DÂN SỐ CÔNG GIÁO GIA TĂNG TRÊN THẾ GIỚI

DÂN SỐ CÔNG GIÁO GIA TĂNG TRÊN THẾ GIỚI

Theo một bản báo cáo thống kê của hãng thông tấn Fides, bất châp cuộc khủng hoảng dân số và cuộc khủng hoảng ơn gọi ở Châu Âu, Giáo Hội Công Giáo vẫn phát triển trên toàn thế giới, với sự gia tăng đáng kể ở Châu Á và Châu Phi. Người Công giáo đã mang lại nhiều đóng góp cho xã hội.

Bản báo cáo của Fides lấy lại các con số được công bố trong cuốn « Niên giám thống kê của Giáo Hội » (được cập nhật cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2011) và liên quan đến các thành phần của Giáo Hội, các cơ cấu mục vụ của Giáo Hội, các hoạt động trong lãnh vực y tế, trợ giúp và giáo dục.

Số người Công giáo trên thế giới

Cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2010, dân số thế giới tăng hơn 6.8 tỉ người, trong đó số người Công giáo chiếm khoảng 1.2 tỉ, tức tăng 15 triệu người so với năm trước.

Sự gia tăng số người Công giáo này liên quan đến tất cả các châu lục. Cụ thể, Châu Phi tăng 6,140,000 người, Châu Mỹ Latinh tăng 3,986,000 người và Châu Á tăng 3,801,000 người ; tiếp đến là Châu Âu tăng 894,000 người và Châu Đại Dương tăng 185,000 người.

Người Công giáo chiếm 17.46% dân số thế giới. Tăng nhiều trong bốn châu lục : Châu Phi tăng 0. 21% ; Châu Mỹ Latinh tăng 0.07 % ; Châu Á tăng 0.06% ; Châu Đại Dương 0.03% ; đang khi đó so với dân số ở Châu Âu, phần trăm người Công giáo giảm 0.01%.

Số linh mục và chủng sinh tăng

Tổng số các linh mục đã gia tăng từ 1,643 người so với năm 2009, đạt tới con số 412,236. Đang khi Châu Âu giảm 905 linh mục, thì ở Châu Phi con số linh mục tăng 761, Châu Mỹ Latinh tăng 40, Châu Á tăng 1,695 và Châu Đại Dương tăng 52 vị.

Số các đại chủng sinh, giáo phận và dòng tu, đang gia tăng (118,990 người), tăng thêm 1,012 ứng viên linh mục. Con số đặc biệt gia tăng ở Châu Phi (tăng 752), Châu Á (tăng 513), Châu Mỹ Latinh (tăng 29), đang khi đó con số ở Châu Âu giảm đi (-282) và không thay đổi gì ở Châu Đại Dương.

Số tiểu chủng sinh, giáo phận và dòng tu, nói chung là giảm đi, lên đến 102,308. Gia tăng ở Châu Phi (+213) và ở Châu Á (+ 400), đang khi giảm ở Châu Mỹ Latinh (- 1,033), ở Châu Âu (-1,206) và ở Châu Đại Dương (- 57).

Các Giám mục tăng thêm một chút

Tổng số các Giám mục trên thế giới đã tăng 39 vị, trong tổng số 5,104 vị. Các Giám mục giáo phận tăng, nhưng các Giam mục tu sĩ giảm. Có 3,871 Giám mục giáo phận (tăng 43 vị so với năm trước) và 1,233 Giám mục tu sĩ (giảm 4 vị).

Các nam tu sĩ tăng, nữ tu sĩ không

Các nam tu sĩ không linh mục tăng 436 người, trong tổng số 54,665 người, ở Châu Phi (+254), Châu Á (+411), Châu Âu (+17) và Châu Đại Dương (+15). Họ chỉ giảm đi ở Châu Mỹ Latinh (-261). Số các nữ tu giảm nhiều (-7,436). Nhưng tổng số các nữ tu (721,935) vẫn cao hơn tổng số các nam tu sĩ. Đặc biệt ở Châu Phi tăng 1,395 và Châu Á tăng 3,047, đang khi con số nữ tu giảm ở Châu Mỹ Latinh (-3,178), ở Châu ÂU (-8,461) và ở Châu Đại Dương (-239).

Phó tế vĩnh viễn tăng mạnh

Các Phó tế vĩnh viễn trên thế giới đã gia tăng 1,409 người, trong tổng số lên đến 39,564. Ở Châu Mỹ Latinh tăng 859 và Châu Âu tăng 496 người, tiếp đến là Châu Á 58 vị và Châu Đại Dương 1 vị. Châu Phi giảm 5 vị.

Các nhà thừa sai giáo dân và các giáo lý viên

Có 335,502 nhà truyền giáo trên thế giới, tăng chừng 15,276 người, phân phối ở Châu Phi (+1,135 người), Châu Âu (+ 5,077) và Châu Đại Dương (+393). Châu Phi giảm 29.405 và Châu Á giảm 10,133 người.

Nhiều trường học Công giáo

Trong lãnh vực giáo dục, Giáo Hội có một gia sản đồ sộ, giáo dục và đào tạo hơn 61 triệu sinh viên.

Số trường mẫu giáo lên tới 70,544 trong tổng số 6,478,627 học sinh ; số các trường tiểu học lên tới 92,847 trong tổng số 31,151,170 học sinh ; các trường trung học lên tới 43,591 trong tổng số 17,793,559 học sinh. Có 2,304,171 học sinh của các trường cao đẳng và 3,338,455 sinh viên đại học.

Rất nhiều trung tâm y tế

Công việc cứu tế, từ thiện và săn sóc y tế được thực hiện bởi các trường, dòng tu Công giáo trên thế giới là rất nhiều. Số các bệnh viện lên tới 5.305, tập trung nhiều nhất ở Châu Mỹ Latinh (5.762) ; Châu Phi (5.312) và Châu Á (3.884) ; 547 trại phong cùi, chủ yếu ở Châu Á (285) và Châu Phi (198) ; 17,223 ngôi nhà cho người già, bệnh kinh niên và khuyết tật, đa số ở Châu Âu (8,021) và Châu Mỹ Latinh (5,650) ; 9,882 trại mồ côi ; 11,379 vườn trẻ ; 15,327 trung tâm tư vấn hôn nhân, chủ yếu ở Châu Mỹ Latinh (6.472) ; 34.331 trung tâm giáo dục hay cải tạo xã hội và 9,391 tổ chức các loại khác, đa số ở Châu Mỹ Latinh (3,546) và Châu Âu (3,159).

Tý Linh (XBVN) Theo ZENIT

Hãy luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, cả khi phải đương đầu với các khó khăn cam go nhất

Hãy luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, cả khi phải đương đầu với các khó khăn cam go nhất

Cả khi phải đương đầu với các khó khăn cam go nhất, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, bằng cách canh tân niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của Người trong lịch sử, như Đức Maria. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ gàn 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 2 tháng 1-2013. Trong số hàng trăm nhóm hiện diện có phái đoàn 50 tín hữu Việt Nam thuộc cộng đoàn Bergen bên Na Uy do cha tuyên úy Bùi Đức Tiến hướng dẫn. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, một lần nữa với ánh sáng của Người, Chúa Giáng Sinh soi chiếu các bóng tối thường bao phủ thế giới và con tim của chúng ta, bằng cách đem lại hy vọng và niềm vui. Ánh sáng đó đến từ đâu? Từ hang đá Bếtlêhem, nơi các mục đồng tìm thấy ”Đức Maria, Ông Giuse và Con Trẻ nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16). Trước Thánh Gia nảy sinh ra một vấn nạn sâu xa hơn: làm sao Con Trẻ bé bỏng yếu đuối ấy lại có thể đem đến một sự mới mẻ triệt để như vậy trong thế giới để thay đổi dòng lịch sử được? Có lẽ lại không có điều gì nhiệm mầu trong nguồn gốc của Người vượt xa hơn hang đá đó sao?

Vấn nạn liên quan tới nguồn gốc của Đức Giêsu luôn luôn lại nổi lên. Chính quan Ponzio Philato cũng đã hỏi trong vụ xử án: ”Ông từ đâu mà đến?” (Ga 19,9). Thật ra, đây là một nguồn gốc rất rõ ràng. Trong Phúc Âm thánh Gioan, khi Chúa khẳng định: ”Tôi là bánh từ trời xuống”, thì người Do thái phản ứng lẩm bẩm rằng: ”Người đó lại không phải là Giêsu, con Ông Giuse sao? Chúng ta lại không biết cha mẹ Ông sao? Làm sao Ông ta lại có thể nói: ”Tôi từ trời mà xuống” được? (Ga 6,42). Và sau này dân thành Giêrusalem mạnh mẽ chống lại tính cách cứu thế của Đức Giêsu, khi khẳng định rằng họ biết rõ ”Người từ đâu, trái lại Đức Kitô khi Người đến, thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu” ( Ga 7,27). Chính Chúa Giêsu ghi nhận yêu sách của họ biết nguồn gốc của Người là không thích hợp, và cống hiến một định hướng giúp biết Người từ đâu mà đến: ”Tôi không tự mình mà đến, nhưng Đấng đã sai Tôi là Đấng chân thật, và các ông không biết Người” (Ga 7,28). Chắc chắn rồi, Đức Giêsu người gốc thành Nagiarét, đã sinh ra tại Bếtlêhem, nhưng nguồn gốc thật của Người là ở đâu? Đức Thánh Cha trả lời như sau:

Trong bốn Phúc Âm nổi lên rõ ràng câu trả lời cho vấn nạn Đức Giêsu tới từ đâu: nguồn gốc đích thật của Người là Thiên Chúa Cha; Người hoàn toàn đến từ Thiên Chúa Cha, nhưng trong một cách thế khác với bất cứ ngôn sứ hay người được Thiên Chúa sai đi trước Người. Nguồn gốc từ mầu nhiệm này của Thiên Chúa mà không ai biết, được chứa đựng trong các trình thuật thời thơ ấu trong Phúc Âm của hai thánh sử Mátthêu và Luca, mà chúng ta đang đọc trong mùa Giáng Sinh này. Sứ thần Gabriel loan báo:”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên tôn nương, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm bóng Người trên tôn nương. Vì thế Đấng sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Chúng ta lập lại các lời này mỗi khi chúng ta đọc Kinh Tin Kính tuyên xưng đức tin: ”Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria”. Và khi đọc lời này, chúng ta cúi đầu, bởi vì bức màn che dấu Thiên Chúa được mở ra, và mầu nhiệm khôn dò và không thể đạt đến được đụng chạm tới chúng ta: Thiên Chúa trở thành Đấng Emmanuel ”Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Khi chúng ta nghe các Thánh lễ được các nhạc sĩ vĩ đại của thánh nhạc sáng tác, chẳng hạn như của Mozart, chúng ta nhận ra ngay họ dừng lại cách đặc biệt trên câu này, như muốn tìm cách diễn tả với ngôn ngữ đại đồng của âm nhạc, điều mà các lời nói không thể diễn tả được: đó là mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa nhập thể làm người.

Khi chú ý xem xét câu này, chúng ta tìm thấy có bốn chủ thể hành động. Và Đức Thánh Cha giải thích như sau:

Được nhắc tới một cách rõ ràng là Chúa Thánh Thần và Đức Maria, nhưng được hiểu ngầm ”Người”, nghĩa là Người Con đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ. Trong kinh Tin Kinh Đức Giêsu được định nghĩa với các kiểu gọi khác khau: ”Chúa… Đức Kitô con duy nhất của Thiên Chúa… Thiên Chúa bởi Thiên Chúa… Ánh sáng bởi Ánh Sáng… Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật… đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (Kinh Tin Kính niceno-costantinopolitano). Khi đó chúng ta thấy ”Người” quy chiếu về một bản vị khác, là Thiên Chúa Cha. Chủ thể thứ nhất của câu này như vậy là Thiên Chúa Cha, cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa duy nhất.

Khẳng định của Kinh Tin Kính không liên quan tới Thiên Chúa vĩnh cửu cho bằng nói về một hành động có Ba Ngôi Thiên Chúa tham dự, và nó được thực hiện ”từ Đức Trinh Nữ Maria”.

Không có Mẹ thì việc Thiên Chúa bước vào lịch sử nhân loại sẽ không đạt đích, sẽ không xảy ra điều là trung tâm việc tuyên xưng đức tin của chúng ta: đó là Thiên Chúa là một vì Thiên Chúa ở với chúng ta. Như thế Đức Maria thuộc đức tin không thể chối bỏ của chúng ta nơi Thiên Chúa, là Đấng hành động và bước vào lịch sử. Mẹ đặt để toàn con người mình trong thế sẵn sàng, ”chấp thuận” trở thành nơi ở của Thiên Chúa.

Đôi khi cả trên lộ trình và trong cuộc sống đức tin chúng ta cũng có thể nhận ra sự nghèo nàn và không thích hợp của chúng ta trước chứng tá cần cống hiến cho thế giới. Nhưng Thiên Chúa đã chọn một phụ nữ khiêm hạ, trong một làng không được biết đến, tại một trong những tỉnh xa xôi nhất của đế quốc Roma. Cả giữa các khó khăn cam go nhất phải đương đầu, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa, bằng cách canh tân niềm tin nơi sự hiện diện và hoat động của Người trong lịch sử, như Đức Maria.

Không có gì là không thể đối với Thiên Chúa! Với Người cuộc sống chúng ta luôn tiến bước trên đất vững chắc, và rộng mở cho một tương lai vững vàng.

Khi tuyên xưng trong kinh Tin Kính ”bởi phép Chúa Thánh Thần Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria” chúng ta khẳng định rằng Chúa Thánh Thần, như là sức mạnh của Thiên Chúa Tối Cao, đã cho thụ thai Con Thiên Chúa một cách nhiệm mầu nơi Đức Trinh Nữ Maria. Thánh sử Luca kể lại các lời của tổng lãnh thiên thần Gabriel: ”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên tôn nương, và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao trùm tôn nương với bóng của Người” (Lc 1,35). Có hai quy chiếu đều hiển nhiên: thứ nhất là việc tạo dựng. Chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế rằng: ”Thần khí Chúa bay là là trên nước” (St 1,2); đó là Thần Khí tạo dựng trao ban sự sống cho tất cả mọi sự và con người. Điều xảy ra nơi Đức Maria, qua hoạt động của chính Thần Khí của Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới: Thiên Chúa, Đấng đã gọi sự sống từ hư không, với việc Nhập Thể, ban sự sống cho một khởi đầu mới của nhân loại.

Các Giáo phụ nhiều lần nói về Chúa Kitô như là Adam mới, để nhấn mạnh sự khởi đầu của một cuộc tạo dựng mới từ việc sinh ra của Con Thiên Chúa trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Điều này khiến chúng ta suy tư về việc làm sao đức tin cũng đưa vào trong chúng ta một sự mới mẻ mạnh mẽ tới độ làm sinh ra lần thứ hai. Thật thế, vào lúc khởi đầu việc là Kitô hữu có bí tích Rửa Tội làm cho chúng ta tái sinh như con cái của Thiên Chúa, cho chúng ta tham dự vào tương quan là con mà Đức Giêsu có với Thiên Chúa Cha. Chúng ta được rửa tội là thể thụ động, vì không có ai có khả năng tự mình trở thanh con: đó là một ơn được ban một cách nhưng không. Thánh Phaolô nhắc tới chức làm nghĩa tử của kitô hữu trong một đoạn chính của thư gửi tín hữu Roma khi viết: ”Tất cả những ai được Thần Khí của Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa. Và anh em đã không lãnh nhận một thần trí nô lệ để rơi vào sợ hãi, nhưng đã nhận được Thần Khí khiến cho anh em trở thành nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên ”Abba, Cha ơi”. Chính Thần Khí, cùng với thần trí chúng ta, chứng thực rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14-16). Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Chỉ khi chúng ta rộng mở cho hoạt động của Thiên Chúa, như Đức Maria, chỉ khi chúng ta tín thác cuộc sống chúng ta cho Chúa như một người bạn mà chúng ta tin cậy hoàn toàn, thì tất cả thay đổi, cuộc sống của chúng ta chiếm hữu đươc một ý nghĩa mới và một gương mặt mới: gương mặt con cái của một Người Cha yêu thương chúng ta và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Điểm sau cùng Đức Thánh Cha nhắc tới trong lời sứ thần truyền tin ”Quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao trùm tôn nương với bóng của Người”: đó là đám mây thánh, trong lộ trình sa mạc, dừng trên Lều Hội Ngộ, trên hòm bia giao ước, mà dân Israel đem theo, và nó ám chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 40,34-38). Đức Maria là lều thánh mới, hòm bia mới của giao ước: với tiếng ”xin vâng” với các lời của tổng lãnh thiên thần, Thiên Chúa nhận một nơi ở trong thế giới này, Đấng mà vũ trụ không chứa nổi, lại ở trong cung lòng một trinh nữ…

Đức Giêsu là Con duy nhất của Thiên Chúa Cha. Chúng ta đang đứng trước một mầu nhiệm cao cả và đảo lộn, mà chúng ta cử hành trong mùa Giáng Sinh: Con Thiên Chúa, bởi công trình của Chúa Thánh Thần, đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một lời loan báo luôn mới mẻ vang lên và đem theo niềm hy vọng và niềm vui cho con tim, bởi vì nó cho chúng ta sự chắc chắn rằng cả thường khi chúng ta cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, bất lực trước các khó khăn và sự dữ của thế giới này, quyền năng của Thiên Chúa luôn hoạt động và làm những việc lạ lùng chính trong sự yếu đuối. Ơn thánh của Người là sức mạnh của chúng ta (x. 2 Cr 12,9-10).

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc mọi người một năm mới khang an thịnh vượng. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican  

Năm mới sẽ tốt lành, nếu chúng ta tiếp nhận và sống tình yêu của Thiên Chúa

Năm mới sẽ tốt lành, nếu chúng ta tiếp nhận và sống tình yêu của Thiên Chúa

Năm mới sẽ tốt lành, nếu chúng ta tiếp nhận, sống tình yêu của Thiên Chúa, để cho thánh nhan Chúa soi chiếu cuộc đời chúng ta và nỗ lực xây dựng hòa bình.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trong buổi đọc kinh Truyền Tin và trong bài giảng thánh lễ kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và là Ngày Hòa Bình Thế Giới 1 tháng 1-2013.

Lúc 9.30 sáng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chủ sự thánh lễ trong đền thờ thánh Phêrô, và lúc 12 giờ trưa ngài đã đọc Kinh Truyền Tin chung với hàng chục ngàn tín hữu tại quảng trường, trong đó có 40,000 bạn trẻ đang tham dự cuộc gặp gỡ của các bạn trẻ Âu châu do cộng đoàn đại kết Taizé tổ chức tại Roma. Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Tarcisio Bertone Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình. Tham dự thánh lễ có hàng chục Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh và 10,000 tín hữu. Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã nhắc đến Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay với đề tài ”Phúc cho người xây dựng hoa bình” và nói:

Mặc dù rất tiếc là thế giới còn bị ghi dấu bởi các ngọn lửa căng thẳng và chống đối, gây ra bởi các bất bình đẳng gia tăng giữa người giầu và người ghèo, bởi cái thắng thế của một não trạng ích kỷ và duy chủ nghĩa cá nhân, được diễn tả ra bởi một chủ thuyết tư bản tài chánh không luật lệ, ngoài ra cón có các hình thái khủng bố phá hoại và tội phạm, nhưng tôi xác tín rằng nhiều công tác hòa bình, mà thế giới có được một cách phong phú, chứng minh cho ơn gọi hòa bình bẩm sinh của nhận loại. Nơi mỗi một người ước mong hòa bình là khát vọng nền tảng, và trong một cách thế nào đó, nó trùng hợp với ước mong có một cuộc sống tràn đầy, hạnh phúc và được hiện thực một cách tốt đẹp. Con người được tạo dựng cho hòa bình là ơn của Thiên Chúa… Phúc thật về người xây dựng hòa bình nói rằng hòa bình là ơn cứu thế và đồng thời cũng là công trình của con người… Đó là hòa bình với Thiên Chúa, trong việc sống theo ý muốn của Người. Đó là sự an bình nội tâm với chính mình, và an bình bên ngoài với tha nhân và với toàn thụ tạo” (Messaggio 2,3). Phải, hòa bình là thiện ích tuyệt diệu cần nài xin như ơn của Thiên Chúa, đồng thời cũng cần phải xây dựng bằng mọi cố gắng.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói các bài đọc phụng vụ chứa đựng câu trả lời cho hòa bình, khi đề nghị tín hữu chiêm ngưỡng sự an bình nội tâm của Đức Maria. Dù phải đối đầu với biết bao nhiêu biến cố không thể thấy trước: không phải chỉ có chuyện sắp sinh con, mà trước đó là chuyến du hành mệt nhọc từ Nagiarét tới Bếtlêhem, việc không tìm ra chỗ trong nhà trọ, phải tìm một nơi tạm trú qua đêm, rồi tiếng hát của các thiên thần và sự viếng thăm của các mục đồng. Trong tất cả mọi chuyện đó, Đức Maria không hồn chồn âu lo, nhưng duyệt xét trong thinh lặng tất cả những gì xảy ra, gìn giữ chúng trong ký ức và trong tâm trí, suy tư với sự thanh thản và trầm tĩnh.

Bài đọc thứ nhất sách Dân Số cho chúng ta thấy hòa bình là ơn của Thiên Chúa và nó được gắn liền với ánh sáng rạng ngời của gương mặt Thiên Chúa, theo lời chúc lành mà xưa kia các tư tế ban cho dân Israel trong các buổi cử hành phụng vụ. Công thức như ghi trong sách Dân Số lập lại thánh danh Thiên Chúa ba lần: ”Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6,24-26).

Đối với Thánh Kinh, chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa là hạnh phúc tuyệt đỉnh… Từ sự chiêm ngưỡng gương mặt của Thiên Chúa nảy sinh ra niềm vui, an ninh và hòa bình. Chiêm ngưỡng gương mặt Chúa có nghĩa là biết Người một cách cụ thể chừng nào có thể trong cuộc sống này, qua Chúa Giêsu Kitô, nơi Thiên Chúa đã tự mạc khải ra. Hưởng nếm ánh quang rạng người gương mặt của Thiên Chúa có nghĩa là bước vào trong mầu nhiệm của Thánh Danh Người được Đức Giêsu biểu lộ cho chúng ta, hiểu biết một chút về cuộc sống thân tình và ý muốn của Người, để chúng ta có thể sống theo chương trình tình yêu của Người đối với nhân loại.

Đó là điều thánh Phaolô diễn tả trong thư gửi tín hiữu Galát, khi nói về Thần Khí kêu lên ”Abba, Cha ơi” trong sâu thẳm con tim của chúng ta. Đó là tiếng kêu vọt lên từ sự chiêm ngưỡng gương mặt thật của Thiên Chúa, từ việc mạc khải mầu nhiệm Thánh Danh Người. Chúa Giêsu đã khẳng định: ”Con đã biểu lộ danh Cha cho loài người” (Ga 17,6). Con Thiên Chúa nhập thể đã làm cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha, đã làm cho chúng ta nhận thức được trong gương mặt hữu hình của Người gương mặt vô hình của Thiên Chúa Cha, qua ơn Thánh Thần được đổ tràn đầy trong lòng chúng ta. Người đã làm cho chúng ta biết rằng trong Người chúng ta cũng là con cái của Thiên Chúa. Và Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng như sau:

Anh em thân mến, đó là nền tảng sự bình an của chúng ta: việc chắc chắn chiêm ngưỡng nơi Đức Giêsu Kitô gương mặt rạng người của Thiên Chúa Cha, là con cái trong Người Con, và như thế có được trên con đường cuộc sống chính sự chắc chắn, mà đứa con cảm thấy trong cánh tay của một người Cha tốt lành và toàn năng…. Không có gì có thể lấy mất đi niềm an bình ấy của tín hữu, kể cả các khó khăn và khổ đau của cuộc cuộc sống. Thật thế, các khổ đau, các thử thách và tối tăm không làm hao mòn, nhưng gia tăng niềm hy vọng, một niềm hy vọng không gây thất vọng, bởi vì ”tình yệu của Thiên Chúa đã được đổ vào lòng chúng ta qua Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Các lời nguyện đã được đọc trong các thứ tiếng: Bồ Đào Nha, A rập, Swahili, Pháp và Ba Lan cầu cho Đức Thánh Cha, cho hàng lãnh đạo chính trị xã hội, cho gia đình, cho các quốc gia khổ đau vì chiến tranh để tự do và phẩm giá con người được tôn trọng, cho tín hữu biết làm chứng cho Chúa và loan báo Nước Thiên Chúa.

Có 50 linh mục đã giúp Đức Thánh Cha phân phát mình thánh Chúa cho tín hữu. Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã ra cửa sổ phòng làm việc để đọc kinh Truyền Tin với tín hữu. Ngài chúc mừng năm mới mọi người như sau:

Anh chị em thân mến, xin chúc mừng năm mới tất cả mọi người. Trong ngày đầu năm 2013 này tôi muốn chuyển đến từng người nam nữ trên thế giới phước lành của Thiên Chúa. Tôi làm điều này với công thức cổ xưa trong Sách Thánh: ” Xin Chúa chúc lành cho bạn, và gìn giữ bạn, Xin Chúa làm cho gương mặt Người rạng ngời trên bạn và ban ân sủng cho bạn. Xin Chúa quay mặt nhìn bạn và ban cho bạn sự bình an” (Ds 6,24-26).

Như ánh sáng và sức nóng mặt trời là một phước lành đối với trái đất, cũng thế, ánh sáng của Thiên Chúa là một phước lành đối với nhân loại, khi Người khiến cho gương mặt Người chiếu sáng trên loài người. Và điều này đã xảy ra với biến cố Đức Giêsu Kitô sinh ra. Thiên Chúa đã khiến cho gương mặt Người rạng người cho chúng ta: ban đầu một cách rất khiêm tốn và dấu ẩn – tại Bếtlêhem đã chỉ có Mẹ Maria, thánh Giuse và vài mục đồng là chứng nhân của sự mạc khải ấy – nhưng từ từ như mặt trời từ rạng đông đạt chín ngọ, ánh áng Chúa Kitô lớn lên và lan tran khắp nơi. Trong cuộc sống dương thế ngắn ngủi của Người, Đức Giêsu thành Nagiarét đã làm cho gương mặt của Thiên Chúa rạng ngời tại Thánh Địa; và rồi qua Giáo Hội được Thần Khí Người linh hoạt, Người đã làm cho Tin Mừng lan ra cho tất cả mọi người: ”Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” (Lc 2,14). Đó là tiếng hát của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh, và đó là tiếng hát của các kitô hữu dưới mọi bầu trời; một tiếng hát từ con tim và môi miệng bước sang các cử chỉ cụ thể, trong các hành động của tình yêu, xây dựng đối thoại, thông cảm và hòa giải.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Vì thế tám ngày sau lễ Giáng Sinh, khi cũng như Đức Trinh Nữ Mẹ Maria cho thế giới thấy Hài Nhi Giêsu, Hoàng Tử Hòa Bình, Giáo Hội cử hành Ngày Hòa Bình Thế Giới. Phải, Hài Nhi đó là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể, đã đem đến cho con người một sự an bình mà thế giới không thể cho (x. Ga 14,27). Sứ mệnh của Người là triệt hạ ”bức tường của thù nghịch” (x. Ep 2,14). Và trên bờ hồ Galilea, khi Người công bố các Phúc Thật của Người, thì trong đó cũng có mối ”phúc cho những người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Ai là những người xậy dựng hòa bình? Đó là tất cả những người, ngày qua ngày, tìm chiến thắng sự dữ vởi sự thiện, với sức mạnh của chân lý, với các vũ khí của lời cầu nguyện và sự tha thứ, với các việc làm của lòng thương xót vật chất và tinh thần. Các người xây dựng hòa bình đông biết bao, nhưng họ không gây ồn ào. Như men trong bột, họ làm cho nhân loại lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa.

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin đầu tiên này của năm mới, chúng ta hãy xin Đức Maria Rất Thánh, Mẹ Thiên Chúa, chúc lành cho chúng ta như một bà mẹ chúc lành cho con cái phải du hành. Một năm mới cũng giống như một cuộc du hành: với ánh sáng và ơn thánh Chúa nó có thể là một con đường hòa bình cho mỗi người và mỗi gia đình, cho mỗi quốc gia và toàn thế giới.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh đầu năm cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha lập lại lời chúc mọi người một năm mới an lành. Ngài nói: nó có thể và sẽ là một năm tốt đẹp thực sự, nếu chúng ta tiếp nhận trong chúng ta và giữa chúng ta tình yêu Chúa Kitô đã ban cho chúng ta. Đức Thánh Cha chúc mừng năm mới tổng thống, các giới chức chính quyền và toàn dân Italia. Ngài cũng chào các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ của giới Âu châu do cộng đoàn đại kết Taizé tổ chứ. Và ngài tỏ tình liên đới với các sáng kiến khác nhau như cuộc tuần hành trong Ngày Hòa Bình Thế Giới tại Roma, do cộng đoàn thánh Egidio tổ chức, và phong trào Tình Yêu Gia Đinh đã tổ chức đêm canh thức cầu nguyện cuối năm tại quảng trường thánh Phêrô. Các đoàn người tham dự cuộc tuần hành hòa bình đã đem theo nhiều biểu ngữ, với tến các nước có chiến tranh, và họ đã thả hàng trăm qủa bóng mầu xanh da trời như dấu chỉ hòa bình cho năm 2013 này.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Suy Niệm Phúc Âm Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa – MẸ LUÔN GHI NHỚ và SUY NIỆM TRONG LÒNG (Lc 2:16-21)

Suy Niệm Phúc Âm Lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa – MẸ LUÔN GHI NHỚ và SUY NIỆM TRONG LÒNG (Lc 2:16-21)

Tại trụ sở Toà Nhà Liên Hiệp Quốc ở thành phố New York (Hoa Kỳ), có một căn phòng rộng rãi thoáng mát, không bàn thờ, tranh ảnh, không tài liệu máy móc, hoàn toàn trống trãi, gọi là Phòng Hồi Tâm, Cầu Nguyện. Các vị đại sứ cũng như phái đoàn ngoại giao của các nước, có thể tự do ra vào tìm phút thinh lặng trong phòng ấy, giúp thư giãn đầu óc, để trí lòng nhẹ nhõm thanh thoát mênh mang.

Bởi lẽ, bình thường trong các phiên họp thảo luận quốc tế, nhiều vấn đề nổi cộm khắp thế giới dễ tạo ra những cuộc tranh cãi gay go, đưa đến nhiều nghị quyết chung kết. Chính trong thời điểm căng thẳng đó, các đặc sứ ngoại giao cần tìm lại trong mình chút bình an, suy đi nghĩ lại trong lòng điều mình đang thao thức, hầu nhận định khôn ngoan sáng suốt thêm.

Trong các Buổi Họp Mặt đồng hương Việt Nam nơi xứ người, một chi tiết trong chương trình khai mạc không thể nào thiếu sót là nghi thức chào cờ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Luôn luôn sau đó, là Phút Tưởng Niệm Các Anh Hùng Chiến Sĩ đã hy sinh xương máu mình, chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Trong khoảnh khắc linh thiêng ấy, mọi con dân đất Việt đều cúi đầu mặc niệm, thinh lặng tưởng nhớ công lao của tiền nhân, nguyện ghi sâu ân đức, quyết một lòng tiếp bước cha anh, sống xứng đáng con Rồng cháu Tiên, duy trì nòi giống Lạc Hồng.

Tưởng Niệm, Ghi Nhớ và Suy Đi Nghĩ Lại trong lòng, đều là những thái độ thiết thực trong cuộc sống. Ngày đầu Xuân mới, con cháu sum họp bên bàn thờ tổ tiên, ghi đậm Công Cha, Nghĩa Mẹ, Ơn Thầy.  Ngày khai mào của một Năm Dương Lịch mới, đi dâng lễ đầu năm Tạ Ơn Chúa, suy đi nghĩ lại những Hồng Ân Chúa đã ban cho ta vô vàn suốt một năm đã qua: thiết tưởng là tâm tình đáng khích lệ biết bao.

Đức Mẹ Maria, được sứ thần Gabriel chúc tụng là Đấng “đầy ơn phúc”(Lc 1:28). Cuộc đời trần thế của Mẹ luôn “có Chúa ở cùng”. Biết bao đặc ân Chúa toả sáng trên trinh nữ Maria.  Thế nên, Mẹ không ngừng suy đi nghĩ lại trong lòng muôn ngàn lần về tình thương Chúa đã tặng ban cách riêng cho Mẹ. Năm Mới 2012 đã đến, ta hãy cùng Đức Mẹ “tưởng nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” về những điều Chúa đã thi ân, đã thực hiện trong cuộc sống mình.

A. Những khoảnh khắc “ghi nhớ và suy niệm” trong cuộc đời Đức Mẹ.

Dựa theo Thánh Truyền, ta được biết: Mẹ Maria hoàn tất cuộc đời dương thế khi đã 72 tuổi.  Suốt những tháng năm dài trong cuộc lữ hành đức Tin ấy, Mẹ liên lỷ nhận thức Chúa hằng ở bên mình, thường xuyên “ghi nhờ và suy niệm trong lòng” từng phút giây:

  • Dâng mình trong đền thờ từ thuở thơ ấu, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” khi thực tập cầu nguyện, khi nghe các Thầy Tư Tế đền thờ dạy dỗ, khi phụ giúp từng công việc trong Nhà Chúa.
  • Trước lời sứ thần Gabriel loan báo Mẹ sẽ cưu mang Con Chúa giáng trần, Maria “ghi nhớ và suy niệm” mãi lời Xin Vâng chấp nhận thánh ý Chúa.
  • Khi đi thăm bà chị họ Isave, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” lời kinh Magnificat: Chúa hằng đoái thương các tỳ nữ thấp hèn của Người.
  • Cùng với Giuse lên đường về Bêlem khai kiểm tra dân số, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” những thiếu thốn mà Đấng Cứu Tinh phải chịu khi giáng sinh làm người giữa thế trần.
  • Chợt thấy các mục đồng và ba đạo sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Nhi, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” mọi kỷ niệm ấy, mọi câu chuyện mà nhóm người chăn chiên thuật lại.
  • Suốt ba ngày tìm kiếm, Mẹ thấy lại Chúa Giêsu ngồi giữa các bậc thầy Do Thái, Maria “ghi nhớ và suy niệm” về sự kiện Con Chúa phải lo việc bổn phận ở nhà Cha Ngài.
  • Nơi tiệc cưới Cana, Mẹ kín đáo “ghi nhớ và suy niệm” giờ của Con Chúa đến, âm thầm nhắc nhở người giúp việc gắng làm theo ý Chúa Giêsu dạy bảo.
  • Ba năm truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Mẹ theo Chúa trên từng cây số. Đôi khi muốn tìm gặp phút riêng tư với Chúa (Mc 3:31), Mẹ “ghi nhớ và suy niệm’ từng lời Chúa rao giảng.
  • Trên đường thập tự, Đức Maria đau đớn nhìn Con vác thánh giá, lòng Mẹ đau xót “ghi nhớ và suy niệm” từng chặng đường của Chúa phải đi qua.
  • Nơi đỉnh đồi Calvê, dưới chân Thập Tự nhìn Chúa chịu đóng đinh, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” những đau đớn mà Chúa đã phải hứng nhận, hy sinh chuộc tội, đền thay cho loài người.
  • Ôm xác Chúa Giêsu đem táng vào huyệt đá mới, Mẹ “ghi nhớ và suy niệm” lời Simêon nói khi xưa “một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà”.
  • Sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ âm thầm hiệp thông với các tông đồ cầu nguyện trong nhà tiệc ly, “ghi nhớ và suy niệm” những điều Chúa đã báo trước, chờ đợi Ơn Thánh Linh kiện toàn.

Nhìn chung, từng biến cố xảy đến trong đời, Đức Mẹ hoàn toàn “lắng nghe và vâng theo ý Chúa” luôn.

B. “Ghi nhớ và suy niệm”: thái độ cần thiết trong cuộc sống.

Sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 9:1-19) thuật lại: đang khi hăng say bách hại kitô hữu ở thành phố Đamas, Saolô đã bị ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ, khiến ông ngã ngựa. Saolô chợt nghe tiếng Chúa cho biết việc làm sai trái của ông. Suốt ba ngày mù mắt, không ăn không uống, ông “ghi nhớ và suy niệm”:

  • những lầm lỗi quá khứ của mình, khi đồng loã trong vụ ném đá Stêphanô (Cv 7:58), khi lùng bắt doạ giết các môn đệ Chúa.
  • những đau khổ mà ông sẽ phải chịu vì danh Chúa (Cv 9:16) khi đi rao giảng Tin Mừng.

Saolô vẫn can đảm chấp nhận, quyết tâm làm theo Thánh Ý Chúa, sẵn sàng là vị “tông đồ dân ngoại” .

  1. Hàng năm, vào Mùa Vọng và Mùa Chay, các giáo xứ có thói quen mở Tuần Đại Phúc, giúp giáo dân sống Đạo sốt sắng, nghe giảng, học hỏi về Mầu Nhiệm Nhập Thể và Mầu Nhiệm Cứu Chuộc “ghi nhớ và suy niệm” tình yêu thương mà Con Thiên Chúa đã hy sinh vì phần rỗi nhân loại.
  1. Các tu sĩ, chủng sinh trước khi Khấn Dòng hay Nhận Thánh Chức, thường trải qua một Tuần Tĩnh Tâm, nghe hướng dẫn và hồi tâm, “ghi nhớ và suy niệm” về hồng ân mà mình sắp được Chúa trao ban, về lời khấn Dòng mà mình sắp thề hứa.
  1. Chàng sinh viên, sau bao năm dùi mài kinh sử trên ghế nhà trường, nay dừng lại dành thời gian trong góc thư viện, nghiên cứu sách vở, “ghi nhớ và suy niệm” trong thầm lặng những kiến thức đã học hỏi, để tổng kết tư liệu chuẩn bị trình luận án tốt nghiệp.
  1. Đôi vợ chồng già sau bao năm sống đời Hôn Nhân con đàn, cháu đống; nay con cái đề nghị cha mẹ mừng Lễ Kim Khánh Thành Hôn, kỷ niệm 50 năm nhận bí tích Hôn Phối. Trước bàn thờ Chúa, khi nghĩ lại lời thề hôn nhân năm xưa, hai ông bà “ghi nhớ và suy niệm” trong lòng bao kỷ niệm khó quên của thời gian đầu sống chung lập nghiệp, tạ ơn Chúa muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương nâng đỡ họ.

Thế mới hiểu: cuộc sống nên ý vị nhờ những lần take a time “ghi nhớ và suy niệm” chuyện đã qua, từ đó rút kinh nghiệm và chuẩn bị hướng đi mới vững vàng hơn.

C. Nhận biết Thánh Ý Chúa nhờ “ghi nhớ và suy niệm” thường xuyên.

Trong bối cảnh Con Chúa giáng sinh, ắt hẳn đã một lúc nào đó, Đức Maria cũng hay tự thắc mắc:

  • Sao phải về Bêlem bấp bênh xa lạ, sinh hạ Đấng Cứu Thế, mà không ở lại Nazareth ổn định hơn?
  • Về nơi đó, không còn chỗ trọ, phải ghé máng có hôi tanh, trong khi nhà có đủ mà lại nằm đất?
  • Sinh con hẩm hiu nghèo túng, sao có người biết tin ( mục đồng, ba đạo sĩ ) mà tìm đến?

Với cái nhìn thô thiển ấy, rất có thể Maria “ghi nhớ và suy niệm” liên miên, đoạn từ từ nhận biết bàn tay quan phòng tốt đẹp của Chúa vẫn ở bên cuộc sống mình. Nhìn vào Kinh Thánh, ta còn thấy:

–   Môisen tin có Chúa ở cùng, nên ông lãnh đạo dân Israel vượt qua Biển Đỏ thành công.

–   David tin có Chúa ở cùng, nên trở thành Vị Vua tốt lành, cai trị Dân Chúa lâu năm.

–   Samson tin có Chúa ở cùng, nên ông có sức mạnh vô song, dẹp tan quân thù Philitinh.

–   Giuse tin có Chúa ở cùng, nên Ngài đã chu toàn vai trò dưỡng phụ Chúa Giêsu tốt đẹp.

Bình thường, trong “ghi nhớ và suy niệm”, ta cần:

+  Chú tâm lắng nghe tiếng Chúa.

+  Thực thi điều Ngài mời gọi.

+  Trung thành trọn hảo sứ vụ Chúa đã trao ban.

Để “ghi nhớ và suy niệm” thành công, ta phải:

–   Tách rời mọi sinh hoạt đang có, để ru mình vào phút hồi tâm.

–   Nâng hồn hướng thượng lên cao, nắm bắt ý tưởng.

–   Quan tâm trong hiện tại và thực hiện trong tương lai.

D. Lời Nguyện kết thúc.

Lạy Chúa!!! Ngày đầu Năm Mới, xin hướng tâm hồn con lên với Chúa, giúp con luôn “ghi nhớ và suy niệm”về Ngài  trong mọi lúc, sẵn sàng hành động theo Thánh Ý Chúa luôn.  AMEN.

Fr. Dominic Dieu Tran, SDD

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều và Te Deum cuối năm 2012

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều và Te Deum cuối năm 2012

VATICAN. Lúc 5 giờ 10 chiều 31 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi hát kinh chiều I lễ trọng kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và kinh Te Deum Tạ Ơn Chúa, nhân dịp kết thúc năm dương lịch. Ngài mời gọi các tín hữu giữ vững niềm hy vọng trước những khó khăn.

Hiện diện tại Đền thờ Thánh Phêrô còn có hơn 20 HY, đặc biệt là ĐHY Agostino Vallini, Giám Quản Roma, các GM phụ tá và lối 20 GM khác, đông đảo các cha sở và lối 8 tín hữu cùng với Ông Đô Trưởng và chính quyền miền Lazio và thành phố Roma.

Bài giảng của ĐTC Trong bài giảng, ĐTC mời gọi các tín hữu ý thức về những điều thiện vẫn hiện hữu trên thế giới và dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Ngài nói:

”Thực vậy, trong kinh Te Deum, có chứa đựng một sự khôn ngoan sâu xa, sự khôn ngoan làm chúng ta nói rằng, dầu sao đi nữa, có điều thiện trong thế giới, và điều thiện này sẽ chiến thắng nhờ ơn Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, nhập thể, chịu chết và sống lại. Hẳn thực, đôi khi thật khó lãnh hội thực tại sâu xa này, vì sự ác gây ồn ào hơn sự thiện. Một vụ giết người tàn ác, bạo hành lan tràn, những bất công trầm trọng thường được báo chí nói đến như tin tức, trong khi những cử chỉ yêu thương, phục vụ, những vất vả cơ cực chịu đựng hằng ngày trong niềm trung thành và kiên nhẫn, thường bị đặt trong bóng tối, không được nói đến. Cũng vì lý do đó, chúng ta không thể chỉ dừng lại nơi những tin tức, nếu chúng ta muốn hiểu thế giới và cuộc sống; chúng ta phải có khả năng dừng lại trong thinh lặng, mặc niệm, suy tư trầm lặng và kéo dài. Qua đó tâm hồn chúng ta có thể được chữa lành khỏi những vết thương không thể tránh được những vết thương của đời sống thường nhật, có thể đi sâu vào các sự kiện xảy ra trong cuộc sống chúng ta và thế giới, và đạt tới sự khôn ngoan, giúp chúng ta lượng định sự việc với cái nhìn mới. Nhất là khi hồi niệm trong lương tâm, nơi Chúa nói với chúng ta, chúng ta học cách nhìn trong sự thật những hành động của mình, cả sự ác hiện diện trong và quanh chúng ta, để bắt đầu một hành trình hoán cải làm cho chúng ta khôn ngoan và tốt lành hơn, có khả năng hơn trong việc thực thi liên đới và hiệp thông, thắng sự ác bằng sự thiện. Kitô hữu là người hy vọng, cả khi và nhất là đứng trước tăm tối thường xảy ra trên thế giới, tăm tối ấy không tùy thuộc dự án của Thiên Chúa, nhưng là do những chọn lựa sai lầm của con người, vì Kitô hữu biết rằng sức mạnh của đức tin có thể chuyển núi dời non (Xc Mt 17,20): Chúa có thể chiếu sáng cả những tối tăm dầy đặc nhất”.

ĐTC cũng nhắc đến Năm Đức Tin và sứ mạng truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, đặc biệt cho các thế hệ trẻ, giúp họ thỏa mãn khát vọng chân lý mà mỗi người mang trong tâm hồn, nhưng khát vọng này thường bị lu mờ vì bao nhiêu sự việc trong cuộc sống. ”Sự dấn thân tông đồ này càng cần thiết giữa lúc đức tin có nguy cơ bị lù mờ trong bối cảnh văn hóa cản trở không đi sâu hơn vào cuộc sống con người và dần dần vắng bóng khỏi xã hội”. ĐTC nói về nhu cầu truyền giảng Tin Mừng tại Roma, trước sự gia tăng con số các tín đồ khác, và những khó khăn mà nhiều cộng đoàn giáo xứ gặp phải trong việc đến gần giới trẻ, sự lan tràn lối sống cá nhân chủ nghĩa và duy tương đối về luân lý. Đàng khác cũng có nhiều người tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của mình và tìm một niềm hy vọng vững chắc.

Với ý hướng trên đây, ĐTC mời gọi các tín hữu, nhất là các bậc phụ huynh, hãy sống phù hợp với niềm tin để có thể trở thành môn đệ và chứng nhân đáng tin cậy của Chúa Kitô. Ngài khuyến khích tăng cường việc mục vụ gia đình, tổ chức các nhóm liên gia trong đó các tín hữu lắng nghe Lời Chúa, chia sẻ kinh nghiệm cuộc sống đảo, giúp củng cố ý thức mình thuộc về cộng đoàn XX và tăng trưởng trong tình bạn với Chúa”.

Cuối kinh chiều, có nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và hát kinh Te Deum tạ ơn Thiên Chúa. Sau đó, ĐTC đã ra quảng trường thánh Phêrô viếng thăm và cầu nguyện hang đá khổng lồ tại đây.

Ngoài ra lúc 10 giờ rưỡi tối hôm 31 tháng 12-2012, đã có buổi canh thức tại Quảng trường thánh Phêrô để cầu nguyện cho sự hiệp nhất và hòa bình trong các gia đình và giữa các dân nước. Đây là lần thứ 10, Phong trào tình yêu gia đình tổ chức và cổ võ buổi canh thức thuộc loại này. (SD 31-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP- Vietvatican

TRUNG GIAN (ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA)

TRUNG GIAN (ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA)

Ds 6, 22-27; Gal 4, 4-7; Lc 2, 16-21).

Ngày đầu năm, mọi dân nước rộn rã hân hoan đón chào một sự khởi đầu mới. Chúng ta cùng dâng lời tạ ơn Chúa cho một năm qua với nhiều ân sủng và những niềm vui, nỗi buồn. Nhìn lại năm cũ để tính toán sổ sách cuộc đời và hướng tới năm mới để dự phóng những chương trình và mơ ước cho tương lai. Ôn cố tri tân. Đối với con người đang lữ hành, thời gian là hồng ân có quá khứ, hiện tại và tương lai. Thêm một năm, mỗi người già thêm một tuổi. Khi nhìn lên bàn thờ tổ tiên trong các gia đình Việt Nam, tôi suy gẫm về những hình ảnh của cha ông. Có nhiều hình ảnh ông bà tổ, ông bà nội ngoại hay cha mẹ rất trẻ, có vị chỉ sống được 20 xuân xanh đã qua đời. Trên bàn thờ con cháu vẫn luôn nhang đèn và tôn kính mến yêu. Có những người con, người cháu già cả 70, 80 tuổi vẫn cúi đầu vái lậy. Qua đời khi còn trẻ hay già không quan trọng, kẻ bề trên vẫn luôn là những vị tiền bối. Tổ tiên, ông bà và cha mẹ luôn được tôn kính mến yêu.

Hôm nay Giáo Hội Công Giáo mừng kính lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên xưng một người đàn bà đã hạ sinh Con Chúa: Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật (Gal 4, 4). Người đàn bà chính là Đức Maria. Maria được Thiên Chúa tuyển chọn trong muôn vàn phụ nữ để cưu mang Con Chúa. Qua lời xin vâng, trinh nữ Maria đã thụ thai và sinh hạ Con Thiên Chúa. Dựa vào Kinh Thánh mạc khải, truyền thống, suy tư thần học và tâm tình con thảo, Giáo Hội đã tuyên tín: Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa quá nhiệm mầu và cao cả. Đức Maria không tự mình nhận tước hiệu này, nhưng Maria chỉ nhận là nữ tỳ của Chúa và là tôi tớ xin vâng như lời thiên thần truyền. Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa được các Công Đồng, các thánh Giáo Phụ và toàn thể Giáo Hội cùng tin nhận. Vì Đức Mẹ là mẹ của Chúa Giêsu và là đầu nhiệm thể. Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Khi Maria đi thăm viếng người chị họ Isave, bà qúa vui mừng đã thốt lên lời ca ngợi rằng bởi đâu tôi được mẹ của Chúa tôi đến viếng thăm.

Là Mẹ của con Thiên Chúa nhưng Đức Maria sống rất khiêm tốn và âm thầm. Mẹ Maria đã sinh ra Chúa Giêsu con người toàn vẹn với hai bản tính Thiên Chúa và loài người. Con Chúa đã được dưỡng nuôi bằng chính máu thịt của mẹ. Đời Mẹ sống trong niềm tin yêu và hy vọng. Maria sống lặng lẽ trong cầu nguyện và chiêm ngắm những biến cố xảy ra trong đời. Thánh Luca viết vắn gọn: Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2, 19). Có Chúa ở cùng là một niềm vui hoan lạc. Mẹ có Chúa Giêsu hiện diện ngay bên để chia sẻ cuộc sống gia đình.Cuộc sống của Maria cũng giống như cuộc đời của các phụ nữ khác. Hằng ngày cũng lao động để lo miếng cơm manh áo nuôi sống gia đình. Mẹ an vui chu toàn bổn phận của người vợ và người mẹ trong gia đình.

Đức Maria cũng trải qua mọi ngày với những công việc bình thường như các bà mẹ trong gia đình. Mỗi việc làm với ý thức và tình yêu sẽ trở thành việc vĩ đại. Vĩ đại không phải vì to lớn nhưng vĩ đại vì tâm của con người vĩ đại. Mẹ làm tất cả vì con và cho con. Không có cung lòng nào có phúc hơn cung lòng của mẹ. Mẹ được diễm phúc ở bên cạnh Con Chúa cho tới khi Chúa hoàn tất sứ mệnh. Mẹ được chăm lo, săn sóc và yêu thương Con Chúa hết mình. Mẹ chung vui và xẻ buồn cùng Con trên mọi nẻo đường. Mẹ cũng lo buồn và sầu héo khi Con Chúa bị người đời khinh dể, xua đuổi, chối từ và tẩy chay. Mẹ luôn đồng hành với Con trong mọi bước đường, ngay cả khi Con bị bắt, bị vác thánh giá ngã gục trên đường lên núi sọ. Mẹ đứng dưới chân thập giá nhìn Con hấp hối và trút hơi thở cuối cùng. Có ai đứng đó để chia sẻ nỗi đớn đau và tan nát tâm can như mẹ. Mẹ xứng đáng lãnh nhận tất cả mọi tước hiệu ca khen của Giáo Hội.

Giáo Hội đã dâng kính Mẹ nhiều tước hiệu cao cả. Đức Mẹ là Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội. Mẹ là Hòm bia Thiên Chúa và là cửa thiên đàng. Mẹ là Nữ Vương các thiên thần và các thánh. Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông và được hồn xác lên trời. Đức Mẹ bầu chữa kẻ có tội và yên ủi kẻ âu lo. Có Mẹ, chúng ta sẽ tìm được sự bình yên và an lạc. Chúng ta dễ dàng đến với Mẹ để tâm sự và cầu nguyện. Đôi khi có những người thắc mắc rằng tại sao Giáo Hội đặt vị trí của Đức Maria cao quá vậy? Giáo Hội còn lưu giữ hình ảnh, bút tích, phép lạ và những việc lạ lùng Đức Maria đã thực hiện qua suốt sự thăng trầm của lịch sử. Đã nhiều lần Đức Mẹ hiện ra để an ủi, khuyên dạy và kêu gọi sám hối. Mẹ là trung gian chuyển cầu ơn Chúa cho chúng ta. Tất cả mọi sự đều được qui về Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ.

Mẹ Maria không chỉ là hình ảnh cô thôn nữ trẻ trung hay bà mẹ sầu bi, mà là hình ảnh Mẹ hiển sáng. Mẹ Maria đã già hơn 2 ngàn tuổi. Mẹ đã hiện diện trước khi Giáo Hội được thành hình. Mẹ đã sinh ra Chúa Cứu Thế và Mẹ đồng công cùng Con Chúa trong sứ mệnh Cứu Độ. Chúa Giêsu lập Giáo Hội và đã chọn các tông đồ để tiếp tục sứ mệnh. Mẹ Maria đã hiện diện với các tông đồ trên mọi nẻo đường. Đức Maria can đảm đứng dưới chân thập giá đón nhận lời trăn trối sau cùng của Con. Mẹ đã ở lại an ủi các tông đồ trong những lúc cô đơn, sợ hãi và buồn sầu nhất. Cùng với Chúa Giêsu phục sinh, Mẹ đã qui tụ các tông đồ và cầu nguyện chờ đón ơn Chúa Thánh Thần. Vậy, Đức Maria xứng đáng lãnh nhận mọi tước hiệu của Giáo Hội dâng kính. Trải qua hơn hai ngàn năm từ dòng dõi này qua dòng dõi kia vẫn tiếp tục truyền bá niềm tin và lòng sùng kính mến yêu Mẹ. Giáo Hội vẫn đang trong cuộc lữ hành trên trần thế không thể vắng bóng Mẹ. Thiên Chúa đã chọn gọi Mẹ Maria như là máng chuyển ơn lành cho mọi chúng sinh.

Mẹ rợp bóng mát trên đàn con. Nơi đâu Mẹ xuất hiện, nơi đó qui tụ cả hằng triệu con tim. Những địa danh thánh được Mẹ thăm viếng đã trở thành những trung tâm hành hương của con cái mẹ. Một số nơi Mẹ đã hiện đến như ở Guadalupe (1531), Paris (1830), Rome (1842), la Salette (1846), Lourdes (1858), Fatima (1917), Bonneux (1933), Syracuse (1953) và nhiều nơi khác nữa. Mỗi miền dân tộc đã có những sự sùng kính danh thánh riêng của Mẹ như Đức Mẹ Lavang, Đức Mẹ Altargracia, Đức Mẹ Providencia, Đức Mẹ African, Đức Mẹ Perpetual Help (Hằng Cứu Giúp)…Những hình ảnh Mẹ gần gũi thân thương với dáng vẻ, khuôn mặt, mầu da và áo quần trang sức đã mời gọi các tín hữu đến gần bên Mẹ hơn.

Mỗi khi chúng ta đọc kinh Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn hơn mọi người nữ, chúng ta tôn vinh Mẹ vì ân sủng Chúa ban. Mẹ là ánh sao dẫn đường chúng ta đến với Chúa. Tất cả những ai chạy đến cầu xin cùng Mẹ sẽ không bị thất vọng. Lạy Chúa, chúng con có Chúa và có Mẹ.Chúng con có mái ấm gia đình là Giáo Hội. Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Giáo Hội sinh chúng ta ra làm con cái Thiên Chúa. Chúng con bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa.Thánh Phaolô dậy: Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa (Gal 4, 7).

 Xin cho chúng con cùng được chia phần gia nghiệp trong Nước Chúa. Chúng ta cùng nguyện rằng: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.

Lm Giuse Trần Việt Hùng Bronx, New York

Maria Mẹ Thiên Chúa

Maria Mẹ Thiên Chúa

Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, Mẹ rất thánh của chúng ta, được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu này được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe hay lúc tản bộ. Dĩ nhiên, tôi cũng từng đọc cả trăm lần mỗi ngày lời Mẹ Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ. Và, do lòng sùng kính, hiếu thảo của một người con đối với Mẹ Thiên Chúa, tôi muốn tìm hiểu từ ngữ này trên hai phương diện: lịch sử và thần học, hầu hiểu biết được quan điểm của Giáo Hội Công Giáo đối với danh xưng này.

ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ

Thánh danh Mẹ Thiên Chúa được dùng trong kinh nguyện của Giáo Hội từ lâu trước cuộc tranh luận giáo thuyết làm nên một giai đoạn thử thách đức tin Kitô hữu. Tuy nhiên, tước hiệu chính xác Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Giám Mục Alexander thành Alexandria xưng tụng khoảng năm 281 – 300 A.D.

Theo lịch sử Công Giáo, Nestôriô chủ trương rằng việc nhập thể bao gồm một sự biến đổi trọn vẹn của Ngôi Lời. Đối với ông, Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, nhưng là mẹ một con người thuần túy, một người có tên Giêsu, người mang Ngôi Lời. Để lên án học thuyết sai lầm về Thánh Mẫu Học và Kitô Học của bè rối Nestôriô, Công Đồng chung Êphêsô năm 431, dưới quyền điều khiển của Thánh Cyrilô thành Alexandria, đã tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và mầu nhiệm của đức tin Công Giáo chúng ta. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.

1)- Trong Thánh Kinh:

Mặc dù Thánh Kinh không chính thức dùng từ ngữ Mẹ Thiên Chúa, nhưng từ ngữ đó đã được hàm chứa một cách rõ rệt và minh bạch trong Thánh Kinh. Theo tiên tri Isaia, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel (Is, 7:14; Mt, 1:23). Từ câu này, chúng ta có thể nói : Trinh Nữ đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Lời tiên tri trên được thực hiện trong Phúc Âm Luca khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria : “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai v sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…; vì thế Trẻ Thánh sinh ra bởi Bà, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc, 1:31-35).

Cũng vậy, Thánh Phaolô nói : Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật (Gal,4:14). Và từ dòng dõi họ Đức Kitô, theo huyết nhục, cũng từ họ mà ra, là Đấng vượt trên muôn loài, tức là Thiên Chúa, đáng ca tụng đời đời. (Rm, 9:5). Chúng ta cũng thấy, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2:1; 19:26), và Mẹ Chúa trong Luca, đoạn nói về việc Đức Mẹ đến thăm bà Elizabeth (1:43). Do đó, trong Thánh Kinh, ta thấy Thiên Chúa Cha mời gọi Đức Maria và do lời FIAT tự nguyện của Mẹ, trong quyền lực ơn sủng của Thánh Thần, Mẹ trở nên Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người; và như thế, Mẹ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

2)- Qua Thánh Truyền:

Các Kitô hữu thời sơ khai, được các Tông Đồ hướng dẫn, có một niềm tin vững chắc vào chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như : Kinh Tin Kính của các Tông Đồ : Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Con Một Thiên Chúa Cha, Đấng xuống thai bởi phép Chúa Thánh Thần, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria; công thức rửa tội ở thời kỳ đầu và những kinh nguyện phụng vụ.

Thêm vào đó, tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được tin yêu và truyền dậy bởi các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô, Antiochia… Vào thời Thánh Athanasiô năm 373, chúng ta thấy có câu : Chúng tôi thú nhận rằng Con Thiên Chúa đã trở nên nhục thể qua việc nhận lấy thân xác từ một Trinh Nữ, Đấng Mẹ Thiên Chúa. Và Thánh Giêgoriô Nagianô tuyên bố : “Nếu người nào không nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì người đó không có Thiên Chúa làm Cha.”

Vì thế, qua Thánh truyền, chúng ta có thể xác quyết rằng Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, và như vậy Mẹ Rất Thánh của chúng ta thật là Mẹ Thiên Chúa.

3)- Qua Giáo Huấn của Giáo Hội:

Trước tiên, Maria, Mẹ Thiên Chúa được tuyên bố để bênh vực Thiên Tính Chúa Giêsu, Con Mẹ, trong Công Đồng Chung thứ III tại ÊPhêsô năm 431 do Đức Giáo Hoàng Celestinô I. Thật ra, vào năm 428, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đã bị phản đối công khai tại Constantinople. Những Công Đồng kế tiếp như Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553 đã làm sáng tỏ hơn ý nghĩa tước hiệu Mẹ Thiên Chúa.

Công Đồng Constantinople III (680-681) đã lên án phái Monothelites và nhắc lại một số công thức cổ truyền. Công Đồng xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.

Ngoài ra, chúng ta còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp Mediator Dei để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.

Đức Piô XII, trong thông điệp lịch sử của ngài, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.

Sau cùng, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen gentium, chương VIII đã nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang mồng 1 tháng 1.

4)- Trong Thánh Lễ:

Thánh Lễ của chúng ta thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta. Vì tính chất phong phú đó, tôi xin trình bầy việc nhắc đi nhắc lại tước hiệu cao cả này mà ta thấy chứa đựng trong Thánh Lễ.

Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, vị linh mục đọc : Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc : Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa.v.v….

CÁI NHÌN THẦN HỌC

Để hiểu hơn về chức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy nghiên cứu những học thuyết bàn về chức vị này, những học thuyết bao gồm cách thiết yếu việc nhiệm sinh từ đời đời của Đức Kitô bởi Thiên Chúa Cha liên quan tới việc Ngài được sinh ra trong thời gian bởi Đức Trinh Nữ Maria. Theo Thánh Cyrilô, chúng ta có thể nhận ra chức Mẹ Thiên Chúa của Mẹ Maria qua những quan điểm sau đây :

a)- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hiện hữu với Thiên Chúa Cha từ đời đời, và là Ngôi Lời.

b)- Trong Chúa Giêsu Kitô, thiên tính và nhân tính kết hợp một cách bất khả phân ly trong một ngôi. Công Đồng Nicea định nghĩa Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, Ngài có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha. Những Công Đồng khác cũng xác nhận đức tin này, như Công Đồng Chalcedonia năm 451, đã dạy rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người trong một ngôi vị. Vì Chúa Giêsu có 2 bản tính, nên chúng ta có thể hiểu sự nhiệm sinh của Ngài từ muôn đời bởi Thiên Chúa Cha và sự sinh ra trong thời gian của Ngài bởi Đức Trinh Nữ Maria.

Bởi ngôi vị bất khả phân chia của Ngài, Con Thiên Chúa tuyệt đối đồng nhất với con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì thế, Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

Hơn nữa, vào thế kỷ 13, Thánh Tôma đã đóng góp, bằng một đường lối đặc biệt, vào việc làm cho mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria thêm minh bạch và ý nghĩa. Ngài đã sáng tác và kéo dài việc bàn giải về Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa nơi phần viết về Kitô Học trong bộ Tổng Luận Thần Học.

Qua những điều được trình bầy ở trên, chúng ta ý thức và xác nhận rằng Đức Maria thực sự là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa từ đời đời và là người thật. Vì thế, Đức Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa. Mẹ cũng là người đầu tiên chạm tới và làm sáng tỏ những mầu nhiệm cứu độ của tình thương Thiên Chúa. Thánh Kinh không những cho chúng ta biết phần nào sự kiện lịch sử trong quá khứ, điều chúng ta gọi là mạc khải.

Thêm vào đó, bởi ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, các Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã để lại cho chúng ta một giáo huấn trọn hảo về Thánh Mẫu Học trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội ở Chương VIII. Nơi chương này, chúng ta có một khoa Thánh Mẫu Học phong phú mà các Giáo Phụ của Công Đồng đã mượn tư tưởng của Thánh Ambrôsiô dạy rằng : Mẹ Thiên Chúa là một mẫu gương của Giáo Hội về Đức Tin, đức ái và sự hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô.

Các nghị phụ của Công Đồng Vaticanô II đã bày tỏ chính bản chất chân lý về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa một cách thỏa đáng, nên không cần bàn gì thêm về chân lý căn bản này trong đức tin của chúng ta nữa.

LM Cao xuân Thành (tinmung.net)

Đức Thánh Cha kêu gọi bênh vực và nâng đỡ gia đình

Đức Thánh Cha kêu gọi bênh vực và nâng đỡ gia đình

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 30 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các gia đình Công Giáo noi gương Thánh Gia Thất và gia tăng nỗ lực bênh vực chính cách gia đình.

Buổi đọc kinh Truyền Tin lễ Thánh Gia và cũng là chúa nhật cuối cùng của năm 2012. Hàng chục ngàn tín hữu có mặt tại Quảng trường thánh Phêrô dưới bầu trời nắng đẹp, cạnh hang đá máng cỏ khổng lồ bên cây thông cao 25 mét.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Luca về biến cố Chúa Giêsu theo cha mẹ đi hành hương ở Đền thờ Jerusalem, và sau đó ngài âm thầm ở lại, và mãi ba ngày sau cha mẹ Ngài mới tìm lại được con ở Đền thờ sau 3 ngày lo lắng tìm kiếm. ĐTC nói:

“Anh chị em thân mến, hôm nay là lễ Thánh Gia Nazareth. Trong phụng vụ, đoạn Tin Mừng theo thánh Luca trình bày cho chúng ta Đức Trinh Nữ Maria và thánh Giuse, trung thành với truyền thống, lên Jerusalem để mừng lễ Vượt Qua cùng với Chúa Giêsu 12 tuổi.

Lần đầu tiên mà Chúa Giêsu vào Đền thờ của Chúa là 40 ngày sau khi Ngài sinh ra, khi cha mẹ Ngài dâng cho Chúa ”một cặp chim gáy hoặc chim bồ câu non” (Lc 2,24), nghĩa là lễ vật của những người nghèo. Trong toàn sách Tin Mừng theo thánh Luca, vốn là một Tin Mừng thấm đượm một nền thần học về người nghèo và về sự thanh bần, thánh nhân cho thấy .. rằng gia đình Chúa Giêsu được kể vào số những người nghèo của Israel; thánh Luca cho chúng ta hiểu rằng chính nơi họ mà lời hứa của Chúa có thể được viên mãn” (L’infanzia di Gesù, 96). Hôm nay, Chúa Giêsu lại vào Đền Thờ, nhưng lần này với một vai trò khác, có liên hệ đích thị tới Ngài. Cùng với Mẹ Maria và Thánh Giuse, Ngài hành hương lên Jerusalem theo qui định của Lề Luật (Xc Xh 23,17, 34,23ss), cho dù Ngài chưa đầy 13 tuổi: đó là dấu chỉ lòng đạo đức sâu xa của Thánh Gia. Nhưng khi song thân Ngài lên đường trở về Nazareth, thi xảy ra một điều bất ngờ: Ngài ở lại Thành Thánh mà không nói gì cả. Suốt 3 ngày, Mẹ Maria và Thánh Giuse tìm kiếm và thấy Ngài trong Đền Thờ, đang nói chuyện với các Thầy Thông Luật (Xc Lc 2,46-47); và khi song thân hỏi lý do tại sao thì Chúa Giêsu trả lời rằng Thầy Mẹ không nên ngạc nhiên, vì xây chính là chỗ của con, đây là nhà của Ngài, nơi Cha Ngài là Thiên Chúa (Xc L’infanzia di Gesù, 143). Origène đã viết: ”Ngài nói tiên tri sẽ ở trong Đền thờ của cha Ngài, Cha mà Ngài mạc khải cho chúng ta và Ngài nói là Con của Người” (Omelie sul Vangelo di Luca, 18,5).

”Sự lo lắng của Mẹ Maria và Thánh Giuse về Chúa Giêsu cũng là sự lo lắng của mỗi cha mẹ trong việc giáo dục mỗi người con, dẫn con cái vào cuộc sống và hiểu biết thực tại. Vì thế, ngày nay chúng ta cần đặc biệt cầu xin Chúa cho tất cả các gia đình trên thế giới. Noi gương Thánh Gia Nazareth, các cha mẹ hãy nghiêm túc quan tâm đến sự tăng trưởng và giáo dục con cái mình, để chúng trưởng thành như những người có trách nhiệm và những công dân lương thiện, không bao giờ quên rằng đức tin là một hồng ân quí giá cần được nuôi dưỡng nơi chính các con cái, kể cả bằng gương sáng. Đồng thời chúng ta hãy cầu nguyện để mỗi để mỗi trẻ em được đón nhận như một món quà của Thiên Chúa, được tình thương của cha mẹ nâng đỡ, để có thể lớn lên như Chúa Giêsu, ”càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và người đời” (Lc 2,52). Ước gì tình yêu, lòng trung thành và tận tụy của Mẹ Maria và thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả các đôi vợ chồng Kitô, họ không phải bạn hữu hay chủ nhân cuộc sống của con cái mình, nhưng là những người gìn giữ hồng ân khôn sánh này của Thiên Chúa”. ”Ước gì sự thinh lặng của thánh Giuse, người công chính (Xc Mt 1,19) và gương của Mẹ Maria, đã cẩn giữ mọi sự trong tâm hồn (Xc Lc 2,51) đưa chúng ta đi vào mầu nhiệm đầy đức tin và tình người của Thánh Gia. Tôi cầu chúc tất cả các gia đình Kitô sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa với cùng tình yêu và niềm vui của gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse”.

Chào thăm Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các tín hữu bằng nhiều ngôn ngữ và tóm tắt ý chính bài huấn giáo. Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ngài nhận xét rằng: ”Con Thiên Chúa đã muốn sinh ra trong một gia đình, qua đó mang lại cho gia đình một ý nghĩa cao thượng và chỗ đứng không thể thay thế được đối với con người và xã hội. Gia đình là chiếc nôi tự nhiên của trẻ em. Gia đình là mảnh đất đầu tiên và không thể thay thế được nơi mà con người và những liên hệ giữa con người bén rễ và được xây dựng. Xin Mẹ Maria và Thánh Giuse giúp các cha mẹ giáo dục con cái và thông truyền đức tin cho chúng!

ĐTC cũng nói bằng tiếng Tây Ban Nha và sứ điệp của ngài được trực tiếp truyền hình tới hàng chục ngàn người ở Madrid:

”Tôi thân ái chào thăm các tín hữu nói tiếng Tây Ban Nha hiện diện ở đây trong buổi đọc kinh kính Đức Mẹ. Từ đây, tôi cũng chào thăm đông đảo các tín hữu tham dự ”Thánh Lễ của các gia đình” được tổ chức tại Madrid. Ước gì Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là mẫu gương đức tin làm cho tình yêu được chiếu tỏa rạng ngời và củng cố đời sống của các gia đình. Nhờ lời chuyển cầu của các Ngài, chúng ta cầu xin cho gia đình tiếp tục là món quà quí giá cho mỗi phần tử của gia đình, một niềm hy vọng vững chắc nhất cho toàn thể nhân loại. Và niềm vui chia sẻ cuộc sống theo Thiên Chúa mà chúng ta đã học biết từ cha ông chúng ta, thúc đẩy chúng ta biến thế giới thành một gia đình đức tin, một không gian hòa hợp, liên đới và tôn trọng lẫn nhau. Với ý hướng đó, chúng ta hãy chạy đến cùng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Quốc của chúng ta, để Mẹ tháp tùng các gia đình trong ơn gọi của họ, trở thành như một Giáo Hội tại gia và là tế bào nguyên thủy của xã hội. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.” Thánh lễ Gia đình được cử hành lần thứ 6 tại Madrid, do ĐHY Antonio Maria Rouco, TGM sở tại, Chủ tịch HĐGM Tây Ban Nha, chủ sự, cùng với đông đảo các GM và linh mục, tại quảng trường Colón.

Trong bài giảng ĐHY Rouco khẳng định rằng chỉ có gia đình được quan niệm và sống hoàn toàn trong sự thật, như ngôn ngữ rõ rệt và không thể xóa bỏ của bản chất con người, mới phản ánh chân trời hy vọng cho con người và xã hội thời nay.

ĐHY cũng nói về gia đình Công Giáo như niềm hy vọng vững chắc duy nhất nếu chúng ta xét đến thực tại xã hội và văn hóa hiện nay và những giải pháp phù vân vô hiệu lực người ta đề nghị để ra khỏi tình trạng khủng hoảng sâu đậm của nhân loại hiện thời. Gia đình cần đương đầu với những chướng ngại về kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp luật và chính trị người ta đặt ra trên hành trình của gia đình. Vì thế, ĐHY nói, ngày nay hơn bao giờ hết, điều cấp thiết là thực hiện đạo lý đức tin chân lý ngàn đời về hôn nhân và gia đình”.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican  

Tình yêu và tình yêu

Tình yêu và tình yêu

Là con người ai cũng muốn yêu và khao khát được yêu. Yêu và được yêu là điều thiết yếu trong cuộc sống của con người. Giả như cuộc sống này không có tình yêu thì con người sẽ ra sao và thế giới này sẽ như thế nào? Giả như một ngày tình yêu vắng bóng thì tất cả những mối tương quan của con người sẽ đi về đâu? Bình thường như mọi ngày ‘một ngày như mọi ngày’ ư ? Không. Nếu một ngày tình yêu không còn nữa thì cuộc sống của con người sẽ trở nên cằn cỗi, và nhạt nhẽo lắm. Vắng bóng tình yêu, các mối tương quan giữa con người trở nên vô vị và mất hết ý nghĩa sống.

(Xin xem tiếp . . .Tình yêu và Tình Yêu )

BA NHÂN ĐỨC ĐỂ TẠO DỰNG VÀ GÌN GIỮ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH (Thánh Gia Thất 2012)

BA NHÂN ĐỨC ĐỂ TẠO DỰNG VÀ GÌN GIỮ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH

Bạn nghĩ gì và nghĩ sao khi nghe nói đến gia đình Thánh Gia vậy?  Riêng cá nhân tôi, mỗi lần nghe đến Gia Đình Thánh Gia, thì tôi liền liên tưởng ngay đến những sự nhỏ bé, mộc mạc, đơn sơ, nghèo khó và tầm thường. Thật vậy!

  • Làng Na-da-rét, nơi gia đình Thánh Gia định cư, chẳng có gì là đặc biệt cả, cho nên ông Na-tha-na-en mới nói: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?”(Ga 1:46).
  • Thánh Giuse là một con người bình dân, âm thầm và lặng lẽ, cho nên Phúc Âm chỉ nhắc đến tên của ngài vỏn vẹn chỉ có 16 lần.
  • Thánh Giuse làm nghề thợ mộc, vừa vất vả, vừa khó khọc, chỉ vừa đủ ăn mà thôi, cho nên khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Chúa Giêsu chẳng có gì đem theo cả: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20)!

Giả như bạn và tôi phải sống trong một ngôi làng nhỏ bé, tầm thường, và có cha mẹ là những người chất phác, âm thầm, tầm thường, và sống trong một hoàn hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như Thánh Gia Thất khi xưa, thì liệu gia đình của chúng mình có được sự bình an và sống trong hạnh phúc được không vậy?  Khó lắm!  Cứ sự thường mà nói, nghèo thường đi liền với khổ, cho nên người ta mới hay nói nghèo khổ là vậy!

Thế nhưng nói như vậy không có nghĩa là hễ ai sống trong sung túc, sống trong lụa là nhung lượt, ăn uống no đủ, tiền dư bạc thừa… thì người ấy sẽ có hạnh phúc và bình an, khôngdám đâu!  Bạn đọc báo, xem TV, đọc trên internet và nhìn những người nổi tiếng là giàu có, là đại gia, là trọc phú … thử đi rồi bạn sẽ thấy, hạnh phúc và bình an là hai món hàng xa sỉ mà họ đang tìm kiếm mà vẫn chưa tìm được đấy!
Như vậy thì làm thế nào để các gia đình tìm được sự hạnh phúc, bình an và ấm êm đây?  Mời bạn cùng với tôi điểm qua ba nhân đức, mà tôi tin rằng, nhờ ba nhân đức này mà Thánh Gia Thất mới có thể kiến tạo, xây dựng, bảo vệ và gìn giữ hạnh phúc cũng như bình an được:
Thứ nhất là sống an phận. Tại sao lại an phận?  Xin thưa là bởi vì thánh Mát-thêu ghi lại rằng thánh Giuse xuất thân từ một dòng tộc vua chúa, ngài là một người quý phái, là hậu duệ của vua Đa-vít chứ không phải là người xuất thân trong một dòng họ tầm thường (Mt1:1-17).  Một người xuất thân từ dòng dõi quý phái mà lại vui vẻ làm thợ mộc, cầm búa, cầm cưa, dùi, đục, khoan, thước… chấp nhận đổ mồ hôi, sôi nước mắt để kiếm cơm như vậy thì không phải là người biết an phận hay sao?  Sống an phận với hoàn cảnh hiện tại chính là bí quyết mà thánh Giuse dùng để tạo nên và gìn giữ hạnh phúc gia đình của ngài.
Thứ hai là nhờ vào sự vâng phục. Phúc Âm ghi lại những sự kiện cho chúng ta thấy cả ba Đấng: thánh Giuse, Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu đều là những tấm gương sáng chói về đức vâng phục.
  • Thánh Giuse đã vâng theo những kế hoạch củaThiên Chúa an bài, không thắc mắc, không than phiền, không phản đối. “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về… [Hãy trỗi] dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập …”(Mt 1:20-21; 2:13).
  • Mẹ Maria đã tuân theo thánh ý của Thiên Chúa hơn là ý riêng của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc1:38).
  • Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ của Ngài.  Sau khi cha mẹ tìm được Ngài ở trong đền thờ, thì Ngài đã trở về Na-da-rét và hằng vâng phục [thánh Giuse và MẹMaria] (Lc2:46).
Thứ ba là nhờ vào sự thinh lặng (tức là NÓI ÍT đó!). Khi phát hiện ra con trẻ bị thất lạc, hai ông bà không la ó, không chửi nhau, cũng không đổ lỗi cho nhau nhưng các ngài đã chia nhau đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc (Lc 2:44). Rồi khi tìm được con trẻ, thánh Giuse chẳng nói, cũng chẳng phiền trách hay càm ràm la ó. Còn Mẹ Maria, khi thấy các mục đồng đến thờ lạy và hát mừng, khi chứng kiến cảnh các nhà chiêm tinh lặn lội từ phương xa đến quỳ gối bái lạy, và khi nghe những lời tuyên sấm của ông Simeon về những gian nan khốn khó và đau khổ mà mình phải chịu đựng … Mẹ Maria không nói, không than, không phiền, chẳng trách … nhưng chỉ âm thầm ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng (Lc 2:19, 51).
Bạn thân mến, bạn có tin là nếu mỗi gia đình, bất luận là giàu hay nghèo, trong đó vợ chồng, cha mẹ, con cái chịu khó noi gương bắt chước thánh Giuse, Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu thực hành ba nhân đức AN PHẬN, VÂNG PHỤC & NÓI ÍT, thì gia đình ấy sẽ sống trong hạnh phúc, bình an và sẽ êm ấm thuận hòa không?  Nếu bạn tin như vậy, thì tôi xin có một vài đề nghị nho nhỏ sau đây:
  • Chồng, vợ, con cái hãy noi gương bắt chước thánh Giuse, biết thích ứng với hoàn cảnh chứ đừng nuối tiếc quá khứ, đừng nhớ những dĩ vãng những thời vàng son đã qua.  Quá khứ đã qua, không ai níu kéo lại được, một phút, một giờ trước đây đã trôi vào dĩ vãng rồi, huống hồ chi là mấy chục năm về trước?  Nuối tiếc làm chi cho thêm đau thêm khổ?  Chuyện gì đã qua hãy cho nó trôi vào dĩ vãng, đừng nuối tiếc, đừng xuýt xoa và đừng bao giờ nói “Giá mà hồi đó …”
  • Hãy bằng lòng với những gì mình đang có: nhà cửa, công việc làm, xe cộ, vợ, chồng, con cái … hãy sống an phận, đừng có cái kiểu đứng núi này trông núi nọ, đừng so sánh, cũng đừng bì tị, hoặc ghen tuông với … hàng xóm láng giềng … thuyền to thì sóng lớn, báu bở gì mà cứ mơ với ước của người ta làm chi dzậy?
  • Con cái trong gia đình hãy vâng phục bố mẹ bởi vì các ngài là những người đại diện cho Chúa để chăm sóc, lo lắng và giáo dục mình. Đừng phản đối, đừng chống báng, đừng hỗn hào, và đừng tỏ ra mình khôn ngoan và tài giỏi hơn cha mẹ. Khi vợ tuân phục chồng, khi chồng kính trọng vợ, khi con cái vâng lời và làm theo những sự dạy dỗ của cha mẹ, thì gia đình đó chắc chắn sẽ có hạnh phúc!
  • Khi đối diện với những thử thách, đau khổ, bất hạnh, tai nạn, bệnh tật, bất hòa … hãy tập giữ thinh lặng, đừng nói gì và cũng đừng làm gì cả.  Đừng trách, đừng móc, cũng đừng đổ lỗi cho nhau và chớ nên có cái kiểu giận cá chém thớt, hay quăng mèo ném chó, bạ đâu phang đó … Có khi nào bạn giăng buồm ra khơi khi bão tố nổi lên không?  Khi nóng giận, khi bất bình, khi gặp những thử thách đau khổ, mà bạn còn mở miệng ra nói, còn la, còn hét … thì bảo đảm, con thuyền gia đình của bạn sẽ lật úp ngay cho mà coi, chớ có dại!
Và cuối cùng, ngoài ba nhân đức AN PHẬN, VÂNG PHỤC & NÓI ÍT ra, muốn cho gia đình của bạn được nên giống như gia đình Thánh Gia, thì bạn hãy ghi nhớ, là bạn cần phải có Chúa Giêsu ở với bạn, bởi vì Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa và Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4:8). Và nếu muốn có Chúa Giêsu ở trong bạn thì bạn hãy chịu khó xưng tội, tham dự thánh lễ và rước lễ bởi vì Chúa Giêsu đã hứa rằng: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6:56).
Xin Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Gia Thất, chúc lành và giúp cho mọi người trong gia đình bạn nhận ra giá trị của ba nhân đức an phận, vâng phục và nói ít, để nhờ vậy gia đình của bạn sẽ sống hạnh phúc y như gia đình Thánh Gia vậy.  Amen.

Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

NOEL 2012 TẠI BETHLEM

NOËL 2012 TẠI BÊLEM

Với chúng ta, những kitô hữu, các địa danh của Đất Thánh như Cana, Capharnaum, Giêrusalem, Bêlem… đã phần nào trở nên quen thuộc. Dường như trong thâm tâm, ai cũng ước mong có một lần được đặt chân tới những nơi này để tận mắt thấy quê hương của Chúa Giêsu, nơi Ngài đã sinh ra, lớn lên, rao giảng Tin Mừng, làm phép lạ, đã chết và đã phục sinh. Chúng tôi may mắn được sống ở Đất Thánh vào thời điểm Lễ Giáng Sinh và được chứng kiến không khí tưng bừng của ngày đại lễ tại Bêlem. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà hai tháng trước đây cuộc xung đột xảy ra giữa Palestine và Israel, quý vị có thể hỏi : làm sao có được an ninh tại Bêlem trong ngày Lễ Giáng Sinh năm nay ? Bài chia sẻ này không trả lời trực tiếp cho vấn đề nêu trên đây, nhưng chỉ muốn gửi tới quý vị một vài thông tin và hình ảnh về ngày lễ Giáng Sinh tại thành phố Bêlem lịch sử này. Để hiểu hơn về ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng Con Thiên Chúa ra đời tại hang Bêlem, chúng ta cùng nhau nhìn khái quát về lịch sử của thành này đã được ghi trong Kinh Thánh cùng với những biến cố vĩ đại của nó trong lịch sử cứu độ.

1. BÊLEM XƯA VÀ NAY

Ai trong chúng ta đều biết, nước Do thái thời Chúa Giêsu chia làm ba miền : Galilê (Bắc) – Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam).

Bêlem là một thành thuộc miền Giuđêa, mà theo Tin mừng Luca, thành này được gọi là thành của vua Đavit : « Thời hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong cả thiên hạ … Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadaret, miền Galilêa lên thành Vua Đavit tức là Bêlem, miền Giuđêa, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavit » (Lc 2, 1-4).

Bêlem hay Bethlehem ngày nay là một thành phố nhỏ, nằm phía tây ngạn sông Giođan, cách thành phố Giêrusalem khoảng 8 km về phía nam, ở độ cao khoảng 760 m trên mặt biển và cao hơn Giêrusalem khoảng 30 m. Thành phố Bêlem hiện nay, với khoảng 50.000 dân (Kitô hữu chiếm khoảng 10%), do chính quyền Palestine kiểm soát, nhưng thị trưởng của thành này luôn là một kitô hữu. Mặc dù nhỏ bé, nhưng Bêlem là một trong những trung tâm hành hương và du lịch của Palestine thu hút rất nhiều khách du lịch và khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới. Tuy nền kinh tế thế giới đang trong vòng suy thoái, nhưng theo số thống kê mới đây, số khách về Bêlem trong năm 2012 lên tới gần 2 triệu người.

Mặc dù bé nhỏ, nhưng Bêlem là một trong những địa danh quan trọng trong lịch sử cứu độ. Đối với Do thái giáo, Bêlem là nơi có ý nghĩa quan trọng, vì ở ngoại ô thành này có mộ bà Rachel là vợ của ông Giacop. Bà đã qua đời khi sinh Benjamin (St 35, 19). Bêlem là quê hương của vua Đavit. Tại Bêlem Đavit được Samuel xức dầu phong vương (1Sm 16,13- 15) và do đó, Bêlem còn gọi là thành của Đavit (Lc 2,4-11). Được xem là một thành nhỏ nhất trong các chi tộc Giuđa (Mk 5,1), nhưng từ Bêlem sẽ xuất hiện Đấng cứu độ nhân loại (Mt 2,1-7). Chính vì thế, Bêlem xưa cũng như nay luôn là linh địa của Kitô giáo. Hai thị trấn nhỏ không xa trung tâm Bêlem,

là Beit Jala và Beit Sahour cũng có ý nghĩa đặc biệt với Kitô giáo, cách riêng là với Giáo Hội Công giáo. Ở Beit Jala, cách Bêlem hơn 2 km, có Chủng Viện Công Giáo nghi lễ Latinh, được thành lập từ năm 1852.

Được biết, năm học 2012-2013, Chủng Viện có 66 thày : 35 tiểu chủng sinh và 31 đại chủng sinh. Còn thị trấn Beit Sahour, cách Bêlem khoảng 2 km, có nhà thờ ‘Cánh Đồng Mục Tử’ (le champ des bergers) hay còn gọi là ‘Cánh Đồng Thiên Thần’ để ghi nhớ sự kiện Thiên Thần đã hiện ra báo tin cho các mục đồng biết Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Theo Tin Mừng Luca, sau khi nghe các Thiên Thần ca hát « Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm », các mục đồng đã hối hả đi Bêlem để xem sự việc đã xảy ra thế nào (x. Lc 2, 13-15). Họ đã lên đường và trở thành những người đầu tiên đến thờ lạy Chúa Cứu Thế giáng sinh tại Bêlem. Hơn hai ngàn năm qua, tại thành phố này, hang Bêlem vẫn còn đó và Nhà Thờ Giáng Sinh lịch sử đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào cuối tháng 6 năm 2012 vừa qua.

2. NHÀ THỜ GIÁNG SINH VÀ HANG BÊLEM

Tọa lạc ngay trung tâm thành phố Bêlem, Nhà Thờ Giáng Sinh được xây dựng vào thế kỷ thứ IV, thời hoàng đế Constantinô (272 – 337). Đây là một trong những nhà thờ cổ nhất trên thế giới, có sinh hoạt liên tục từ khi xây dựng cho đến ngày nay. Theo các nhà nghiên cứu, bằng chứng đầu tiên về hang Bêlem là nơi Chúa Cứu Thế sinh ra được ghi trong các tác phẩm của thánh Justinô (khoảng năm 160). Truyền thống này được giáo phụ Origen xác nhận vào thế kỷ thứ III. Theo sử liệu, vào năm 326, Hoàng Đế Constantinô và mẹ là thánh nữ Helena đã cho xây một nhà thờ trên hang Bêlem ấy. Năm 530, Hoàng Đế Justinianô cho phá nhà thờ do Constantinô xây để dựng một nhà thờ rộng hơn, tức là nhà thờ còn tồn tại đến ngày nay. Nhà thờ được xây theo hình thánh giá, dài 54 m, rộng 26 m và phần cung thánh rộng 35 m. Nhà thờ có 4 hàng cột cao 6 m, được trang trí bằng những chiếc đèn theo kiểu Hy lạp. Từ năm 1852, nhà thờ được đặt dưới sự trông coi chung của cả ba Giáo Hội: Công Giáo, Chính thống Ácmêni và Chính Thống Hy Lạp. Tuy nhiên, người Hy Lạp được quyền kiểm soát hang Bêlem.

Hai ngày trước Lễ Giáng Sinh, chúng tôi, ba linh mục ở cùng trường, được tới hang Bêlem dâng lễ cùng với 6 giáo dân người Pháp. Nơi đây chỉ đủ cho một nhóm nhỏ khoảng 10 người và phải đăng ký từ trước. Mặc dù thánh lễ ở mọi nơi và mọi thời đều như nhau, nhưng dâng lễ tại chính nơi mà Con Thiên Chúa đã giáng sinh đã cho chúng tôi một cảm nghiệm thiêng liêng sâu sắc về ơn cứu độ Thiên Chúa tặng ban cho loài người qua Đức Giêsu Kitô. Vì không gian chật hẹp, nên tất cả đều phải đứng từ đầu đến cuối thánh lễ.

Một điều chúng tôi ghi nhận là gần tới Lễ Giáng Sinh, nhiều đoàn hành hương từ khắp nơi tuôn về nơi lịch sử

đáng ghi nhớ này, nên không gian nhỏ bé của hang Bêlem lại càng chật hơn. Không chỉ hang Bêlem trở nên chật chội mà cả Nhà Thờ Giáng Sinh hôm nay cũng đầy kín khách hành hương.

Giữa gian cung thánh của thánh đường lịch sử này, ngay dưới bàn thờ chính, nằm dưới lòng đất là hang Bêlem. Trên nền bằng đá cẩm thạch của hang Bêlem, nơi Chúa sinh ra, được đánh dấu bằng ngôi sao bạc 14 cánh. Có tài liệu giải thích rằng 14 cánh là con số tượng trưng cho “14 đời”trong gia phả của Chúa Giêsu mà Tin Mừng Matthêu đề cập đến : « … từ tổ phụ Abraham đến Vua Đavit có mười bốn đời; từ Vua Đavit đến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời; và tthời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời » (Mt 1, 17). Các chữ bằng tiếng Latinh vòng quanh bên trong ngôi sao này là : Hic de Virgine Maria Jesus Christus Natus Est. Có nghĩa là: Nơi đây Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Đức Giêsu Kitô.

Bên cạnh hang Bêlem, nơi Chúa đã sinh ra, ngày nay vẫn còn một hang, mà theo sử liệu, vào năm 388, thánh Giêrônimô đến sống một cuộc đời khổ hạnh suốt 32 năm cho đến khi qua đời (năm 420) bên trong hang đá này. Nếu quý vị đã một lần tới thăm hang này thì hẳn còn nhớ ở đây có những gian phòng khác nhau, nơi thánh nhân đã sống, làm việc, tiếp khách và cử hành phụng vụ. Công trình vĩ đại ngài để lại cho Giáo Hội mà chúng ta có hôm nay là bản dịch toàn bộ Kinh Thánh từ tiếng Do thái và Hy lạp ra tiếng Latinh. Thánh nhân không những chỉ nghiên cứu về Lời Chúa, nhưng ngài còn cảm nghiệm và sống bằng Lời Chúa. Vì thế, ngài đã để lại một câu nói bất hủ được trích dẫn qua mọi thời, đó là : « Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô ». Trên vách đá trong hang này, khách hành hương còn thấy dòng chữ tiếng Latinh “Locus sancti Hieronymi presbyterii & Ecclesiae doctoris” (Nơi ở của Thánh Giêrônimô linh mục và tiến sĩ Hội Thánh).

3. NOËL 2012 TẠI BÊLEM Theo truyền thống từ lâu, chiều hôm nay 24.12.2012, tại Quảng Trường Máng Cỏ trước Nhà Thờ Giáng Sinh, có cuộc đón tiếp Đức Thượng Phụ Giêrusalem Fouad Twal. Vì thế, ngay từ buổi trưa, các loại xe bốn bánh bị cấm đi vào thành phố để nhường chỗ cho người bộ hành. Khoảng 13 giờ, những đường phố chính dẫn về Quảng Trường đã chật kín khách hành hương và dân chúng đến đón Đức Thượng Phụ. Những đội kèn đủ loại và các đội trống với những bộ quần áo đồng phục diễu hành trên phố này làm cho không khí của ngày lễ sôi động, tuy nhiên tất cả đều trật tự và trang nghiêm.

Hòa mình với đoàn người thuộc nhiều màu da và tiếng nói khác nhau từ khắp năm châu, như: Ấn Độ, Đức, Pháp, Balan, Úc, Canada, Mỹ, Mêxicô, Phi Châu… chúng tôi cảm nhận thực sự được tính cách hoàn vũ của Giáo Hội. Đang theo dòng người tiến về Quảng Trường Máng Cỏ, chúng tôi vui mừng được gặp những người đồng hương Việt Nam trên mảnh đất lịch sử này. Một thầy thuộc dòng Xitô và một chị giáo dân đến từ Mỹ, cũng như các nữ tu thuộc dòng Tiểu Muội đã phục vụ nhiều năm tại Đất Thánh. Theo ước tính, có khoảng hơn 50.000 người đã về đây trong dịp lễ Giáng Sinh này.

Khoảng 14 giờ, phái đoàn Đức Thượng Phụ Giêrusalem, cùng với các Đức Giám Mục phụ tá, được xe cảnh sát dẫn đường và hộ tống tới Quảng Trường Máng Cỏ, nơi đã có hàng ngan người đang chờ đợi dưới ánh nắng của tiết trời Đông, nhiệt độ khoảng 14°C. Ngỏ lời với dân chúng và khách hành hương tại Quảng Trường nơi có cây thông giáng sinh cao 25 m được trang trí nhiều màu sắc rực rỡ, Đức Thượng Phụ Fouad Twal, vị lãnh đạo cao cấp nhất của Giáo Hội Công Giáo Rôma tại Trung Đông, chào thăm và chúc mừng giáng sinh tới hết mọi người hiện diện. Theo ngài, Lễ Giáng Sinh năm nay, đối với những người dân ở Bêlem có ý nghĩa đặc biệt, vì vào tháng 11 vừa qua, Liên Hiệp Quốc đã chính thức nhìn nhận Palestine như một nhà nước quan sát viên của tổ chức này.

Cao điểm của ngày trọng đại này là giờ Canh Thức và thánh lễ Nửa Đêm được cử hành tại Nhà thờ thánh Catarina, nằm sát với Nhà Thờ Giáng Sinh. Ngôn ngữ chính của buổi cử hành là tiếng Latinh. Riêng lời nguyện

tín hữu được công bố bằng 8 thứ tiếng khác nhau : Latinh-Anh-Pháp-Đức-Ý-Tây Ban Nha-Ả rập-Do thái. Cùng đồng tế với Đức Thượng Phụ có 3 Đức Cha và với khoảng 150 linh mục từ nhiều nơi quy tụ về, cùng với khoảng 700 tín hữu có vé vào tham dự. Những ai có vé vào trong nhà thờ, kể cả các linh mục, đều phải qua cổng kiểm soát an ninh nghiêm ngặt. Bên ngoài thánh đường hàng ngàn người tham dự thánh lễ bằng những màn hình lớn được truyền hình trực tiếp.

Giảng trong thánh lễ bằng tiếng Ả rập, trước sự hiện diện của Tổng Thống Palestine Mahmoud Abbas và ngoại

trưởng  Nasser Judeh của Jordani, đại diện cho nhà vua Abdallah II, Đức Thượng Phụ mời gọi tất cả những nhà chính trị, những người có lòng thiện tâm hãy nỗ lực tìm kiếm một giải pháp hòa bình và hòa giải giữa nhà nước Palestine và Israel. Theo ngài, chỉ có công lý và hòa bình ở Thánh Địa mới có thể tái lập cân bằng tình hình trong khu vực. Tuy nhiên, theo Đức Thượng Phụ, con đường đi đến hòa bình và hòa giải giữa hai dân tộc Palestine và Israel còn dài và cần nhiều nỗ lực hiệp nhất. Sau bài giảng Đức Thượng Phụ rời khỏi giảng đài đến trao hôn bình an cho Tổng Thống Mahmoud Abbas.

Thánh lễ được kết thúc với việc kiệu tượng Chúa Hài Đồng từ thánh đường thánh Catarina, ngang qua Nhà Thờ Giáng Sinh, xuống tận hang Bêlem, nơi Chúa Cứu Thế hạ sinh.

Trong lúc đó ca đoàn cất lên những bài thánh ca giáng sinh với những giai điệu quen thuộc để mọi người có thể dễ dàng hiệp thông.

Rời Bêlem trở về trường vào lúc 2 giờ sáng giữa đêm Đông nhưng không có ‘sương tuyết lạnh lùng’ như đêm Noël cách đây hơn hai ngàn năm. Thinh lặng bước đi dưới ánh sao đêm trên bầu trời Bêlem, lòng chúng tôi vẫn còn nghe văng vẳng lời bài thánh ca nổi tiếng của nhạc sĩ Hải Linh: «Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời … Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa... Trong hang Bêlem, ánh sáng tỏa lan tưng bừng … ».

Vâng, vẻ tưng bừng của ngày lễ Noël tại Bêlem đã khép lại, nhưng sứ điệp hòa giải và hòa bình của Đêm Thánh tại Bêlem vẫn còn ghi đậm trong chúng tôi như một lời mời gọi sống đức tin trong Năm Đức Tin này. Nguyện xin Hài Nhi Đức Giêsu, hoàng tử bình an, chúc lành cho chúng ta và giúp mỗi người chúng ta trở nên khí cụ của tình bác ái và hòa giải, để chúng ta có thể đem lại bình an và niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những ai đang gặp đau khổ, bệnh tật, nghèo khó và bị bỏ rơi.

Noël 2012 Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hào  (XBVN)

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

VATICAN. Lúc 6 giờ chiều 29 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi cầu nguyện với hàng chục ngàn bạn trẻ Kitô Âu Châu, tại Quảng trường thánh Phêrô.

Đây là cuộc gặp gỡ thứ 35 do tu viện đại kết Taizé bên Pháp tổ chức từ chiều ngày 28-12-2012 và đến ngày 2-1-2013, với sự tham dự của 40 ngàn bạn trẻ.

Từ hàng giờ trước khi chính thức bắt đầu buổi cầu nguyện, các bạn trẻ đã có mặt tại quảng trường thanh gia phần thánh ca do ca đoàn đảm trách. Lúc gần 6 giờ, ĐTC đã từ nội thành Vatican tiến ra, trong xe bọc kiếng, tiến qua các lối đi ở quảng trường để chào thăm các bạn bạn trẻ, trước khi tiến lên thềm đền thờ, nơi có lễ đài đơn sơ, với ảnh Chúa Kitô chịu đóng đanh, hai bên có Đức Mẹ và thánh Gioan.

Hai bên lễ đài có các tu huynh Taizé cùng với các LM Công Giáo, Chính Thống và Mục Sư Tin Lành, Anh giáo. Đại diện cho chính quyền địa phương có ông đô trưởng Gianni Alemanno.

Buổi cầu nguyện bắt đầu với dấu thánh giá của ĐTC và diễn ra với các thánh ca, thánh vịnh, đọc Kinh Thánh và kinh nguyện bằng nhiều thứ tiếng, giữa hàng chục ngàn ánh nến lung linh trong đêm tối.

Cuối buổi đọc kinh, trong lời chào mừng ĐTC, thầy Alois, một tín hữu Công Giáo người Đức, tu viện trưởng Taizé, cho biết các bạn trẻ hiện diện thuộc các hệ phái Kitô khác nhau, đến từ toàn Âu Châu và từ các đại lục khác: tất cả đều được liên kết nhờ một phép rửa và cùng có Lời Chúa… Thầy Roger Schutz, người sáng lập tu viện đại kết Taizé đã mở ra những hành trình hòa giải.. Nhờ chứng tá của Thầy, rất nhiều người đã muốn thực hiện trước sự hòa giải qua cuộc sống: họ đã sống như những người được hòa giải. Các tín hữu Kitô hòa giải có thể trở thành những chứng nhân về an bình và hiệp thông, trở thành những người mang một tình liên đới mới trong toàn thể nhân loại. Sự tìm kiếm một quan hệ bản thân với Thiên Chúa, chính là nền tảng của tiến trình ấy. Phong trào đại kết bằng việc cầu nguyện này không khuyến khích một thái độ bao dung dễ dàng, nhưng tạo điều kiện cho sự lắng nghe lẫn nhau và đối thoại chân thành”. Trong bài huấn dụ với những đoạn bằng 5 thứ tiếng, ĐTC ghi nhận đây là lần thứ 4 Roma đón tiếp các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ Âu Châu và ngài nói: ”Trong dịp này, tôi muốn lại lại những lời mà vị Tiền Nhiệm của tôi Gioan Phaolô 2 đã nói với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ thứ 3 của các bạn tại Roma: ”Giáo Hoàng cũng cảm thấy dấn thân sâu xa với các bạn trong cuộc lữ hành tín thác này trên trái đất.. Cả tôi cũng được kêu gọi trở thành một người lữ hành tín thác nhân danh Chúa Kitô” (30-12-1987)

Và ĐTC đề cao sự nghiệp và tấm gương của thầy Roger: ”Như một chứng nhân không biết mệt mỏi về Tin Mừng hòa bình và hòa giải, thầy Roger đã khích lệ tất cả những người đi qua Taizé trở thành người tìm kiếm hiệp thông. Chúng ta phải lắng nghe trong con tim chúng ta về tinh thần linh đạo đại kết được sống thực của Thầy, và để cho mình được chứng tá của Thầy hướng dẫn tiến tới một phong trào đại kết được thực sự nội tâm và linh đạo hóa. Theo gương của Thầy Roger, ước gì nhiều người trong các bạn có thể trở thành những người mang sứ điệp hiệp nhất này. Tôi bảo đảm với các bạn về quyết tâm không thể hồi lại của Giáo Hội Công Giáo trong việc tiếp tục tìm kiếm con đường hòa giải dẫn đến sự hiệp nhất hữu hình của các tín hữu Kitô. Vì thế, tôi này tôi rất thân ái chào thăm các tín hữu Chính Thống và Tin Lành trong số các bạn”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bạn trẻ rằng: ”Chúa Kitô đang mong ước nhận được từ nơi mỗi người trong các bạn câu trả lời cho câu hỏi: ”Thầy là ai đối với các con?”. Chúa mong nhận được câu trả lời đến từ tự do nội tâm sâu xa của các bạn, chứ không từ sự cưỡng bách hoặc sợ hãi. Chính khi trả lời câu hỏi ấy, cuộc sống của các bạn sẽ tìm được ý nghĩa mạnh mẽ nhất (…). Trong những ngày này ở Roma, gước gì các bạn để cho lời thưa xin vâng với Chúa Kitô trổi lên trong tâm hồn các bạn, đặc biệt tận dụng những lúc thinh lặng lâu dài vốn giữ một chỗ đứng trung tâm trong các buổi đọc kinh chung của các bạn”

Buổi đọc kinh kéo dài một tiếng đồng hồ. Sau khi ban phép lành kết thúc ĐTC còn bắt tay chào thăm các tu huynh Taizé hiện diện. (SD 29-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu Kitô Trung Đông đoàn kết xây dựng hòa bình

Đức Thánh Cha kêu gọi các tín hữu Kitô Trung Đông đoàn kết xây dựng hòa bình

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu Kitô đoàn kết để làm chứng tá về sứ điệp yêu thương, hòa bình và hòa giải của Tin Mừng.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp chào mừng Đức Tân Thượng Phụ Gioan 10, giáo chủ Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia và toàn Trung Đông. Đức Tân Thượng Phụ được thánh hội đồng của Giáo Hội này bầu lên hôm 17-12-2012 tại Đan viện Đức Bà Balamand ở phía bắc thủ đô Beirut, Liban, kế nhiệm Đức Thượng Phụ Ignatio 4 Hazim, qua đời ngày 5-12 trước đó, hưởng thọ 92 tuổi.

Sứ điệp của ĐTC có đoạn viết: ”Trong thời điểm bất ổn và hướng chiều vế bạo lực tại Trung Đông hiện này, một điều ngày càng cấp thiết là các môn đệ Chúa Kitô nêu chứng tá đích thực về sự hiệp nhất của họ, để thế giới tin vào sứ điệp yêu thương, an bình và hòa giải của Tin Mừng. .. Chúng ta có trách nhiệm biểu lộ một cách rõ ràng hơn nữa thực tại tinh thần về sự hiệp thông, tuy chưa hoàn toàn, nhưng đã liên kết chúng ta với nhau”.

Sau cùng, ĐTC cầu mong rằng các quan hệ giữa tòa Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia với Giáo Hội Công Giáo được phát triển thêm qua những hình thức cộng tác hữu hiệu và tiếp tục theo đuổi quyết tâm giải quyết các vấn đề còn làm cho hai bên chia rẽ, qua sự tham gia tích cực và xây dựng vào công việc của Ủy ban hỗn hợp đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống (SD 28-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc

Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc

Muốn có hạnh phúc thì gia đình phải có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết các thành viên lại với nhau.

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 2,41-52

2. Ý CHÍNH: HAI ÔNG BÀ TÌM THẤY CON TRONG ĐỀN THỜ:

Câu chuyện Thánh Gia hành hương lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt qua đã được thánh Lu-ca ghi lại trong đọan Tin mừng hôm nay với 3 phần như sau:

– Trẻ Giê-su bị thất lạc và được cha mẹ lo lắng tìm kiếm (c.41-45). – Cha mẹ vui mừng khi tìm thấy con trẻ trong Đền thờ. (c.46-50). – Trẻ Giê-su nêu gương hiếu thảo vâng phục cha mẹ (c.51-52).

3. CHÚ THÍCH:

– C 41-42: + Lễ Vượt qua: Hay lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày (x Xh 12,15-16). + Khi Người được mười hai tuổi: Tại Ít-ra-en, sau khi học giáo lý, đứa trẻ 13 tuổi sẽ làm lễ tuyên tín để trở thành người lớn, thành “con của Lề Luật”. Ngày đó người ta yêu cầu đứa trẻ bước lên bục giữa hội đường để đọc sách To-rah.

– C 43-45: + Xong kỳ Lễ: Luật chỉ buộc ở lại Đền thờ 3 ngày đầu. Còn Thánh gia đã ở lại cho đến hết kỳ Đại Lễ. Điều này cho thấy lòng đạo đức trổi vượt của các ngài. +Hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết: Trong dịp lễ này, những người ở xa Đền thờ thường tổ chức đi chung thành đoàn lữ hành. Sau khi tan lễ, họ lại nhập thành đoàn ra về. Họ có thể không đi chung mà đi riêng thành từng nhóm theo lứa tuổi, miễn là cùng dừng chân ở các quán trọ để nghỉ đêm. Vì thế khi ra về, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a vẫn yên tâm khi không thấy trẻ Giê-su đi trong cùng một nhóm với mình.

– C 46-47: + Đang ngồi giữa các thầy dạy: Các bậc thầy (Ráp-bi ) thường ngồi khi dạy Kinh thánh ở tiền đình bên trong khuôn viên Đền thờ (x. Lc 19,47). Việc giảng dạy theo hình thức hỏi và đáp. + Ai nghe cậu nói cũng đều ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu: Sự thông minh và câu trả lời khôn ngoan của trẻ Giê-su khiến mọi người ngạc nhiên.

– C 48-50: + “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”: Đức Giê-su muốn cho cha mẹ biết ngòai gia đình tự nhiên ở trần gian, Người còn có một người Cha ngự trên trời là Thiên Chúa nữa.

– C 51-52: + Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài: Sau khi nói về sứ mệnh của mình phải vâng theo thánh ý Chúa Cha trên trời, trẻ Giê-su đã theo cha mẹ trần gian trở về làng Na-da-rét và vâng phục hai ông bà.

4. CÂU HỎI: 1) Lễ Vượt Qua hay lễ Bánh Không Men kéo dài bao lâu? 2) Tại sao mãi đến ngày thứ ba, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a mới phát hiện ra con trẻ Giê-su bị thất lạc? 3) Điều gì cho thấy sự khôn ngoan vượt trổi của trẻ Giê-su khi ở lại trong Đền thờ? 4) Trẻ Giê-su muốn nói gì qua câu thưa với cha mẹ: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” 5) Lòng hiếu thảo của trẻ Giê-su với cha mẹ được biểu lộ thế nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái… Người làm vợ hãy phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa” (Cl 3,14.18).

2. CÂU CHUYỆN: MỘT CON NGƯỜI CẦU TOÀN:

Theo chuyện cổ Hồi Giáo thì NA-TRÚT-ĐIN là hiện thân của những chàng trai độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi bạn bè chất vấn tại sao đến tuổi bốn mươi rồi mà anh vẫn chưa lấy vợ, Na-trút-đin đã tâm sự về tình trạng độc thân bất đắc dĩ của anh như sau:

“Tôi đâu phải là không muốn lấy vợ như các bạn nghĩ: Suốt cả tuổi thanh xuân, tôi đã đi khắp nơi để tìm cho mình một người vợ hoàn hảo như ý muốn. Tại Cai-rô, thủ đô Ai Cập, tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ vừa đẹp người lại vừa thông minh. Nàng có đôi mắt bồ câu với con ngươi đen nhánh giống như hai hạt ô-liu. Tôi ưng ý ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi đã khám phá ra rằng: Nàng ta không phải là một cô gái hiền thục như tôi mong muốn. Thế là tôi liền rời bỏ Cai-rô để đến thành Bát-đa Thủ đô nước I-rắc, để tìm kiếm một người vợ lý tưởng, nghĩa là phải vừa đẹp người lại vừa phải thông minh dịu hiền nữa! Tại đây, nhờ Đức Thánh Al-lah phù hộ nên tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ hoàn hảo, đúng như lòng hằng mong ước. Nhưng có điều chúng tôi lại bị khắc khẩu mỗi khi nói chuyện: Ít khi chúng tôi cùng chung quan điểm về bất cứ lãnh vực nào. Thế là tôi đành phải âm thầm chia tay với nàng. Từ đó, tôi liên tiếp trải qua nhiều mối tình với nhiều phụ nữ khác nhau. Nhưng người được mặt này thì lại mất mặt kia, được tính tốt này thì lại vướng phải tật xấu nọ. Đến lúc tôi sắp hoàn toàn thất vọng, tưởng như sẽ không thể tìm đâu ra được một người đàn bà hoàn hảo, thì một hôm Đức Thánh Al-lah đã sắp xếp cho tôi gặp được một thiếu nữ siêu tuyệt vời. Có thể nói: Nàng là sự kết hợp rất nhiều đức tính của một người vợ lý tưởng mà tôi hằng mong ước: Nàng vừa đẹp người, thông minh, lại vừa hiền dịu và ân cần tử tế trong giao tiếp… Ngoài ra nàng lại còn hát hay múa giỏi, nấu ăn ngon, cắm hoa đẹp, thêu thùa cắt may thành thạo… Thế nhưng các bạn có biết vì sao cho đến giờ này tôi vẫn là một chàng trai độc thân khó tính không??? Vì khi tôi mạnh dạn ngỏ lời cầu hôn với nàng, thì lập tức tôi đã bị nàng thẳng thừng từ chối, vì nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông lý tưởng để lấy làm chồng. Mà theo đánh giá của nàng thì tôi chỉ là một gã đàn ông tầm thường, có quá nhiều thói hư tật xấu, không xứng đáng làm chồng của nàng!”.

3. SUY NIỆM:

– THÁNH GIA: MẪU GƯƠNG CỦA GIA ĐÌNH TÍN HỮU: Gia đình là nền tảng của xã hội và là tế bào của Hội thánh! Gia đình có bền vững hạnh phúc thì xã hội mới an vui và Hội thánh mới phát triển. Hôm nay Hội thánh giới thiệu Thánh Gia cho các gia đình tín hữu học tập noi gương: Trong gia đình này có thánh cả Giu-se là một người chồng lý tưởng: hết lòng yêu thương và chu tòan trách nhiệm lo cho vợ con. Còn Đức Ma-ri-a thì nêu gương cho các người làm vợ làm mẹ về tình yêu thương hết mình phục vụ chồng con. Trong gia đình này, trẻ Giê-su chính là người con hiếu thảo, luôn tôn kính vâng lời và làm vui lòng cha mẹ trong gia đình.

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI TRÊN THUẬN DƯỚI HÒA: Về phạm vi nhân lọai thì thánh Giu-se là người gia trưởng có tinh thần trách nhiệm cao, rồi đến Đức Ma-ri-a là hiền mẫu luôn biết quan tâm chăm sóc cho chồng con và cuối cùng là trẻ Giê-su luôn hiếu thảo thể hiện qua sự vâng lời và luôn làm vui lòng cha mẹ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51a).

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ SỰ BỔ TÚC CHO NHAU: Thiên Chúa đã dựng nên hai người nam nữ tuy khác nhau, nhưng không đối kháng mà còn bổ túc cho nhau. Hai vợ chồng mỗi người đều được Chúa ban những ưu điểm phù hợp với vai trò trong gia đình như sau:

+ Nếu người chồng có sức mạnh ví như là cây cột nhà chống đỡ làm cho gia đình bền vững, thì người vợ là sợi dây yêu thương liên kết các thành viên trong gia đình lại với nhau.

+ Nếu người chồng có khả năng kiếm tiền nuôi sống gia đình, thì người vợ là nhà quản lý tài ba biết sắp xếp mọi việc và bảo vệ mái ấm gia đình.

+ Nếu người chồng được ví như vị thuyền trưởng lãnh đạo gia đình, thì người vợ phải là tài công trực tiếp điều khiển bánh lái, phối hợp chặt chẽ với thuyền trưởng để đưa con tàu gia đình đến bến bờ hạnh phúc.

+ Nếu người chồng cần tính nghiêm khắc, thì người vợ lại cần sự dịu dàng, để con cái tuy phải tuân giữ kỷ luật nhưng vẫn cảm thấy dễ chịu ở trong bầu khí yêu thương của gia đình.

+ Nếu người chồng có vai trò giám đốc tổng quát xí nghiệp thì người vợ là giám đốc điều hành lo quản lý mọi việc nhà, chứ không chỉ là người lao công lo giúp việc nhà, như lời cầu của chủ tế trong thánh lễ hôn phối: ”Lạy Cha, Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam khiến họ không phải là hai nhưng chỉ là một xương một thịt … Xin cho chú rể biết trọn niềm tin tưởng ở vợ mình, nhìn nhận vợ là người bạn bình đẳng và cùng thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban. Xin cho anh biết luôn yêu thương kính trọng yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh Người”.

– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ CHÚA HIỆN DIỆN: Muốn có hạnh phúc thì gia đình phải có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết các thành viên lại với nhau. Thứ đến phải có Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, rồi còn phải có ơn Thánh Thần là sức mạnh giúp hai vợ chồng cùng nhau gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhờ đó vợ chồng sẽ dễ dàng đồng tâm hiệp lực để cùng vượt qua các phong ba thử thách cuộc đời (x Cl 3,12-17), như người đời thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”.

4. THẢO LUẬN: Gia đình hôm nay thường gặp nhiều khó khăn như: Con cái dễ bị hư hỏng vì mắc các thói hư tật xấu, vợ chồng khó giữ trọn được lời thề hứa yêu thương, tôn trọng và trọn đời chung thủy với nhau… Theo bạn đâu là nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình và cần phải khắc phục thế nào?

5. NGUYỆN CẦU

– LẠY CHÚA GIÊSU. Xin nhìn đến những gia đình đang thiếu vắng tình yêu, hay đang thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu, những gia đình đang buồn sầu vì vắng tiếng cười trẻ thơ, hay trái lại đang vất vả lo toan vì đàn con nheo nhóc đói khát của ăn vật chất cũng như tinh thần. Xin nâng đỡ những gia đình đã biến thành hỏa ngục vì dối trá, ích kỷ, kiêu căng, giận hờn khi luôn hành hạ và làm khổ lẫn nhau.

– LẠY CHÚA. Xin nhìn đến những trẻ em đang cần được chăm sóc và yêu thương, những trẻ em đang bị lạm dụng tình dục, đang bị bóc lột tiền bạc và trở thành những món hàng để con buôn trao đổi kiếm lời; Những trẻ em đang lạc lõng bơ vơ và không được đến trường; Những trẻ em bị cuộc đời vùi dập và đang biến dạng trở thành hư hỏng… Xin hãy biến đổi các gia đình tín hữu chúng con. Xin sai Thánh Thần đốt lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mọi thành viên. Xin cho mỗi người chúng con biết luôn chu toàn nhiệm vu xây dựng gia đình cả về tinh thần cũng như vật chất, hầu gia đình chúng con ngày thêm hòa hợp hạnh phúc, là dấu chỉ giúp người đời nhận biết tin yêu Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM. Đan Vinh

Suy Niêm Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia – Năm C – ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH: NHẪN NHỤC, VỊ THA (Lc 2:41-52)

Suy Niêm Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia – Năm C – ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH: NHẪN NHỤC, VỊ THA (Lc 2:41-52)

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được sinh ra trong một gia đình đạo hạnh Pháp Quốc. Chị có một người cha nhân hiền tên Louis Martin và một người mẹ thánh đức tên Zelie Guerin. Tương truyền rằng trước khi cả hai đồng ý thành hôn với nhau, họ đã có một thời gian tập sống thử luyện trong ơn gọi tu trì.

Đúng vậy, ông Louis Martin ban đầu gõ cửa một tu viện với ước mơ tương lai sẽ là một linh mục đạo đức. Tiếc thay, với trình độ tiếng La Tinh quá yếu, cậu được Cha Giám Đốc khuyên nhủ:  Chúa không chọn con làm linh mục được. Hãy nghe Cha mà về nhà sống ơn gọi gia đình”. Không tin vào lời góp ý phũ phàng ấy, cậu liền gặp riêng Cha Linh Hướng, Ngài cũng chung một nhận xét như thế. Nhất định không bỏ cuộc, Louis tiếp tục đến Nhà Dòng khác, xin tu lại. Cha Bề Trên tại đó, cũng từ chối khéo. Buồn bã, cậu mua vé tàu hoả, lên đường trở lại quê nhà.

Đang khi ấy, cô Zelie Guerin, một thiếu nữ sinh sống tại thành phố khác, cũng mơ ước sống đời tu trì. Tuy có đôi mắt bồ câu đẹp như thiên thần nhưng nàng lại muốn dâng hiến cuộc đời mình thuộc về Chúa hoàn toàn. Đến tập tu tại một tu viện dòng Nữ Tữ Bác Ái Vincent de Paul được thời gian ngắn, Mẹ Giám Tỉnh đã mời Zelie đến và phán quyết:  Con đẹp thùy mị và đoan trang, Chúa thích lắm. Song le, Mẹ thấy rõ con không có dấu hiệu thích hợp để Chúa chọn con sống bậc tu trì. Ngài muốn trao cho con một sứ mệnh khác”. Âm thầm vào cầu nguyện với Chúa, nàng đã khấn: nếu phải kết hôn sống đời vợ chồng, chị sẽ dâng hết các con mình cho Giáo Hội. Đoạn, Zelie can đảm xách va li đến nhà ga, đón chuyến xe lửa sớm nhất về lai gia đình.
Có ai ngờ, trên chuyến tàu hoàng hôn ấy, hai tâm trạng thất vọng đó, vô tình ngồi chung một toa xe. Đôi môi cùng chuyện trò, đôi lòng cùng cảm mến, cuối cùng đôi trái tim lại rung một nhịp yêu thương. Họ đã kết hôn sau đó theo luật Công Giáo và sinh được chin người con: hai trai, bảy gái. Chúa rước về trời bốn hoa hồng thơm ngát, để lại cho ông bà 5 cô công chúa: tất cả đều đi Tu nơi dòng Kín và dòng Thăm Viếng, trong số đó có út nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là vị đại thánh, Nữ Tiến Sĩ của Giáo Hội.
Thật là một gia đình đầy ân phúc, được Chúa chúc lành quá đặc biệt. Thậm chí, cách đây vài năm, ngày 19/10/2008, ĐGH Bênêđictô XVI đã chính thức tôn phong hai ông bà Louis và Zelie Martin lên bậc Chân Phước, tôn kính đặc biệt trong toàn thể Giáo Hội. Họ xứng đáng được như thế bởi cả hai là những cha mẹ thánh thiện, đã dùng sự nhẫn nhục khéo léo mà giáo dục con cái, đã lấy tâm tình vị tha để uốn nắn các con nên tốt đẹp từng ngày.
Hôm nay, Lễ Thánh Gia, Giáo Hội cũng muốn chiếu sáng hình ảnh một Gia Đình Thánh ở Nazareth xưa và mời gọi các tín hữu hãy nhìn vào sinh hoạt tốt lành của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse; để từ đó biết xây dựng cho gia đình mình một cách sống đạo tương ứng: thông cảm, nhẫn nhục, yêu mến, vị tha…
A. Đời sống gia đình Thánh: nhẫn nhục, thông hiểu.
Tục lệ hàng năm, dịp Lễ Vượt Qua, người Do Thái có thói quen hành hương về Giêrusalem mừng lễ.  Gia đình Thánh Giuse cũng đồng hành với xóm làng, trẩy hội lên Thánh Đô dự lễ trọng truyền thống.  Bất ngờ, cha Giuse và mẹ Maria lạc mất tin tức con trẻ Giêsu. Cả hai cùng sốt ruột tìm kiếm khắp nơi.  Khi đã tìm thấy, họ nhẫn nhục trách khéo con trẻ nhưng Ngài giải thích lý do “làm công việc của Cha Ngài”(Lc 2:49), “thi hành ý muốn của Đấng đã sai mình” (Ga 4:34) và hoàn tất công trình của Cha.
Hạnh phúc Nazareth lại nở hoa, khi cả hai Giuse và Maria cảm thông chức năng cao qúy của Con yêu. Ta thấy rõ:
  1. Gia đình Nazareth sống nhẫn nhục, thông cảm.
  • Thánh Giuse vui nhận ý Chúa trong việc đón Mẹ Maria Trinh Thai về nhà mình, vâng lời sứ thần đưa trẻ Giêsu và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, đoạn trở lại Nazareth sau đó. Ngài cần cù lao động ít nói, cảm thông vợ con chân yếu tay mềm, hy sinh chịu đựng.
  • Mẹ Maria xin vâng thuận theo Thánh Ý, chịu sự hiểu lầm nghi kỵ của Giuse, cảm thông trách nhiệm cao qúy của con trẻ Giêsu nơi đền thánh, miệt mài may vá, nấu nướng, giặt gỵa mỗi ngày phụ giúp chồng, con.
  • Trẻ Giêsu dù là Con Thiên Chúa vẫn âm thầm sống ẩn dật làm người, vâng lời hai cha mẹ trần thế (Lc 2:51). Ngày ngày cảm thông những giọt mồ hôi vất vả của các bậc sinh thành, Ngài phụ giúp họ làm thợ mộc, đóng bàn ghế, khiêm nhu lắng nghe và học hỏi.
  1. Gia đình Louis và Zelie Martin sống chịu đựng, cảm thông.
  • Ông Louis Martin kềm chế cá tính nóng nảy giúp gia đình hạnh phúc. Khi người vợ qúi yêu qua đời, ông chấp nhận ở vậy nuôi nấng và giáo dục con, cảm thông lỗi sai phạm thất thường của Têrêsa và khiển trách khôn ngoan. Chịu đựng sự trống trải cô đơn khi sẵn lòng dâng năm người con gái đi tu, làm việc cho Giáo Hội.
  • Bà Zelie Guerin nhẫn nhục trong đau đớn bệnh tật, gắng mỉm cười chịu đựng bao nhức nhối, chia vui với hạnh phúc chồng con. Bà không ngại khiển trách Terêsa nhẹ nhàng các sai lầm, kín đáo dạy con biết thương yêu, làm phúc cho kẻ khó.
  • Trẻ Têrêsa biết mình ưa những nhẽo, giận hờn vô lý, bướng bĩnh khó nghe: nàng đã im lặng đón nhận sự dạy dỗ của cha mẹ, uốn mình nghe các chị hướng dẫn để trưởng thành hơn. Càng lớn, cô càng nhận thức gương sáng tốt lành, thánh thiện của cha mẹ đã làm.
Hãy làm người tốt lành, biết nhẫn nhục và cảm thông, giúp bầu khí sống chung trong gia đình êm đẹp.
Chuyện nực cười xảy ra năm xưa tại Santa Ana, CA. Hai vợ chồng già Wheatland và Sullivan tự dưng ra Toà xin ly dị, chỉ vì một Con Chó yêu dấu. Ông Bà kết hôn đã lâu, nhưng hiếm muộn không con. Dể vui cửa vui nhà, họ mua một cô Cún cưng, hết lòng yêu thương nó. Sáng sớm, ông Wheatland chở nó đến sân Tennis vui chơi với ông và bạn bè. Chiều về, bà tắm rửa, lo cho Cô Chó ăn uống đầy đủ, đoạn ôm ấp nâng niu Chó từng dêm. Từ ngày có Cún cưng xuất hiện, tình cảm hai thân già trở nên hời hợt, ai cũng nghĩ đến con Chó cưng là bạn chung nghĩa, chung tình. Việc ly hôn tất yếu đã xảy ra.
         Toà xử tài sản hai vợ chồng chia đôi dễ dàng, nhưng cái khó nhất là ai sẽ được quyền sở hữu con Chó? Cuối cùng, hai bên đồng ý phán quyết của Toà: mỗi người được giữ Chó một tháng luân phiên. Tháng đầu tiên, Cún Cưng về ở với ông, thình lình đi ăn vụng tình ái hàng xóm, phải mang hậu quả. Tháng kế tiếp, Cô Chó về ở với bà, thấy nó có sự khác thường, bà đổi ý nuôi luôn để chăm lo cẩn thận. Thấy bà Sullivan không trả lại Chó theo phiên qui định, ông khó chịu ra mặt. Bà trả lời “ông có kinh nghiệm gì chăm lo chó đẻ, mà đòi mang về?”. Toà không đồng ý, cứ lý mà thi hành, phải gửi Chó lại cho ông theo đúng phiên. Về ở với ông, bất ngơ Cô Cún sinh được 4 qúi tử, ông lịch sự chia 2 chó con cho bà. Bà cương quyết kháng cáo, vì đàn ông biết gì mà chăm con, nên bà đòi bắt cả 4 chó con.
Chuyện thật khôi hài: thương nhau quá đòi cho được phải kết hôn, không hiểu nhau kỹ lại xin ly hôn. Bây giờ ly hôn rồi, thích bới lông tìm vết, viện ra đủ mọi lý lẽ hại nhau, thiếu nhẫn nhục và cảm thông.
B. Đời sống gia đình Thánh: yêu mến, vị tha.
 
Đức Cha GB. Bùi Tuần đã nói: “Tình yêu mà không có hy sinh, chỉ là tình yêu giả tạo. Hy sinh mà thiếu lòng yêu mén, sẽ là hy sinh thừa thải”. Cuộc sống gia đình cần lòng vị tha và thương mến thật.
  1. Gia Đình Nazareth sống yêu mến, vị tha.
  • Thánh Giuse thành tâm yêu mến Chúa, chọn Thánh Ý Chúa là trên hết. Ngài quãng đại vị tha việc Maria mang thai trước khi chung sống, vẫn đón nàng về nhà làm bạn mình.
  • Mẹ Maria không bảo thủ, luôn lắng nghe Lời Chúa dạy, ghi nhớ, suy niệm trong lòng.  Mẹ yêu mến đôi tân hôn trong tiệc cưới Cana, ôm trọn vào mình mọi khổ nạn của Chúa Giêsu, Con Mẹ, không hờn trách oán than.
  • Trẻ Giêsu yêu mến Cha Mẹ và tuân phục các Ngài, trở về Nazareth thêm tuổi thêm khôn ngoan. Càng sống đời ẩn dật, Ngài càng cao ân đức với Thiên Chúa và xóm làng.
  1. Gia Đình Louis và Zelie Martin luôn yêu thương và cho đi.
  • Người cha hiền Louis có lòng yêu mến Chúa và phụng sự Giáo Hội. Ông quen đọc tư liệu về Các Thánh, dạy con cái biết kính trọng các bà Dòng thánh thiện, đưa con cái đi du lịch Đất Thánh giúp gia tăng lòng mến nơi các con biết hy sinh dâng hiến cho Chúa.
  • Người mẹ gương mẫu Zelie luôn nuôi dưỡng lòng đạo đức, kinh nguyện Phụng Vụ sốt sắng, thu xếp giờ đọc kinh chung gia đình mỗi tối, giúp con cái xét mình xưng tội cùng thôi thúc chúng năng làm phúc cho kẻ khó.
  • Trẻ Têrêsa hấp thụ nơi Cha tâm hồn thánh đức tuyệt vời, biết khao khát sự tốt lành trên trời, tận tình yêu mến và giúp đỡ các chị em, biết dấn thân quãng đại tìm cho mình một con đường nên thánh tuyệt hảo: đường thơ ấu thiêng liêng.
Có một linh hồn được Chúa ban đặc ân trong một phút xuất thần, đi tham quan cả Thiên Đàng và Hoả Ngục. Linh hồn này quan sát trong giờ ăn, cả hai nơi: mỗi người đều có một đôi đũa dài và có chung các thức ăn như nhau. Anh thầm nghĩ: nếu thế, ở Hoả Ngục cũng được, cần gì mơ vào Thiên Đàng, vì đâu có gì “phân biệt khác thường”. Tuy nhiên, một lúc sau đó, anh nhận ra được nét dị biệt rõ ràng: nơi Thiên Đàng, người này cầm đũa dài gắp thức ăn cho người kia lẫn cho nhau, nên ai nấy đều no nê; nhưng nơi Hoả Ngục, ai ai cũng ích kỷ, tranh thủ lấy đũa dài gắp đồ ăn vào miệng mình, khiến thức ăn không vào được bao nhiêu, rớt vương vãi ra ngoài hết, tất cả đói meo, bèn chửi bới nhau.
Thế mới hiểu: đời sống chung, chỉ lo nghĩ cho mình dễ thất bại, và ngược lại, dám hy sinh phục vụ kẻ khác mới thành công.
C. Đời sống gia đình hôm nay: sống Thánh giữa đời.
 
Gia Đình là lò luyện hy sinh, trong đó mỗi thành viên biết chịu đựng vất vả, nhẫn nhục lắng nghe và quan tâm đến nhau, cảm thông và cho đi nhiều hơn: Tình Yêu Thương và Hạnh Phúc mới dâng cao.
Để kiến tạo một gia đình tốt lành như Thánh Gia Nazareth, gia đình phải thực sự sống Thánh giữa đời.
Trong đó, các bậc làm cha mẹ:
  1. Biết đặt Chúa là chủ tể duy nhất, lên trên mọi thần tượng hư ảo khác.
  • Trong nhà phải có bàn thờ Chúa, riêng mỗi phòng nên có một tượng ảnh đạo đức.
  • Khai trương tân gia, mời Linh Mục đến làm phép để thánh hoá ngôi nhà.
  • Tôn trọng ngày của Chúa: nghỉ ngơi và làm việc lành thánh, bác ái.
  1. Biết tuân giữ luật Chúa và Giáo Hội thường xuyên.
  • Đi dâng lễ chung hàng tuần và kinh nguyện chung mỗi tối, khi có thể.
  • Hãm mình ăn chay, kiêng thịt theo Luật buộc, sám hối hoà giải xưng tội thường niên.
  • Đóng góp công sức, của cải vào Giáo xứ địa phương, hỗ trợ chung sinh hoạt tôn giáo.
  1. Biết giải quyết mọi tình huống gia đình theo Thánh Ý Chúa hướng dẫn hơn là theo ý riêng.
  • Vợ chồng con cái sống hoà hợp, nhịn nhục, đoàn kết hợp nhất, vui buồn có nhau.
  • Luôn cầu nguyện tìm ý Chúa soi sáng, khi đối diện khó khăn, hiểu lầm.
  • Xua tan mọi nghi kỵ vô căn cứ, diệt trừ mọi tư duy ghen tị, chia rẽ nhau.
Nói chung, gia đình phải là nôi yêu thương, giúp mọi người sống liên đới và tôn trọng lẫn nhau.
D. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa Giêsu Kitô!  Khi nhập thể làm người, Chúa đã âm thầm vui sống trong một gia đình khiêm tốn ở Nazareth.  Xin giúp chúng con biết nhìn vào Gia Đình Thánh của Chúa: sống hiền hoà thánh đức, sống lao động cảm thông, sống tôn trọng yêu thương.. để bắt chước, để xây dựng gia đình mình nên thánh thiện, tốt đẹp giữa thế gian.  AMEN.
Fr. Dominic Dieu Tran, SDD

Những nỗ lực từ thiện trong mùa Giáng sinh ít được hưởng ứng

Những nỗ lực từ thiện trong mùa Giáng sinh ít được hưởng ứng

Một số tổ chức báo họ gặp khó khăn và thất vọng trong những nỗ lực quyên góp từ thiện nhân dịp Giáng sinh.

Anzar Hameed, giám đốc kinh doanh Mitchell’s Fruit Farms, công ty lương thực lâu đời nhất ở Pakistan, thường xuyên đóng góp ủng hộ người nghèo vào lúc này trong năm nói:

“Một trong các nhân viên điều hành kinh doanh của chúng tôi là giáo dân đã đứng ra liên hệ việc này trong ba năm nay. Nhưng năm nay chuyện này gần như bỏ mất vì chi phí hoạt động tăng cao.”

Tuy nhiên, công ty vẫn cố gắng cung cấp các mặt hàng lương thực trị giá 25.000 rupi (256 Mỹ kim) cho các quả phụ Công giáo tại nhà thờ chính tòa Thánh Tâm hôm chủ nhật vừa rồi.

Tại Caritas Pakistan Lahore, nhân viên ủng hộ 2% lương tháng sau khi thấy cuộc vận động nhân Ngày Lương thực thế giới ít được hưởng ứng.

“Hoạt động thùng tiền quyên góp trong học sinh diễn ra khoảng 3 tháng. Chúng tôi tập trung vào các trường học của Giáo hội nơi thường có học sinh là con nhà khá giả. Số tiền thu được từ hai trường lớn chỉ có 15 Mỹ kim”, Anila Gill, giám đốc Caritas, cho biết.

Nhờ bổ sung thêm tiền quỹ bằng 2% lương tháng của nhân viên, Caritas có thể mang niềm vui đến cho 30 gia đình công nhân làm lò gạch nghèo, con cái họ được tặng đồ chơi và bánh kẹo nhân dịp Giáng sinh.

UCANEWS

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Gerard O’Connell từ Rome

Đức Thánh cha Bênêđictô XVI lại có một năm bận rộn nữa phía trước với việc phát hành tông huấnthứ ba, đi Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới và tổ chức công nghị tấn phong hồng y mới.

Khi bước sang năm mới 2013, Đức Bênêđictô XVI trở thành vị giáo hoàng lớn tuổi thứ năm trong lịch sử Giáo hội. Vào ngày chín tháng Giêng, ngài sẽ vượt qua Đức Piô IX để xếp ở vị trí thứ tư. Lúc đó chỉ có ba giáo hoàng từng thọ hơn ngài là Đức Clement X, 86 tuổi, Đức Clement XII 87 tuổi và Đức Leo XIII trị vì cho đến tuổi 93.

Đức giáo hoàng thần học gia 85 tuổi sẽ khai mạc Năm Mới bằng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô nhân Ngày Thế giới Hòa bình có sự hiện diện của đại sứ đến từ 179 quốc gia hiện đang có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh.

Vào ngày lễ Chúa Hiển Linh, 6-1, ngài sẽ tấn phong một số giám mục tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, trong đó có thư ký riêng lâu năm của ngài là Đức ông Georg Ganswein, người vừa được ngài nâng lên hàng tổng giám mục và còn chỉ định làm người đứng đầu phủ giáo hoàng, trong khi vẫn giữ – ít ra là trong lúc này – vai trò thư ký riêng của Đức giáo hoàng.

Đến thứ Hai ngày 7-1, Đức Bênêđictô XVI sẽ chúc mừng Năm Mới đến các ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh và trình bày quan điểm của mình về tình hình thế giới hiện nay.

Vắng mặt tại sự kiện thường niên này đáng chú ý nhất là Trung Quốc, quốc gia khiến ngài phải đau đầu từ khi lên ngôi giáo hoàng năm 2005. Cho đến nay nước này vẫn khăng khăng rằng mình phải có tiếng nói sau cùng trong các bổ nhiệm giám mục cho Giáo hội Công giáo ở đại lục.

Cuối tháng Giêng, Đức giáo hoàng sẽ phát hành tông huấn mới về chủ đề “Đức tin”. Ngài đã viết các tông huấn về Bác ái và Hy vọng và đến nay ngài đã hoàn thành bộ ba này. Bản văn mới sẽ là nguồn cảm hứng và hướng dẫn quan trọng cho tín hữu trong Năm Đức tin này.

Như thường lệ, Đức Bênêđictô sẽ chủ tế các nghi thức chính trong Tuần Thánh và canh thức Phục sinh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 30-3. Ngày hôm sau là Chúa nhật Phục sinh, ngài sẽ đọc Thông điệp truyền thống gửi thành phố Rôma và Thế giới (“Urbi et Orbi”) tại ban công chính của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Thông điệp và lời chúc mừng Phục sinh của ngài sẽ được phát thanh và truyền hình đến khoảng 2 tỷ khán thính giả toàn cầu.

Vào ngày 16-4, người giữ chức giáo hoàng lâu nhất trong tám vị giáo hoàng người Đức trong lịch sử Giáo hội sẽ mừng sinh nhật thứ 86. Ba ngày sau, ngài sẽ bước sang năm thứ chín trong cương vị giáo hoàng. Ngài được bầu làm giáo hoàng vào ngày 19 tháng 4-2005.

Vị giáo hoàng công du nhiều thứ hai trong lịch sử dự kiến sẽ sang Rio de Janeiro, Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới (23-28/7). Các nguồn tin cho biết chuyến tông du này sẽ mất một tuần, và sự kiện này sẽ thu hút hàng trăm ngàn người trẻ đến từ khắp thế giới.

Cho đến nay, đó là chuyến đi duy nhất được ngài lên lịch rõ ràng cho năm 2013. Ngài đã đến Phi châu hai lần, và đây là lần thứ ba ngài đến Mỹ Latinh, nơi có hơn phân nửa số người Công giáo sinh sống trên thế giới.

Đức Bênêđictô XVI chưa đến thăm châu Á và dường như hiện nay ngài không thể, nhưng các nguồn tin ở Rôma cho rằng ngài có thể đi một hoặc hai chuyến đi ngắn ở châu Âu trong năm 2013, trong đó có thể có chuyến thăm cuối tuần đến Ireland để thúc đẩy Giáo hội đang khủng hoảng ở đó, mặc dù chưa có người nào ở Rôma xác nhận điều này.

Tới giữa tháng 10, ngài sẽ phong một số vị thánh mới và có khả năng Chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II sẽ đứng đầu danh sách các thánh mới.

Đức Bênêđictô muốn phát hành, càng nhanh càng tốt, Tông huấn về những đúc kết của Thượng Hội đồng giám mục về Tân Phúc âm hóa diễn ra hồi tháng 10-2012, nếu không có gì thay đổi, có thể ngài sẽ làm thế trước cuối năm 2013.

Đức Bênêđictô XVI sẽ chủ tọa lễ bế mạc Năm Đức tin vào ngày 24-11. Các nguồn tin cho biết ngài có thể sẽ tổ chức công nghị vào thời điểm đó để tôn phong các tân hồng y từ các châu lục.

Trong số những người được dự đoán sẽ được nhận mũ đỏ lúc đó có Đức Tổng Giám mục Vincent Nichols của Westminter và Đức Tổng giám mục Gerhard Muller (Đức), tân Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý đức tin.

Trong cả năm, Đức Bênêđictô sẽ có vô số các cuộc hội kiến, trong đó có cuộc tiếp kiến các nguyên thủ quốc gia và chính phủ, tân đại sứ và sứ thần, cũng như các hội đồng giám mục từ các nước sang Rôma hành hương “Ad Limina” năm năm một lần.

Trong năm 2013, ngài sẽ tổ chức các cuộc họp định kỳ hàng tuần hay hàng tháng với các vị đứng đầu các văn phong khác nhau của Vatican, và quyết định về các vấn đề quan trọng với họ theo yêu cầu. Ngài sẽ bổ nhiệm giám mục cho các giáo phận trên tất cả các châu lục, và cũng sẽ thay đổi và tái bổ nhiệm trong Giáo triều Rôma. Nhiều người ở Rôma cho rằng có thể ngài sẽ thay Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Bertone, người bước sang tuổi 78 vào cuối năm 2012, hoặc sẽ chỉ định một vị trong ngoại giao đoàn của Tòa Thánh trợ giúp đức hồng y.

Như nhiều người biết, trong lịch làm việc hàng tuần Đức Thánh cha có các cuộc biệt kiến với khách hành hương đến từ khắp thế giới vào thứ Tư. Đức Bênêđictô XVI quý trọng những lúc như thế vì lúc đó ngài là thầy dạy đức tin, “một người Cha của Giáo hội”.

Nhìn lướt qua nhật ký bên trên khiến người ta kết luận rằng Đức Bênêđictô có lịch làm việc bận rộn trong năm 2013. Ngoài ra, dựa trên kinh nghiệm của tám năm qua, người ta có thể nghĩ ngài cũng sẽ đưa ra một vài bất ngờ trong năm tới.

Trích từ UCANEWS

GIÁNG SINH TẠI BOSNIE ERZEGOVINE 20 NĂM SAU CHIẾN TRANH

GIÁNG SINH TẠI BOSNIE ERZEGOVINE 20 NĂM SAU CHIẾN TRANH

SARAJEVO: Sau 20 năm chiến tranh cộng đoàn công giáo Sarajevo mừng lễ Giáng Sinh với các vết thương chưa lành hẳn.

Đức Cha Pero Sudar, Giám Mục phụ tá giáo phận thủ đô Sarajevo, đã cho biết như trên. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, chiến tranh Bosni Erzegovine xảy ra hồi năm 1992 đã là cuộc chiến tàn khốc nhất tại Âu châu, khiến cho Sarajevo đã bị vây hãm liên tiếp trong 43 tháng trời. Cộng đoàn công giáo mất đi phân nửa số tín hữu của mình. Đức Cha Sudar cho biết những ai có thể đã đi tham dự thánh lễ Giáng Sinh, nhưng số tín hữu chỉ còn một nữa, và cộng đoàn công giáo trở thành thiểu số. Chính vì thế nên không có nhiều biểu lộ bề ngoài. Tuy nhiên, con số và những cơ cấu bề ngoài không quan trọng. Chúa Giêsu Kitô đã đến trần gian trong âm thầm kín ẩn, chứ không phải với quyền uy. Ngài đến cho tất cả mọi người, đặc biệt là những ai gặp khó khăn và khổ đau.

Đức Cha Sudar cho biết tình hình xã hội kinh tế Bosni Erzegovine rất khó khăn vì số người thất nghiệp lên tới 50%. Rất nhiều gia đình không có cả đến những gì họ đã có được trong thời chiến tranh. Vì thế tình liên đới huynh đệ và chia sẻ là điều mọi người phải học biết và thực hành. Còn có rất nhiều điều phải làm để cho cuộc sống của mọi người được tốt đẹp hơn (RG 25-12-2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

GIÁNG SINH HÒA GIẢI VÀ TỰ DO TẠI MYANMAR

GIÁNG SINH HÒA GIẢI VÀ TỰ DO TẠI MYANMAR

YANGOON: Đức Cha Charles Bo, Tổng Giám Mục Ygangoon thủ đô Myanmar, bầy tỏ vui mừng vì năm nay tín hữu được tự do cử hành lễ Giáng Sinh mà không phải xin phép. Đây là dấu chỉ của tự do tôn giáo và hòa giải trong một đất nước rộng mở cho dân chủ, hòa giải và hòa bình.

Đức Cha đã mời gọi tín hữu chia sẻ vật chất và tinh thần với các anh chị em nghèo túng và bị gạt bên lề xã hội, nhân danh niềm hy vọng và sự tha thứ. Nơi Chúa Hài Nhi Thiên Chúa quyền năng đã trở thành một trẻ thơ yếu đuối để cho tất cả mọi người có thể yêu mến Người và yêu mến tha nhân.

Trong các ngày trước lễ Giáng Sinh giới trẻ đã hăng hái tham gia các buổi trình diễn thánh ca Giáng Sinh với mục đích rao truyền Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng yêu thương của Người.

Đức Tổng Giám Mục Bo đã chủ sự thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh trong nhà thờ chính tòa Đức Bà Yangoon, với sự tham sự của nhiều vị đại sứ và nhân viên ngoại giao.

Ngày 25 tháng 12 một buổi cầu nguyện đại kết cũng đã được tổ chức tại nhà thờ chính tòa Chúa Ba Ngôi của Anh giáo và tiếp theo đó là bữa ăn trưa huynh đệ, có sự tham dự của Bộ trường tôn giáo và thống đốc vùng. Tổng thống Thien Sien và bà Aung Suu Kyi cũng được mời tham dự (ASIANEWS 24-12–2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại vài nước bên Tiểu Á và Á châu

Bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại vài nước bên Tiểu Á và Á châu

Kính mời qúy vị và các bạn cùng chúng tôi đi một vòng tìm hiểu bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại một số nước Á châu.

Trước hết là tại thành phố Bếtlêhem bên Thánh Địa, nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Cha Stephane Milovitch, dòng Phanxicô, quản thủ Vương cung thánh đường Giáng Sinh cho biết tình hình chiến sự trong vùng Gaza hồi tháng 11 năm 2012 đã khiến cho số tín hữu và du khách hành hương Thánh Địa giảm sút. Đa số các đoàn hành hương đã hủy bỏ chuyến đi.

Nhưng trong các ngày vừa qua số tín hữu đến Bếtlêhem để mừng lễ Giáng Sinh lại đã gia tăng. Giới chức làm việc trong lãnh vực du lịch cho biết các tín hữu đã giữ chỗ cho tới tháng 4 năm 2013. Và Bộ du lịch Israel hy vọng có khoảng 75.000 tín hữu viếng thăm Bếtlehem. Cha Milovitch còn cho biết bầu khí tại Bếtlehem rất an bình. Cha khích lệ tín hữu đừng sợ hãi và mời gọi các đoàn hành hương đến Thánh Địa. Họ sẽ được tiếp đón trong tươi vui. Cộng đoàn Kitô địa phương cần sự hiện diện của các Kitô hữu và du khách hành hương để có thể sống còn.

Tại Bếtlêhem tín hữu Kitô đã chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh với tuần cửu nhật và chuông nhà thờ rộn rã đổ hồi mỗi ngày. Từ ngày 15 tháng 12-2012 chính quyền thành Bếtlêhem đã cho trồng một cây thông giáng sinh rất lớn tại quảng trường và trang hoàng các đường chung quanh vương cung thánh đường Giáng Sinh với hoa đèn nhiều màu sắc.

Các lễ nghi do Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal chủ sự theo một chương trình đã có từ nhiều thập niên qua. Chiều 24 tháng 12 Đức Thượng Phụ được các hướng đạo sinh và dân chúng tiếp đón khi đến Bếtlêhem, và ngài chủ sự buổi hát Kinh Chiều I trọng thể trong vương cung thánh đường Giáng Sinh. Sau đó Đức thượng Phụ chủ sự buổi rước kiệu xuống Hang Đá, xông hương nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, Hang Đá và bàn thờ Ba Vua, rồi đi ngang qua các hang dưới lòng đất có các bàn thờ kính Thánh Giuse, các Thánh Anh Hài, rồi lên nhà thờ thánh nữ Catarina ở bên cạnh. Tiếp theo đó là bữa ăn tối. Sau đó có giờ Kinh Phụng Vụ các bài đọc và Thánh Lễ nửa đêm. Tham dự thánh lễ do Đức Thượng Phụ cử hành, có tổng thống Abu Mazen, bà thị trưởng Bếtlêhem Vera Baboun và các vị lãnh đạo chính trị xã hội, cùng với các vị lãnh sự các nước Italia, Pháp, Tây Ban Nha và Bỉ và hơn 1,500 tín hữu. Sau thánh lễ tượng Chúa Hài Đồng được rước xuống Hang Đá Giáng Sinh và được đặt ở đây cho tới ngày mùng 6 tháng Giêng, rồi sau đó được rước trở lại nhà thờ thánh nữ Catarina.

Trong toàn vùng Trung Đông, Kitô hữu không được an bình mừng lễ Giáng Sinh vì tình hình chính trị kinh tế xã hội đã trở nên tồi tệ hơn.

Tại Gaza tình hình vẫn căng thẳng kể từ khi bạo lực gia tăng hồi tháng 11 năm 2012, và tình trạng cấm vận khiến cho cuộc sống thường ngày của 1.4 triệu dân Palestine rất khốn khổ, dưỡng nuôi tâm tình thù nghịch thường xuyên chống lại Israel. Ngoài ra cũng còn có khuynh hướng tôn giáo cuồng tín gây nguy hại cho cuộc đối thoại và chung sống giữa các tôn giáo, và sự kinh khiếp trước các vụ xúc phạm tới các nhà thờ, tu viện, hội đường do thái và đền thờ hồi giáo. Ngày 16 tháng 12-2012 Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal đã đến viếng thăm và dâng thánh lễ cho cộng đoàn công giáo bé nhỏ gồm 200 tín hữu tại đây.

Bên Syria, niềm vui Giáng Sinh bị lu mờ vì cuộc nội chiến khốc liệt kéo dài từ 20 tháng qua đã khiến cho hơn 44,000 người thiệt mạng, trong đó có 4.000 trẻ em và hơn 2 triệu người phải tị nạn, trong đó có gần 300 ngàn tại Giordania và 150 ngàn bên Libăng. Giáo Hội Latinh Giêrusalem đang hết sức cộng tác vào việc cứu trợ các anh chị em Siri tị nạn bên Giordania. Trong mấy ngày vừa qua các cuộc dội bom và pháo kích vào các lò làm bánh mì đã khiến cho thêm hàng chục người chết và hàng trăm người bị thương khi đứng xếp hàng đợi mua bánh.

Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria cho biết mặc dù có chiến tranh, nhưng các tín hữu Kitô vẫn cố gắng làm những gì có thể để các giáo xứ có bầu khí Giáng Sinh trong các giáo xứ trong thủ đô Damasco cũng như nhiều nơi khác. Đức Tổng Giám Mục Zenari đã đi thăm nhiều giáo xứ vùng ngoại ô và nhiều dòng tu nam nữ. Các linh mục tu sĩ vẫn hàng ngày tiếp tế lương thực cho dân nghèo. Có một trung tâm bác ái tại Badgdad mỗi ngày phân phát 6.500 phần ăn nóng cho dân không phân biệt ai. Và các bạn trẻ Kitô và hồi giáo sát cánh với nhau trong công tác bác ái này. Những nghĩa cử tình yêu đó là cách thức cử hành lễ Giáng Sinh một cách ý nghĩa nhất trong bầu khí chiến tranh chết chóc và đổ nát tại Siria hiện nay.

Bên Iraq Kitô hữu mừng lễ Giáng Sinh trong âu lo vì các căng thẳng, các cuộc khủng bố bằng bom và tấn kích vẫn tiếp tục. Đức Cha Shlemon Warduni, Giám Mục Phụ tá Baghdad, cầu mong lễ Giáng Sinh đem lại một chút hòa bình và ổn định cho Kitô hữu và nhân dân Irak đã phải sống trong các thử thách khó khăn và khủng bố kể từ năm 2003 tới nay. Vì tình hình thiếu an ninh nên các thánh lễ Giáng Sinh được cử hành lúc 7 giờ chiều thay vì nửa đêm.

Trong các nhà thờ tại thủ đô đều có trang hoàng hang đá và cây thông Giáng Sinh. Đức Cha Warduni cho biết các chia rẽ vẫn tồn tại trong ba vùng bắc trung nam Irak. Kitô hữu Irak cũng chờ đợi có vị Thượng Phụ mới sẽ được các Giám Mục Giáo Hội công giáo Canđê bầu trong phiên họp vào cuối tháng giêng năm 2013, thay thế Đức Hồng Y Emmanuel Delly nghỉ hưu. Giáo Hội Công Giáo Canđê là Giáo Hội có đông tín hữu nhất Irak, tuy trong các năm qua đã có hàng trăm ngàn người tìm di cư ra nước ngoài sinh sống. Đức Cha Louis Sako, Tổng Giám Mục Kirkuk, cho biết thật là quan trọng việc lựa chọn một vị tân thượng phụ có khả năng hiệp nhất các Kitô hữu, có các chương trình cải tổ mục vụ, phụng vụ và cơ cấu các giáo phận cũng như việc đào tạo các chủng sinh và giáo dân và tổ chức các cơ cấu của Tòa thượng phụ. Trên bình diện quốc gia người phải nắm giữ vai trò hòa giải nữa.

Từ Iraq chúng ta sang Nepal. Năm nay Kitô hữu có thể cử hành lễ Giáng Sinh mà không sợ các nhóm ấn giáo cuồng tín khủng bố. Từ ngày chấm dứt chế độ quân chủ hồi năm 2006 tới nay chính quyền Nepal đã khiến cho Giáng Sinh là ngày lễ nghỉ trên toàn nước để lôi cuốn các khách du lịch. Sự kiện này đã giúp Kitô giáo công khai trưng bầy các ảnh tượng và các trang hoàng hoa đèn trong các hàng quán, trong các nhà thờ và tại tư gia. Hiện nay số tín hữu công giáo Nepal được khoảng 10.000, tức gia tăng 4,000 so với năm 2006, khi Nepal tuyên bố trở thành quốc gia đời. Tự do tôn giáo đã cho phép các Kitô hữu công khai biểu lộ đức tin. Các nhà thờ đều loan báo chương trình lễ, dựng cây thông, làm hang đá, và treo đèn trang hoàng. Hàng trăm tín hữu, kể cả tín hữu Ấn giáo và Phật giáo chờ tham dự thánh lễ đêm Giáng Sinh trong nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hồn xác lên trời trong thủ đô Katmandu.

Từ nhiều năm qua tín hữu các tôn giáo khác cũng xin được tham dự các lễ nghi với tín hữu Kitô. Trong thánh lễ lần này có 24 tân tòng giới trẻ lãnh bí tích Rửa Tội. Họ là các tín hữu Ấn giáo xin gia nhập Công giáo. Cha Robin Rai cha sở nhà thờ chính tòa đã mời gọi tín hữu lãnh bí tích Hòa Giải và phổ biến sứ điệp Giáng Sinh cho mọi người trên toàn nước.

Trong các năm qua tại Nepal đã xảy ra các vụ khủng bố chống các Kitô hữu và các tôn giáo thiểu số do các nhóm Ấn giáo cuồng tín chủ mưu. Trầm trọng nhất là vụ đặt bom nhà thờ chính tòa Katmandu khiến cho 2 ngừơi chết và 13 người bị thương hồi năm 2009.

Sang đến Pakistan, năm nay Kitô hữu tại đây vui mừng tiếp đón tượng ”Chúa Giêsu Hài Đồng Praha”. Do sáng kiến của linh mục Emmnauel Parvez, cha sở giáo xứ thánh Phaolô tông đồ tại Pansara giáo phận Faisalabad, bang Punjab, cha Anastasio Roggero, dòng Cát Minh, giám đốc đền thánh Chúa Giêsu Hài Đồng Praha đã gửi một bức tượng sang Faisalabad. Tượng được đặt trong nhà nguyện ”Chúa Giêsu Hài Đồng Praha” của một làng quê, nơi có một số gia đình Kitô sinh sống về nghề nông và thợ thuyền.

Đức Cha Joseph Coutts, Tổng Giám Mục Karachi kiêm Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pakistan ưởc mong phổ biến lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng đặc biệt trong các trường học công giáo. Vì thế ngài đã mời các cha dòng Cát Minh đến Pakistan để giúp phát động phong trào tôn sùng này qua các buổi dậy giáo lý Chúa Nhật.

Lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng đã lan sang nhiều nước Á châu như: Ấn Độ, Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Mông Cổ. Và tại các nước này đều đã có các nhà thờ và nhà nguyên dâng kính Chúa Giêsu Hài Đồng Praha. Cha Roggero đi khắp nơi trên thế giới để phổ biến lòng tôn sùng này. Cách đây mấy tuần cha đã sang Ấn Độ và chủ sự thánh lễ tại Đền Thánh Chúa Giêsu Hài Đồng Bangalore với sự tham dự của 5.000 tín hữu.

Lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng trong tu viện Cát Minh Praha bên Tiệp đã bắt nguồn từ cha Giovanni Ludovico của Đức Mẹ hồn xác lên trời, Tu viện trưởng, hồi năm 1628. Tượng Chúa Giêsu Hài Đồng mặc áo choàng đỏ, đầu đội triều thiên vàng, tay phải chúc lành tay trái cầm qủa địa cầu nhỏ.

Tại Sri Lanka Kitô hữu các vùng bị lụt đã không thể mừng lễ Giáng Sinh như thường lệ, vì đã có trên 6.300 người gồm gần 1800 gia đình bị di tản. Đó là dân chúng sống trong các quận: Galle, Matale, Mkandy, Nuwara Eliya, Polonnaruwa, Badulla, Baticaloa, Hambantota, Moneragala và Kurunegala. Hiện nay số người nói trên phải sống trong 29 trung tâm tiếp cư, đa số là các trường học, và các cộng đoàn. Cho tới nay mưa lũ đã gây khó khăn cho 20.000 người sống trong 6 trên tổng số 9 tỉnh của Sri Lanka, khiến cho 600 nhà bị phá hủy hay hư hại nặng. Nơi có đng người chết nhất là Matale miền trung Sri Lanka, là vùng vị lụt nặng nhất nước.

Tình trạng bão lụt tại đảo Mindanao bên Philippines cũng khiến cho bầu khí Giáng Sinh năm nay bớt vui, vì có hơn hơn 700 người chết, hàng chục người mất tích và hàng ngàn người không nhà không cửa. Đây là vùng có đa số dân theo Hồi giáo, nhưng cũng có một số nhỏ là Kitô hữu. Dân chúng đã bắt tay vào việc tái thiết ngay, nhưng dấu vết tàn phá của bão lụt còn ghi dấu trên nhà cửa và ruộng đồng vì cùng với nhà cửa người dân đã mất hết mùa màng.

Sang đến Malaysia thiểu số Kitô hữu có thể hài lòng mừng lễ Giáng Sinh, vì chính quyền đã hủy bỏ các hạn chế số người hành hương Thánh Địa, sau tranh luận dài giữa chính quyền và thiểu số Kitô hữu.

Malaysia là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo. Trước đây chính quyền cho phép các tín hữu Kitô, hồi giáo và Do thái tự do hành hương Thánh Địa. Sau đó chỉ cho phép mỗi năm 700 người đi hành hương, tức mỗi cộng đoàn tôn giáo chỉ có thể gửi một nhóm 40 người. Nhưng nay sự hạn chế này không còn nữa và giấy phép hành hương kéo dài 21 ngày.

Theo sau các vụ tranh cãi liên quan tới việc tín hữu Kitô cũng có quyền dùng từ Allah để gọi Thiên Chúa và các Kitô hữu đã thắng kiện, thiểu số Kitô Malaysia đã gặp các khó khăn, căng thẳng, bạo lực, kể cả các vụ tấn kích các nhà thờ và dinh thự Kitô. Cha Lawrence Andrew, cựu giám đốc Tuần san công giáo ”Người đưa tin Malaysia” bầy tỏ hài lòng vì các quyết định mới này của chính quyền, khiến cho tín hữu Kitô yên trí mừng lễ Giáng Sinh.

Tại Indonesia để mừng lễ Giáng Sinh, giới nhà giáo, linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh cũng như giới trẻ Kitô đã tham gia chiến dịch chống tham nhũng do Hội Đồng Giám Mục phát động. Nạn tham nhũng là một trong những thách đố cam go và cổ xưa nhất mà Giáo Hội và xã hội nước này phải đương đầu ngay từ thời hậu thực dân. Nạn tham nhũng lan tràn trong các cơ quan nhà nước và công quyền gây ra nhiều hậu qủa tai hại cho sự tiến triển xã hội và đất nước. Hiện nay có một nhóm thiện nguyện do linh mục Edy Purwanto và Linh Mục Royani Lim phát động trước lễ Giáng Sinh. Tham dự chiến dịch có cả các bác sĩ như bác sĩ Prastowo, các thương gia như ông Wisnu Rosariastoko và giáo sư như bà Wiwiek Widiarti.

Cha Adisusanto dòng Tên chuyên viên truyền thông cho biết cha ủng hộ chiến dịch chống tham nhũng này ngay lập tức vì nó thăng tiến công ích. Cách đây không lâu các Giám Mục Linh Mục và tín hữu Indonesia cũng đã phát động chiến dịch chống cai trị yếu kém và các dịch vụ buôn bán vô luân.

Sau cùng bên Nam Hàn bà tân tổng thống Park Geun Hye đã cho tái lập thói quen dựng cây thông Giáng Sinh trong vùng biên giới giữa hai miền Nam và Bắc Hàn, như dấu chỉ của tinh thần hòa giải, hòa bình và yêu thương giữa người dân hai bên. Thói quen này đã bị ngưng từ năm 2003. Ông Kim Min-Seok phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Nam Hàn cho biết cây thông Giáng Sinh khổng lồ được trang hoàng nhiều đèn sáng có mặt tại vùng biên giới từ ngày 22 tháng 12 cho tới ngày mùng 2 tháng Giêng năm 2013.

Linh Tiến Khải – Vietvatican