Suy Niêm Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia – Năm C – ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH: NHẪN NHỤC, VỊ THA (Lc 2:41-52)

Suy Niêm Phúc Âm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia – Năm C – ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH: NHẪN NHỤC, VỊ THA (Lc 2:41-52)

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được sinh ra trong một gia đình đạo hạnh Pháp Quốc. Chị có một người cha nhân hiền tên Louis Martin và một người mẹ thánh đức tên Zelie Guerin. Tương truyền rằng trước khi cả hai đồng ý thành hôn với nhau, họ đã có một thời gian tập sống thử luyện trong ơn gọi tu trì.

Đúng vậy, ông Louis Martin ban đầu gõ cửa một tu viện với ước mơ tương lai sẽ là một linh mục đạo đức. Tiếc thay, với trình độ tiếng La Tinh quá yếu, cậu được Cha Giám Đốc khuyên nhủ:  Chúa không chọn con làm linh mục được. Hãy nghe Cha mà về nhà sống ơn gọi gia đình”. Không tin vào lời góp ý phũ phàng ấy, cậu liền gặp riêng Cha Linh Hướng, Ngài cũng chung một nhận xét như thế. Nhất định không bỏ cuộc, Louis tiếp tục đến Nhà Dòng khác, xin tu lại. Cha Bề Trên tại đó, cũng từ chối khéo. Buồn bã, cậu mua vé tàu hoả, lên đường trở lại quê nhà.

Đang khi ấy, cô Zelie Guerin, một thiếu nữ sinh sống tại thành phố khác, cũng mơ ước sống đời tu trì. Tuy có đôi mắt bồ câu đẹp như thiên thần nhưng nàng lại muốn dâng hiến cuộc đời mình thuộc về Chúa hoàn toàn. Đến tập tu tại một tu viện dòng Nữ Tữ Bác Ái Vincent de Paul được thời gian ngắn, Mẹ Giám Tỉnh đã mời Zelie đến và phán quyết:  Con đẹp thùy mị và đoan trang, Chúa thích lắm. Song le, Mẹ thấy rõ con không có dấu hiệu thích hợp để Chúa chọn con sống bậc tu trì. Ngài muốn trao cho con một sứ mệnh khác”. Âm thầm vào cầu nguyện với Chúa, nàng đã khấn: nếu phải kết hôn sống đời vợ chồng, chị sẽ dâng hết các con mình cho Giáo Hội. Đoạn, Zelie can đảm xách va li đến nhà ga, đón chuyến xe lửa sớm nhất về lai gia đình.
Có ai ngờ, trên chuyến tàu hoàng hôn ấy, hai tâm trạng thất vọng đó, vô tình ngồi chung một toa xe. Đôi môi cùng chuyện trò, đôi lòng cùng cảm mến, cuối cùng đôi trái tim lại rung một nhịp yêu thương. Họ đã kết hôn sau đó theo luật Công Giáo và sinh được chin người con: hai trai, bảy gái. Chúa rước về trời bốn hoa hồng thơm ngát, để lại cho ông bà 5 cô công chúa: tất cả đều đi Tu nơi dòng Kín và dòng Thăm Viếng, trong số đó có út nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là vị đại thánh, Nữ Tiến Sĩ của Giáo Hội.
Thật là một gia đình đầy ân phúc, được Chúa chúc lành quá đặc biệt. Thậm chí, cách đây vài năm, ngày 19/10/2008, ĐGH Bênêđictô XVI đã chính thức tôn phong hai ông bà Louis và Zelie Martin lên bậc Chân Phước, tôn kính đặc biệt trong toàn thể Giáo Hội. Họ xứng đáng được như thế bởi cả hai là những cha mẹ thánh thiện, đã dùng sự nhẫn nhục khéo léo mà giáo dục con cái, đã lấy tâm tình vị tha để uốn nắn các con nên tốt đẹp từng ngày.
Hôm nay, Lễ Thánh Gia, Giáo Hội cũng muốn chiếu sáng hình ảnh một Gia Đình Thánh ở Nazareth xưa và mời gọi các tín hữu hãy nhìn vào sinh hoạt tốt lành của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse; để từ đó biết xây dựng cho gia đình mình một cách sống đạo tương ứng: thông cảm, nhẫn nhục, yêu mến, vị tha…
A. Đời sống gia đình Thánh: nhẫn nhục, thông hiểu.
Tục lệ hàng năm, dịp Lễ Vượt Qua, người Do Thái có thói quen hành hương về Giêrusalem mừng lễ.  Gia đình Thánh Giuse cũng đồng hành với xóm làng, trẩy hội lên Thánh Đô dự lễ trọng truyền thống.  Bất ngờ, cha Giuse và mẹ Maria lạc mất tin tức con trẻ Giêsu. Cả hai cùng sốt ruột tìm kiếm khắp nơi.  Khi đã tìm thấy, họ nhẫn nhục trách khéo con trẻ nhưng Ngài giải thích lý do “làm công việc của Cha Ngài”(Lc 2:49), “thi hành ý muốn của Đấng đã sai mình” (Ga 4:34) và hoàn tất công trình của Cha.
Hạnh phúc Nazareth lại nở hoa, khi cả hai Giuse và Maria cảm thông chức năng cao qúy của Con yêu. Ta thấy rõ:
  1. Gia đình Nazareth sống nhẫn nhục, thông cảm.
  • Thánh Giuse vui nhận ý Chúa trong việc đón Mẹ Maria Trinh Thai về nhà mình, vâng lời sứ thần đưa trẻ Giêsu và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, đoạn trở lại Nazareth sau đó. Ngài cần cù lao động ít nói, cảm thông vợ con chân yếu tay mềm, hy sinh chịu đựng.
  • Mẹ Maria xin vâng thuận theo Thánh Ý, chịu sự hiểu lầm nghi kỵ của Giuse, cảm thông trách nhiệm cao qúy của con trẻ Giêsu nơi đền thánh, miệt mài may vá, nấu nướng, giặt gỵa mỗi ngày phụ giúp chồng, con.
  • Trẻ Giêsu dù là Con Thiên Chúa vẫn âm thầm sống ẩn dật làm người, vâng lời hai cha mẹ trần thế (Lc 2:51). Ngày ngày cảm thông những giọt mồ hôi vất vả của các bậc sinh thành, Ngài phụ giúp họ làm thợ mộc, đóng bàn ghế, khiêm nhu lắng nghe và học hỏi.
  1. Gia đình Louis và Zelie Martin sống chịu đựng, cảm thông.
  • Ông Louis Martin kềm chế cá tính nóng nảy giúp gia đình hạnh phúc. Khi người vợ qúi yêu qua đời, ông chấp nhận ở vậy nuôi nấng và giáo dục con, cảm thông lỗi sai phạm thất thường của Têrêsa và khiển trách khôn ngoan. Chịu đựng sự trống trải cô đơn khi sẵn lòng dâng năm người con gái đi tu, làm việc cho Giáo Hội.
  • Bà Zelie Guerin nhẫn nhục trong đau đớn bệnh tật, gắng mỉm cười chịu đựng bao nhức nhối, chia vui với hạnh phúc chồng con. Bà không ngại khiển trách Terêsa nhẹ nhàng các sai lầm, kín đáo dạy con biết thương yêu, làm phúc cho kẻ khó.
  • Trẻ Têrêsa biết mình ưa những nhẽo, giận hờn vô lý, bướng bĩnh khó nghe: nàng đã im lặng đón nhận sự dạy dỗ của cha mẹ, uốn mình nghe các chị hướng dẫn để trưởng thành hơn. Càng lớn, cô càng nhận thức gương sáng tốt lành, thánh thiện của cha mẹ đã làm.
Hãy làm người tốt lành, biết nhẫn nhục và cảm thông, giúp bầu khí sống chung trong gia đình êm đẹp.
Chuyện nực cười xảy ra năm xưa tại Santa Ana, CA. Hai vợ chồng già Wheatland và Sullivan tự dưng ra Toà xin ly dị, chỉ vì một Con Chó yêu dấu. Ông Bà kết hôn đã lâu, nhưng hiếm muộn không con. Dể vui cửa vui nhà, họ mua một cô Cún cưng, hết lòng yêu thương nó. Sáng sớm, ông Wheatland chở nó đến sân Tennis vui chơi với ông và bạn bè. Chiều về, bà tắm rửa, lo cho Cô Chó ăn uống đầy đủ, đoạn ôm ấp nâng niu Chó từng dêm. Từ ngày có Cún cưng xuất hiện, tình cảm hai thân già trở nên hời hợt, ai cũng nghĩ đến con Chó cưng là bạn chung nghĩa, chung tình. Việc ly hôn tất yếu đã xảy ra.
         Toà xử tài sản hai vợ chồng chia đôi dễ dàng, nhưng cái khó nhất là ai sẽ được quyền sở hữu con Chó? Cuối cùng, hai bên đồng ý phán quyết của Toà: mỗi người được giữ Chó một tháng luân phiên. Tháng đầu tiên, Cún Cưng về ở với ông, thình lình đi ăn vụng tình ái hàng xóm, phải mang hậu quả. Tháng kế tiếp, Cô Chó về ở với bà, thấy nó có sự khác thường, bà đổi ý nuôi luôn để chăm lo cẩn thận. Thấy bà Sullivan không trả lại Chó theo phiên qui định, ông khó chịu ra mặt. Bà trả lời “ông có kinh nghiệm gì chăm lo chó đẻ, mà đòi mang về?”. Toà không đồng ý, cứ lý mà thi hành, phải gửi Chó lại cho ông theo đúng phiên. Về ở với ông, bất ngơ Cô Cún sinh được 4 qúi tử, ông lịch sự chia 2 chó con cho bà. Bà cương quyết kháng cáo, vì đàn ông biết gì mà chăm con, nên bà đòi bắt cả 4 chó con.
Chuyện thật khôi hài: thương nhau quá đòi cho được phải kết hôn, không hiểu nhau kỹ lại xin ly hôn. Bây giờ ly hôn rồi, thích bới lông tìm vết, viện ra đủ mọi lý lẽ hại nhau, thiếu nhẫn nhục và cảm thông.
B. Đời sống gia đình Thánh: yêu mến, vị tha.
 
Đức Cha GB. Bùi Tuần đã nói: “Tình yêu mà không có hy sinh, chỉ là tình yêu giả tạo. Hy sinh mà thiếu lòng yêu mén, sẽ là hy sinh thừa thải”. Cuộc sống gia đình cần lòng vị tha và thương mến thật.
  1. Gia Đình Nazareth sống yêu mến, vị tha.
  • Thánh Giuse thành tâm yêu mến Chúa, chọn Thánh Ý Chúa là trên hết. Ngài quãng đại vị tha việc Maria mang thai trước khi chung sống, vẫn đón nàng về nhà làm bạn mình.
  • Mẹ Maria không bảo thủ, luôn lắng nghe Lời Chúa dạy, ghi nhớ, suy niệm trong lòng.  Mẹ yêu mến đôi tân hôn trong tiệc cưới Cana, ôm trọn vào mình mọi khổ nạn của Chúa Giêsu, Con Mẹ, không hờn trách oán than.
  • Trẻ Giêsu yêu mến Cha Mẹ và tuân phục các Ngài, trở về Nazareth thêm tuổi thêm khôn ngoan. Càng sống đời ẩn dật, Ngài càng cao ân đức với Thiên Chúa và xóm làng.
  1. Gia Đình Louis và Zelie Martin luôn yêu thương và cho đi.
  • Người cha hiền Louis có lòng yêu mến Chúa và phụng sự Giáo Hội. Ông quen đọc tư liệu về Các Thánh, dạy con cái biết kính trọng các bà Dòng thánh thiện, đưa con cái đi du lịch Đất Thánh giúp gia tăng lòng mến nơi các con biết hy sinh dâng hiến cho Chúa.
  • Người mẹ gương mẫu Zelie luôn nuôi dưỡng lòng đạo đức, kinh nguyện Phụng Vụ sốt sắng, thu xếp giờ đọc kinh chung gia đình mỗi tối, giúp con cái xét mình xưng tội cùng thôi thúc chúng năng làm phúc cho kẻ khó.
  • Trẻ Têrêsa hấp thụ nơi Cha tâm hồn thánh đức tuyệt vời, biết khao khát sự tốt lành trên trời, tận tình yêu mến và giúp đỡ các chị em, biết dấn thân quãng đại tìm cho mình một con đường nên thánh tuyệt hảo: đường thơ ấu thiêng liêng.
Có một linh hồn được Chúa ban đặc ân trong một phút xuất thần, đi tham quan cả Thiên Đàng và Hoả Ngục. Linh hồn này quan sát trong giờ ăn, cả hai nơi: mỗi người đều có một đôi đũa dài và có chung các thức ăn như nhau. Anh thầm nghĩ: nếu thế, ở Hoả Ngục cũng được, cần gì mơ vào Thiên Đàng, vì đâu có gì “phân biệt khác thường”. Tuy nhiên, một lúc sau đó, anh nhận ra được nét dị biệt rõ ràng: nơi Thiên Đàng, người này cầm đũa dài gắp thức ăn cho người kia lẫn cho nhau, nên ai nấy đều no nê; nhưng nơi Hoả Ngục, ai ai cũng ích kỷ, tranh thủ lấy đũa dài gắp đồ ăn vào miệng mình, khiến thức ăn không vào được bao nhiêu, rớt vương vãi ra ngoài hết, tất cả đói meo, bèn chửi bới nhau.
Thế mới hiểu: đời sống chung, chỉ lo nghĩ cho mình dễ thất bại, và ngược lại, dám hy sinh phục vụ kẻ khác mới thành công.
C. Đời sống gia đình hôm nay: sống Thánh giữa đời.
 
Gia Đình là lò luyện hy sinh, trong đó mỗi thành viên biết chịu đựng vất vả, nhẫn nhục lắng nghe và quan tâm đến nhau, cảm thông và cho đi nhiều hơn: Tình Yêu Thương và Hạnh Phúc mới dâng cao.
Để kiến tạo một gia đình tốt lành như Thánh Gia Nazareth, gia đình phải thực sự sống Thánh giữa đời.
Trong đó, các bậc làm cha mẹ:
  1. Biết đặt Chúa là chủ tể duy nhất, lên trên mọi thần tượng hư ảo khác.
  • Trong nhà phải có bàn thờ Chúa, riêng mỗi phòng nên có một tượng ảnh đạo đức.
  • Khai trương tân gia, mời Linh Mục đến làm phép để thánh hoá ngôi nhà.
  • Tôn trọng ngày của Chúa: nghỉ ngơi và làm việc lành thánh, bác ái.
  1. Biết tuân giữ luật Chúa và Giáo Hội thường xuyên.
  • Đi dâng lễ chung hàng tuần và kinh nguyện chung mỗi tối, khi có thể.
  • Hãm mình ăn chay, kiêng thịt theo Luật buộc, sám hối hoà giải xưng tội thường niên.
  • Đóng góp công sức, của cải vào Giáo xứ địa phương, hỗ trợ chung sinh hoạt tôn giáo.
  1. Biết giải quyết mọi tình huống gia đình theo Thánh Ý Chúa hướng dẫn hơn là theo ý riêng.
  • Vợ chồng con cái sống hoà hợp, nhịn nhục, đoàn kết hợp nhất, vui buồn có nhau.
  • Luôn cầu nguyện tìm ý Chúa soi sáng, khi đối diện khó khăn, hiểu lầm.
  • Xua tan mọi nghi kỵ vô căn cứ, diệt trừ mọi tư duy ghen tị, chia rẽ nhau.
Nói chung, gia đình phải là nôi yêu thương, giúp mọi người sống liên đới và tôn trọng lẫn nhau.
D. Lời Nguyện kết thúc.
 
Lạy Chúa Giêsu Kitô!  Khi nhập thể làm người, Chúa đã âm thầm vui sống trong một gia đình khiêm tốn ở Nazareth.  Xin giúp chúng con biết nhìn vào Gia Đình Thánh của Chúa: sống hiền hoà thánh đức, sống lao động cảm thông, sống tôn trọng yêu thương.. để bắt chước, để xây dựng gia đình mình nên thánh thiện, tốt đẹp giữa thế gian.  AMEN.
Fr. Dominic Dieu Tran, SDD

Những nỗ lực từ thiện trong mùa Giáng sinh ít được hưởng ứng

Những nỗ lực từ thiện trong mùa Giáng sinh ít được hưởng ứng

Một số tổ chức báo họ gặp khó khăn và thất vọng trong những nỗ lực quyên góp từ thiện nhân dịp Giáng sinh.

Anzar Hameed, giám đốc kinh doanh Mitchell’s Fruit Farms, công ty lương thực lâu đời nhất ở Pakistan, thường xuyên đóng góp ủng hộ người nghèo vào lúc này trong năm nói:

“Một trong các nhân viên điều hành kinh doanh của chúng tôi là giáo dân đã đứng ra liên hệ việc này trong ba năm nay. Nhưng năm nay chuyện này gần như bỏ mất vì chi phí hoạt động tăng cao.”

Tuy nhiên, công ty vẫn cố gắng cung cấp các mặt hàng lương thực trị giá 25.000 rupi (256 Mỹ kim) cho các quả phụ Công giáo tại nhà thờ chính tòa Thánh Tâm hôm chủ nhật vừa rồi.

Tại Caritas Pakistan Lahore, nhân viên ủng hộ 2% lương tháng sau khi thấy cuộc vận động nhân Ngày Lương thực thế giới ít được hưởng ứng.

“Hoạt động thùng tiền quyên góp trong học sinh diễn ra khoảng 3 tháng. Chúng tôi tập trung vào các trường học của Giáo hội nơi thường có học sinh là con nhà khá giả. Số tiền thu được từ hai trường lớn chỉ có 15 Mỹ kim”, Anila Gill, giám đốc Caritas, cho biết.

Nhờ bổ sung thêm tiền quỹ bằng 2% lương tháng của nhân viên, Caritas có thể mang niềm vui đến cho 30 gia đình công nhân làm lò gạch nghèo, con cái họ được tặng đồ chơi và bánh kẹo nhân dịp Giáng sinh.

UCANEWS

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Gerard O’Connell từ Rome

Đức Thánh cha Bênêđictô XVI lại có một năm bận rộn nữa phía trước với việc phát hành tông huấnthứ ba, đi Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới và tổ chức công nghị tấn phong hồng y mới.

Khi bước sang năm mới 2013, Đức Bênêđictô XVI trở thành vị giáo hoàng lớn tuổi thứ năm trong lịch sử Giáo hội. Vào ngày chín tháng Giêng, ngài sẽ vượt qua Đức Piô IX để xếp ở vị trí thứ tư. Lúc đó chỉ có ba giáo hoàng từng thọ hơn ngài là Đức Clement X, 86 tuổi, Đức Clement XII 87 tuổi và Đức Leo XIII trị vì cho đến tuổi 93.

Đức giáo hoàng thần học gia 85 tuổi sẽ khai mạc Năm Mới bằng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô nhân Ngày Thế giới Hòa bình có sự hiện diện của đại sứ đến từ 179 quốc gia hiện đang có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh.

Vào ngày lễ Chúa Hiển Linh, 6-1, ngài sẽ tấn phong một số giám mục tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, trong đó có thư ký riêng lâu năm của ngài là Đức ông Georg Ganswein, người vừa được ngài nâng lên hàng tổng giám mục và còn chỉ định làm người đứng đầu phủ giáo hoàng, trong khi vẫn giữ – ít ra là trong lúc này – vai trò thư ký riêng của Đức giáo hoàng.

Đến thứ Hai ngày 7-1, Đức Bênêđictô XVI sẽ chúc mừng Năm Mới đến các ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh và trình bày quan điểm của mình về tình hình thế giới hiện nay.

Vắng mặt tại sự kiện thường niên này đáng chú ý nhất là Trung Quốc, quốc gia khiến ngài phải đau đầu từ khi lên ngôi giáo hoàng năm 2005. Cho đến nay nước này vẫn khăng khăng rằng mình phải có tiếng nói sau cùng trong các bổ nhiệm giám mục cho Giáo hội Công giáo ở đại lục.

Cuối tháng Giêng, Đức giáo hoàng sẽ phát hành tông huấn mới về chủ đề “Đức tin”. Ngài đã viết các tông huấn về Bác ái và Hy vọng và đến nay ngài đã hoàn thành bộ ba này. Bản văn mới sẽ là nguồn cảm hứng và hướng dẫn quan trọng cho tín hữu trong Năm Đức tin này.

Như thường lệ, Đức Bênêđictô sẽ chủ tế các nghi thức chính trong Tuần Thánh và canh thức Phục sinh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 30-3. Ngày hôm sau là Chúa nhật Phục sinh, ngài sẽ đọc Thông điệp truyền thống gửi thành phố Rôma và Thế giới (“Urbi et Orbi”) tại ban công chính của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Thông điệp và lời chúc mừng Phục sinh của ngài sẽ được phát thanh và truyền hình đến khoảng 2 tỷ khán thính giả toàn cầu.

Vào ngày 16-4, người giữ chức giáo hoàng lâu nhất trong tám vị giáo hoàng người Đức trong lịch sử Giáo hội sẽ mừng sinh nhật thứ 86. Ba ngày sau, ngài sẽ bước sang năm thứ chín trong cương vị giáo hoàng. Ngài được bầu làm giáo hoàng vào ngày 19 tháng 4-2005.

Vị giáo hoàng công du nhiều thứ hai trong lịch sử dự kiến sẽ sang Rio de Janeiro, Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới (23-28/7). Các nguồn tin cho biết chuyến tông du này sẽ mất một tuần, và sự kiện này sẽ thu hút hàng trăm ngàn người trẻ đến từ khắp thế giới.

Cho đến nay, đó là chuyến đi duy nhất được ngài lên lịch rõ ràng cho năm 2013. Ngài đã đến Phi châu hai lần, và đây là lần thứ ba ngài đến Mỹ Latinh, nơi có hơn phân nửa số người Công giáo sinh sống trên thế giới.

Đức Bênêđictô XVI chưa đến thăm châu Á và dường như hiện nay ngài không thể, nhưng các nguồn tin ở Rôma cho rằng ngài có thể đi một hoặc hai chuyến đi ngắn ở châu Âu trong năm 2013, trong đó có thể có chuyến thăm cuối tuần đến Ireland để thúc đẩy Giáo hội đang khủng hoảng ở đó, mặc dù chưa có người nào ở Rôma xác nhận điều này.

Tới giữa tháng 10, ngài sẽ phong một số vị thánh mới và có khả năng Chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II sẽ đứng đầu danh sách các thánh mới.

Đức Bênêđictô muốn phát hành, càng nhanh càng tốt, Tông huấn về những đúc kết của Thượng Hội đồng giám mục về Tân Phúc âm hóa diễn ra hồi tháng 10-2012, nếu không có gì thay đổi, có thể ngài sẽ làm thế trước cuối năm 2013.

Đức Bênêđictô XVI sẽ chủ tọa lễ bế mạc Năm Đức tin vào ngày 24-11. Các nguồn tin cho biết ngài có thể sẽ tổ chức công nghị vào thời điểm đó để tôn phong các tân hồng y từ các châu lục.

Trong số những người được dự đoán sẽ được nhận mũ đỏ lúc đó có Đức Tổng Giám mục Vincent Nichols của Westminter và Đức Tổng giám mục Gerhard Muller (Đức), tân Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý đức tin.

Trong cả năm, Đức Bênêđictô sẽ có vô số các cuộc hội kiến, trong đó có cuộc tiếp kiến các nguyên thủ quốc gia và chính phủ, tân đại sứ và sứ thần, cũng như các hội đồng giám mục từ các nước sang Rôma hành hương “Ad Limina” năm năm một lần.

Trong năm 2013, ngài sẽ tổ chức các cuộc họp định kỳ hàng tuần hay hàng tháng với các vị đứng đầu các văn phong khác nhau của Vatican, và quyết định về các vấn đề quan trọng với họ theo yêu cầu. Ngài sẽ bổ nhiệm giám mục cho các giáo phận trên tất cả các châu lục, và cũng sẽ thay đổi và tái bổ nhiệm trong Giáo triều Rôma. Nhiều người ở Rôma cho rằng có thể ngài sẽ thay Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Bertone, người bước sang tuổi 78 vào cuối năm 2012, hoặc sẽ chỉ định một vị trong ngoại giao đoàn của Tòa Thánh trợ giúp đức hồng y.

Như nhiều người biết, trong lịch làm việc hàng tuần Đức Thánh cha có các cuộc biệt kiến với khách hành hương đến từ khắp thế giới vào thứ Tư. Đức Bênêđictô XVI quý trọng những lúc như thế vì lúc đó ngài là thầy dạy đức tin, “một người Cha của Giáo hội”.

Nhìn lướt qua nhật ký bên trên khiến người ta kết luận rằng Đức Bênêđictô có lịch làm việc bận rộn trong năm 2013. Ngoài ra, dựa trên kinh nghiệm của tám năm qua, người ta có thể nghĩ ngài cũng sẽ đưa ra một vài bất ngờ trong năm tới.

Trích từ UCANEWS

GIÁNG SINH TẠI BOSNIE ERZEGOVINE 20 NĂM SAU CHIẾN TRANH

GIÁNG SINH TẠI BOSNIE ERZEGOVINE 20 NĂM SAU CHIẾN TRANH

SARAJEVO: Sau 20 năm chiến tranh cộng đoàn công giáo Sarajevo mừng lễ Giáng Sinh với các vết thương chưa lành hẳn.

Đức Cha Pero Sudar, Giám Mục phụ tá giáo phận thủ đô Sarajevo, đã cho biết như trên. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, chiến tranh Bosni Erzegovine xảy ra hồi năm 1992 đã là cuộc chiến tàn khốc nhất tại Âu châu, khiến cho Sarajevo đã bị vây hãm liên tiếp trong 43 tháng trời. Cộng đoàn công giáo mất đi phân nửa số tín hữu của mình. Đức Cha Sudar cho biết những ai có thể đã đi tham dự thánh lễ Giáng Sinh, nhưng số tín hữu chỉ còn một nữa, và cộng đoàn công giáo trở thành thiểu số. Chính vì thế nên không có nhiều biểu lộ bề ngoài. Tuy nhiên, con số và những cơ cấu bề ngoài không quan trọng. Chúa Giêsu Kitô đã đến trần gian trong âm thầm kín ẩn, chứ không phải với quyền uy. Ngài đến cho tất cả mọi người, đặc biệt là những ai gặp khó khăn và khổ đau.

Đức Cha Sudar cho biết tình hình xã hội kinh tế Bosni Erzegovine rất khó khăn vì số người thất nghiệp lên tới 50%. Rất nhiều gia đình không có cả đến những gì họ đã có được trong thời chiến tranh. Vì thế tình liên đới huynh đệ và chia sẻ là điều mọi người phải học biết và thực hành. Còn có rất nhiều điều phải làm để cho cuộc sống của mọi người được tốt đẹp hơn (RG 25-12-2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

GIÁNG SINH HÒA GIẢI VÀ TỰ DO TẠI MYANMAR

GIÁNG SINH HÒA GIẢI VÀ TỰ DO TẠI MYANMAR

YANGOON: Đức Cha Charles Bo, Tổng Giám Mục Ygangoon thủ đô Myanmar, bầy tỏ vui mừng vì năm nay tín hữu được tự do cử hành lễ Giáng Sinh mà không phải xin phép. Đây là dấu chỉ của tự do tôn giáo và hòa giải trong một đất nước rộng mở cho dân chủ, hòa giải và hòa bình.

Đức Cha đã mời gọi tín hữu chia sẻ vật chất và tinh thần với các anh chị em nghèo túng và bị gạt bên lề xã hội, nhân danh niềm hy vọng và sự tha thứ. Nơi Chúa Hài Nhi Thiên Chúa quyền năng đã trở thành một trẻ thơ yếu đuối để cho tất cả mọi người có thể yêu mến Người và yêu mến tha nhân.

Trong các ngày trước lễ Giáng Sinh giới trẻ đã hăng hái tham gia các buổi trình diễn thánh ca Giáng Sinh với mục đích rao truyền Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng yêu thương của Người.

Đức Tổng Giám Mục Bo đã chủ sự thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh trong nhà thờ chính tòa Đức Bà Yangoon, với sự tham sự của nhiều vị đại sứ và nhân viên ngoại giao.

Ngày 25 tháng 12 một buổi cầu nguyện đại kết cũng đã được tổ chức tại nhà thờ chính tòa Chúa Ba Ngôi của Anh giáo và tiếp theo đó là bữa ăn trưa huynh đệ, có sự tham dự của Bộ trường tôn giáo và thống đốc vùng. Tổng thống Thien Sien và bà Aung Suu Kyi cũng được mời tham dự (ASIANEWS 24-12–2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại vài nước bên Tiểu Á và Á châu

Bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại vài nước bên Tiểu Á và Á châu

Kính mời qúy vị và các bạn cùng chúng tôi đi một vòng tìm hiểu bầu khí mừng lễ Giáng Sinh tại một số nước Á châu.

Trước hết là tại thành phố Bếtlêhem bên Thánh Địa, nơi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Cha Stephane Milovitch, dòng Phanxicô, quản thủ Vương cung thánh đường Giáng Sinh cho biết tình hình chiến sự trong vùng Gaza hồi tháng 11 năm 2012 đã khiến cho số tín hữu và du khách hành hương Thánh Địa giảm sút. Đa số các đoàn hành hương đã hủy bỏ chuyến đi.

Nhưng trong các ngày vừa qua số tín hữu đến Bếtlêhem để mừng lễ Giáng Sinh lại đã gia tăng. Giới chức làm việc trong lãnh vực du lịch cho biết các tín hữu đã giữ chỗ cho tới tháng 4 năm 2013. Và Bộ du lịch Israel hy vọng có khoảng 75.000 tín hữu viếng thăm Bếtlehem. Cha Milovitch còn cho biết bầu khí tại Bếtlehem rất an bình. Cha khích lệ tín hữu đừng sợ hãi và mời gọi các đoàn hành hương đến Thánh Địa. Họ sẽ được tiếp đón trong tươi vui. Cộng đoàn Kitô địa phương cần sự hiện diện của các Kitô hữu và du khách hành hương để có thể sống còn.

Tại Bếtlêhem tín hữu Kitô đã chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh với tuần cửu nhật và chuông nhà thờ rộn rã đổ hồi mỗi ngày. Từ ngày 15 tháng 12-2012 chính quyền thành Bếtlêhem đã cho trồng một cây thông giáng sinh rất lớn tại quảng trường và trang hoàng các đường chung quanh vương cung thánh đường Giáng Sinh với hoa đèn nhiều màu sắc.

Các lễ nghi do Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal chủ sự theo một chương trình đã có từ nhiều thập niên qua. Chiều 24 tháng 12 Đức Thượng Phụ được các hướng đạo sinh và dân chúng tiếp đón khi đến Bếtlêhem, và ngài chủ sự buổi hát Kinh Chiều I trọng thể trong vương cung thánh đường Giáng Sinh. Sau đó Đức thượng Phụ chủ sự buổi rước kiệu xuống Hang Đá, xông hương nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, Hang Đá và bàn thờ Ba Vua, rồi đi ngang qua các hang dưới lòng đất có các bàn thờ kính Thánh Giuse, các Thánh Anh Hài, rồi lên nhà thờ thánh nữ Catarina ở bên cạnh. Tiếp theo đó là bữa ăn tối. Sau đó có giờ Kinh Phụng Vụ các bài đọc và Thánh Lễ nửa đêm. Tham dự thánh lễ do Đức Thượng Phụ cử hành, có tổng thống Abu Mazen, bà thị trưởng Bếtlêhem Vera Baboun và các vị lãnh đạo chính trị xã hội, cùng với các vị lãnh sự các nước Italia, Pháp, Tây Ban Nha và Bỉ và hơn 1,500 tín hữu. Sau thánh lễ tượng Chúa Hài Đồng được rước xuống Hang Đá Giáng Sinh và được đặt ở đây cho tới ngày mùng 6 tháng Giêng, rồi sau đó được rước trở lại nhà thờ thánh nữ Catarina.

Trong toàn vùng Trung Đông, Kitô hữu không được an bình mừng lễ Giáng Sinh vì tình hình chính trị kinh tế xã hội đã trở nên tồi tệ hơn.

Tại Gaza tình hình vẫn căng thẳng kể từ khi bạo lực gia tăng hồi tháng 11 năm 2012, và tình trạng cấm vận khiến cho cuộc sống thường ngày của 1.4 triệu dân Palestine rất khốn khổ, dưỡng nuôi tâm tình thù nghịch thường xuyên chống lại Israel. Ngoài ra cũng còn có khuynh hướng tôn giáo cuồng tín gây nguy hại cho cuộc đối thoại và chung sống giữa các tôn giáo, và sự kinh khiếp trước các vụ xúc phạm tới các nhà thờ, tu viện, hội đường do thái và đền thờ hồi giáo. Ngày 16 tháng 12-2012 Đức Thượng Phụ Latinh Giêrusalem Fouad Twal đã đến viếng thăm và dâng thánh lễ cho cộng đoàn công giáo bé nhỏ gồm 200 tín hữu tại đây.

Bên Syria, niềm vui Giáng Sinh bị lu mờ vì cuộc nội chiến khốc liệt kéo dài từ 20 tháng qua đã khiến cho hơn 44,000 người thiệt mạng, trong đó có 4.000 trẻ em và hơn 2 triệu người phải tị nạn, trong đó có gần 300 ngàn tại Giordania và 150 ngàn bên Libăng. Giáo Hội Latinh Giêrusalem đang hết sức cộng tác vào việc cứu trợ các anh chị em Siri tị nạn bên Giordania. Trong mấy ngày vừa qua các cuộc dội bom và pháo kích vào các lò làm bánh mì đã khiến cho thêm hàng chục người chết và hàng trăm người bị thương khi đứng xếp hàng đợi mua bánh.

Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria cho biết mặc dù có chiến tranh, nhưng các tín hữu Kitô vẫn cố gắng làm những gì có thể để các giáo xứ có bầu khí Giáng Sinh trong các giáo xứ trong thủ đô Damasco cũng như nhiều nơi khác. Đức Tổng Giám Mục Zenari đã đi thăm nhiều giáo xứ vùng ngoại ô và nhiều dòng tu nam nữ. Các linh mục tu sĩ vẫn hàng ngày tiếp tế lương thực cho dân nghèo. Có một trung tâm bác ái tại Badgdad mỗi ngày phân phát 6.500 phần ăn nóng cho dân không phân biệt ai. Và các bạn trẻ Kitô và hồi giáo sát cánh với nhau trong công tác bác ái này. Những nghĩa cử tình yêu đó là cách thức cử hành lễ Giáng Sinh một cách ý nghĩa nhất trong bầu khí chiến tranh chết chóc và đổ nát tại Siria hiện nay.

Bên Iraq Kitô hữu mừng lễ Giáng Sinh trong âu lo vì các căng thẳng, các cuộc khủng bố bằng bom và tấn kích vẫn tiếp tục. Đức Cha Shlemon Warduni, Giám Mục Phụ tá Baghdad, cầu mong lễ Giáng Sinh đem lại một chút hòa bình và ổn định cho Kitô hữu và nhân dân Irak đã phải sống trong các thử thách khó khăn và khủng bố kể từ năm 2003 tới nay. Vì tình hình thiếu an ninh nên các thánh lễ Giáng Sinh được cử hành lúc 7 giờ chiều thay vì nửa đêm.

Trong các nhà thờ tại thủ đô đều có trang hoàng hang đá và cây thông Giáng Sinh. Đức Cha Warduni cho biết các chia rẽ vẫn tồn tại trong ba vùng bắc trung nam Irak. Kitô hữu Irak cũng chờ đợi có vị Thượng Phụ mới sẽ được các Giám Mục Giáo Hội công giáo Canđê bầu trong phiên họp vào cuối tháng giêng năm 2013, thay thế Đức Hồng Y Emmanuel Delly nghỉ hưu. Giáo Hội Công Giáo Canđê là Giáo Hội có đông tín hữu nhất Irak, tuy trong các năm qua đã có hàng trăm ngàn người tìm di cư ra nước ngoài sinh sống. Đức Cha Louis Sako, Tổng Giám Mục Kirkuk, cho biết thật là quan trọng việc lựa chọn một vị tân thượng phụ có khả năng hiệp nhất các Kitô hữu, có các chương trình cải tổ mục vụ, phụng vụ và cơ cấu các giáo phận cũng như việc đào tạo các chủng sinh và giáo dân và tổ chức các cơ cấu của Tòa thượng phụ. Trên bình diện quốc gia người phải nắm giữ vai trò hòa giải nữa.

Từ Iraq chúng ta sang Nepal. Năm nay Kitô hữu có thể cử hành lễ Giáng Sinh mà không sợ các nhóm ấn giáo cuồng tín khủng bố. Từ ngày chấm dứt chế độ quân chủ hồi năm 2006 tới nay chính quyền Nepal đã khiến cho Giáng Sinh là ngày lễ nghỉ trên toàn nước để lôi cuốn các khách du lịch. Sự kiện này đã giúp Kitô giáo công khai trưng bầy các ảnh tượng và các trang hoàng hoa đèn trong các hàng quán, trong các nhà thờ và tại tư gia. Hiện nay số tín hữu công giáo Nepal được khoảng 10.000, tức gia tăng 4,000 so với năm 2006, khi Nepal tuyên bố trở thành quốc gia đời. Tự do tôn giáo đã cho phép các Kitô hữu công khai biểu lộ đức tin. Các nhà thờ đều loan báo chương trình lễ, dựng cây thông, làm hang đá, và treo đèn trang hoàng. Hàng trăm tín hữu, kể cả tín hữu Ấn giáo và Phật giáo chờ tham dự thánh lễ đêm Giáng Sinh trong nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hồn xác lên trời trong thủ đô Katmandu.

Từ nhiều năm qua tín hữu các tôn giáo khác cũng xin được tham dự các lễ nghi với tín hữu Kitô. Trong thánh lễ lần này có 24 tân tòng giới trẻ lãnh bí tích Rửa Tội. Họ là các tín hữu Ấn giáo xin gia nhập Công giáo. Cha Robin Rai cha sở nhà thờ chính tòa đã mời gọi tín hữu lãnh bí tích Hòa Giải và phổ biến sứ điệp Giáng Sinh cho mọi người trên toàn nước.

Trong các năm qua tại Nepal đã xảy ra các vụ khủng bố chống các Kitô hữu và các tôn giáo thiểu số do các nhóm Ấn giáo cuồng tín chủ mưu. Trầm trọng nhất là vụ đặt bom nhà thờ chính tòa Katmandu khiến cho 2 ngừơi chết và 13 người bị thương hồi năm 2009.

Sang đến Pakistan, năm nay Kitô hữu tại đây vui mừng tiếp đón tượng ”Chúa Giêsu Hài Đồng Praha”. Do sáng kiến của linh mục Emmnauel Parvez, cha sở giáo xứ thánh Phaolô tông đồ tại Pansara giáo phận Faisalabad, bang Punjab, cha Anastasio Roggero, dòng Cát Minh, giám đốc đền thánh Chúa Giêsu Hài Đồng Praha đã gửi một bức tượng sang Faisalabad. Tượng được đặt trong nhà nguyện ”Chúa Giêsu Hài Đồng Praha” của một làng quê, nơi có một số gia đình Kitô sinh sống về nghề nông và thợ thuyền.

Đức Cha Joseph Coutts, Tổng Giám Mục Karachi kiêm Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pakistan ưởc mong phổ biến lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng đặc biệt trong các trường học công giáo. Vì thế ngài đã mời các cha dòng Cát Minh đến Pakistan để giúp phát động phong trào tôn sùng này qua các buổi dậy giáo lý Chúa Nhật.

Lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng đã lan sang nhiều nước Á châu như: Ấn Độ, Singapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Mông Cổ. Và tại các nước này đều đã có các nhà thờ và nhà nguyên dâng kính Chúa Giêsu Hài Đồng Praha. Cha Roggero đi khắp nơi trên thế giới để phổ biến lòng tôn sùng này. Cách đây mấy tuần cha đã sang Ấn Độ và chủ sự thánh lễ tại Đền Thánh Chúa Giêsu Hài Đồng Bangalore với sự tham dự của 5.000 tín hữu.

Lòng tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng trong tu viện Cát Minh Praha bên Tiệp đã bắt nguồn từ cha Giovanni Ludovico của Đức Mẹ hồn xác lên trời, Tu viện trưởng, hồi năm 1628. Tượng Chúa Giêsu Hài Đồng mặc áo choàng đỏ, đầu đội triều thiên vàng, tay phải chúc lành tay trái cầm qủa địa cầu nhỏ.

Tại Sri Lanka Kitô hữu các vùng bị lụt đã không thể mừng lễ Giáng Sinh như thường lệ, vì đã có trên 6.300 người gồm gần 1800 gia đình bị di tản. Đó là dân chúng sống trong các quận: Galle, Matale, Mkandy, Nuwara Eliya, Polonnaruwa, Badulla, Baticaloa, Hambantota, Moneragala và Kurunegala. Hiện nay số người nói trên phải sống trong 29 trung tâm tiếp cư, đa số là các trường học, và các cộng đoàn. Cho tới nay mưa lũ đã gây khó khăn cho 20.000 người sống trong 6 trên tổng số 9 tỉnh của Sri Lanka, khiến cho 600 nhà bị phá hủy hay hư hại nặng. Nơi có đng người chết nhất là Matale miền trung Sri Lanka, là vùng vị lụt nặng nhất nước.

Tình trạng bão lụt tại đảo Mindanao bên Philippines cũng khiến cho bầu khí Giáng Sinh năm nay bớt vui, vì có hơn hơn 700 người chết, hàng chục người mất tích và hàng ngàn người không nhà không cửa. Đây là vùng có đa số dân theo Hồi giáo, nhưng cũng có một số nhỏ là Kitô hữu. Dân chúng đã bắt tay vào việc tái thiết ngay, nhưng dấu vết tàn phá của bão lụt còn ghi dấu trên nhà cửa và ruộng đồng vì cùng với nhà cửa người dân đã mất hết mùa màng.

Sang đến Malaysia thiểu số Kitô hữu có thể hài lòng mừng lễ Giáng Sinh, vì chính quyền đã hủy bỏ các hạn chế số người hành hương Thánh Địa, sau tranh luận dài giữa chính quyền và thiểu số Kitô hữu.

Malaysia là quốc gia có đa số dân theo Hồi giáo. Trước đây chính quyền cho phép các tín hữu Kitô, hồi giáo và Do thái tự do hành hương Thánh Địa. Sau đó chỉ cho phép mỗi năm 700 người đi hành hương, tức mỗi cộng đoàn tôn giáo chỉ có thể gửi một nhóm 40 người. Nhưng nay sự hạn chế này không còn nữa và giấy phép hành hương kéo dài 21 ngày.

Theo sau các vụ tranh cãi liên quan tới việc tín hữu Kitô cũng có quyền dùng từ Allah để gọi Thiên Chúa và các Kitô hữu đã thắng kiện, thiểu số Kitô Malaysia đã gặp các khó khăn, căng thẳng, bạo lực, kể cả các vụ tấn kích các nhà thờ và dinh thự Kitô. Cha Lawrence Andrew, cựu giám đốc Tuần san công giáo ”Người đưa tin Malaysia” bầy tỏ hài lòng vì các quyết định mới này của chính quyền, khiến cho tín hữu Kitô yên trí mừng lễ Giáng Sinh.

Tại Indonesia để mừng lễ Giáng Sinh, giới nhà giáo, linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh cũng như giới trẻ Kitô đã tham gia chiến dịch chống tham nhũng do Hội Đồng Giám Mục phát động. Nạn tham nhũng là một trong những thách đố cam go và cổ xưa nhất mà Giáo Hội và xã hội nước này phải đương đầu ngay từ thời hậu thực dân. Nạn tham nhũng lan tràn trong các cơ quan nhà nước và công quyền gây ra nhiều hậu qủa tai hại cho sự tiến triển xã hội và đất nước. Hiện nay có một nhóm thiện nguyện do linh mục Edy Purwanto và Linh Mục Royani Lim phát động trước lễ Giáng Sinh. Tham dự chiến dịch có cả các bác sĩ như bác sĩ Prastowo, các thương gia như ông Wisnu Rosariastoko và giáo sư như bà Wiwiek Widiarti.

Cha Adisusanto dòng Tên chuyên viên truyền thông cho biết cha ủng hộ chiến dịch chống tham nhũng này ngay lập tức vì nó thăng tiến công ích. Cách đây không lâu các Giám Mục Linh Mục và tín hữu Indonesia cũng đã phát động chiến dịch chống cai trị yếu kém và các dịch vụ buôn bán vô luân.

Sau cùng bên Nam Hàn bà tân tổng thống Park Geun Hye đã cho tái lập thói quen dựng cây thông Giáng Sinh trong vùng biên giới giữa hai miền Nam và Bắc Hàn, như dấu chỉ của tinh thần hòa giải, hòa bình và yêu thương giữa người dân hai bên. Thói quen này đã bị ngưng từ năm 2003. Ông Kim Min-Seok phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Nam Hàn cho biết cây thông Giáng Sinh khổng lồ được trang hoàng nhiều đèn sáng có mặt tại vùng biên giới từ ngày 22 tháng 12 cho tới ngày mùng 2 tháng Giêng năm 2013.

Linh Tiến Khải – Vietvatican  

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới

Ngày 25 tháng 12-2012 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chủ sự buổi đọc sứ điệp Giáng Sinh và ban phép lành toàn xá Urbi et Orbi cho thành Roma và toàn thế giới. Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã xuất hiện trên bao lơn chính giữa đền thờ thánh Phêrô giữa tiếng vỗ tay của gần 100 ngàn tín hữu và du khách hành hương.

Trước thềm đền thờ Thánh Phêrô có đội Cận vệ Thủy Sĩ và đại diện các binh chủng Italia dàn hàng chào danh dự. Ban quân nhạc đã cử hành quốc thiều Vaticăng và quốc thiều Italia.

Mở đầu sứ điệp Đức Thánh Cha nói: ”Veritas de terra orta est! Chân lý đã nẩy mầm từ trái đất” (Tv 85,12). Anh chị em của thành Roma và toàn thế giới thân mến, xin chúc tất cả anh chị em và gia đình anh chị em lễ Giáng Sinh tốt lành.

Trong Năm Đức Tin này tôi diễn tả lời chúc mừng Giáng Sinh của tôi với các lời này, trích từ một Thánh vịnh: ”Chân lý đã nảy mầm từ trái đất”. Trong văn bản thánh vịnh chúng ta thấy nó ở thể tương lai: ”Tình yêu và chân lý sẽ gặp nhau, công lý và hòa bình sẽ hôn nhau. Chân lý sẽ nẩy mầm từ trái đất và công lý sẽ nhìn xuống tự trời cao. Vâng chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái; công lý đi tiền phong trước mặt Người: mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85,11-14.

Hôm nay lời tiên tri này đã hiện thực! Nơi Đức Giêsu được sinh ra tại Bếtlêhem bởi Trinh Nữ Maria, thực sự tình yêu và chân lý đã hội ngộ, công lý và hòa bình đã giao duyên; chân lý đã mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Trích lời giải thích của thánh Agostino Đức Thánh Cha nói ”Chân lý ở trong cung lòng Thiên Chúa Cha đã mọc ra từ đất để ở cả trong cung lòng của một người mẹ. Chân lý đỡ nâng toàn thế giới đã mọc ra từ đất để được đỡ nâng bởi bàn tay phụ nữ… Chân lý mà các tầng trời không chứa nổi đã mọc lên từ đất để được đặt nằm trong một máng cỏ. Lợi lộc gì cho ai, khi một vì Thiên Chúa tự hạ mình đến thế? Chắc chắn là không phải cho chính Người, mà là lợi lộc lớn cho chúng ta, nếu chúng ta tin” (Sermones 185,1).

Tiếp tục sứ điệp Giáng Sinh 2012 Đức Thánh Cha nói: ”Nếu chúng ta tin” Đó là quyền năng của đức tin! Thiên Chúa đã làm ra tất cả, đã làm điều không thể được: đã trở thành thịt xác. Quyền năng tình yêu thương của Người đã thực hiện điều vượt qúa sự hiểu biết của con người: Đấng Vô Tận đã trở thành trẻ thơ, đã bước vào nhân loại. Thế nhưng vì Thiên Chúa ấy không thể bước vào trong tim tôi, nếu tôi không mở cửa cho Người. Cửa đức tin! Chúng ta có thể hoảng sợ trước sự toàn năng đảo ngược này. Quyền của con người tự khép kín chính mình đối với Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta sợ hãi. Nhưng này đây thực tại xua đuổi tư tưởng tối tăn mày, niềm hy vọng chiến thắng sự sỡ hãi: chân lý đã nẩy mầm! Thiên Chúa đã sinh ra! ”Trái đất đã trổ sinh hoa trái” (Tv 67,7). Phải, có một thửa đất tốt, một thửa đất thánh thiện, tự do khỏi mọi ích kỷ và khép kín. Trong thế giới có một vùng đất mà Thiên Chúa đã chuẩn bị đến ở giữa loài người. Một nơi ở cho sự hiện diện của Người trên thế giới. Vùng đất này hiện hữu, cả ngày nay, trong năm 2012 này, từ vừng đất này đã nảy sinh ra chân lý! Vì thế có hy vọng trong thế giới, một niềm hy vọng đáng tin cậy, cả trong những lúc và trong các hoàn cảnh khó khăn nhất. Chân lý đã nẩy mầm đem theo tình yêu, công lý và hòa bình.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã kêu gọi hòa bình cho các nước Siria, Thánh Địa, các nước Bắc Phi, Á châu, Mali, Nigeria, Congo, Kenya và các nước châu Mỹ Latinh. Ngài nói:

Phải, ước chi hòa bình mọc lên cho nhân dân Siria đang bị thương tích sâu đậm và chia rẽ vì một cuộc xung khắc không tha cho cả những người không phương thế tự vệ và gây chết chóc cho các nạn nhân vô tội. Một lần nữa tôi kêu gọi ngưng đổ máu, tạo dễ dãi cho việc trợ giứp các nggời tị nạn tản cư, và qua đối thoại tìm ra một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột.

Ước chi hòa bìmh nẩy mầm trên vùng đất nơi Đấng Cứu Thế đã sinh ra, và xin Người ban cho người Israel và người Palestin sự can đảm chấm dứt qúa nhiều năm chiến đấu và chia rẽ, và cương quyết bắt đầu con đường thương thuyết.

Tại các nước Bác Phi đang trải qua một thời kỳ chuyển tiếp sâu xa kiếm tìm một tương lai mới – đặc hiệt là tại Ai Cậo, miền đất được yêu thương và chúc phúc bởi thời thơ ấu của Chúa Giêsu – ước chi người dân cùng nhau xậy dựng các xã hội dựa trên công lý, tôn trọng tự do và phẫm gía của mọi người.

Rồi Đức Thánh Cha cầu chúc hòa bình cho Á châu như sau: Ước chi hòa bình nảy mầm trong Lục địa Á châu rộng lớn. Xin Chúa Giêsu Hài Đồng thương nhìn nhiều dân tộc sống trong các vùng đất này, và một cách đặc biệt những kẻ tin nơi Người. Ngoài ra, xin Vua Hòa Bình đưa mắt nhìn các vị tân lãnh đạo của Cộng hòa nhân dân Trung quốc vì nhiệm vụ cao cả đang chờ đợi họ. Tôi cầu chúc đại lục Á châu đánh giá cao phần đóng góp của các tôn giáo trong việc tôn trọng từng tôn giáo, và các tôn giáo góp phần vào việc xây dựng một xã hội liên đới, mưu ích cho dân tộc Trung Quốc cao qúy và toàn thế giới.

Ước chi lễ Giáng Sinh của Chúa Kitô tạo thuận tiện cho hòa bình trở lại với nước Mali và cho sự hòa hợp của nước Nigeria, nơi các vụ khủng bố tiếp tục gậy chết chóc cho các nạn nhân, đặc biệt giữa các kitô hữu. Xin Đấng Cứu Thế trợ giúp và an ủi các người tị nạn miền Đông Cộng hòa dân chủ Congo, và ban hòa bình cho Kenya nơi có các vụ khủng bố đẫm máu chống lại dân chùng và các nơi thờ tự.

Xin Chúa Giêsu Hài Đồng chúc lành cho đông đảo tín hữu cử hành Chúa bên châu Mỹ Latinh. Xin Người gia tăng nơi họ các nhân đức nhân bản và kitô, nâng đỡ những người bị bắt buộc phải bỏ gia đình và quê hương di cư, xin Người củng cố hàng lãnh đạo trong dấn thân phát triển và chống lại nạn tội phạm.

Anh em chị em thân mến, Tình yêu và chân lý, công lý và hòa bình đã gặp nhau và đã nhập thể nơi Con Người sinh ra bởi Đức Maria tại Bếtlêhem. Con Người ấy là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa hiện ra trong lịch sử. Việc sinh ra của Người là một mầm giống sự sống mới cho toàn thể nhân loại. Ước chi mọi vùng đất đều trở nên một vùng đất tốt, tiếp nhận và nảy mầm tình yêu, công lý và hòa bình. Xin kính chúc tất cả mọi người một lễ Giáng Sinh tốt lành.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chúc mừng Giáng Sinh bằng 65 thứ tiếng khác nhau, đầu tiên là tiếng Ý và sau cùng là tiếng Latinh. Ngoài các thứ tiếng Tây Ây và Đông Âu, cón có các thứ tiếng Slave và nhiều thứ tiếng khác kể cả tiếng Mông Cổ Maori và Guarani. Riêng vùng Á châu, ngoài các thứ tiếng Tagalog của Philippines, Thái Lan, Indonesia và Campuchia, Đức Thánh Cha đã chúc mừng lễ bằng các thứ tiếng Tầu, Nhật Bản, Đại Hàn, và Việt Nam.

Tiếp đến Đức Đức Hồng Y trưởng đẳng Phó tế tuyên bố Đức Thánh Cha sẽ ban phép lành toàn xá cho các tín hữu hiện diện cũng như theo dõi trên đài phát thanh và truyền hình. Rồi Đức Thánh Cha đã đọc các lời nguyện và công thức ban ơn toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới:

Chiều 24 tháng 12 đã có lễ nghi khai mạc hang đá tại quảng trường thánh Phêrô do Đức Hồng Y Angelo Comastri, Linh mục trưởng đền thờ Thánh Phêrô chủ sự, với sự tham gia của ca đoàn thiếu nhi và ca đoàn người lớn. Hang đá năm nay do vùng Basilicata tặng, gồm 100 bức tượng bằng đất sắt nung cao từ 22 tới 28 cm, được lồng khung trong phong cảnh nhà cửa lằm bằng chất liệu đặc thù của vùng này.

Vào lúc 6 giờ chiều Đức Thánh Cha đã thắp lên ”ngọn đèn hòa bình” và đặt ngoài cửa sổ phòng làm việc của ngài. Lửa được lấy từ ngọn đèn thằp từ lửa của ngọn đèn cháy trong Hang Đá Bếtlêhem, và được chuyền đến nhiều nước Âu châu.

Vào lúc sau 10 giờ tối đã có buổi hát Kinh thần vụ. Sau đó là thánh lễ đo Đức Thánh Cha chủ sự có sự tham dự của nhiều Hồng Y, Tổng Giám Mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ và 10 ngàn tìn hữu. Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã nêu bật tầm quan trọng của việc nhận ra Chúa Giêsu nơi các anh chị em di cư, tị nạn. Ngài cũng mời gọi tín hữu ”tỉnh thức” chống lại việc lạm dụng tôn giáo cho các mục đích nhân loại. Đức Thánh Cha nói: Vẻ dẹp luôn mới mẻ của thực tại Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa nhập thể làm người mời gọi tín hữu nhận ra Người để yêu thương và tiếp đón Người nơi các anh chị em đang cần được trợ giúp như các người di cư và tị nạn. Chúa đến gõ cửa tâm trí và cuộc sống chúng ta, nhưng thường khi chúng ta từ chối mở cửa và tiếp đón Người. Chúng ta thường đầy chính mình và không dành chỗ cho người khác, cho các trẻ em, cho người gnhèo túng, cho người khổ đau, các người ngoại kiều và những người bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Nhưng nơi đâu Thiên Chúa bị lãng quên, khước từ và hất hủi, thì nơi đó không có hòa bình.

Thật lầm lẫn chững trào lưu cho rằng tôn giáo là lý do của bạo lực, chiến tranh và bất khoan nhượng. Một tôn giao có thể bị bệnh và đưa tứi chỗ chống lại bản chất sâu xa nhất của nó, khi con người sử dụng dụng lèo lái tôn giáo các ý tưởng sai lầm của mình. Vì thế tín hữu phải tỉnh thức để ánh sáng của Thiên Chúa không bị tắt đi, vì nếu nó tắt đi, thì phẩm giá của con người cũng bị tắt ngấm. Đức Thánh Cha đã cầu xin cho ánh sáng đức tin chiếu soi trong đêm tối của tội lỗi và bạo lực. Xin Chúa cho con người ngày nay biết rèn gươm giáo thành lưỡi hái lưỡi cầy, cho sự trợ giúp các người hkổ đau thay thế các vũ khí chiến tranh. Xin Chúa soi sáng cho những người tin rằng phải thi hành bạo lực nhân danh Chúa, để họ hiểu ra sự vô lý của bạo lực và nhận biết gương mặt thật của Chúa. Lậy Chúa, xin giúp chúng con tái trở thành người theo hình ảnh của Chúa và như thế trở thành người của hòa bình.

Linh Tiến Khải – Vietvatican  

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH CÁC CHỨNG NHÂN CAN ĐẢM VÀ XÁC TÍN CỦA CHÚA

ĐỨC THÁNH CHA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH CÁC CHỨNG NHÂN CAN ĐẢM VÀ XÁC TÍN CỦA CHÚA

VATICAN: Trưa 26 tháng 12-2012 lễ kính thánh Stêphanô tử đạo, Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài mời gọi mọi người hãy noi gương thánh nhân trở thành các chứng nhân can đảm và xác tín của Chúa Giêsu Kitô.

Đức Thánh Cha nói: Phó tế Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên, đã là người tràn đầy ơn thánh. Được Chúa Thánh Thần linh hoạt, người đã hoạt động, ăn nói và chết làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa cho tới hiến tế cao độ. Thánh nhân đã thực hiện tràn đầy lời Chúa Giêsu hứa sẽ không bỏ rơi các tín hữu làm chứng cho Người trong các hoàn cảnh nguy hiểm khó khăn. Cuộc đời thánh nhân đã hoàn toàn được nhào nặn và đồng hình dạng với Chúa Kitô, và như Người thánh nhân biết tha thứ cho các kẻ thù của mình, đến độ xin Chúa đừng chấp tội họ.

Để cho Chúa Kitô lôi kéo như thánh Stêphanô đã làm, có nghĩa là rộng mở cuộc sống cho ánh sáng mời gọi, hướng dẫn và đi theo con đường sự thiện, con đường của một nhân loại theo chương trình tình yêu của Thiên Chúa. Thánh Stêphanô là mẫu gương của tất cả những ai muốn phục vụ công tác tái tryyền giảng Tin Mừng. Người chứng minh cho thấy sự mới mẻ của việc loan báo trước hết không hệ tại việc dùng các phương pháp và kỹ thuật độc đáo chắc chắn là hữu ích, nhưng là sự kiện được tràn đầy Chúa Thánh Thần và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sự mới mẻ của việc loan báo là chìm sâu trong mầu nhiệm của Chúa Kitô và nghiền gẫm Lời Người. Tóm lại, người loan báo Tin Mừng trở thành người có khả năng đem Chúa Kitô đến cho tha nhân một cách hữu hiệu, khi sống nhờ Chúa Kitô, khi sự mới mẻ của Tin Mừng được biểu lộ ra trong chính cuộc sóng của mình. Chúng ta hãy cầu nguyện để trong Năm Đức Tin này Giáo Hội trông thấy có nhiều người giống thánh Stêphanô biết làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô một cách can đảm và xác tín (RG 26-12-2012) Linh Tiến Khải – Vietvatican

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Hằng năm chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa giáng sinh xuống thế làm người.

Chúng ta tin như vậy. Nhưng biến cố Chúa Giêsu giáng sinh cách đây hơn hai ngàn năm đã xảy ra trong khung cảnh lịch sử của đời sống nhân loại.

Thánh sử Luca viết thuật trong phúc âm về biến cố lịch sử Chúa Giêsu sinh ra như sau: „Thời ấy, hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ„ ( Lc 2,1) ̣

Những lời này là mốc điểm cho lịch sử ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người. Nhưng thắc mắc đặt ra hoàng đế Augustus là ai? Tại sao Chúa Giêsu giáng sinh vào triều đại hoàng đế này, và có sự gì trùng hợp hay tương đồng không?

1. Hoàng đế Augustus

Augustus sinh ngày 23.09.63 trước Chúa giáng sinh ở Roma với tên Galius Octavius. Mẹ của Augustus, bà Atila, là cháu gái của Vua Caesar và của Octavius. Như thế Augustus là cháu gọi Julius Caesar bằng ông, và trong khế ước thừa tự Ông đã nhận Augustus là con nuôi và là người thừa tự chính gia tài của mình.

Năm 42. trước Chúa giáng sinh Augustus thỏa thuận với Antonius cai trị phần phía Tây, còn Antonius phần phía Đông đế quốc. Nhưng sau đó Augustus lại tranh chấp với Antonius, và sau cùng đánh thắng Antonius cùng nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập năm 31. trước Chúa giáng sinh ở Actium. Từ lúc đó Augustus một mình trở thành người cai trị toàn cõi đế quốc Roma.

Ngày 16.01.27 trước Chúa giáng sinh Thượng viện (Sena) ̣ Roma trao tặng danh hiệu Augustus cho ông, tiếng Hylạp là Sebastos, Vị đáng kính tôn thờ, cũng như nhiều danh dự khác nữa, cùng tước hiệu danh dự về những nhân đức virtus- Can đảm, clementia – nhân từ, iustitia – công chính, và pietas – người có trách nhiệm. Từ lúc đó Ông có tên chính thức: Imperator Caesar divi filius Ausgustus – Hoàng đế Augustus, con của thần linh Caesar.

Ngoài ra Ông còn có danh hiêụ là vị cứu tinh ( Soter) , mà trong bản văn kinh thánh Cựu ước tiếng Hy Lạp danh xưng này chỉ dành cho một mình Thiên Chúa.

Augustus là vị hoàng đế Roma thứ nhất và cai trị thiên hạ từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Năm 12. trước Chúa giáng sinh Augustus được tuyên xưng bầu chọn là Pontifex maximus.

Năm 2. trước Chúa giáng sinh, vào thời điểm năm này Chúa Giêsu giáng sinh làm người, Augustus nhận thêm danh hiệu Pater patriae – người cha dân tộc.

Ngày 19.08. năm 14 sau Chúa giáng sinh Augustus băng hà ở Nola, và được công nhận tuyên dương là Vị Thần linh đất nước.

Tháng thứ 8. trong năm từ năm 8. trước Chúa giáng sinh có tên Augustus đặt theo tên của hoàng đế Augustus, để nhắc nhớ lại vào tháng này Ông trở thành vị Toàn quyền thứ nhất của đế quốc Roma.

2. Khung cảnh lịch sử

„Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần , Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm người.“ (Kinh tin kính.)

Lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Hội Thánh về Chúa Giêsu, mà chúng ta đọc hằng tuần theo ý nghĩa đạo đức thần học. Nhưng trong lời tuyên xưng đức tin đó còn gói ghém, hay đúng hơn sân khấu lịch sử đời sống, lúc Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian, đã diễn ra vào thời điểm lúc đó.

Sân khấu lịch sử đó là đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Augustus bao rùm khắp Âu Châu, sang tận miền Tiểu Á Châu, vùng Trung Đông, nơi quê hương Do Thái của Chúa Giêsu.

Hoàng đế Augustus được xưng tụng là vị cứu tinh mang lại hòa bình cho thiên hạ. Và chính ông đã cho lập Ara Pacis Augusti – Bàn thờ hòa bình của Augustus, ở tại Roma, mà ngày nay còn sót lại di tích để khảo cứu.

Rồi ngày sinh ra của Hoàng đế Augustus , ngày 23.09. cũng được cắt nghĩa theo ý nghĩa là người sinh ra để kiến tạo mang hòa bình cho nhân loại. Và ngày sinh ra của hoàng đế Augustus cũng được hiểu là ngày xoay chuyển sang mốc chặng thời gian mới khác. Theo phân chia thay đổi thời tiết thiên nhiên bốn mùa bên xứ lạnh Âu châu, Bắc Mỹ châu, ngày 23.09. hằng năm là ngày mốc điểm từ mùa Hè chuyển sang mùa Thu

Thánh Luca trong phúc âm đã tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh lồng trong khung cảnh lịch sử mọi người trong đế quốc Roma thời đó theo lệnh hoàng đế Roma phải trở về quê quán của mình mà khai tên trong sổ bộ thuế khóa. (Lc 2,) ̣

Đức giáo hoàng Benedicktô XVI. đã có nhận xét về khung cảnh lịch sử Chúa Giêsu giáng sinh: Thánh Luca trong tường thuật đã nói đến hoàng đế Augustus của đế quốc Roma và lời công bố toàn dân trở về quê quaăn cũ của mình khai tên vào sổ bộ mang chiều kích tập hợp đại kết, đồng thời như một khung lịch sử và thần học cho những biến cố được thuật lại. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 73.)

3. Chúa Giêsu sinh ra làm người

Thánh sử Matthêu viết về nguồn gốc gia phả của Chúa Giêsu: Từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là 14 đời. Từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời. Và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,1-17).

Ngài sinh ra trong đất nước Do Thái, ở Bethlehem (Lc 2,) ̣Như thế quê hương quốc tịch của Chúa Giêsu là đất nước Do Thái, Ngài là công dân Do Thái.

Chúa Giêsu có tên thật là J.hosua hoặc Jesua hoặc Jesu (nếu là tiếng Aramê). Tên này có nghiã là: “Giavê là sự cứu độ” hay “Giavê ban ơn cứu độ”. Giêsu không phải là một tên gọi đặc biệt và mới lạ của riêng Chúa Giêsu, nhưng là tên gọi khá thông dụng và rất được ưa chuộng vào thời đó.

Về ngày sinh ra cùng năm sinh của Chúa Giêsu không có sử sách nào ghi lại. Chỉ biết trước khi đạo Công giáo truyền sang đế quốc Roma, từ thời xa xưa ở nhiều nền văn hóa dân gian, ngày 25.12. là một ngày đặc biệt, là ngày bản lề chuyển tiếp sang mùa Đông với thời tiết gía lạnh cùng tối tăm. Theo văn hóa người Roma, họ kính thờ Thần Saturn, vị Thần mặt Trời không hề bị chiến thắng vào ngày này.

Những tín hữu Chúa Kitô từ năm 217 sau Chúa Giáng sinh, dưới thời Đức giáo hoàng Hippolytus, Giáo Hội Công giáo thành Roma đã tìm cách lấy ngày này thay vì thờ thần mặt trời theo nghi lễ xã hội của dân ngoại Roma, làm ngày mừng sinh nhật Chúa Giesu sinh xuống làm người trên trần gian.

Hội Thánh Công giáo muốn „rửa tội“ ngày 25.12. theo nghi lễ tôn giáo dân ngoại Roma, thành ngày lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người, Đấng là Mặt Trời công chính thay cho Thần mặt trời không hề bị chiến thắng của dân Roma.

Tiến trình cố gắng này kéo dài cùng nhiều thử thách tưởng chừng như thất bại. Nhưng đến thế kỷ thứ 4. khi đạo Công giáo được chính thức công nhận trong toàn đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Constantino, cố gắng „rửa tội“ ngày thờ thần mặt trời theo nghi lễ ngoại đạo thành ngày theo nghi lễ đạo Công giáo mới chính thức thành công được công nhận.

Và cho đến thế kỷ thứ 8. sau Chúa Giáng sinh, ngày 25.12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu trở thành ngày lễ chung cho Hội Thánh Công giáo trên hoàn cầu.

Căn cứ theo Phúc âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng chân thật đến trong trần gian (Ga 8,9), ̣ và theo sách Tiên tri Maleachi, Chúa Giêsu, Đấng Mặt Trời công chính (3,2). Nên „rửa tội“ lấy ngày 25.12. theo ý nghĩa văn hóa của dân Roma ngày xưa cho trở thành ngày kính thờ Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời đến trong trần gian là điều rất thuận tiện thích hợp cùng phải lẽ và chính đáng.

Chúa Giêsu sinh ra vào một thời gian nhất định trong khung cảnh lịch sử xã hội thời hoàng đế Roma Augustus ra chiếu chỉ toàn dân về quê quán cũ khai tên tuổi. Và lúc Chúa Giêsu ra giảng đạo loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cũng vào thời điểm nhất định, năm thứ 15. thời hoàng đế Teberius cai trị đế quốc Roma. (Lc 3,1.) ̣

Chúa Giêsu không phải là một nhân vật thần thoại sinh ra và xuất hiện vào một lúc naầo đó. Ngài là một con người thuộc vào một thời gian chính xác được sử sách ghi chép lại và vào một không gian hình thể địa lý chính xác: điểm hoàn vũ và điểm cụ thể cùng chung hợp gặp gỡ nối kết với nhau.

Nơi Ngài thể hiện Logos ( Ngôi Lời) trong ý nghĩa sáng tạo của mọi sự vật đã đi vào cuộc sống trần gian. Logos muôn thuở đã trở thành người trong mối tương quan không gian và thời gian. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 74.)

4. Giữa hai nhân vật lịch sử

1. Triều đại

Augustus là một vị hoàng đế của đế quốc Roma từ 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Chúa Giêsu cũng là một vị Vua, như Ngài đã xác nhận về mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. (Ga 18,36). Triều đại của Vua Giêsu là lòng con người không có biên giớ về hình thể địa lý cũng như thời gian và bao trùm hết mọi con người. ̣

2. Sứ mạng

Hoàng đế Augustus ban hành chiếu chỉ sắc lệnh được mệnh danh Eu-Angelion: tin mừng. Cho dù chiếu chỉ sắc lệnh của hoàng đế tốt hay không tốt.

Trong ý ngĩa và mục đích đó, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu cũng là Tin mừng ơn cứu độ được loan báo cho muôn dân gian vào mọi thời đại.

3. Đích điểm đạt tới

Hoàng đế Augustus đã thành công trong việc chấm dứt nội chiến trong đế quốc Roma thời đó và mang lại nền hòa bình trong xã hội đế quốc Roma do Ông cai trị, Pax Romana.

Chúa Giêsu cũng là người mang hòa bình đến trong trần gian, như chính Ngài xác nhận: Ngài là sự hòa bình. Nền hòa bình mà trần gian không thể cho được. ( Ga 14, 23-31), Pax Christi.

Hoàng đế Augustus dựa vào quyền lực sức mạnh trần gian.

Còn Chúa Giêsu là vị thủ lãnh dựa trên sức lực quyền uy tinh thần.

4. Người Cha

Hoàng đế Augustus được Senat trao tặng danh hiệu Pater Patriae, người cha tổ quốc.

Chúa Giêsu cũng là một người cha. Ai tin vào Ngài , người đó trở thành con Thiên Chúa. Trong dụ ngôn cỏ lùng ở Phúc âm Thánh Mattheo ( 13, 36-38) ̣ Chúa Giêsu đã gọi những hạt giống tốt trong nước Ngài là con Thiên Chúa.

5.Con Thiên Chúa

Hoàng đế Augustus đã để cho mình được xưng tụng tôn thờ là vị thần linh ở phần phía đông đế quốc Roma.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian và luôn luôn được xưng tụng là Con Thiên Chúa.

6. Những người cùng đồng hành

Hoàng đế Augustus năm giữ quyền hành như một vị toàn quyền tối cao duy nhất. chung quanh ông có 12 vị quân sư phục vụ quyền bính cho hoàng đế.

Chúa Giêsu trái lại kêu gọi thu tập 12 Môn đệ không phải để phục vụ cho quyền bính của mình, nhưng họ sẽ là những người tiếp tục sứ mạng của Chúa ra đi rao giảng nước Thiên Chúa trong trần gian.

******************

Augustus sinh ra làm vua cai trị dân thiên hạ trong đế quốc Roma dựa trên quyền lực sức mạnh của tiền bạc, luật lệ cùng vũ khí.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra trong trần gian không dựa trên sức mạnh thế lực đó, nhưng trên nền tảng sức lực tinh thần yêu mền cùng mang ơn cứu độ cho con người.

Con người là trung tâm điểm sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã sinh xuống làm người như mọi người.

Ơn cứu độ giải thoát cho con người khỏi hình phạt tội lỗi là sứ mạng chính yếu Thiên Chúa Chúa muốn mang đến. Chính vì thế Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người mang ánh sáng ơn tha thứ hòa bình xuống trần gian.

Trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Thiên Chúa, con người là cao điểm của công trình. Chính vì thế Chúa Giêsu là Logos sáng tạo vĩnh cửu của Thiên Chúa đã trở thành người trong công trình sáng tạo này.

Con Thiên Chúa làm người, để con người giữ địa vị làm người của mình.

Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh 2012

Lm. Đa-minh Nguyễn Ngọc Long  

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-17 đến 12-22-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-17 đến 12-22-2012

Trích từ Xuân Bích VN

Ca ngợi phán quyết của quan toà về sắc lệnh HHS và phê bình tờ New York Times.Nổi giận trước sự thụ động trong các đàm phán của LHQ về khí hậu.11 nữ tu Anh giáo gia nhập Giáo Hội Công Giáo thông qua Giáo Hạt Tòng Nhân.Chính phủ Pháp thông báo điều tra SSPX.Giai đoạn mới trong tiến trình phong Chân phước cho Đức Phaolô VI . –Thủ lĩnh Hồi giáo Si-ai phát động fatwa: Kitô hữu Iraq hoặc cải đạo hoặc chết. –Lần đầu tiên truyền chức cho một linh mục khiếm thính ở Canada.Sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Các Ơn Gọi. –Vận động chống lại các chính trị gia ủng hộ dự luật Sức khoẻ Sinh Sản (RH).Mời gọi các chủng sinh hãy là những con người của cầu nguyện khiết tịnh. –BỔ NHIỆM MỚI.Tổng thống Palestine thăm Vatican.Hiệp ước Toà Thánh – Cộng Hoà Trung Hoa (Đài Loan).Những người tham gia chiến dịch quyền đồng tính phản đối tại Vatican.Chống lại nỗ lực công nhận hôn nhân đồng tính của chính phủ Anh.Dân Số thế giới : 32% Kitô giáo; 23% Hồi giáo.Duy trì lệnh cấm hiến máu đối với những người đồng tính.Ái Nhĩ Lan : dự án luật cho phép phá thai với một số điều kiện nhất định.Linh mục người Ấn đối mặt với cáo buộc buôn người.Khuyến khích tín hữu Công giáo hết lòng đón nhận Giáo hạt Tòng Nhân Anh giáo.Toà thượng thẩm chỉ thị chính quyền Obama viết lại sắc lệnh HHS.Nguyên tắc chỉ đạo cho hôn nhân Kitô giáo – Hồi giáo ở Anh.Các sắc lệnh của Thánh Bộ Phong Thánh. (Xem chi tiết . . . TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 12-17 đến 12-22-2012 ) –

Hãy viếng thăm các người đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em

Hãy viếng thăm các người đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em

Trong mùa Giáng Sinh nay chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria thăm viếng những ai sống trong cảnh khó khăn, cách riêng các anh chị em đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khuyến khích như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với hàng ngàn tín hữu tu tập quanh hang đá khổng lồ tại quảng trường thánh Phêrộ trưa Chúa Nhật 23 tháng 12-2010.

Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa Phúc Âm Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng, kể lại biến cố Đức Maria viếng người bà con là bà Elidabét, đang mang thai thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Thánh Cha nói: giai thoại này không chỉ diễn tả một cử chỉ lễ phép đơn sơ, nhưng biểu thị một cách rất đơn sơ sự gặp gỡ giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thật thế, cả hai phụ nữ đều mang thai nhập thể sự chờ mong và Đấng được trông đợi. Đức Thánh Cha giải thích cảnh này như sau:

Bà Elidabét cao niên biểu tượng cho dân Israel đang trông chờ Đấng Cứu Thế, trong khi Đức Maria trẻ tuổi mang trong mình việc thành toàn của sự chờ mong ấy lợi ích cho toàn nhân loại. Nơi hai phụ nữ gặp nhau và nhận biết nhau trước hết các hoa trái lòng họ, là thánh Gioan và Đức Kitô. Pudenzio, thi sĩ kitô, chú giải rằng: ”Qua miệng của thân mẫu mình trẻ thơ trong cung lòng già nua chào mừng Chúa Con của Đức Trinh Nữ” (Apotheosis 590: PL 59,970). Nỗi sướng vui của Gioan trong lòng bà Elidabét là dấu chỉ việc thành toàn của sự trông đợi: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Người. Trong biến cố Truyền Tin tổng lãnh thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria về việc bà Elidabét mang thai (x. Lc 1,36) như là bằng chứng quyền năng của Thiên Chúa: sự hiếm muộn, mặc dù ở tuổi đã cao, đã biến thành sự phong phú.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: khi đón tiếp Đức Maria, bà Elidabét nhận ra rằng lời Thiên Chúa hứa với nhân loại đang được hiện thực và bà kêu lên: ”Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ, và người con em đang mang trong lòng cũng được chúc phúc! Bởi đâu tôi đựơc Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như thế này?” (Lc 1,42-43). Tầm nguyên lời chào này của bà Elidabét Đức Thánh Cha nói:

Trong Thánh Kinh Cựu Ước kiểu nói ”Em có phúc hơn mọi phụ nữ” được quy chiếu cho bà Giaele (Tl 5,24) và bà Giuđíchtha (Gđ 13,1), là hai phụ nữ chiến sĩ, dấn thân cứu dân Israel. Giờ đây trái lại, nó được hướng tới Đức Maria, là thiếu nữ hòa bình sắp sinh hạ Đấng Cửu Thế của thế giới. Như vậy sự nhảy mừng của Gioan (x. Lc 1,44) nhắc nhớ vũ điệu vua Đavít đã múa, khi hộ tống Hòm Bia Giao Ước vào thành Giêrusalem (x. 1 Sb 15,29). Hòm Bia chứa đựng Lề Luật, bánh manna và cây gậy của Aharon (x. Dt 9,4), đã là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Trẻ Gioan sẽ sinh ra nhảy mừng trước Đức Maria, Hòm Bia của Giáo ước mới, Đấng mang trong lòng Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người.

Đức Thánh Cha giải thích thêm ý nghĩa cảnh Đức Maria viếng thăm bà Elidabét: Cảnh viếng thăm cũng diễn tả vẻ đẹp của sự tiếp đón: ở đâu có sự tiếp đón nhau, lắng nghe nhau, và dành chỗ cho người khác, thì ở đó có Thiên Chúa và niềm vui đến từ Thiên Chúa. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria trong mùa Giáng Sinh này, bằng cách viếng thăm những người đang sống cảnh khó khăn, cách riêng các anh chị em đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em. Và chúng ta cũng hãy bắt chước bà Elidabét tiếp đón khách trọ như tiếp đón chính Thiên Chúa: không ước ao Người chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết Chúa, không chờ đợi Chúa chúng ta sẽ không bao giờ gặp gỡ Người, không kiếm tìm Chúa chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy Người. Với cùng niềm vui của Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Elidabét (x. Lc 1,39), cả chúng ta nữa cũng hãy đi gặp Chúa đến. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho tất cả mọi người tìm kiếm Thiên Chúa, bằng cách khám phá ra rằng chính Thiên Chúa đến thăm chúng ta trước. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria, Hòm Bia của Giáo Ước Mới và Vĩnh Cửu, trái tim chúng ta để Mẹ làm cho nó trở nên xứng đáng hơn tiếp đón sự viếng thăm của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng Sinh.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài đã chúc mọi người một lễ Giáng Sinh thánh thiện, an bình và hạnh phúc. Bằng tiếng Pháp Đức Thánh Cha nhắn nhủ tín hữu vượt xa hơn các chuẩn bị bề ngoài và khía cạnh hời hợt, để đi theo Mẹ Maria trong sự cầm trí thinh lặng.

Trong tiếng Anh ngài mời gọi mọi người dành chỗ trong con tim cho Thiên Chúa. Trong tiếng Tây Ban Nha ngài kêu gọi chia sẻ niềm vui Giáng Sinh cho nhau.

Bằng tiếng Ba Lan ngài đặc biệt hướng tới các anh chị em cô đơn, đau yếu hay phải đương đầu với các khó khăn của cuộc sống và cầu chúc họ được an bình, hơi ấm và tình thương. Với tất cả ngài cầu chúc niềm hy vọng, sự tha thứ và hòa giải.

Linh Tiến Khải

XIN CHÚA CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI

XIN CHÚA CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI

Mọi tín hữu Công Giáo đều tha thiết với kinh Kính Mừng, được chúng ta đọc hằng ngày  để lần chuổi Mân Côi. Phần đầu của kinh Kính Mừng được tạo ra bằng cách tháp ghép lời chào mừng của sứ thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Mẹ Maria:

– ” Mừng vui lên , hởi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà ” ( Lc 1, 28)

và lời chúc tụng của bà  Elisabeth, khi Đức Mẹ Maria đến thăm bà:

– ” Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” ( Lc 1, 42).

Đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật lại cho chúng ta biến cố vừa kể, biến cố  Đức Mẹ Maria đến viếng thăm người chị họ là bà Elisabeth, khi Đức Mẹ vừa được thiên sứ truyền tin Mẹ sẽ mang thai Chúa Giêsu.

Để nói lên  tính cách long trọng của biến cố Chúa Giêsu đến trong cung lòng Mẹ Maria, để nhập thể làm người, Thánh Luca diễn tả các chi tiết về thời điểm  liên quan đến biến cố, như Ngài đã làm đối với ơn gọi và sứ mạng của Thánh Gioan Tẩy Giả, mà chúng ta đã có dịp suy niệm cách đây hai Chúa Nhật. Để diễn tả biến cố truyền tin cho Đức Mẹ, Thánh Luca ghi lại thời điểm và nơi chốn:

– ” Khi bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilea, gọi là Nazareth, gặp một Trinh Nữ đã hứa hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David, Trinh nữ ấy tên là Maria” ( Lc 1, 26-27).

Và để diễn tả bối cảnh bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Đức Mẹ đến viêng thăm người chị  bà con Elisabeth, Thánh Luca ghi lại:

– ” Hồi ấy bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda. Bà vào nhà ông Zaccaria chào hỏi bà Elisabeth” ( Lc 1, 39-40).

Theo bước chân của Mẹ Maria, chúng ta cũng đến chào bà Elisabeth và nghe được phản ứng của bà:

– ” Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng, bà được tràn đầy Chúa Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được phúc hơn mọi người nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” ( Lc 1, 41-43).

Chúng ta tự hỏi làm sao chỉ qua một lời chào hỏi đơn sơ của Mẹ Maria, bà Elisabeth đã cảm nhận được chúc phúc và tràn đầy Chúa Thánh Thần. Câu trả lời có lẽ chúng ta tìm được  ở đoạn Phúc Âm trước đó, khi thiên sứ  Gabriel truyền tin cho Mẹ Maria. Với câu nói của  Đức Mẹ:

– ” Vâng , tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38),

Mẹ Maria được Thiên Chúa  ở với Mẹ, Mẹ được tràn đầy ơn Thiên Chúa và quyền năng Thiên Chúa che chở Mẹ:

– ” Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà…” ( Lc 1, 35).

Hiểu được trạng thái đầy ân sủng của Mẹ Maria, chúng ta hiểu được tại sao bà Elisabeth cảm nhận được Chúa chúc phúc qua lời chào của Mẹ và Thánh Gioan cũng vui sướng nhảy mừng trong bụng mẹ. Cách hành xử của Mẹ Maria cho chúng ta mẫu gương để suy niệm.

A – Trước hết vừa khi được thiên sứ báo tin Mẹ sẽ thụ thai Chúa Giêsu, tràn đầyân sủng của Thiên Chúa, “và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”, như vừa kể, Mẹ Maria liền

– ” vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda “

để thăm người chị bà con Elisabeth, vì sứ thần đã báo cho Mẹ:

– ” Bà hãy xem bà Elisabeth, người họ hàng với bà, tuy tuổi đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai ” ( Lc 1, 36).

Mẹ Maria đến thăm người chị bà con để được tận mắt chứng kiến những gì ân sủng Thiên Chúa đang thực hiện nơi bà Elisabeth. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải  biết nhìn ân sủng Chúa ban cho nơi người khác, nơi anh chị em chúng ta để cảm tạ và cùng với họ cảm tạ những kỳ công mà Thiên Chúa không ngừng ban xuống cho anh chị em nhân loại chúng ta.

Kế đến thái độ ” vội vã lên đường ” của Mẹ Maria cũng là mẫu gương cho chúng ta suy niệm. Mỗi người Kitô hữu chúng ta được ơn gọi biết Chúa, sống trong ân sủng của Chúa, được sống thân tình với Chúa Giêsu trong Thánh Thể và được hiểu biết Chúa qua lời Người giảng dạy.

Tất cả những điều đó, cuộc sống Ki Tô hữu của chúng ta, là những nén bạc Chúa giao cho. Chúng ta không nên ” điềm nhiên toạ thị”, dững dưng, sống như không có một người nào khác trong xã hội, đem nén bạc chôn giấu như người đầy tớ bất trung, mà là làm cho nén bạc sinh lợi ( Lc 19, 12-27)

Nói cách khác, mỗi người Ki Tô hữu, mỗi cuộc sống Ki Tô hữu là một ơn gọi truyền giáo, chúng ta đã nhận được ngay từ lúc chúng ta nhận phép Rửa Tội. Hãy biết ” vội vã lên đường “,  đem Tin Mừng ơn cứu rỗi của Chúa Giêsu đến cho anh em, làm cho anh em cũng được ” tràn đầy Chúa Thánh Thần” như Đức Mẹ đã làm cho bà Elisabeth. Tư cách đó của Mẹ Maria một lần nữa được thể hiện rõ rệt trong lời nguyện Magnificat, Mẹ dâng lên để cảm tạ Chúa, trong chiều hướng hướng thượng để tỏ lòng biết ơn:

– ” Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi. Phận tỳ nữ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay muôn đời sẽ ngợi khen tôi diễm phúc” ( Lc 1, 47-48).

Nhưng đồng thời Mẹ Maria cũng báo cho mọi người biết phúc đức mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, do tình thương bao la đại lượng của Người. Người ban nhưng không cho Mẹ cũng như ơn cứu rỗi Người đem đến nhưng không cho chúng ta, để tất cả chúng ta cùng Mẹ Maria cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa:

– ” Phận tỳ nữ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ” ( Lc 1, 48).

Mỗi người chúng ta được Chúa gọi trở thành Ki Tô hữu một cách nhưng không, chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria biết khiêm tốn cảm tạ Chúa và trở thành ngôn sứ, đem ân sủng đó cho tất cả anh em.

B – Kế đến Mẹ Maria là mẫu gương cho cuộc sống đức tin.

Sau một vài câu nói nghi ngờ, trước sự xuất hiện bất thần của thiên sứ Gabriel, Mẹ Maria cúi đầu vâng phục, tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào ý muốn của Thiên Chúa:

– ” Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói ” ( Lc 1, 38).

Mẹ Maria tin cậy và phó  thác hoàn toàn con người của mình vào bàn tay quyền năng và tình Cha con của Thiên Chúa, để Ngài xử dụng Mẹ trong chương trình của Ngài. Lòng tin đó không phải là sự  cuồng tín mù quáng, mà là tin vào lời của Chúa hứa như những gì Người đã làm trong Cựu  Ước và được thiên sứ lập lại:

– ” Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( Lc 1, 37).

Chính lòng tin cậy, phó thác và  cộng tác của con người mới làm cho ý muốn và  quyền năng của Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử  của chúng ta, lịch sử của từng người một cũng như lịch sử của xã hội nhân loại. Một vị thánh tiến sĩ Giáo Hội, Thánh Toma dAquino đã nói:

– ” Thiên Chúa sinh ra chúng ta không cần có chúng ta, nhưng Thiên Chúa không thể cứu chúng ta, nếu không có chúng ta “.

Muốn chúng ta được cứu rỗi và  đem ơn cứu rỗi đó đến cho anh em, Thiên Chúa cần có chúng ta.

Mẹ Maria được Thiên Chúa chúc phúc, có Thiên Chúa ở với Mẹ như  lời thiên sứ Gabriel chào mừng:

– ” Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” ( Lc 1, 28).

Nhưng phúc đức của Mẹ không những vì Thiên Chúa dành cho Mẹ nhiều ân sủng, so với các phụ nữ khác , mà vì Mẹ biết tin cậy, phó thác và cộng tác tích cực với ý muốn của Thiên Chúa:

– ” Vâng , tôi đây tỳ nữ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói “.

Và ” vội vã lên đường ” đem  Tin Mừng và hồng ân của Chúa đến cho anh em. Đó là cách hành xử chứng tá  đức tin của Mẹ Maria. Cách hành xử đó làm cho Mẹ  còn trổi vượt hơn, phúc đức hơn  cả những đặc ân Thiên Chúa dành cho Mẹ từ lúc đầu. Đó là những gì Chúa Giêsu sẽ xác nhận sau nầy, khi một phụ nữ nghe lời giảng khôn ngoan của Ngài, lên tiếng ngợi khen Mẹ Ngài:

– ” Khi Chúa Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa với Người: Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm “. – ” Đúng hơn phải nói rằng, Chúa Giêsu đáp lại, phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” ( Lc 11, 27-28).

Và đó là những gì Giáo Hội dạy chúng ta một cách ngắn gọn trong những lời  đầu của Kinh Tin Kính bằng La Ngữ:

– “Credo in Unum Deum Patrem Omnipotentem” (Con tin cậy và phó thác vào: Credo in…) một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng…

Ước gì mỗi lần đọc Kinh Tin Kính, chúng ta nhớ đến gương tin cậy và phó thác đi liền với sự nỗ lực cộng tác  của Mẹ Maria.

Nguyễn Học Tập

HỘI HIỆP SĨ COLOMBO NEWTOWN PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH LẦN HẠT MÂN CÔI CẦU NGUYỆN CHO GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ THẢM SÁT

HỘI HIỆP SĨ COLOMBO NEWTOWN PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH LẦN HẠT MÂN CÔI CẦU NGUYỆN CHO GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ THẢM SÁT

NEWTOWN CONECTICUT: Trong những ngày vừa qua Hội Hiệp Sĩ Colombo giáo xứ thánh Rosa thành Lima tỉnh Newtown đã phát động chiến dịch toàn Hoa Kỳ lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho gia đình các nạn nhân vụ thảm sát tại trường tiểu học ngày 14 tháng 12-2012.

Ông Tim Haas, đại hiệp sĩ, cho biết đây là cách thức tưởng niệm các vị thánh vô tội đã bị sát hại: 12 bé gái và 8 bé trai. Cần phải cầu nguyện nhiều cho gia đình các em thắng vượt giai đoạn khó khăn hiện nay. Hội Hiệp Sĩ Colombo xin mỗi người tham gia chiến dịch cầu nguyện đọc ba kinh Kính Mừng cầu cho ba ý chỉ: thứ nhất cho các nạn nhân và gia đình họ, thứ hai cho các giáo viên và thứ ba cho người dân thành phố có can đảm chịu đựng cái tang đau đớn này và dấn thân làm cho thế giới này trở nên tốt lành hơn. Ông nói Kinh Mân Côi có sức mạnh củng cố đức tin của chúng ta. Ngày 19 tháng 12-2012 chỉ nội trong 24 giờ đã có hơn 60,000 kinh Kính Mừng được đọc theo các ý chỉ này.

Bà chị của cha Luke, linh mục chánh xứ giáo xức thánh nữ Rosa thành Lima Newtown thì xin mọi người cũng nhớ cầu nguyện cho em của bà và các linh mục khác trong tỉnh Newtown. Trong mấy ngày qua mỗi ngày cha Luke phải cử hành hai đám táng. Trong tuần vừa qua đã có 8 đám táng. Ông Haas cho biết trong đám táng các bà mẹ các em đã làm chứng cho tình yêu thương của họ đối với con cái họ, và tuy đau đớn nhưng họ thông truyền cho mọi người tình yêu thương đó. Nỗi đớn đau mất con của họ cũng giống nỗi đớn đau của Mẹ Maria nất Chúa Giêsu.

Theo ông kinh Kính Mừng là câu trả lời tốt nhất cho sự dữ. Khi trở thành hiệp sĩ Colombo mỗi thành viên cũng nhận được tràng hạt Mân Côi và ít nhất mỗi tuần phải lần hạt một lần. Ông nói: lần hạt Mân Côi, tham dự thánh lễ, rước Mình Thánh Chúa và xưng tội là các món qùa giúp chúng ta đương đầu với các tình trạng đau buồn như hiện nay.

Ngày 21 tháng 12-2012 lại xảy ra một vụ giết người khác tại Pensylvania làm cho 4 người thiệt mạng kể cả thủ phạm. Trong các ngày qua đã có hơn 400 ngàn người ký thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền Hoa Kỳ hạn chế bán các loại vũ khí chiến tranh (CNA 21-12-2012). Linh Tiến Khải – Vietvatican

ĐỨC THÁNH CHA ÂN XÁ CHO ÔNG PAOLO GABRIELE

ĐỨC THÁNH CHA ÂN XÁ CHO ÔNG PAOLO GABRIELE

VATICAN: Trong buổi họp báo sáng ngày 22-12-2012 Cha Federico Lombardi giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ân xá cho ông Paolo Gabriele cựu quản gia.

Cha Lombardi nói với các nhà báo rằng: ”Sáng nay Đức Thánh Cha Biển Đừc XVI đã vào tù thăm ông Paolo Gabriele, cựu quản gia của ngài để xác định với ông rằng ngài đã tha thứ cho ông và đích thân báo cho ông biết ngài đã chấp thuận lời xin của ông và ân xá cho ông. Đây là một cử chỉ hiền phụ đối với một người mà Đức Thánh Cha đã chia sẻ vài năm sống tình gia đình mỗi ngày. Tiếp theo đó ông Paolo Gabriele đã được ra khỏi tù và trở về nhà. Mặc dù không được tiếp tục làm việc, nhưng ông được trú ngụ trong nội thành Vaticăng. Tin tưởng nơi sự chân thành xét lại của ông Tòa Thánh cống hiến cho ông khả thể tiếp tục cuộc sống với gia đình trong sự thanh thản”.

Như đã biết ông Gabriele đã bị bắt hồi tháng 5 năm 2012 vì tội đánh cắp nhiều tài liệu mật của Tòa Thánh, một thỏi vàng và một ngân phiếu 100.000 mỹ kim của Đức Thánh Cha. Ông đã bị kết án ba năm tù ngày mùng 6 tháng 10 vừa qua, và được giảm còn một năm rưỡi (SD 22-12-2012)

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các Hồng Y và các chức sắc Tòa Thánh đến chúc mừng ngài sáng ngày 21 tháng 12-2012 nhân dịp Giáng Sinh và Năm Mới, ĐTC Biển Đức 16 đã kiểm điểm sinh hoạt của Tòa Thánh trong năm 2012.

Ngỏ lời với mọi người sau lời chúc mừng của ĐHY Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y đoàn, ĐTC cũng nhắc nhở mọi người hiện diện rằng, với tư cách là một gia đình, tất cả đang được mời gọi để đón mừng Hài Nhi Giêsu tại hang đá Belem, Đấng là Thiên Chúa nhưng đã đến gần con người và trở thành một người như chúng ta. Tiếp đến Ngài cũng gửi những lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả mọi người, đặc biệt là các vị Sứ Thần Tòa Thánh trên toàn thế giới. Cuối cùng, Đức Thánh Cha điểm lại những sự kiện quan trọng trong năm, bao gồm 3 cuộc công du, Đại Hội Các Gia Đình Thế Giới Tại Milan, Thượng Hội Đồng Thế Giới Lần Thứ 13 và cuối cùng là Năm Đức Tin. Trước hết, Đức Thánh Cha trình bày ngắn gọn những chia sẻ của ngài về ba cuộc công du trong năm vừa qua, ngài nói:

“Cuối năm nay chúng ta lại chứng kiến biết bao nhiêu cảnh huống khó khăn, những vấn đề và những thách đố lớn lao, nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng nhìn thấy những dấu chỉ của niềm hy vọng, trong Giáo hội cũng như trong thế giới. Hôm nay tôi muốn đề cập đến một vài yếu tố quan trong liên quan đến đời sống Giáo hội cũng như phận vụ Giáo Hoàng của tôi. Trước hết là những chuyến công du tới Mê-xi-cô và Cuba, những cuộc gặp gỡ với sức mạnh của đức tin không thể nào quên, một đức tin được bén rễ sâu trong trái tim con người ở đây; và họ thể hiện một đời sống vui tươi phát xuất từ đức tin. Trong các cuộc viếng thăm nơi vùng đất này, tôi nhớ có biết bao nhiêu đoàn người đông đảo nối tiếp nhau trong niềm vui và hạnh phúc. Nhiều bạn trẻ đã quỳ gối bên đường để đón nhận phép lành của Đấng kế vị thánh Phêrô. Tôi cũng nhớ những buổi cử hành phụng vụ hết sức long trọng bên tượng Chúa Kitô Vua làm cho Vương quyền của Người hiện diện giữa chúng ta, nhờ đó chúng ta cảm nhận được bình an, sự công chính và chân lý của Ngài. Tất cả sự kiện này diễn ra tại các quốc gia mà nơi đó đang phải đối diện với những vấn nạn khác nhau, những hình thức bạo lực cũng như những khó khăn về kinh tế. Trong khi những vấn nạn này không thể giải quyết bằng lòng nhiệt thành tôn giáo, thì nó cũng không thể nào giải quyết được nếu thiếu một sự thanh luyện của con tim xuất phát từ sức mạnh của đức tin, và từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Tại Cuba, tôi cũng được tham dự những cử hành phụng vụ long trọng, với những tiếng hát, lời kinh và cả sự thinh lặng làm cho sự hiện diện của Đức Kitô thực sự trở nên hữu hình giữa một đất nước mà chính quyền lâu nay đã nỗ lực để loại bỏ Ngài. Một sự tìm kiếm sự cân bằng giữa trách nhiệm và tự do ở đất nước này không thể thành công nếu bỏ qua điểm tham chiếu nền tảng mà con người đã khám phá ra ngang qua cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng nói về cuộc thăm viếng Lebanon và Đại Hội Gia Đình Quốc Tế ở Milan. Dù có nhiều chủ đề và nhiều sự kiện được bàn thảo trong năm nay, tuy nhiên Đức Thánh Cha muốn tập trung vào ba chủ đề chính yếu, đó là: gia đình, phục vụ hòa bình trong thế giới và đối thoại giữa các tôn giáo và cuối cùng là cuộc công bố sứ điệp của Đức Kitô trong thế giới ngày nay cho những người chưa biết Chúa Kitô hay cho những người dầu đã gặp gỡ Ngài nhưng chưa nhận ra Ngài.

Về chủ đề gia đình, Đức Thánh Cha nói như sau:

“Trước hết, những niềm vui lớn lao mà ngày họp mặt ở Milan mang lại cho thấy, giữa bao khó khăn và thách đố, gia đình vẫn mạnh mẽ và sống động trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta không thừa nhận cuộc khủng hoảng đang đe dọa nền tảng của gia đình, đặc biệt là trong thế giới Tây Phương. Chúng ta cần lưu ý rằng, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của gia đình như là một bối cảnh đích thực mà nơi đó chuyển giao kế hoạch của cuộc sống con người. Nơi gia đình chúng ta học để biết sống cho và sống với người khác. Vì thế, vấn nạn về gia đình không chỉ đơn thuần là một vấn nạn của một cấu trúc xã hội cụ thể, nhưng còn là vấn vạn về chính con người, về bản chất của con người và về con đường con người phải theo để trở nên người đích thực. Thách đố này bao gồm nhiều mặt. Trước hết là câu hỏi về khả năng của con người để thực hiện một cuộc cam kết hay là lẩn tránh sự cam kết đó. Một người có thể tự ràng buộc mình suốt cuộc đời không? Điều này có tương hợp với bản chất con người không? Điều này có đi ngược với tự do và mục đích tự thành toàn của bản thân không? Con người có thể trở nên là người đích thực khi chỉ sống cho riêng mình và chỉ đi vào mối tương quan với người khác khi thấy có thể phá vỡ mối tương quan này bất kỳ khi nào muốn không? Một sự cam kết suốt cuộc đời có đi ngược với tự do không? Một sự khước từ làm bất kỳ cuộc dấn thân nào cho thấy con người vẫn còn đóng kín với chính mình và giữ cái “Tôi” cho riêng mình và không thực sự vượt lên trên nó. Nhưng chỉ trong sự trao ban, con người mới thực sự tìm thấy chính mình. Và chỉ ngang qua việc mở ra với cái khác, người khác, với con cái, với gia đình, và để cho mình được biến đổi ngang qua những đau khổ, con người mới thực sự khám phá ra sự rộng lớn của bản tính nhân loại. Khi một sự dấn thân như thế bị loại trừ, hình ảnh về con người đích thực cũng biến mất: người cha, người mẹ, con cái – những yếu tố thiết yếu về kinh nghiệm hiện hữu của con người cũng biến mất.”

Nói về bản chất gia đình, Đức Thánh Cha nhắc nhở về bản chất của con người được sáng tạo như là những người nam và người nữ. Đó chính là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải là sản phẩm của con người. Ngài nói:

“Thế giới ngày nay người ta từ chối bản chất của mình, và cho rằng, bản chất con người không phải là một điều gì được định sẵn nhưng họ có thể tự quyết định cho bản thân. Theo tường thuật sáng tạo của Thánh Kinh, con người được sáng tạo như những người nam và người nữ chính là bản chất của con người. Tính hai mặt này là một khía cạnh thiết yếu của con người. Tính hai mặt này là một điều được trao ban, nhưng giờ đây người ta đang tranh luận về nó. Giờ đây, Thiên Chúa không còn sáng tạo ra người nam và người nữ, thay vào đó là xã hội, và chính con người tự quyết định cho chính mình.” Đứng trước vấn nạn trên, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng, khi người ta chọn lựa để tự sáng tạo cho chính mình, thì họ cũng khước từ Đấng Tạo Hóa, và khi ấy phẩm giá con người cũng biến mất. Và do đó, bất cứ ai chống lại Thiên Chúa, thì cũng đang chống lại con người.

Liên quan đến vấn đề đối thoại, Đức Thánh Cha nói rằng:

“Hiện nay, Giáo hội của chúng ta đang đối diện với ba lĩnh vực đối thoại chính yếu, ngang qua những cuộc đối thoại này, Giáo hội muốn hiện diện trong công cuộc đấu tranh cho con người và cho nhân tính của con người. Đối thoại với các quốc gia, với xã hội – bao gồm đối thoại với các nền văn hóa và khoa học – và cuối cùng là đối thoại với các tôn giáo. Trong các cuộc đối thoại này, tiếng nói của Giáo hội được đặt nền tảng trên ánh sáng của Đức Tin. Dầu vậy, Giáo hội cũng hợp tác với ký ức của nhân loại, vốn là những kinh nghiệm ngay từ giai đoạn đầu của lịch sử. Nơi đó, Giáo hội đã học về những điều kiện của con người, Giáo Hội kinh nghiệm về những giới hạn cũng như sự vĩ đại của nó, những cơ hội và những thách đố. Văn hóa nhân loại, mà Giáo hội là một sự đảm bảo, phát triển ngang qua cuộc gặp gỡ giữa mạc khải của Thiên Chúa và cuộc sống con người. Giáo hội đại diện cho ký ức về cái gì có ý nghĩa là trở thành người đích thực trong khi đối diện với nền văn minh hay lãng quên, và do đó chỉ biết đến nó và những tiêu chuẩn của nó. Một cá nhân không có trí nhớ sẽ đánh mất căn tính của mình thế nào, thì con người không có ký ức cũng sẽ đánh mất căn tính của họ như vậy. Điều mà Giáo hội đã học được từ cuộc gặp gỡ giữa mạc khải và kinh nghiệm của con người thực sự vượt ra khỏi lãnh vực của lý trí nhưng nó cũng không thuộc về một thế giới xa lạ vốn không liên hệ gì đến những người không tin. Ngang qua việc đi vào tư tưởng và sự hiểu biết của con người, tri thức này là một sự mở rộng địa hạt của lý trí, và do đó, nó cũng nói cho những người không chia sẻ Đức Tin trong Giáo hội. Trong cuộc đối thoại với các quốc gia và xã hội, dĩ nhiên là Giáo hội không có sẵn các câu trả lời cho những câu hỏi riêng biệt. Cùng với những thể chế khác trong xã hội, Giáo hội cũng phải vật lộn với những câu trả lời để đáp trả một cách tốt nhất cho chân lý tồn tại của con người. Những giá trị mà Giáo hội nhận thấy là nền tảng và không thể thay thế cho sự tồn tại của con người, Giáo hội phải công bố nó một cách rõ ràng và minh bạch. Giáo hội làm tất cả để có thể thuyết phục mọi người, vì thế điều này có thể đụng chạm đến các thể chế chính trị.”

Tiếp đến, về vấn đề đối thoại tôn giáo, Đức Thánh Cha cho nói rằng:

“Trong tình huống hiện tại của con người, cuộc đối thoại tôn giáo là một điều kiện cần thiết cho nền hòa bình trên thế giới và đó là nhiệm vụ của các Kitô Hữu cũng như các cộng đoàn tôn giáo khác. Cuộc đối thoại này mang những chiều kích khác nhau. Trước hết, đó đơn giản chỉ là một cuộc đối thoại về cuộc sống, đối thoại để sống cùng với nhau. Vì thế cuộc đối thoại này không hệ tại ở việc thảo luận những chủ đề của đức tin, nhưng về những vấn đề cụ thể của việc sống chung và chia sẻ trách nhiệm đối với xã hội, đối với đất nước và con người. Trong tiến trình này, điều cần thiết là phải học để biết chấp nhận người khác trong sự khác biệt của họ và cả trong sự khác biệt về suy nghĩ nơi họ. Để làm được điều này, sự chia sẻ trách nhiệm về công lý và hòa bình phải trở nên những nguyên lý hướng dẫn của cuộc đối thoại.”

Sau đó, Đức Thánh Cha chia sẻ một cách vắn tắt về chủ đề truyền giảng Tin Mừng, hay công cuộc Phúc Âm Hóa. Đức Thánh Cha nói rằng, những yếu tố nền tảng của tiếng trình Phúc Âm Hóa xuất hiện trong trình thuật của Thánh Gioan về việc kêu gọi hai môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, những người mà sẽ trở nên môn đệ của Đức ki-tô (Ga 1,35-39).

“Trước hết, chúng ta có một hành động công bố rất đơn sơ. Ông Gioan chỉ về phía Đức Giêsu và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Một hành động tương tự được tường thuật trong một vài câu sau đó. Lần này, chính Anrê đã nói với em trai của mình rằng: “Tôi đã thấy Đấng Mesia” (1,41). Yếu tố đầu tiên và nền tảng nhất là một sự công bố chân thật, một Kerygma, vốn có sức lôi cuốn nhờ vào sự xác tín nội tâm sâu xa của người công bố. Trong trình thuật về các môn đệ đầu tiên, đoạn tiếp theo trình bày về việc lắng nghe và đi theo Đức Giê-su, chưa phải với tư cách là người môn đệ nhưng chỉ vì sự tò mò thánh thiêng, một khoảng khắc của sự tìm kiếm. Cả hai môn đệ này đều là những con người đang tìm kiếm. Họ đặt khát vọng mong chờ Thiên Chúa lên trên, và vượt qua những vấn đề thường ngày. Và khi đươc khích lệ bởi lời công bố, cuộc tìm kiếm của họ trở nên cụ thể. Họ muốn đến để biết rõ hơn về con người được Thánh Gioan Tẩy Giả mô tả là Chiên Thiên Chúa. Cảnh thứ ba bắt đầu khi Đức Giêsu quay qua, bắt gặp họ và hỏi: “Các con đang tìm gì?” Họ đáp lại bằng một câu hỏi xa hơn, minh chứng sự mở ra đối với sự mong chờ của mình, sự sẵn sàng của họ để bước những chặng đường tiếp theo. Họ hỏi: “Thưa thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời “Hãy đến mà xem” của Đức Giê-su là một lời mời gọi bước đi với Ngài, và ngang qua đó, đôi mắt của họ mở ra để nhìn thấy Ngài. Lời công bố chỉ hiệu quả trong những tình huống nơi đó người lắng nghe sẵn sàng cho Chúa đến gần họ, nơi đó con người đang tìm kiếm và đang trên đường hướng đến Thiên Chúa. Trái tim của họ được đụng chạm khi Đức Giê-su hướng đến họ, và như vậy cuộc gặp gỡ với lời công bố trở nên một sự tò mò linh thánh giúp người ta biết đến Thiên Chúa sâu xa hơn. Khi họ bước đi với Đức Giêsu, họ được dẫn tới nơi Ngài sống, đó chính là cộng đoàn Giáo hội, và cũng chính là Thân Thể của Ngài. Điều đó có nghĩa là họ đang đi vào cộng đoàn của những người dự tòng, một cộng đoàn vừa học hỏi vừa sống đạo, nơi mà ánh mắt chúng ta sẽ được mở ra khi chúng ta bước đi.

“Hãy đến mà xem”, câu nói mà Đức Giêsu đã nói với hai người môn đệ đi tìm kiếm Ngài khi xưa, thì Ngài cũng nói với những con người đang trên đường tìm kiếm trong thế giới hôm nay. Vào thời điểm cuối năm này, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho Giáo hội để, bất chấp những giới hạn của mình, người ta vẫn không ngừng nhận ra nơi đó chính là nơi Thiên Chúa cư ngụ. Xin Ngài cũng mở mắt cho chúng ta khi chúng ta bước đi trên hành trình trở về nhà Ngài, để chúng ta có thể thấy rõ hơn và xác tín hơn: “Chúng tôi đã gặp Ngài, Ngài chính là Đấng mà toàn thể thế giới đang chờ đợi, là Đức Giê-su, là con Thiên Chúa Thật và là người thật.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha chúc mừng Giáng sinh tới mọi người hiện diện và toàn thể các tín hữu trên toàn thế giới, ngài nói:

“Với những tâm tình này, từ thâu thẳm trái tim tôi, tôi ước mong mọi người có một lễ Giáng Sinh an lành và một Năm Mới Hạnh Phúc.”

Nguyễn Minh Triệu sj

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các trẻ em tìm Chúa

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các trẻ em tìm Chúa

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến dành cho phái đoàn Thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia, sáng ngày 20 tháng 12-2012, ĐTC nhắn nhủ các em tìm Chúa Giêsu như tác giả sự sống, niềm vui, tình thương và an bình.

50 em thiếu nhi đại diện cho hàng chục ngàn thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia, cùng với giáo sư Franco Miano Chủ tịch Phong trào, và Đức Cha Tổng Tuyên úy Domenico Sigalini, đến chúc mừng ĐTC nhân dịp lễ Giáng Sinh. Lên tiếng trong dịp này, ngài nhắc đến chủ đề hoạt động của các thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia là ”đi tìm kiếm tác giả”. ĐTC giải thích cho các em: tác giả sự sống, tác giả niềm vui và tác giả tình thương đối với các em chính là Chúa Giêsu.

ĐTC nói: ”Có bao nhiêu người làm cho các con được hạnh phúc, nhưng có một Người Bạn lớn nhất là Tác giả niềm vui của mọi người và với Tác giả ấy, tâm hồn các con được tràn đầy một niềm vui vượt lên trên mọi niềm vui khác, và kéo dài trọn đời: đó chính là Chúa Giêsu. Các con hãy nhớ rằng hễ các con càng học biết Chúa và đối thoại với Chúa, thì các con càng cảm thấy hài lòng trong tâm hồn và có khả năng vượt thắng những sầu muộn bé nhỏ nhiều khi xảy ra trong tâm hồn các con”.

Về việc tìm kiếm tác giả tình thương, ĐTC nhận xét rằng: ”Tất cả chúng ta đều cần yêu mến và cảm thấy có người chấp nhận và yêu mến chúng ta. Cảm thấy được yêu chính là điều cần thiết để sống, nhưng một điều không kém phần quan trọng, có là có khả năng yêu mến người khác, để làm cho cuộc sống của mọi người được tươi đẹp, cả cuộc sống của những người bạn đồng lứa tuổi với các con đang ở trong tình cảnh khó khăn. Vì thế, cha hài lòng vì sáng kiến của các con trong tháng giêng hỗ trợ một sự án tại Ai Cập nhắm giúp đỡ cụ thể cho các trẻ em bụi đời”. (SD 20-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha kêu gọi suy tư và xét mình nhân lễ Giáng Sinh

Đức Thánh Cha kêu gọi suy tư và xét mình nhân lễ Giáng Sinh

LUÂN ĐÔN. ĐTC mời gọi các tín hữu và mọi người thiện chí suy tư và xét mình nhân dịp lễ Giáng Sinh, lấy hứng từ Tin Mừng.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong một bài bình luận về lễ Giáng Sinh đăng trên tờ Finance Times (Tài Chánh Thời Báo), xuất bản tại Luân Đôn ngày 20 tháng 12-2012, theo lời thỉnh cầu của ban chủ nhiệm báo này.

Sau khi diễn giải ý nghĩa câu Chúa Giêsu trả lời cho những người muốn bắt bẻ Chúa ”Hãy trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, ĐTC viết:

”Sự giáng sinh của Chúa Kitô thách thức chúng ta hãy kiểm điểm lại những ưu tiên, giá trị và chính lối sống của chúng ta. Trong khi Lễ Giáng Sinh chắc chắn là một thời điểm đầy vui mừng, nhưng đây cũng là cơ hội để suy tư sâu xa, và xét mình. Vào cuối một năm cam go về kinh tế đối với nhiều người, chúng ta có thể học hỏi được điều gì từ sự khiêm hạ, nghèo khó, đơn sơ của cảnh tượng hang đá máng cỏ?

”Lễ Giáng Sinh có thể là một thời điểm trong đó chúng ta học cách đọc Tin Mừng, để biết Chúa Giêsu, không những như một hài nhi trong máng cỏ, nhưng còn như một Đấng qua đó chúng ta nhận ra Thiên Chúa làm Người. ĐTC xác quyết rằng: ”Chính trong Tin Mừng mà các tín hữu Kitô tìm được nguồn hứng cho cuộc sống thường nhất và dấn thân trong thế sự – dù là tại Quốc hội hay tại Thị trường chứng khoán-. Các tín hữu Kitô không được tránh né trần thế; họ phải dấn thân với trần thế. Nhưng sự dấn thân của họ trong chính trị và kinh tế phải vượt lên trên mọi hình thức ý thức hệ”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Các tín hữu Kitô chiến đấu chống nghèo đói vì họ nhìn nhận phẩm giá tối cao của mỗi người, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và nhắm đến cuộc sống vĩnh cửu. Các tín hữu Kitô hoạt động để có sự chia sẻ quân bình hơn các tài nguyên trái đất, vì họ xác tín rằng, trong tư cách là những người quản lý công trình sáng tạo của Thiên Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải chăm sóc những người yếu thế và dễ tổn thương nhất. Các Kitô hữu chống lại sự ham hố và bóc lột vì xác tín rằng lòng quảng đại và tình yêu thương vị tha, như Chúa Giêsu thành Nazareth đã dạy và sống, chính là con đường dẫn đến cuộc sống sung mãn. Niềm tin của Kitô hữu nơi vận mệnh siêu việt của mỗi người cho thấy cần cấp thiết hoạt động để thăng tiến hòa bình và công lý cho mọi người.”

ĐTC cũng cổ võ sự cộng tác của các tín hữu Kitô với những người khác. Kitô hữu trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar chứ không phải những gì thuộc về Thiên Chúa. Nhiều khi trong lịch sử, Kitô hữu đã không thể chiều theo những yêu cầu của Cesar. Từ việc tôn thờ hoàng đế trong đế quốc La Mã xưa kia cho đến các chế độ độc tài trong thế kỷ vừa qua, Cesar đã tìm cách chiếm chỗ của Thiên Chúa. Khi các tín hữu Kitô từ chối cúi mình trước các thần tượng giả dối được đề ra ngày nay, họ không theo một vũ trụ quan lỗi thời. Đúng ra là vì họ tự do đối với những cưỡng bách của ý thức hệ, họ được soi sáng nhờ nhân sinh quan cao quí về vận mệnh của con người, nên họ không thể thỏa hiệp với nhưng gì hạ giá quan niệm ấy.”

Sau cùng, ĐTC viết: ”Tại Italia, nhiều cảnh tượng hang đá diễn tả ở hậu trường cảnh điêu tàn của những dinh thực thời La Mã. Điều này cho thấy sự giáng sinh của Hài Nhi Giêsu đánh dấu sự cáo chung của trật tự cũ, của thế giới ngoại giáo, trong đó không ai dám chống lại những đòi hỏi của Cesar. Nay có một vị vua mới, Ngài không dựa vào sức mạnh của võ khí, nhưng dựa trên sức mạnh của tình thương. Ngài mang hy vọng cho tất cả những người, như Ngài, sống bên lề xã hội. Ngài mang hy vọng cho tất cả những người bị tổn thương vì những thay đổi của cải trong một thế giới bấp bênh. Từ máng cỏ, Chúa Kitô kêu gọi chúng ta sống như những công dân của nước trời, một nước mà mỗi người thiện chí có thể giúp xây dựng trên trái đất này” (SD 20-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

VATICAN. Sáng 20 tháng 12-2012, ĐTC đã cho phép Bộ Phong thánh công bố 24 sắc lệnh liên quan đến các án phong chân phước và hiển thánh, trong đó có sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô 6. Đứng đầu danh sách là sắc lệnh nhìn nhận phép lạ của chân phước Antonio Primaldo và hơn 800 vị tử đạo tại thành phố Otranto, nam Italia. Các vị bị người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo giết hại vào ngày 13-8 năm 1480. Hai sắc lệnh khác nhìn nhận phép lạ của hai nữ chân phước Laura di Santa Caterina, người Colombia, sáng lập dòng các nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Nữ Catarina, qua đời năm 1949 tại Belencito-Medellín, thọ 75 tuổi. Tiếp đến là nữ chân phước Maria Guadalupe đồng sáng lập dòng các nữ tu thánh nữ Margarita Maria và người nghèo. Qua đời năm 1963 thọ 85 tuổi. Có 5 sắc lệnh nhìn nhận phép lạ và 3 sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của các vị tôi tớ Chúa thuộc nhiều nước như Italia, Argentina, Tây Ban Nha, Ba Lan, Ucraine, Croát, trong đó có nhiều vị bị giết vì đức tin trong thời nội chiến ở Tây Ban Nha. Sau cùng 10 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của các vị tôi tớ Chúa, đứng đầu là Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, qua đời năm 1978 thọ 81 tuổi. Nhóm hơn 800 chân phước tử đạo ở Otranto có lẽ là nhóm đông đảo nhất được nhìn nhận phép lạ và sẽ được tôn phong hiển thánh. Cuộc tử đạo của các vị diễn ra cách đây 532 năm, sau khi quân Thổ Nhĩ kỳ của Pascià Acmet vây thành Otranto nam Italia từ ngày 28 tháng 7 đến 11 tháng 8 năm 1480. Họ chiếm được thành và tụ tập 813 người còn sống sót, và đưa lên ngòn đồi Minerva gần đó, buộc phải chối bỏ Chúa Kitô, nếu không sẽ bị giết chết. Vị tử đạo đầu tiên là Antonio Primaldo, lần lượt tất cả đều bị chém chết. Ngày 14 tháng 12 năm 1771, ĐGH Clemente 14 công bố sắc lệnh nhìn nhận các vị tử đạo là chân phước. (SD 20-12-2012) G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Noi gương Mẹ Maria khiêm nhường vâng phục tiếp đón Chúa Giêsu Kitô

Noi gương Mẹ Maria khiêm nhường vâng phục tiếp đón Chúa Giêsu Kitô

Lễ Chúa Giáng Sinh mời gọi chúng ta noi gương Mẹ Maria sống khiêm nhường, vâng phục tiếp đón Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người, và luôn tin tưởng trong mọi hoàn cảnh vui buồn và đêm đen của cuộc sống. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 7,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 19 tháng 12-2012 tại đại thính đường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã suy tư về đức tin của Mẹ Maria trong mầu nhiệm Tryền Tin. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trên lộ trình Mùa vọng Trinh Nữ Maria chiếm một chỗ đặc biệt như là Đấng trong một cách thế duy nhất đã chờ đợi việc hiện thực các lời hứa của Thiên Chúa, bằng cách tiếp đón trong đức tin và thịt xác Đức Giêsu Con Thiên Chúa, trong sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa.

”Khaire kekharitomene, ho Kyrios meta sou” ”Hãy vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Chúa ở cùng tôn nương” (Lc 1,28). Đó là các lời tổng lãnh thiên thần Gabriel chào Mẹ Maria. Thoạt tiên từ ”khaire” hãy vui lên xem ra là một lời chào thông thường trong môi trường Hy lạp, nhưng nếu được đọc trong bối cảnh của truyền thống kinh thánh, nó có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Từ này hiện diện bốn lần trong Thánh Kinh Cựu Ước tiếng Hy lạp, và luôn luôn loan báo tin vui Đấng Cứu Thế đến (x. Sp 3,14; Ge 2,21; Dcr 9,9; Ac 4,21). Như thế lời sứ thần chào Đức Maria là một lời mời gọi vui lên, một nièm vui sâu xa, loan báo chấm dứt buồn thương hiện diện trong thế giới trước cái hạn hẹp của cuộc sống, trước khổ đau, cái chết, sự gian ác, bóng tối của sự dữ xem ra làm lu mờ ánh sáng lòng lành của Thiên Chúa. Đó là một lời chào ghi dấu sự khởi đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.

Nhưng tại sao Đức Maria lại được kêu mời vui lên như thế? Câu trả lời ở trong phần hai của lời chào: ”Chúa ở cùng tôn nương”. Cả ở đây nữa để hiểu rõ ý nghĩa của kiểu nói chúng ta phải quay về Thánh Kinh Cựu Ước. Chúng ta tìm thấy kiểu nói này trong sách ngôn sứ Sôphônia: ”Hãy vui lên hỡi con gái Sion… Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi… Thiên Chúa của ngươi ở giữa ngươi là một đấng cứu độ quyền năng” (Sp 3,14-17). Trong các lời này có một lời hứa kép cho dân, cho con gái Sion: Thiên Chúa sẽ đến như đấng cứu tinh của Israel và sẽ ngự giữa dân Người, trong cung lòng con gái Sion.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trong cuộc đối thoại giữa thiên thần và Đức Maria lời hứa đó được hiện thực: Đức Maria được đồng hóa với dân tộc được Thiên Chúa cưới, Người đích thực là con gái Sion; nơi Người thành toàn sự đợi trông Thiên Chúa đến vĩnh viễn, nơi Người Thiên Chúa sống động đến ở.

Trong lời chào của sứ thần, Đức Maria được gọi là ”Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy lạp từ ”ân sủng” Kharis có cùng gốc với từ ”niềm vui”. Cả trong kiểu nói này nữa nguồn gốc niềm vui của Đức Maria cũng được minh giải: niềm vui đến từ ân sủng, nghĩa là đến từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, đến từ sự gắn liền sống động với Người, đến từ chỗ là nơi ở của Chúa Thánh Thần, hoàn toàn được nhào nặn bởi hoạt động của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Đức Maria là thụ tạo trong một cách thế duy nhất đã mở toang các cánh cửa cho Đấng Tạo Hóa, tự đặt mình trong tay Người, không giới hạn. Mẹ hoàn toàn sống nhờ và trong tương quan với Chúa; trong thái độ lắng nghe, chú ý tiếp nhận các dấu chỉ của Thiên Chúa trên lộ trình của dân Người; Mẹ được tháp nhập vào trong một lịch sử đức tin và hy vọng nơi các lời hứa của Thiên Chúa, làm thành mô cuộc sống của Mẹ. Và Mẹ tự do quy phục lời đã nhận được, quy phục ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin.

Và Thánh sử Luca trình thuật câu chuyện của Đức Maria qua sự song song với câu chuyện của tổ phụ Abraham. Cũng như tổ phụ Abraham là cha của các kẻ tin, người đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi ra khỏi miền đất ông đã sống, ra khỏi các an ninh của mình để bắt đầu lộ trình hướng tới một vùng đất không được biết và chỉ được chiếm hữu trong lời Thiên Chúa hứa, Đức Maria hoàn toàn tín thác nơi lời sứ thần của Thiên Chúa nói và trở thành mẫu gương và Mẹ của mọi kẻ tin.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nhấn mạnh một khía cạnh quan trọng khác trong thái độ sống của Mẹ Maria: đó là sự rộng mở tâm hồn cho Thiên Chúa và cho hoạt động của Người trong đức tin bao gồm cả yếu tố của sự tăm tối nữa. Tương quan của con người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, không loại trừ điều tông đồ Phaolô khẳng định trước sự khôn ngoan sâu thẳm của Thiên Chúa: ”Các phán quyết của Người ai dò cho thấu, các đường lối của Người ai theo dõi được” (Rm 11.33). Nhưng chính người, mà như Đức Maria, hoàn toàn rộng mở cho Thiên Chúa, đạt tới việc chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa, cả khi nó nhiệm mầu và thường không trùng hợp với ý muốn riêng, và là một lưỡi gươm đâu thâu linh hồn, như cụ già Simeon sẽ nói tiên tri cho Đức Maria, khi Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (x. Lc 2,35). Con đường đức tin của tổ phụ Abraham bao gồm lúc vui sướng vì ơn có con là Igiaác, nhưng cũng bao gồm lúc đen tối, khi ông phải lên núi Moria để hoàn thành một cử chỉ mâu thuẫn: Thiên Chúa đòi ông hiến tế đứa con mà Người vừa mới ban cho ông. Trên núi thiên thần truyền lệnh cho ông: ”Đừng giơ tay chống lại con trẻ, và đừng làm gì nó cả! Giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Thiên Chúa và đã không từ chối đứa con duy nhất của ngươi đối với Ta” (St 22,12). Sự tín thác hoàn toàn của Abraham nơi Thiên Chúa, tín trung với các lời hứa, đã không suy giảm, cả khi lời Người bí nhiệm và khó chấp nhận. Đối với Đức Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống niềm vui của việc Truyền Tin, nhưng cũng đi ngang qua việc đóng đinh của Con Mẹ, để sau cùng đạt tới ánh sáng của sự Phục Sinh. Áp dụng vào cuộc sống của kitô hữu Đức Thánh Cha nói:

Cả đối với con đường đức tin của từng người trong chúng ta cũng không khác: nó gặp các lúc có ánh sáng, nhưng cũng gặp các chặng trong đó Thiên Chúa xem ra vắng bóng, sự thinh lặng của Người đè nặng trên con tim chúng ta và ý muốn của Người không hợp với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng rộng mở cho Thiên Chúa, đón nhận ơn đức tin, hoàn toàn đặt tin tưởng nơi Người như tổ phụ Abraham và như Đức Maria bao nhiêu, thì với sự hiện diện của Người Thiên Chúa lại càng khiến cho chúng ta có khả năng sống mọi hoàn cảnh cuộc đời trong an bình và chắc chắn về sự trung thành và tình yêu của Người bấy nhiêu. Tuy nhiên điều này có nghĩa là phải ra khỏi chính mình và các dự án riêng của mình, bởi vì Lời Chúa là ngọn đèn hướng dẫn các tư tưởng và hành động của chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã tìm hiểu thêm một khía cạnh khác trong các trình thuật thời thơ ấu của Đức Giêsu, khi thánh Giuse và Mẹ Maria dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ theo luật Môshê: ”Mọi con đầu lòng phải dâng cho Chúa” (X Lc 2,22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia Nagiaret còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, nếu chúng ta đọc trình thuật dưới ánh sáng khoa học tin mừng của Chúa Giêsu 12 tuổi, được tìm thấy trong Đền Thờ đang thảo luận giữa các bậc thầy, sau ba ngày tìm kiếm. Đáp lại các lời âu lo của Đức Mẹ và thánh Giuse: ”Con ơi tại sao Con đã làm cho cha mẹ điều này? Này cha và mẹ đã lo lắng tìm Con”, là câu trả lời bí ẩn của Chúa Giêsu ”Tại sao cha mẹ lại tìm Con? Cha mẹ lại không biết là Con phải lo các việc của Cha Con sao?” (Lc 2,48-49). Đức Maria phải canh tân đức tin sâu xa, với nó Mẹ đã nói ”có” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận quyền ưu tiên của Người Cha thật của Đức Giêsu; phải biết để cho Người Con mà Mẹ đã sinh ra ấy được tự do đi theo sứ mệnh của Người. Và tiếng ”có” của Mẹ Maria đối với ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin, lập lại dọc dài trong suốt cuộc sống của Mẹ, cho tới lúc khó khăn nhất là lúc của Thập Giá.

Mẹ Maria đã có thể sống con đường này bên cạnh Con Mẹ với đức tin vững vàng, cả trong đêm đen cũng không mất niềm trông cậy. Trong ngày Truyền Tin Mẹ bối rối khi nghe các lời của sứ thần. Đó là sự kính sợ mà con người cảm thấy trước sự gần gũi của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ của người sợ hãi điều Thiên Chúa có thể xin. Mẹ Maria suy nghĩ về ý nghĩa lời chào của sứ thần. Trong tiếng Hy lạp được Phúc âm dùng để định nghĩa sự suy nghĩ ”dielogizeto” nhắc tới gốc của từ ”đối thoại”. Điều này có nghĩa là Mẹ Maria bước vào trong sự đối thoại thân tình với Lời Chúa đã được loan báo cho Mẹ, không coi nó một cách hời hợt mà dừng lại để cho nó thấm vào trong tâm trí, hầu hiểu điều Chúa muốn nơi Mẹ, hiểu ý nghĩa của lời loan báo.

Mẹ Maria còn có một thái độ nội tâm khác trước hành động của Thiên Chúa: đó là ”gìn giữ mọi sự trong lòng và suy gẫm” như kể trong trình thuật Chúa Giêsu sinh ra. (Lc 2,19). Có thể nói Mẹ ”giữ chung”, ”để chung” trong tim tất cả mọi biến cố đang xảy ra cho Mẹ, đặt để từng yếu tố, từng lời nói, từng sự kiện vào trong cái toàn thể và đối chiếu, duy trì, bằng cách thừa nhận rằng tất cả đến từ thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ biết nhìn vào chiều sâu để cho các biến cố gọi hỏi, soạn thảo chúng, phân định chúng, và chiếm hữu được sự hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới bảo đảm được thôi. Đó là sự khiêm tốn thẳm sâu của đức tin vâng lời của Mẹ Maria, tiếp nhận cả những diều Mẹ không hiểu trong hành động của Thiên Chúa, bằng cách để cho Chúa rộng mở tâm trí của Mẹ.

Lễ trọng Giáng Sinh mà chúng ta sắp cử hành mời gọi chúng ta sống sự khiêm tốn và vâng phục này của đức tin. Vinh quang của Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và quyền bính của một vì vua, không rạng ngời trong một thành phố danh tiếng hay trong một dinh thự sang trọng, nhưng đến ở trong cung lòng của một trinh nữ và tự mạc khải trong sự nghèo nàn của một trẻ thơ. Cả trong cuộc sống của chúng ta nữa, sự toàn năng của Thiên Chúa thường hành động trong thinh lặng với sức mạnh của chân lý và tình yêu. Đức tin nói với chúng ta rằng sau cùng quyền năng không tự vệ của Trẻ Thơ đó sẽ chiến thắng tiếng ồn ào của các quyền lực trần gian.

Chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức Thánh Cha đã chúc tất cả một lễ Giáng Sinh tươi vui an bình. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Chính quyền Ai Cập muốn hồi giáo hóa đất nước

Chính quyền Ai Cập muốn hồi giáo hóa đất nước

Phỏng vấn Cha Samir Khalil Samir, dòng Tên

Từ hơn 3 tuần qua Ai Cập lại rơi vào tình hình căng thẳng với các cuộc xuống đường biểu tình rầm rộ của hằng trăm ngàn người tại quảng trường Tahrir và nhiều nơi khác trong thủ đô Cairo, cũng như trong nhiều thành phố lớn toàn nước. Các cuộc biểu tình đã do các nhóm đối lập tổ chức.

Nhưng lần này tình hình căng thẳng hơn vì các đoàn biều tình gồm hai nhóm chống và phò tổng thống Mohamed Morsi. Lý do là vì ngày 22 tháng 11-2012 tổng thống tân cử Mohamed Morsi đã ban hành sắc lệnh, tự cho mình các quyền hành hầu như vô giới hạn, và quyết định trưng cầu dân ý tân Hiến Pháp lấy Luật Sharia làm nền tảng. Ông El Baradei lãnh tụ đảng đối lập định nghĩa các quyết định của tống thống Morsi là một cuộc đảo chánh chống lai nền dân chủ và phản bội các ước vọng của nhân dân Ai Cập.

Các đoàn người biểu tình đã yêu cầu tổng thống thu hồi sắc lệnh và sửa đổi văn bản Hiến Pháp, trước khi cho trưng cầu dân ý, dự trù vào ngày 15 tháng 12. Các đoàn biểu tình phát xuất từ 4 vùng thủ đô và họ đã tràn tới trước dinh tổng thống. Bầu khí đã căng thẩng đến độ tổng thống Morsi đã phải rời khỏi dinh qua một ngõ bí mật. Các vụ đụng độ giữa hai phe chống và phò đã khiến cho hàng chục người chết và hằng trăm người bị thương. Sau cùng tổng thống Morsi đã phải nhượng bộ thu hồi sắc lệnh, nhưng vẫn duy trì cuộc trưng cầu dân ý với văn bản tân Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Samir Khalil Samir, dòng Tên, và giáo sư Claudio Lo Jacono, giám đốc nguyệt san Đông Phương tân tiến, về mưu toan của chính quyền Ai Cập muốn áp đặt luật Sharia trên toàn nước.

Hỏi: Thưa cha Samir, mục đích chính quyền của tổng thống Morsi nhắm tới là biến luật Sharia của Hồi giáo trở thành nền tảng các luật lệ của Ai Cập. Cha nghĩ sao về vấn đề này? Đáp: Đây đã luôn luôn là dự án của đảng ”Các anh em hồi giáo”, của nhóm Salafít và tất cả khuynh hướng hồi. Nó khá mạnh tại Ai Cập; đàng khác nó được trợ giúp tài chánh, và trong một số trường hợp cả trợ giúp quân sự, bởi các nước A rập giầu, đặc biệt là A Rập Sauđi và Qatar. Dự án này là điều không thể chấp nhận được, không chỉ từ phía các người không hồi giáo, nghĩa là các Kitô hữu và một vài nhóm thiểu số khác, mà cũng còn từ phía một số đông các tín hữu hồi muốn phân biệt niềm tin nói với con người rằng một điều là sự dữ thì không được phép làm, với xã hội chính trị nói rằng một điều sẽ bị trừng phạt.

Hỏi: Luật Sharia đã nảy sinh trong bối cảnh nào thưa cha? Đáp: Luật Hồi giáo Sharia đã được thiết lập trong nhiều hình thái khác nhau, ít nhất là trong bốn trường phải Sunnít và một trường phái Sciít trong các thế kỷ thứ IX-X, dựa trên vài câu trong Kinh Coran, nhưng không luôn luôn đúng như vậy. Tôi xin đơn cử một thí dụ rõ ràng và nghiêm trọng nhất. Luật Sharia nói: người bỏ đạo phải bị giết: ai đã là tín hữu hồi mà bỏ Hồi giáo để theo một tôn giáo khác hay để trở thành người vô thần và tuyên bố mình là như vậy, thì phải bị giết. Và tôi thách bất cứ ai tìm ra được trong Kinh Coran một câu nói như vậy. Câu này không hề có trong Kinh Coran. Và vì thế, một cách rất chính đáng, cả các tín hữu hồi nữa cũng rất thường khước từ luật Sharia, bởi vì nó không tương ứng với nền văn hóa hiện nay của người Hồi, mà tương ứng với nền văn minh thời Trung Cổ, trong đó luật Sharia đã được soạn thảo mà không tương ứng với mạc khải của Hồi giáo.

Hỏi: Trong hiện tình của đất nước Ai Cập ngày nay, cha đọc hiểu quyết định thừa nhận các nguyên tắc của luật Sharia như thế nào? Đáp: Điều đã được làm hiện nay là một mưu mẹo. Họ đang lạm dụng sự kiện Quốc hội tạm thời có đa số dân biểu là người hồi để bỏ phiếu. Và chính vì thế mà sự kiện tổng thống Morsi tự cho mình có mọi quyền hành là điều không thể chấp nhận được. Bây giờ kể cả thẩm phán đoàn cũng không thể kết án ông ta. Và tất cả tình hình này đều không thể chấp nhận đựơc, vì tự nó là bất hợp pháp.

Hỏi: Khoản này của Hiến Pháp quy chiếu các nguyên tắc của luật Sharia. Từ quan niệm pháp lý xem ra nó là bước đầu tiên. Thế thì người ta muốn đi tới đâu thưa cha? Đáp: Người ta muốn đi tới chỗ áp dụng tất cả các chi tiết của luật hồi giáo, chứ không phải chỉ áp dụng các nguyên tắc của nó mà thôi. Các nguyên tắc là các hướng dẫn tổng quát. Họ muốn nói một cách cụ thể rằng: chặt tay ai làm điều này, xử tử ai làm điều kia vv… Thi hành tất cả mọi chi tiết của luật Sharia là bước thứ hai. Nhưng một khi đã bỏ phiếu bước thứ nhất, thì bước thứ hai có nguy cơ sẽ tới. Nhưng vấn đề là ở đâu? Đó là sự kiện luật Hồi giáo trái nghịch với tư tưởng hiện nay của người Hồi trong một nước như Ai Cập. Như đã thấy cách đây ít ngày, dân chúng đã biểu tình rất mạnh mẽ với hàng ngàn người trẻ nói rằng chính quyến đã phản bội cuộc cách mạng tháng giêng năm 2011.

Hỏi: Người ta thấy rất nhiều tín hữu kitô và hồi giáo hiệp nhất với nhau trong việc bảo vệ các quyền con người, có đúng vậy không thưa cha?

Đáp: Đúng thế. Các kitô hữu tranh đấu cho điều đó, không phải chỉ vì họ là kitô hữu và đối với họ điều này bất công, mà bởi vì đó là một bất công chống lại nhân loại, một cách đặc biệt chống lại nữ giới, chống lại tất cả các nhóm thiểu số, chống lại những ngưới vô thần, những người đồng tính sẽ phải vào tù.

Đây là một quyết định của những người hồi cuồng tín muốn áp đặt trên các tín hữu hồi, trên các tín hữu kitô và những người khác một quan niệm tôn giáo không phải là quan niệm của tất cả mọi người hồi. Họ muốn áp đặt một thứ đạo Hồi thời Trung Cổ. Và đây là một nguy hiểm rất lớn đối với xã hội Ai Cập và nó có thể trở thành một nguy hiểm rất lớn đối với các xã hội hồi khác.

*** Sau đây là một số nhận định của giáo sư Claudio Lo Jacono, giám đốc nguyệt san ”Đông phương tân tiến” Hỏi: Thưa giáo sư, giáo sư nghĩ gì về Hiến Pháp mà tổng thống Morsi muốn cho trưng cầu dân ý trong hai ngày khác nhau?

Đáp: Có sự gia tăng việc quy chiếu luật Sharia, bao gồm các điều luật của Kinh Coran và các điều luật của truyền thống quy chiếu trước nhất về Mahomed cũng như vài người sau ông. Việc quy chiếu này đã có trong Hiến pháp Ai Cập ngay từ thời tổng thống Mubarak, nghĩa là của một Ai Cập đời hơn là Ai Cập mà chúng ta thấy hiện nay với chiến thắng của các Anh em hồi giáo và của tổng thống Morsi. Việc gia tăng chắc chắn là sẽ có, nhưng cần phải xem luật Sharia sẽ được áp dụng trong các lãnh vực nào, bởi vì chúng ta có thể tưởng tượng những điều kinh khủng như ném đá người phạm tội ngoại tình hay bỏ đạo, nhưng cũng có thể nghĩ tới một loạt các điều lệ hữu lý hơn trong luật Sharia, tương ứng một chút với các tâm tình của công lý đại đồng. Luật Sharia và kinh Coran cũng nói tới các điều rất cao thượng.

Hỏi: Có sự xa cách lớn giữa đường lối chính trị tiến hành với sắc lệnh của tổng thống Morsi và văn bản của Hiến pháp và cảm thức của người dân, có đúng thế không thưa ông? Đáp: Chắc chắn rồi, nếu điều này vô hiệu hóa một loạt các chinh phục mà Ai Cập đã thực hiện được trong qúa khứ, ngay từ thời tổng thống Sadat. Thí dụ như đối với điều kiện của nữ giới đã có một luật lệ rất là tiến bộ đối với hầu như toàn phần còn lại của thế giới hồi giáo. Như vậy nếu người ta lại đặt vấn đề đối với một vài giá trị mà chúng ta định nghĩa là văn minh, thì nó sẽ chỉ khơi dậy một phản ứng mạnh mẽ từ mọi phía tại Ai Cập, tuy là hồi giáo nhưng không còn thừa nhận các giá trị qúa khích của thứ Hồi giáo chính trị, như thứ Hồi giáo của đảng các Anh em Hồi giáo nữa.

Hỏi: Thưa giáo sư, ở đây chúng ta nói tới nữ giới, nhưng mà nó cũng liên quan tới các nhóm thiếu số nữa chứ… Đáp: Vâng, tất cả những điều này cũng liên quan tới các nhóm thiếu số. Chẳng hạn như các tín hữu chính thống Copte. Thiểu số chỉ là một kiểu nói, bởi vì đã không bao giờ có kiểm kê, vì người ta sợ vén mở cho thấy đâu là các sức mạnh của Giáo Hội Copte Ai Cập. Người ta nói rằng Giáo Hội này có hơn 10 triệu tín hữu. Nó đã không bao giờ là một thiểu số trong việc tranh luận cũng như trong vai trò chính trị tại Ai Cập. Cần nhớ rằng từ thời Mehmet ‘Ali là một người hồi, đã luôn luôn có các nhân vật kitô trong guồng máy chính quyền: phó tổng thống rồi các thủ tướng. Chính cuộc cách mạng năm 1919 là một trong những cuộc cách mạng cao qúy nhất của lịch sử Ai Cập, đã trông thấy các tín hữu hồi và các tín hữu kitô cùng cộng tác với nhau. Trong một nghĩa nào đó người ta cũng thấy như thế trong ”Mùa xuân” Ai Cập: nghĩa là có các dấu hiệu của công việc chung phải làm với nhau.

Hỏi: Dầu sao đi nữa thì việc bỏ phiếu Hiến pháp cũng là điều quan trọng, vì có một sự trống rỗng trong lúc này tại Ai Cập liên quan tới Hiến pháp. Có phải thế không thưa giáo sư? Đáp: Vâng. Một Quốc hội đã bị giải tán, một Quốc hội khác còn tiến tới một chút và sẽ phải lấp đầy khoảng trống này trong một cách thế nào đó. Trong lúc này đây thì Quốc hội lập hiến đang nắm giữ một vai trò mà tất cả những người đã biểu tình chống ông Mubarack đã dấn thân cho nó. Đây là một Hiến pháp mới, trong một quốc gia đang trải qua một thời kỳ chuyển tiếp dài. Và sự chuyển tiếp này sẽ không kết thúc với việc tái tổ chức các cơ cấu hiến pháp với một Hiến pháp mới có hình thức ”hơi hồi giáo hơn một chút”.

Cần phải xem cái ”hơi hồi giáo hơn một chút” đó có đụng chạm tới các giá trị không thể tách rời được khỏi nền văn minh đại đồng, chứ không phải chỉ là một phần của thế giới. Chẳng hạn như các giá trị liên quan tới sự bình đẳng giữa các phái tính trên bình diện pháp lý chính trị. Ai Cập hiện đang ở trong một giai đoạn không ổn định, một giai đoạn biến đổi. Nó có thể đi tới chỗ tốt đẹp hơn, nhưng cũng có thể đi tới chỗ đồi tệ hơn. Nhưng chỉ có thời gian mới có thể cho biết được nó sẽ như thế nào mà thôi.

Linh Tiến Khải – Vietvatican