Đức Thánh Cha tiếp đoàn thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Rota

Đức Thánh Cha tiếp đoàn thẩm phán Tòa Thượng Thẩm Rota

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 26 tháng 1-2013, dành cho Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma nhân dịp khai mạc năm tư pháp mới, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi đề cao quan hệ mật thiết giữa đức tin và đời sống hôn nhân.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có 150 người, trong đó có hơn 20 vị thẩm phán của tòa Rota. Các vị thuộc nhiều quốc tịch dưới sự điều động của vị tân niên trưởng là Đức Ông Pio Vito Pinto.

Lên tiếng trong dịp này, trong bối cảnh Năm Đức Tin, ĐTC đặc biệt khai triển mối liên hệ giữa đức tin và hôn nhân, xét vì cuộc khủng hoảng đức tin ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới cũng đưa tới một cuộc khủng hoảng hôn nhân, kèm theo những đau khổ và cơ cực cho con cái.

ĐTC nhận xét rằng “Giao ước bất khả phân ly giữa người nam và người nữ, để thành bí tích, không đòi phải có đức tin bản thân của đôi hôn phối, nhưng chỉ đòi điều kiện thiết yếu là ý hướng làm điều mà Giáo Hội làm”. Dầu vậy, đức tin vẫn giữ một vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới đời sống hôn nhân của đôi vợ chồng.. ”Niềm tin nơi Thiên Chúa, được ân thánh của Chúa nâng đỡ, là một yếu tố rất quan trọng để sống sự tận tụy đối với nhau và sự chung thủy vợ chồng” (Giáo lý trong buổi tiếp kiến chung ngày 8-6-2011).

Về điểm này, ĐTC trưng dẫn giáo huấn của một số giáo phụ như Tertulliano, và thánh Clemente thành Alessandria về đời sống vợ chồng dưới ảnh hưởng của đức tin, và ngài nói: ”Cácthánh đã sống sự kết hiệp hôn nhân và gia đình trong viễn tượng Kitô, đã thành công vượt thắng những hoàn cảnh khó khăn nhất, qua đó họ đạt được sự thánh hóa người phối ngẫu và con cái với một tình yêu ngày càng được củng cố nhờ niềm tín thác vững chắc nơi Chúa, nhờ lòng đạo đức chân thành và đời sống bí tích nhiệt thành.” ĐTC cũng nói rằng ”Chính những kinh nghiệm ghi đậm đức tin như thế giúp hiểu rõ hơn ngày nay, sự hy sinh của người vợ hoặc người chồng bị bỏ rơi, hoặc bị ly dị, nếu họ nhìn nhận sự bất khả phân ly của mối giây hôn phối hữu hiệu, không để cho mình đi tới chỗ tái hôn.. Trong trường hợp đó, gương chung thủy và sống hợp với đạo lý Kitô có một giá trị chứng tá trước mặt thế giới và Giáo Hội” (Tông huấn Familiaris consortio, 22-11-1981, 83: AAS 74 [1982], p.184)

Thánh lễ với ĐHY Bertone

Trước khi được ĐTC tiếp kiến, các thẩm phán, nhân viên, các luật sư và cộng tác viên của tòa Thượng Thẩm Rota đã tham dự thánh lễ do ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, chủ sự lúc 9 giờ 15 tại Nhà nguyện Paolina trong dinh Tông Tòa.

Trong bài giảng, ĐHY nhắc đến tấm gương và hoạt động của hai thánh Timôthê và Tito với lễ kính trong ngày 26-1-2013. Ngài đặc biệt nhắc đến lời nhắn nhủ của thánh Phaolô Tông Đồ với môn đệ Timôthê, để kêu gọi mọi người đừng sợ sệt trong bối cảnh xã hội tục hóa ngày nay: ”Thiên Chúa không ban cho chúng ta một tinh thần nhát sợ, nhưng can đảm, bác ái và khôn ngoan thân trọng. Vì vậy con đừng hổ thẹn khi làm chứng về Chúa chúng ta” (2 Tm 1,7-8).

ĐHY Bertone nhận xét rằng ”Chúng ta đang bị một môi trường vây quanh, môi trường này nhiều khi tỏ ra dửng dưng lãnh đạm đối với tôn giáo hoặc công khai bất chấp mọi lời kêu gọi về những giá trị cao cả của Tin Mừng. Sự tục hóa ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm thức ngày nay, biến thành một chủ thuyết duy thế tục nơi lương tâm nhiều người. Chúng ta không thể không nói đến những khó khăn theo đó một bầu không khí văn hóa như thế chống lại hoạt động rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội”.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh khích lệ các vị thẩm phán và nhân viên thi hành sứ vụ tư pháp sẵn sàng ”chịu đau khổ vì Tin Mừng”, vì không được cảm thông, và can đảm góp phần mang lại an bình và công lý cho các tín hữu. Sứ vụ này cũng có tính chất mục vụ và là một sự tham gia đặc biệt vào sứ mạng của Chúa Kitô Mục Tử. ĐHY nói: ”Không thể dẫn đưa các linh hồn về Nước Trời, nếu ta tách rời khỏi thái độ bác ái và khôn ngoan là thái độ phải linh hoạt cả công tác dấn thân giúp tuân giữ trung thành luật pháp và các quyền của mọi người trong Giáo Hội” (SD 26-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

Toàn Văn Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội Lần Thứ 47

Toàn Văn Sứ Điệp của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội Lần Thứ 47

Như chúng tôi đã đưa tin, ngày 24 tháng 01-2013, Đức Thánh Cha đã công bố sứ điệp nhân dịp Ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 47 với chủ đề, “Các mạng xã hội: những cánh cửa sự thật và đức tin; những không gian mới của việc rao giảng Tin Mừng”. Sứ điệp được công bố bằng 8 thứ tiếng. Sau đây chúng tôi xin gửi đến quý vị toàn văn sứ điệp của Đức Thánh Cha.

Anh chị em thân mến,

Ngày thế giới truyền thông năm 2013 đến gần, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài phản tỉnh về thực tại ngày càng quan trọng liên quan đến cách thức mà ngày nay chúng ta giao tiếp với nhau. Tôi muốn xem xét về sự phát triển của mạng lưới xã hội kỹ thuật số vốn đang tạo ra một “agora” mới, là một quảng trường mở ra để mọi người có thể đến và chia sẻ quan điểm, thông tin và ý kiến của mình, và cũng nơi đây những mối tương quan mới và các kiểu mẫu về cộng đồng xuất hiện.

Các không gian này nếu được sử dụng một cách khôn ngoan và đúng đắn, chúng sẽ cổ võ các hình thức đối thoại và tranh luận; và nếu tôn trọng và quan tâm đến sự riêng tư, trách nhiệm và chân lý, chúng có thể thúc đẩy mối dây hiệp nhất giữa các cá nhân và thăng tiến một cách hiệu quả sự hòa hợp của gia đình nhân loại. Sự trao đổi thông tin có thể trở thành truyền thông đích thực, thành mối dây liên kết tình bạn và những nối kết tương trợ sự hiệp thông. Để nhận ra tiềm năng lớn lao nơi các mạng lưới này, những người dấn thân vào đó cần phải nỗ lực trở nên trung thực vì, trong những không gian đó, họ không chỉ chia sẻ ý kiến hay thông tin mà còn chia sẻ chính bản thân mình.

Sự phát triển của các mạng lưới truyền thông cũng mời gọi một sự dấn thân: mọi người phải dấn thân xây dựng các mối tương quan và tình bạn, trả lời các câu hỏi trong niềm vui, và hơn hết là tìm kiếm những khích lệ về mặt trí thức, chia sẻ thông tin và kiến thức. Những mạng lưới này ngày càng trở thành một phần quan trọng của cơ cấu xã hội, vì chúng giúp mọi người đến với nhau trên cơ sở của những nhu cầu cơ bản ấy. Như thế, các mạng lưới xã hội cần được nuôi dưỡng bởi những gợi hứng vốn cắm rễ sâu trong trái tim con người.

Văn hóa của các mạng lưới xã hội và những thay đổi trong các phương tiện cũng như cách thế truyền thông đưa ra những thách đố lớn lao cho những ai muốn nói về chân lý và các giá trị. Cũng như những phương tiện truyền thông xã hội khác, tầm quan trọng và hiệu quả của các phương thức diễn tả khác nhau dường như được xác định bởi sự nổi tiếng của chúng hơn là bởi giá trị và tầm quan trọng vốn có. Tính đại chúng thường liên kết với tiếng tăm và các chiến lược nhằm thuyết phục người khác hơn là logic của lập luận. Đôi khi tiếng nói nhẹ nhàng của lý trí có thể bị đè bẹp bởi sự ầm ĩ của những thông tin mang tính phóng đại, và do đó không thể lôi cuốn như những thứ khác vốn có một cách diễn tả thuyết phục hơn.
 

Mạng lưới truyền thông xã hội thực sự cần sự dấn thân của tất cả những ai ý thức về giá trị của đối thoại, những cuộc tranh luận tri thức và lập luận logic, cũng như của những người nỗ lực nuôi dưỡng những hình thức đàm thoại và diễn đạt vốn lôi cuốn những khát vọng cao đẹp của những ai tham gia vào tiến trình truyền thông. Các cuộc đối thoại và thảo luận có thể được dưỡng nuôi và lớn lên khi chúng ta đối thoại với và quan tâm đến những người mà quan điểm của họ đôi khi khác với quan điểm của chúng ta. “Vì thực tại của các nền văn hóa rất đa dạng nên con người không chỉ cần chấp nhận sự hiện hữu của nền văn hóa khác, mà còn cần để cho nó gợi hứng và làm phong phú chính mình và mở ra để đón nhận những gì là tốt lành, đúng đắn và cao đẹp” (Bài nói chuyện trong cuộc gặp gỡ nhân Ngày Văn Hóa Thế Giới năm 2010).

Thách đố mà mạng truyền thông xã hội đang đối diện thì cũng bao gồm việc làm thế nào để chúng mang lại lợi ích từ sự tham gia đầy đủ của những người tin, những người khao khát chia sẻ sứ điệp của Đức Kitô và giá trị của phẩm giá con người vốn được giáo huấn của Ngài khích lệ. Các tín hữu ngày càng nhận thức rằng nếu Tin Mừng không được phổ biến cả trong những môi trường kỹ thuật số, thì có thể sẽ vắng bóng trong kinh nghiệm của nhiều người, vốn coi không gian này của cuộc sống là điều quan trọng. Môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới song song hay chỉ là một thế giới ảo, nhưng là thành phần của thực tại thường nhật của nhiều người, nhất là của giới trẻ. Các mạng truyền thông xã hội là kết quả của những tương tác giữa người với người, nhưng đến lượt mình, các mạng lưới này cũng hình thành những năng động của truyền thông vốn xây dựng các mối tương quan: do đó, một sự hiểu biết đúng đắn về môi trường này là đòi hỏi phải có trước hết để có thể hiện diện một cách ý nghĩa trên đó.

Khả năng sử dụng các ngôn ngữ mới là điều được đòi hỏi, không chỉ để bắt kịp với thời đại, mà còn để giúp sự phong phú vô hạn của Tin Mừng có thể tìm thấy những hình thức diễn tả thích hợp để có thể đi vào tâm trí và con tim của mọi người. Trong môi trường kỹ thuật số, những bài viết cần được song hành với hình ảnh và âm thanh. Như trong các dụ ngôn của Đức Giêsu, truyền thông hiệu qủa cần phải thu hút trí tưởng tượng và tình cảm của những người mà ta muốn mời họ đi vào một cuộc gặp gỡ với mầu nhiệm Tình Yêu của Đức Giêsu. Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng, truyền thống Ki-tô giáo rất phong phú về các dấu chỉ và biểu tượng: ví dụ, tôi nghĩ về Thánh giá, các icon, hình ảnh của Đức Trinh Nữ Maria, Hang đá Giáng sinh, các cửa sổ kính màu và các bức ảnh trong các thánh đường. Một phần phần quan trọng của di sản nghệ thuật nhân loại được sáng tạo bởi các họa sĩ và nhạc sĩ khi họ nỗ lực để diễn tả chân lý đức tin.
Trong các mạng lưới xã hội, các tín hữu phải bày tỏ sự chân thành của mình ngang qua việc chia sẻ nguồn mạch sâu xa mang lại cho các tín hữu ấy niềm hy vọng và vui tươi: đó là niềm tin nơi Thiên Chúa giàu lòng từ bi và tình thương được mạc khải trong Đức Giêsu Kitô. Sự chia sẻ ấy không phải chỉ hệ tại ở việc biểu lộ đức tin một cách tỏ tường, nhưng còn hệ tại chứng tá, nghĩa là qua cách thức ta thông truyền “những chọn lựa, những sở thích, phán đoán, phù hợp sâu xa với Tin Mừng, cho dù ta không minh nhiên nói về Tin Mừng” (Sứ điệp Ngày Thế giới truyền thông xã hội 2011).

Một cách làm chứng tá có ý nghĩa đặc biệt, đó là khao khát trao ban chính mình cho tha nhân qua thái độ sẵn sàng can dự vào những vấn nạn và những nghi ngờ của tha nhân, trong thái độ kiên nhẫn và tôn trọng, trên hành trình của họ tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc sống. Cuộc đối thoại ngày càng gia tăng về đức tin và tín ngưỡng trên các mạng xã hội xác nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong cuộc thảo luận công khai và trong đời sống xã hội.

Đối với những ai đón nhận món quà đức tin với trái tim rộng mở, câu trả lời triệt để nhất cho các vấn nạn của con người về tình yêu, chân lý và ý nghĩa cuộc sống – những vấn nạn chắc chắn không thể vắng bóng trong các mạng xã hội – được tìm thấy nơi con người Đức Giê-su Kitô. Đó là một điều tự nhiên khi những người có đức tin khao khát chia sẻ, với thái độ tôn trọng và lịch sự, với những ai mà họ gặp trên diễn đàn kỹ thuật số. Tuy nhiên, một cách tối hậu, nếu như những nỗ lực chia sẻ Tin Mừng của chúng ta trổ sinh hoa trái đó là vì quyền năng Lời của Thiên Chúa tự nó đã đụng chạm đến con tim của tha nhân, trước bất kỳ nỗ lực nào của ta. Niềm tín thác nơi hoạt động quyền năng của Thiên Chúa luôn phải vượt lên trên mọi cậy dựa vào việc sử dụng các phương thế của nhân loại. Cả trong lãnh vực kỹ thuật số, trong đó người ta dễ gióng lên những tiếng nói gay go và xung đột, nơi mà chủ nghĩa duy cảm có nguy cơ lấn át, chúng ta được mời gọi lưu tâm để phân định. Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy nhớ lại rằng, ngôn sứ Isaia nhận ra tiếng Chúa không phải trong gió to bão lớn, không phải trong động đất hay lửa, nhưng trong “tiếng gió hiu hiu” (1Cv 19,11-12). Chúng ta cần phải tin rằng, khao khát nền tảng của con người là yêu, được yêu, tìm thấy ý nghĩa và chân lý – một khao khát mà chính Thiên Chúa đã đặt để trong trái tim của mỗi người nam và người nữ – khao khát đó khiến cho con người của thời đại không ngừng mở ra với điều mà Chân phước Hồng y Newman gọi là “ánh sáng đức tin tốt lành.”

Các mạng lưới truyền thông xã hội, ngoài việc trở nên một phương tiện của truyền bá Phúc Âm, còn là một yếu tố trong sự phát triển của con người. Ví dụ, ở những nơi mà vì bối cảnh địa lý và văn hóa các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các mạng truyền thông xã hội có thể củng cố cảm thức thuộc về cộng đoàn hoàn vũ của các tín hữu. Các mạng lưới truyền thông có thể làm cho việc chia sẻ các nguồn mạch về linh đạo và phụng vụ diễn ra một cách dễ dàng, giúp mọi người cảm thấy gần gũi hơn với những người chia sẻ cùng niềm tin trong khi cầu nguyện. Một sự dấn thân chân thực và có tính tương tác với câu hỏi và vấn nạn của những người đang ở xa đức tin làm cho chúng ta nhận thấy nhu cầu cần phải nuôi dưỡng, bằng cầu nguyện và phản tỉnh, đức tin của chúng ta trong sự hiện diện của Thiên Chúa cũng như trong việc thực hành đức ái: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Trong thế giới kỹ thuật số, có những mạng lưới xã hội giúp cho con người thời nay có cơ hội cầu nguyện, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa. Thế nhưng, các mạng lưới này cũng mở ra cánh cửa cho các chiều kích khác của niềm tin. Nhờ vào những liên lạc ban đầu trên mạng, nhiều người khám phá ra tầm quan trọng của những cuộc gặp gỡ trực tiếp, kinh nghiệm của đời sống cộng đoàn và thậm chí là kinh nghiệm hành hương, những yếu tố quan trọng trong hành trình đức tin. Cần phải có sự thống nhất và nhất quán trong khi diễn tả đức tin và làm chứng cho Tin Mừng trong mọi thực tại mà chúng ta sống, cho dù đó là thể lý hay kỹ thuật số. Khi tìm cách làm cho Tin Mừng hiện diện trong môi trường kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi mọi người gặp gỡ nhau để cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi cụ thể như nhà thờ hoặc nhà nguyện… Khi chúng ta hiện diện với tha nhân, bằng bất cứ cách nào, chúng ta được mời gọi làm cho tha nhân nhận biết tình thương của Thiên Chúa cho đến tận bờ cõi trái đất.

Tôi nguyện xin Thần Khí Thiên Chúa đồng hành với anh chị em và soi sáng cho anh chị em luôn mãi. Tôi cũng chân thành ban phép lành cho tất cả mọi người, ước gì anh chị em sẽ là những sứ giả và chứng nhân Tin Mừng đích thực: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).

Từ Vatican, ngày 24 tháng 1 năm 2013.
Đức Thánh Cha Biển Đức 16

Nguyễn Minh Triệu sj chuyển ngữ – Radio Vatican

Công bố 2 tự sắc của Đức Thánh Cha

Công bố 2 tự sắc của Đức Thánh Cha

VATICAN. Hôm 25- tháng -2013, ĐTC qui định rằng từ nay việc Huấn giáo thuộc thẩm quyền của Hội đồng Tòa Thánh cổ võ tái truyền giảng Tin Mừng, thay vì thuộc Bộ giáo sĩ, và bù lại các chủng viện từ nay thuộc thẩm quyền của Bộ giáo sĩ, thay vì thuộc Bộ Giáo dục Công Giáo.
Hai qui định trên đây được ĐTC trình bày trong hai tự sắc tên là ”Fides per doctrinam” (Đức tin nhờ đạo lý), và ”Ministrorum institutio” (Việc đào tạo các thừa tác viên). Hai văn kiện pháp lý này thay đổi những điều liên hệ thuộc Tông hiến Pastor bonus (Mục Tử Nhân Lành), về việc cải tổ Giáo triều Roma ban hành năm 1988.
Hai tự sắc trên đây bắt đầu có hiệu lực 15 ngày sau khi đăng trên báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh, tức là từ ngày 10 tháng 2-2013 tới đây

Tự sắc Fides per doctrinam

Trong phần dẫn nhập Tự Sắc này, ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảng dạy giáo lý: ”Đức tin cần được nâng đỡ nhờ một đạo lý có khả năng soi sáng tâm trí của các tín hữu. Thời điểm lịch sử đặc biệt chúng ta đang sống ngày nay, bị cuộc khủng hoảng bi thảm về đức tin, đòi phải có ý thức như thế để có thể đáp ứng những mong đợi lớn nảy sinh trong tâm hồn các tín hữu vì những vấn nạn mới đang gọi hỏi thế giới và Giáo Hội”.
ĐTC cũng nêu bật liên hệ giữa việc giảng dạy đức tin và rao giảng Tin Mừng. Ngài nhắc lại lời Vị Tôi Tớ Chúa Đức Phaolô 6 trong Tông Huấn ”Rao giảng Tin Mừng” (Evangelii nuntiandi): ”Một con đường không được lơ là trong việc rao giảng Tin Mừng là giảng dạy giáo lý. Sự hiểu biết, nhất là của các trẻ em và thiếu niên, cần học hỏi, nhờ việc giảng dạy giáo lý có hệ thống, về những dự kiện cơ bản, nội dung sinh động của chân lý mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho chúng ta và Giáo Hội đã tìm cách diễn tả ngày càng phong phú, qua dòng lịch sử dài của mình” (n.44, AAS 68 [1976], 34).
Trong phần các qui luật, ĐTC qui định rằng: từ nay, Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng có nhiệm vụ thăng tiến việc huấn giáo cho các tín hữu thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng; có thẩm quyền ban hành các qui luật thích hợp để việc giảng dạy giáo lý được thi hành thích hợp theo truyền thống của Giáo Hội; cứu xét và phê chuẩn các sách giáo lý và các tài liệu khác liên quan đến việc huấn giáo, với sự đồng ý của Bộ giáo lý đức tin.

Tự sắc ”Ministrorum institutio”

Sau khi trình bày tiến trình lịch sử và các lý do, ĐTC viết:
”Vì thế tôi thấy một điều thích hợp là ủy thác cho Bộ giáo sĩ nhiệm vụ thăng tiến và điều hành tất cả những gì liên quan tới việc huấn luyện, đời sống và sứ vụ của các LM và phó tế: từ việc mục vụ ơn gọi, tuyển chọn các ứng sinh lên thánh chức, kể cả việc huấn luyện nhân bản, tu sức, đạo lý và mục vụ cho các ứng sinh ấy trong các chủng viện và các trung tâm đào tạo các phó tế vĩnh viễn (Xc Can. 236,1), cũng như việc thường huấn cho họ, kể cả những điều kiện sinh sống và cách thức thi hành sứ vụ, lương bổng, bảo hiểm và an sinh xã hội”.
”Bộ giáo sĩ giúp các GM để trong các giáo phận của các vị các ơn gọi thừa tác viên thánh được vun trồng tối đa, và trong các chủng viện cần thiết lập và điều hành theo giáo luật, các chủng sinh được giáo dục thích hợp nhờ một sự huấn luyện vững chắc về mặt nhân bản cũng như tu đức, đạo lý và mục vụ” (Art. 94,1).
”Chú ý cảnh giác sao cho cuộc sống chung và việc cai quản các chủng viện hoàn toàn đáp ứng những đòi hỏi của việc đào tạo linh mục, và các bề trên, các giáo sư góp phần hết sức, bằng gương sống và đạo lý ngay thẳng, vào việc huấn luyện nhân cách của các thừa tác viên thánh” (Art. 94,2)
”Bộ có thẩm quyền thiết lập các chủng viện liên giáo phận và phê chuẩn qui chế của các cơ sở giáo dục này” (94,3) (SD 25-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP
– Radio Vatican

 

 

Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu.

Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu.

Ngày 21 tháng 01 năm 2012 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và “phó tướng” Biden đã tuyên thệ nhậmchức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh “bộ đôi quyền lực”  này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này.Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden.(Antoine Nguyễn).

Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.

Tại quê  hương Nadaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Người nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". 

Trước đó  ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: “Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,4-5).

Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội…Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45)(x. ĐGM. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).

Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.


1. Sứ điệp và hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu
 
“Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố…”. Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.

Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại. 

Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). 

Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công… làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).


2. Chúa Thánh Thần, thúc đẩy và hướng dẫn.

Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác. 

Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo:  “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40); “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu “được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy”. Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc “xức dầu”, được tấn phong làm “Đấng được xức dầu” (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.


3. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
 
Chúa Giêsu xác định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe.” Trải suốt Tin Mừng Luca, từ “Hôm nay” xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra” (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (23,43). Ý nghĩa của từ “Hôm nay” mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là “ngày hôm nay” vào lúc Người tại thế, mà còn là “ngày hôm nay” của Giáo Hội nữa.

Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.

Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm:“Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8).

Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). 

“Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương” (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình.

Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.

LM. Giuse Nguyễn hữu An

Chúa nhật 3 thường niên năm C (Nkm 8,2-4.5-6.8-10;1Cr 12, 12-30; Lc 1,1-4;4,14-21)

  Chúa nhật 3 thường niên năm C (Nkm 8,2-4.5-6.8-10;1Cr 12, 12-30; Lc 1,1-4;4,14-21)

Kính thưa quý ông bà anh chị em, các bạn trẻ thân mến. Mỗi một Chúa Nhật về, ai là người Kitô hữu thì tới nhà nhờ để tham dự thánh lễ hay nói đúng hơn là để cùng nhau dâng thánh lễ; Thánh lễ là một lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô hiến tế trong thánh lễ. Trong thánh lễ chúng ta cùng chung lời catiếng hát với nhau, cùng nhau nghe Lời Chúa. Rồi ta có những cử chỉ như đứng lên, ngồi xuống, quỳ gối; phủ phục. Phải chăng đây là những điều đã có trong thời Cựu Ước, như sách Nơ-khe-mi-a chúng ta vừa mới nghe. Thầy thơ ký Esdras mở sách luật ra đọc, toàn dân đứng, khi nghe xong họ đáp.Amen! Amen! Rồi cúi mình phủ phục sát xuống đất.

     Trong thánh lễ chúng ta dâng, trung tâm và cao điểm làkhi linh mục đọc lời truyền phép. Qua lời truyền phép; bánh trở nên Mình Thánh Chúa và rượu trở nên Máu Thánh Chúa đích thực, không một chút hồ nghi. Nếu ngày xưa khi nghe đọc Sách Luật mà dân chúng còn cúi rạp xuống đất tỏ lòng cung kính, thì phương chi bây giờ, khi linh mục cầm Mình Thánh và Chén Máu Thánh Chúa đưa lên cao cho mọi người chiêm ngưỡng lẽ nào ta lại có thái độ nghênh ngang, coi thường. Thế mà, trong thực tế có những người vẫn nghênh ngang coi như không có gì là linh thiêng, là đáng suy tôn, kính thờ.

     Trong bài đọc 2, Thánh Phaolo đã tài tình khéo léo áp dụng những hình ảnh cụ thể qua các bộ phận nơi thân thể  con người. Trong một thân thể, có nhiều chi thể khác nhau, mỗi chi thể có một chức năng khác nhau; khác nhau nhưng không chống đối nhau; trái lại, mỗi chi thể có một sự tương quan chặt chẽ với nhau không thể tách rời nhau, và cũng không có chuyện loại trừ nhau. Bởi đó, một chi thể đau thì các chi thể khác cũng đau, và ngược lại một chi thể được vinh, thì những chi thể khác cũng được hưởng nhờ. Qua hình ảnh đó, thánh nhân muốn cho ta thấy mỗi một người như là một chi thể trong thân mình của Đức kitô. Cho nên, để thân mình Đức Kitô là Giáo Hội Mẹ được lớn mạnh, không tì ố, không vết nhăn nheo thì, mọi thành phần, mọi đoàn thể, mọi  giáo xứ, mọi Giáo Hội địa phương cần phải có sự liên quan chặt chẽ với nhau, hổ trợ cho nhau, có như thế thì thân thể là Giáo Hội Mẹ mới được khoẻ mạnh. Đây là bài học rất thiết thực cho mọi người, mọi gia đình và mọi hội đoàn, đoàn thể trong giáo xứ chúng ta, nếu áp dụng được bài học các chi thể trong một thân thể thì phúc cho mỗi người, phúc cho mỗi gia đình và phúc cho các hội đoàn và cho cả giáo xứ.
 
     Còn bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu trở về quê hương để ban bố hồng ân của Thiên Chúa nơi quê hương của Ngài. Với bài giảng đầu tiên ở quê nhà tại hội đường, Ngài lấy lại đoạn Kinh Thánh trích từ sách tiên tri Isaia chương 61,1-2: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”. Với đoạn Kinh Thánh này, các luật sĩ, các thầy tư tế đọc cho dân chúng nghe không biết bao nhiêu lần; nhưng hôm nay Chúa Giêsu cũng đọc lại đoạn sách này. Đọc xong, với cửcủa Chúa Giêsu là: gấp sách lại- đưa cho người giúp việc- rồi Người ngồi xuống- mọi người chăm chú nhìn Người- Người bắt đầu nói: Hôm nay đãứng nghiệm lời kinh thánh quí vị vừa nghe”. Chỉ thế thôi, thế mà: “Mọi người thán phục những lời hay ýđẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,22). Tại sao vậy, nếu không phải là Ngài giảng dạy như Đấng có quyền chứ không như các luật sĩ.Chúa Giêsu muốn xác minh cho mọi người biết là đoạn Kinh Thánh này ứng nghiệm vào Ngài, chứ không phải ở một một nào khác. Chúa Giêsu biết Ngài công bố sự thật này, người ta sẽ không chấp nhận, nhất là tại nơi quê hương của Ngài. Quả thật, người đồng hương của Ngài tuy là khâm phục, khen ngợi nhưng liền sau đó họ chống đối, nên Chúa Giêsu phải lên tiếng một cách thật đau lòng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Lẽ ra, quê hương của Ngài sẽđược nhận các ân huệ của Thiên Chúa nhiều hơn bất cứ nơi nào.Nhưng, tiếc thay họ lại không được, bởi họ nhìn Chúa Giêsu qua lăng kính chỉ là một con người bình thường như bao người khác.Họ tưởng rằng họ đã nắm bắt được tông tích lai lịch của Chúa Giêsu, nên không cần phải hiểu thêm gì về Ngài nữa.
 
     Kính thưa qúi ông bà anh chị em, cơn bệnh nơi con người xưa cũng như nay là, một khi đãcó định kiến về một ai đó thì suốt đời người đó chẳng có gì hay đối với kẻ định kiến; trong khi những người khác khâm phục, kính nể. Rồi một cơn bệnh nữa cũng nguy hiểm, đó là bệnh lầm tưởng, nghĩa là, khi cho rằng mình nắm bắt được tất cả rồi, nên chẳng cần tìm hiểu gì nữa. Chẳng hạn, khi ta học thuộc giáo lý xưng tội rước lễ, thêm sức hay biết được một vài đoạn Kinh Thánh và cho thế là nắm bắt được toàn bộ về Chúa rồi, thành thử không cần phải tìm hiểu,đào sâu thêm; cho nên không lạ gì, ngày này qua ngày nọ, năm này tới năm kia ta đọc biết bao nhiêu lần kinh, nghe đi nghe lại cũng đoạn Kinh Thánh đó, nhưng lòng ta vẫn không biến chuyển, không có chút rung cảm, nên nhàm chán, không thiết tha, không muốn tìm hiểu thêm, và như thế, ta không bao giờ tiến thêm được về đường thiêng liêng, về sự khao khát yêu mến Lời của Chúa. Bởi đó, chúng ta khó lòng mà có đời sống say mê Đức Kitô, kết hiệp với Đức Kitô từng giây phút trong cuộc sống của chúng ta như các Thánh được. Nên không lạ gì, khi có việc xẩy ra không vừa ý, thì có những thái độ như người Do-thái xưa; hồ hởi, phấn khởi đó, nhưng ngay sau đó là sự chống đối vàmuốn tiêu diệt.
 
     Vậy hôm nay qua lời của Chúa mà chúng ta đã chia s với nhau, ước mong mỗi người có sự tha thiết và cung kính lời của Chúa như thái độ của dân Israel trong bài đọc 1 diễn tả. Rồi ta lại ý thức được mỗi một người đều có một sự liên đới với nhau chặt chẽ như các chi thể trong một cơ thể mà ta nghe trong bài đọc 2. Khi ta hiểu và sống những điều trên là ta đang sống mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội, mầu nhiệm tháp nhập chặt chẽ với Đức Kitô. Xin Chúa giúp chúng con sống được mầu nhiệm này. Amen.

Lm Phaolô Cao Thế Bình,SDD

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội

Sứ điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các tín hữu tích cực dấn thân trong các mạng xã hội, để chia sẻ Tin Mừng, niềm tin, vui mừng và hy vọng cho tha nhân.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp công bố hôm 24 tháng 1-2013, nhân dịp Ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 47, sẽ được cử hành vào chúa nhật 12-5 tới đây với chủ đề ”Các mạng xã hội: những cánh cửa sự thật và đức tin; những không gian mới của việc rao giảng Tin Mừng”. Sứ điệp được công bố bằng 8 thứ tiếng, kể cả tiếng Arập.

ĐTC nhắc đến nhiều lợi ích cũng như những thách đố của các mạng xã hội và cả những khía cạnh tiêu cực khi chúng bị lạm dụng hoặc không sử dụng đúng đắn. Ngài viết thêm rằng:

”Các tín hữu ngày càng nhận thức rằng rõ nếu Tin Mừng không được phổ biến cả trong những môi trường kỹ thuật số, thì có thể sẽ vắng bóng trong kinh nghiệm của nhiều người, vốn coi không gian này của cuộc sống là điều quan trọng. Môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới song song hoặc thuần túy tiền thể, nhưng là thành phần của thực tại thường nhật của nhiều người, nhất là của giới trẻ”.

ĐTC nêu nhận xét: ”Đặc tính chân chính của các tín hữu trong các mạng xã hội được làm nổi bật nhờ sự chia sẻ nguồn mạch sâu xa mang lại cho các tín hữu ấy niềm hy vọng và và vui tươi: đó là niềm tin nơi Thiên Chúa giàu lòng từ bi và tình thương được mạc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Sự chia sẻ ấy không phải chỉ hệ tại biểu lộ đức tin một tỏ tường, nhưng còn hệ tại chứng tá, nghĩa là qua cách thức ta thông truyền ”những chọn lựa, những sở thích, phán đoán, phù hợp sâu xa với Tin Mừng, cho dù ta không minh nhiên nói về Tin Mừng” (Sứ điệp Ngày Thế giới truyền thông xã hội 2011).

ĐTC giải thích rằng ”Một cách làm chứng tá có ý nghĩa đặc biệt, đó là ý chí hiến thân cho tha nhân qua thái độ sẵn sàng can dự vào những câu hỏi và những nghi ngờ của tha nhân, trong thái độ kiên nhẫn và tôn trọng, trên hành trình của họ tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc sống. Sự nảy sinh trong các mạng xã hội cuộc đối thoại về đức tin và tín ngưỡng xác nhận tầm quan trọng của tôn giáo trong cuộc thảo luận công khai trong xã hội”.

ĐTC nhắc nhủ rằng ”Niềm tín thác nơi hoạt động quyền năng của Thiên Chúa luôn phải vượt lên trên sự cậy dựa vào việc sử dụng các phương thế của con người. Cả trong lãnh vực kỹ thuật số, trong đó người ta dễ gióng lên những tiếng nói gay go và xung đột, và nhiều khi những gì là giật gân có nguy cơ lấn át, chúng ta được kêu gọi thực thi chú ý phân định”.

Cũng trong Sứ điệp ĐTC đề cao các mạng xã hội, không những như một dụng cụ rao giảng Tin Mừng, nhưng còn có thể là một yếu tố giúp phát triển con người, củng cố tình đoàn kết và cảm thức thuộc về cộng đoàn hoàn vũ của các tín hữu. Các mạng ấy cũng giúp chia sẻ các nguồn linh đạo và phụng vụ, giúp con người cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa, và dẫn tới cả những cuộc gặp gỡ trực tiếp với nhau. ĐTC viết: ”Khi tìm cách làm cho Tin Mừng hiện diện trong môi trường kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi con người sống những cuộc gặp gỡ cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi cụ thể như nhà thờ hoặc nhà nguyện… Khi chúng ta hiện diện với tha nhân, bằng bất cứ cách nào, chúng ta được mời gọi làm cho tha nhân biết tình thương của Thiên Chúa cho đến tận bờ cõi trái đất” (SD 24-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Tin là ra khỏi chính mình để bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa

Tin là ra khỏi chính mình để bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa

Đức tin thúc đẩy chúng ta liên tục ra khỏi chính mình mhư tổ phụ Abraham để đem sự hiện diện của Thiên Chúa vào trong lịch sử: một sự hiện diện trao ban sự sống và ơn cứu độ và mở ra cho chúng ta một tương lai của cuộc sống không bao giờ tàn phai.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 23 tháng 1-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý về Kinh Tin Kính bắt đầu với lời tuyên xưng ”Tôi tin nơi Thiên Chúa”. Khẳng định nền tảng này xem ra đơn sơ, nhưng nó mở ra cho tương quan vô tận với Thiên Chúa và mầu nhiệm của Người. Tin bao gồm sự gắn bó với Chúa, tiếp nhận Lời Người và tươi vui vâng phục mạc khải của Người, như sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo dậy: ”Đức tin là một hành động cá nhân: nó là lời đáp trả tự do của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải” (s. 166). Và Đức Thánh Cha định nghĩa hành động tin như sau:

”Như vậy, có thể nói rằng tin nơi Thiên Chúa vừa là một ơn vừa là một dấn thân, là ơn thánh Chúa và là trách nhiệm của con người, trong một kinh nghiệm đối thoại với Thiên Chúa, là Đấng vì tình yêu ”nói với con người như với bạn hữu” (Dei Verbum, 2), nói với chúng ta, để trong đức tin và với đức tin, chúng ta có thể bước vào trong sự hiệp thông với Người.

Nhưng chúng ta có thể lắng nghe Thiên Chúa ở đâu? Nền tảng là trong Thánh Kinh, trong đó Lời Chúa trở thành có thể nghe được đối với chúng ta, và dưỡng nuôi cuộc sống của các bạn hữu Người. Toàn Thánh Kinh kể lại việc Thiên Chúa tự mạc khải cho nhân loại: toàn Thánh Kinh nói về đức tin và dậy chúng ta đức tin, bằng cách kể cho chúng ta một lịch sử trong đó Thiên Chúa làm cho chương trình cứu độ tiến tới và gần gũi mọi người, qua biết bao nhiêu gương mặt rạng rỡ của những kẻ tin nơi Người và tín thác nơi Người, cho đến mạc khải tràn đầy nơi Chúa Giêsu.

Chương 11 thư gửi tín hữu do thái rất đẹp, vì nó nói về đức tin và đưa ra ánh sáng các gương mặt lớn đã sống nó và trở thành mẫu gương cho mọi kẻ tin: ”Đức tin là nền tảng của những điều người ta hy vọng và là bằng chứng cho những điều người ta không thấy” (Dt 11,1). Như vậy, con mắt đức tin có khả năng trông thấy sự vô hình và trái tim của người tin có thể hy vọng bên kia hy vọng, như tổ phụ Abraham, mà thánh Phaolô nói tới trong thư gửi tín hữu Roma rằng: ”ông tin vững vàng trong niềm hy vọng chống lại mọi hy vọng” (Rm 4,18).

Tổ phụ Abraham là gương mặt lớn đầu tiên để quy chiếu, khi nói về niềm tin nơi Thiên Chúa: tổ phụ Abraham là mẫu gương, là cha của tất cả mọi kẻ tin (x Rm 4,11-12). Thư gửi tín hữu Do thái giới thiệu người như sau: ”Nhờ đức tin ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin ông đã tới cư ngụ tại đất hứa như tại một nơi khách, ông sống trong lều cũng như ông Igiaác và ông Giacóp là những người đồng thừa kế cùng một lời hứa. Vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng” (Dt 11,8-10).

Tác giả thư gửi tín hữu Do thái quy chiếu về ơn gọi của tổ phụ Abraham như kể trong sách Sáng Thế. Thiên Chúa xin Abraham bỏ quê hương mình để đi đến một xứ Người sẽ chỉ cho ông: ”Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho người” (St 12,1). Đây là một cuộc ra đi vào nơi tăm tối, không biết Thiên Chúa sẽ dẫn ông tới đâu. Đó là một con đường đòi hỏi một sự vâng lời và tín thác triệt để, mà chỉ có đức tin mới cho phép đạt được. Nhưng cái tối tăm của sự không biết được chiếu tỏ bởi ánh sáng của một lời hứa. Thiên Chúa thêm vào lệnh truyền một lời trấn an mở ra cho ông Abraham một tương lai sự sống tràn đầy: ”Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng… và nơi ngươi mọi gia tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc” (St 12,2-3).

Trong Thánh Kinh ban đầu phúc lành được gắn liền với ơn sự sống đến từ Thiên Chúa, và nó biểu lộ trước hết trong sự phong phú, trong một cuộc sống được nhân lên, từ thế hệ này sang thế hệ kia. Và phúc lành cũng gắn liền với kinh nghiệm sở hữu một vùng đất, một nơi ổn định để sống và lớn lên trong tự do và an ninh, kính sợ Thiên Chúa và xây dựng một xã hội của những người trung thành với Giáo Ước, ”một vương quốc tư tế và một dân tộc thánh thiện” (x. Xh 19,6).

Vì thế trong chương trình của Thiên Chúa tổ phụ Abraham được chỉ định trở thành ”cha của đông đảo các dân tộc” (St 17,5; x. Rm 4,17-18), và bước vào một vùng đất mới để ở. Nhưng Sara vợ ông lại hiếm muộn, không thể có con; và xứ sở Thiên Chúa dẫn ông tới lại ở xa quê hương của ông và đã có các dân tộc khác sinh sống và sẽ không bao giờ thực sự thuộc về ông. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Vùng đất mà Thiên Chúa ban cho Abraham không thuộc về ông, ông là một người ngoại quốc và sẽ luôn là như thế, với tất cả những gì bao gồm: không có mục đích sở hữu, luôn cảm thấy sự nghèo nàn của mình, coi mọi sự như là ơn. Đây cũng là điều kiện tinh thần của người chấp nhận theo Chúa, của người quyết định ra đi bằng cách tiếp nhận lời Người mời gọi, dưới dấu chỉ của phước lành vô hình nhưng quyền năng của Người. Và tổ phụ Abraham cha của những người có lòng tin, chấp nhận lời mời gọi đó của Thiên Chúa trong niềm tin. Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Roma: ”Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc như đã được nói với ông: dòng dõi ngươi sẽ như thế.

Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Sara đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện” (Rm 4,18-21).

Đức tin dẫn đưa Abraham đi theo một con đường mâu thuẫn. Ông sẽ được chúc phúc, nhưng không có dấu chỉ hữu hình của phước lành: ông nhận lời hứa trở thành một dân tộc lớn, nhưng với một cuộc sống ghi dấu bởi sự hiếm muộn của bà vợ Sara; ông được dẫn đưa vào trong một quê hương mới, nhưng sẽ phải sống tại đó như ngoại kiều; sở hữu đất đai duy nhất sẽ được cho phép là một mảnh đất để chôn cất Sara (x. St 23,1-20). Abraham được chúc phúc, bởi vì trong lòng tin ông biết phân định phước lành của Thiên Chúa bằng cách vượt qúa các vẻ bề ngoài, tín thác nơi sự hiện diện của Thiên Chúa, cả khi các con đường của Người xem ra mầu nhiệm đối với ông.

Khi chúng ta khẳng định ”Tôi tin nơi Thiên Chúa” thì chúng ta cũng nói như Abraham: ”Con tin nơi Chúa; con tín thác nơi Chúa”, nhưng không phải chỉ như nơi một Người để chạy tới trong những lúc khó khăn hay chỉ để dành một vài lúc trong ngày hay trong tuần. Nói rằng ”Tôi tin nơi Thiên Chúa có nghĩa là xây dựng đời tôi trên Người, để cho Lời Người hướng dẫn mọi ngày trong các lựa chọn cụ thể, khộng sợ hãi đánh mất đi cái gì của chính tôi.

Trong lễ nghi rửa tội ba lần tín hữu được hỏi: ”Các con có tin” nơi Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu Kitô, nơi Chúa Thánh Thần, nơi Giáo Hội công giáo thánh thiện và các sự thật khác của đức tin không, thì ba lần câu trả lời ở ngôi số ít là ”Con tin”, bởi vì chính cuộc sống cá nhân của tôi phải tiếp nhận một khúc rẽ với ơn đức tin, cuộc sống cá nhân của tôi phải thay đổi, phải hoán cải.

Mỗi khi chúng ta tham dự một lễ nghi rửa tội, chúng ta phải tự hỏi chùng ta đã sống ơn đức tin mỗi ngày như thế nào.

Đức tin khiến cho chúng ta trở thành các người lữ hành trên trái đất, được tháp nhập vào trong thế giới và trong lịch sử, nhưng trên đường hướng về quê hương trên trời. Đức Thánh Cha giải thích thêm:

Như thế, tin nơi Thiên Chúa khiến cho chúng ta trở thành những người đem theo các giá trị thường không trùng hợp với mốt và ý kiến của hiện tại, vì nó đòi hỏi chúng ta phải theo các tiêu chuẩn và có các thái độ không thuộc kiểu suy nghĩ chung. Kitô hữu không được sợ hãi đi ngược dòng đời để sống đức tin của mình chống lại cám đỗ ”đồng phục”. Trong biết bao nhiêu xã hội của chúng ta Thiên Chúa đã trở thành ”người vắng bóng vĩ đại”, và thay vào chỗ của Người là các tà thần, trước hết là cái ”tôi” tự lập. Và cả các tiến bộ tích cực của khoa học và kỹ thuật cũng dẫn đưa con người tới một ảo tưởng của sự toàn năng và tự đủ, và một chủ trương lấy cái tôi làm trung tâm gia tăng đã tạo ra không ít các mất quân bình bên trong tương quan giữa con người với nhau, và các thái độ xã hội.

Nhưng nỗi khát khao Thiên Chúa đã không tắt lịm, và sứ điệp tin mừng tiếp tục vang lên qua các lời nói và việc làm của biết bao nhiêu người có đức tin. Abraham tiếp tục là cha của nhiều con cái chấp nhận bước theo chân người, lên đường vâng theo ơn gọi của Chúa, tín thác nơi sự hiện diện tốt lành của Chúa, và tiếp nhận phước lành của Người để trở thành phước lành cho tất cả mọi người. Và thế giới được chúc lành của đức tin mà mọi người đều được kêu mời vào, để bước đi không sợ hãi theo Chúa Giêsu Kitô. Nó là một con đường đôi khi khó khăn, có thử thách và cái chết, nhưng mở ra cho sự sống trong sự thay đổi triệt để thực tại, mà chỉ có đôi mắt đức tin mới có thể trông thấy và hưởng nếm trọn vẹn.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau rồi cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng

Đức Thánh Cha tiếp kiến Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng

ĐTC tiếp kiến Nguyễn phú TrọngCourtesy Pic. from AP

VATICAN. Lúc 10 giờ 30 sáng 22 tháng 1-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân dịp Ông hướng dẫn phái đoàn cấp cao của Đảng và Nhà Nước Việt Nam viếng thăm một số nước Tây Âu.

Sau khi hội kiến với Ông Tổng Bí Thư trong vòng 30 phút, ĐTC đã gặp chung và chào thăm 10 vị trong đoàn tháp tùng, trong đó có Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Bộ Kế Hoạch và đầu tư Bùi Quang Vinh, Trưởng Ban Tôn Giáo Chính phủ, Trung Tướng Phạm Dũng cũng là thứ trưởng Bộ nội vụ và một số vị khác như thứ trưởng quốc phòng, chủ tịch Ủy ban ngoại giao của đảng cộng sản Việt Nam, thứ trưởng Bộ công an, Đại Sứ Nguyễn Hoàng Long của Việt Nam tại Roma, v.v.

Ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tặng ĐTC bức sơn mài có hình Chùa Một Cột ở Hà Nội, và ngài tặng ông một bức tranh hình một phông ten trong nội thành Vatican.

Tiếp đến phái đoàn của Ông Tổng Bí Thư đã gặp gỡ và hội kiến với ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, với sự hiện diện của Đức TGM Dominique Mamberti, Ngoại trưởng Tòa Thánh, cùng với một số chức sắc thuộc Bộ ngoại giao Tòa Thánh.

Thông báo của Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết “Đây là lần đầu tiên một vị Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam gặp Đức Giáo Hoàng và các vị lãnh đạo cấp cao của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Trong các cuộc nói chuyện thân mật các vị đã bàn về những vầ đài có quan hệ đối với Việt Nam và Tòa Thánh, đồng thời bày tỏ ước muốn một số tình trạng còn tồn đọng sớm được giải quyết và sự cộng tác phong phú hiện nay có thể được củng cố”.
Đây là lần thứ 3 một nhân vật cấp cao của Việt Nam được ĐTC Biển Đức 16 tiếp kiến tại Vatican, sau thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết.

Trong thời gian qua, Ủy ban làm việc chung giữa Tòa Thánh và Nhà Nước Việt Nam vẫn gặp gỡ hàng năm để thảo luận về quan hệ hai bên. Một trong những kết quả của quan hệ này là phía Nhà Nước Việt Nam đồng ý để Tòa Thánh bổ nhiệm một vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam, đó là Đức TGM Lepoldo Girelli hồi năm 2011. (SD 22-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô

Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 20 tháng 1-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã giải thích ý nghĩa phép lạ của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana, mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, cũng như kêu gọi chấm dứt thảm trạng tàn sát các thường dân vô tội trong các cuộc xung đột hiện nay trên thế giới.


Hàng ngàn tín hữu đã tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô dưới trời mưa. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC nói:

Anh chị em thân mến!

Hôm nay phụng vụ trình bày Tin Mừng về tiệc cưới Cana, một giai thoại được thánh Gioan là chứng nhân tận mắt kể lại. Giai thoại này được đặt trong Chúa nhật hôm nay, ngay sau mùa Sinh Nhật, vì cùng với cuộc viếng thăm của các Đạo Sĩ đông phương, và biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, họp thành 3 biến cố hiển linh, nghĩa là sự tỏ mình ra của Chúa Kitô. Thực vậy, biến cố tiệc cưới Cana là ”khởi đầu các dấu lạ” (Ga 2,11), nghĩa là phép lạ đầu tiên do Chúa Giêsu thực hiện, qua đó Ngài biểu lộ công khai vinh quang của Ngài, khơi dậy niềm tin của các môn đệ. Chúng ta hãy gợi lại vắn tắt những gì xảy ra trong tiệc cưới ở Cana. Xảy ra là họ thiếu rượu và Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, nói với Con của Mẹ về điều đó. Chúa trả lời là giờ của Ngài chưa tới; nhưng rồi Ngài vẫn theo lời yêu cầu của Mẹ Maria và sau khi 6 chum nước lớn được đổ đầy, Chúa biến nước thành rượu, rượu ngon tuyệt hảo, ngon hơn rượu trước đó. Với ”dấu lạ” này, Chúa Giêsu tỏ mình ra như vị Hôn Phu cứu thế, đến để thiết lập với dân Ngài giao ước mới và vĩnh cửu, theo lời các ngôn sứ: ”Như hôn phu vui mừng vì hôn thê, Thiên Chúa của ngươi cũng vui mừng vì ngươi” (Is 62,5). Và rượu là biểu tượng niềm vui ấy của tình yêu; nhưng rượu cũng ám chỉ máu mà Chúa Giêsu sẽ đổ ra vào thời sau cùng, để ký kết hôn ước của ngài với nhân loại.

”Giáo Hội là hiền thê của Chúa Kitô, Đấng làm cho Giáo Hội trở nên thánh thiện và tươi đẹp nhờ ân sủng của Ngài. Nhưng hôn thê này gồm những con người họp thành, luôn cần được thanh tẩy. Và một trong những tội nặng nhất làm biến dạng khuôn mặt của Giáo Hội là tội chống lại sự hiệp nhất hữu hình của Hội Thánh, đặc biệt là những chia rẽ lịch sử đã chia cách các tín hữu Kitô và cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Chính trong những ngày này, từ 18 đến 25-1, đang diễn ra Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, một thời điểm ngày càng được các tín hữu Kitô và các cộng đoàn đón nhận, khơi dậy nơi mọi người ước muốn và sự dấn thân tinh thần để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn. Theo nghĩa đó, buổi canh thức cầu nguyện mà tôi đã có thể cử hành cách đây khoảng 1 tháng, tại Quảng trường thánh Phêrô này, với hàng ngàn bạn trẻ từ các nơi ở Âu Châu tựu về, và cùng với cộng đoàn đại kết Taizé: đó là một thời điểm hồng phúc trong đó chúng ta đã cảm nghiệm vẻ đẹp được liên kết với nhau thành cộng đoàn duy nhất trong Chúa Kitô. Tôi khuyến khích tất cả mọi người hãy cùng nhau cầu nguyện để chúng ta có thể thực hiện ”Điều mà Chúa đòi hỏi chúng ta” (Mi 6,6-8), như chủ đề Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất năm nay; một đề tài được một số cộng đồng Kitô tại Ấn độ đề nghị, mời gọi hãy quyết liệt tiến bước về sự hiệp nhất hữu hình giữa tất cả các tín hữu Kitô và, như những anh chị em trong Chúa Kitô, khắc phục mọi thứ kỳ thị bất công. Thứ sáu tới đây (25-1-2013), vào cuối những ngày cầu nguyện cho sự hiệp nhất này, tôi sẽ chủ sự Kinh Chiều tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, trước sự hiện diện của các đại diện các Giáo Hội khác và các Cộng đoàn Giáo Hội.

”Các bạn thân mến, ngoài ý nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô, một lần nữa tôi muốn thêm ý nguyện cho hòa bình, để trong các cuộc xung đột, rất tiếc là vẫn còn đang diễn ra, các cuộc thảm sát thường dân vô tội được đình chỉ, mọi bạo lực được chấm dứt, và tìm được can đảm đối thoại và thương thuyết”. Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, Đấng trung gian ân phúc, cho cả hai ý nguyện đó”.

Chào thăm tín hữu

Sau khi ban phép lành, ĐTC đã chào thăm các tín hữu bằng 6 thứ tiếng khác nhau, không kể tiếng Ý.
Bằng tiếng Pháp, Ngài cũng đề cập đến tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất và nói: ”Chúng ta hãy dấn thân cụ thể yêu thương nhau để thế gian tin. Xin Chúa ban chúng ta, đặc biệt trong Năm Đức Tin này, ơn hoán cải tâm trí để tình hiệp thông giữa các tín hữu đã chịu phép rửa được thực sự hữu hiệu.

Với các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC giải thích một ý nghĩa của tiệc cưới Cana và nhận định rằng ”Theo lời xin của Mẹ Maria và nhờ sự cộng tác của những người giúp việc đổ đầy 6 chum nước, Chúa đã giúp đỡ đôi tân hôn trong tình trạng khó khăn. Sự kiện này khích lệ chúng ta hãy tín thác nơi sự chuyển cầu của Mẹ Maria và như những người giúp việc trong trình thuật Tin Mừng, Mẹ khích lệ chúng ta hãy tin nhận Lời Chúa Giêsu, cộng tác với Ngài và bước theo Ngài để tiến bước đến cùng Thiên Chúa.

Bằng tiếng Tây Ban Nha, ĐTC đặc biệt chào nhóm tín hữu thuộc giáo xứ Bửu Huyết ở thành phố Valencia. Ngài nhắc đến tiệc cưới Cana, qua đó Chúa Giêsu làm cho con người được tràn đầy hồng ân cứu độ mà tự mình con người không thể đạt được. Đón nhận hồng ân Chúa ban, hồng ân đức tin và hy vọng nơi Chúa Giêsu, đó chính là điều làm cho tâm hồn con người thực sự được sung mãn.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm các gia đình và tín hữu thuộc các giáo xứ, hội đoàn và phong trào khác nhau. Ngài cầu chúc tất cả một chúa nhật và một tuần lễ tốt đẹp.

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

 

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (01-14 đến 01- 20-2013)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

(01-14 đến  01- 20-2013)

Trích từ XBVN

 

  • Một đài tưởng niệm dâng kính ĐHY Lustiger ở Israel.

  • ĐHY Sandri viếng thăm Ai Cập.

  • Hàng trăm người bảo vệ tượng ảnh Chúa Giêsu ở trường công lập Ohio.

  • Chủng viện Sơn Tây đóng cửa hai năm.

  • Ai Cập: Các Giáo Hội xích lại gần nhau từ khi có tân Thượng Phụ chính thống Côp (Cope).

  • Thúc giục các nhà lãnh đạo tôn giáo chiến đấu chống bách hại toàn cầu.

  • “Vào tù” để chống lại sắc lệnh HHS.

  • Nghiên cứu về các hôn nhân dị giáo.

  • Đức Thánh Cha rửa tội cho các bé sơ sinh.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Một gia đình được phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Song Thân Thánh Nữ Têrêxa.

  • Biểu tình rầm rộ chống lại hôn nhân đồng tính ở Pháp.

  • Những nhà đấu tranh nữ quyền để hở ngực làm gián đoạn buổi triều yết.

  • Lập trường chính thức của HĐGM Ấn Độ chống vụ hãm hiếp.

  • Các LM Anh tham gia cảnh báo hôn nhân đồng tính có thể gây ra cuộc bách hại mới.

  • An tử được phê chuẩn cho cặp sinh đôi người Bỉ vì sắp bị mù.

  • “Ánh Sáng Đức Tin: buổi hoà nhạc vì Ơn Gọi nhân 100 ngày đầu Năm Đức Tin.

  • Các phán quyết lẫn lộn về tự do tôn giáo tại Toá án nhân quyền Châu Âu.

  • TIN VẮN:

  • Tổng trưởng CDF tán dương trí thức sâu rộng của Đức Thánh Cha.

  • Các luận cứ thần học của Nostra Aetate là không thể đảo ngược.

  • Các giám mục Đài Loan học hỏi về truyền thông.

  • Tân thượng phụ Giáo Hội Công giáo Côp.

  • Phái đoàn Phần Lan thăm Vatican.

  • Hội thảo chuyên đề về tính thời sự của Đức Gioan-Phaolô II ở UNESCO.

  • Vatican soạn kim chỉ nam cho các linh mục về cách cử hành thánh lễ.

(Xin xem chi tiết : TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁ0 01-14 đến 01-20-2013 )

Đức Thánh Cha phê bình nhân sinh quan vô thần

Đức Thánh Cha phê bình nhân sinh quan vô thần

VATICAN. Sáng 19 tháng 1-2012, ĐTC lên tiếng mạnh mẽ phê bình nhân sinh quan và ý thức hệ vô thần đang được nhiều tổ chức từ thiện quốc tế theo đuổi.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến dành cho 50 tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), vừa kết thúc hôm 19-1 sau 3 ngày tiến hành tại Roma. Trong số các HY, GM và nhiều chuyên gia tại Hội nghị cũng có Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu, tân GM Phó Giáo phận Bùi Chu, tham dự với tư cách là khách mời, đại diện cho Đức Cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, GM Xuân Lộc, Chủ tịch Ủy ban GM Việt Nam về bác ái xã hội.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến chủ đề khóa họp của Hội đồng Cor Unum là ”Bác ái, luân lý đạo đức mới trên thế giới và nhân loại học Kitô giáo”. Ngài nhấn mạnh mối liên hệ giữa đức tin và hoạt động bác ái của các tín hữu và các tổ chức từ thiện Kitô giáo, đồng thời tố giác những ”bóng đen” đang làm lu mờ dự án của Thiên Chúa, nhất là một quan niệm thu hẹp về con người: quan niệm này liên kết nhân sinh quan duy vật với sự phát triển lớn về kỹ thuật. Đó là một thứ nhân loại học vô thần giả thiết rằng con người bị thu hẹp vào những chức năng tự lập, trí tuệ bị thu hẹp vào não bộ, lịch sử con người bị thu hẹp thành một vận mạng tự thể hiện mình. Tất cả những điều đó tách rời khỏi Thiên Chúa, khỏi chiều kích tinh thần và chân trời vượt lên trên lãnh vực trần thế này.”
ĐTC nhận xét rằng theo quan niệm như thế, ”người ta cho rằng tất cả những gì con người có thể thực hiện được về mặt kỹ thuật, thì đều hợp với luân lý, mọi thí nghiệm đều có thể chấp nhận được, mọi chính sách dân số đều là điều được phép, mọi sự lèo lái con người đều là điều hợp pháp. Cạm bẫy đáng sợ nhất của trào lưu tư tưởng này, trong thực tế, là một sự tuyệt đối hóa con người: con người muốn được giải thoát khỏi mọi ràng buộc và mọi cơ cấu tự nhiên của mình.”

ĐTC nhận xét rằng ”đức tin và sự phân định lành mạnh theo tinh thần Kitô giáo giúp chúng ta chú ý đến vấn đề luân lý đạo đức như thế và não trạng ngầm chứa trong đó. Sự cộng tác đúng đắn với các tổ chức quốc tế trong lãnh vực phát triển và thăng tiến con người không bao giờ được làm cho chúng ta nhắm mắt trước những ý thức hệ trầm trọng ấy, và các vị chủ chăn của Giáo Hội có nhiệm vụ cảnh giác các tín hữu Công Giáo và những người thiện chí, có lý trí ngay thẳng, chống lại những sai trái như vậy. Đó là những sai trái tiêu cực đối với con người, cho dù nó nấp sau những tâm tình tốt đẹp dưới chiêu bài gọi là tiến bộ, hoặc những ngụy nhân quyền hay một thứ chủ thuyết tâm bản”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi các nhân viên Caritas Công Giáo hãy cảnh giác phê bình, và đôi khi phải từ khước những tài trợ và những sự cộng tác, trực tiếp hay gián tiếp, cổ võ những hoạt động hoặc những dự án trái ngược với nhân sinh quan Kitô giáo. Tích cực hơn, Giáo Hội luôn dấn thân thăng tiến con người theo ý định của Thiên Chúa, trong phẩm giá trọn vẹn, trong niềm tôn trọng hai chiều kích dọc và ngang của con người”.

Trong 3 ngày đại hội, các tham dự viên đã theo dõi những bài thuyết trình gợi ý và tham dự các cuộc hội luận trong các nhóm nhỏ, trao đổi chứng từ. Đặc biệt có chứng từ của Đức TGM Silvano Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức của LHQ ở Genève, Thụy Sĩ.

Các cuộc thảo luận nhóm xoay quanh những đề tài như ”Luân lý đạo đức mới trên thế giới”, ”Sự hiện diện của các tổ chức Công Giáo Phi chính phủ trong các cơ quan quốc tế”.

Phát biểu của ĐHY Robert Sarah

Trong diễn văn khai mạc Đại hội, ĐHY Robert Sarah, người Guinée équatoriale, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum đã lên tiếng đề cao một đặc tính của các hoạt động bác ái Công Giáo là biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa.
ĐHY lên án sự kiện một số tổ chức quốc tế áp đặt cho các nước nghèo những kiểu mẫu luân lý đạo đức tai hại, một thứ nhân sinh quan tiêu cực và hủy hoại con người, cụ thể là não trạng ngừa thai và ý thức hệ ”gender”, coi sự khác biệt nam nữ chỉ là sản phẩm của văn hóa xã hội, chứ không phải do thiên nhiên.

Do chủ trương đó, một số tổ chức nhân đạo quốc tế đòi các nước nghèo phải thi hành chính sách hạn chế sinh sản, chấp nhận hôn nhân đồng phái, thì mới được nhận viện trợ. Đó là một thứ chủ thuyết duy đời cực đoan, bất bao dung và tàn phá.

ĐHY Sarah cho biết rất tiếc có một số phần tử của Giáo Hội Công Giáo làm việc trong lãnh vực từ thiện bác ái cũng để cho mình bị quyến rũ để theo một thứ luân lý đạo đức hoàn toàn là đời của các cơ quan cứu trợ trên bình diện thế giới. Họ thiết lập sự đối tác vô điều kiện với các tổ chức quốc tế nói trên và chấp nhận cùng những mục tiêu có tính chất tai hại về nhân loại học, sử dụng cùng ngôn ngữ và những khẩu hiệu như các tổ chức quốc tế đó.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, ĐHY Sarah nhận xét rằng ngày nay có một cuộc khủng hoảng sâu đậm về con người là ai, và Hội đồng Cor Unum cần nhắc nhớ rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa và chúng ta không được hủy hoại con người. Ngày nay, hoạt động

bác ái chân thực là giúp đỡ con người để họ không bị hủy diệt, để gia đình, hôn nhân không bị hủy hoại, để bảo tồn căn tính của con người như một thành phần của Thiên Chúa”.

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum giải thích rằng ”Dĩ nhiên là cuộc khủng hoảng kinh tế ngày nay đang hủy diệt bao nhiêu người, làm cho họ mất mọi sự, mất công ăn việc làm.. Sở dĩ xảy ra như vậy là vì cả quan niệm về con người cũng bị hủy diệt.. Chúng ta không áp đặt đức tin Công Giáo cho bất kỳ ai, vì đó không phải là mục tiêu của chúng ta; nhưng chúng ta muốn rằng con người khám phá mình không lẻ loi, vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên họ và Ngài không thể bỏ rơi họ.. Chúng ta phải trở thành bàn tay của Thiên Chúa, biểu lộ sự hiện diện, sự trợ giúp của Thiên Chúa, và lòng từ bi của Ngài… Tôi quan niệm công việc của tất cả các Caritas trên thế giới là một sự hiện diện của Thiên Chúa, trong một thế giới mà sự hiện diện này bị lãng quên”. (SD 18 và 19-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

NGƯỜI CHƯA BỎ TIỆC RA VỀ

NGƯỜI CHƯA BỎ TIỆC RA VỀ

“Xin mời mọi người cùng hướng mắt về cổng hoa để chào đón Tân Lang và Tân Giai Nhân đang dìu nhau bước lên đài Hạnh Phúc”

Không biết ở thành phố thì thế nào, nhưng ở nhà quê của tôi thì câu này nghe quen lắm, gần như bài thuộc lòng của các người dẫn chương trình (người ta vẫn gọi là MC, Master of Ceremony, mà không sợ lai căng, và không hề hổ thẹn). Tuy nhiên, tôi nghĩ các từ “Tân Lang”, “Tân Giai Nhân” hoặc “Chú Rể”, “Cô Dâu” luôn luôn là tuyệt đẹp. Với Hôn Nhân Ki-tô Giáo thì còn tuyệt đẹp hơn nữa, bởi vì, đời người chỉ một lần được làm chú rể, một lần làm cô dâu, không có lần thứ hai. Cũng có thể có lần thứ hai, nhưng nếu do người bạn đời qua đời thì còn vui được, nhưng nếu do chuyện tự ý xé bản giao ước hôn nhân lần thứ nhất để có thêm một lần làm “chú rể, cô dâu” thì ôi! thật là chua xót! Chẳng biết ai đó đã có lý do chính đáng nào mà vui mừng thêm một lần nữa!

Vâng, Hôn Nhân Ki-tô Giáo luôn mang một ý nghĩa siêu nhiên bởi vì đài Hạnh Phúc của họ được Thiên Chúa thiết lập, chúc phúc, và củng cố qua ơn thánh của Ngài. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay có thể chứng minh cho chúng ta điều đó.

Hẳn là hôm Chúa Giê-su và Mẹ Người dự tiệc cưới ở Cana cũng có Tân Lang và Tân Giai Nhân, có Hai Họ, có Thân Hữu, có Quý Khách, có nhạc, có pháo hoa, có các món ngon, có bia rượu, có múa hát, có hò nhặt hò khoan, có vỗ tay, có tiếng cụng ly, có lời chúc mừng rôm rã. Ai cũng muốn cho bữa tiệc cưới trọn vẹn niềm vui và không thể có nỗi buồn nào chen vào cách vô duyên nên phải chuẩn bị thật chu đáo từ các món ngon đến chén rượu nồng. Rượu cũng được chúc phúc, vì rượu không uống để say, nhưng để cho lòng thêm phấn khởi. Như thánh vịnh 103 xác nhận: “Từ ruộng đất Chúa làm nẩy sinh cơm bánh, ban rượu ngon cho thêm phẩn khởi lòng người” (Tv 103, 14b-15a).

Thế nhưng, bữa tiệc hôm nay bống hết rượu giữa chừng . Hẳn là chủ hôn lo lắng, lứa đôi lo lắng, bởi vì sợ khách không chỉ bỏ tiệc ra về mà còn thêm lời chê trách “mời lơi, đãi lếu”. Mẹ Maria chứng tỏ một người phụ nữ biết quan tâm và đồng cảm với nỗi lo của gia đình nên nói với Chúa Giê-su: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Hiểu con mình, Mẹ nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 3-5).

Và sau đó,

Chúa Giê-su bảo họ:  ”Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.”  (Ga. 2, 7-8)

Người quản tiệc nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”  (Ga. 2, 10)

Thế là:

“Chúc mừng đôi lứa Ca-na, Chúa làm nước lã hóa ra rượu nồng”.

Vâng, Chúa Giê-su không bỏ tiệc ra về khi chủ hôn hết rượu, khi lứa đôi hết rượu. Ngược lại, Ngài còn ở lại đó để cảm thông với nỗi lo của lứa đôi, để chúc phúc cho lứa đôi, để làm phép lạ cho “nước lã hóa rượu nồng” cho mọi người không bỏ tiệc ra về mà nối dài niềm vui với chủ hôn và cho lứa đôi vững yên trên đài hạnh phúc.

Thiết nghĩ, Chúa không tự dưng mà thi thố quyền năng của Ngài, nhưng một là vì sự can thiệp của Mẹ Người, hai là vì người ta đã làm đúng như lời Mẹ dặn: “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Người ta đang hết rượu kia kìa, khách đang xầm xì kia kìa, có vài ông muốn bỏ về rồi kia kìa, không lo đi mua rượu mà lại bảo “Đổ nước lã vào chum” thì rõ là dỡ hơi, khó mà chấp nhận được. Thế nhưng, các gia nhân đã “Nghe Lời Người” và “Thực hiện đúng như Lời Người dạy, nên phép lạ đã xảy ra.

-Mỗi người chúng ta, khi nhận lãnh Bí Tích Rửa tội, là cũng đã có một cuộc hôn phối kỳ diệu với Thiên Chúa. Đời sống Đức Tin không thiếu những phút giây “hết rượu giữa chừng” khiến lòng chúng ta không còn phấn khởi, rơi vào tình trạng băn khoăn, nghi hoặc, chán nản, thất vọng. Tồi tệ hơn nữa, đôi khi chúng ta đã muốn chia tay với cuộc hôn phối kỳ diệu nầy, xé rào giao ước thánh mà bắt tay với ma quỷ, với thế lực gian tà. Thật đáng tiếc! Chúng ta quên rằng Đức Giê-su, Ngôi Thiên Chúa đang làm khách dự tiệc đời ta chưa bỏ tiệc ra về. Ngài vẫn còn đó, Ngài bảo ta “đổ nước vào chum”, cộng tác với Ngài để phép lạ xảy ra, mà chúng ta không làm.

-Đời sống lứa đôi cũng vậy, sự nồng nàn của tình yêu mỗi lúc một phai nhạt dần theo năm tháng vì trăm ngàn lý do. Biết bao đôi lứa đã “hết rượu giữa chừng” mà không biết nghe lời Mẹ dặn: “Người bảo gì các anh hãy làm theo”, lại nghe theo lời xúi quẩy của ma quỷ mà nhập khẩu vào nhà mình loại rượu giả cho qua ngày đoạn tháng. Lời Chúa vẫn còn đó trong từng trang Tin Mừng, đặc biệt những Lời này: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”. “Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người thí mạng mình vì người mình yêu”. Lời Chúa đang dặn dò dạy bảo bao điều phải làm để tình yêu luôn mới, để tình yêu luôn nồng nàn. Nhưng không có phép lạ “nước hóa thành rượu” trong nhà chúng ta vì chúng ta không làm theo Lời Người dạy.

-Chúa Giê-su chính là Tân Lang, và Giáo Hội của Người là Tân Giai Nhân trong Giao Ước Mới được gọi là Tân Ước. “Kìa Chàng Rể đến, hãy ra đón Chúa Ki-tô”. Vâng, Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Ki-tô và Chúa Ki-tô vẫn đang làm phép lạ không chỉ cho rượu nho nồng nàn mà còn làm cho rượu nho trở thành Máu Thánh Người để niềm vui bữa tiệc cưới trần gian sẽ còn kéo dài tới bữa tiệc Thiên Quốc, hạnh phúc vĩnh cửu.

Mẹ Maria chưa bỏ tiệc ra về. Mẹ đang thôi thúc chúng ta thực hiện Lời Chúa dạy. Chúa Giê-su chưa bỏ tiệc ra về. Ngài vẫn đang chờ sự cộng tác của mỗi chúng ta trong đời sống Đức Tin, đời sống lứa đôi, trong đời sống Giáo Hội để ban cho chúng ta thứ rượu ngon nông nàn cho lòng ta thêm phấn khởi.

Chúa Giê-su chưa bỏ tiệc ra về. Ngài đang chờ bạn, chờ tôi, chờ chúng ta làm theo Lời Ngài để chúng ta được bình an hạnh phúc.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con nhận ra rằng Chúa đang hiện diện trong tâm hồn, trong nhà, trong giáo xứ chúng con và đang cho phép chúng con cùng làm phép lạ với Ngài khi chúng con tuân giữ và thực hiện Lời Ngài. A men.

PM. Cao Huy Hoàng, 18-01-2013

Chúa Nhật 2 QN năm C

 Chúa Nhật 2 QN năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, người ta thường nói: “Trăm hoa đua nở” hay “ Vườn hoa đẹp là vườn hoa có đủ muôn màu muôn sắc khác nhau”. Phải chăng khi ta nói như thế là hàm ý nói về cái đa dạng, cái khác nhau. Vâng đúng thế, cái đa dạng, cái khác nhau đó đẹp biết bao khi mỗi cái phô diễn cái đẹp riêng của mình một cách hài hoà; phô diễn là đưa ra cái đẹp riêng của mình, chứ không phải là ganh đua, hiềm khích, phân bì hay ghen ghét.

     Hôm nay trong bài đọc hai, thánh Phao lô cũng cho chúng ta thấy được cái đa dạng nơi mỗi người; nghĩa là mỗi người, Chúa ban cho một khả năng nào đó, hiểu như thế thì tất cả mọi người đều được Chúa ban cho một tài năng riêng, không ai là vô dụng hay vô tích sự, có điều chúng ta có khám phá ra để phát triển cái tài năng đó hay không? Chẳng hạn ta thấy anh chàng Nick Vujicic, một anh chàng không tay, không chân, thế mà đã vượt lên chính mình, không gây gánh nặng cho người khác; trái lại anh đã đem lại niềm vui cho biết bao người buồn sầu chán nản, thất vọng. Anh đã giúp biết bao bạn trẻ bước ra khỏi ý định tự hủy hoại cuộc sống của mình, qua cách thức Nick nói chuyện; nhất là, qua con người cụ thể của anh là một lời nói hùng hồn của anh. Nick đã từng giảng thuyết cho cả hàng triệu người đó đây trên thế giới.

     Trở lại vấn đề, mỗi người có một tài năng riêng hay nói như ngôn ngữ của Thánh Phaolo: Có nhiều đặc sủng khác nhau. Có nhiều sự phục vụ khác nhau. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí của Chúa. Thế thì giờ đây ta nhìn vào đời sống sinh hoạt của gia đình, đoàn thể, cộng đoàn, giáo xứ, Giáo Hội hay trong xã hội. Ta thấy điều này rất rõ là: Chúa ban cho mỗi người có một tài năng riêng, không ai giống ai, mỗi người có một điểm độc đáo mà người khác không có. Tất cả mọi khả năng khác nhau đó chung qui lại là: Chúa muốn mọi khả năng mà mỗi người có được cần phải bổ túc cho nhau để gia đình, giáo xứ, Giáo Hội, xã hội phát triển  phong phú, tốt đẹp. Và nếu chúng ta nhận ra được mọi tài năng ta có là do ơn Chúa ban thì ta mới có sự khiêm tốn và làm cho ơn đó nên ích lợi cho chính mình và cho người khác được hưởng nhờ.
 
     Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu, mẹ Maria và các Tông Đồ tới dự tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Điều này đã minh định cho chúng ta vấn đề hôn nhân là một sự tốt lành, cho nên đã có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các Tông đồ. Quả thật sự hiện diện của các ngài không những là một niềm vui và vinh dự lớn lao cho gia chủ mà còn giúp cho gia chủ giải quyết một sự bế tắc thiếu rượu. Khởi sự để phép lạ xẩy ra là nhờ sự quan tâm lo lắng để ý của Mẹ Maria, nên chi Mẹ mới biết gia đình hết rượu trong khi buổi tiệc đang vui; vì thế Mẹ đã can thiệp vào, qua việc Mẹ nói với Chúa Giêsu. Câu nói: “ Họ hết rượu rồi”. Một câu nói như là báo cho Chúa biết đồng thời như một lời xin ‘ép buộc’ để  giải quyết cho sự khó khăn bẽ mặt hổ người với quan khách, vì vấn đề hết rượu này. Mặc dầu Chúa Giêsu trả lời: “Giờ của Ngài chưa đến” nhưng Mẹ vẫn tin Con mình sẽ có cách giải quyết, nên Mẹ mới mạnh dạn nói với những người giúp việc: “Hễ Người bảo gì thì hãy làm theo”. Quả thật, lệnh được ban ra: “Hãy đổ đầy nước lạnh vào các chum” và từ sáu chum nước lạnh trở nên sáu chum rượu hảo hạng tuyệt vời. Ai làm được việc đó, nếu không phải là nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc đó sao?
 
     Sự việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu, là để cho mọi người biết rằng:Thiên Chúa đang hiện diện giữa con cái loài người. Thiên Chúa yêu thương con người và Thiên Chúa muốn giúp đỡ con người khi gặp khó khăn; cho dù họ không kêu xin nhưng có người khác cầu giúp thay cho. Người đó là ai vậy! nếu không phải là Đức Mẹ đó sao, và ai nữa nhỉ, nếu không phải là các thánh đó sao!  Thực ra Chúa chẳng cần ai kêu xin thì Ngài mới biết; vì Ngài là Đấng thấu suốt mọi khó khăn, lo âu của từng người một. Rồi Chúa lại là Đấng giàu lòng thương xót cơ mà, nhưng Chúa muốn cho Đức Mẹ cũng có một chỗ đứng quan trọng trong sự tương quan với mọi người; Nên chi Chúa sẽ lắng nghe sự chuyển cầu của Mẹ Maria và các thánh, để Ngài ban ơn cho mọi người. Sự ban ơn này không phải vì chúng ta dễ thương hay vì chúng ta làm được công kia việc nọ lớn lao, nhưng vì sự yêu thương của Chúa và vì lời kêu xin của Mẹ Maria. Như trường hợp ở tiệc cưới Cana xưa; cho dẫu Chúa “chưa thuận” ban ơn ngay lúc đó nhưng vì lời xin của Mẹ hay các thánh thì như “ép” Chúa ban ơn cho vậy.
 
     Vậy, chúng ta thật là diễm phúc, bởi có được người Mẹ thiêng liêng tuyệt vời; Mẹ hiểu rõ mọi nhu cầu của con cái, bởi Mẹ là người yêu thương, quan tâm, tế nhị, kín đáo như Mẹ đã làm trong trường hợp tiệc cưới tại Cana; hết rượu, không ai nói với Mẹ và cũng không ai nghĩ cách giải quyết thế nào. Cũng vậy, cuộc sống hằng ngày có những ơn chúng ta không xin và cũng chưa nghĩ tới và cũng không xin, nhưng Chúa vẫn ban cho ta qua Mẹ Maria, thật dư dật tràn trề như số rượu quá nhiều và tràn trề trong sáu chum. Nhưng có những điều ta xin và luôn xin mà lại không được, thì không phải Chúa không biết; mà Chúa thấy điều ta xin đó không tốt đẹp cho chúng ta về lâu về dài, nhưng thay vào đó, Chúa sẽ ban cho ta những ơn khác mà ta không biết đó thôi.
 
     Lạy Chúa, chúng con thiếu thốn đủ mọi điều trong cuộc sống,tinh thần cũng như vật chất. Xin Chúa ban cho chúng con những gì mang lại lợi ích tốt đẹp cho phần hồn cũng như phần xác của chúng con. Qua lời cầu xin của Mẹ cho chúng con những gì chúng con đang cần; Với lời xin của Mẹ chúng con tin chắc Chúa sẽ ban cho chúng con. Amen.

Lm Phaolô Cao Thế Bình S.D.D

Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên C – TÌNH YÊU CHAN CHỨA RƯỢU NỒNG (Ga 2:1-12)

  Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên C – TÌNH YÊU CHAN CHỨA RƯỢU NỒNG (Ga 2:1-12)

Chỉ còn khoảng ba tuần nữa, người Việt Nam chúng ta sẽ hân hoan chào đón Tết mới, mừng Xuân Qúi Tỵ 2013. Ông bà tổ tiên xưa nay thường nói: Năm hết, Tết đến. Năm mới, con người mới. Bởi thế, thói quen cưới Vợ, gã Chồng cho con cháu dịp cuối năm, vốn là một truyền thống, phong tục không thể nào quên. Đôi bạn trẻ được Cha Mẹ lo cưới hỏi, để những ngày đầu Xuân; tân lang và tân nương mang lễ phẩm (cặp bánh, đôi chai rượu) đi Tết mới, ra mắt và nhận họ Nội Ngoại hai bên…

Tuy vô tình nhưng thật đúng ý người Việt Nam, khi Giáo Hội chọn bài Phúc Âm tuần này, xoay quanh câu chuyện tiệc cưới tại Cana, một xóm làng thân thuộc với Đức Maria và Chúa Giêsu. Đường dài từ Nazareth xuống Cana khoảng 8 dặm, dân cư ngụ trong vùng chẳng bao nhiêu, nên chủ tiệc ưu ái mời mọi người thân thuộc đến chung vui. Lệ thường, tiệc cưới người Việt chỉ kéo dài vài tiếng đồng hồ là no thoả, song le tiệc hôn nhân người Do Thái có thể liên tục dài ngày. Bởi thế, cô dâu chú rể tiếp khách suốt buổi này sang buổi khác, chẳng khác gì tuần trăng mật “honeymoon” nối dài cho riêng họ. 

Một chuyện nan giải éo le, xảy đến bất ngờ cho tiệc cưới: thiếu Rượu ngon, để chiêu đãi khách uống.  Chủ tiệc có vẻ bối rối, khó xử. Đức Maria là người quen biết nhà đám, nhạy bén nhận ra vấn đề bế tắc.  Mẹ khẩn cầu cùng Chúa Giêsu, con Mẹ. Ngài nhậm lời Mẹ nài van: nước hoá rượu tràn trề, lai láng.
 
A. Tiệc Vui cần có thức ăn ngon và rượu nồng.
 
Con người “không ai là một hòn đảo’, mỗi cá nhân đều thích sống hợp quần, liên kết.  Tiệc Vui ăn uống với nhau là cơ hội giúp mọi người gần gũi, gia tăng tình yêu thương thân thiết hơn.
  • Tiệc tân gia, chúc mừng gia chủ có nhà mới, “an cư” rồi mới “lạc nghiệp”.
  • Tiệc thôi nôi, chia vui vợ chồng trẻ có con cái nối dõi tông đường “đa tử, đa tôn, đa phú qúi”.
  • Tiệc ra trường, hiệp thông niềm vui với các sinh viên vừa tốt nghiệp, “hy vọng đã vươn lên”.
  • Tiệc thượng thọ, mừng ông bà sống lâu trăm tuổi, mỗi ngày thêm “trường thọ, khang an”.
Ăn Tiệc thì phải có rượu vào lời ra, niềm vui mới ngọt ngào, lan toả; nụ cười mới thấy “ép-phê”.
  • Nhiều thực khách ưa quen sánh ví: “Muốn ăn ngon, phải đủ hai yếu tố: thứ nhất tốt Nhắm, thứ nhì Lắm anh em”Nghĩa là: làm cỗ to, mà không có đồ nhậu tốt, rượu ngon, không có đông người tham dự…thì mất vui.
  • Một số dân nhậu, lại bạo miệng quảng cáo:  “Nam vô tửu như kỳ vô phong”.  Đàn ông mà không biết uống rượu, chẳng khác gì lá cờ bay phất phơ, thiếu sức mạnh của gió thổi. Phải ăn cho ngon, uống cho no say, dzô “trăm phần trăm” đều đều, mới xứng đáng là “dân chơi thứ thiệt”.
Do đó, tiệc cưới mà thiếu rượu như tại Cana, là một dấu hiệu mất Vui, kẻ mê tín cho đó là “điềm xui”.
  • Rước cô dâu về nhà chồng: đôi bạn trẻ đến trước bàn thờ tổ tiên, đốt nến thắp nhang kính bái di ảnh Ông Bà Nội Ngoại bên chồng. Bất ngờ, nến Cô Dâu cháy đều, nến Chú Rể gió thổi vụt tắt, người xấu bụng cho là “điềm xui”, Chú Rể sẽ yểu mệnh, chết sớm / Cô Dâu sẽ lấn át, ăn hiếp ?
     
  • Đón dâu đến cổng nhà chồng: Pháo Nổ cả dây dài chục mét, chào mừng tân lang & tân nương.  Nào ngờ, khi viên pháo Đại sau cùng nổ đùng một tiếng lớn, lộ ra một miếng vài đỏ với câu chúc vô tình “Thiên Thu Vĩnh Biệt” thay vì “Trăm Năm Hạnh Phúc”, khiến lắm kẻ xôn xao tin rằng điềm xui cho đôi tân hôn sẽ xảy đến “ngày tàn của Chú Rể / thời nở hoa của Cô Dâu” ?
Thực sự, kitô hữu tin vào một Thiên Chúa quan phòng, Ngài yêu thương ban phát mọi sự lành cho ta.  Không có chuyện “điềm hên, điềm xui”, khi thiếu Rượu giữa tiệc, khi nến tắt trên bàn thờ, khi phong Pháo Nổ bị ai đó chơi xấu, hay vô tình lầm lỗi, dán vào câu “thiên thu vĩnh biệt” thay cho các câu: “song hỉ”, “tình thắm duyên nồng”, “tình nặng duyên sâu”, “mãi mãi bên nhau”…
 
Đám cưới ngày xưa là thế. Song thực tế, tiệc cưới hôm nay ở Hoa Kỳ, làm gì có chuyện thiếu Rượu?
  • Khi gửi thiệp mời đám cưới, cô dâu chú rể luôn kèm thêm Thiệp Hồi Báo cho từng vị khách, thư trả lời cho đôi bạn trẻ biết Họ có đến dự tiệc hay không. Gần ngày hôn lễ, Cô Dâu Chú Rể mới tổng kết các Thư Hồi Âm ấy, mà biết rõ số người sẽ tham dự để đặt tiệc Nhà Hàng và mua số Rượu tương ứng tiếp khách.
  • Hơn nữa, Tiệc vui bây giờ lỡ hết Rượu, chủ tiệc sẽ nhanh chóng gọi Phone liên hệ: bảo đảm vài phút sau có người mang tới tận nhà hàng, tiếp Bia Rượu nhiều vô kể. Thậm chí, một số Nhà Hàng cũng có nguồn dự trữ Bia Rượu, sẵn sàng hỗ trợ chủ tiệc đến nơi đến chốn…
B. Đời sống Hôn Nhân cần có rượu nồng Yêu Thương, Cảm Thông và Chia Sẻ.
 
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người và sống trong một gia đình, cư ngụ ở Nazareth.  Gia Đình Thánh của Ngài, có Thánh Giuse là cha nuôi và Đức Maria là mẹ ruột.
Đời sống hôn nhân của Thánh Cả Giuse và Đức Mẹ luôn thắm nồng Rượu Tình chan chứa.
  • Chan chứa tình Yêu Thương:
    o   tôn trọng sự thanh khiết của nhau, suốt thời gian sống chung.
    o   đặt hạnh phúc người mình yêu lên trên tham vọng ích kỷ cá nhân.
    o   không phản bội, giận hờn, hủy diệt nhưng luôn xây dựng tình mến cho nhau.
  • Chan chứa sự Cảm Thông:
    o   hiểu được vị thế và trách nhiệm người mình yêu, mà nâng đỡ, phụ giúp, ủi an.
    o   quan tâm nhu cầu chung, cùng san sẻ mọi trách nhiệm hỗ tương.
    o   xem Thánh Ý Chúa luôn trọng yếu hơn mọi ước muốn riêng mình.
  • Chan chứa hành vi Chia Sẻ:
    o   cùng nhau lao động cần cù, giúp thăng tiến cuộc sống.
    o   cùng chia sẻ bổn phận mình với các thành viên khác trong gia đình.
    o   đồng cảm mọi gánh nặng buồn, vui trong mái ấm êm đềm ẩn dật Nazareth.
Theo gương Thánh Gia Nazareth, thiết tưởng tình yêu thương nơi các đôi vợ chồng hôm nay cũng thế.  Hạnh phúc gia đình thế gian, cũng rất cần đầy đủ những Rượu Ngon nồng nàn tương tự.
  • Rượu nồng Yêu Thương:
    o   hy sinh, nhẫn nhục, chịu đựng gian khó; sống chết cho nhau.
    o   dám quên mình, để sống vị tha, bỏ qua những lầm lỗi.
    o   nhìn điểm Tốt nơi người yêu hơn là đay nghiến mãi các sai sót sủa họ.
  • Rượu nồng Cảm Thông:
    o   hiểu những yếu đuối con người, giúp nhau xây dựng nên tốt.
    o   hâm nóng luôn những kỷ niệm đẹp, những thời điểm đáng nhớ của gia đình.
    o   biết đáp ứng và phát triển những sở thích tốt của nhau.
  • Rượu nồng Chia Sẻ:
    o   liên đới, hỗ trợ nhau mưu sinh, giúp thăng hoa kinh tế gia đình.
    o   hiệp thông hợp nhất trong bổn phận làm cha mẹ, giáo dục con cái nên tốt.
    o   trao đổi, thảo luận và cộng tác thực hiện mọi sinh hoạt trong mái nhà chung.
Giêrêmia là một chàng trai hiền lành tốt bụng. Anh yêu một cô gái cao hơn anh rất nhiều. Mỗi buổi tối, anh thường bách bộ đến sở làm của người yêu, đưa đón nàng về nhà cô ta. Giữa đường, Anh rạo rực muốn tặng nàng nụ hôn, song rụt rè nhút nhát. Một tối nọ, Giêrêmia lấy hết can đảm nói với cô gái: “Em cho phép Anh được hôn em nhé!”. Nàng đồng ý, nhưng Anh thấp quá, không sao thể hiện được. Chợt thấy trong xưởng thợ rèn gần đó, có một chiếc đe vừa vặn, cho Giêrêmia đứng lên. Anh sử dụng nó, để thoả mãn lòng mong ước. Sau đó, anh vác luôn chiếc đe mang theo mình, chẳng khó khăn gì. Đi được một đoạn, Giêrêmia lại nói với người yêu: “Cho Anh hôn thêm một cái nữa đi, Em yêu!”. Cô nàng khó chịu: “Không được. Em đã cho rồi, một lần như thế là đủ rồi”. Anh bèn lý sự: “Sao nảy giờ Anh cứ vác chiếc đe nặng nề này theo Em, mà Em cứ im lặng không nói sớm đi, để Anh vứt nó?’.
 
Đúng là một tình yêu thiếu Rượu nồng. Khi đã yêu, vật có nặng bao nhiêu cũng thành nhẹ. Ngược lại, khi đã Không Còn Yêu Thương, thì vật gì nhẹ cách mấy, cũng ttở thành gánh nặng biết bao!!!
 
C. Hãy mời Chúa và Đức Mẹ hiện diện trong gia đình mình luôn mãi.
 
Nhà văn Lệ Hằng trước 1975, trong tác phẩm Chết Cho Tình Yêu có viết:  “Yêu nhau là cầm tù nhau đời đời, cắn rứt nhau mãi mãi và giận nhau thiên thu”. Tình yêu làm cho hai bạn tình bị mê mệt, gợi hứng cho cô dâu chú rể phải gắn bó, là chất xúc tác giúp vợ chồng luôn “ăn đời, ở kiếp”, khó bỏ nhau.
 
Để yêu thương, họ cần có: Rượu nồng kính mến, Rượu nồng cảm thông, Rượu nồng chia sẻ.  Nhưng làm sao để có các Rượu ấy đầy đủ, giúp đôi bạn sống yêu nhau đến ngày răng long, tóc bạc?
  • Nơi tiệc cưới Cana, cô dâu chú rể suýt bị “quê độ” vì thiếu Rượu bất thình lình giữa buổi tiệc.  May mắn thay, Đức Maria là khách qúi được mời dự tiệc, biết rõ sự khó của họ, Mẹ đã nhờ Chúa Giêsu hỗ trợ. Và phép lạ “nước hoá rượu” xảy ra, giúp nhà đám có đủ rượu, ngon hơn.
  • Hạnh phúc hôn nhân Công Giáo, nhiều khi thiếu Rượu đạo đức, tin tưởng và yêu mến nhau, đời sống chung bị ảnh hưởng. Những lúc ấy, vợ chồng hãy rước Chúa và Đức Mẹ vào trong gia đình mình. Chắc chắn, Chúa sẽ làm phép lạ giúp xua tan mọi bất hoà, nghi kỵ, lo lắng trong ta.
Đôi vợ chồng nọ cưới nhau đã 12 năm, nhưng vẫn hiếm muộn không con. Họ tốn tiền chạy chữa Bác Sĩ khắp nơi, song không thấy tín hiệu khả quan. Hôm ấy, tháng Mân Côi, giáo xứ tổ chức long trọng đón rước tượng Đức Mẹ Thánh Du Fatima mang từ Rôma về. Cha Xứ cho phép mỗi gia dình được luân phiên đón tượng Đức Mẹ vào nhà mình ở một ngày, cử hành giờ Tôn Vương. Đôi vợ chồng hí hửng chào đón tượng Mẹ đến tư gia, khẩn nài Mẹ cứu giúp, cầu Chúa ban cho họ niềm vui có con thơ.  Quả nhiên sau đó một năm, cậu Qúi Tử kháu khỉnh chào đời. Hai vợ chồng giữ lời hứa, từ đó về sau, mỗi Thứ Bảy đầu tháng, họ đi làm về sớm, đến nhà thờ dâng lễ, làm việc tạ ơn Chúa và Đức Mẹ.
 
Cha Thánh Gioan Boscô khuyên nhủ các thanh thiếu niên:  “Hãy chạy đến với Đức Mẹ, các con sẽ thấy phép lạ là thế nào?”.  Thánh Viện Phụ Bênađô trước đó, cũng đã xác tín:  “Từ xưa đến nay, chưa từng có ai chạy đến cùng Đức Mẹ, xin cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
 
Bởi vậy, “qua Mẹ đến với Chúa Giêsu”, Mẹ đã từng giúp đôi tân hôn tại Cana gỡ được thế cờ bí “thiếu Rượu”, lẽ nào đôi vợ chồng ngày nay, thiếu lòng tin tưởng, cậy trông, kính mến vào Chúa và Đức Mẹ?  Hãy mời Chúa và Đức Maria vào hiện diện, cư ngụ trong mái nhà chung của mình luôn mãi:
  • giữa nhà, có bàn thờ đặt Thánh Giá, tượng Chúa và Đức Mẹ ngự nơi trang trọng nhất.
  • mua một quyển Kinh Thánh để nơi thuận tiện, dễ thấy; dung chung cho gia đình.
  • mỗi thành viên trong nhà có Tràng Hạt riêng, để lần hạt Mân Côi hàng ngày.
  • cuối tuần, sớm tối gia đình họp mặt, đọc kinh chung, đêm về phó thác linh hồn cho Chúa.
  • trang hoàng hoa tươi, đèn điện tươi sáng…toả lan Nhan Thánh Chúa và Mẹ luôn mãi.
  • cả gia đình đi dự lễ chung Chúa Nhật, làm việc công giáo tiến hành giúp giáo xứ, cộng đoàn.
  • nghỉ Vacation hàng năm, đi xa hành hương Đất Thánh, tham dự Đại Hội Thánh Mẫu Lavang..
D. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa Giêsu! Ngày xưa, cùng Mẹ vào đời, Chúa đã can thiệp giúp đôi tân hôn ở tiệc cưới Cana.  Hôm nay, con cùng Mẹ bước đi, trên đường đầy bao gian nguy, xin Chúa tiếp tục che chở, ban cho gia đình chúng con đầy Rượu tình yêu mến, chan hoà niềm hạnh phúc và khang an.  AMEN.
 
Fr. Dominic Dieu Tran, SDD.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C

SUY NIỆM CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN NĂM C

“Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,

“Hây hây thục nữ mắt như thuyền.”

(Dẫn từ thơ Xuân Diệu)

Ga 2: 1-11

            Ngừng thêu gấm, để mừng em lên xe tìm hạnh phúc. Mắt như thuyền, để tôi đi về tìm Lời Chúa ở bữa tiệc. Như trình thuật thánh sử ghi chép, rất hôm nay.

            Trình thuật thánh sử kể lại hôm nay, là kể về sinh hoạt Chúa hiện diện ở tiệc cưới xứ Cana. Thông thường thì, khi nghe kể về tiệc vày, người đọc thường liên tưởng đến Đức Nữ Trinh Maria cầu bàu Chúa, khi hết rượu. Hoặc, chỉ nghĩ đến ơn phúc Chúa gửi đến với hôn nhân. Hoặc, cả đến tính thánh thiêng của bí tích hôn phối trong Đạo; cũng như nhu cầu cần thực thi những gì Chúa dạy ở Tin Mừng. Nhưng nay, hãy nghĩ về vai trò ta phải có khi Chúa thực hiện mọi điều trong thế giới, ta đang sống.

            Truyện về tiệc cưới hôm nay, ta thấy Đức Giêsu đã lớn thành thanh niên trai tráng, rất trưởng thành. Cana, là xứ miền không xa Nadarét là mấy, tức thôn làng Chúa sống vào thời ấu thơ. Khi ấy, Chúa tham dự tiệc cưới theo kiểu Do thái tức tiến trình gồm hai bước, giống như ở một số nơi có đám hỏi vào năm trước. Sau đó, mới đưa cô dâu về nhà chồng có lễ hội kéo dài những 8 ngày ròng ở thôn làng; có mời mọc bạn bè người thân đến từ làng bên cạnh. Hôm ấy, Chúa có mặt ở nhà trai lúc có buổi đón dâu rất đình đám. Tiệc cưới ở đây, bao giờ cũng cần chuẩn bị rất nhiều rượu.

  Cạnh thôn làng Chúa sống, lại có nhiều vườn nho được canh tác nhưng rượu được cất từ trại nho gần đó, lại không có được phẩm chất cao. Trong khi đó, trách nhiệm của nhà trai là phải chu cấp rượu ngon cho mọi người uống đủ. Nơi truyện kể, người kể không nói đến danh tánh của đôi trẻ, nên ta có thể đoán biết quan viên hai họ là những người được Chúa và Đức Mẹ cũng như mọi người trong làng đều biết đến. Cả đến tên của Mẹ cũng chẳng được người kể nêu tên, mà chỉ nói :”Mẹ của Đức Giêsu”. Cũng không thấy nói đến tên tuổi của đồ đệ Chúa có mặt vào hôm ấy.

Điều rất thú vị ở đây, ai cũng thấy là: Đức Maria là người được mời đến dự tiệc. Và, cả đến Đức Giêsu cũng như đồ đệ Ngài được mời đến. Và, xem ra Mẹ là chủ gia đình, tức người có thói quen coi ngó mọi việc nên Mẹ mới biết là: rượu đã cạn. Và, Mẹ đã ra tay hành động, cũng là giờ của Mẹ. “Giờ” của Mẹ Đức Chúa đã tới ở tiệc cưới hôm ấy, là vì mọi người trong cuộc đang có nhu cầu được Chúa ra tay giúp đỡ.

Việc Chúa ra tay giúp đỡ là đổ tràn tình thương Ngài ban phát cho những người có nhu cầu. Ngài nhìn quanh, thấy có vại nước. Nước, là biểu tượng của tình thương đang đổ tràn lu/vại và bảo mọi người hãy cứ uống. Thức uống Ngài bảo ban không chỉ là rượu, lại chính là tình thương đổ tràn lên họ và làm ấm áp tâm can họ. Họ không thể tin vào mắt mình rằng: còn gì quý bằng được uống nước tình thương đổ tràn trong đó. Ngài biến nước thành rượu nhưng Ngài biến nó thành biểu tượng của tình thương Ngài ban phát cho họ. Ngài vẫn còn làm việc đó cho ta mọi ngày.

Thế nhưng, đại ý câu truyện biến nước thành rượu ở đây là thế nào?

Là, Đức Maria cũng có vai trò trong việc Chúa thực hiện. Mẹ chỉ cho Chúa cơ hội bằng vàng để tình thương của Chúa được đổ tràn lên mọi người là những người có nhu cầu đem đến cho họ hơi ấm và cuộc sống. Mẹ thấy có vấn đề và Mẹ có được con của Mẹ là Chúa giải quyết giúp đỡ.

Cả ta nữa, cũng có thể làm được như Mẹ. Không phải để tổ chức tiệc cưới nào hết. Ta cũng không thể biến nước thành rượu, nhưng vẫn có thể giải quyết các khó khăn, mỗi khi bắt gặp. Ta có thể ra tay hành động. Và khi làm thế, ta có thể cho Chúa về những người đang có nhu cầu, như ta biết. Ta kêu cầu Chúa giúp họ. Ta cũng có thể nói với mọi người những điều như thế. Hãy cứ nói  với  bạn Đạo. Cả đến chính trị gia, hàng xóm láng giềng và có thể gọi số cấp cứu 000 hoặc 911, nếu thấy cần.

Điều cần thiết, là: hãy tỏ cho mọi người biết tình trạng của người cần được giúp và yêu cầu những người dửng dưng hãy tra tay hành động để phụ giúp. Nhưng, có lẽ thông điệp từ truyện kể hôm nay là để bảo: hãy làm những gì Chúa bảo. Và có lẽ, cũng nên làm như Mẹ từng làm. Sống và hành động như Đức Giêsu không có nghĩa là ta chỉ đi đến cửa hàng mua vài món quà cho ai đó. Nhưng là, đừng cả thẹn/ ngại ngùng khi mình “cho đi” tình thương yêu để giúp những người túng thiếu/ có nhu cầu. Là, cầu cho có được sự giúp đỡ thật sự cho người đang có nhu cầu. Hãy cho đi và nhận sự giúp đỡ mỗi khi cần.

Thành thử, hãy nghe lại thông điệp này, là: kể cho Chúa nghe một đôi điều và hãy ngạc nhiên khi thấy kết quả. Có lẽ nhiều người trong Hội thánh sẽ lấy làm lạ khi thấy các phụ nữ nghe được giọng nói mạnh cho Hội thánh biết những gì đang xảy đến; và, hội thánh cần làm việc gì đó để giúp đỡ những người cần giúp? Có lẽ cũng là điều thích thú, nếu Hội thánh triển khai khả năng thiết yếu lắng nghe và ra tay hành động.

Phụng vụ hôm nay cho thấy: ta sử dụng bài Tin Mừng này cho mùa lễ quanh năm để hoàn tất mùa Hiển linh, rất lễ hội. Hiển linh mùa lễ, không chỉ có truyện kể về ba vị đạo sĩ từ phương xa tìm đến, hoặc truyện Đức Chúa chịu phép rửa từ thánh Gioan. Bất cứ khi nào ta làm việc gì thực tế hoặc rất hữu dụng cho những ai đang cần đến, thì đó là lễ hội Hiển Linh với người thời đại, rất hôm nay.

Trong tinh thần hiểu biết rất như thế, cũng nên ngâm lại câu thơ ở trên, mà rằng:

            “Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm.

            Hây hây thục nữa mắt như thuyền.

            Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu,

            Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.”

            (Xuên Điệu – Thu)

Thục nữ khi xưa, là Mẹ Chúa rất như thuyền. Mẹ vẫn khuyên dạy Con hãy nhớ đến đàn con hôm nay vẫn cần tình thương của mọi người, rất thường tình.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Đức Thánh Cha tiếp kiến phái đoàn đại kết Phần Lan

Đức Thánh Cha tiếp kiến phái đoàn đại kết Phần Lan

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 17 tháng 1-2012, dành cho phái đoàn đại kết Phần Lan, ĐTC cổ võ các tín hữu gia tăng cầu nguyện và khiêm tốn tiến bước hướng về sự hiệp nhất.

Phái đoàn đại kết Phần Lan gồm các GM Tin Lành Luther, Chính Thống và Công Giáo, và một số tín hữu tháp tùng về Roma hành hương hằng năm nhân dịp lễ thánh Henrik bổn mạng của nước này.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến chủ đề của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô bắt đầu từ ngày 18 tháng 1-2013, đó là câu trích từ sách Ngôn Sứ Isaia: ”Điều gì Chúa đòi hỏi chúng ta?” (Xc Mi 6,6-8). Dĩ nhiên Ngôn Sứ nêu rõ điều Chúa yêu cầu chúng ta, đó là ”thực hành công lý, yêu thương và khiêm tốn tiến bước với Thiên Chúa chúng ta” (v.8)

ĐTC giải thích rằng: ”Khiêm tốn tiến bước trước sự hiện diện của Chúa, trong niềm vâng phục Lời cứu độ và tín thác nơi kế hoạch ơn phúc của Chúa, chính là một hình ảnh hùng hồn không những về đời sống đức tin, nhưng còn là hành trình đại kết trên con đường tiến về sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của mọi Kitô hữu. Trên con đường làm môn đệ Chúa, chúng ta được mời gọi tiến bước theo con đường hẹp của sự trung thành với thánh ý Chúa khi đương đầu với bất kỳ khó khăn và chướng ngại nào chúng ta có thể gặp phải”.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: ”Sự tiến bộ trên con đường hiệp thông đại kết đòi hỏi chúng ta phải đoàn kết với nhau hơn trong kinh nguyện, dấn thân hơn nữa trong việc nên thánh, và càng đi sâu hơn trong lãnh vực nghiên cứu thần học và cộng tác trong việc phục vụ một xã hội huynh đệ và công bằng. Trên con đường đại kết linh đạo như thế, chúng ta thực sự đồng hành với Thiên Chúa và với nhau trong công lý và tình thương (Xc Mi 6,8).

Sau cùng, ĐTC xác tín rằng ”Các bạn thân mến, khi cùng nhau khiêm tốn tiến bước theo con đường công lý, từ bi và ngay chính mà Chúa đã chỉ cho chúng ta, các tín hữu Kitô không những ở trong sự thật, nhưng còn là ngọn đèn vui mừng và hy vọng cho tất cả những người đang tìm kiếm điểm tham chiếu vững chắc trong thế giới biến chuyển mau lẹ ngày nay”. (SD 17-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

 

Ngoại trưởng Tòa Thánh lên án ”sự độc tài của chủ nghĩa duy tương đối”

Ngoại trưởng Tòa Thánh lên án ”sự độc tài của chủ nghĩa duy tương đối”

Đức TGM Dominique Mamberti

VATICAN. Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức TGM Dominique Mamberti, bênh vực tự do lương tâm, và chống lại ”chủ nghĩa độc tài” của thuyết duy tương đối về luân lý.

Đức TGM Mamberti bày tỏ lập trường trên đây trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, hôm 16 tháng 1-2012, sau khi Tòa Án nhân quyền ở Strasbourg đưa ra phán quyết về 4 vụ kiện từ Anh quốc: hai vụ liên quan đến vấn đề có được đeo thánh giá nhỏ ở cổ tại nơi làm việc hay không, và 2 vụ khác về quyền phản kháng lương tâm, không cử hành hôn phối dân sự cho 1 cặp đồng phái, và chữa trị quan hệ phái tính cho một cặp đồng phái khác.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức TGM Mamberti nhận định rằng ”Các vụ kiện đó chứng tỏ những vấn đề liên quan đến tự do lương tâm và tôn giáo là điều phức tạp, đặc biệt nơi xã hội Âu Châu trong đó ngày càng có sự khác biệt về tôn giáo và trào lưu duy đời (laicismo) gia tăng. Có một nguy cơ thực sự là chủ thuyết duy tương đối về luân lý đang được áp đặt như một qui luận mới của xã hội, nó đến làm thương tổn những nền tảng của tự do lương tâm và tự do tôn giáo của mỗi người.”

Đức TGM Ngoại trưởng Tòa Thánh nhấn mạnh rằng ”Giáo Hội muốn bảo vệ tự do lương tâm và tự do tôn giáo của mỗi người trong mọi trường hợp, kể cả đứng trước ”chế độ độc tài của chủ thuyết duy tương đối”. Vì thế, cần phải trình bày sự hợp lý của lương tâm con người nói chung và hành động luân lý của các tín hữu Kitô nói riêng. Đối với những vấn đề luân lý có tranh luận như phá thai hoặc đồng tính luyến ái, cần phải tôn trọng tự do lương tâm của mỗi người. Sự tôn trọng tự do lương tâm và tự do tôn giáo không phải là chướng ngại cản trở việc thiết lập một xã hội bao dung trong sự đa nguyên, trái lại đó là điều kiện để có xã hội bao dung như thế”.

Hỗ trợ cho những nhận định trên đây, Đức TGM Mamberti trích dẫn lời ĐTC Biển Đức 16 trước ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh hôm 7-1 vừa qua, theo đó ”cấm sự phản kháng lương tâm của cá nhân và của tổ chức, nhân danh tự do và đa nguyện, thì sẽ mở đường cho sự bất bao dung và một sự cưỡng bách mọi người phải đồng đều như nhau. Làm hao mòn tự do lương tâm chúng chứng tỏ một hình thức bi quan đối với khả năng của lương tâm con người nhìn nhận những gì là tốt lành và chân thật, để rồi chỉ bênh vực luật do con người làm ra, có xu hướng dành độc quyền quyết định về luân lý. Giáo Hội cũng có vai trò nhắc nhở rằng mỗi người, dù thuộc tín ngưỡng nào đi nữa, đều có khả năng theo lương tâm phận biệt thiện ác và do đó có khả năng hành động phù hợp với phán đoán của lương tâm. Đó chính là nguồn mạch tự do đích thực của con người”. (SD 16-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

ĐỨC

ĐỨC RENOIR

Trong bài Đức Mẹ Sầu Bi, tôi đã giải nghĩa chữ đức, nhưng chỉ tập trung vào nghĩa Nôm. Gần đây, Tiểu ban Từ vựng thuộc Uỷ ban Giáo lý Đức tin nhờ tôi viết ra các nghĩa của chữ đức, lại có độc giả hỏi về cách dùng chữ đức, cũng như cách dùng chữ đức trong nghĩa Nôm có quy định nào không.
 
Nay tôi viết mục từ riêng về chữ Đức, vừa ghi lại những chi tiết đã có về nghĩa Nôm, vừa bổ sung thêm về nghĩa Hán cho hoàn chỉnh trong một bài viết, hy vọng đáp ứng được sự quan tâm của mọi giới.

I.  Nghĩa Nôm: Đức là từ đi trước những danh xưng chức vị hay tước hiệu để tỏ lòng kính trọng dành cho những đấng, những vị đáng được tôn kính.

Ví dụ: Đức Chúa Trời, Đức Mẹ, Đức Phật Thích Ca, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức vua, Đức thánh Trần…

II.  Nghĩa Hán

1.   Nghĩa chung của chữ đức

Đức có duy nhất một chữ Hán 德 (tuy có nhiều cách viết, như: 徳, 悳, 惪).

Nguyên nghĩa: (đt.) Nhìn rõ phương hướng, đi thẳng vào đạo lộ → (tt.) Hợp đạo trời, tự nhiên tự đắc (chỉ dùng trong cổ văn) → (dt.) Tư tưởng, phương pháp hợp đạo trời (dt.) Phẩm chất tư tưởng phù hợp với tiêu chuẩn phải trái → (dt.) Việc thiện, ân huệ, Cảm ân đới đức.

Vậy, đức có các nghĩa: (dt.) (1) Ân huệ: Dĩ đức báo oán. (2) Đạo đức, lấy đạo để lập thân: Đức hạnh. (3) Hạnh kiểm, tác phong. (4) Cái khí tốt (thịnh vượng) trong bốn mùa: mùa xuân gọi là thịnh đức tại mộc. (5) Ý chí, niềm tin, lòng: nhất tâm nhất đức (một lòng một dạ) (6) Tên quốc gia: Nước Đức. (7) Ơn: Đức tin. (8) Họ Đức [1]. (đt.). (9) Tạ ơn: Vương viết: “Nhiên tắc đức ngã hồ” (Vua nói: “vậy thì cám ơn tôi không?”). (10) Giáo dục: đức hoá (lấy đức mà dạy bảo). (tt.) (11) Mỹ thiện: Đức chính (chính sách tốt đẹp).

[Xem chi tiết…ĐỨC]

Nhận ra gương mặt Chúa Giêsu nơi người nghèo, yếu đuối và khổ đau

Nhận ra gương mặt Chúa Giêsu nơi người nghèo, yếu đuối và khổ đau

Nếu muốn trông thấy dung nhan Thiên Chúa, một dung nhan trao ban ý nghĩa, sự vững vàng và an bình cho con đường đời sống, chúng ta phải theo Chúa Kitô và hướng toàn cuộc sống tới việc gặp gỡ Người, yên mến Người và yêu mến tha nhân. Vì dưới ánh sáng của Đấng bị đóng đinh, tình yêu ấy khiến cho chúng ta nhận ra gương mặt của Chúa Giêsu nơi người nghèo, người yếu đuối và người đau khổ.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 16 tháng 1-2013 trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Nơi Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa mạc khải dung nhan Người cho nhân loại”. Trong Hiến chế tín lý về việc mạc khải Dei Verbum, Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định rằng chân lý thâm sâu của toàn sự Mạc Khải về Thiên Chúa sáng ngời nơi ”Đức Kitô là Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn sự Mạc Khải” (Dv 2). Thánh Kinh Cựu Ước kể rằng sau khi tạo dựng, mặc dù có tội tổ tông là sự ngạo mạn của con người muốn thay thế chỗ của Đấng Tạo Hóa, Thiên Chúa lại cống hiến cho con người khả thể có được tình bạn của Người, nhất là qua giao ước với Abraham và lộ trình của một dân tộc bé nhỏ là dân Israel, mà Người đã chọn, không phải với các tiêu chuẩn của quyền bính trần thế, mà chỉ đơn thuần vì tình yêu thương của Người. Việc lựa chọn ấy là một mầu nhiệm, và nó vén mở cho thấy kiểu Thiên Chúa kêu gọi một vài người làm cầu nối dẫn đưa các người khác đến với Người. Trong lịch sử dân Israel chúng ta có thể đi lại các chặng của một lộ trình dài, trong đó Thiên Chúa tự mạc khải và bước vào trong lịch sử với các lời nói và hành động. Và để làm việc này Thiên Chúa dùng các người trung gian như ông Môshê, các Ngôn sứ, các Thẩm phán, để thông truyền cho dân ý muốn của Người, nhắc lại cho họ biết đòi buộc trung thành với giao ước, và tỉnh táo chờ đợi việc thực hiện tràn đầy và vĩnh viễn các lời Thiên Chúa đã hứa.

Chúng ta đã chiêm ngắm chính việc thực hiện các lời hứa này trong lễ Giáng Sinh: sự Mạc Khải của Thiên Chúa đạt tột đỉnh và sự trọn vẹn của nó. Nơi Đức Giêsu thành Nadarét, Thiên Chúa viếng thăm dân Người, viếng thăm nhân loại trong một cách thế vượt mọi chờ mong: Người gửi Con Duy Nhất của Người xuống thế làm người. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta gương mặt của Thiên Chúa. Trong bài ca dẫn nhập Phúc Âm thánh Gioan viết: ”Thiên Chúa đã không ai trông thấy bao giờ: Con duy nhất là Thiên Chúa và ở trong lòng Cháu Cha, chính Người đã vén mở cho chúng ta” (Ga 1,18). Khi cuộc khổ nạn tới gần, Chúa Giêsu đối thoại với các môn đệ và nói với họ về Thiên Chúa Cha. Tông đồ Philiphê hỏi Người: ”Thưa Thầy xin Thầy chỉ Cha cho chúng con là đủ” (Ga 14,8). Philiphê rất cụ thể và thực tiễn, ông xin được trông thấy Chúa Cha, thấy gương mặt của Người. Câu trả lời của Đức Giêsu đưa chúng ta vào trung tâm đức tin kitô học của Giáo Hội: ”Ai đã thấy Thầy là đã thấy Cha” (Ga 14,9). Kiểu nói này gói ghém tổng hợp của sự mới mẻ của Tân Ước, sự mới mẻ xuất hiện trong Hang đá Bếlêhem: Người ta có thể trông thấy Thiên Chúa, Người đã biểu lộ dung nhan Người, Người hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô.

Trong toàn Thánh Kinh Cựu Ước có đề tài ”tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa”. Từ ”panim” dung nhan được lập lại tới 400 lần, trong đó có 100 lần quy chiếu về Thiên Chúa. Nhưng Do thái giáo cấm các hình ảnh, vì không thể diễn tả Thiên Chúa được, như các dân tộc làm với việc thờ lậy các ngẫu tượng. Xem ra nó loại trừ hoàn toàn việc ”trông thấy” khỏi phụng tự và lòng đạo đức. Như vậy thì đối với tín hữu do thái đạo đức tìm nhan Thiên Chúa có nghĩa là gì, dù ý thức được rằng không thể có bất cứ hình ảnh nào của Người?

Câu hỏi này rất quan trọng, vì một đàng muốn nói rằng không thể giản lược Thiên Chúa vào một đồ vật, vào một hình ảnh đơn sơ, cũng không thể để cái gì vào chỗ của Thiên Chúa; tuy nhiên, đàng khác nó khẳng định rằng Người có một gương mặt, nghĩa là một ngôi thứ hai có thể bước vào trong tương quan, Người không khép kín trên Trời, và từ cao nhìn xuống nhân loại. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Chắc chắn Thiên Chúa ở trên mọi sự, nhưng Người hướng mặt về chúng ta, lắng nghe, trông thấy, nói và kết ước với chúng ta, Mgười có khả năng yêu thương chúng ta. Lịch sử cứu rỗi là lịch sử của tương quan này của Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải từ từ cho con người, là Đấng làm cho con người biết tôn nhan Người.

Chính trong ngày đầu năm mùng một tháng Giêng chúng ta đã lắng nghe trong phụng vụ lời chúc lành rất đẹp trên dân: ”Nguyện Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Chúa rạng ngời nét mặt nhìn anh em và dủ thương anh em! Nguyện Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6,24-26).

Sự rạng ngời của dung nhan Thiên Chúa là suối nguồn sự sống, là điều cho phép trông thấy thực tại; ánh sáng gương mặt Người hướng dẫn cuộc sống. Trong Thánh Kinh Cựu Ước có một gương mặt gắn liền với đề tài ”dung nhan Thiên Chúa”: đó là ông Môshê, người Thiên Chúa chọm để giải phóng dân Israel khỏi sự nô lệ Ai Cập, bằng cách ban cho dân Lề Luật của giao ước và dẫn đưa họ vế Đất hứa. Chương 33 sách Xuất Hành nói rằng ông Môshê có tương quan chặt chẽ và tin cậy với Thiên Chúa: “Chúa nói với ông Môshê mặt giáp mặt, như người ta nói với một người bạn” (Xh 33,11). Chính nhờ sự tin tưởng ấy ông Môshê mới xin Thiên Chúa: ”Xin cho con thấy vinh quang Ngài” và câu trả lời của Thiên Chúa thật rõ ràng: ”Ta sẽ cho tất cả lòng lành của Ta đi qua trước mặt ngươi và Ta sẽ xưng danh Ta là Giavê trước mặt ngươi… Nhưng ngươi sẽ không thể trông thấy mặt Ta, bởi vì không ai có thể thấy Ta mà vẫn sống… Đây là chỗ gần Ta.. Ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, nhưng tôn nhan Ta thì không được thấy” (Xh 33,18-33).

Như vậy, một đàng có sự đối thoại mặt giáp mặt như giữa bạn hữu, nhưng đàng khác có sự bất khả thể trông thấy Thiên Chúa là Đấng dấu ẩn, ở trong đời này. Việc trông thấy bị hạn chế. Sau cùng, chỉ có thể theo Thiên Chúa, bằng cách trông thấy lưng của Người.

Tuy nhiên, với sự Nhập Thể, xảy ra một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ. Việc tìm kiếm tôn nhan Thiên Chúa nhận được một khúc rẽ không thể tưởng tượng được, bởi vì bây giờ có thể trông thấy gương mặt ấy: đó là gương mặt của Đức Giêsu, của Con Thiên Chúa làm người. Nơi Người thành toàn con đường mặc khải của Thiên Chúa, đã bắt đầu với ơn gọi của tổ phụ Abraham. Người là sự trọn vẹn của việc mạc khải này, bởi vì là Con Thiên Chúa, đồng thời là ”Đấng trung gian và sự toàn vẹn của Mạc Khải” (DV 2); nơi Người nội dung sự mạc khải và Đấng mạc khải trùng hợp với nhau. Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy gương mặt của Thiên Chúa và làm cho chúng ta biết tên của Thiên Chúa. Trong lời Cầu linh mục trong Bữa Tiệc Ly Người thưa với Thiên Chúa Cha: ”Con đã biểu lộ danh Cha cho họ… Con đã làm cho họ biết danh Cha” (Ga 17,6.26). Kiểu nói ”danh Thiên Chúa” có nghĩa Thiên Chúa như Đấng hiện diện giữa loài người.

Thiên Chúa đã vén mở danh người cho ông Môshê gần bụi gai cháy, Người đã khiến cho mình có thể khẩn cầu, đã cho một dấu chỉ cụ thể về ”sự hiện diện” của Người giữa loài người. Tất cả những điều này tìm được sự thành toàn và trọn vẹn nơi Đức Giêsu: Người khai mào một kiểu mới sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử, bởi vì ai thấy Người là thấy Chúa Cha, như Người nói với Philiphê (x. Ga 14,9). Thánh Bênađô khẳng định: Kitô giáo là tôn giáo của Lời Thiên Chúa”, nhưng khộng phải của ”một lời nói viết ra và câm nín, mà là Ngôi Lời nhập thể và sống động” (Hom. super sissus est, IV, 11; PL 183,86B). Trong truyền thống giáo phụ và thời trung cổ người ta dùng một công thức đặc biệt để diễn tả thực tại này: Đức Giêsu là ”Verbum abbreviatum”, là Lời ngắn gọn và nòng cốt của Thiên Chúa Cha, đã nói với chúng ta tất cả về Người.

Nơi Đức Giêsu sự trung gian giữa Thiên Chúa và con người tìm được sự viên mãn của nó. Trong Thánh Kinh Cựu Ước có một loạt các hình ảnh giữ nhiệm vụ này, đặc biệt là ông Môshê, người giải phóng, vị hướng đạo, người ”trung gian” của giao ước như Thánh Kinh Tân Ước định ngĩa (x. Gl 3,19; Cv 7,35; Ga 1,17). Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là Người thật, không chỉ đơn sơ là một trong các người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, mà là ”Vị Trung Gian” của giao ước mới và vĩnh cửu (x. Dt 8,6.9.15; 12,24). Thật thế, thánh Phaolô khẳng định: chỉ có một Thiên Chúa, một vị trung gian giữa Thiên Chúa và loài người đó là Con Người Giêsu Kitô” (1 Tm 2,5; x. Gl 3,19-20). Nơi Người chúng ta trông thấy và gặp gỡ Thiên Chúa Cha; nơi Người chúng ta có thể khẩn cầu Thiên Chúa với tên gọi ”Abba, Cha ơi”; nơi Người ơn cứu độ được ban cho chúng ta.

Và Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Nếu chúng ta muốn trông thấy gương mặt của Thiên Chúa, gương mặt trao ban ý nghĩa, sự vững vàng, niềm an bình cho con đường của chúng ta, chúng ta phải theo Chúa Kitô, không phải chỉ khi cần đến chúng hay khi chúng ta tìm ra được một khoảng thời gian giữa muôn ngàn bận rộn thường ngày. Nhưng toàn cuộc sống phải hướng về việc gặp gỡ Người, về tình yêu đối với Người và trong đó cả tình yêu đối với tha nhân cũng phải có một chỗ trung tâm, tình yêu mà dưới ánh sáng của Đấng chịu đóng đanh, làm cho chúng ta nhận biết gương mặt của Chúa Giêsu nơi người nghèo, người yếu đuối, người đau khổ.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc họ những ngày hành hương sốt sắng bổ ích. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 




Đức Tổng Giám Mục Girelli có nhiều thời giờ hơn cho Giáo Hội tại Việt Nam

Đức Tổng Giám Mục Girelli có nhiều thời giờ hơn cho Giáo Hội tại Việt Nam

VATICAN. Hôm 16 tháng 1-2012, ĐTC đã bổ nhiệm Đức TGM Joseph Marino, Sứ thần Tòa Thánh tại Bangladesh, làm Sứ thần Tòa Thánh tại Malaysia, đồng thời làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Đông Timor kiêm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Brunei.

Cho đến nay, nhiệm vụ Đại diện Tòa Thánh tại 3 quốc gia vừa nói do Đức TGM Leopoldo Girelli phụ trách. Như vậy, với việc bổ nhiệm này, Đức TGM Girelli chỉ còn giữ nhiệm vụ Sứ Thần Tòa Thánh tại Singapore và Đại diện Tòa Thánh tại Việt Nam, kiêm Sứ thần Tòa Thánh tại Hiệp hội các nước Đông Nam Á, gọi tắt là Asean. Điều này có nghĩa là ngài có nhiều thời giờ hơn cho Giáo Hội tại Việt Nam, vì Singapore chỉ là một giáo phận duy nhất.

Đức TGM Joseph Marino, người Mỹ, năm nay 60 tuổi (23-1-1953), thụ phong GM năm 2008 và trong gần 5 năm qua ngài làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Bangladesh.

Malaysia rộng tương đương với Việt Nam, nhưng chỉ có 23 triệu rưỡi dân cư, trong số này có khoảng 850 ngàn tín hữu Công Giáo thuộc 3 giáo tỉnh với tổng cộng 9 giáo phận.

Malaysia thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh trên cấp Đại sứ từ tháng 7 năm 2011 (SD 16-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican