ có tội và yên ủi kẻ âu lo. Có Mẹ, chúng ta sẽ tìm được sự bình yên và an lạc. Chúng ta dễ dàng đến với Mẹ để tâm sự và cầu nguyện. Đôi khi có những người thắc mắc rằng tại sao Giáo Hội đặt vị trí của Đức Maria cao quá vậy? Giáo Hội còn lưu giữ hình ảnh, bút tích, phép lạ và những việc lạ lùng Đức Maria đã thực hiện qua suốt sự thăng trầm của lịch sử. Đã nhiều lần Đức Mẹ hiện ra để an ủi, khuyên dạy và kêu gọi sám hối. Mẹ là trung gian chuyển cầu ơn Chúa cho chúng ta. Tất cả mọi sự đều được qui về Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ.

Mẹ Maria không chỉ là hình ảnh cô thôn nữ trẻ trung hay bà mẹ sầu bi, mà là hình ảnh Mẹ hiển sáng. Mẹ Maria đã già hơn 2 ngàn tuổi. Mẹ đã hiện diện trước khi Giáo Hội được thành hình. Mẹ đã sinh ra Chúa Cứu Thế và Mẹ đồng công cùng Con Chúa trong sứ mệnh Cứu Độ. Chúa Giêsu lập Giáo Hội và đã chọn các tông đồ để tiếp tục sứ mệnh. Mẹ Maria đã hiện diện với các tông đồ trên mọi nẻo đường. Đức Maria can đảm đứng dưới chân thập giá đón nhận lời trăn trối sau cùng của Con. Mẹ đã ở lại an ủi các tông đồ trong những lúc cô đơn, sợ hãi và buồn sầu nhất. Cùng với Chúa Giêsu phục sinh, Mẹ đã qui tụ các tông đồ và cầu nguyện chờ đón ơn Chúa Thánh Thần. Vậy, Đức Maria xứng đáng lãnh nhận mọi tước hiệu của Giáo Hội dâng kính. Trải qua hơn hai ngàn năm từ dòng dõi này qua dòng dõi kia vẫn tiếp tục truyền bá niềm tin và lòng sùng kính mến yêu Mẹ. Giáo Hội vẫn đang trong cuộc lữ hành trên trần thế không thể vắng bóng Mẹ. Thiên Chúa đã chọn gọi Mẹ Maria như là máng chuyển ơn lành cho mọi chúng sinh.

Mẹ rợp bóng mát trên đàn con. Nơi đâu Mẹ xuất hiện, nơi đó qui tụ cả hằng triệu con tim. Những địa danh thánh được Mẹ thăm viếng đã trở thành những trung tâm hành hương của con cái mẹ. Một số nơi Mẹ đã hiện đến như ở Guadalupe (1531), Paris (1830), Rome (1842), la Salette (1846), Lourdes (1858), Fatima (1917), Bonneux (1933), Syracuse (1953) và nhiều nơi khác nữa. Mỗi miền dân tộc đã có những sự sùng kính danh thánh riêng của Mẹ như Đức Mẹ Lavang, Đức Mẹ Altargracia, Đức Mẹ Providencia, Đức Mẹ African, Đức Mẹ Perpetual Help (Hằng Cứu Giúp)…Những hình ảnh Mẹ gần gũi thân thương với dáng vẻ, khuôn mặt, mầu da và áo quần trang sức đã mời gọi các tín hữu đến gần bên Mẹ hơn.

Mỗi khi chúng ta đọc kinh Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn hơn mọi người nữ, chúng ta tôn vinh Mẹ vì ân sủng Chúa ban. Mẹ là ánh sao dẫn đường chúng ta đến với Chúa. Tất cả những ai chạy đến cầu xin cùng Mẹ sẽ không bị thất vọng. Lạy Chúa, chúng con có Chúa và có Mẹ.Chúng con có mái ấm gia đình là Giáo Hội. Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Giáo Hội sinh chúng ta ra làm con cái Thiên Chúa. Chúng con bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa.Thánh Phaolô dậy: Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa (Gal 4, 7).

 Xin cho chúng con cùng được chia phần gia nghiệp trong Nước Chúa. Chúng ta cùng nguyện rằng: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.

Lm Giuse Trần Việt Hùng Bronx, New York

Maria Mẹ Thiên Chúa

Maria Mẹ Thiên Chúa

Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, Mẹ rất thánh của chúng ta, được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu này được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe hay lúc tản bộ. Dĩ nhiên, tôi cũng từng đọc cả trăm lần mỗi ngày lời Mẹ Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ. Và, do lòng sùng kính, hiếu thảo của một người con đối với Mẹ Thiên Chúa, tôi muốn tìm hiểu từ ngữ này trên hai phương diện: lịch sử và thần học, hầu hiểu biết được quan điểm của Giáo Hội Công Giáo đối với danh xưng này.

ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ

Thánh danh Mẹ Thiên Chúa được dùng trong kinh nguyện của Giáo Hội từ lâu trước cuộc tranh luận giáo thuyết làm nên một giai đoạn thử thách đức tin Kitô hữu. Tuy nhiên, tước hiệu chính xác Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Giám Mục Alexander thành Alexandria xưng tụng khoảng năm 281 – 300 A.D.

Theo lịch sử Công Giáo, Nestôriô chủ trương rằng việc nhập thể bao gồm một sự biến đổi trọn vẹn của Ngôi Lời. Đối với ông, Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, nhưng là mẹ một con người thuần túy, một người có tên Giêsu, người mang Ngôi Lời. Để lên án học thuyết sai lầm về Thánh Mẫu Học và Kitô Học của bè rối Nestôriô, Công Đồng chung Êphêsô năm 431, dưới quyền điều khiển của Thánh Cyrilô thành Alexandria, đã tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và mầu nhiệm của đức tin Công Giáo chúng ta. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.

1)- Trong Thánh Kinh:

Mặc dù Thánh Kinh không chính thức dùng từ ngữ Mẹ Thiên Chúa, nhưng từ ngữ đó đã được hàm chứa một cách rõ rệt và minh bạch trong Thánh Kinh. Theo tiên tri Isaia, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel (Is, 7:14; Mt, 1:23). Từ câu này, chúng ta có thể nói : Trinh Nữ đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Lời tiên tri trên được thực hiện trong Phúc Âm Luca khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria : “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai v sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…; vì thế Trẻ Thánh sinh ra bởi Bà, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc, 1:31-35).

Cũng vậy, Thánh Phaolô nói : Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật (Gal,4:14). Và từ dòng dõi họ Đức Kitô, theo huyết nhục, cũng từ họ mà ra, là Đấng vượt trên muôn loài, tức là Thiên Chúa, đáng ca tụng đời đời. (Rm, 9:5). Chúng ta cũng thấy, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2:1; 19:26), và Mẹ Chúa trong Luca, đoạn nói về việc Đức Mẹ đến thăm bà Elizabeth (1:43). Do đó, trong Thánh Kinh, ta thấy Thiên Chúa Cha mời gọi Đức Maria và do lời FIAT tự nguyện của Mẹ, trong quyền lực ơn sủng của Thánh Thần, Mẹ trở nên Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người; và như thế, Mẹ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

2)- Qua Thánh Truyền:

Các Kitô hữu thời sơ khai, được các Tông Đồ hướng dẫn, có một niềm tin vững chắc vào chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như : Kinh Tin Kính của các Tông Đồ : Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Con Một Thiên Chúa Cha, Đấng xuống thai bởi phép Chúa Thánh Thần, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria; công thức rửa tội ở thời kỳ đầu và những kinh nguyện phụng vụ.

Thêm vào đó, tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được tin yêu và truyền dậy bởi các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô, Antiochia… Vào thời Thánh Athanasiô năm 373, chúng ta thấy có câu : Chúng tôi thú nhận rằng Con Thiên Chúa đã trở nên nhục thể qua việc nhận lấy thân xác từ một Trinh Nữ, Đấng Mẹ Thiên Chúa. Và Thánh Giêgoriô Nagianô tuyên bố : “Nếu người nào không nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì người đó không có Thiên Chúa làm Cha.”

Vì thế, qua Thánh truyền, chúng ta có thể xác quyết rằng Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, và như vậy Mẹ Rất Thánh của chúng ta thật là Mẹ Thiên Chúa.

3)- Qua Giáo Huấn của Giáo Hội:

Trước tiên, Maria, Mẹ Thiên Chúa được tuyên bố để bênh vực Thiên Tính Chúa Giêsu, Con Mẹ, trong Công Đồng Chung thứ III tại ÊPhêsô năm 431 do Đức Giáo Hoàng Celestinô I. Thật ra, vào năm 428, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đã bị phản đối công khai tại Constantinople. Những Công Đồng kế tiếp như Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553 đã làm sáng tỏ hơn ý nghĩa tước hiệu Mẹ Thiên Chúa.

Công Đồng Constantinople III (680-681) đã lên án phái Monothelites và nhắc lại một số công thức cổ truyền. Công Đồng xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.

Ngoài ra, chúng ta còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp Mediator Dei để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.

Đức Piô XII, trong thông điệp lịch sử của ngài, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.

Sau cùng, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen gentium, chương VIII đã nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang mồng 1 tháng 1.

4)- Trong Thánh Lễ:

Thánh Lễ của chúng ta thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta. Vì tính chất phong phú đó, tôi xin trình bầy việc nhắc đi nhắc lại tước hiệu cao cả này mà ta thấy chứa đựng trong Thánh Lễ.

Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, vị linh mục đọc : Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc : Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa.v.v….

CÁI NHÌN THẦN HỌC

Để hiểu hơn về chức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy nghiên cứu những học thuyết bàn về chức vị này, những học thuyết bao gồm cách thiết yếu việc nhiệm sinh từ đời đời của Đức Kitô bởi Thiên Chúa Cha liên quan tới việc Ngài được sinh ra trong thời gian bởi Đức Trinh Nữ Maria. Theo Thánh Cyrilô, chúng ta có thể nhận ra chức Mẹ Thiên Chúa của Mẹ Maria qua những quan điểm sau đây :

a)- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hiện hữu với Thiên Chúa Cha từ đời đời, và là Ngôi Lời.

b)- Trong Chúa Giêsu Kitô, thiên tính và nhân tính kết hợp một cách bất khả phân ly trong một ngôi. Công Đồng Nicea định nghĩa Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, Ngài có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha. Những Công Đồng khác cũng xác nhận đức tin này, như Công Đồng Chalcedonia năm 451, đã dạy rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người trong một ngôi vị. Vì Chúa Giêsu có 2 bản tính, nên chúng ta có thể hiểu sự nhiệm sinh của Ngài từ muôn đời bởi Thiên Chúa Cha và sự sinh ra trong thời gian của Ngài bởi Đức Trinh Nữ Maria.

Bởi ngôi vị bất khả phân chia của Ngài, Con Thiên Chúa tuyệt đối đồng nhất với con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì thế, Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

Hơn nữa, vào thế kỷ 13, Thánh Tôma đã đóng góp, bằng một đường lối đặc biệt, vào việc làm cho mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria thêm minh bạch và ý nghĩa. Ngài đã sáng tác và kéo dài việc bàn giải về Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa nơi phần viết về Kitô Học trong bộ Tổng Luận Thần Học.

Qua những điều được trình bầy ở trên, chúng ta ý thức và xác nhận rằng Đức Maria thực sự là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa từ đời đời và là người thật. Vì thế, Đức Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa. Mẹ cũng là người đầu tiên chạm tới và làm sáng tỏ những mầu nhiệm cứu độ của tình thương Thiên Chúa. Thánh Kinh không những cho chúng ta biết phần nào sự kiện lịch sử trong quá khứ, điều chúng ta gọi là mạc khải.

Thêm vào đó, bởi ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, các Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã để lại cho chúng ta một giáo huấn trọn hảo về Thánh Mẫu Học trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội ở Chương VIII. Nơi chương này, chúng ta có một khoa Thánh Mẫu Học phong phú mà các Giáo Phụ của Công Đồng đã mượn tư tưởng của Thánh Ambrôsiô dạy rằng : Mẹ Thiên Chúa là một mẫu gương của Giáo Hội về Đức Tin, đức ái và sự hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô.

Các nghị phụ của Công Đồng Vaticanô II đã bày tỏ chính bản chất chân lý về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa một cách thỏa đáng, nên không cần bàn gì thêm về chân lý căn bản này trong đức tin của chúng ta nữa.

LM Cao xuân Thành (tinmung.net)

Đức Thánh Cha kêu gọi bênh vực và nâng đỡ gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi bênh vực và nâng đỡ gia đình

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 30 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các gia đình Công Giáo noi gương Thánh Gia Thất và gia tăng nỗ lực bênh vực chính cách gia đình.

Buổi đọc kinh Truyền Tin lễ Thánh Gia và cũng là chúa nhật cuối cùng của năm 2012. Hàng chục ngàn tín hữu có mặt tại Quảng trường thánh Phêrô dưới bầu trời nắng đẹp, cạnh hang đá máng cỏ khổng lồ bên cây thông cao 25 mét.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Luca về biến cố Chúa Giêsu theo cha mẹ đi hành hương ở Đền thờ Jerusalem, và sau đó ngài âm thầm ở lại, và mãi ba ngày sau cha mẹ Ngài mới tìm lại được con ở Đền thờ sau 3 ngày lo lắng tìm kiếm. ĐTC nói:

“Anh chị em thân mến, hôm nay là lễ Thánh Gia Nazareth. Trong phụng vụ, đoạn Tin Mừng theo thánh Luca trình bày cho chúng ta Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse, trung thành với truyền thống, lên Jerusalem để mừng lễ Vượt Qua cùng với Chúa Giêsu 12 tuổi.

Lần đầu tiên mà Chúa Giêsu vào Đền thờ của Chúa là 40 ngày sau khi Ngài sinh ra, khi cha mẹ Ngài dâng cho Chúa ”một cặp chim gáy hoặc chim bồ câu non” (Lc 2,24), nghĩa là lễ vật của những người nghèo. Trong toàn sách Tin Mừng theo thánh Luca, vốn là một Tin Mừng thấm đượm một nền thần học về người nghèo và về sự thanh bần, thánh nhân cho thấy .. rằng gia đình Chúa Giêsu được kể vào số những người nghèo của Israel; thánh Luca cho chúng ta hiểu rằng chính nơi họ mà lời hứa của Chúa có thể được viên mãn” (L’infanzia di Gesù, 96). Hôm nay, Chúa Giêsu lại vào Đền Thờ, nhưng lần này với một vai trò khác, có liên hệ đích thị tới Ngài. Cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, Ngài hành hương lên Jerusalem theo qui định của Lề Luật (Xc Xh 23,17, 34,23ss), cho dù Ngài chưa đầy 13 tuổi: đó là dấu chỉ lòng đạo đức sâu xa của Thánh Gia. Nhưng khi song thân Ngài lên đường trở về Nazareth, thi xảy ra một điều bất ngờ: Ngài ở lại Thành Thánh mà không nói gì cả. Suốt 3 ngày, Mẹ Maria và Thánh Giuse tìm kiếm và thấy Ngài trong Đền Thờ, đang nói chuyện với các Thầy Thông Luật (Xc Lc 2,46-47); và khi song thân hỏi lý do tại sao thì Chúa Giêsu trả lời rằng Thầy Mẹ không nên ngạc nhiên, vì xây chính là chỗ của con, đây là nhà của Ngài, nơi Cha Ngài là Thiên Chúa (Xc L’infanzia di Gesù, 143). Origène đã viết: ”Ngài nói tiên tri sẽ ở trong Đền thờ của cha Ngài, Cha mà Ngài mạc khải cho chúng ta và Ngài nói là Con của Người” (Omelie sul Vangelo di Luca, 18,5).

”Sự lo lắng của Mẹ Maria và Thánh Giuse về Chúa Giêsu cũng là sự lo lắng của mỗi cha mẹ trong việc giáo dục mỗi người con, dẫn con cái vào cuộc sống và hiểu biết thực tại. Vì thế, ngày nay chúng ta cần đặc biệt cầu xin Chúa cho tất cả các gia đình trên thế giới. Noi gương Thánh Gia Nazareth, các cha mẹ hãy nghiêm túc quan tâm đến sự tăng trưởng và giáo dục con cái mình, để chúng trưởng thành như những người có trách nhiệm và những công dân lương thiện, không bao giờ quên rằng đức tin là một hồng ân quí giá cần được nuôi dưỡng nơi chính các con cái, kể cả bằng gương sáng. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện để mỗi để mỗi trẻ em được đón nhận như một món quà của Thiên Chúa, được tình thương của cha mẹ nâng đỡ, để có thể lớn lên như Chúa Giêsu, ”càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và người đời” (Lc 2,52). Ước gì tình yêu, lòng trung thành và tận tụy của Mẹ Maria và thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả các đôi vợ chồng Kitô, họ không phải bạn hữu hay chủ nhân cuộc sống của con cái mình, nhưng là những người gìn giữ hồng ân khôn sánh này của Thiên Chúa”. ”Ước gì sự thinh lặng của thánh Giuse, người công chính (Xc Mt 1,19) và gương của Mẹ Maria, đã cẩn giữ mọi sự trong tâm hồn (Xc Lc 2,51) đưa chúng ta đi vào mầu nhiệm đầy đức tin và tình người của Thánh Gia. Tôi cầu chúc tất cả các gia đình Kitô sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa với cùng tình yêu và niềm vui của gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse”.

Chào thăm Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các tín hữu bằng nhiều ngôn ngữ và tóm tắt ý chính bài huấn giáo. Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ngài nhận xét rằng: ”Con Thiên Chúa đã muốn sinh ra trong một gia đình, qua đó mang lại cho gia đình một ý nghĩa cao thượng và chỗ đứng không thể thay thế được đối với con người và xã hội. Gia đình là chiếc nôi tự nhiên của trẻ em. Gia đình là mảnh đất đầu tiên và không thể thay thế được nơi mà con người và những liên hệ giữa con người bén rễ và được xây dựng. Xin Mẹ Maria và Thánh Giuse giúp các cha mẹ giáo dục con cái và thông truyền đức tin cho chúng!

ĐTC cũng nói bằng tiếng Tây Ban Nha và sứ điệp của ngài được trực tiếp truyền hình tới hàng chục ngàn người ở Madrid:

”Tôi thân ái chào thăm các tín hữu nói tiếng Tây Ban Nha hiện diện ở đây trong buổi đọc kinh kính Đức Mẹ. Từ đây, tôi cũng chào thăm đông đảo các tín hữu tham dự ”Thánh Lễ của các gia đình” được tổ chức tại Madrid. Ước gì Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là mẫu gương đức tin làm cho tình yêu được chiếu tỏa rạng ngời và củng cố đời sống của các gia đình. Nhờ lời chuyển cầu của các Ngài, chúng ta cầu xin cho gia đình tiếp tục là món quà quí giá cho mỗi phần tử của gia đình, một niềm hy vọng vững chắc nhất cho toàn thể nhân loại. Và niềm vui chia sẻ cuộc sống theo Thiên Chúa mà chúng ta đã học biết từ cha ông chúng ta, thúc đẩy chúng ta biến thế giới thành một gia đình đức tin, một không gian hòa hợp, liên đới và tôn trọng lẫn nhau. Với ý hướng đó, chúng ta hãy chạy đến cùng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Quốc của chúng ta, để Mẹ tháp tùng các gia đình trong ơn gọi của họ, trở thành như một Giáo Hội tại gia và là tế bào nguyên thủy của xã hội. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.” Thánh lễ Gia đình được cử hành lần thứ 6 tại Madrid, do ĐHY Antonio Maria Rouco, TGM sở tại, Chủ tịch HĐGM Tây Ban Nha, chủ sự, cùng với đông đảo các GM và linh mục, tại quảng trường Colón.

Trong bài giảng ĐHY Rouco khẳng định rằng chỉ có gia đình được quan niệm và sống hoàn toàn trong sự thật, như ngôn ngữ rõ rệt và không thể xóa bỏ của bản chất con người, mới phản ánh chân trời hy vọng cho con người và xã hội thời nay.

ĐHY cũng nói về gia đình Công Giáo như niềm hy vọng vững chắc duy nhất nếu chúng ta xét đến thực tại xã hội và văn hóa hiện nay và những giải pháp phù vân vô hiệu lực người ta đề nghị để ra khỏi tình trạng khủng hoảng sâu đậm của nhân loại hiện thời. Gia đình cần đương đầu với những chướng ngại về kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp luật và chính trị người ta đặt ra trên hành trình của gia đình. Vì thế, ĐHY nói, ngày nay hơn bao giờ hết, điều cấp thiết là thực hiện đạo lý đức tin chân lý ngàn đời về hôn nhân và gia đình”.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican  

Tình yêu và tình yêu

Tình yêu và tình yêu

Là con người ai cũng muốn yêu và khao khát được yêu. Yêu và được yêu là điều thiết yếu trong cuộc sống của con người. Giả như cuộc sống này không có tình yêu thì con người sẽ ra sao và thế giới này sẽ như thế nào? Giả như một ngày tình yêu vắng bóng thì tất cả những mối tương quan của con người sẽ đi về đâu? Bình thường như mọi ngày ‘một ngày như mọi ngày’ ư ? Không. Nếu một ngày tình yêu không còn nữa thì cuộc sống của con người sẽ trở nên cằn cỗi, và nhạt nhẽo lắm. Vắng bóng tình yêu, các mối tương quan giữa con người trở nên vô vị và mất hết ý nghĩa sống.

(Xin xem tiếp . . .Tình yêu và Tình Yêu )

BA NHÂN ĐỨC ĐỂ TẠO DỰNG VÀ GÌN GIỮ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH (Thánh Gia Thất 2012)

BA NHÂN ĐỨC ĐỂ TẠO DỰNG VÀ GÌN GIỮ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

Bạn nghĩ gì và nghĩ sao khi nghe nói đến gia đình Thánh Gia vậy?  Riêng cá nhân tôi, mỗi lần nghe đến Gia Đình Thánh Gia, thì tôi liền liên tưởng ngay đến những sự nhỏ bé, mộc mạc, đơn sơ, nghèo khó và tầm thường. Thật vậy!

  • Làng Na-da-rét, nơi gia đình Thánh Gia định cư, chẳng có gì là đặc biệt cả, cho nên ông Na-tha-na-en mới nói: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?”(Ga 1:46).
  • Thánh Giuse là một con người bình dân, âm thầm và lặng lẽ, cho nên Phúc Âm chỉ nhắc đến tên của ngài vỏn vẹn chỉ có 16 lần.
  • Thánh Giuse làm nghề thợ mộc, vừa vất vả, vừa khó khọc, chỉ vừa đủ ăn mà thôi, cho nên khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Chúa Giêsu chẳng có gì đem theo cả: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20)!

Giả như bạn và tôi phải sống trong một ngôi làng nhỏ bé, tầm thường, và có cha mẹ là những người chất phác, âm thầm, tầm thường, và sống trong một hoàn hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như Thánh Gia Thất khi xưa, thì liệu gia đình của chúng mình có được sự bình an và sống trong hạnh phúc được không vậy?  Khó lắm!  Cứ sự thường mà nói, nghèo thường đi liền với khổ, cho nên người ta mới hay nói nghèo khổ là vậy!

Thế nhưng nói như vậy không có nghĩa là hễ ai sống trong sung túc, sống trong lụa là nhung lượt, ăn uống no đủ, tiền dư bạc thừa… thì người ấy sẽ có hạnh phúc và bình an, khôngdám đâu!  Bạn đọc báo, xem TV, đọc trên internet và nhìn những người nổi tiếng là giàu có, là đại gia, là trọc phú … thử đi rồi bạn sẽ thấy, hạnh phúc và bình an là hai món hàng xa sỉ mà họ đang tìm kiếm mà vẫn chưa tìm được đấy!
Như vậy thì làm thế nào để các gia đình tìm được sự hạnh phúc, bình an và ấm êm đây?  Mời bạn cùng với tôi điểm qua ba nhân đức, mà tôi tin rằng, nhờ ba nhân đức này mà Thánh Gia Thất mới có thể kiến tạo, xây dựng, bảo vệ và gìn giữ hạnh phúc cũng như bình an được:
Thứ nhất là sống an phận. Tại sao lại an phận?  Xin thưa là bởi vì thánh Mát-thêu ghi lại rằng thánh Giuse xuất thân từ một dòng tộc vua chúa, ngài là một người quý phái, là hậu duệ của vua Đa-vít chứ không phải là người xuất thân trong một dòng họ tầm thường (Mt1:1-17).  Một người xuất thân từ dòng dõi quý phái mà lại vui vẻ làm thợ mộc, cầm búa, cầm cưa, dùi, đục, khoan, thước… chấp nhận đổ mồ hôi, sôi nước mắt để kiếm cơm như vậy thì không phải là người biết an phận hay sao?  Sống an phận với hoàn cảnh hiện tại chính là bí quyết mà thánh Giuse dùng để tạo nên và gìn giữ hạnh phúc gia đình của ngài.
Thứ hai là nhờ vào sự vâng phục. Phúc Âm ghi lại những sự kiện cho chúng ta thấy cả ba Đấng: thánh Giuse, Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu đều là những tấm gương sáng chói về đức vâng phục.
  • Thánh Giuse đã vâng theo những kế hoạch củaThiên Chúa an bài, không thắc mắc, không than phiền, không phản đối. “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về… [Hãy trỗi] dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập …”(Mt 1:20-21; 2:13).
  • Mẹ Maria đã tuân theo thánh ý của Thiên Chúa hơn là ý riêng của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc1:38).
  • Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ của Ngài.  Sau khi cha mẹ tìm được Ngài ở trong đền thờ, thì Ngài đã trở về Na-da-rét và hằng vâng phục [thánh Giuse và MẹMaria] (Lc2:46).
Thứ ba là nhờ vào sự thinh lặng (tức là NÓI ÍT đó!). Khi phát hiện ra con trẻ bị thất lạc, hai ông bà không la ó, không chửi nhau, cũng không đổ lỗi cho nhau nhưng các ngài đã chia nhau đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc (Lc 2:44). Rồi khi tìm được con trẻ, thánh Giuse chẳng nói, cũng chẳng phiền trách hay càm ràm la ó. Còn Mẹ Maria, khi thấy các mục đồng đến thờ lạy và hát mừng, khi chứng kiến cảnh các nhà chiêm tinh lặn lội từ phương xa đến quỳ gối bái lạy, và khi nghe những lời tuyên sấm của ông Simeon về những gian nan khốn khó và đau khổ mà mình phải chịu đựng … Mẹ Maria không nói, không than, không phiền, chẳng trách … nhưng chỉ âm thầm ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng (Lc 2:19, 51).
Bạn thân mến, bạn có tin là nếu mỗi gia đình, bất luận là giàu hay nghèo, trong đó vợ chồng, cha mẹ, con cái chịu khó noi gương bắt chước thánh Giuse, Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu thực hành ba nhân đức AN PHẬN, VÂNG PHỤC & NÓI ÍT, thì gia đình ấy sẽ sống trong hạnh phúc, bình an và sẽ êm ấm thuận hòa không?  Nếu bạn tin như vậy, thì tôi xin có một vài đề nghị nho nhỏ sau đây:
  • Chồng, vợ, con cái hãy noi gương bắt chước thánh Giuse, biết thích ứng với hoàn cảnh chứ đừng nuối tiếc quá khứ, đừng nhớ những dĩ vãng những thời vàng son đã qua.  Quá khứ đã qua, không ai níu kéo lại được, một phút, một giờ trước đây đã trôi vào dĩ vãng rồi, huống hồ chi là mấy chục năm về trước?  Nuối tiếc làm chi cho thêm đau thêm khổ?  Chuyện gì đã qua hãy cho nó trôi vào dĩ vãng, đừng nuối tiếc, đừng xuýt xoa và đừng bao giờ nói “Giá mà hồi đó …”
  • Hãy bằng lòng với những gì mình đang có: nhà cửa, công việc làm, xe cộ, vợ, chồng, con cái … hãy sống an phận, đừng có cái kiểu đứng núi này trông núi nọ, đừng so sánh, cũng đừng bì tị, hoặc ghen tuông với … hàng xóm láng giềng … thuyền to thì sóng lớn, báu bở gì mà cứ mơ với ước của người ta làm chi dzậy?
  • Con cái trong gia đình hãy vâng phục bố mẹ bởi vì các ngài là những người đại diện cho Chúa để chăm sóc, lo lắng và giáo dục mình. Đừng phản đối, đừng chống báng, đừng hỗn hào, và đừng tỏ ra mình khôn ngoan và tài giỏi hơn cha mẹ. Khi vợ tuân phục chồng, khi chồng kính trọng vợ, khi con cái vâng lời và làm theo những sự dạy dỗ của cha mẹ, thì gia đình đó chắc chắn sẽ có hạnh phúc!
  • Khi đối diện với những thử thách, đau khổ, bất hạnh, tai nạn, bệnh tật, bất hòa … hãy tập giữ thinh lặng, đừng nói gì và cũng đừng làm gì cả.  Đừng trách, đừng móc, cũng đừng đổ lỗi cho nhau và chớ nên có cái kiểu giận cá chém thớt, hay quăng mèo ném chó, bạ đâu phang đó … Có khi nào bạn giăng buồm ra khơi khi bão tố nổi lên không?  Khi nóng giận, khi bất bình, khi gặp những thử thách đau khổ, mà bạn còn mở miệng ra nói, còn la, còn hét … thì bảo đảm, con thuyền gia đình của bạn sẽ lật úp ngay cho mà coi, chớ có dại!
Và cuối cùng, ngoài ba nhân đức AN PHẬN, VÂNG PHỤC & NÓI ÍT ra, muốn cho gia đình của bạn được nên giống như gia đình Thánh Gia, thì bạn hãy ghi nhớ, là bạn cần phải có Chúa Giêsu ở với bạn, bởi vì Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa và Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4:8). Và nếu muốn có Chúa Giêsu ở trong bạn thì bạn hãy chịu khó xưng tội, tham dự thánh lễ và rước lễ bởi vì Chúa Giêsu đã hứa rằng: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6:56).
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Gia Thất, chúc lành và giúp cho mọi người trong gia đình bạn nhận ra giá trị của ba nhân đức an phận, vâng phục và nói ít, để nhờ vậy gia đình của bạn sẽ sống hạnh phúc y như gia đình Thánh Gia vậy.  Amen.

Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

NOEL 2012 TẠI BETHLEM

NOËL 2012 TẠI BÊLEM

Với chúng ta, những kitô hữu, các địa danh của Đất Thánh như Cana, Capharnaum, Giêrusalem, Bêlem… đã phần nào trở nên quen thuộc. Dường như trong thâm tâm, ai cũng ước mong có một lần được đặt chân tới những nơi này để tận mắt thấy quê hương của Chúa Giêsu, nơi Ngài đã sinh ra, lớn lên, rao giảng Tin Mừng, làm phép lạ, đã chết và đã phục sinh. Chúng tôi may mắn được sống ở Đất Thánh vào thời điểm Lễ Giáng Sinh và được chứng kiến không khí tưng bừng của ngày đại lễ tại Bêlem. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà hai tháng trước đây cuộc xung đột xảy ra giữa Palestine và Israel, quý vị có thể hỏi : làm sao có được an ninh tại Bêlem trong ngày Lễ Giáng Sinh năm nay ? Bài chia sẻ này không trả lời trực tiếp cho vấn đề nêu trên đây, nhưng chỉ muốn gửi tới quý vị một vài thông tin và hình ảnh về ngày lễ Giáng Sinh tại thành phố Bêlem lịch sử này. Để hiểu hơn về ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng Con Thiên Chúa ra đời tại hang Bêlem, chúng ta cùng nhau nhìn khái quát về lịch sử của thành này đã được ghi trong Kinh Thánh cùng với những biến cố vĩ đại của nó trong lịch sử cứu độ.

1. BÊLEM XƯA VÀ NAY

Ai trong chúng ta đều biết, nước Do thái thời Chúa Giêsu chia làm ba miền : Galilê (Bắc) – Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam).

Bêlem là một thành thuộc miền Giuđêa, mà theo Tin mừng Luca, thành này được gọi là thành của vua Đavit : « Thời hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong cả thiên hạ … Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadaret, miền Galilêa lên thành Vua Đavit tức là Bêlem, miền Giuđêa, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavit » (Lc 2, 1-4).

Bêlem hay Bethlehem ngày nay là một thành phố nhỏ, nằm phía tây ngạn sông Giođan, cách thành phố Giêrusalem khoảng 8 km về phía nam, ở độ cao khoảng 760 m trên mặt biển và cao hơn Giêrusalem khoảng 30 m. Thành phố Bêlem hiện nay, với khoảng 50.000 dân (Kitô hữu chiếm khoảng 10%), do chính quyền Palestine kiểm soát, nhưng thị trưởng của thành này luôn là một kitô hữu. Mặc dù nhỏ bé, nhưng Bêlem là một trong những trung tâm hành hương và du lịch của Palestine thu hút rất nhiều khách du lịch và khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nền kinh tế thế giới đang trong vòng suy thoái, nhưng theo số thống kê mới đây, số khách về Bêlem trong năm 2012 lên tới gần 2 triệu người.

Mặc dù bé nhỏ, nhưng Bêlem là một trong những địa danh quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đối với Do thái giáo, Bêlem là nơi có ý nghĩa quan trọng, vì ở ngoại ô thành này có mộ bà Rachel là vợ của ông Giacop. Bà đã qua đời khi sinh Benjamin (St 35, 19). Bêlem là quê hương của vua Đavit. Tại Bêlem Đavit được Samuel xức dầu phong vương (1Sm 16,13- 15) và do đó, Bêlem còn gọi là thành của Đavit (Lc 2,4-11). Được xem là một thành nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa (Mk 5,1), nhưng từ Bêlem sẽ xuất hiện Đấng cứu độ nhân loại (Mt 2,1-7). Chính vì thế, Bêlem xưa cũng như nay luôn là linh địa của Kitô giáo. Hai thị trấn nhỏ không xa trung tâm Bêlem,

là Beit Jala và Beit Sahour cũng có ý nghĩa đặc biệt với Kitô giáo, cách riêng là với Giáo Hội Công giáo. Ở Beit Jala, cách Bêlem hơn 2 km, có Chủng Viện Công Giáo nghi lễ Latinh, được thành lập từ năm 1852.

Được biết, năm học 2012-2013, Chủng Viện có 66 thày : 35 tiểu chủng sinh và 31 đại chủng sinh. Còn thị trấn Beit Sahour, cách Bêlem khoảng 2 km, có nhà thờ ‘Cánh Đồng Mục Tử’ (le champ des bergers) hay còn gọi là ‘Cánh Đồng Thiên Thần’ để ghi nhớ sự kiện Thiên Thần đã hiện ra báo tin cho các mục đồng biết Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Theo Tin Mừng Luca, sau khi nghe các Thiên Thần ca hát « Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm », các mục đồng đã hối hả đi Bêlem để xem sự việc đã xảy ra thế nào (x. Lc 2, 13-15). Họ đã lên đường và trở thành những người đầu tiên đến thờ lạy Chúa Cứu Thế giáng sinh tại Bêlem. Hơn hai ngàn năm qua, tại thành phố này, hang Bêlem vẫn còn đó và Nhà Thờ Giáng Sinh lịch sử đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào cuối tháng 6 năm 2012 vừa qua.

2. NHÀ THỜ GIÁNG SINH VÀ HANG BÊLEM

Tọa lạc ngay trung tâm thành phố Bêlem, Nhà Thờ Giáng Sinh được xây dựng vào thế kỷ thứ IV, thời hoàng đế Constantinô (272 – 337). Đây là một trong những nhà thờ cổ nhất trên thế giới, có sinh hoạt liên tục từ khi xây dựng cho đến ngày nay. Theo các nhà nghiên cứu, bằng chứng đầu tiên về hang Bêlem là nơi Chúa Cứu Thế sinh ra được ghi trong các tác phẩm của thánh Justinô (khoảng năm 160). Truyền thống này được giáo phụ Origen xác nhận vào thế kỷ thứ III. Theo sử liệu, vào năm 326, Hoàng Đế Constantinô và mẹ là thánh nữ Helena đã cho xây một nhà thờ trên hang Bêlem ấy. Năm 530, Hoàng Đế Justinianô cho phá nhà thờ do Constantinô xây để dựng một nhà thờ rộng hơn, tức là nhà thờ còn tồn tại đến ngày nay. Nhà thờ được xây theo hình thánh giá, dài 54 m, rộng 26 m và phần cung thánh rộng 35 m. Nhà thờ có 4 hàng cột cao 6 m, được trang trí bằng những chiếc đèn theo kiểu Hy lạp. Từ năm 1852, nhà thờ được đặt dưới sự trông coi chung của cả ba Giáo Hội: Công Giáo, Chính thống Ácmêni và Chính Thống Hy Lạp. Tuy nhiên, người Hy Lạp được quyền kiểm soát hang Bêlem.

Hai ngày trước Lễ Giáng Sinh, chúng tôi, ba linh mục ở cùng trường, được tới hang Bêlem dâng lễ cùng với 6 giáo dân người Pháp. Nơi đây chỉ đủ cho một nhóm nhỏ khoảng 10 người và phải đăng ký từ trước. Mặc dù thánh lễ ở mọi nơi và mọi thời đều như nhau, nhưng dâng lễ tại chính nơi mà Con Thiên Chúa đã giáng sinh đã cho chúng tôi một cảm nghiệm thiêng liêng sâu sắc về ơn cứu độ Thiên Chúa tặng ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Vì không gian chật hẹp, nên tất cả đều phải đứng từ đầu đến cuối thánh lễ.

Một điều chúng tôi ghi nhận là gần tới Lễ Giáng Sinh, nhiều đoàn hành hương từ khắp nơi tuôn về nơi lịch sử

đáng ghi nhớ này, nên không gian nhỏ bé của hang Bêlem lại càng chật hơn. Không chỉ hang Bêlem trở nên chật chội mà cả Nhà Thờ Giáng Sinh hôm nay cũng đầy kín khách hành hương.

Giữa gian cung thánh của thánh đường lịch sử này, ngay dưới bàn thờ chính, nằm dưới lòng đất là hang Bêlem. Trên nền bằng đá cẩm thạch của hang Bêlem, nơi Chúa sinh ra, được đánh dấu bằng ngôi sao bạc 14 cánh. Có tài liệu giải thích rằng 14 cánh là con số tượng trưng cho “14 đời”trong gia phả của Chúa Giêsu mà Tin Mừng Matthêu đề cập đến : « … từ tổ phụ Abraham đến Vua Đavit có mười bốn đời; từ Vua Đavit đến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời; và tthời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời » (Mt 1, 17). Các chữ bằng tiếng Latinh vòng quanh bên trong ngôi sao này là : Hic de Virgine Maria Jesus Christus Natus Est. Có nghĩa là: Nơi đây Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Đức Giêsu Kitô.

Bên cạnh hang Bêlem, nơi Chúa đã sinh ra, ngày nay vẫn còn một hang, mà theo sử liệu, vào năm 388, thánh Giêrônimô đến sống một cuộc đời khổ hạnh suốt 32 năm cho đến khi qua đời (năm 420) bên trong hang đá này. Nếu quý vị đã một lần tới thăm hang này thì hẳn còn nhớ ở đây có những gian phòng khác nhau, nơi thánh nhân đã sống, làm việc, tiếp khách và cử hành phụng vụ. Công trình vĩ đại ngài để lại cho Giáo Hội mà chúng ta có hôm nay là bản dịch toàn bộ Kinh Thánh từ tiếng Do thái và Hy lạp ra tiếng Latinh. Thánh nhân không những chỉ nghiên cứu về Lời Chúa, nhưng ngài còn cảm nghiệm và sống bằng Lời Chúa. Vì thế, ngài đã để lại một câu nói bất hủ được trích dẫn qua mọi thời, đó là : « Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô ». Trên vách đá trong hang này, khách hành hương còn thấy dòng chữ tiếng Latinh “Locus sancti Hieronymi presbyterii & Ecclesiae doctoris” (Nơi ở của Thánh Giêrônimô linh mục và tiến sĩ Hội Thánh).

3. NOËL 2012 TẠI BÊLEM Theo truyền thống từ lâu, chiều hôm nay 24.12.2012, tại Quảng Trường Máng Cỏ trước Nhà Thờ Giáng Sinh, có cuộc đón tiếp Đức Thượng Phụ Giêrusalem Fouad Twal. Vì thế, ngay từ buổi trưa, các loại xe bốn bánh bị cấm đi vào thành phố để nhường chỗ cho người bộ hành. Khoảng 13 giờ, những đường phố chính dẫn về Quảng Trường đã chật kín khách hành hương và dân chúng đến đón Đức Thượng Phụ. Những đội kèn đủ loại và các đội trống với những bộ quần áo đồng phục diễu hành trên phố này làm cho không khí của ngày lễ sôi động, tuy nhiên tất cả đều trật tự và trang nghiêm.

Hòa mình với đoàn người thuộc nhiều màu da và tiếng nói khác nhau từ khắp năm châu, như: Ấn Độ, Đức, Pháp, Balan, Úc, Canada, Mỹ, Mêxicô, Phi Châu… chúng tôi cảm nhận thực sự được tính cách hoàn vũ của Giáo Hội. Đang theo dòng người tiến về Quảng Trường Máng Cỏ, chúng tôi vui mừng được gặp những người đồng hương Việt Nam trên mảnh đất lịch sử này. Một thầy thuộc dòng Xitô và một chị giáo dân đến từ Mỹ, cũng như các nữ tu thuộc dòng Tiểu Muội đã phục vụ nhiều năm tại Đất Thánh. Theo ước tính, có khoảng hơn 50.000 người đã về đây trong dịp lễ Giáng Sinh này.

Khoảng 14 giờ, phái đoàn Đức Thượng Phụ Giêrusalem, cùng với các Đức Giám Mục phụ tá, được xe cảnh sát dẫn đường và hộ tống tới Quảng Trường Máng Cỏ, nơi đã có hàng ngan người đang chờ đợi dưới ánh nắng của tiết trời Đông, nhiệt độ khoảng 14°C. Ngỏ lời với dân chúng và khách hành hương tại Quảng Trường nơi có cây thông giáng sinh cao 25 m được trang trí nhiều màu sắc rực rỡ, Đức Thượng Phụ Fouad Twal, vị lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Rôma tại Trung Đông, chào thăm và chúc mừng giáng sinh tới hết mọi người hiện diện. Theo ngài, Lễ Giáng Sinh năm nay, đối với những người dân ở Bêlem có ý nghĩa đặc biệt, vì vào tháng 11 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đã chính thức nhìn nhận Palestine như một nhà nước quan sát viên của tổ chức này.

Cao điểm của ngày trọng đại này là giờ Canh Thức và thánh lễ Nửa Đêm được cử hành tại Nhà thờ thánh Catarina, nằm sát với Nhà Thờ Giáng Sinh. Ngôn ngữ chính của buổi cử hành là tiếng Latinh. Riêng lời nguyện

tín hữu được công bố bằng 8 thứ tiếng khác nhau : Latinh-Anh-Pháp-Đức-Ý-Tây Ban Nha-Ả rập-Do thái. Cùng đồng tế với Đức Thượng Phụ có 3 Đức Cha và với khoảng 150 linh mục từ nhiều nơi quy tụ về, cùng với khoảng 700 tín hữu có vé vào tham dự. Những ai có vé vào trong nhà thờ, kể cả các linh mục, đều phải qua cổng kiểm soát an ninh nghiêm ngặt. Bên ngoài thánh đường hàng ngàn người tham dự thánh lễ bằng những màn hình lớn được truyền hình trực tiếp.

Giảng trong thánh lễ bằng tiếng Ả rập, trước sự hiện diện của Tổng Thống Palestine Mahmoud Abbas và ngoại

trưởng  Nasser Judeh của Jordani, đại diện cho nhà vua Abdallah II, Đức Thượng Phụ mời gọi tất cả những nhà chính trị, những người có lòng thiện tâm hãy nỗ lực tìm kiếm một giải pháp hòa bình và hòa giải giữa nhà nước Palestine và Israel. Theo ngài, chỉ có công lý và hòa bình ở Thánh Địa mới có thể tái lập cân bằng tình hình trong khu vực. Tuy nhiên, theo Đức Thượng Phụ, con đường đi đến hòa bình và hòa giải giữa hai dân tộc Palestine và Israel còn dài và cần nhiều nỗ lực hiệp nhất. Sau bài giảng Đức Thượng Phụ rời khỏi giảng đài đến trao hôn bình an cho Tổng Thống Mahmoud Abbas.

Thánh lễ được kết thúc với việc kiệu tượng Chúa Hài Đồng từ thánh đường thánh Catarina, ngang qua Nhà Thờ Giáng Sinh, xuống tận hang Bêlem, nơi Chúa Cứu Thế hạ sinh.

Trong lúc đó ca đoàn cất lên những bài thánh ca giáng sinh với những giai điệu quen thuộc để mọi người có thể dễ dàng hiệp thông.

Rời Bêlem trở về trường vào lúc 2 giờ sáng giữa đêm Đông nhưng không có ‘sương tuyết lạnh lùng’ như đêm Noël cách đây hơn hai ngàn năm. Thinh lặng bước đi dưới ánh sao đêm trên bầu trời Bêlem, lòng chúng tôi vẫn còn nghe văng vẳng lời bài thánh ca nổi tiếng của nhạc sĩ Hải Linh: «Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời … Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa... Trong hang Bêlem, ánh sáng tỏa lan tưng bừng … ».

Vâng, vẻ tưng bừng của ngày lễ Noël tại Bêlem đã khép lại, nhưng sứ điệp hòa giải và hòa bình của Đêm Thánh tại Bêlem vẫn còn ghi đậm trong chúng tôi như một lời mời gọi sống đức tin trong Năm Đức Tin này. Nguyện xin Hài Nhi Đức Giêsu, hoàng tử bình an, chúc lành cho chúng ta và giúp mỗi người chúng ta trở nên khí cụ của tình bác ái và hòa giải, để chúng ta có thể đem lại bình an và niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những ai đang gặp đau khổ, bệnh tật, nghèo khó và bị bỏ rơi.

Noël 2012 Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hào  (XBVN)

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

VATICAN. Lúc 6 giờ chiều 29 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi cầu nguyện với hàng chục ngàn bạn trẻ Kitô Âu Châu, tại Quảng trường thánh Phêrô.

Đây là cuộc gặp gỡ thứ 35 do tu viện đại kết Taizé bên Pháp tổ chức từ chiều ngày 28-12-2012 và đến ngày 2-1-2013, với sự tham dự của 40 ngàn bạn trẻ.

Từ hàng giờ trước khi chính thức bắt đầu buổi cầu nguyện, các bạn trẻ đã có mặt tại quảng trường thanh gia phần thánh ca do ca đoàn đảm trách. Lúc gần 6 giờ, ĐTC đã từ nội thành Vatican tiến ra, trong xe bọc kiếng, tiến qua các lối đi ở quảng trường để chào thăm các bạn bạn trẻ, trước khi tiến lên thềm đền thờ, nơi có lễ đài đơn sơ, với ảnh Chúa Kitô chịu đóng đanh, hai bên có Đức Mẹ và thánh Gioan.

Hai bên lễ đài có các tu huynh Taizé cùng với các LM Công Giáo, Chính Thống và Mục Sư Tin Lành, Anh giáo. Đại diện cho chính quyền địa phương có ông đô trưởng Gianni Alemanno.

Buổi cầu nguyện bắt đầu với dấu thánh giá của ĐTC và diễn ra với các thánh ca, thánh vịnh, đọc Kinh Thánh và kinh nguyện bằng nhiều thứ tiếng, giữa hàng chục ngàn ánh nến lung linh trong đêm tối.

Cuối buổi đọc kinh, trong lời chào mừng ĐTC, thầy Alois, một tín hữu Công Giáo người Đức, tu viện trưởng Taizé, cho biết các bạn trẻ hiện diện thuộc các hệ phái Kitô khác nhau, đến từ toàn Âu Châu và từ các đại lục khác: tất cả đều được liên kết nhờ một phép rửa và cùng có Lời Chúa… Thầy Roger Schutz, người sáng lập tu viện đại kết Taizé đã mở ra những hành trình hòa giải.. Nhờ chứng tá của Thầy, rất nhiều người đã muốn thực hiện trước sự hòa giải qua cuộc sống: họ đã sống như những người được hòa giải. Các tín hữu Kitô hòa giải có thể trở thành những chứng nhân về an bình và hiệp thông, trở thành những người mang một tình liên đới mới trong toàn thể nhân loại. Sự tìm kiếm một quan hệ bản thân với Thiên Chúa, chính là nền tảng của tiến trình ấy. Phong trào đại kết bằng việc cầu nguyện này không khuyến khích một thái độ bao dung dễ dàng, nhưng tạo điều kiện cho sự lắng nghe lẫn nhau và đối thoại chân thành”. Trong bài huấn dụ với những đoạn bằng 5 thứ tiếng, ĐTC ghi nhận đây là lần thứ 4 Roma đón tiếp các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ Âu Châu và ngài nói: ”Trong dịp này, tôi muốn lại lại những lời mà vị Tiền Nhiệm của tôi Gioan Phaolô 2 đã nói với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ thứ 3 của các bạn tại Roma: ”Giáo Hoàng cũng cảm thấy dấn thân sâu xa với các bạn trong cuộc lữ hành tín thác này trên trái đất.. Cả tôi cũng được kêu gọi trở thành một người lữ hành tín thác nhân danh Chúa Kitô” (30-12-1987)

Và ĐTC đề cao sự nghiệp và tấm gương của thầy Roger: ”Như một chứng nhân không biết mệt mỏi về Tin Mừng hòa bình và hòa giải, thầy Roger đã khích lệ tất cả những người đi qua Taizé trở thành người tìm kiếm hiệp thông. Chúng ta phải lắng nghe trong con tim chúng ta về tinh thần linh đạo đại kết được sống thực của Thầy, và để cho mình được chứng tá của Thầy hướng dẫn tiến tới một phong trào đại kết được thực sự nội tâm và linh đạo hóa. Theo gương của Thầy Roger, ước gì nhiều người trong các bạn có thể trở thành những người mang sứ điệp hiệp nhất này. Tôi bảo đảm với các bạn về quyết tâm không thể hồi lại của Giáo Hội Công Giáo trong việc tiếp tục tìm kiếm con đường hòa giải dẫn đến sự hiệp nhất hữu hình của các tín hữu Kitô. Vì thế, tôi này tôi rất thân ái chào thăm các tín hữu Chính Thống và Tin Lành trong số các bạn”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bạn trẻ rằng: ”Chúa Kitô đang mong ước nhận được từ nơi mỗi người trong các bạn câu trả lời cho câu hỏi: ”Thầy là ai đối với các con?”. Chúa mong nhận được câu trả lời đến từ tự do nội tâm sâu xa của các bạn, chứ không từ sự cưỡng bách hoặc sợ hãi. Chính khi trả lời câu hỏi ấy, cuộc sống của các bạn sẽ tìm được ý nghĩa mạnh mẽ nhất (…). Trong những ngày này ở Roma, gước gì các bạn để cho lời thưa xin vâng với Chúa Kitô trổi lên trong tâm hồn các bạn, đặc biệt tận dụng những lúc thinh lặng lâu dài vốn giữ một chỗ đứng trung tâm trong các buổi đọc kinh chung của các bạn”

Buổi đọc kinh kéo dài một tiếng đồng hồ. Sau khi ban phép lành kết thúc ĐTC còn bắt tay chào thăm các tu huynh Taizé hiện diện. (SD 29-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu Kitô Trung Đông đoàn kết xây dựng hòa bình

Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu Kitô Trung Đông đoàn kết xây dựng hòa bình

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Kitô đoàn kết để làm chứng tá về sứ điệp yêu thương, hòa bình và hòa giải của Tin Mừng.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp chào mừng Đức Tân Thượng Phụ Gioan 10, giáo chủ Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia và toàn Trung Đông. Đức Tân Thượng Phụ được thánh hội đồng của Giáo Hội này bầu lên hôm 17-12-2012 tại Đan viện Đức Bà Balamand ở phía bắc thủ đô Beirut, Liban, kế nhiệm Đức Thượng Phụ Ignatio 4 Hazim, qua đời ngày 5-12 trước đó, hưởng thọ 92 tuổi.

Sứ điệp của ĐTC có đoạn viết: ”Trong thời điểm bất ổn và hướng chiều vế bạo lực tại Trung Đông hiện này, một điều ngày càng cấp thiết là các môn đệ Chúa Kitô nêu chứng tá đích thực về sự hiệp nhất của họ, để thế giới tin vào sứ điệp yêu thương, an bình và hòa giải của Tin Mừng. .. Chúng ta có trách nhiệm biểu lộ một cách rõ ràng hơn nữa thực tại tinh thần về sự hiệp thông, tuy chưa hoàn toàn, nhưng đã liên kết chúng ta với nhau”.

Sau cùng, ĐTC cầu mong rằng các quan hệ giữa tòa Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia với Giáo Hội Công Giáo được phát triển thêm qua những hình thức cộng tác hữu hiệu và tiếp tục theo đuổi quyết tâm giải quyết các vấn đề còn làm cho hai bên chia rẽ, qua sự tham gia tích cực và xây dựng vào công việc của Ủy ban hỗn hợp đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống (SD 28-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc

Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc

Muốn có hạnh phúc thì gia đình phải có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết các thành viên lại với nhau.

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 2,41-52

2. Ý CHÍNH: HAI ÔNG BÀ TÌM THẤY CON TRONG ĐỀN THỜ:

Câu chuyện Thánh Gia hành hương lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt qua đã được thánh Lu-ca ghi lại trong đọan Tin mừng hôm nay với 3 phần như sau:

– Trẻ Giê-su bị thất lạc và được cha mẹ lo lắng tìm kiếm (c.41-45). – Cha mẹ vui mừng khi tìm thấy con trẻ trong Đền thờ. (c.46-50). – Trẻ Giê-su nêu gương hiếu thảo vâng phục cha mẹ (c.51-52).

3. CHÚ THÍCH:

– C 41-42: + Lễ Vượt qua: Hay lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày (x Xh 12,15-16). + Khi Người được mười hai tuổi: Tại Ít-ra-en, sau khi học giáo lý, đứa trẻ 13 tuổi sẽ làm lễ tuyên tín để trở thành người lớn, thành “con của Lề Luật”. Ngày đó người ta yêu cầu đứa trẻ bước lên bục giữa hội đường để đọc sách To-rah.

– C 43-45: + Xong kỳ Lễ: Luật chỉ buộc ở lại Đền thờ 3 ngày đầu. Còn Thánh gia đã ở lại cho đến hết kỳ Đại Lễ. Điều này cho thấy lòng đạo đức trổi vượt của các ngài. +Hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết: Trong dịp lễ này, những người ở xa Đền thờ thường tổ chức đi chung thành đoàn lữ hành. Sau khi tan lễ, họ lại nhập thành đoàn ra về. Họ có thể không đi chung mà đi riêng thành từng nhóm theo lứa tuổi, miễn là cùng dừng chân ở các quán trọ để nghỉ đêm. Vì thế khi ra về, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a vẫn yên tâm khi không thấy trẻ Giê-su đi trong cùng một nhóm với mình.

– C 46-47: + Đang ngồi giữa các thầy dạy: Các bậc thầy (Ráp-bi ) thường ngồi khi dạy Kinh thánh ở tiền đình bên trong khuôn viên Đền thờ (x. Lc 19,47). Việc giảng dạy theo hình thức hỏi và đáp. + Ai nghe cậu nói cũng đều ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu: Sự thông minh và câu trả lời khôn ngoan của trẻ Giê-su khiến mọi người ngạc nhiên.

– C 48-50: + “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”: Đức Giê-su muốn cho cha mẹ biết ngòai gia đình tự nhiên ở trần gian, Người còn có một người Cha ngự trên trời là Thiên Chúa nữa.

– C 51-52: + Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài: Sau khi nói về sứ mệnh của mình phải vâng theo thánh ý Chúa Cha trên trời, trẻ Giê-su đã theo cha mẹ trần gian trở về làng Na-da-rét và vâng phục hai ông bà.

4. CÂU HỎI: 1) Lễ Vượt Qua hay lễ Bánh Không Men kéo dài bao lâu? 2) Tại sao mãi đến ngày thứ ba, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a mới phát hiện ra con trẻ Giê-su bị thất lạc? 3) Điều gì cho thấy sự khôn ngoan vượt trổi của trẻ Giê-su khi ở lại trong Đền thờ? 4) Trẻ Giê-su muốn nói gì qua câu thưa với cha mẹ: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” 5) Lòng hiếu thảo của trẻ Giê-su với cha mẹ được biểu lộ thế nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái… Người làm vợ hãy phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa” (Cl 3,14.18).

2. CÂU CHUYỆN: MỘT CON NGƯỜI CẦU TOÀN:

Theo chuyện cổ Hồi Giáo thì NA-TRÚT-ĐIN là hiện thân của những chàng trai độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi bạn bè chất vấn tại sao đến tuổi bốn mươi rồi mà anh vẫn chưa lấy vợ, Na-trút-đin đã tâm sự về tình trạng độc thân bất đắc dĩ của anh như sau:

“Tôi đâu phải là không muốn lấy vợ như các bạn nghĩ: Suốt cả tuổi thanh xuân, tôi đã đi khắp nơi để tìm cho mình một người vợ hoàn hảo như ý muốn. Tại Cai-rô, thủ đô Ai Cập, tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ vừa đẹp người lại vừa thông minh. Nàng có đôi mắt bồ câu với con ngươi đen nhánh giống như hai hạt ô-liu. Tôi ưng ý ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi đã khám phá ra rằng: Nàng ta không phải là một cô gái hiền thục như tôi mong muốn. Thế là tôi liền rời bỏ Cai-rô để đến thành Bát-đa Thủ đô nước I-rắc, để tìm kiếm một người vợ lý tưởng, nghĩa là phải vừa đẹp người lại vừa phải thông minh dịu hiền nữa! Tại đây, nhờ Đức Thánh Al-lah phù hộ nên tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ hoàn hảo, đúng như lòng hằng mong ước. Nhưng có điều chúng tôi lại bị khắc khẩu mỗi khi nói chuyện: Ít khi chúng tôi cùng chung quan điểm về bất cứ lãnh vực nào. Thế là tôi đành phải âm thầm chia tay với nàng. Từ đó, tôi liên tiếp trải qua nhiều mối tình với nhiều phụ nữ khác nhau. Nhưng người được mặt này thì lại mất mặt kia, được tính tốt này thì lại vướng phải tật xấu nọ. Đến lúc tôi sắp hoàn toàn thất vọng, tưởng như sẽ không thể tìm đâu ra được một người đàn bà hoàn hảo, thì một hôm Đức Thánh Al-lah đã sắp xếp cho tôi gặp được một thiếu nữ siêu tuyệt vời. Có thể nói: Nàng là sự kết hợp rất nhiều đức tính của một người vợ lý tưởng mà tôi hằng mong ước: Nàng vừa đẹp người, thông minh, lại vừa hiền dịu và ân cần tử tế trong giao tiếp… Ngoài ra nàng lại còn hát hay múa giỏi, nấu ăn ngon, cắm hoa đẹp, thêu thùa cắt may thành thạo… Thế nhưng các bạn có biết vì sao cho đến giờ này tôi vẫn là một chàng trai độc thân khó tính không??? Vì khi tôi mạnh dạn ngỏ lời cầu hôn với nàng, thì lập tức tôi đã bị nàng thẳng thừng từ chối, vì nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông lý tưởng để lấy làm chồng. Mà theo đánh giá của nàng thì tôi chỉ là một gã đàn ông tầm thường, có quá nhiều thói hư tật xấu, không xứng đáng làm chồng của nàng!”.

3. SUY NIỆM:

– THÁNH GIA: MẪU GƯƠNG CỦA GIA ĐÌNH TÍN HỮU: Gia đình là nền tảng của xã hội và là tế bào của Hội thánh! Gia đình có bền vững hạnh phúc thì xã hội mới an vui và Hội thánh mới phát triển. Hôm nay Hội thánh giới thiệu Thánh Gia cho các gia đình tín hữu học tập noi gương: Trong gia đình này có thánh cả Giu-se là một người chồng lý tưởng: hết lòng yêu thương và chu tòan trách nhiệm lo cho vợ con. Còn Đức Ma-ri-a thì nêu gương cho các người làm vợ làm mẹ về tình yêu thương hết mình phục vụ chồng con. Trong gia đình này, trẻ Giê-su chính là người con hiếu thảo, luôn tôn kính vâng lời và làm vui lòng cha mẹ trong gia đình.

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI TRÊN THUẬN DƯỚI HÒA: Về phạm vi nhân lọai thì thánh Giu-se là người gia trưởng có tinh thần trách nhiệm cao, rồi đến Đức Ma-ri-a là hiền mẫu luôn biết quan tâm chăm sóc cho chồng con và cuối cùng là trẻ Giê-su luôn hiếu thảo thể hiện qua sự vâng lời và luôn làm vui lòng cha mẹ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51a).

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ SỰ BỔ TÚC CHO NHAU: Thiên Chúa đã dựng nên hai người nam nữ tuy khác nhau, nhưng không đối kháng mà còn bổ túc cho nhau. Hai vợ chồng mỗi người đều được Chúa ban những ưu điểm phù hợp với vai trò trong gia đình như sau:

+ Nếu người chồng có sức mạnh ví như là cây cột nhà chống đỡ làm cho gia đình bền vững, thì người vợ là sợi dây yêu thương liên kết các thành viên trong gia đình lại với nhau.

+ Nếu người chồng có khả năng kiếm tiền nuôi sống gia đình, thì người vợ là nhà quản lý tài ba biết sắp xếp mọi việc và bảo vệ mái ấm gia đình.

+ Nếu người chồng được ví như vị thuyền trưởng lãnh đạo gia đình, thì người vợ phải là tài công trực tiếp điều khiển bánh lái, phối hợp chặt chẽ với thuyền trưởng để đưa con tàu gia đình đến bến bờ hạnh phúc.

+ Nếu người chồng cần tính nghiêm khắc, thì người vợ lại cần sự dịu dàng, để con cái tuy phải tuân giữ kỷ luật nhưng vẫn cảm thấy dễ chịu ở trong bầu khí yêu thương của gia đình.

+ Nếu người chồng có vai trò giám đốc tổng quát xí nghiệp thì người vợ là giám đốc điều hành lo quản lý mọi việc nhà, chứ không chỉ là người lao công lo giúp việc nhà, như lời cầu của chủ tế trong thánh lễ hôn phối: ”Lạy Cha, Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam khiến họ không phải là hai nhưng chỉ là một xương một thịt … Xin cho chú rể biết trọn niềm tin tưởng ở vợ mình, nhìn nhận vợ là người bạn bình đẳng và cùng thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban. Xin cho anh biết luôn yêu thương kính trọng yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh Người”.

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ CHÚA HIỆN DIỆN: Muốn có hạnh phúc thì gia đình phải có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết các thành viên lại với nhau. Thứ đến phải có Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, rồi còn phải có ơn Thánh Thần là sức mạnh giúp hai vợ chồng cùng nhau gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhờ đó vợ chồng sẽ dễ dàng đồng tâm hiệp lực để cùng vượt qua các phong ba thử thách cuộc đời (x Cl 3,12-17), như người đời thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”.

4. THẢO LUẬN: Gia đình hôm nay thường gặp nhiều khó khăn như: Con cái dễ bị hư hỏng vì mắc các thói hư tật xấu, vợ chồng khó giữ trọn được lời thề hứa yêu thương, tôn trọng và trọn đời chung thủy với nhau… Theo bạn đâu là nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình và cần phải khắc phục thế nào?

5. NGUYỆN CẦU

– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin nhìn đến những gia đình đang thiếu vắng tình yêu, hay đang thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu, những gia đình đang buồn sầu vì vắng tiếng cười trẻ thơ, hay trái lại đang vất vả lo toan vì đàn con nheo nhóc đói khát của ăn vật chất cũng như tinh thần. Xin nâng đỡ những gia đình đã biến thành hỏa ngục vì dối trá, ích kỷ, kiêu căng, giận hờn khi luôn hành hạ và làm khổ lẫn nhau.

– LẠY CHÚA. Xin nhìn đến những trẻ em đang cần được chăm sóc và yêu thương, những trẻ em đang bị lạm dụng tình dục, đang bị bóc lột tiền bạc và trở thành những món hàng để con buôn trao đổi kiếm lời; Những trẻ em đang lạc lõng bơ vơ và không được đến trường; Những trẻ em bị cuộc đời vùi dập và đang biến dạng trở thành hư hỏng… Xin hãy biến đổi các gia đình tín hữu chúng con. Xin sai Thánh Thần đốt lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mọi thành viên. Xin cho mỗi người chúng con biết luôn chu toàn nhiệm vu xây dựng gia đình cả về tinh thần cũng như vật chất, hầu gia đình chúng con ngày thêm hòa hợp hạnh phúc, là dấu chỉ giúp người đời nhận biết tin yêu Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM. Đan Vinh