Từ vựng Công Giáo: Tân Phúc-Âm-hóa hay Tân-Phúc-Âm hóa?

Từ vựng Công Giáo: Tân Phúc-Âm-hóa hay Tân-Phúc-Âm hóa?

tin than phuc am

1.    Tân Phúc Âm hoá”: vấn đề mang tính thời sự

Dưới nhan đề: “Vatican đang nỗ lực khuếch trương ‘Tân Phúc Âm hoá’”, John L. Allen Jr., chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về Vatican của tờ National Catholic Reporter và cũng là phóng viên của đài truyền hình CNN, trong bài viết ngày 04/03/11, ông nói:

“Trong một triều đại giáo tông mà đôi khi bị buộc tội là thiếu hướng hành chính, toàn bộ Vatican dưới triều của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI ít nhất đã bị buộc chặt vào một điểm: Tính cấp thiết của một cuộc “tân Phúc Âm hoá”.

Bằng mọi cách có thể, Đức Bênêđictô đã cho thấy rằng ngài đang quan tâm đến việc “tân Phúc Âm hoá”, hiểu một cách rộng rãi là đánh thức tinh thần truyền giáo trong Giáo Hội, như là một ưu tiên tột đỉnh. Ví dụ: Mặc dù nổi tiếng là luôn có ác cảm với các bộ máy quan liêu, nhưng gần đây ĐTC Bênêđictô XVI đã phải thành lập ngay tại Vatican một cơ quan hoàn toàn mới để xúc tiến dự án, Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá. Ngài đã bổ nhiệm một chức sắc người Ý, kỳ cựu và đầy quyền lực, là Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, đứng đầu Hội Đồng này, và một danh sách thành viên Hội Đồng gồm các vị giáo sĩ cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo từ khắp nơi trên thế giới, trong đó có Đức Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna, ĐHY Angelo Scola của Venice, ĐHY George Pell của Sydney, và Đức Tổng Giám Mục Timothy Dolan của New York.

ĐTC Bênêđictô cũng đã dành cho Thượng Hội Đồng Giám Mục – một cuộc họp của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới sẽ diễn ra từ ngày 07-28/10/2012 – sắp tới, một chủ đề “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô giáo”[1]mà Bản đề cương (Lineamenta) của Thượng Hội Đồng đã được trình bày trong cuộc họp báo sáng nay tại Vatican.”[2].

Tự Sắc Porta Fidei công bố khai mạc năm Đức Tin ngày 11/10/2012 cũng nhắc đến tân Phúc Âm hoá[3]. Hơn thế nữa, trong Sứ điệp dài 4 trang giấy khổ Letter, Hội nghị toàn thể lần thứ X của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã dành cả 2 trang để nói về một số chiều kích cơ bản của“nền linh đạo tân Phúc Âm hoá”.

Vài sự kiện nêu trên cho thấy tầm quan trọng của vấn đề tân Phúc Âm hoá đối với Giáo Hội hiện nay như thế nào.

Tân Phúc Âm hoá tiếng Anh là New Evangelization, nhưng có người lại không thể hiểu được tại sao tiếng Việt dịch là “tân Phúc Âm hoá”, có người còn cho rằng nói như thế là rối đạo. Vậy chúng ta thử tìm hiểu New Evangelization có nghĩa gì, và nên dịch như thế nào trong tiếng Việt.

2.    Evanglization: Phúc Âm hoá

Chữ này phát xuất từ động từ Evangelise (truyền giảng Phúc Âm) và Evangelise có nguồn gốc từ danh từ Evangel (Phúc Âm).

Chúng tôi đã có dịp bàn tới hai thuật từ Phúc Âm và Phúc Âm hoá trong hai bài “Evangelium” và “Missio” đăng trong nguyệt san Bài giảng Chúa nhật[4] và đăng lại trong quyển “Tìm hiểu từ vựng Công Giáo”[5]. Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. đã tầm nguyên và phân tích về hai thuật từ Evangelizatio và Missio rất công phu trong bài đăng trong bản tin Hiệp Thông số 73[6]. Vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ xin nhắc lại mấy ý chính:

2.1. Evangelium (A: Evangel; P: Évangile) được dịch là Phúc Âm hay Tin Mừng, nhưng theo chúng tôi, thuật từ Phúc Âm có nội dung phong phú và sâu sắc hơn, bao hàm mọi điều thiện hảo mà con người mơ ước theo triết lý Đông phương và như vậy có tính hội nhập văn hoá cao hơn.

2.2. Thuật từ Evangelizatio xuất hiện từ thế kỷ XIX và được du nhập vào thần học Công Giáo vào thế kỷ XX, đặc biệt từ Công Đồng Vaticanô II[7]. ĐTC Phaolô VI sử dụng từ này với hai nội dung chính là truyền bá Phúc Âm (hoạt động truyền giáo cho lương dân) và Phúc Âm hoá (hoạt động tông đồ cho giáo dân)[8].

Evangelizatio (Anh: Evangelization; Pháp: Évangélisation) là "đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để rồi, nhờ ảnh hưởng của Phúc Âm, biến đổi nhân loại từ bên trong và làm cho nhân loại nên mới" (EN 18). Đưa Phúc Âm vào lòng người, vào cách suy nghĩ, cách hành động của con người, vào các lãnh vực hoạt động như xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế… Nói cách khác là đem các giá trị Phúc Âm thấm nhuần vào trong các thực tại trần thế như men ở trong bột. Vì vậy, nếu hiểu cách tổng quát Evangelizatio được thực hiện vừa bằng lời nói, vừa bằng chứng tá đời sống cũng như bằng những hoạt động để biến đổi mọi sự cho hợp với tinh thần Phúc Âm.

2.3. Evangelizatio thường được dịch là (việc, cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá, truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm, loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng, việc truyền giáo… Tuy nhiên, theo chúng tôi, các từ truyền bá, truyền giảng, rao giảng, loan báo, loan truyền… không có ý nghĩa tổng quát như chữ “hoá” trong từ Phúc Âm hoá. Là một nguyên vị tiềm tàng[9] giữ vai trò hậu tố từ, "hoá" tạo ý nghĩa là: biến đổi, làm cho thấm nhuần hoặc làm cho trở thành… Do đó, so với các cụm từ truyền bá Phúc Âm, truyền giảng Phúc Âm hay loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng…. thì thuật từ Phúc Âm hoá vừa ngắn gọn, lại có nội dung bao quát, phong phú và diễn tả ý niệm Evangelizatio thích hợp hơn.

2.4. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể định nghĩa: Phúc Âm hoá là làm cho thấm nhuần tinh thần Phúc Âm. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã cung cấp một định nghĩa khác: “Phúc Âm hoá, nghĩa là loan báo Ðức Kitô bằng đời sống chứng tá và lời nói” (Số 905).

3. Nghĩa các chữ tân, phúc, âm, hoá

3.1. Nghĩa của từ "tân"

Tân có 12 chữ Hán: 新, 濱(滨), 津, 賓(宾), 薪, 辛, 鋅(锌), 檳(槟), 莘, 繽(缤), 獱, 蠙, trong trường hợp này là chữ新. Tân 新là chữ gốc của chữ 薪tân (nghĩa là: củi đuốc, tiền lương). Chữ do辛tân và 斤cân tạo thành. Trong giáp cốt văn, tân chỉ âm, và cân là cái rìu.

Tân nghĩa là (dt.) (1) Mới: Thôi trần xuất tân (trừ cái cũ đi, đem cái mới ra). (2) Họ Tân. (3) Quốc hiệu của Vương Mãng sau khi cướp ngôi nhà Hán (năm 8-22). (đt.) (4) Thay đổi cho mới: Nhật tân hựu tân (ngày càng đổi mới). (tt.) (5) Những cái mới: Tân y (áo mới). (6) Những gì mới xuất hiện: Tân sinh nhi (con mới sinh ra). (7) Những người hay vật thuộc về thời gian mới cưới: Tân phòng (phòng cưới). (pht.) (8) Mới bất đầu: Tân tả (mới viết).

Nghĩa Nôm: (dt.) (1) Xử nữ: Gái tân. (2) Màng trinh: Còn tân.

3.2. Nghĩa của từ "phúc"

Phúc có 9 chữ Hán: 福, 腹, 復(复), 覆, 輹, 輻(辐), 蝮, 愊, 鍑, ở đây là chữ福. Trong bài “Evangelium” tôi có phân tích chữ này, nay xin trích lại: “Theo Lục thư[10], chữ phúc (福)  thuộc “hình thinh”. Viết bộ thị (示còn đọc kỳ) và thinh bức(畐bị), có nghĩa phù hộ, là thần ban điều lành giúp con người, nên viết bộ thị(示) và dùng bức (畐) với âm bị, có nghĩa là mãn  (nghĩa làcó đầy đủ, không gì không thuận lợi là phúc), tức là: trời đất ban xuống những điều tốt lành để thoả mãn nguyện vọng của con người, nên dùng thinh 畐. Thuyết Văn dùng chữ phúc với nghĩa là bị (bị là mọi việc đều thuận lợi). Chữ phúc (福)  đọc âm “phúc”, có nghĩa là mình xin cho được nhiều phúc.”Chữ福 (phúc) nghĩa là (dt.) (1) Những sự tốt lành, Kinh Thi chia ra năm phúc : – Giàu 富, – Yên lành 安寧,- Thọ 壽, – Có đức tốt 攸好德, – Vui hết tuổi trời 考終命. (2) Điều may: Phúc Âm (tin lành). (3) Thịt phần tế. (4) Rượu tế còn thừa. (5) Họ Phúc. (đt.) (6) Thần bảo hộ, giúp: Phúc hựu. (7) Bộ điệu người nữ ngày xưa chào bằng cách chắp tay đặt ở eo:Đạo vạn phúc (Kính chào). (tt.) May mắn: Phúc tướng (tướng may mắn).

3.3. Nghĩa của từ "âm"

Âm có 11 chữ Hán: 音, 暗, 陰(阴), 隂, 侌, 瘖, 喑, 蔭, 廕, 荫, 愔, trong mục từ Tân Phúc Âm hoá, Âm là chữ 音, tôi đã từng phân tích chữ này[11]: “Âm (音) trong từ phúc âm (福音) có nghĩa làtiếng, tin, thuộc loại “chỉ sự”. Viết chữngôn (言, lời ) ngậm dấu ngang (—) là cái dấu để tạo chữ, không phải là chữ nhất (一), quy định dấu ngắn thì đặt ở trên dấu ngang, dấu dài đặt ở dưới. Như vậy chữngôn (言)phần dưới có chữkhẩu (口),chữkhẩu ngậm dấu ngang(—). Thinh do tâm sinh ra, biểu lộ ra ngoài là âm, tức là cái hợp thinh mà được nhịp nhàng hoà hợp với các thinh để thành văn, thì gọi là âm. Chữ 音(âm) nghĩa là: (dt.) (1) Tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, do không khi làm môi giới mà truyền đi: Tạp âm (tiếng tạp). (2) Giọng điệu: Hương âm (giọng quê). (3) Tiếng đọc của chữ: Chú âm (tiếng ghi). (4) Tin tức, thư từ: Âm tín. (5) Tiếng kính trọng kẻ khác: Đức âm. (6) Họ Âm.

3.4. Nghĩa của từ "hoá"

Hoá có 2 chữ Hán: 化, 貨(货), chữ cần bàn là chữ 化. Hoá (化) có hai hình người, một đứng thẳng, một đứng lộn xuống dưới, giống diễn viên đang làm xiếc hoặc biểu diễn ảo thuật, chỉ nghĩa “biến hoá”. Có những nghĩa mở rộng như “Tạo Hoá”, “tử vong”, và “hoà tan”.

Hoá có nghĩa là (dt.) (1) Giáo dục: Giáo hoá. (2) Tập tục: Phong hoá. (3) Trời đất hay số mệnh: Tạo Hoá. (4) Lễ, nhạc, chế độ: Văn hoá. (5) Lấy ân nghĩa mà dạy: Đức hoá. (đt.) (6) Thay đổi: Thiên biến vạn hoá. (7) Trời đất sinh thành vạn vật: Hoá dục. (8) Chết: Vật hoá. (9) Dần dần ít đi, có rồi lại không còn: Tiêu hoá. (10) Thiêu huỷ: Hoả hoá. (10) Ăn xin: Hoá duyên. (11) Đặt sau danh từ hay tĩnh từ, để chuyển biến trạng thái hay tính chất của vật: (i) thay đổi tính chất: ảo hoá, Âu hoá, ẩn dụ hoá, bần cùng hoá, bình thường hoá, biệt hoá, cá biệt hoá, cá tính hoá, cải hoá, cảm hoá, công hữu hoá, công nghiệp hoá, cơ khí hoá, cụ thể hoá, chính quy hoá, chính thức hoá, chuẩn hoá, chuẩn mực hoá, dân chủ hoá, dị hoá, đa dạng hoá, điện khí hoá, đồng bộ hoá, đồng hoá, đơn giản hoá, hiện đại hoá, hợp thức hoá, khái quát hoá, lý tưởng hoá, nhân cách hoá, phàm tục hoá, phân hoá, phức tạp hoá, tập thể hoá, thần bí hoá, tổng quát hoá, tuyệt đối hoá, tư bản hoá, tự động hoá… (ii) làm cho trở thành:cốt hoá (hoá xương), dẻo hoá, điện hoá, lưu hoá, nhũ hoá, nhựa hoá, ion hoá, oxy hoá, khí hoá, từ hoá, xà phòng hoá, mã hoá…

Trong từ Phúc Âm hoá, hoá có vai trò hậu tố từ, nghĩa là làm cho thấm nhuần.

Nghĩa Nôm: Goá: Hoá vợ.

4. New Evangelization: Tân-Phúc-Âm hoá?

4.1. Tân Phúc Âm – Đức tin loại gì đây?

Có người thắc mắc: "Nói đến Đức Tin Công Giáo mà nói đến “tân phúc âm, tân tin mừng” là nói đến đức tin loại gì đây?" – Chúng tôi thử vào Google để tìm kiếm cụm từ "tân phúc âm" và "tân tin mừng", thì không thấy chỗ nào nói Tân Phúc Âm hay Tân Tin Mừng mà chỉ có Tân Phúc Âm hoá hay Tân Tin Mừng hoá mà thôi!

Thiết nghĩ: Người Công Giáo, dù là tân tòng, cũng hiểu rằng Hội Thánh Công Giáo là "duy nhất", và vì duy nhất trong đức tin nên không có chuyện "Tân Phúc Âm" hay "Tân Tin Mừng"[12]. Thực ra chữ "Tân Phúc Âm" cũng đã có người sử dụng rồi. Tự điển của Lm. Vũ Kim Chính[13]dùng chữ này để dịch chữ Neo-Evangelism, danh xưng của một giáo phái Tin Lành[14]. Cho nên, nếu hiểu Tân Phúc Âm là một giáo phái, thì "Tân Phúc Âm hoá" (nếu có) sẽ có nghĩa là "làm cho trở thành tín đồ Tân Phúc Âm". Nhưng trong thực tế, anh em Tin Lành dịch từ Neo-Evangelism là "Phong trào Tin Lành Hiện đại", chứ không sử dụng từ Tân Phúc Âm.

4.2. Cũng tại thiếu cái dấu…

Tôi nhớ khi cha già Phaolô Nguyễn Huỳnh Điểu – cha sở Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn – từ trần, một cha khẩn cấp báo tin cho bạn bè của ngài bên Paris: "DIEU EST MORT"! Các cha bên Pháp đã hết sức kinh ngạc, không thể hiểu nội dung của bức điện nên phải liên lạc hỏi lại… Cũng tại chữ "Điểu" đã viết thành chữ "Dieu" (Thiên Chúa).

Có lẽ ở đây cũng tương tự, từ ghép Tân Phúc Âm hoá có hai cách hiểu về trật tự cấu tạo của nó:

Trước năm 1975, tại miền Nam, người ta thêm dấu gạch nối (-) giữa những mục từ ghép Hán Việt hoặc thuần Việt. Như trường hợp trên, tân Phúc Âm hoá là từ ghép có cấu trúc theo quan hệ cú pháp thuận Hán, tức tĩnh từtân đứng trước danh từ Phúc Âm hoá. Để hiểu "tân" là từ bổ nghĩa cho "Phúc Âm hoá", người ta viết là: "tân Phúc-Âm-hoá", Phúc-Âm-hoá là một mục từ được giải thích theo nghĩa riêng biệt của mục từ này mà không bị hiểu sai. Còn muốn chỉ "hoá" là hậu tố từ của "Tân-Phúc-Âm" thì viết là: "Tân-Phúc-Âm hoá". Nay bỏ gạch nối giữa những từ ghép ấy làm cho nhiều người không thể hiểu nổi những danh từ kép hay từ ghép biệt nghĩa.

Đã có người đề nghị Quốc Hội cho dạy lại Hán Nôm trong trường học, điều này hoàn toàn không thực tế. Để giải quyết vấn để, chúng ta chỉ cần phục hồi dấu gạch nối trong những trường hợp nói trên, vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng hơn.

5. New Evangelization: Tân Phúc-Âm-hoá

5.1. “New Evangelization” là tên gọi được dành cho kế hoạch của Hội Thánh muốn thể hiện một cách mới mẻ sứ mệnh cơ bản của Hội Thánh, căn tính và lý do hiện hữu của Hội Thánh[15]. Để có thể hiểu chính xác nguồn gốc và nội dung của thuật từ này, thiết tưởng không gì bằng đọc tác phẩm mới xuất bản của Đức TGMRino Fisichella, vị chủ tịch đầu tiên của Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá[16]: "The New Evangelization- Responding to The Challenge of Indifference" hoặc bài của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo và Lm. Giuse Phan Tấn Thành trong Bản tin Hiệp Thông nói trên[17]. Dưới đây chúng tôi chỉ lưu ý vắn tắt về nội dung và nhận xét về những cách phiên dịch của từ New Evangelization trong tiếng Việt mà thôi.

5.2. Năm 1983, tại Haiti, khi nói chuyện với Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ La Tinh về tầm quan trọng của công cuộc Phúc Âm hoá tại các nước này, ĐTC Gioan Phaolô II nói: “Việc kỷ niệm nửa thiên niên kỷ Phúc Âm hoá sẽ có đầy đủ ý nghĩa của nó nếu chư huynh trong tư cách giám mục biết dấn thân cùng với hàng linh mục và giáo dân của mình, một dấn thân không phải để tái Phúc Âm hoá mà là để tân Phúc Âm hoá. Nó sẽ mới trong nhiệt tâm, mới trong phương pháp và mới trong cách truyền đạt của nó. Về phương diện này, cho phép tôi uỷ thác nơi chư huynh, gói ghém trong ít lời, các khía cạnh đối với tôi xem ra là căn bản nhất đối với việc tân Phúc Âm hoá”[18]

Như vậy, tân Phúc Âm hoá nghĩa là ta công bố Phúc Âm với một nhiệt tâm mới, một ngôn ngữ mới, một ngôn ngữ dễ hiểu trong ngữ cảnh văn hoá dị biệt, và một phương pháp mới có khả năng thông truyền ý nghĩa sâu sắc nhất của sứ điệp, ý nghĩa bất biến của nó. Về mặt từ ngữ, chúng ta có thể giải thích: Tân Phúc Âm hoá là việc (hay cuộc, công cuộc) Phúc Âm hoá mới. Mới, không phải ở bản chất hay nội dung của Phúc Âm, mà là "mới trong sự nhiệt thành, trong phương pháp và trong lối diễn tả"[19].

Hiện nay, bên cạnh "tân Phúc Âm hoá", thuật từ “New Evangelization” còn được dịch là: tái truyền giảng Tin Mừng [20], cách tân truyền giảng Tin Mừng [21], việc tân truyền bá Phúc Âm hoá [22], cuộc loan báo Tin mừng mới [23].

6. Re-Evangelization: Tái Phúc Âm hoá

Chữ tái trong tiếng Việt (cũng như iterata trong La ngữ và tiếp đầu ngữ Re- trong tiếng Anh, Pháp) có nghĩa là lặp lại, trở lại lần nữa, nhưng (1) Nó có thể chỉ việc lặp lại một hành động, như trong trường hợp tái diễn một vỡ kịch (re-enacting); (2) Nó cũng có thể diễn tả việc trở về với giai đoạn trước đó, như tái thủ đắc(re-acquiring); (3) Nó cũng có nghĩa đem lại một giá trị mới cho một hành động có trước như tái sinh (re-generation)… Nếu hiểu chữ táitheo nghĩa thứ 3 này, thì "tái Phúc Âm hoá" sẽ bao hàm ý tưởng về một sự thay đổi, đổi mới trong nội dung của hành động "Phúc Âm hoá". Có thể đó là lý do mà ĐTC Gioan Phaolô II từ sau thông điệp Redemptoris Missio (1990) đã không sử dụng thuật từ Re-Evangelization nữa, và Đức TGM Rino Fisichella, chủ tịch Hội Đồng Giáo Tông Cổ Vũ Việc Tân Phúc Âm Hoá, khuyên chúng ta nên tránh kiểu nói này.[24]

7. Renewed Evangelization: Cách tân truyền giảng Phúc Âm

Trong tiếng Anh có những kiểu nói: The Proclamation of Salvation, The Proclamation of the Gospel, The Preaching of the Gospel… hay Renewed Evangelization, Renewed Integral Evangelization, The Renewed Mission of the Church… là những cách diễn tả ý niệm Evangelization hoặc New Evangelization ở mặt nào đó, không toàn diện và nhất là không thể thay thế cho những thuật từ này[25]. Cũng thế, trong tiếng Việt cũng có những kiểu nói: Loan truyền Ơn cứu độ, rao giảng Tin Mừng, truyền bá Phúc Âm… hay cách tân việc truyền giảng Tin Mừng, canh tân Phúc Âm hoá toàn diện, canh tân sứ mạng của Hội Thánh… Chúng tôi thiết nghĩ có thể sử dụng trong những hoàn cảnh để trình bày, diễn giải… chứ không thể dùng như những thuật từ chuyên môn định danh cho ý niệm Evangelization hoặc New Evangelization.

Theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn[26], tác giả bộ "Danh từ Khoa học"và rất nhiều công trình khoa học có giá trị lớn để làm mẫu mực cho việc giáo dục và quốc học nước ta, để tạo một danh từ chuyên môn cần phải tuân thủ tám điều kiện và ba phương sách như sau: Năm điều kiện về nội dung: (1) Mỗi ý phải có một danh từ để gọi; (2) Danh từ ấy phải riêng về ý ấy; (3) Một ý đừng có nhiều danh từ; (4) Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý; (5) Danh từ trong các môn phải thành một toàn thể duy nhất và liên lạc. Ba điều kiện về hình thức: Danh từ (6) phải gọn; (7) phải có âm hưởng Việt Nam; và (8) phải đặt theo lối đặt các tiếng thường và phải có tính cách quốc gia. Ba phương sách: (1) Dùng tiếng thông thường; (2) Phiên âm; (3) Lấy gốc chữ Nho.

Giáo sư Hãn còn viết: "Nói thế không phải rằng ta đặt một chữ nào cũng phải theo cho đủ các điều kiện trên kia. Những điều kiện trên có khi nó thành ra mâu thuẫn, nên trong sự định đoạt, ta lại xem cách nào tiện hơn mà chọn. (…) Nói tóm lại, một danh từ khoa học cốt có những đức tính sau đây: đủ rành mạch, dễ nhớ, gọn. Chớ cách đặt thì không duy nhất được. Thế cũng không ngại gì, quí hồ tiếng đặt có âm hưởng Việt Nam và có tính cách Việt Nam là được".

Các linh mục tiền bối trong Ban giáo sư Trường Thần học Bùi Chu khi xưa cũng đã đồng ý tuân thủ những điều kiện và phương sách này khi biên soạn quyển "Danh từ Thần Học và Triết Học". Nhờ đó Hội Thánh tại Việt Nam đã có được bộ thuật ngữ làm nền tảng cho việc học tập và giảng dạy thần học và triết học bằng Việt ngữ hơn nửa thế kỷ qua.

Vì vậy, trên phương diện học thuật, chúng tôi nhận thấy cụm từ "tân Phúc Âm hoá" có thể dùng như một thuật từ để định danh cho ý niệm "New Evangelization". Còn các cách dịch: việc tân truyền bá Phúc Âm hoá, cuộc loan báo Tin mừng mới, cách tân truyền giảng Tin Mừng, tái truyền giảng Tin Mừng… mang tính định nghĩa hơn là định danh.

8. Kết luận

Việt Nam chưa có hàn lâm viện, không ai có thể bảo ai phải làm thế nào. Nên chăng, Hội Thánh tại Việt Nam theo gương các bậc tiền bối, đi bước đầu làm trong sáng lại tiếng Việt.

Để tiếp tục đóng góp vào bộ thuật ngữ quý báu này, chúng ta cần cẩn trọng khi chọn lựa từ ngữ để dịch những khái niệm mới trong các khoa ngành của Hội Thánh.


[1]“Nova evangelizatio ad christianam fidem tradendam – The New Evangelization for the Transmission of the Christian Faith”.
[2]John L. Allen Jr.: VATICAN TRIES TO FLESH OUT 'NEW EVANGELIZATION', xem: http://ncronline.org/blogs/ncr-today/vatican-tries-flesh-out-new-evangel….
[3]Tự sắc Porta Fidei, số 4, 7.
[4]Bài Giảng Chúa Nhật, TGM GP. TP.HCM, Số 3/2006 và 10/2009.
[5]Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ, TÌM HIỂU TỪ VỰNG CÔNG GIÁO, 2012, tr. 19-25; 298-315.
[6]Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP., “LOAN BÁO TIN MỪNG, TÁI LOAN BÁO TIN MỪNG, LOAN BÁO TIN MỪNG CÁCH MỚI MẺ: NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ” – Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012, tr. 52-79.
[7]Các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II đã sử dụng danh từ Evangelizatio 31 lần, đặc biệt trong Sắc Lệnh Truyền Giáo 21 lần. Tuy bản dịch tiếng Việt của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X (Đà Lạt, 1970) dịch là “truyền bá Phúc Âm” nhưng cũng đã thấy có vài nơi sử dụng thuật từ “Phúc Âm hoá” (tr. 348, 796).
[8]xem Tông huấn EVANGELII NUNTIANDI, số 18.
[9]Nguyên vị tiềm tàng là những yếu tố gốc Hán có ý nghĩa phản ánh gián tiếp hiện thực. Theo cách nói của Gs. Hồ Lê: CẤU TẠO TỪ TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI, Nxb KHXH, TP.HCM, 2003, tr.154.
[10]Sáu quy tắc tạo nên chữ Hán gọi là Lục thư: (1) Tượng hình. (2) Chỉ sự. (3) Hội ý. (4) Hình thinh. (5) Chuyển chú. (6) Giả tá.
[11]Bài Giảng Chúa Nhật, tháng 3/2006, Bài “Phúc Âm và Tin Mừng”, tr. 93.
[12]Nếu đặt vấn đề: Đối với người lương thì sao? – Thưa, thì phải tìm hiểu mới biết được. Vì đã là thuật từ thì dù thuộc ngành nào, bộ môn nào, thì cũng phải “học nhi tri chi”. Tương tự như các thuật từ “Mẹ Thiên Chúa” hay “bất khả ngộ” .v.v…
[13]Lm. Vũ Kim Chính, SJ., TỰ ÐIỂN THẦN HỌC TÍN LÝ ANH VIỆT, Đài loan, 1999.
[14]Neo-Evangelism: Một phong trào có từ năm 1940, phát nguồn từ Phái Phúc Âm (Evangelicals: Phong trào Tin Lành), với các đặc điểm là tập trung vào nỗ lực truyền bá Phúc Âm, trải nghiệm qui đạo, lời chứng về đức tin cá nhân, và có quan điểm truyền thống về Thánh Kinh. Phái này tin rằng Phúc Âm cần phải được tái khẳng định và tái công bố trong một cung cách mới. Vì vậy, xuất hiện thuật ngữ Neo – mới hoặc được làm cho mới. Danh xưng Neo-Evangelism do Harold Ockenga đặt ra năm 1947, mà anh em Tin Lành Việt Nam dịch là “Phong trào Tin Lành Hiện đại”, để phân biệt với giáo phái Căn Bản (Fundamentalists: Phong trào Nền Tảng) mới được hình thành vào đầu thế kỷ 20. Ngày nay, với ảnh hưởng rộng lớn trong cộng đồng Tin Lành, Phái Tân Phúc Âm được xem là đồng nghĩa với Phái Phúc Âm, đại diện cho những Kitô hữu liên kết đức tin của mình với các giá trị truyền thống của Giáo Hội tiên khởi.
[15]Đề cương (Lineamenta) của THĐGM Lần thứ XIII, số 10.
[16]Archbishop Rino Fisichella: THE NEW EVANGELIZATION- RESPONDING TO THE CHALLENGE OF INDIFFERENCE, Gracewing Publishing, 2012.
[17]Xem bài của Đức Ông Giuse Đinh Đức Đạo (tr. 29-51) và Lm. Giuse Phan Tấn Thành (tr. 52-79) trong Hiệp Thông, Số 73, tháng 11&12 năm 2012.
[18]John Paul II, Address to CELAM (Opening Address of the Sixth General Assembly of CELAM, 9 March 1983, Port-au-Prince, Haiti), L’Osservatore Romano English Edition 16/780 (18 April 1983), no. 9.
[19]Insegnamenti di Giovanni Paolo II, VI, 1 (1983), Editrice Vaticana, 1983, p.698.
[20]Lm. G. Trần Đức Anh, OP. : SỨ ĐIỆP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC lần thứ XIII Gởi CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA (http://gpbanmethuot.vn); ĐTC MỜI GỌI CÁC TÍN HỮU TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG (http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20111017/12964) hay VAI TRÒ CỦA BÍ TÍCH HOÀ GIẢI TRONG VIỆC TÁI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG (http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20120310/15017); đối chiếu với: POPE: CONFESSION A KEY PART OF EVANGELIZATION (http://www.zenit.org/article-34434?l=english)
[21]Lm. Px. Nguyễn Hùng Oánh: TÂN PHÚC ÂM HOÁ: CÁCH NÓI NGUY HẠI CHO ĐỨC TIN??? (http://titocovn.com/article/20121208/36320)
[22]Lm. Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, TÂN PHÚC ÂM HOÁ , xem: http://www.thoidiemmaria.net/TDM2010/MucVuTruyenGiao/TanPhucAmHoa.htm
[23]Sr, Therese Tran, MTG-DL: CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG MỚI – XÂY DỰNG NỀN VĂN MINH TÌNH THƯƠNG, xem: http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/PhucAmHoa/GiaoHoiAChau/TaiLi… FX. Trần Kim Ngọc, OP.: LOAN BÁO TIN MỪNG? xem: http://www.daminhvn.net/trang-chu/3050-suc-manh-nao-de-loan-bao-tin-mung…
[24]Archbishop Rino Fisichella, http://americamagazine.org/issue/100/new-evangelization.
[25]Msgr. Manny Gabriel: THE PURSUIT OF THE BEC DIRECTION IN THE ARCHDIOCESE OF MANILA: IN SEARCH OF SHARED FRAMEWORK: "New Evangelization" is not just "renewed evangelization", or "integral evangelization" or both "renewed, integral evangelization". (Xem: http://frpicx.tripod.com/refl-gabriel.htm)
[26]Hoàng Xuân Hãn, DANH TỪ KHOA HỌC, Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1948.

 

Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

 

Nguồn: UB. Giáo Lý Đức Tin – HĐGMVN

 

 

 

 

Đức Thánh Cha Rửa Tội Cho 20 Trẻ Em – Cuộc Sống Mới Trong Tình Yêu Thiên Chúa

Đức Thánh Cha Rửa Tội Cho 20 Trẻ Em – Cuộc Sống Mới Trong Tình Yêu Thiên Chúa

Rửa tội 20 trẻ em trong ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa

VATICAN. Sáng Chúa Nhật 13 tháng 01-2013, trong thánh lễ Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, ĐTC Biển Đức 16 đã ban phép Rửa tội cho 20 trẻ em và sau đó ngài chủ sự kinh Truyền Tin như thường lệ.
Cũng như những năm trước, trong Thánh Lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa, ĐTC ban phép rửa tội cho các em bé tại nhà nguyện Sistina ở dinh Tông Tòa. Năm nay có tất cả 20 trẻ em được lãnh Phép Rửa Tội, tất cả các em là con cái của các nhân viên giáo dân làm việc tại Vatican. Sau lời chào phụng vụ và nhắn nhủ, ĐTC và các cha mẹ cùng với những người đỡ đầu lần lượt ghi dấu Thánh Giá trên trán của các hài nhi.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC dành nhiều thời gian để chia sẻ về ý nghĩa của việc Đức Giê-su chịu phép rửa, sau đó ngài cũng nhắc nhở các cha mẹ và những người đỡ đầu về trách nhiệm giáo dục con cái:

Ngài nói: “Bài Tin Mừng tường thuật biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa chỉ cho chúng ta con đường khiêm hạ mà con Thiên Chúa đã chọn lựa để hoàn tất kế hoạch của Chúa Cha, để vâng phục thánh ý Cha và yêu thương con người trong mọi sự, thậm chí cho đến chết trên thập giá. Khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai của mình khi đến dòng sông Giordan để xin Gioan chịu phép rửa để tỏ lòng ăn năn và sám hối. Điều diễn ra trước mắt chúng ta dường như là một nghịch lý. Đức Giê-su mà cũng cần hoán cải sao? Chắc chắn là không. Thế nhưng, chính Đấng vô tội đã đồng hành với các tội nhân để được chịu phép rửa, để thực hiện hành vi sám hối. Đấng Thánh của Thiên Chúa đã gia nhập đoàn lũ những người nhận thấy mình cần đón nhận ơn tha thứ và xin Thiên Chúa món quà hoán cải, nghĩa là ân sủng để quay lại với Ngài với trọn vẹn con tim để hoàn toàn thuộc về Ngài. Đức Giê-su muốn đứng về phía các tội nhân, liên đới với họ, như là một sự diễn tả gần gũi của Thiên Chúa. Đức Giê-su đã liên đới với chúng ta, với khao khát đổi đời nơi chúng ta để xóa tan đi nỗi ích kỷ nơi ta và giúp ta ra khỏi xiềng xích của tội và nói cho chúng ta biết rằng nếu chúng ta đón nhận Ngài vào đời sống của mình, Ngài sẽ nâng chúng ta lên và đưa về cùng với Chúa Cha. Và sự liên đới của Đức Giê-su thì không chỉ dừng lại ở tâm trí và ý muốn. Đức Giê-su đã thực sự dìm mình vào trong điều kiện của con người, Ngài đã sống trọn kiếp người ngoại trừ tội lỗi và do đó Ngài hiểu được những yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Do đó, Ngài cảm thấy chạnh lòng thương trước nỗi thống khổ của con người, Ngài cùng chịu đau khổ với họ, và đồng thời Ngài cũng kiên nhẫn với những yếu đuối của họ.”

Nhắn nhủ với bậc cha mẹ, Đức Thánh Cha nói rằng: “Anh chị em là những bậc làm cha mẹ, anh chị em phải diễn tả và làm chứng cho đức tin của mình, cho niềm vui được trở thành Ki-ô hữu và thuộc về Giáo hội. Đó là một niềm vui, vì việc đón nhận đức tin là một món quà từ Thiên Chúa, món quà đức tin hoàn toàn không do công trạng của chúng ta, nhưng chúng ta được trao ban một cách nhưng không và chúng ta đáp trả với tiếng xin vâng. Đó là một niềm vui, vì khi trở thành con cái Thiên Chúa, chúng ta trở nên con cái của Ngài, chúng ta tin tưởng vào Ngài và cảm thấy ấm áp trong vòng tay yêu thương của Ngài như một người con cảm nhận được tình yêu thương của người mẹ dành cho mình. Niềm vui này dựa vào mối tương quan cá vị với Đức ki-tô vốn có khả năng hướng dẫn toàn bộ đời sống con người.”

Tiếp đến Ngài nhắn nhủ với các cha mẹ đỡ đầu, Ngài mong rằng khi đồng hành với các em, họ sẽ là những người chuyển giao chân lý đức tin và làm chứng cho Tin Mừng. Ngài nói: “Các bậc cha mẹ đỡ đầu thân mến, anh chị em có một nhiệm vụ hết sức quan trọng là cùng với cha mẹ các em đồng hành trong việc chuyển giao chân lý đức tin và làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, trong việc nuôi dưỡng các em này lớn lên trong tình bạn với Thiên Chúa. Ước mong anh chị em sẽ trao cho các em những mẫu gương sống động ngang qua việc sống các nhân đức Kitô giáo. Ngày nay, điều đó không dễ, vì trong xã hội chúng ta đang sống, những người tin tưởng vào Đức Giê-su thường bị xem là lỗi thời và lạc hậu. Thậm chí, trong số các Kitô hữu, nhiều người cũng nghĩ rằng, việc theo Đức Kitô là một điều gì đó giới hạn sự tự do nơi con người. Chúng ta thì không vậy, chúng ta hiểu rằng Tình yêu Thiên Chúa giúp chúng ta tự do khỏi sự ích kỷ, chỉ biết quay vào mình, để dẫn chúng ta đến một đời sống trọn vẹn, thông hiệp với Thiên Chúa và mở ra cho người khác. Vì “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16).

Kinh Truyền Tin

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ 35 và sau đó, đúng 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã trình đi sâu vào giải thích ý nghĩa của việc Đức Giê-su chịu phép rửa. Ngài nói như sau:

“Với thánh lễ Chúa Nhật sau lễ Hiển Linh, thời gian phụng vụ Mùa Giáng Sinh đã kết thúc: thời gian của ánh sáng, ánh sáng của Đức Kitô chiếu dọi vào con người, vào chân trời của nhân loại, đã xua đi bóng đêm của sự dữ và ngu muội. Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giê-su chịu Phép Rửa: Hài Nhi, con của Trinh Nữ, Đấng mà chúng ta đã chiêm ngắm trong mầu nhiệm sinh hạ, hôm nay chúng ta thấy Ngài đã trưởng thành và đang dìm mình vào dòng nước trên dòng sông Giordan và thánh hóa mọi nguồn nước và toàn thể vũ trụ. Nhưng tại sao Đức Giê-su, Đấng không hề vương một dấu vết của tội là phải chịu phép rửa của ông Gioan? Tại sao Ngài muốn thực hiện hành vi sám hối cùng với những con người muốn chuẩn bị để chờ đón Đấng Mê-si-a? Hành vi này chính là con đường của Nhập thể, của việc Thiên Chúa hạ mình từ nơi cao nhất tới vực thẳm của âm ti. Ý nghĩa của việc hạ mình của Thiên Chúa chỉ có thể được tổng hợp nơi một từ: Tình yêu, nghĩa là chính Danh Thánh của Thiên Chúa. Thánh Gioan tông đồ đã viết: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” và Ngài đã sai con của Ngài “đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta” (1 Ga 4,9-10). Đây là lý do giải thích tại sao hành vi đầu tiên trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su là đón nhận phép rửa của ông Gioan, người mà khi nhìn thấy Ngài đã nói: “Ðây là Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).

Tác giả Tin Mừng Luca thuật lại rằng, khi Đức Giê-su chịu phép rửa, “đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,21-22). Đức Giê-su chính là con Thiên Chúa và đã hoàn toàn dìm mình vào ý muốn yêu thương của Cha. Ngài chính là Đấng chịu chết trên thập giá và phục sinh nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đấng mà giờ đây đang ngự xuống trên Ngài và thánh hóa Ngài. Ngài chính là một con người mới, một con người muốn sống với tư cách là con cái Thiên Chúa, nghĩa là sống trong tình yêu; người mà, đứng trước sự dữ của thế gian, đã chọn con đường khiêm hạ và trách nhiệm, không chọn để cứu chính mình nhưng là để trao ban mạng sống mình cho chân lý và công bình. Trở nên người Ki-tô hữu nghĩa là sống như Ngài, nhưng cách sống này đòi hỏi một cuộc tái sinh từ bên trên, từ Thiên Chúa và ân sủng. Cuộc tái sinh này chính là Bí Tích Rửa Tội, một món quà mà Đức Giê-su đã trao ban cho Giáo hội để trao tặng cho con người một sự sống mới.”

Cuối bài huấn từ, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người cùng cầu nguyện cho những em bé mới được rửa tội. Ngài cũng ban phép lành cho các em. Và ngài nhắc nhở rằng, trong Năm Đức Tin này, chúng ta cần khám phá vẻ đẹp của việc được tái sinh từ trên cao, từ tình yêu của Thiên Chúa để chúng ta có thể sống như những người con đích thực.

Ngài cũng nhắc nhở rằng, hôm nay chúng ta cử hành ngày Thế Giới Di Dân và Tị Nạn, với chủ đề: “Cuộc lữ hành của đức tin và hy vọng”. “Thật vậy, những người di dân là những người đã rời bỏ chính quê hương của mình vì hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, họ dám ra đi cũng bởi vì họ tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng luôn hướng dẫn con người trên hành trình của mình như gương của Abraham. Vì thế, những người di dân là những người thông truyền đức tin và hy vọng cho thế giới. Tôi muốn gửi lời chúc lành tới từng người, đặc biệt là phép lành và lời cầu nguyện đặc biệt của tôi. Tôi đặc biệt gửi lời chúc mừng tới cộng đoàn Công Giáo của những người di dân ở Roma.”

Đức Thánh Cha cũng gửi lời chào tới các khách hành hương bằng tiếng Anh, Pháp, Đức, Ba Lan và Ý. Và sau cùng, ngài ban phép lành tòa thánh cho toàn thể mọi người hiện diện.

Nguyễn Minh Triệu sj – Vietvatican
 

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Hiến Binh Vatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn Hiến Binh Vatican

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 200 Hiến binh và lính cứu hỏa Vatican chiều ngày 11 tháng 1-2012, ĐTC mời gọi họ hãy nhận ra nơi mỗi tín hữu hành hương người anh em của mình.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Quốc vụ khanh Bertone, ĐHY Giuseppe Bertello, Chủ tịch Phủ Thống Đốc thành Vatican và các vị lãnh đạo khác.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nồng nhiệt cám ơn sự cộng tác và phục vụ của các Hiến binh Vatican, đồng thời ngài nhắn nhủ rằng “Trong mỗi tín hữu hành hương hoặc du khách, anh em hãy biết nhìn thấy khuôn mặt của một người anh em mà Chúa đặt trên đường của anh em, vì thế, hãy tiếp đón họ một cách nhã nhặn và giúp đỡ họ, cảm thấy họ là thành phần của đại gia đình nhân loại. Như tôi đã viết trong Sứ điệp mới đây nhân Ngày Hòa bình thế giới: ”Việc thực hiện hòa bình tùy thuộc trước tiên nơi sự nhìn nhậm một gia đình nhân loại duy nhất trong Thiên Chúa. Như Thông điệp Hòa bình dưới thế đã dạy, gia đình này được hình thành nhờ những quan hệ giữa con người và tổ chức với nhau, được nâng đỡ và linh hoạt nhờ cảm thức cộng đồng với nhau.. Hòa bình là một trật tự được tình yêu làm cho sinh động và hội nhập, đến độ cảm thấy những nhu cầu và đòi hỏi của tha nhân cũng là của mình” (n.3).

Sau cùng, ĐTC cũng nhắn nhủ các Hiến binh và lính cứu hỏa Vatican tăng cường đời sống thiêng liêng cũng như dấn thân đào sâu đời sống đức tin Kitô, can đảm làm chứng đức tin trong mọi môi trường qua cuộc sống phù hợp với niềm tin.

Trước khi bắt đầu buổi tiếp kiến đặc biệt này, Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết, qua đó ĐTC muốn khích lệ và bày tỏ lòng biết ơn của ngài đối với Đoàn Hiến Binh Vatican, sau một thời kỳ Đoàn này đã phải đáp ứng những ”thách đố đặc biệt khó khăn”.

Đoàn Hiến Binh Vatican hiện nay có 130 nhân viên, dưới sự hướng dẫn của Ông Domenico Gianni. Cùng với các sĩ quan vệ binh Thụy Sĩ, ông là trưởng nhóm Hiến Binh cận vệ của ĐTC.

Đoàn Hiến Binh Vatican hiện nay đảm nhận các chức năng như: công an, giữ trận tự công cộng, bảo vệ biên giới, cảnh sát tư pháp và cảnh sát lưu thông. (SD 11-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

Mật tuyển viện sắp tới có gì mới mẻ?

Mật tuyển viện sắp tới có gì mới mẻ?

Có chắc là vị Giáo Hoàng kế tiếp sẽ là người châu Âu?

Đức Giáo Hoàng Benedict XVI sẽ bước sang tuổi 86 vào ngày 16 tháng 4 tới, trở thành vị giáo hoàng thứ ba cao tuổi nhất trong 600 năm qua.

Như thường lệ, đã có các đồn đoán xôn xao về ai trong số những ứng cử viên Hồng Y nặng ký sẽ kế vị ngài.

Đức cố Giáo Hoàng Clement XII (1730-1740) qua đời ở tuổi 87, trong khi Đức cố Giáo Hoàng Leo XIII (1875-1903) sống đến 93 tuổi – mặc dầu những ghi chép trước đây về tuổi của các giáo hoàng có khuynh hướng không chính xác hoàn toàn.

Sức khỏe tổng thể của Đức Benedict XVI có vẻ tốt nhưng ngài đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu mệt mỏi và suy yếu. Và dường như có bằng chứng cho thấy chính ngài đang chuẩn bị cho người kế vị.

Năm ngoái ngài đã bổ nhiệm 27 hồng y mới, đưa số Hồng y đoàn lên con số tối đa là 120.

Năm 1996, Đức Gioan Phaolô II đã sửa luật bầu giáo hoàng cân nhắc việc tính số phiếu chiếm đa số đơn sau một ít tuần bế tắc. Trước đây, việc bỏ phiếu sẽ phải tiếp tục cho đến khi một ứng cử viên nhận được đa số phiếu là 2/3 cộng 1.

Người ta nói rằng khi đó Đức Hồng y Ratzinger đã đạt được số phiếu đa số đơn rất sớm trong cuộc bỏ phiếu mà cuối cùng ngài được chọn làm Giáo Hoàng và rằng một số Hồng Y đã ủng hộ thêm để tránh mật tuyển viện kéo dài thêm.

Điều này có thể không xảy ra trong mật tuyển viện bầu giáo hoàng tiếp theo. Không lâu sau khi được chọn, Đức Benedict XVI đã thay đổi luật để quay trở về với phương thức truyền thống. Vì vậy, người kế vị ngài có thể sẽ là người phải có được sự ủng hộ của đa số chứ không phải của một người đến từ một phe nhóm nào đó.

Một vài người cho rằng vụ Vatileaks là một phản ứng mạnh chống lại vị hồng y chuyên quyền và bảo thủ người Ý, Hồng y Bertone và là một cách xác định một ứng viên thủ cựu cho vị trí giáo hoàng kế tiếp.

Mật tuyển viện tiếp theo sẽ bao gồm một nhóm hồng y quan trọng với kinh nghiệm làm việc lâu năm ở Giáo triều Rôma. Vị giáo hoàng kế tiếp sẽ cần đến sự hậu thuẫn của họ.

Ngoài ra, hơn một nửa Giáo triều là người châu Âu và đại đa số đã học ở Rôma hoặc một nơi nào khác ở châu Âu. Vì thế, vị giáo hoàng kế tiếp – cả khi không phải là người châu Âu – cũng có thể đã được “Âu hóa” nhiều.

Vả lại, bất cứ đối thủ nặng ký nào cho vị trí Giám mục Rôma đều cần phải thành thạo tiếng Ý.

Với một số lượng lớn người Ý đứng đầu các văn phòng của Vatican và nhiều tổng giáo phận Ý theo truyền thống được cai quản bởi các hồng y, các hồng y người Ý sẽ có được lượng phiếu bầu mạnh mẽ tại mật nghị hồng y tới.

Thực tế, ngay cả sau khi phong sáu hồng y mới nhất, các hồng y người Ý vẫn ở con số 28 Hồng Y cử tri, 20 trong số này do Đức Benedict XVI phong Hồng Y. Tuổi trung bình của các Hồng Y cử tri là trên 72.

Một trong hai vị người Ý đang dẫn đầu là Đức Hồng y Gianfranco Ravasi, 70 tuổi, người đã chỉ trích các linh mục về những bài giảng “nhàm chán” và “không thích hợp” của họ. Ngài trêu chọc và khuyến khích họ sử dụng mạng xã hội Twitter.

Là một cựu giáo sư và là học giả khảo cổ học, Đức Hồng y Ravasi được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa năm 2007. Ngài cho thấy một sự háo hức thật sự để Giáo hội tái tham gia vào nghệ thuật đương đại trong một cách thức có ý nghĩa

Đức Hồng y Ravasi nói rằng ngài muốn đề xướng một cuộc “đối thoại”, không giáo huấn và chê bai, không thuyết giảng và luận chiến, nhưng là một cuộc đối thoại hai chiều dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. Ngài rất được mến mộ đến nỗi hiện tại có một danh sách chờ đợi hai năm để được ngài xác nhận với tư cách là phát ngôn viên của hội đồng.

Người Ý thứ hai được đánh giá cao là Đức Hồng Y Angelo Scola, 71 tuổi, Tổng Giám mục Milan. Nhiều vị thánh và giáo hoàng từng đảm nhiệm chức tổng giám mục này như Thánh Ambrôsiô ở thế kỷ thứ tư và Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978).

Đức Hồng y Scola được cho là gần gũi với Đức Benedict XVI. Một trong những thành tựu lớn của ngài là đưa các học giả Kitô giáo và Hồi giáo ngồi lại với nhau nhằm nghĩ cách giải quyết tương lai của khu vực Địa trung hải.

Tỷ lệ của các cử tri châu Âu vượt 51%. Con số này rõ ràng tương phản với thực tế rằng, theo số liệu thống kê của Vatican, không tới 24% người Công giáo trên khắp thế giới sống ở châu Âu.

Trong số các vị người châu Âu nhưng không phải là người Ý, có Đức Hồng y Christoph Schönborn của giáo phận Vienna, 67 tuổi, thuộc dòng Đa Minh, có lẽ là ứng cử viên nặng ký hơn cả. Năm 1998, khi trở thành Hồng Y trẻ tuổi, ngài đã được xem là một trong những người sáng giá nhất của nhóm bảo thủ trong hồng y đoàn. Nhiều người tin rằng nếu được trao cho cơ hội, ngài sẽ thực hiện một khởi đầu mới.

Trong tất cả các công nghị, nhân vật then chốt là phúc trình viên hoặc tổng thư ký, người tổ chức công việc, giám sát việc chuẩn bị toàn bộ tài liệu và phân phát hai bài báo cáo chính trước và sau các cuộc thảo luận ở công nghị. Hai vị giáo hoàng liên tiếp gần đây nhất trước tiên đã nổi bật lên với vai trò là phúc trình viên của công nghị.

Đức Hồng y Karol Wojtyla của Balan đã đảm nhận công việc này ở công nghị năm 1974 về Phúc Âm hóa và Đức Hồng y Joseph Ratzinger của Đức cũng giữ vai trò đó trong công nghị năm 1980 về gia đình.

Tại công nghị tháng 10-2012 về Tân Phúc Âm hóa, phúc trình viên là Đức Hồng y Donald Wuerl, 72 tuổi, Tổng Giám mục Washington từ năm 2006. Trước đây ngài là giám mục phụ tá giáo phận Seattle (1986-1987) và giám mục giáo phận Pittsburgh (1988-2006). Ngài được Đức Benedict XVI phong lên Hồng Y.

Năm 2010, Đức Hồng y Wuerl ban hành thư mục vụ về Tân Phúc Âm hóa, để lại một ấn tượng rất tốt nơi Đức Giáo hoàng đương kim. Ngài có thể là ứng viên sáng giá vùng Bắc Mỹ cho chức giáo hoàng?

Hay sẽ là Đức Hồng y Canada gốc Pháp, Marc Ouellet, người đã trải qua 10 năm ở Colombia, sau đó trở về Canada trong chín năm trước khi sang Rôma năm 1997 để dạy tại Học viện Gioan Phaolô II về hôn nhân và gia đình? Ngài đứng đầu Bộ Giám mục ở Vatican từ năm 2010.

Châu Mỹ Latinh có hai ứng cử viên sáng giá. Một là Đức Hồng Y Odilo Pedro Scherer của giáo phận São Paulo, 64 tuổi, người có sức lôi cuốn vượt ra khỏi ranh giới địa lý. Ngài không những đứng đầu một giáo phận lớn nhất ở đất nước đông người Công giáo nhất thế giới từ năm 2007, mà ngài còn đạt được những bằng cấp ở Rôma.

Đức Hồng Y Brazil gốc Đức này đã đậu cử nhân và tiến sĩ thần học tại Đại học Greogria và sau đó làm việc tại Bộ Giám Mục một vài năm (1994-2001).

Hai là Đức Hồng Y Oscar Andrés Rodríguez Maradiaga của giáo phận Tegucigalpa, 70 tuổi, người được mô tả là Đức Gioan Phaolô II của châu Mỹ Latinh vì tính cách lôi cuốn, khả năng về ngôn ngữ và công việc của ngài trong việc thúc đẩy các giáo huấn xã hội của Giáo hội.

Đức Hồng Y người Honduras bản địa này – hiện đang là chủ tịch Caritas Quốc tế –  đã được “Ý hóa” rất sớm bởi chương trình đào tạo trong dòng Salesian ở Rôma và Turin. Ngài được phong Hồng Y năm 2001. Tuy nhiên, ngài đã làm lu mờ danh tiếng của mình do ban đầu ủng hộ cuộc đảo chính quân sự năm 2009 ở Honduras.

Đức Hồng Y châu Phi Peter Turkson, 64 tuổi, chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về công lý và hòa bình, là người dẫn đầu trong các quốc gia châu Phi. Sinh ra ở Ghana trong một gia đình có cha mẹ là người Công giáo trở lại từ Tin Lành Methodist, ngài là một trong số ít những người châu Phi đã thực hiện các nghiên cứu tiến sĩ tại Giáo Hoàng Học viện Kinh Thánh ở Rôma.

Ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Cape Coast năm 1992 và làm hồng y năm 2003.

Đức Hồng y Turkson dường như đã thu nhỏ các cơ hội của mình do trong công nghị Tân Phúc Âm hóa, ngài đã trình chiếu một đoạn video chống Hồi giáo và đã bị các giám mục từ một số nơi trên thế giới chỉ trích vì gây hoang mang và không chính xác.

Ít được biết tới hơn nhưng vẫn có thể là ứng cử viên của châu Phi là Đức Hồng Y Laurent Monsengwo Pasinya của giáo phân Kinshasa, nước Cộng hòa Dân chủ Congo, một tiếng nói lâu năm của Công giáo châu Phi, và Đức Hồng y Robert Sarah của Guinea, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum.

Các cử tri châu Á chiếm 9%. Tỷ lệ người Công giáo ở châu Á là trên 10% trong tổng số người Công giáo trên khắp thế giới. Ứng cử viên châu Á duy nhất được đánh giá có thể ứng cử cho chức Giáo Hoàng là Đức Hồng y Luis Tagle của Tổng giáo phận Manila, Philippines, 55 tuổi, người mới được phong Hồng Y.

Cổ ngữ có câu: “Người nào bước vào như giáo hoàng thì đi ra như hồng y”, có nghĩa là người được ưa chuộng không phải là người luôn chiến thắng. Chúa Thánh Thần có thể cho nổi lên một ứng viên bất ngờ cho chức giáo hoàng trong mật nghị hồng y tới.

Linh mục Desmond de Souza thuộc dòng Chúa Cứu Thế trước đây là thư ký điều hành của Văn phòng Phúc Âm hóa của Liên Hội đồng Giám mục Á châu. Ngài có liên hệ chặt chẽ với các Giáo hội ở châu Á từ năm 1980 – 2000. Giờ ngài đang ở Goa.

UCANEWS VietNam

Kinh Lạy Cha

Lạy Cha chúng con ở trên trời,
chúng con nguyện danh Cha cả sáng,
nước Cha trị đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày
và tha nợ chúng con
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
Amen
KinhLayCha-Simplified

 KinhLayCha


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Matthew 6:9-13 and Luke 11:2-4.

  2. Catholic Planet, Our Father, http://www.catholicplanet.com/catholic/our.htm

  3. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Tự Điển Công Giáo, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2004

  4. Wikipedia, Kinh Lạy Cha, http://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_L%E1%BA%A1y_Cha

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 01-07 đến 01-13-2013)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
       (Từ 01-07 đến 01-13-2013)

Trích từ XBVN

  • Sự trở về Israel của chi tộc bị trục xuất ứng nghiệm lời tiên tri?

  • Tái khởi động cuộc vận động ‘hoàn trả’ các thánh tích của Thánh Nicolas.

  • Các nhà hoạt động “ủng hộ phá thai” (pro-Choice) đang thua trận.

  • Tập san Dòng Tên: Vatican II không phải là một sự gián đoạn triệt để.

  • Giáo Hội nước Anh [Anh giáo] phán quyết các GM có thể có quan hệ đồng tính.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • GM Fellay điểm mặt “những kẻ thù của Giáo Hội”.

  • Đức Thánh Cha đối với các khủng hoảng nhân đạo trên thế giới.

  • Phá thai : một điều cấm kỵ đặt ra vần đề.

  • Nhà dịch thuật – TỔNG LUẬN THẨN HỌC – nói dự án 52 năm dễ hơn ta tưởng.

  • Thông điệp ghi hình của Đức Biển Đức XVI gửi Giáo Hội tử vì đạo Cam-Bốt.

  • Một nhà chính trị : Giám Mục người Tây Ban Nha nên bị “khoá miệng”.

  • Bắc Kinh loan báo chấm dứt các trại lao động cưỡng bức.

  • Chủng viện Anh từ chối thỉnh cầu về Thánh Lễ tiếng La-tinh truyền thống.

  • Các Kitô hữu Châu Phi đang đối mặt với lán sóng bách hại khổng lồ.

  • Các lãnh đạo CHA vẫn hy vọng vào   sự điều chỉnh” sắc lệnh HHS.

  • “Tín hữu Công Giáo và Trầm Cảm”.

  • Nhà thờ lớn quốc gia [Anh giáo Mỹ và Canada] cử hành hôn lễ đồng tính.

  • Đức Thánh Cha tiếp Hoàng thân Albert II Monaco ngày 12 tháng 01.

  • Lãnh đạo Công Giáo Côp (Cope) chỉ trích tân hiến pháp Ai Cập.

  • Ủng hộ mạnh mẽ việc hạn chế nạo phá thai ở Hoa Kỳ.

  • Đức Gioan-Phaolô II sẽ được tôn phong hiển thánh năm nay?.

  • Một số Kitô hữu Ấn-Độ bị từ chối nước, trừ phi trở lại Ấn giáo.

  • Các nhà lãnh đạo Giáo Hội phải chiến đấu chống lại thuyết tương đối.

  • Hàng trăm ngàn người tràn ngập Paris để ủng hộ hôn nhân.

  • Báo cáo của những người tham quan làm dậy lên những căng thẳng ở Thánh Địa.

(Xin xem chi tiết . . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ 01-07 đến 01-13-2013 )

Suy Niệm Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa – NƯỚC THANH TẨY & THÁNH HOÁ (Lc 3:15-16.21-22)

Suy Niệm Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa – NƯỚC THANH TẨY & THÁNH HOÁ (Lc 3:15-16.21-22)

Cách đây hai năm, ngày 13 tháng 01/2011, cả thế giới bàng hoàng khi nghe tin: một trận mưa bão lớn suốt ba tuần, đã làm ngập lụt khắp thành phố Brisbane, thủ phủ tiểu bang Queensland, nước Úc. Sau đó hai tháng, ngày 11 tháng 3/2011, một trận động đất lớn ngoài biển kéo theo cơn sóng thần tàn phá nhiều thành phố miền Đông Bắc thủ đô Tokyo, Nhật Bản. Muôn người ngỡ ngàng và khiếp sợ khi xem được những hình ảnh các thành phố này bị chìm trong biển nước. “Thủy Thần” nổi giận kinh hồn.

Được biết, trận mưa bão lâu ngày khiến nước dâng cao ở thành phố Brisbane là hiện tượng hiếm thấy xưa nay tại Úc Đại Lợi: nhiều xóm làng cũng như hoa mầu nông trại tại tiểu bang Queensland bị ngập úng, đường xá trong thành phố bó buộc phải đóng lại, một số khu vực bị cúp điện làm tê liệt sinh hoạt vì mực nước quá cao. Trận lũ lụt gây thiệt hại hàng tỷ đô la vì kinh tế vùng Queensland chủ yếu dựa vào than đá, khoáng sản, nông nghiệp. Tất nhiên, nó ảnh hưởng đến ngành công nhiệp sản xuất thép ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Hoa. Các cơ xưởng bị đình trệ vì họ thường xuyên nhập khẩu than đá, nguyên liệu cần thiết cho việc luyện thép, chủ yếu từ Úc. Nước Lụt nguy hiểm biết bao! 

Trong khi ấy, trận động đất mạnh 8.9 richter đã gây ra nhiều cơn sóng lừng cao tới 10 mét đập ầm ầm vào bờ biển phía Đông Nhật Bản, khiến 10,000 người mất tích. Đài truyền hình quốc gia phát đi hình ảnh những ngôi nhà bị sóng thần cuốn trôi, đường băng phi trường Sendai ngập nước trong khi cả chục người phải đứng trên nóc các toà nhà chờ cấp cứu. Nhiều vụ hoả hoạn xảy ra, hệ thống tàu điện ngầm ngưng hoạt động, tiếng còi hú xe cứu thương chạy khắp nơi. Cảnh tượng được mô tả là ghê rợn, vì sức tàn phá quá nặng nề. Có người sánh ví: tưởng chừng không có thảm cảnh nào kinh khủng hơn.
 
Thật xót xa cho những thiệt hại nặng nề từ những trận mưa to, gió lớn. Nước như cơn đại hồng thủy, tàn phá mọi hoa màu, nhà cửa, ruộng vườn, nhân mạng. Ta nhận thấy mãnh lực của Nước thật đa dạng:
  • giúp duy trì sự sống con người, cung ứng điều hoà thân nhiệt, giúp thanh tẩy mọi vật nên sạch mới, tươi mát, là đường giao thông nối liền các đại lục.
  • Nhưng đôi khi qua thảm hoạ thiên nhiên, Nước có thể hủy diệt mọi vườn tược cây cối, gây thiệt hại các công trình xây dựng, làm ngưng đọng mọi sinh hoạt thường lệ.
Hôm nay, Chúa Giêsu đến nhận Phép Rửa của Thánh Gioan tại dòng sông Giođan.
  • Dân chúng trước đó, ai nấy đều nghe lời Gioan rao giảng, đã lũ lượt đến xin Gioan làm phép Rửa thanh tẩy với lòng sám hối.
  • Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, sống như con người ngoại trừ tội lỗi. Đấng thanh khiết, vô tội hoàn toàn, “không cần phải hoán cải, cũng chẳng cần được Gioan làm phép Rửa cho, nhưng vì Người là Đấng Cứu Tinh, nên Người muốn hoà đồng với các anh em tội lỗi của mình là những kẻ đang đi tìm ơn tha thứ” (Lời Chúa cho mọi người, trang 1732).
Trong dòng nước Giodan, Thánh Gioan Tẩy Giả giúp thanh tẩy tâm hồn hối nhân nên sạch mới.  Trong nước thánh tinh tuyền, trong lửa và Thánh Thần, Giáo Hội giúp thánh hoá tội nhân trở thành tạo vật mới, được tái sinh làm con Chúa, nên phần tử sống động của Hội Thánh giữa thế trần.
 
A. Giá trị thực hữu của Nước.
 
Nhìn bản đồ thế giới, ta thấy trái đất này được bao quanh bởi Nước chiếm ¾, chỉ còn ¼ là đất liền. Mọi tạo vật sống nhờ Nước: từ hoa lá cỏ cây, thực vật đến các loài động vật, sinh vật.
  • Các nông gia phải khai mương, đào kênh, dẫn thủy nhập điền…giúp ruộng đồng tươi tốt.
  • Các nhà trồng trọt phải tưới nước, cho cành lá đơm nụ nở bông, cho cây xanh sinh hoa kết trái.
  • Các trang trại phải xây đập, điều hoà lưu lượng nước, tạo mùa màng không hạn hán, ngập úng.
  • Nước Trung Hoa đã thiết lập nhà máy thủy điện lớn bên dòng sông Dương Tử, cũng như Việt Nam sau 1975, đã xây dựng nhà máy thủy điện Trị An từ nguồn nước sông Đồng Nai.
Rõ ràng, Nước luôn là một nhu cầu thiết yếu cho đời sống con người. Người ta có thể tuyệt thực lâu ngày không ăn không chết sớm, nhưng họ không thể nhịn khát lâu giờ: thiếu nước, họ sẽ từ giã cõi đời nhanh hơn.
  • Khách lữ hành đi trong sa mạc, nắng cháy da người, Nước giúp họ đủ sức vượt đường dài.
  • Tháng chay Ramadan, người Hồi Giáo nhịn ăn từ sáng đến chiều, nhưng không thể nhịn uống.
  • Cha Maximilien Kolbe bị quân Phát xít Đức bỏ đói nhiều ngày trong ngục, vẫn sống . Mỗi ngày, Ngài sống nhờ những giọt nước uống cầm sức. Đến ngày thứ 14, Cha bị tiêm thuốc độc mà chết.
B. Công dụng đa năng của Nước.
 
Con người dùng Nước với nhiều mục đích khác nhau: thanh tẩy, hủy diệt, chữa lành, tăng trưởng.
  1. Thanh Tẩy nên mới:
  • Nước bột giặt giúp làm sạch quần áo, nước xà bông rửa chén giúp chén dĩa nên mới.
  • Nước thiên nhiên giúp tắm rửa hàng ngày khỏi bụi bặm, giúp rửa xe cộ khỏi dơ bẩn.
  1. Hủy Diệt ngăn ngừa:
  • Nhiều người chữa cháy đã dùng Nước dập tắt mọi lây lan của ngọn lửa.
  • Cảnh sát dùng Vòi Nước mạnh, để xua tan, giải tán dòng người biểu tình chống đối.
  1. Chữa Lành phục hồi:
  • Tài xế ngừng lại, tiếp Nước vào xe, để làm nguội động cơ đang cao nhiệt.
  • Nhà bếp cho thêm Nước vào nồi canh, để làm nhạt, giảm độ mặn món ăn.
  • Khách đi đường xa bị rát họng khô cổ, uống Nước vào thấy mát rượi, dễ chịu.
  1. Tăng Trưởng vươn cao:
  • Nhà vườn tưới Nước cho rau xanh, cây non…phát triển tươi tốt mỗi ngày.
  • Mùa khô, chủ nhà mở vòi Nước xịt tứ phương, giúp cây cỏ thổ cư xinh tươi, không úa tàn.
Các tôn giáo dùng Nước để chúc lành, thánh hoá.
  • Cử hành bí tích Rửa Tội, thừa tác viên đổ Nước trên đầu, giúp thụ nhân được sạch Nguyên Tội, thánh  hoá thụ nhân thành con Chúa và Hội Thánh.
  • Linh mục rảy nước thánh, làm phép Nhà, phép Tàu, phép Tiệm…xin Chúa chúc lành, bảo vệ, che chở cho mọi sự tốt đẹp.
  • Người Ấn Giáo tắm nước ở dòng sông Hằng, tẩy xoá tội lỗi, cầu mong ơn phúc…
C. Nước thanh tẩy và nước thánh hoá trong Kitô Giáo.
  1. Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa tại bờ sông Giođan (Lc 3:7):
    + toàn dân đến nghe lời Gioan rao giảng và mời gọi sám hối.
    + họ quyết tâm cải thiện và canh tân đời sống thăng hoa.
    + mỗi người đón nhận phép Rửa bằng Nước, thanh tẩy mọi tỳ ố với lòng ăn năn, từ bỏ sự xấu.
  1. Đức Giêsu Kitô thánh hoá kitô hữu trong Thánh Thần và trong Nước (Ga 3:5):
    + hủy diệt vết nhơ Nguyên Tội hằng lưu truyền.
    + Thần Khí thánh hoá nên tạo vật mới: làm con Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha (Rm 8:15).
    + nhận Ơn Thánh từ trời ban tặng: sống thực hành kính Chúa hết lòng và yêu mến anh em như chính bản thân mình. 
Thánh Giám Mục Mác-xi-mô nói: “Đức Kitô chịu phép Rửa không phải để được nước thánh hoá nhưng là để chính Người thánh hoá nước và dùng sự thanh sạch Người mà thanh tẩy dòng nước”.
 
D.  Dìm mình trong Nước luôn mãi, để nên Sạch và Mới từng ngày.
 
Khi nhận bí tích Thánh Tẩy trong nước và Thánh Thần, thụ nhân được goi là kitô hữu.  Hiểu theo Nho ngữ, “kitô hữu” là người có Chúa Kitô ở trong mình.  Bởi thế, ta phải cố gắng “sống Thánh giữa Đời”, hầu xứng danh ‘kitô hữu”, người thuộc về Chúa Kitô.
  • Năng lãnh nhận nguồn ân sủng trong các Bí Tích: có Chúa đồng hành với ta mỗi ngày.
  • Kín múc mãi Lời Hằng Sống trong Kinh Thánh, trong Giáo Lý Công Giáo, trong giáo huấn Giáo
     Hội giảng dạy, trong Giáo Luật: có Thánh Ý Chúa hướng dẫn ta sống Đạo tốt lành.
  • Tắm Rửa thường xuyên trong Kinh Nguyện, Lễ Dâng: phương thế hiệp thông Chúa luôn luôn.
  • Thanh Tẩy từng đêm trong Xét Mình cá nhân, “nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân”: giúp nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (Mt 5:48).
Có một thiếu phụ khô khan nguội lạnh, yếu lòng tin. Gặp đau khổ trong cuộc sống, bà luôn bi quan nghĩ rằng: Chúa đã quên lãng, bỏ rơi bà. Một hôm, bà bế con thơ đến gặp mục sư Collins, xin ông cầu nguyện giúp Bà khỏi khốn cực. Vị mục sư yêu cầu: “Bà hãy buông đứa bé xuống đất di?”.  
            Thiếu phụ nhìn mục sư, trả lời: “Ông điên à, không hiểu tại sao ông bảo tôi làm điều ấy?”.
            Vị mục sư thách thức: “Nếu có ai trả cho bà một số tiền lớn để Bà buông đứa bé rơi xuống sàn nhà, bà có sẵn sàng ham tiền, mà làm việc ấy chăng?”. “Không bao giờ”, người thiếu phụ tức giận nói. “Dù người ta có cho tôi nhiều tiền như sao trên trời, giúp tôi bớt khổ, tôi sẽ không đời nào buông con tôi rơi xuống đất để nó phải chết”. Lúc ấy, mục sư Collins mới ôn tồn khuyên bảo: “Có khi nào bà nghĩ là tình thương của bà dành cho con mình lớn hơn tình thương của Cha trên trời đối với con cái của Người ư?”  (Lời Chúa và Cuộc Sống, Mùa Giáng Sinh, trang 89).
 
Hãy biết dìm mình trong Ơn Thánh để nhận thức Thiên Chúa hằng yêu thương ta biết chừng nào!!!
 
Rất nhiều lần đến với Chúa, ta cứ tưởng mình tin tưởng và kínb mến Chúa thật.  Song thực tế, kinh nghiệm dạy ta biết rằng: ta thường đến gặp Chúa khi có nhu cầu, khi tâm hồn ta đong đầy ưu tư nặng trĩu, lòng chất chứa những toan tính vụ lợi, mong Chúa ra tay cứu giúp mình.
 
Thật giống như: một nhóm kitô hữu tụ họp cầu nguyện tại một ngôi nhà trong xóm. Trước mặt tiền ngôi nhà ấy, họ treo biểu ngữ với hàng chữ “Jesus Only” (chỉ vì Chúa Giêsu mà thôi). Thế nhưng, một cơn gió mạnh bất ngờ thổi đến, làm bay mất 3 mẫu tự đầu tiên, chỉ còn lại các chữ “Us Only” (chì vì chúng ta mà thôi). Rõ ràng: họ cứ nghĩ là mình cầu nguyện cho sáng danh Chúa, nhưng đúng hơn, ý hướng cá nhân đã thực sự chi phối việc làm đạo đức của họ (Lời Chúa và Cuộc Sống, mùa T. Niên I, trang 42).
 
E. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa! Hạnh phúc cho Con khi được làm con Chúa, được trở thành một kitô hữu.  Xin giúp Con luôn ghi nhớ Hồng Ân Qúi Báu này, biết tu luyện bản thân nên tốt, gắng liên tục dìm mình trong Ơn Sủng ngàn đời của Chúa, năng thăng tiến cuộc sống mình bằng Lời Chúa sáng soi mỗi ngày.  AMEN.
 
Fr. Dominic Dieu Tran, SDD.

PHÉP RỬA (LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA)

PHÉP RỬA (LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA)

Trong vòng vài tuần lễ vừa qua, Giáo Hội cử hành nhiều Lễ Mừng. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng trần. Mùa Giáng Sinh đã qua. Chúa đã tỏ mình ra cho các mục đồng nơi máng cỏ. Rồi các nhà Đạo Sĩ từ phương xa đã đến tôn kính, bái thờ và dâng lễ vật cho Chúa Hài Nhi. Giáo Hội kết thúc Mùa Giáng Sinh với Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa bởi ông Gioan Tẩy Giả tại sông Giôđan. Nguồn gốc lễ này vào những thế kỷ đầu được cử hành đồng thời với Lễ Hiển Linh. Khi Chúa Giêsu bắt đầu công khai ra giảng đạo và chính thức thi hành sứ mệnh cứu độ, Chúa đã nhập hàng với đoàn dân để nhận phép rửa của Gioan. Phép rửa của Gioan không xóa tội lỗi nhưng là một nghi thức sám hối. Phép rửa là dấu chỉ một sự hối lỗi quay đầu. Biết mình là một bước khởi đầu tu thân. Chúa Giêsu hòa nhập giữa đám đông trong tình liên đới thân phận để từ đó dẫn dắt mọi người ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Isaia để loan báo cho toàn dân: “Ta là Thiên Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước (Is 42, 6). Isaia truyền đạt một sứ mệnh được ẩn tàng nơi Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài là ánh sáng tỏa chiếu trong đêm tối và soi dọi đường nẻo công chính. Isaia đã giới thiệu Ngài cho toàn dân qua Bài ca Thứ Nhất nói về Người Tôi Trung hiền lành và tín trung: Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý (Is 42, 3). Những lời tiên báo này từ từ được tỏ hiện một cách rõ ràng nơi một con người. Người Tôi Trung chính là Chúa Giêsu Kitô sẽ hoàn tất mọi việc để ứng nghiệm các lời tiên tri công bố về Ngài.

Nhìn lại, Giáng Sinh tại quê nhà Việt Nam rất vui, hầu như mọi người cả Lương lẫn Giáo đều nao nức tham dự ngày Sinh Nhật Chúa. Mọi giáo dân tuôn về các Nhà Thờ hân hoan tham dự Lễ Vọng Giáng Sinh và Lễ Giáng Sinh. Trong khi tại các xứ đạo đa văn hóa ở nước ngoài, Mùa Vọng nhiều người chuẩn bị khá rộn ràng để đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng chính ngày Lễ Mừng, số người tham dự xem ra rất khiêm tốn. Nhìn chung thấy rằng người ta dành nhiều thời gian cho các sinh hoạt khác như đi mua sắm, tiệc tùng, thưởng ngắm phố chợ và rong chơi. Một số nhóm dân tộc thuộc truyền thống của Nam Mỹ không chú tâm nhiều vào ngày lễ Giáng Sinh, nhưng tâm tình hướng đến việc cử hành Lễ Hiển Linh. Chúng ta biết Chúa đến ban bình an và niềm vui ơn cứu độ cho nhân loại. Niềm vui được lan tỏa khắp nơi tới mọi tâm hồn. Chúng ta không thể giới hạn niềm hoan lạc trong một khoảng thời khắc hay nơi chốn nào. Mỗi người sẽ nhận lãnh niềm vui an lạc trong những hoàn cảnh khác nhau suốt Mùa Giáng Sinh. Điều quan trọng là mỗi người hãy mở lòng đón nhận ơn cứu độ của Chúa.

Con người sống trong thế giới này có quá nhiều khác biệt về niềm tin, tín ngưỡng, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống dân tộc và ý thức hệ. Chúng ta không cần phải tranh cãi hay biện luận về cách thế Chúa giáng sinh, nhưng hãy sống tinh thần của Đấng đã hóa thân làm người. Hãy ngắm nhìn những tượng Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ với hai bàn tay giơ lên. Hình ảnh thật đẹp! Chúa muốn mở rộng bàn tay đón nhận các tâm hồn về với Chúa. Một tâm tình khác, Chúa Hài Nhi cũng giống như các trẻ thơ khác là muốn được ẵm bế. Chúa giơ tay muốn được Mẹ ẵm vào lòng. Chúa hạ sinh như một bé thơ để cùng chia sẻ sự yếu ớt, khó nghèo, khiêm hạ và mời gọi yêu thương đáp trả. Chúa muốn chúng ta ẵm Chúa như ôm ấp những kẻ bé mọn, cô đơn, mồ côi, tàn tật, khổ đau, nghèo đói và bất hạnh. Chính Chúa Giêsu đã khuyên dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25, 45).

Khoảng năm 30 tuổi, ông Gioan xuất hiện công khai kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị tâm hồn đón Chúa. Nhiều người chạy đến với Gioan và xin vấn kế: Chúng tôi phải làm gì bây giờ? Gioan đã chỉ dạy họ thay đổi cách sống và thực hành phép rửa sám hối. Bấy giờ chưa có người nào nhận biết Chúa Giêsu là ai? Ông Gioan thi hành sứ vụ của mình là vị tiền hô của Chúa. Ông không tìm vinh quang cho riêng mình, nhưng tập trung chuẩn bị tâm hồn mọi người đón Đấng cứu tinh. Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16). Chính Chúa Giêsu đã nhập đoàn với dân người đến với Gioan xin nhận phép rửa.

Thánh Luca giới thiệu về sứ vụ của Chúa Kitô sau phép rửa sám hối. Sự tác động rất quan trọng của Ba Ngôi Thiên Chúa trong biến cố này. Ngôi Cha chứng dám qua Lời từ trời cao, Ngôi Thánh Thần thánh hóa và Ngôi Con thi hành sứ vụ. Thánh sử Luca viết: Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con (Lc 3, 21-22). Đấng Cứu Thế đã đến và mang thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Sau khi nhận phép rửa bởi ông Gioan, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mệnh rao giảng về Nước Trời.

Chúa Giêsu đã dùng các dụ ngôn và nhiều cách thế đơn sơ để mặc khải về chân lý Nước Trời. Lời của Chúa là lời hằng sống có uy quyền biến đổi tâm can của con người. Ngài mở cửa đón nhận mọi tâm hồn và không loại trừ một dòng dõi dân tộc nào. Thánh Luca đã diễn tả trong sách Tông Đồ Công Vụ: Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận (Tđcv 10, 35). Cửa Nước Trời đã được mở ra cho những ai có thiện tâm tìm kiếm. Giáo Hội tiếp nhận mọi thành phần đa dạng của tất cả các nền văn hóa, tín ngưỡng và chủng tộc. Qui tụ mọi người chung trong một niềm tin vào Chúa Kitô và một niềm hy vọng ngày sau sẽ được chung hưởng sự sống muôn đời.

Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng nhắc nhớ đến Phép Rửa Tội của mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã rửa sạch tâm hồn chúng ta trong nước và Thánh Thần. Chúng ta được trở nên thụ tạo mới và được trở thành con cái của Thiên Chúa. Hạt giống niềm tin được gieo vào lòng, việc xức dầu thánh đã in ghi dấu ấn trong tâm hồn, áo trắng tinh sạch được phủ trùm và ánh sáng của Chúa Kitô được gởi gắm cho những vị đỡ đầu chăm nom. Chúng ta nên ghi nhớ ngày đã được sinh lại làm con Chúa và con Hội Thánh qua Bí tích Rửa Tội. Chúng ta đã được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô. Ngài là đầu và chúng ta là chi thể của Ngài. Liên kết với Chúa Kitô, mỗi người có bổn phận làm cho hạt giống của sự sống đời đời nẩy sinh hoa trái ngay trong cuộc sống này.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã bước xuống và cúi đầu nhận phép rửa của thánh Gioan, xin cho chúng con biết khiêm hạ nhận thân phận tội lỗi yếu hèn, để xin ơn sám hối. Sám hối là biết mình. Biết mình là khởi đầu bước tiến tới sự trọn lành.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

(Is 42, 1-4.6-7; Tđcv 10, 34-38; Lc 3, 15-16.21-22).

Đức Thánh Cha bắt đầu chu kỳ mới tiếp kiến các Giám Mục thế giới

Đức Thánh Cha bắt đầu chu kỳ mới tiếp kiến các Giám Mục thế giới

VATICAN. Hôm 10 tháng 1-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã bắt đầu chu kỳ mới, tiếp kiến các GM thế giới về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Mở đầu chu kỳ này là các GM thuộc giáo miền Lazio ở Italia, gồm 17 giáo phận và 3 Đan viện biệt hạt. Được ĐTC tiếp kiến sáng thứ hai 10 tháng 1-2013 là ĐHY Agostino Vallini Giám quản Roma, Đức TGM phụ tá Giám quản, và 5 GM phụ tá khác. ĐTC sẽ tiếp kiến các GM Lazio cho đến cuối tháng 5 năm nay.

Hồi cuối tháng 9 năm 2012, ĐTC đã kết thúc chu kỳ kéo dài 7 năm 4 tháng, tiếp kiến tất cả các GM giáo phận trên thế giới, gồm hơn 2.600 giáo phận và chuẩn giáo phận. Trong nhiều trường hợp, cả các GM Phụ tá cũng được ĐTC tiếp kiến chung với các GM chính tòa.

Thoạt đầu, ĐTC tiếp kiến riêng mỗi GM 15 phút, nhưng trước số lượng quá lớn các GM, dần dần ngài đã đổi phương pháp và tiếp kiến chung khoảng 10 GM mỗi lần và thảo luận, trao đổi với các vị trong vòng 45 phút hoặc một tiếng. Nhiều GM tỏ ra thích hình thái này hơn.

Giáo miền Lazio có thành Roma rộng 17,207 cây số vuông với dân số hơn 5 triệu 806 ngàn người, trong số này có hơn 600 ngàn người nhập cư hợp pháp. (SD 10-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Tòa đại sứ Mỹ quan ngại trước việc VN kết án tù các thanh niên Công giáo

Tòa đại sứ Mỹ quan ngại trước việc VN kết án tù các thanh niên Công giáo

Tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam ra thông cáo chỉ trích Việt Nam về việc kết án nặng nề 14 bloggers tín đồ Dòng Chúa Cứu Thế trong phiên tòa tại Nghệ An.

                                          

Picture – AFP Các thanh niên Công giáo và Tin lành tại phiên xử ở Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An ngày 09 tháng 1 năm 2013.

Thông cáo tỏ ý rất phiền lòng trước sự kiện này, khi những người tín đồ chỉ thực hiện quyền tự do bày tỏ ý kiến mà đã bị án giam tù nặng nề vì tội “lật đổ chính quyền” theo điều 79 bộ luật hình sự.

Tòa đại sứ Mỹ tuyên cáo rằng những bản án này cùng với sự giam giữ blogger và luật gia về nhân quyền Lê Quốc Quân và việc y án các blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải, là một phần trong chiều hướng xâm phạm nhân quyền tại Việt Nam.

Thông cáo kêu gọi Việt Nam trả tự do lập tức cho những người vừa được nói tới, đồng thời chỉ trích hành động của chính phủ đối với những cá nhân này đã không phù hợp với trách vụ của Việt Nam đối với Công ước quốc tế về quyền dân sự, quyền chính trị, cũng như Bản tuyên ngôn nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Quốc tế chí trích

Trước đó, ngay sau khi tòa Nghệ an tuyên án tù với 14 người hoạt động cho tự do nhân quyền, Tổ chức Ân xá quốc tế và Human Rights Watch cũng đả kích hành vi độc đoán phi pháp của Hà Nội và đòi trả tự do lập tức cho các nạn nhân cùng nhiều người dân chủ bị bắt trước đó.

Tổ chức Theo dõi nhân quyền Human Rights Watch lên án vụ án này đánh dấu sự leo thang quyết liệt của chính quyền trong cuộc tấn công những người chỉ trích chính quyền. Human Rights Watch kêu gọi Việt Nam lập tức hủy án và trả tự do cho tất cả 14 người bất đồng chính kiến cùng với Tiến sĩ Lê Quốc Quân bị bắt hồi cuối tháng 12.

Bản tuyên bố nói rõ 14 người bị kết án vì đã dự khóa huấn luyện của đảng Việt Tân ở Bangkok. 11 người trong số này bị buộc tội làm đảng viên Việt Tân, 3 người bị kết tội tham gia tích cực vào Việt Tân. Human Rights Watch lên án Việt Nam dựa vào ngôn ngữ pháp lý mơ hồ của điều 79 bô luật hình sự về tội “lật đổ chính quyền” để bỏ tù những người chỉ thực thi nhân quyền căn bản. Cảnh sát bố trí dày đặc ở tòa án còn bắt giữ một số blogger muốn đến dự phiên tòa.

Trình bày những hoạt động của 14 người tranh đấu vừa kể, Human Rights Watch còn kêu gọi Việt Nam trả tự do cho Luật sư Lê Quốc Quân, người bị bắt vào thời gian chỉ 9 ngày sau khi viết và phổ biến bài xã luận “Hiến pháp hay hợp đồng điện nước?”

Cùng lúc với Human Rights Watch, Tổ chức Ân xá quốc tế cũng ra tuyên bố đòi hỏi Việt Nam trả tự do lập tức cho 13 người bị án tù giam trong vụ án vừa nói, cùng với TS luật Cù Huy Hà Vũ.

Tổng cộng hơn 80 năm tù

Mười ba nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam hôm nay bị tòa án nhân dân Nghệ An phán quyết từ 2 đến 10 năm tù trở lên vì tội cấu kết với một đảng phái chính trị ở Hoa Kỳ trong âm mưu lật đổ chính phủ.

Ba người bị kêu án 13 năm tù giam cộng 5 năm quản chế là các ông Paulus Lê Văn Sơn, Hồ Đức Hòa, Đăng Xuân Diệu.

Tiếp đó, các ông Nguyễn Đặng Minh Mẫn bị 8 năm tù cộng 5 năm quản chế, Nguyễn Văn Duyệt 6 năm cộng 4 năm, Thái Văn Dung, Nông Hùng Anh 5 năm cộng 3 năm,  Nguyễn Đình Cương, Trần Minh Nhật 4 năm cộng 3 năm,  Nguyễn Xuân Anh, Nguyễn Văn Oai, Hồ Văn Oanh, Đặng Ngọc Minh 3 năm tù giam cộng 2 năm quản chế. Một người lãnh án treo là Nguyễn Đặng Vĩnh Phúc.

Pakistan dựng thánh giá trên vùng đất xảy ra bạo lực tôn giáo

Pakistan dựng thánh giá trên vùng đất xảy ra bạo lực tôn giáo

Thánh giá tượng trưng cho sự bền vững của Kitô giáo
 

Thánh Giá Calvary

 Cây thánh giá cao nhất Pakistan được khánh thành vào những ngày nghỉ lễ, vốn được các lãnh đạo Giáo hội gọi là dấu chỉ vững bền trước các bách hại.

Đài tưởng niệm Calvary (Yaadgar-e-Calvary) là cây thánh giá bằng xi măng cao 18 mét, là biểu tượng tôn giáo cao nhất của Kitô giáo trong quốc gia Hồi giáo này, theo các kênh tin tức địa phương.

“Thánh giá mới cho thấy không có gì có thể khiến chúng tôi từ bỏ đức tin” – Major Iftikhar Zahid, mục sư của nhà thờ Salvation Army trong vùng, phát biểu.

Công trình khánh thành vào đêm Giáng sinh, được xây dựng trong 10 tháng và chi phí mất hơn 975.000 rupi (10.000 Mỹ kim), do Haroon Gill, thương gia bất động sản ở Karachi, tài trợ.

“Tôi hy vọng đài tưởng niệm sẽ là nguồn cảm hứng cho các công trình tương tự ở các địa phương có Kitô giáo khác”, ông nói.

Ông Gill là một trong hàng ngàn Kitô hữu ở Shanti Nagar, một làng ở Punjab, có gia đình bị các băng nhóm Hồi giáo tấn công vào năm 1997 sau vụ mạo phạm kinh Qu’ran.

Sau đó chính quyền xây dựng lại 785 ngôi nhà và cả bốn nhà thờ đã bị phá hủy trước đó, nhưng dân làng vẫn kỷ niệm ngày bị tấn công này hàng năm và một số dấu tích vẫn còn đó.

“Vụ tấn công đó không được đề cập đến trong bản vàng của Đài tưởng niệm Calvary, tấm bản ghi lại lịch sử của làng. Đó là một sự kiện đen tối, đáng lẽ không hề xảy ra” – mục sư Zahid nhận xét.

Phóng viên ucanews.com từ Shanti Nagar, Pakistan

Thiên Chúa nhập thể tự ban mình cho nhân loại với sự nhưng không và tình yêu thương

Thiên Chúa nhập thể tự ban mình cho nhân loại với sự nhưng không và tình yêu thương

Mầu nhiệm Nhập Thể cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đã không cho cái gì, nhưng là cho chính mình trong Người Con Duy Nhất với sự nhưng không và tình yêu thương. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với mấy ngàn tín hữu tham dự buổi tiếp kiến thứ hai của năm 2013 trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 9 tháng 1-2013.

Vì đang là mùa Giáng Sinh nên trong bài huấn dụ ngài đã tiếp tục khai triển ý nghĩa mầu nhiệm Ngôi Lời Con Thiên Chúa nhập thể làm người.

Trong mùa này khi tham dự các lễ nghi phụng vụ chúng ta thường nghe vang lên nhiều lần từ ”nhập thể” diễn tả thực tại chúng ta cử hành trong lễ Giáng Sinh: đó là Con Thiên Chúa đã làm người, như chúng ta đọc trong kinh Tin Kính. Từ chính yếu này đối với đức tin kitô có nghĩa là gì? Nó bắt nguồn từ tiếng La tinh ”incarnatio”. Và Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa từ ”nhập thể” như sau:

Ở đây từ ”thịt xác”, theo sử dụng của tiếng Do thái, ám chỉ con người trong sự toàn vẹn của nó, tất cả con người, nhưng chính dưới khía cạnh của sự tàn tạ, của tính chất tạm thời, của sự nghèo nàn và hữu hạn của nó. Điều này để nói với chúng ta rằng ơn cứu độ do Thiên Chúa nhập thể nơi Đức Giêsu thành Nagiarét đem đến, liên quan tới con người trong thực tại cụ thể và trong bất cứ tình trạng sống nào của nó.

Thiên Chúa đã nhận lấy điều kiện là người để chữa lành nó khỏi tất cả những gì chia rẽ nó với Người, để cho phép chúng ta gọi Người, trong Người Con Duy Nhất, với tên gọi ”Abba, Cha” và thật sự chúng ta là con cái của Người. Thánh Ireneo khẳng định rằng: ”Đó là lý do, bởi đó Ngôi Lời đã làm người, và Con Thiên Chúa, Con của con người: để cho con người, khi bước vào sự hiệp thông với Ngôi Lời và như thế nhận được ơn là con Thiên Chúa, trở thành con Thiên Chúa” (Adversus haereses 3,19,1; PG 7,939; x. SGLGHCG, 460).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha ghi nhận rằng sự kiện ”Ngôi Lời nhập thể” đã trở thành một thực tại quen thuộc, khiến cho chúng ta không còn ý thức được sự cao cả mà nó diễn tả nữa. Thật thế, trong mùa Giáng Sinh thường khi người ta chú ý nhiều tới các khía cạnh bề ngoài, các ”màu mè” của ngày lễ hơn là trọng tâm sự mới mẻ kitô vĩ đại mà chúng ta cử hành: một cái gì không thể tưởng được, mà chỉ có Thiên Chúa có thể làm và chúng ta chỉ có thể bước vào đó với lòng tin. Ngôi Lời, Ngôi Lời là Thiên Chúa (x. Ga 1,1) mà nhờ Người mọi sự đều được tạo thánh (x. 1,3), và Người đã đồng hành với loài người trong lịch sử với ánh sáng của Người (x. 1,4-5; 1,9) trở thành thịt xác và ở giữa chúng ta, trở thành một người như chúng ta (X. 1,14). Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định rằng: ”Con Thiên Chúa… đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí tuệ con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng qủa tim con người. Sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (GS 22). Vì thế thật là điều quan trọng tái chiếm được sự kinh ngạc trước mầu nhiệm, để cho chúng ta được bao bọc bởi sự vĩ đại của biến cố: Thiên Chúa đã rong ruổi các nẻo đường của chúng ta như là người, bước vào trong thời gian của con người để thông truyền cho chúng ta chính sự sống của Người (x. Ga 1,14). Và Người đã làm điều đó với ánh quang của một vì vua, chế ngự thế giới với quyền lực của Người, nhưng với sự khiêm tốn của một trẻ thơ.

Điểm thứ hai Đức Thánh Cha suy tư trong bài huấn dụ là thói quen tặng qùa trong dịp Giáng Sinh. Đôi khi nó là một cử chỉ làm vì tập tục, nhưng nói chung nó diễn tả sự trìu mến, và là dấu chỉ của tình yêu và sự qúy mến. Trong lời nguyện lễ rạng đông Giáng Sinh chúng ta đọc: ”Lậy Cha, xin nhận lấy của lễ chúng con dâng trong đêm ánh sáng này, và nhờ sự trao đổi mầu nhiệm của các ơn này xin biến đổi chúng con trong Chúa Kitô Con Chúa, là Đấng đã nâng con người lên bên Chúa trong vinh quang”. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Tư tưởng ban tặng này là trung tậm của phụng vụ và nhắc nhở lương tâm chúng ta ơn nguyên thủy của lễ Giáng Sinh: trong đêm thánh này Thiên Chúa làm người đã muốn tự ban tặng mình cho loài người, đã tự ban mình cho chúng ta; Người đã nhận lấy nhân tính của chúng ta để ban cho chúng ta thiên tính của Người. Đó là ơn vĩ đại. Cả trong việc tặng quà của chúng ta qùa đắt giá hay ít giá không quan trọng; ai không thành công trong việc cho đi một ít chính mình, thì luôn luôn cho ít. Còn hơn thế nữa, đôi khi người ta tìm thay thế trái tim và sự dấn thân cho đi chính mình, bằng tiền bạc với các sự vật vật chất. Mầu nhiệm Nhập Thể đang chỉ cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm như vậy: Người đã không cho cái gì, nhưng là cho chính mình trong Người Con Duy Nhất. Ở đây chúng ta tìm thấy mô thức việc cho đi của chúng ta, để cho các tương quan của chúng ta, đặc biệt là các tương quan quan trọng nhất, được hướng dẫn bởi sự nhưng không và tình yêu thương.

Điểm suy tư thứ ba là sự kiện nhập thể của Thiên Chúa làm người cho thấy cái thực tế chưa từng có của tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, hành động của Thiên Chúa không hạn chế nơi các lời nói, còn hơn thế nữa chúng ta có thể nói rằng Người không hài lòng với việc nói, mà còn đắm mình trong lịch sử của chúng ta và lãnh nhận trên mình sự mệt nhọc và cái nặng nề của cuộc sống con người. Con Thiên Chúa đã thực sự làm người, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, trong một thời gian và nơi chốn xác định, tại Bếtlêhem trong triều đại của hoàng đế Augusto, dưới thời tổng trấn Quirino (x. Lc 2,1-12).

Người đã lớn lên trong một gia đình, đã có các bạn hữu, đã thành lập một nhóm các môn đệ, đã dậy dỗ các Tông Đồ để tiếp tục sứ mệnh của Người, đã kết thúc chặng đường dương thế trên thập giá. Kiểu hành động này của Thiên Chúa mạnh mẽ khích lệ chúng ta tự vấn về sự thực tế đức tin của chúng ta. Nó không được hạn chế ở lãnh vực tình cảm, các xúc động, mà phải bước vào trong cái cụ thể của cuộc sống, nghĩa là phải đụng chạm tới cuộc sống thường ngày của chúng ta và hướng dẫn nó một cách cụ thể. Thiên Chúa đã không chỉ dừng lại ở lời nói, nhưng đã chỉ cho chúng ta sống thế nào, bằng cách chia sẻ chính kinh nghiệm của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.

Sách giáo lý của Đức Giáo Hoàng Pio X hỏi: ”Để sống theo Thiên Chúa chúng ta phải làm gì?”, và trả lời: ”Để sống theo Thiên Chúa chúng ta phải tin các chân lý được Người mạc khải, và giữ các giới răn với sự trợ giúp của ơn thánh Người, có được qua các bí tích và việc cầu nguyện”. Đức tin có một khía cạnh nền tảng không chỉ liên quan tới trí tuệ và con tim, mà liên quan tới toàn cuộc sống chúng ta.

Điểm thứ tư trong suy tư của Đức Thánh Cha liên quan tới khắng định của thánh Gioan: Từ nguyên thủy Ngôi Lời đã ở gần Thiên Chúa và nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành (Ga 1,1-3). Thánh sử rõ ràng ám chỉ trình thuật tạo dựng trong các chương đầu sách Sáng Thế và đọc lại chúng dưới ánh sáng của Chúa Kitô. Đây là một tiêu chuẩn nền tảng trong việc đọc Thánh Kinh: Cưụ Ước và Tân Ước luôn luôn được đọc chung với nhau, và từ Tân Ước mở ra ý nghĩa sâu xa hơn của cả Cựu Ước. Chính Ngôi Lời luôn luôn hiện hữu gần Thiên Chúa, và chính Người là Thiên Chúa, và nhờ Người và cho Người mà tất cả được tạo thành (x. Cl 1,16-17) đã làm người: Thiên Chúa vĩnh cửu và vô biên đã dìm mình trong cái hữu hạn của con người, trong thụ tạo của Người, để tái dẫn đưa con người và toàn thụ tạo tới với Người. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng: ”Việc tạo dựng thứ nhất tìm thấy ý nghĩa và tột đỉnh của nó trong việc tạo dựng mới nơi Chúa Kitô, mà ánh quang vượt ánh quang của việc tạo dựng đầu tiên” (s. 349).

Các Giáo Phụ đã để Đức Giêsu và Ađam cạnh nhau đến độ định nghĩa Người là ”Adam thứ hai” hay Ađam vĩnh viễn, hình ảnh toàn hảo của Thiên Chúa. Với việc nhập thể của Con Thiên Chúa, xảy ra một cuộc tạo dựng mới, trả lời hoàn toàn cho câu hỏi ”Ai là con người”. Chỉ nơi Đức Giêsu chương trình của Thiên Chúa đối với con người mới biểu lộ tràn đầy: Người là con người vĩnh viễn theo Thiên Chúa. Công Đồng Chung Vaticăng II đã mạnh mẽ nêu bật điều này: ”Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể… Bởi vì Chúa Kitô, Ađam mới, biểu lộ con người cho con người một cách tràn đầy và vén mở cho nó ơn gọi rất cao vời của nó” (GS 22; SGLGHCG, 359). Nơi Hài Nhi Con Thiên Chúa được chiêm ngắm trong lễ Giáng Sinh chúng ta có thể nhận biết gương mặt thật của con người; và chỉ khi chúng ta rộng mở cho hoạt động của ơn thánh Chúa và tìm theo Người mỗi ngày chúng ta mới thực hiện được chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu băng nhiều thứ tiếng khác nhau. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới ngài nhắc cho mọi người biết rằng Chúa Nhât tới đây là lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đây là dịp thuận tiện giúp suy tư trở lại việc thuộc về Chúa Kitô trong đức tin của Giáo Hội. Đức Thánh Cha khuyên các bạn trẻ tái khám phá ra mọi ngày ơn thánh đến từ bí tích Rửa Tội. Ngài khích lệ các bệnh nhân kín múc sức mạnh từ bí tích ấy trong những lúc khổ đau, không được an ủi. Và ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biết diễn tả dấn thân của bí tích Rửa tội trong cuộc sống gia đình.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải  

Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân 2013

Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân 2013

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các tín hữu tăng cường các hoạt động bác ái trong các cộng đoàn Giáo Hội nhân dịp Năm Đức Tin.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong Sứ điệp công bố hôm 8 tháng 1-2012, nhân dịp Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 21 sẽ được cử hành trọng thể tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting ở miền nam nước Đức vào ngày 11 tháng 2 tới đây, Lễ Đức Mẹ Lộ Đức, với chủ đề là câu nói của Chúa Giêsu sau khi kể dụ ngôn người Samaritano nhân lành ”Anh cũng hãy đi và làm như vậy” (Lc 10, 37).

Sau đây là bản dịch Sứ điệp của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến!

1. Ngày 11 tháng 2-2013 lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 21 sẽ được cử hành trọng thể tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting. Ngày này đối với các bệnh nhân và các nhân viên y tế, các tín hữu Kitô và mọi người thiện chí là ”thời điểm ưu tiên để cầu nguyện, chia sẻ, dâng đau khổ để mưu ích cho Giáo Hội và nhắc nhở tất cả mọi người cần nhận ra nơi khuôn mặt của người anh em đau yếu của mình Thánh Nhan Chúa Kitô, Đấng cứu độ nhân loại qua đau khổ, chịu chết và sống lại” (Gioan Phaolô 2, Thư thành lập Ngày Quốc Tế các bệnh nhân, 13 tháng 5-1992,3). Trong hoàn cảnh này, tôi đặc biệt cảm thấy gần gũi mỗi người trong anh chị em, các bệnh nhân quí mến, là những người đang sống một thời điểm thử thách khó khăn, tại các nhà từ thiện, dưỡng đường hoặc tại gia, vì bệnh bật và đau khổ. Ước gì những lời trấn an này của các Nghị Phụ Công đồng chung Vatican 2 cũng được gửi đến tất cả anh chị em: ”Anh chị em không bị bỏ rơi, cũng chẳng phải là vô dụng: anh chị em được Chúa Kitô kêu gọi, anh chị em là hình ảnh trong sáng của Chúa” (Sứ điệp gửi người nghèo, các bệnh nhân và người đau khổ).

2. Để tháp tùng anh chị em trong cuộc hành hương thiêng liêng từ Lộ Đức, là địa điểm và là biểu tượng hy vọng và ân phúc, dẫn chúng ta đến Đền thánh Altoetting, tôi muốn đề nghị anh chị em suy tư về hình ảnh biểu tượng người Samaritano Nhân Lành (Xc Lc 10,25-37). Dụ ngôn Phúc Âm được thánh Luca thuật lại được tháp nhập vào trong một loạt những hình ảnh và trình thuật rút từ đời sống thường nhật, qua đó Chúa Giêsu muốn giúp ta hiểu tình thương sâu đậm của Thiên Chúa đối với mỗi người, đặc biệt khi họ ở trong bệnh tật và đau khổ. Nhưng đồng thời, qua lời kết luận dụ ngôn người Samaritano Nhân Lành, ”Anh hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37), Chúa chỉ rõ đâu là thái độ mà mỗi môn đệ của Chúa phải có đối với tha nhân, nhất là những người cần được chăm sóc. Vấn đề ở đây là kín múc, từ tình thương vô biên của Thiên Chúa, qua một quan hệ nồng nhiệt với Chúa trong kinh nguyện, sức mạnh để sống hằng ngày sự quan tâm cụ thể như người Samaritano Nhân Lành, đối với những ai bị thương tích trong thân xác và tinh thần, những người đang kêu cứu, và cả những người vô danh và thiếu thốn phương tiện. Điều này được áp dụng không những cho các nhân viên mục vụ và y tế, nhưng cho tất cả mọi người, kể cả bệnh nhân, họ có thể sống tình trạng của mình trong viễn tượng đức tin. ”Không phải tránh né đau khổ, trốn chạy trước đau khổ, chữa lành con người, nhưng là khả năng chấp nhập sầu muộn và trưởng thành trong đó, tìm được ý nghĩa nhờ sự kết hiệp với Chúa Kitô, Đấng đã chịu đau khổ với tình thương vô biên” (Thông điệp Spe salvi, 37).

3. Nhiều Giáo Phụ đã nhìn thấy chính Chúa Giêsu nơi hình ảnh người Samaritano Nhân Lành, và các vị nhìn thấy nơi người bị cướp đả thương, Adam, Nhân loại bị hư mất và bị thương vì tội lỗi của mình (Xc Origne, Bài giảng về Tin Mừng Luca XXXIV, 1-9; Ambrogio, Chú giải Tin Mừng thánh Luca, 71-84; Augustino, Bài giảng 171). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng làm cho tình thương của Chúa Cha hiện diện, tình thương trung tín, vĩnh cửu, không có hàng rào cũng chẳng có biên cương. Nhưng Chúa Giêsu cũng là Đấng ”tự cởi bỏ chiếc áo thần linh của Ngài”, hạ mình xuống từ thân phận thần linh, để mặc lấy hình người (Pl 2,6-8), và đến gần đau khổ của con người, đến độ xuống ngục, như chúng ta đọc trong kinh Tin Mính, và mang lại hy vọng và ánh sáng. Ngài không coi sự đồng hàng với Thiên Chúa, địa vị là Thiên Chúa của Ngài như một kho báu riêng (Xc Pl 2,6), nhưng cúi mình xuống, đầy lòng từ bi, trên vực thẳm đau khổ của con người, để đổ dầu an ủi và rượu hy vọng.

4. ”Năm Đức Tin chúng ta đang sống là một cơ hội thuận tiện để tăng cường việc phục vụ bác ái trong các cộng đoàn Giáo Hội của chúng ta, để mỗi người trở thành người Samaritano Nhân Lành đối với tha nhân, đối với những người đang ở cạnh chúng ta. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc đến một số nhân vật giữa vô số các vị trong lịch sử Giáo Hội, đã giúp đỡ những người bệnh tật yếu đau, đề cao giá trị của đau khổ trên bình diện nhân bản và thiêng liêng, để trở thành mẫu gương và khích lệ. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Nhan Thánh, ”chuyên gia và khoa học tình yêu” (Gioan Phaolô 2, Tông thư ”Ngàn Năm mới đang đến”, 42), đã biết sống ”trong sự kết hiệp sâu xa với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu” căn bệnh ”đưa thánh nữ đến cái chết qua đau khổ lớn lao” (Buổi tiếp kiến chung, 6-4-2011). Đấng Đáng Kính LM Luigi Novarese, mà nhiều người ngày nay vẫn còn giữ kỷ niệm sống động, khi thi hành sứ vụ, đã đặc biệt cảm thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện cho và với các bệnh nhân và những người đau khổ, mà Cha thường tháp tùng đến các trung tâm Thánh Mẫu, nhất là tới Hang Đá Lộ Đức. Được đức bác ái đối với tha nhân thúc đẩy, Ông Raoul Follereau dâng hiến trọn cuộc đời để săn sóc những người bị bệnh phong cùi (Hansen) cho đến tận những vùng xa xăm hẻo lánh nhất trên trái đất, Ông cũng cổ võ Ngày Thế giới chống bệnh phong cùi. Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta luôn bắt đầu mỗi ngày bằng cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Thể, trước khi ra đường, với xâu chuỗi Mân Côi trong tay, để gặp gỡ và phụng sự Chúa trong những người đau khổ, nhất là nơi những người ”không được mong muốn, không được yêu thương, chăm sóc”. Thánh nữ Anna Schaeffer làng Mindelstetten bên Đức, cũng biết kết hiệp một cách gương mẫu những đau khổ của chị với khổ đau của Chúa Kitô: ”Cái giường đau khổ trở thành … căn phòng tu viện và đau khổ trở thành công tác phục vụ truyền giáo của chị.. Được củng cố nhờ Rước lễ hằng ngày, chị trở thành một dụng cụ chuyển cầu không biết mệt mỏi trong kinh nguyện và phản ánh tình thương của Thiên Chúa đối với nhiều người tìm kiếm lời khuyên của chị” (Bài giảng lễ phong thánh, 21-10-2012). Trong Phúc âm nổi bật hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria, Người đã theo Chúa Con chịu đau khổ cho đến hy tế tột cùng trên đồi Golgota. Mẹ không bao giờ mất niềm hy vọng nơi chiến thắng của Thiên Chúa trên sự ác, đau khổ và sự chết, và Mẹ biết đón nhận với cùng một vòng tay tin yêu Con Thiên Chúa sinh ra nơi hang đá Bethlehem và chết trên thập giá. Niềm tín thác mạnh mẽ của Mẹ nơi quyền năng của Thiên Chúa được chiếu sáng nhờ sự sống lại của Cháu Kitô, Đấng ban hy vọng cho những ai ở trong đau khổ và canh tân niềm xác tín về sự gần gũi và an ủi của Chúa.

5. Sau cùng, tôi muốn nghĩ đến, với lòng biết ơn nồng nhiệt và khích lệ, tất cả các tổ chức y tế Công Giáo và xã hội dân sự, các giáo phận, cộng đoàn Kitô, các gia đình dòng tu dấn thân trong việc mục vụ y tế, tôi nghĩ đến các hiệp hội các nhân viên y tế và thiện nguyện. Ước gì tất cả đều gia tăng ý thức rằng ”khi quảng đại và yêu thương tiếp đón mỗi sự sống con người, nhất là những người yếu thế và bệnh tật, Giáo Hội ngày nay đang sống một thời điểm căn bản trong sứ vụ của mình” (Gioan Phaolô 2, Tông Huấn hậu Thượng Hội đồng Giám Mục ”Người Tín hữu giáo dân”, 38).

Tôi phó thác Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 21 cho sự chuyển cầu của Đức Mẹ Maria Ân Phúc chí thánh được tôn kính tại Altoetting, xin Mẹ luôn tháp tùng nhân loại đau khổ, đang tìm kiếm sự thoa dịu và niềm hy vọng vững chắc, xin Mẹ trợ giúp tất cả những người can dự vào công việc tông đồ từ bi để họ trở thành những người Samaritano Nhân Lành cho anh chị em mình đang chịu thử thách vì bệnh tật và đau khổ, đồng thời tôi vui lòng ban Phép Lành Tòa Thánh”

Vatican ngày 2 tháng 1 năm 2013

Biển Đức 16, Giáo Hoàng

Trong thời gian qua, ĐTC cũng đã bổ nhiệm Đức TGM Zygmund Zimowski, người Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, làm Đặc Sứ của ngài đến chủ sự Ngày Thế Giới các bệnh nhân tới đây tại Trung tâm Thánh Mẫu Altoetting ở miền nam Đức. Đền thánh này được thành lập hồi cuối thể kỷ 15, sau khi một em bé 3 tuổi chết đuối được Đức Mẹ hồi sinh vào năm 1489.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Tòa Tổng giám mục Hà Nội phản đối việc phá tu viện xây bệnh viện

Tòa Tổng giám mục Hà Nội phản đối việc phá tu viện xây bệnh viện

Đất đai và tu viện thuộc sở hữu hợp pháp của Giáo hội
January 7, 2013

Tòa Tổng giám mục Hà Nội phản đối việc phá tu viện xây bệnh viện thumbnail

Tu viện kín Camêlô bị chính quyền phá dỡ để xây bệnh viện

Linh mục Anphongsô Phạm Hùng, thư ký Tòa Tổng giám mục Hà Nội, vừa ra thông báo số 3 phản đối việc Sở Y tế Hà Nội tiếp tục phá dỡ Tu viện kín Camêlô để xây bệnh viện.

Thông báo đề ngày 3-1 đăng trên website của tổng giáo phận Hà Nội (http://tgphanoi.org) nói rằng “Tòa Tổng giám mục phản đối mạnh mẽ việc phá dỡ trái phép Tu viện kín Camêlô và xây dựng công trình tại đây”. Tu viện tọa lạc ở số 72 phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội.

Lý do mà Tòa Giám mục phản đối là do “Nhà nước có đủ phương tiện và đất đai để nâng cấp hay xây bệnh viện mới”. Hơn nữa, theo phía Giáo hội thì Tu viện Camêlô không phải là nơi duy nhất mà Sở Y tế Hà Nội có thể nâng cấp bệnh viện.

“Tu Viện kín Camêlô là nơi thánh thiêng và lịch sử đối với người Công giáo với những dấu tích hiển nhiên: Tu viện, Nhà thờ với Thánh giá. Tu viện này đã được thành lập từ cuối thế kỷ 19 và là nơi Thánh nữ Têrêxa đã ước mong và dự định đến tu trì tại đây như một nhà truyền giáo bằng cầu nguyện” – văn bản viết.

Chính vì thế, “Tu viện kín Camêlô cần phải được sử dụng vào mục đích thờ phượng”.

Hiện tại, cha Hùng nói rằng giáo dân xứ Đa Minh đang không có nhà thờ vì Nhà nước đang sử dụng nhà thờ của họ trong khu lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngài cho biết Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã gửi đơn khiếu nại khẩn cấp lần thứ năm đến Thủ tướng và các cấp chính quyền sau khi “Sở Y tế Hà Nội lại tiếp tục phá dỡ Tu viện và tiến hành công trình xây dựng Nhà điều trị Nội khoa tại đây hôm 3-1”.

Trước đó, sau nhiều lần khiếu nại, Nhà nước nói rằng khu đất trên đã được phía Giáo hội giao cho họ quản lý và “nhà nước đã bố trí cho Sở Y tế sử dụng làm bệnh viện đa khoa Xanh Pôn”.

Tuy nhiên, thông báo của Tòa Tổng giám mục khẳng định đất đai và Tu viện kín Camêlô là “thuộc sở hữu hợp pháp của Tòa Tổng giám mục Hà Nội”.

“Tòa Tổng giám mục Hà Nội khẳng định chưa bao giờ ‘bàn giao’ hay ‘cống hiến’ cho Nhà nước bất cứ một trong 95 cơ sở của mình trong TP. Hà Nội mà nhà nước đang sử dụng”.

Nhưng thực tế, Nhà nước đang sử dụng 95 cơ sở của Tổng Giáo phận Hà Nội. Trong đó, có 4 bệnh viện Nhà nước đang sử dụng là cơ sở của Giáo hội: Bệnh viện Xanh Pôn (bệnh viện của Dòng Phaolô); Bệnh viện Đống Đa (Tu viện Thái Hà); Bệnh viện Việt Nam – Cu Ba (Tu viện của Dòng Phaolô) và Bệnh viện Lao và bệnh Phổi Trung ương (Đại chủng viện Hà Nội).

Thông báo còn mời gọi tất cả thành phần dân Chúa “cầu nguyện để quyền lợi chính đáng của Giáo hội được tôn trọng, vụ việc nhà đất Tu viện kín mau chóng được giải quyết thỏa đáng trong sự thật, đối thoại, ôn hòa và tôn trọng lẫn nhau để công bằng, dân chủ và văn minh”.

UCANEWS Vietnam

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh sáng ngày 7 tháng 1-2013, ĐTC đã kiểm điểm tình hình thế giới, kêu gọi chấm dứt xung đột tại nhiều nước, bênh vực quyền sống của con người và chống phá thai.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến trong dinh Tông Tòa có đại diện của 179 quốc gia có quan hệ trên cấp đại sứ cùng với đại diện của chính quyền Palestine, đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu năm mới. Buổi tiếp kiến ngoại giao đoàn cũng là dịp để ĐTC kiểm điểm tình hình thế giới đồng thời bày tỏ lập trường của Tòa Thánh đối với các vấn đề thời sự.

Sau lời chào mở đầu của vị Niên trưởng ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, là Ông Alejandro Lalladares Lanza, Đại sứ nước Honduras, Phó niên trưởng là Đại Sứ Jean-Claude Michel của Tiểu vương quốc Monaco, đã nói đến những biến cố nổi bật trong năm 2012, những cuộc xung đột quốc tế, chiến tranh huynh đệ tương tàn ở Trung Đông và Phi châu, cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng có, các thiên tai, động đất, lụt lội, cuồng phong, làm cho hàng triệu người lâm cảnh nghèo đói và tuyệt vọng.

Diễn văn ca Đức Thánh Cha ĐTC lên tiếng chào thăm và gửi lời cầu chúc nồng nhiệt đến các vị Đại Sứ, chính quyền và nhân dân các nước mà các vị đại diện. Ngài cũng nói đến mối quan tâm của Giáo Hội Công Giáo đối với mọi dân tộc, và nhắc đến lòng quí mến đối với Đức TGM Ambrose Madtha, người Ấn độ, Sứ thần Tòa thánh tại Ivory Coast, tử nạn lưu thông cách đây 1 tháng, cùng với người tài xế tháp tùng.

Căn cội những vấn đề của thế giới

Đức Thánh Cha nói:

Quý Ông Bà Đại Sứ, ”Tin Mừng theo thánh Luca kể lại rằng, trong đêm Giáng Sinh, những người chăn đoàn vật nghe tiếng ca đoàn thiên thần tôn vinh Thiên Chúa và khẩn cầu hòa bình cho nhân loại. Thánh Sử Tin Mừng cũng nhấn mạnh liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa và ước muốn nồng nhiệt của con người thuộc mọi thời đại mong được biết chân lý, thực thi công lý và sống trong hòa bình (Xc Gioan 23, Pacem in terris: AAS 55 [1963], 257). Ngày nay, nhiều khi người ta bị thúc đẩy nghĩ rằng chân lý, công lý và hòa bình là những ảo tưởng và chúng loại trừ lẫn nhau. Biết chân lý dường như là điều không thể có được và những nỗ lực khẳng định chân lý dường như thường dẫn tới bạo lực. Đàng khác, theo một quan niệm đang thịnh hành ngày nay, sự dấn thân cho hòa bình chỉ hệ tại tìm kiếm một thỏa hiệp bảo đảm sự sống chung giữa các dân tộc hoặc giữa các công dân trong một quốc gia. Trái lại, theo nhãn giới Kitô, có một liên hệ thâm sâu giữa sự tôn vinh Thiên Chúa và hòa bình của con người trên mặt đất, đến độ hòa bình không phải chỉ là kết quả của nỗ lực phàm nhân, nhưng còn được tham gia vào chính tình thương của Thiên Chúa. Và chính sự quên lãng Thiên Chúa, chứ không phải sự tôn vinh Thiên Chúa, là điều gây ra bạo lực. Thực vậy, khi người ta không còn tham chiếu một chân lý khách quan và siêu việt nữa, thì làm sao có thể thực hiện một cuộc đối thoại chân chính? Trong trường hợp đó, làm sao người ta có thể tránh cho bạo lực, công khai hoặc ngấm ngầm, khỏi trở thành một qui luật sau cùng cho các quan hệ của con người với nhau? Trong thực tế, nếu không có sự cởi mở siêu việt, thì con người dễ trở thành mồi cho chủ thuyết duy tương đối, và do đó, con người khó có thể hành động theo công lý và dấn thân cho hòa bình.

”Ngoài những biểu hiện về sự quên lãng Thiên Chúa, người ta có thể kể thêm những biểu hiện do sự không biết đến tôn nhan đích thực của Thiên Chúa, sự kiện ấy là nguyên do gây ra trào lưu cuồng tín tai hại về tôn giáo, trào lưu này trong năm 2012 vừa qua cũng gây ra những nạn nhân tại một số nước, có đại diện ở đây. Như tôi đã nói, đó là một sự ngụy tạo tôn giáo; thực ra tôn giáo nhắm hòa giải con người với Thiên Chúa, soi sáng và thanh tẩy lương tâm và cho thấy rõ mỗi người là hình ảnh của Đấng Tạo Hóa.

”Vì thế, nếu sự tôn vinh Thiên Chúa và hòa bình trên trái đất có liên hệ mật thiết với nhau, thì hiển nhiên là hòa bình là hồng ân của Thiên chúa đồng thời là trách vụ của con người, vì hòa bình đòi câu trả lời tự do và có ý thức của con người. Vì lý do đó, tôi đã muốn đặt tựa đề cho Sứ điệp thường niên về Ngày Hòa bình thế giới là ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình”. Các chính quyền dân sự và chính trị là những người đầu tiên có trọng trách hoạt động cho hòa bình. Họ là những người đầu tiên được mời gọi giải quyết nhiều cuộc xung đột tiếp tục làm cho nhân loại đẫm máu, bắt đầu từ Miền được ưu tiên trong kế hoạch của Thiên Chúa, tức là vùng Trung Đông.

Tình hình Siria và Trung Đông ”Trước tiên tôi nghĩ đến Siria, bị sâu xé vì những cuộc thảm sát không ngừng và là nơi diễn ra những đau khổ kinh khủng cho các thường dân. Tôi lập lại lời kêu gọi hãy hạ khí giới và thực thi một cuộc đối thoại xây dựng càng sớm càng tốt, hầu chấm dứt một cuộc chiến tranh trong đó sẽ không có người thắng, mà chỉ có kẻ bại; nếu kéo dài, nó chỉ để lại một cánh đồng hoang tàn. Thưa quý vị Đại Sứ, xin cho phép tôi yêu cầu quí vị tiếp tục gây ý thức nơi chính quyền của quý vị, để cấp thiết cung cấp trợ giúp tối cần thiết hầu đương đầu với tình trạng trầm trọng về nhân đạo.

”Tiếp đến, tôi đặc biệt quan tâm hướng nhìn về Thánh Địa. Sau khi Palestine được nhìn nhận như một Quốc gia Quan sát viên không thành viên của LHQ, tôi lập lại mong ước rằng, nhờ sự hỗ trợ của Cộng đồng quốc tế, người Israel và Palestine dấn thân sống chung hòa bình trong khuôn khổ hai quốc gia có chủ quyền, trong đó sự tôn trọng công lý và những khát vọng hợp pháp của hai dân tộc được bảo tồn và bảo đảm. Thành Jerusalem trở thành điều được biểu lộ qua danh xưng của thành này! Là thành hòa bình chứ không phải là thành chia rẽ; trở thành lời tiên tri về Vương quốc của Thiên Chúa chứ không phải là một sứ điệp về sự bất ổn và chống đối nhau! Nghĩ đến dân tộc Irak yêu quí, tôi cầu chúc cho dân tộc này tiến bước trên con đường hòa giải, để đạt tới sự ổn định đang mong ước.

Tại Liban, nơi mà tôi đã gặp gỡ các thực tại cấu thành khác nhau hồi tháng 9 năm qua, ước gì các truyền thống tôn giáo đa diện được mọi người vun trồng như một sự phong phú đích thực cho đất nước, cũng như cho toàn vùng, và các tín hữu Kitô cống hiến một chứng tá hữu hiệu cho việc kiến tạo một tương lai hòa bình với tất cả mọi người thiện chí!

Tình hình Phi châu

”Tại Bắc Phi cũng vậy, sự cộng tác của mọi thành phần xã hội là điều ưu tiên, và mỗi người phải được bảo đảm quyền công dân trọn vẹn, được tự do công khai tuyên xưng tôn giáo của mình và có thể góp phần vào công ích. Tôi cam đoan với mọi người dân Ai Cập sự gần gũi và lời cầu nguyện của tôi, trong thời kỳ đang có những cơ chế mới được thiết lập.

Hướng nhìn về Phi châu nam sa mạc Sahara, tôi khuyến kích những cố gắng kiến tạo hòa bình, nhất là tại những nơi đang có những vết thương chiến tranh mang mở toang và tại những vùng đang chịu những hậu quả trầm trọng về mặt nhân đạo. Tôi đặc biệt nghĩ đến Vùng Sừng của Phi châu cũng như miền đông Cộng hòa dân chủ Congo, nơi mà bạo lực đang được khơi dậy, bó buộc nhiều người phải bỏ nhà cửa, gia đình và khuôn khổ cuộc sống của họ.

Đồng thời tôi không thể không nói đến những đe dọa khác đang xuất hiện ở chân trời. Theo những khoảng cách đều đặn, Nigeria là nơi diễn ra những cuộc khủng bố tạo nên các nạn nhân, nhất là nơi các tín hữu Kitô đang tụ hợp nhau để cầu nguyện, như thể oán ghét muốn biến các đền thờ cầu nguyện và an bình thành những trung tâm sợ hãi và chia rẽ. Tôi cảm thấy rất đau buồn khi hay tin, chính trong những ngày chúng ta mừng lễ Giáng Sinh, các tín hữu Kitô đã bị sát hại một cách dã man. Nước Mali cũng bị bạo lực sâu xé và đang phải chịu một cuộc khủng hoảng sâu đậm về cơ chế và xã hội, cần phải khơi dậy sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Tại Cộng hòa Trung Phi, tôi mong ước rằng các cuộc thương thuyết đã được loan báo cho những ngày tới đây đưa tới sự ổn định và tránh cho dân chúng khỏi phải tái trải qua những kinh hoàng của nội chiến.

Bảo vệ phẩm giá con người

”Sự xây dựng hòa bình luôn tiến hành qua việc bảo vệ con người và những quyền cơ bản của con người. Nghĩa vụ này, tuy nó bị đe dọa những những thể thức và cường độ khác nhau, đang đặt câu hỏi cho mọi quốc gia và phải liên tục được soi sáng nhờ phẩm giá siêu việt của con người và những nguyên tắc được khi trong bản tính con người. Trong số những nguyên tắc ấy đứng hàng đầu có sự tôn trọng sự sống con người trong mọi giai đoạn. Về vấn đề này, tôi vui mừng vì một Nghị Quyết của Nghị Viện của Hội đồng Âu Châu, hồi tháng giêng năm qua, đã yêu cầu cấm việc làm cho chết êm dịu, được hiểu như một sự cố tình giết một người đang ở trong tình trạng lệ thuộc, bằng hành động hoặc bằng sự bỏ sót.

Đồng thời tôi đau buồn nhận thấy rằng tại nhiều nước khác nhau, cả những nước có truyền thống Kitô giáo, người ta vận động để du nhập hoặc nới rộng những luật bãi bỏ sự trừng phạt hoặc cho tự do phá thai. Phá thai trực tiếp, – tức là nhắm phá thai như một mục tiêu hoặc như một phương tiện, – là điều trái với luật luân lý một cách trầm trọng. Khi khẳng định như thế, Giáo Hội Công Giáo không thiếu sự cảm thông và từ ái, kể cả đối với bà mẹ. Đúng hơn, vấn đề ở đây là cảnh giác sao cho luật pháp không làm biến thái một cách bất công sự quân bình giữa quyền sống của người mẹ và quyền của đứa con được sinh ra, cả hai quyền đều thuộc về hai người một cách đồng đều. Trong lãnh lực này, một điều cũng gây lo âu đó là phán quyết gần đây của Tòa án Liên Mỹ châu về nhân quyền, liên quan đến việc thụ thai trong ống nghiệm, định nghĩa lại một cách độc đoán về lúc thụ thai và làm suy yếu việc bảo vệ sự sống trước khi sinh ra.

Tây Phương mơ hồ về các quyền con người

”Đáng tiếc thay, tại Tây phương, người ta cũng thấy nhiều mơ hồ về ý nghĩa các quyền con người và nghĩa vụ đi kèm. Các quyền thường được lẫn lộn với những biểu thị thái quá về sự tự quyết của con người, con người tự tham chiếu mình, và không còn cởi mở đối với cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và với tha nhân; con người co cụm vào mình khi chỉ tìm cách thỏa mãn những nhu cầu riêng của mình. Trái lại, để có đặc tính chân chính, sự bảo vệ các quyền con người phải cứu xét con người trong sự toàn diện theo chiều kích cá nhân và cộng đoàn.

”Tiếp tục cuộc suy tư của chúng ta, cũng nên nhấn mạnh việc giáo dục cũng là một con đường ưu tiên khác để xây dựng hòa bình. Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chánh hiện nay là điều dạy chúng ta về vấn đề ấy. Cuộc khủng hoảng xảy ra vì lợi lộc quá nhiều khi được tuyệt đối hóa, gây thiệt hại cho lao công, và người ta phiêu lưu vô độ trên những con đường kinh tế tài chánh, thay vì trên những con đường kinh tế thực sự. Vì thế, cần tìm lại ý nghĩa của lao công và lợi tức tương ứng. Để đạt tới mục đích ấy, nên giáo dục chống lại những cám dỗ của lợi lộc riêng tư và ngắn hạn, để qui hướng nhiều hơn về công ích. Ngoài ra, cần cấp thiết huấn luyện các nhà lãnh đạo, những người sẽ điều khiển các tổ chức công cộng quốc gia và quốc tế trong tương lai (Xc Sứ điệp Ngày Hòa Bình thế giới lần thứ 46, 8-12-2012, n.6). Liên hiệp Âu Châu cũng cần những đại diện sáng suốt và có khả năng, để thực hiện những chọn lựa khó khăn, cần thiết để chấn chỉnh nền kinh tế của mình và đặt những nền tảng vững chắc cho sự phát triển của mình. Nếu đứng một mình, một số nước có lẽ sẽ tiến bước nhanh hơn, nhưng cùng nhau, tất cả chắc chắn sẽ đi xa hơn! Nếu chỉ số khác biệt giữa các hối xuất tài chánh là một mối lo, thì những khác biệt trong sự tăng trưởng giữa nột số nhỏ ngày càng giầu thêm, và một đa số ngày càng nghèo thêm, sẽ gây ra hoang mang. Nói tắt một lời, vấn đề ở đây là không cam chịu ”với tình trạng suy yếu (spread) về an sinh xã hội”, trong lúc người ta chiến đấu về tài chánh.

Đầu tư trong lãnh vực giáo dục tại những nước đang trên đường phát triển ở Phi châu, Á châu và Mỹ châu la tinh có nghĩa là giúp các nước ấy khắc phục nghèo đói và bệnh tật, cũng như thực hiện những hệ thống luật pháp công bằng, tôn trọng phẩm giá con người. Điều chắc chắn là để thực thi công lý, những kiểu mẫu tốt về kinh tế vẫn chưa đủ, cho dù chúng cần thiết. Công lý chỉ được thực thi nếu có những người công chính! Vì thế, kiến tạo hòa bình có nghĩa là giáo dục cá nhân bài trừ tham nhũng, nạn phạm pháp, nạn sản xuất và buôn bán ma túy, cũng như tránh những chia rẽ căng thẳng có nguy cơ làm cho xã hội kiệt lực, cản trở sự phát triển và sống chung hòa bình.

Bênh vực tự do tôn giáo

”Tiếp tục cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay, tôi muốn nói thêm rằng hòa bình xã hội cũng bị lâm nguy do một số vi phạm tự do tôn giáo. Đôi khi đây là sự gạt bỏ tôn giáo ra ngoài lề đời sống xã hội; trong một số trường hợp khác, đó là thái độ bất bao dung hoặc bạo hành chống lại con người, các biểu tượng xác định căn tính tôn giáo và các tổ chức tôn giáo. Cũng xảy ra tình trạng này là các tín hữu, đặc biệt là các Kitô hữu, bị cấm cản không được góp phần cho công ích qua các tổ chức giáo dục và từ thiện của họ. Để bảo vệ hữu hiệu việc thực thi tự do tôn giáo, điều thiết yếu là tôn trọng quyền phản kháng lương tâm. Biên cương này của tự do liên hệ tới những nguyên tắc rất quan trọng, có tính chất luân lý đạo đức và tôn giáo, được ăn rễ sâu nơi phẩm giá của chính con người. Những nguyên tắc ấy giống như ”những bức tường nâng đỡ toàn thể xã hội muốn thực sự có tính chất tự do và dân chủ. Vì thế, cấm sự phản kháng lương tâm về mặt các nhân và tổ chức, nhân danh tự do và sự đa nguyên, sẽ mở đường cho những cánh cửa bất bao dung và cưỡng bách mọi người phải đồng đều nhau.

”Ngoài ra, trong một thế giới có những giới hạn ngày càng mở rộng hơn, xây dựng hòa bình bằng đối thoại không phải là một chọn lựa, nhưng là điều cần thiết! Trong viễn tượng ấy, Tuyên Ngôn chung giữa vị Chủ tịch HĐGM Ba Lan và Đức Thượng Phụ Mascơva, được ký kết hồi tháng 8 năm ngoái, là một dấu chỉ mãnh mẽ do các tín hữu nêu ra để tạo điều kiện dễ dàng cho những quan hệ giữa dân tộc Nga và dân tộc Ba Lan. Tôi cũng muốn nhắc đến hiệp định hòa bình mới ký kết tại Philippines và nhấn mạnh vai trò của đối thoại giữa các tôn giáo để có sự sống chung hòa bình trong vùng Mindanao.

Và ĐTC kết luận rằng:

Quý vị Đại Sứ, ”Vào cuối thông điệp Hòa bình dưới thế, sẽ được mừng kỷ niệm 50 năm trong năm nay, Vị Tiền Nhiệm của tôi, Đức Chân Phước Gioan 23, đã nhắc lại rằng hòa bình chỉ là ”một danh từ trống rỗng ý nghĩa” nếu nó không được lòng bác ái linh hoạt và kiện toàn (AAS 55 [1963], 303). Như thế, lòng bác ái ở trọng tâm hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh, và trước tiên ở trọng tâm mối quân tâm của Người Kế Vị Thánh Phêrô và của toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Đức bác ái không thay thế cho công lý bị phủ nhận, nhưng đàng khác, công lý không thay thế cho đức bác ái bị phủ nhận. Giáo Hội thực hành hằng ngày đức bác ái trong các tổ chức từ thiện, với những nhà thương và bệnh xá, cũng như các tổ chức giáo dục, tron gđó có các viện cô nhi, trường học, học viện, đại học cũng như qua sự trợ giúp dành cho dân chúng gặp khó khăn, nhất là trong và sau các cuộc xung đột. Nhân danh bác ái, Giáo Hội muốn gần gũi tất cả những người đau khổ vì thiên tai. Tôi nghĩ đến các nạn nhân bị lụt tại Đông Nam, và cuồng phong xảy ra ở bờ biển phía đông của Hoa Kỳ. Tôi cũng nghĩ đến những người bị động đất dữ dội tàn phá một số miền ở bắc Italia. Như quý vị biết, tôi đã muốn đích thân đến những nơi ấy và tôi đã có thể nhận thấy ước muốn nồng nhiệt của dân chúng mong tái thiết những gì đã bị phá hủy. Trong thời điểm này của lịch sử Italia, tôi cầu mong rằng kinh thần kiên trì và sự dấn thân chung linh hoạt toàn thể quốc dân Italia yêu quí….”

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican