BÀ GIÀ BÁN RAU

 BÀ GIÀ BÁN RAU

Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi!

Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã đàn ông, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

Gã liếc xuống nhìn xuống những mớ rau rồi đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Rồi phóng xe nhanh. Hắn nghĩ, mình thương người thì ai thương mình. Tiếng vọng của bà cụ vẫn con đó.

Lại có một cô gái nghe bà cụ mời mua rau. Rau như thế thì heo cũng không thèm ăn, nói chi người. Tiếng chát chua phát ra từ miệng cô.

Rồi có một người đàn ông khác đi đến, nghe thấy thế, liền hỏi giá bán rau, và mua hết số rau của bà già, nhưng cũng không quên dặn rằng: cho tôi gửi, khi về sẽ ghé lấy.

Ít hôm sau, người đàn ông ghé lại chỗ bà cụ bán rau. Người ta đang bàn tán về bà.

Anh hỏi có chuyện gì vậy, bà cụ bán rau đâu rồi?

Họ trả lời: Tội nghiệp bà cụ, già cả rồi, vậy mà hôm nọ có người mua rau rồi gửi lại, bà cố ngồi chờ để chủ đến lấy rau nhưng chẳng thấy họ đâu cả. Hôm đó trời lại mưa dữ dội suốt ngày, bà cụ cứ ngồi chờ đợi hoài trong giá rét. Vì lạnh quá bà già chịu không nổi, nên ngã bệnh và đã qua đời (sưu tầm).

Câu truyện thật cảm động về cảnh nghèo của cụ bà. Tuổi già, đáng lẽ bà được nghỉ ngơi sống an nhàn bên đoàn con cháu. Vậy mà bà vẫn phải tần tảo bán rau kiếm sống qua ngày. Cảnh nghèo của bà thật cảm thương.

Đọc chuyện ai cũng cảm phục thái độ sống của bà. Bà không thất hứa cho dù mưa gió bà vẫn chờ đợi để trao tận tay những bó rau đã bán. Có lẽ đây cũng là một bà góa quá nghèo. Bà sống nghèo và chân thành. Bà giữ chữ tín nên đã chết trong mưa rét.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay kể chuyện hai bà goá. Một bà trong bài Tin Mừng một bà trong bài Sách Các Vua. Chúa Giêsu gặp bà góa trong sân Đền Thờ Giêrusalem. Tiên tri Êlia gặp bà góa ở xứ Serepta. Một bà đã dâng vào thùng tiền Đền thờ hai đồng kẽm và một bà đã cho tiên tri Êlia một chiếc bánh nhỏ.

Thời Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do Thái để phạt vua tôi của nước này, vị ngôn sứ được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Ở đó, Êlia gặp một phụ nữ đầy lòng tin cậy vào lời hứa của Chúa. Bà đã dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Lương thực còn lại để nuôi sống gia đình, bà đã giúp Êlia. Bà góa có tấm lòng quảng đại nên Chúa đã chúc phúc cho bà: “Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán”.

Một bà góa thời Chúa Giêsu. Gầy gò bé nhỏ, nghèo nàn. Bà đem hai đồng tiền kẽm là tất cả những gì bà có và dâng vào Đền thờ. Rất nhiều người bỏ nhiều tiền vào hòm tiền. Chúa quan sát và khen bà góa đã bỏ nhiều hơn ai hết.

Hai bà góa có một đặc điểm giống nhau. Đó là họ đã dâng tất cả những gì cần thiết nhất cho cuộc sống của gia đình. Bà góa tại Sarepta dâng nắm bột chút dầu cuối cùng. Bà góa tại đền thờ dâng những đồng tiền cần thiết nhất của mình.

Hai bà góa được đề cao có phải vì quà tặng mà họ đã cho không? Hiển nhiên là không. Hai đồng kẽm thì có đáng là bao. Một chiếc bánh nhỏ thì có thấm tháp gì! Thánh Kinh đề cao họ là vì quà tặng ấy tuy nhỏ mọn mà gói ghém cả tấm lòng người dâng. Đồng kẽm của bà goá bỏ vào thùng tiền Đền thờ là cả tấm lòng của một bà già nghèo, là cả tài sản của bà. Chiếc bánh nhỏ của bà goá xứ Sarepte là cả một cuộc sống của hai mẹ con trong lúc sắp chết đói.

Của cho không bằng tấm lòng người cho. Cho của mình dư thừa thì chẳng đáng quý. Cho cái mình đang cần mới là thật quý. Cho cái mình vừa cần vừa tiếc mới là quý nhất.Của cho không bằng tấm lòng người cho. Của nhiều mà lòng ít thì không quý cho bằng của ít mà lòng nhiều.

Hai bà góa được đề cao là vì lòng yêu mến đối với người của Chúa và đối với nhà của Chúa. Họ được đề cao nhờ lòng yêu mến Chúa. Chính lòng yêu mến đã làm cho những hành động của hai bà góa có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.

Biết bao người giàu có quý phái sang trọng bỏ tiền vào Đền thờ, thế mà Chúa chẳng khen ai. Chúa chỉ khen bà góa và cho rằng bà này bỏ nhiều hơn những người khác: “Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống”. Bà goá bỏ tiền ít hơn mọi người, nhưng dưới mắt Chúa Giêsu, bà đã bỏ nhiều hơn cả, vì bà đã bỏ tất cả. Của dâng cúng của bà góa, xét về số lượng chẳng có là bao, nhưng về chất lượng lại đong đầy đức tin, đức cậy và đức mến.Chúa đánh giá không dựa theo khối lượng nhưng dựa theo chất lượng. Chúa không nhìn bề ngoài nhưng nhìn vào tấm lòng.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu giúp ta xét lại lối đánh giá của mình về người khác. Lắm khi ta cứ theo hình dáng bề ngoài, theo y phục, theo tiền của mà đánh giá. Chuộng hình thức hơn nội dung. Thích thành tích hơn thực chất.

Thời đại ngày nay, người ta bị hấp dẫn về mẫu mã, quảng cáo, tuyên truyền, hơn là chất lượng sản phẩm. Hàng hóa thực phẩm giả dối lan tràn khắp nơi, gây nên biết bao tai họa.

Lối đánh giá của Chúa Giêsu cũng đòi ta xét lại lối đánh giá của mình về chính mình. Nhiều khi làm điều tốt cho ai, ta cũng mong được hoàn trả cách này cách khác.Có khi mong được trả lại tương đương hay hậu hỹ hơn.Có khi mong trả lại bằng một bia đá ghi công hay một lời tri ân. Ta cảm thấy buồn, đau khổ khi bị chê, tự mãn khi được người khác khen.

Đối với Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với trọn tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là quà tặng quý hóa nhất. Của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng. Theo số lượng thì một phần tư đồng xu là quá ít ỏi. Có thể hai đồng đồng kẽm mua được một ổ bánh mì, một lon gạo, một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm đó. Bà góa cũng không sợ bị chê cười vì bỏ quá ít so với người khác. Bà chấp nhận mình thấp hèn thua kém người khác. Nhưng với Chúa Giêsu, hai đồng tiền nhỏ của bà lại nhiều hơn hết. Không phải số lượng việc làm hay tiền của dâng cúng mà Thiên Chúa yêu thích, nhưng là một tấm lòng thuộc trọn vẹn về Người.

Thánh Máccô mô tả sự tương phản: các Kinh sư xúng xính trong bộ áo thụng, bà goá đơn sơ nghèo nàn. Bà góa không lo lắng cho chính mình mà chỉ hướng về Thiên Chúa. Bà dâng cúng tất cả những gì đang có vào đền thờ. Bà không lo đến tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết phụng sự. Bà thật là người thành tâm, thiện chí. Các Kinh sư làm việc đạo đức chỉ vì muốn có danh lợi và địa vị. Họ mặc lễ phục trịnh trọng, làm bộ đọc kinh nguyện lâu giờ chỉ để cầu mong được kính trọng chào hỏi, muốn ngồi chỗ danh dự nhất, lo kiếm được nhiều tiền của biếu tặng. Các Kinh sư chỉ nghĩ đến mình và tận dụng mọi sự, mọi người và ngay cả việc thờ phượng Thiên Chúa để làm giàu cho riêng mình.

Việc từ thiện, việc đạo đức, nếu không có lòng yêu mến thì chỉ là phương tiện tìm danh giá và tìm lợi nhuận. Hạng người như thế ở thời đại nào và ở đâu cũng có với những cách thức khác nhau. Họ là tỷ phú hay triệu phú, họ bỏ ra một vài triệu để đóng góp vào công việc từ thiện hay xây cất những công trình công cộng với động lực chính là mua tiếng tăm.

Lắm người có địa vị cao nhưng tâm hồn lại thấp. Có những người nghèo khó nhưng tâm hồn rất cao thượng. Có những người giàu có nhưng rất bủn xỉn. Có những người nghèo khổ nhưng rất quảng đại.

Nhiều người giàu tiền giàu của nhưng lại rất nghèo vì họ không có gì để cho người khác. Họ nghèo lòng nhân ái, nghèo sự cảm thông và nghèo lòng trắc ẩn. Ngược lại, có những người rất nghèo vật chất nhưng lại thật giàu có vì họ luôn có gì đó để sẻ chia. Họ giàu lòng nhân ái, giàu lòng vị tha, giàu tình thương mến.

Mẹ Têrêsa kể lại một câu chuyện. Một ngày nọ, mẹ đi xuống phố và một người ăn mày đến gặp mẹ và nói : “Thưa mẹ Têrêsa, mọi người đều cho mẹ tiền. Tôi cũng muốn cho mẹ tiền. Hôm nay, suốt cả ngày, tôi chỉ có được ba mươi xu. Tôi muốn cho mẹ số tiền ấy”.

Mẹ Têrêsa suy nghĩ một lúc : “Nếu tôi lấy ba mươi xu thì tối nay anh ta sẽ phải nhịn ăn; còn nếu tôi không lấy, tôi sẽ làm tình cảm anh ta tổn thương. Vì thế tôi đưa tay ra để lấy số tiền ấy. Tôi chưa bao giờ thấy được niềm vui như thế trên khuôn mặt ai như trên khuôn mặt của người ăn mày đó khi anh ta nghĩ rằng mình cũng đã cho tiền mẹ Têrêsa”.

Mẹ Têrêsa nói tiếp: “Đối với người đàn ông nghèo này, phải ngồi suốt cả ngày để chỉ xin được ba mươi xu. Đẹp biết bao, ba mươi xu như thế là một món tiền nhỏ, và có thể tôi chẳng mua được gì nhưng vì anh ta đã cho nó và tôi đã lấy nó, nó trở nên gấp ngàn lần bởi vì nó đã được cho với bao yêu thương. Thiên Chúa nhìn thấy không phải là sự to tát của công việc, mà vào tình yêu thương qua đó công việc được hoàn thành”.

Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa, nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít nữa những gì thuộc về bản thân, những gì liên hệ tới chính con người của mình thì kể là người ta chưa dâng hiến gì cả. Mẹ Têrêxa nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống quảng đại với Chúa và với tha nhân. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

DÂNG CHO CHÚA

 DÂNG CHO CHÚA

CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN NĂM B (11/11/2012)
 [1 V 17,10-16; Dt 9,24-28; Mc 12,38-44]

Nếu bà góa Sarépta không lấy chút bột, chút dầu nhỏ bé kia mà làm bánh cho Êlia ăn, thì mẹ con bà cũng chỉ ăn được trong ngày ấy mà thôi, rồi sẽ chết. Nhưng vì lòng tin và lòng quảng đại, bà nghĩ  rằng: nếu ta không lấy chút bột chút dầu kia mà cứu người đang đói là Êlia, thì hẳn Êlia sẽ chết. Việc cần làm ngay là phải cứu người. Còn việc của mình: Chúa sẽ liệu lo.
 
Và khi bà đã thực hiện như  lòng tin và quảng đại, phép lạ đã xảy ra, đó là, hũ bột không vơi, bình dầu không cạn, mẹ con bà không chết đói. “Bà ấy đi và làm như ông Êlia nói; thế là bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Êlia mà phán” (1 V 17, 15 – 16).
 
Thiên Chúa thật công bằng! Và công bằng của Ngài không chỉ là trả lại vừa đủ cho ta những gì ta cho đi, mà còn trả lại gấp trăm.
 
Hình ảnh bà góa Sarépta được nhắc lại trong Tin Mừng theo Thánh Marcô, Nhưng ở đây, đồng tiền của bà góa, đồng tiền nuôi sống bà ta một ngày đời, được kể là đồng tiền có giá trị nhất trước mắt Thiên Chúa. Trong mắt những người bỏ tiền dâng cúng vào hòm, thì có thể họ khinh miệt bà góa ấy, hoặc họ chê trách bà ấy thà đừng bỏ vào hòm tiền thì hơn, nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới nhìn thấu tận cõi lòng bà, hiểu được tấm lòng quảng đại của bà, vì đồng tiền ấy là cả sự nghiệp của bà. Bà không đợi đến lúc có dư ra 5 bảy đồng mới dâng cúng được một đồng, nhưng bà dâng ngay tất cả những gì mình có trong lúc cùng cực nhất, bế tắc nhất. “Quả vậy, mọi người điều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để sống" (Mc 12, 44 ).
 
Có vài người không bao giờ xin lễ cho các linh hồn, vì cho rằng chưa có lúc nào nhà mình thong thả dư ra được vài chục nghìn.
 
Cũng có người không thể dâng cúng cho công việc xây dựng Nhà Thờ, vì người ta dâng tiền triệu, há lẽ tôi lại dâng tiền trăm, tiền chục ngàn. Khó coi quá!
 
Còn có người không thể giúp kẻ hoạn nạn, bởi vì cho rằng tôi còn chưa lo được cho tôi, nói gì đến chuyện giúp người.
 
Không phải tất cả như thế đâu. May quá, tôi tìm thấy trong danh sách công khai của linh mục Quang Uy về  việc xin trợ giúp các trường hợp bệnh hoạn khẩn cấp của Trung Tâm Mục Vụ DCCT, có cả những người đã giúp 500 USD và cũng có người từng giúp 50.000 VND. Đành rằng có khoản nhiều hơn và ít hơn gấp 200 lần nhưng giá trị trước mặt Chúa không nằm ở những con số. 50.000 VND kia có thể là một ngày công của chị bán bắp, của cô bán xôi, của những người xa quê bán bánh tráng, lạc rang đi suốt một ngày mòn mỏi trên các ngõ phố.
 
Uống nước trước Bệnh Viện Tim Việt – Pháp, bạn có  thể gặp cả trăm người từ miền Trung vào buôn bán nhỏ. Trước mắt tôi, một chị khoảng 45 tuổi, người Quảng Ngãi, bán bánh tráng, lạc rang, gặp người quen ở quê vào chữa bệnh tim cho con. Sau mấy câu thăm hỏi, chị dúi vào tay chị bạn 80.000 đồng: “Em gửi cho cháu vài hộp sữa. Cầm đi chị, mang tiếng vào Sàigòn làm ăn, nhưng một ngày của em chỉ được chừng ấy”. 80.000 so với ca mổ tim vài chục triệu thì có thấm vào đâu. Nhưng chị kia nắm tiền trong tay mà rưng rưng nước mắt. Tôi tò mò đi theo chị đã làm từ thiện dò hỏi, mới biết, chị vào trong nầy thuê nhà trọ ở chung với con gái đi học đại học. Một là “trông nom con gái, sợ xa cha mẹ ở đất Sàigòn này dễ hư lắm anh ạ”, hai là “kiếm thêm và để dành đóng tiền nhà và tiền học phí cho con”… “Mẹ con em quen ăn mì tôm rồi anh ạ. Ăn mì tôm vài hôm thì cũng dư ra được gần trăm ngàn”. Hỏi chị theo đạo nào, chị nói: “Nhà em không theo đạo nào cả, thờ Ông Bà”.
 
Như vậy, cũng có người chắt bóp giảm chi tiêu  để có được chút gì mà giúp đỡ kẻ  khác. Người ấy chắc chưa từng nghe những đoạn Lời Chúa hôm nay, nhưng tấm lòng của họ thật đáng quí. Người Công Giáo vẫn gọi họ là người “lương” đúng nghĩa lương thiện, tốt lành.
 
Còn người Công Giáo chúng ta thì sao? Đoạn Tin Mừng về đồng tiền của bà góa nghe đi nghe lại nhiều lần trong đời, nhưng chúng ta vẫn chưa đem ra thực hành chỉ vì một lý do rất đơn giản: Chưa đủ tin vào quyền năng của Thiên Chúa, hoặc tồi tệ hơn, vì vẫn kiêu ngạo mà quá tin vào sức riêng của mình.
 
Ông C. tim bị hẹp động mạch vành, hay mệt và đã có lần thoát cơn tai biến nhờ cấp cứu kịp. Chị H. mới quen biết ông, nhưng nghe tin ông cần tiền thuốc hằng tháng, chị hẹn xin gặp và trao cho ông bì thư với 3 triệu đồng. Ông C. ngần ngừ không dám nhận. Chị nói: “Có người gửi cho em để giúp kẻ khó. Em đâu được giữ mãi cho em”. Thiết nghĩ đây chỉ là cách nói. Vừa cầm tiền về đến nhà, ông C. nghe tin có một cháu cạnh nhà đi làm về bị tai nạn, bệnh viện trên tỉnh chê rồi, chuyển Chợ Rẫy gấp. Ông C. sang nhà và trao ngay bì thư 1 triệu rưỡi. “Có người mới gửi cho cháu”. Về nhà, ông nghe tim mình nhịp đều những nhịp hạnh phúc.
 
Ước gì có nhiều người Công Giáo như chị H, như  ông C. Những người luôn biết cho đi là những người hạnh phúc.
 
Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta được hạnh phúc nhờ  ĐỨC TIN mà tín thác vào Đấng có thể  ban cho chúng ta mọi sự cần. Ngài biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết chúng ta. Ngài lo lắng cho chúng ta nhiều hơn chúng ta lo lắng cho bản thân mình.
 
Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ “ở hiền, gặp lành” như chị bán bánh tráng, lạc rang, mà các Kitô hữu còn phải biết vượt lên trên cách sống tự nhiên ấy, để mỗi dâng cúng của ta cho người, là một lần minh chứng Đức Tin của chúng ta rằng Thiên Chúa luôn quan phòng gìn giữ những ai sống và thực thi ý muốn của Chúa.
 
Lời Chúa còn nhắc nhớ mỗi chúng ta đừng đánh giá sai lầm những cống hiến âm thầm, nhỏ  nhoi, nhưng hãy xét lại những cống hiến của mình xem có  phải đã cống hiến vì lòng tin, vì lòng quảng đại hay không.
 
Trong những cống hiến âm thầm cho nhân loại, tôi phải nghĩ tới những lời nguyện ít ai biết  đến, không ai nghe, chẳng ai thấy của những kẻ đau khổ trên giường bệnh, cùng cực trên đường đời, bị áp bức trong nơi tù đày côi cút… Những lời nguyện ấy là sự dâng hiến cho Thiên Chúa cách đáng trân trọng, để Thiên Chúa ban muôn hồng phúc cho mọi người.
 
Như chú thích cho sự dâng hiến của bà  góa, của chúng ta, Thánh Phaolô nhắc đến việc Chúa Giêsu đã “tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình” (x. Dt 9, 24 – 28). Vậy mỗi lần chúng ta tín thác vào Thiên Chúa và sẵn lòng mất đi, sẵn lòng chia sẻ sự sống, niềm vui cho người khác, hẳn là chúng ta đang góp phần vào việc tiêu diệt các tội lỗi trong chúng ta để mỗi ngày chúng ta được xứng đáng lãnh hồng ân cứu độ hơn.
 
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thoát khỏi căn bệnh chần chừ, nghi ngại. Xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con biết tín thác vào lòng thương xót và sự  quan phòng của Chúa mà dâng hiến cuộc sống của chính mình cho Chúa, cho mọi người. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

TẤM LÒNG VÀNG

 TẤM LÒNG VÀNG

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giê-su lên án các kinh sư giả hình chỉ thích phô trương bộ vó bên ngoài, huênh hoang nơi lỗ miệng, còn trong lòng thì rỗng tuếch (Mc 12, 38-40). Tiếp liền theo đó là câu chuyện một bà goá nghèo bỏ vào thùng tiền quyên góp cho nhà thờ 2 đồng tiền kẽm là tất cả tài sản của bà. Có một điều rất thú vị là đám người kinh sư Pha-ri-sêu “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” lại là những người “nuốt hết tài sản của các bà goá”. Thế đấy! Để có được bộ vó bảnh choẹ, đám người chỉ thích ăn trên ngồi trước “nói mà không làm” lại đi bóc lột tận xương tuỷ các bà goá. Trong khi đó thì một bà goá nghèo đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."

Chỉ trong một  đoạn văn ngắn, Thánh Mac-cô trình thuật Lời dạy của Đức Giê-su nêu bật hai hình ảnh trái ngược: Một bên là hình ảnh đám kinh sư chỉ chú trọng phô trương hình thức sang trọng oai vệ bề ngoài, chỉ thích “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy” nhưng “họ nói mà không làm” (Mt 23, 2-3), vì thực chất họ chỉ là thứ “thùng rỗng kêu to”. Còn một bên là thái độ đạo đức đích thực nơi người góa phụ. Bà đã bỏ nhiều hơn ai hết, vì mọi người lấy tiền của dư thừa bỏ vào, còn bà thì lấy tất cả của độ thân mà dâng cúng. Trước đó, từ thời Cựu Ước, cũng có một bà goá nghèo có hành động như vậy (bài đọc 1 – 1V 17, 10-16): Khi nghe ngôn sứ Ê-li-a xin nước, bà đã mau mắn lấy nước cho ngài, nhưng khi ngài xin bánh, thì bà nói: "Có ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết." (1V 17, 12). Cứ tưởng bà trả lời như vậy rồi, thì bà sẽ không nhường chút bột và dầu ấy cho ngôn sứ. Bà đã sống trong cảnh lầm than cùng cực, chỉ còn một chút dầu, một chút bột để làm bánh cho 2 mẹ con ăn bữa cuối cùng rồi chờ chết; nhưng thật lạ lùng, bà lại sẵn sàng nhịn ăn mà nhường chút lương thực cuối cùng ấy cho “người của Đức Chúa” là ngôn sứ Ê-li-a. Người đàn bà góa ở Sa-rep-ta và bà góa trong đoạn Tin Mừng hôm nay ở hai môi trương và nhất là hai thời điểm lich sử khác nhau, nhưng lại có chung một nhân cách sống: Đó là cả hai đều có một tấm lòng vàng.

Chuyện bà goà chân thành giản dị  dùng hết số tiền mình có dâng cúng vào đền thờ hoặc như bà goá Sa-rep-ta dùng ngay bữa ăn cuối cùng của 2 mẹ con để đãi “người của Đức Chúa”, còn mình thì sẵn sàng nhịn đói chờ chết, khác xa – nếu không muốn nói là đối nghịch hẳn – với hạng người xúng xính trong bộ vó sặc sỡ cồng kềnh. Chẳng cần đi sâu vào nhận xét hành động bộc lộ nội tâm, cứ nhìn cái vẻ bề ngoài đơn sơ chất phác của các bà goá, so với cái vỏ hào nhoáng kênh kiệu của đám kinh sư, cũng đã thấy được bản chất của giai cấp mà họ là đại diện. Mấu chốt vấn đề chính là ở sự chân thành và lòng tin hay nói cách khác là tình yêu. Chỉ vì tình yêu mà hai bà goá sẵn sàng dâng hiến đến đồng tiền, nắm bột cuối cùng của đời mình. Cũng vì thiếu tình yêu nên đám kinh sư “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 4), sẵn sàng “nuốt hết tài sản của các bà goá” (Mc 12, 40).

Nói đến Tình yêu là nói đến “cho” và “nhận”. “Cho” và “nhận” là 2 khái niệm tương phản về mặt ý nghĩa, hành động, nhưng lại đồng nhất về mục đích: Tình Yêu – Tình yêu nhận về (eros) và Tình yêu cho đi (agape). Tình yêu nhận về là tình yêu chiếm hữu (amor concupiscentiae), vị kỷ (vì mình), thường giới hạn ở giới tính (tình yêu nam nữ); Tình yêu cho đi là tình yêu vị tha (vì người – amor benevolentiae), là tình yêu mở rộng đến không còn giới hạn (bác ái), và như thế chính là đích điểm tột cùng của tình yêu: Thiên Chúa Tình Yêu (“Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. Eros vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với agape” – Tđ “Thiên Chúa là Tình Yêu”, số 1).

Thiên Chúa luôn “cho đi” một cách nhưng không, Người không hề đòi sự đáp trả; nhưng với con nguời thì có khác: cho đi nhưng cũng muốn nhận về nhiều hơn. Cứ nhìn xem cảnh cứu trợ nạn nhân thiên tai (bão lụt, động đất…), nạn nhân chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật…, cũng thấy không ít cảnh “cho” mà vẫn muốn “nhận” về hoặc một lời tri ân, hoặc một tấm bằng khen, một sự nổi tiếng, thậm chí có nhiều khi còn “cho tay mặt, bắt tay trái”, hoặc của cho là của bá tính nhưng lại nhận là của mình (“mượn đầu heo nấu cháo”) rồi thì xà xẻo, đục khoét, rút ruột… đủ kiểu. Rất thích “cho” nhưng là cho những của dư thừa, hoặc “mượn đầu heo nấu cháo”, cốt để khoe sự giàu sang, tính tình hào phóng, thương người. Song song với kiểu cho như vậy thì lại muốn “nhận” về đủ thứ lợi lộc, như vậy thì chẳng phải là “cho tay mặt bắt tay trái” đó sao? Nếu chẳng vậy thì Đức Ki-tô đã không dạy: “Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo” (Mt 6, 3-4). Như vậy, cho hay nhận chỉ là những hành vi được thực hiện bởi một động lực nhắm đến một mục đích nào đó. Hành vi ấy có thể xuất phát từ động lực nội tâm với mục đích thực thi Lời Chúa (“Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người” – Lc 11, 41); nhưng cũng có thể xuất phát từ một động lực ngoại tại (ham chuộng hư danh, tham vọng quyền thế…), nhắm đến một mục đích khác (tranh bá đồ vương về chính trị, tranh quyền đoạt lợi về kinh tế…).

Suy cho cùng, thì con người chỉ là một thụ tạo đi từ “không” đến “không” (từ tro bụi lại trở về với bụi tro). Sự hiện diện của con người trên trái đất chính là nhờ vào Tình Yêu Thiên Chúa ban tặng. Vì thế, con người cần phải ý thức đến ngay chính thân xác mình cũng chỉ là món quà Tình Yêu do Thiên Chúa ban tặng. Thân xác ấy có tồn tại trên thế gian này nhiều lắm cũng chỉ là “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát) mà thôi. Cái thân xác ấy chỉ là phù du, vậy thì những danh vọng tạo được hoặc những của cải vật chất do chính thân xác ấy làm ra, thì cũng chỉ là những hư danh, những ảo ảnh, những thứ phù phiếm chóng qua mà thôi. Nhận chân được vấn đề, con người sẽ thấy được là mình đã “nhận về” từ Thiên Chúa tất cả (từ con người đến cuộc sống trần thế của mình) và mình phải có bổn phận đáp trả. Thiên Chúa không đòi hỏi sự đáp trả, vậy thì con người đáp trả bằng cách nào đây? Đó chính là “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10, 8).

Chính 2 bà goá trong các bài đọc hôm nay đã làm như vậy. Và như thế, 2 bà tuy không đọc vanh vách Thánh Kinh, nói thao thao Lề luật như các kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu, nhưng đã sống Lời Chúa một cách sinh động hơn ai hết. Nói đến sống Lời Chúa thì không gì bằng đến với hiện thân Lời Chúa mặc xác phàm: Ngôi Lời nhập thể. Bài Đọc II (Dt 9, 24-28) trong Thánh  lễ hôm nay đã nói rất rõ: Ngôi Lời Giê-su Ki-tô đã “lấy máu mình lập Giao Ước mới” (“Bởi vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa”  – Dt 9, 15). Vì lòng thương yêu, Người đã đến trần gian lần thứ nhất thực hiện Giao Ước Mới bằng cách lấy chính Máu Thịt mình làm của Lễ Hy Sinh để cứu chuộc nhân loại, và “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông đợi Người” (Dt 9, 28).

Thánh Phao-lô đã rất chí lý khi đem chính bản thân đặt vào những giả thiết về tất cả mọi hành vi của con người – đặc biệt là hành động “cho” (bố thí) – khi thực hiện mà thiếu tình yêu thì cũng chẳng ích lợi gì ("Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi." – 1Cr 13, 3). Cuối cùng, Thánh nhân khẳng định: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”  (1Cr 13, 1-13). Để được nên như người bạn trung thành tuyệt đối của Đức Ki-tô (Ki-tô hữu), thì mọi Ki-tô hữu hãy nhìn lại mình xem khi bố thí mình có “cho tay phải biết việc tay trái làm”, có “cho tay mặt bắt tay trái”, có thích “nhận về” hơn là “cho đi” hay không? Đồng thời cầu xin Chúa ban cho một đức tin vững mạnh, một lòng mến chân thành, để sống và hành động trong mọi việc, ở mọi nơi, trong mọi lúc, với tất cả tấm lòng “mến Chúa yêu người”, chớ không phải để được đề cao, để được ghi tên, khắc tuổi trên bảng vàng, bia đá cho người đời ca tụng.

Lời khuyên cuối cùng và thiết thực nhất dành cho kẻ viết bài này, xin được chia sẻ với anh em xa gần, đó là: “Đừng xoè tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi” (Hc 4, 31), mà “hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người” (Lc 11, 41). Ấy cũng bởi vì chính Ngôi Lời đã dạy: “cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20, 35) và Người đã thực hiện bằng Hy tế Thập giá trên đồi Can-vê. Ước được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

Đức Thánh Cha cỗ võ các ca đoàn

Đức Thánh Cha cỗ võ các ca đoàn

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 đề cao vai trò của thánh nhạc trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng và khích lệ các ca đoàn tích cực cộng tác vào công trình này.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 10 tháng 11-2012, dành cho 6 ngàn tham dự viên cuộc gặp gỡ do hiệp hội Italia các ca đoàn Cecilia tổ chức.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhắc đến vai trò của thánh nhạc, với kinh nghiệm và chứng từ của thánh Augustino, kể lại sự xúc động đến rơi lệ của Người khi được nghe thánh ca tại Milano lúc mới tìm được đức tin. ĐTC nói: ”Cảm nghiệm về các bài thánh ca Ambroxio mạnh mẽ đến độ thánh Augustino ghi khắc những thánh ca ấy trong ký ức và thường trưng dẫn trong các tác phẩm của Người, và thánh nhân cũng đã viết tác phẩm De Musica về âm nhạc. Thánh Augustino xác quyết rằng âm nhạc và bài ca hay có thể giúp đón nhận Lời Chúa và cảm thấy một sự xúc động lành mạnh. Chứng từ của thánh Augustino giúp chúng ta hiểu điều mà Hiến chế “Sacrosanctum Concilium” của Công đồng chung Vatican 2, theo truyền thống của Giáo Hội, dạy rằng ”Thánh ca, cùng với lời nhạc, là thành phần cần thiết và đích thực của phụng vụ trọng thể” (n.112).

ĐTC cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh nhạc trong việc truyền giáo cho dân ngoại và tái truyền giảng Tin Mừng. Ngài nhắc lại kinh nghiệm của văn hào Paul Claudel người Pháp, Ông đã trở lại nhờ nghe thánh ca Magnificat trong buổi hát Kinh Chiều lễ Giáng Sinh tại Nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris. Ông kể lại: ”Trong lúc ấy, xảy ra một biến cố ảnh hưởng trọn cuộc sống của tôi. Trong khoảnh khắc, tâm hồn tôi được đánh động và tôi đã tin. Tôi tin với một sức mạnh gắn bó mạnh mẽ, với một sự nâng bổng trọn con người của tôi, với một xác tín vững mạnh, chắc chắn, đến độ không còn chỗ nào cho sự nghi ngờ, và trong cuộc sống sau đó của tội, không một lý luận nào, không một hoàn cảnh nào trong cuộc đời chao đảo của tôi có thể làm lay chuyển đức tin hoặc động chạm được đến đức tin ấy”.

Và ĐTC nhắn nhủ thành viên các ca đoàn rằng: ”Anh chị em có một vai trò quan trọng: hãy dấn thân cải tiến chất lượng thánh ca phụng vụ, đừng sợ phục hồi và đề cao giá trị đại truyền thống âm nhạc của Giáo Hội. Truyền thống này được biểu lộ ở mức độ cao nhất trong nhạc bình ca và đa âm, như chính Công đồng chung Vatican 2 đã quả quyết” (S.C. 116) (SD 10-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha thành lập Hàn Lâm Viện Tòa thánh về tiếng la tinh

Đức Thánh Cha thành lập Hàn Lâm Viện Tòa thánh về tiếng la tinh

VATICAN. Hôm 10 tháng 11-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã ban hành Tự Sắc ”Latina Lingua” thành lập Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng la tinh nhắm cổ võ việc học tiếng la tinh trong các cơ sở giáo dục Công Giáo.

Trong phần đầu của Tự Sắc, ĐTC nhắc đến tầm quan trọng của tiếng la tinh trong truyền thống Giáo Hội, sự suy giảm việc học ngôn ngữ này trong các chủng viện và học viện của Giáo Hội, và hiện tượng tái quan tâm đến tiếng la tinh tại nhiều nơi kể cả trong giới văn hóa đời. Để góp phần hỗ trợ nỗ lực quảng bá sự hiểu biết và sử dụng tiếng la tinh trong lãnh vực Giáo Hội cũng như trong môi trường văn hóa rộng lớn hơn, ĐTC quyết định thành lập Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng la tinh, trực thuộc Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa.

Hàn lâm viện này có một vị Chủ tịch, một vị Tổng thư ký do ĐTC bổ nhiệm, và có một Hội đồng học vụ.
Phần hai của Tự Sắc trình bày qui chế của Hàn Lâm Viện Tòa Thánh về tiếng la tinh, gồm 10 điều khoản, được ĐTC phê chuẩn để thử nghiệm trong vòng 5 năm.

Khoản 2 của qui chế xác định rằng: Mục đích Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng la tinh là cổ võ sự hiểu biết và học tiếng la tinh và văn chương la tinh cổ điển cũng như văn chương giáo phụ, tiếng la tinh thời trung cổ và thời nhân bản (thế kỷ 14), đặc biệt trong các cơ sở giáo dục Công Giáo, nơi mà các chủng sinh và LM được huấn luyện. Ngoài ra, Hàn lâm viện cũng cổ võ việc việc sử dụng tiếng la tinh như ngôn ngữ viết và nói.

Để đạt tới những mục tiêu ấy, Hàn lâm viện Tòa Thánh chăm lo ấn hành sách báo, tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội nghị nghiên cứu và các trình diễn nghệ thuật; mở và nâng đỡ các khóa học, các cuộc hội luận và cc sáng kiến giáo dục khác, cộng tác với Giáo Hoàng Học Viện cao đẳng về la tinh; giáo dục các thế hệ trẻ về tiếng la tinh, kể cả qua các phương tiện truyền thông hiện đại…

Các điều khoản kế tiếp nói về nhiệm vụ của vị Chủ tịch, và tổng thư ký của Hàn lâm viện do ĐTC bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm; tiếp đến là Hội đồng học vụ. Hàn lâm viện có các viện sĩ chính ngạch, với con số không quá 50 người, do Vị Quốc vụ khanh Tòa Thánh bổ nhiệm. Khi còn 80 tuổi, họ trở thành viện sĩ danh dự (emeriti). Ngoài ra có các viện sĩ thông tấn (membri corrispondenti).

Tự Sắc của ĐTC cũng tuyên bố chấm dứt tổ chức Latinitas và tạp chí Latinitas của tổ chức này.

Cũng ngày 10-11-2012 ĐTC đã bổ nhiệm Giáo Sư Ivano Dionigi, Viện trưởng đại học Bologna, làm Chủ tịch đầu tiên của Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng la tinh, đồng thời bổ nhiệm cha Roberto Spataro, dòng Don Bosco, làm Tổng thư ký của Viện này. (SD 10-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

THIÊN CHÚA THẤU SUỐT NHỮNG GÌ KÍN ĐÁO (CHÚA NHẬT XXXII/B)

THIÊN CHÚA THẤU SUỐT NHỮNG GÌ KÍN ĐÁO (CHÚA NHẬT XXXII/B)

LỜI CHÚA: Máccô 12,38-44

Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: ”Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà góa: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn”.. Đức Chúa GIÊSU ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà góa nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: ”Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống”.

SUY NIỆM

Giáo huấn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ nhấn mạnh đến nhân đức Khiêm Nhường và sự kiện Các Việc Lành Phúc Đức – dầu vô cùng nhỏ bé và ẩn kín đến đâu đi nữa – nếu được thực hiện với tấm lòng ngay chính chân thành thì đều cao trọng trước mặt THIÊN CHÚA là CHA, Đấng thấu suốt mọi sự.

Trong quan hệ xã hội và mối giao tế thường ngày, ai ai cũng quý mến người nhũn nhặn khiêm tốn. Người khiêm tốn kính trọng và nhường bước cho tha nhân. Người khiêm tốn yêu thương và mau mắn giúp đỡ mọi người, không phân biệt giai cấp sang hèn. Người khiêm tốn nhìn tha nhân với cặp mắt khoan hòa quảng đại, không kết án cũng không thành kiến. Khiêm tốn là kết quả của một nền giáo dục nhân bản luôn luôn biết quên mình, từ bỏ chính mình. Khiêm tốn là nhân đức vô cùng cao quý giúp con người thực hiện không biết bao nhiêu hành động và cử chỉ anh hùng. Anh hùng ở đây không phải là những hành động vĩ đại diễn ra nơi đám đông và được mọi người ngưỡng mộ hoan hô. Anh hùng như thế tự nó đã được lãnh phần thưởng rồi. Trong khi có những cử chỉ vô cùng nhỏ bé diễn tả nơi âm thầm kín ẩn vẫn được xem là anh hùng, bởi vì, những cử chỉ này đòi hỏi tâm tình khiêm tốn. Người khiêm tốn làm việc lành phúc đức chỉ vì lý do là để mưu ích cho tha nhân. Còn hơn thế nữa, vì đó là các việc đạo đức rất đẹp lòng THIÊN CHÚA. Chỉ duy nhất THIÊN CHÚA trông thấy và chúc lành.

Đi vào bình diện thiêng liêng, người khiêm tốn chấp nhận tất cả và luôn luôn tuân giữ các giới răn của THIÊN CHÚA. Mẫu gương khiêm tốn tuyệt vời trổi vượt trên mọi loài thọ sinh là Đức MARIA, Mẹ THIÊN CHÚA. Trong bài ca Magnificat Đức Mẹ nói: ”Linh Hồn con ngợi khen THIÊN CHÚA, thần trí con hớn hở vui mừng vì THIÊN CHÚA, Đấng cứu độ con. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen con diễm phúc .. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”.

Chính Đức Chúa GIÊSU xác nhận: ”Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mátthêu 23,12). Cũng chính Ngài mời gọi: ”Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Thầy, Thầy sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Các con hãy mang lấy ách của Thầy, và hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm tốn. Tâm hồn các con sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Thầy êm ái và gánh Thầy nhẹ nhàng” (Mátthêu 11,28-30).

Đức Chúa GIÊSU nhắn nhủ thêm: ”Khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc các con bố thí được kín đáo. Và CHA các con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho các con .. Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng CHA các con, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và CHA các con, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho các con” (Mátthêu 6,3-4+7).

Như thế, lòng khiêm tốn đi đôi với sự kín đáo. Bí thuật con đường nên thánh hệ tại việc quên mình từ sáng đến tối, luôn sống hy sinh, gạt bỏ cái tôi qua một bên và tự để cho THIÊN CHÚA nhào nắn. Nhận lãnh các ơn do lòng nhân hậu THIÊN CHÚA ban với lòng khiêm tốn sâu xa, vì biết rõ mình bất xứng. Người khiêm tốn luôn sống dưới sự hiện diện của THIÊN CHÚA và làm tất cả mọi sự dưới cái nhìn của THIÊN CHÚA. Người khiêm tốn chỉ xin Chúa làm chứng nhân cho những cố gắng của mình và là phần thưởng duy nhất cho mình. Còn lại tất cả đều không đáng kể. Tóm lại, sự thánh thiện đích thực là mong muốn thuộc về Đức Chúa GIÊSU KITÔ, chỉ sống chỉ thở vì Người và chỉ tìm kiếm vinh quang THIÊN CHÚA mà thôi. Thánh Phaolô tông đồ khuyên nhủ: ”Hãy coi chừng: đừng có ai lấy ác báo ác, nhưng hãy luôn luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người. Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh chị em hãy làm như vậy, đó là điều THIÊN CHÚA muốn, trong Đức KITÔ GIÊSU” (1Thêxalônica 5,15-18).

Lạy Đức Chúa GIÊSU hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Xin Chúa uốn lòng chúng con nên giống như Rất Thánh Trái Tim Chúa.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
 

 

Chỉ huy trưởng Hiến binh Vatican kêu gọi bảo vệ các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo

Chỉ huy trưởng Hiến binh Vatican kêu gọi bảo vệ các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo

ROMA. Chỉ huy trưởng đoàn Hiến binh Vatican, ông Domenico Gianni, kêu gọi tăng cường việc bảo vệ các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo ở các nơi trên thế giới.

Trong bài tham luận hôm 7 tháng 11-2012 tại Đại hội thứ 81 của tổ chức Interpol, cảnh sát quốc tế, nhóm tại Roma, ông Gianni cho biết các thánh đường, đặc biệt tại Italia và Âu châu, đầy những tác phẩm nghệ thuật mà kẻ trộm có thể ăn cắp dễ dàng, nhất là khi một thánh đường không ai coi sóc, hoặc khi LM và dân chúng địa phương không biết rõ giá trị các tác phẩm ấy. Nhiều tác phẩm nghệ thuật tôn giáo khó bảo vệ vì thường ở trong các thánh đường hẻo lánh, không có các biện pháp bảo vệ.

Theo ông Gianni, tuy Vatican không có những vấn đề như thế, nhưng cũng là một đối tượng của những kẻ trộm nghệ thuật, vì giá trị rất cao của các tác phẩm ấy về mặt tài chánh. Cả văn khố mật, thư viện và các văn phòng của Vatican cũng có những vật dụng vô giá mà kẻ trộm bị cám dỗ muốn ăn cắp. Tòa Thánh đang cố gắng theo kịp các kỹ thuật tân tiến chống ăn trộm, như đặt các chip điện tử trong các sách và thủ bản ở thư viện, nhưng nếu những người làm việc ở bảo tàng viện, thư viện, vương cung thánh đường, văn khố và các văn phòng Tòa Thánh không ý thức tầm quan trọng của các tác phẩm ở chung quanh mình, thì kẻ trộm vẫn có thể tìm được phương thức để lấy trộm.

Về các tác phẩm nghệ thuật rải rác ở các giáo xứ và giáo phận trên thế giới, ông Gianni nói rằng điều tối cần thiết là giáo quyền Công Giáo địa phương tuân hành chỉ thị năm 1999 của Tòa Thánh, yêu cầu giáo quyền các nơi thiết lập danh sách đầy đủ các tác phẩm nghệ thuật, trong đó có mô tả chi tiết và hình chụp thật rõ mỗi tác phẩm ấy.

Tổ chức Interpol có lưu giữ hình ảnh tất cả các tác phẩm bị mất cắp, và điều này khiến cho việc buôn bán các tác phẩm nghệ thuật trở nên khó khăn hơn nhiều, vì qua đó, những người mua có thể biết đó là tác phẩm bị lấy trộm.
Ông Gianni nói rằng: “Việc lập danh sách như thế không những mang lại hy vọng lấy lại được các tác phẩm trong trường hợp chúng bị ăn trộm, nhưng còn giúp các chức sắc Giáo Hội địa phương biết rõ những gì mình sở hữu” (CNS 8-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha khích lệ Interpol trong cuộc chiến chống bạo lực

Đức Thánh Cha khích lệ Interpol trong cuộc chiến chống bạo lực

VATICAN. ”Giáo Hội và Tòa Thánh khích lệ tất cả những người dấn thân chống lại tai ương bạo lực và tội ác, nhất là nạn khủng bố và các tổ chức tội phạm”.

ĐTC Biển Đức 16 đã bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 9 tháng 11-2012, dành cho 1 ngàn tham dự viên đến từ 190 quốc gia, vừa kết thúc khóa họp thứ 81 của tổ chức cảnh sát quốc tế, Interpol, tại Roma.

Bộ trưởng nội vụ Italia đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC. Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ngài mô tả ”Interpol như một thành trì của an ninh quốc tế, giữ một chỗ đứng quan trọng trong việc thực thi công ích, vì một xã hội công chính cần phải có trật tự và tôn trọng luật pháp, để đạt tới một cuộc sống chung yên hàn trong xã hội”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Ngày nay những hình thức trầm trọng nhất trong các hoạt động tội phạm là nạn khủng bố và các tổ chức bất lương. Nạn khủng bố là một trong những hình thức bạo lực tàn ác nhất, gieo rắc oán thù, chết chóc. Đi từ một chiến lược khuynh đảo tiêu biểu của một số tổ chức cực đoan, nạn khủng bố nhắm phá hủy và giết người, nó trở thành một hệ thống đen tối với những đồng lõa chính trị, sử dụng cả những phương tiện kỹ thuật tối tân, những nguồn tài chánh to lớn, và đề ra những dự án rộng lớn”.

Về các tổ chức tội phạm, ĐTC nhận xét rằng các tổ chức này lan tràn trong các môi trường cuộc sống thường nhật, hoạt động trong bóng tối, ở ngoài mọi qui luật, chúng kiếm tiền nhờ nhiều hoạt động bất chính và vô luân, như buôn người, một hình thức nô lệ tân thời, buôn bán ma túy, võ khí, hàng giả, cả các thuốc men phần lớn bán cho người nghèo, những thuốc đó giết người thay vì chữa trị. Sự buôn bán ấy càng đáng lên án hơn nữa, khi đối tượng là các cơ phận các nạn nhân vô tội.. Những tội ác ấy dần dần phá vỡ các hàng rào luân lý do nền văn minh thiết lập và đề nghị một hình thức man rợ mới, phủ nhận con người và phẩm giá của họ”.

ĐTC kêu gọi bài trừ tội ác bằng các qui luật luân lý và pháp lý đồng thời ngài cũng kêu gọi sự dấn thân đặc biệt trong lãnh vực chính trị và sư phạm, để giải quyết những vấn đề nuôi dưỡi bạo lực, và tạo điều kiện thuận lợi để bạo lực không nảy sinh và phát triển”.

Sau cùng, ĐTC không quên cám ơn sự trợ giúp của tổ chức cảnh sát quốc tế cho các hiến binh thành Vatican, nhất là trong chuyến viếng thăm của ngài tại nước ngoài.

ĐTC đã trình bày bài diễn văn của ngài bằng tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha, với lời chào kết thúc bằng tiếng Arập (SD 9-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Bài Phát Biểu của Đức Thánh Cha Trong Buổi Tiếp Kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

Bài Phát Biểu của Đức Thánh Cha Trong Buổi Tiếp Kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 8 tháng 11-2012, dành cho Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học, ĐTC Biển Đức 16 cổ võ sự đối thoại và cộng tác giữa khoa học và đức tin. Sau đây là bài phát biểu của Đức Thánh Cha.

Phiên họp khoáng đại này bàn về chủ đề : “Tính Đa Nguyên và Đồng Nhất trong Khoa Học: Các Chiều kích về lý thuyết phương pháp luận và tri thức luận” đụng chạm đến một chủ đề quan trọng vốn mở ra nhiều quan điểm để hướng đến một viễn tượng mới về sự thống nhất trong các ngành khoa học. Thực vậy, những khám phá và tiến bộ quan trọng trong những năm qua mời gọi chúng ta tìm hiểu về sự đồng nhất nền tảng trong ngành vật lý và sinh học, sự đồng nhất này được biểu lộ một cách rõ ràng hơn mỗi khi chúng ta đạt được một sự hiểu biết sâu xa hơn về trật tự tự nhiên. Nếu như một vài ý niệm mới có được trong cách thức này cho phép chúng ta rút ra những kết luận trong những tiến trình trước đây, thì sự ngoại suy này chỉ ra một sự hội nhất lớn hơn trong tự nhiên và trong cấu trúc phức tạp của vũ trụ và nó giúp ta tìm thấy vị trí nhiệm mầu của con người trong vũ trụ này. Tính đa nguyên và sự vĩ đại của khoa học đương thời cho phép con người hiểu biết nhiều hơn về tự nhiên, điều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến con người. Chỉ có con người mới có khả năng mở rộng tri thức của mình và sắp đặt nó một cách khôn ngoan để mưu ích cho mình và cho môi trường xung quanh.

Trong những cuộc thảo luận của mình, các bạn đã nỗ lực để xem xét, một mặt, về một sự biện chứng trong việc mở rộng không ngừng của các nghiên cứu khoa học, các phương pháp và các ngành chuyên môn, và mặt khác, là vấn nạn về một cái nhìn toàn diện về vũ trụ này, một vũ trụ mà trong đó con người, với khả năng lý trí và tự do, được mời gọi để hiểu biết, yêu mến, sống và lao tác. Trong thời đại chúng ta, việc sẵn có các công cụ nghiên cứu hùng hậu và khả năng để thực hiện những thí nghiệm phức tạp và có tính chính xác cao cho phép các ngành khoa học tự nhiên tiếp cận với những nền tảng của những thực tại hữu hình cho dù họ không nỗ lực để hiểu một cạch trọn vẹn cấu trúc hội nhất và sự thống nhất tối hậu đi chăng nữa. Một sự nối tiếp vô tận và một sự thống nhất nơi các lý thuyết, kết qủa của một nghiên cứu này đến lượt nó trở thành định đề cho những nghiên cứu mới, sẽ minh chứng cho sự hội nhất trong tiến trình khoa học cũng như tạo ra một lực đẩy mạnh mẽ hướng các khoa học gia tiến đến một sự hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý của tự nhiên và một cái nhìn bao quát hơn về thế giới này.

Một sự tiếp cận liên ngành như thế tới sự đa nguyên cũng chỉ ra rằng các ngành khoa học không phải là những thế giới hữu lý không nối kết với nhau và không nối kết với thực tại, nhưng đúng hơn chúng liên kết và hướng đến việc nghiên cứu tự nhiên như là một thực tại duy nhất, hữu lý và hòa hợp trong một sự đa nguyên đích thực.

Một cái nhìn như thế có những điểm tương đồng với quan điểm của Triết học và thần học Kitô giáo về vũ trụ, với khái niệm về hữu thể dự phần, mà trong đó mỗi tạo vật đơn lẻ, sở hữu một mức độ hoàn thiện nơi mình, chia sẻ trong một bản chất cụ thể và trong một vũ trụ bắt nguồn từ Lời sáng tạo của Thiên Chúa. Chính vì tổ chức của tự nhiên mang nơi mình tính logic và đồng nhất đã khích lệ các nghiên cứu khoa học và lôi kéo tâm trí con người hướng đến một sự khám phá về sự đồng tham dự theo chiều ngang giữa các hữu thể và sự dự phần siêu việt với hữu thể Đệ nhất. Vũ trụ không phải là một mớ hỗn độn hay nảy sinh từ hỗn độn, đúng hơn vũ trụ là một đa nguyên được sắp đặt cho phép chúng ta, bằng phân tích so sánh hay loại suy, khởi đi từ một trường hợp cụ thể để đi đến một cái nhìn phổ quát hay ngược lại.

Trong khi vẫn còn đó những khoảnh khắc trong vũ trụ và trong đời sống vượt quá khả năng của việc quan sát mang tính khoa học, thì khoa học vẫn tìm thấy một lãnh địa rộng lớn để không ngừng tự vấn chính mình và từ đó khám phá ra một trật tự rõ ràng bất biến và tương hợp, đóng vai trò như là những thành phần thiết yếu của sự sáng tạo vĩnh cửu.

Chính trong bối cảnh rộng lớn này mà tôi lưu ý về những hoa trái lớn lao nảy sinh từ việc sử dụng phương pháp loại suy trong triết học và thần học, không chỉ đơn giản là những công cụ để phân tích các thực tại trong tự nhiên theo chiều ngang mà còn được xem như là một kích tố cho những suy tư đầy sáng tạo về một bình diện siêu vượt hơn. Rõ ràng nhờ vào khái niệm sáng tạo, tư tưởng Kitô giáo không chỉ sử dụng phương loại suy để thẩm tra về những thực tại trần thế mà còn trở thành những phương thế khởi đi từ việc hiểu biết về một trật tự được sáng tạo đến việc chiêm ngắm Đấng Tạo Hóa. Liên hệ đến nguyên lý cho rằng siêu việt tính của Thiên Chúa ngụ ý về một sự đồng nhất nơi các tạo vật của Ngài một cách thiết yếu hàm chứa một sự khác biệt lớn hơn. Trong khi cấu trúc của thụ tạo là cấu trúc của hữu thể, một hữu thể được hiện hữu nhờ dự phần thì cấu trúc của Thiên Chúa là cấu trúc của hữu thể hiện hữu tự chính nó.

Trong khi con người đã có những nỗ lực lớn lao trong việc tìm chìa khóa mở cửa mầu nhiệm của con người và vũ trụ, tôi tin chắc rằng còn có đó một nhu cầu cấp thiết cho một sự đối thoại và hợp tác liên lỉ giữa thế giới khoa học và đức tin trong việc xây dựng một nền văn hóa tôn trọng con người, bênh vực phẩm giá và tự do của con người, bênh vực tương lai của gia đình nhân loại và sự phát triển bền vững và lâu dài nơi hành tinh của chúng ta. Không có sự liên kết thiết yếu này, vấn nạn lớn về con người sẽ rời bỏ địa hạt của lý trí và chân lý và đắm mình trong sự phi lý, mầu nhiệm hay thái độ dửng dưng; điều này sẽ gây thiệt hại cho chính con người, cho sự hòa bình thế giới và cho vận mệnh tối hậu của chúng ta.

Vietvatican
Nguyễn Minh Triệu sj

 




Giá Trị Vĩnh Viễn Của Tuyên Ngôn Nostra Aetate – Diễn Văn Của Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cổ Võ Sự Hiệp Nhất Các Kitô hữu

Giá Trị Vĩnh Viễn Của Tuyên Ngôn Nostra Aetate – Diễn Văn Của Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cổ Võ Sự Hiệp Nhất Các Kitô hữu

Trong những cuộc thảo luận gần đây về khả năng đón nhận trở lại Huynh Đoàn Thánh Pio 10 vào Giáo hội Công Giáo Roma đã nảy sinh một vài vấn nạn, không chỉ liên quan đến người Do Thái, về tầm quan trọng và giá trị của Tuyên Ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các Tôn Giáo ngoài Kitô GiáoNostra Aetate(số 4). Người Do thái lo ngại rằng, ngang qua một loạt hành động tái hiệp thông của một số linh mục và tín hữu vốn có theo khuynh hướng bài Do thái giáo và từ chối tuyên ngôn về Nostra Aetate, Giáo hội Công Giáo có thể đương đầu với một hướng đi mới trong việc đối thoại với Do thái giáo hay ít nhất điều này cũng cho thấy rằng đối với Giáo hội Công Giáo tầm quan trọng của Tuyên Ngôn này chỉ là tương đối. Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo đôi lúc đã nói rằng Công Đồng Vaticano II đã đưa ra một sự phân biệt về các bản văn của mình, một sự phân biệt giữa Hiến Chế, Sắc Lệnh và Tuyên Ngôn, và rằng Nostra Aetate chỉ là một Tuyên Ngôn và có một tầm quan trọng thứ yếu và tính cách bắt buộc của nó có thể được cân nhắc trong mối liên hệ với các bản văn khác.

Trước vấn đề này, Đức Thánh Cha đã ủy thác cho tôi trình bày vấn nạn này trong một cách thức cụ thể: Nostra Aetate không hề bị đặt lại bởi Huấn quyền của Giáo Hội, như chính Đức Thánh Cha đã minh chứng trong các bài nói chuyện, các bài viết và các cử chỉ của ngài khi gặp gỡ người Do Thái. Một sự xích lại gần hơn với Huynh đoàn Thánh Pio không có nghĩa là chấp nhận và ủng hộ lập trường của họ. Chắc chắn rằng về hình thức, chúng ta có thể đưa ra một sự phân biệt giữa các bản văn khác nhau của Công Đồng; tuy nhiên, xét về mặt nội dung thì chúng là một thể thống nhất không thể tách rời hay không thể đối chọi nhau.
Do đó, Nostra Aetate không thể được xem như một thiên thể độc lập, rơi trực tiếp từ trời xuống và không có sự liên hệ nào với các bản văn khác của Công Đồng. Vì thế, khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã xóa tan mọi nghi vấn bằng cách đồng ý hoàn toàn với Công Đồng và các tài liệu của Công Đồng trong một cái nhìn thống nhất. Khi trình bày về một phương pháp chú giải các bản văn của Công Đồng, ngài đã diễn tả rõ quan điểm này trong bài nói chuyện nổi tiếng của mình trước Giáo Triều Roma trong dịp mừng lễ Giáng Sinh năm 2005.

Nostra Aetate được xem là “tài liệu nền tảng” và là “Magna charta” (tài liệu quan trọng) trong cuộc đối thoại giữa Giáo hội Công Giáo Rôma và Do thái giáo. Tuyên ngôn này bắt đầu với việc phản tỉnh về mầu nhiệm và sứ vụ của Giáo hội trong lịch sử cứu độ và cũng nhắc nhớ về mối dây hiệp thông sâu sắc nối kết dân của Tân Ước với con cháu Abraham. Tuyên ngôn này nói rõ về thái độ cần phải tránh khi đối xử với người Do thái, đó là thái độ khinh khi, hạ giá và xúc phạm. Hơn nữa, Tuyên ngôn này cũng minh nhiên nhấn mạnh về nguồn gốc Do thái của Kitô giáo và đã nỗ lực để đánh đổ những kết án dành cho người Do thái diễn ra ở nhiều nơi trong nhiều thế kỷ qua. Về phần mình, người Do thái đặc biệt đánh giá cao nỗ lực của Giáo Hội Công Giáo ngang qua tài liệu này đã chống lại mọi hình thức bài Do Thái. Do đó, họ tiếp tục được an ủi và hi vọng về khả năng Giáo hội Công giáo sẽ là một đồng minh đáng tin cậy trong trận chiến chống lại phong trào bài Do thái vốn chưa thể loại trừ trong thế giới hôm nay.

Những chất liệu hình thành nên bản dự thảo của tuyên ngôn Nostra Aetate có thể được tổng kết ở ba điểm sau: một sự phản tỉnh về lương tâm Kitô giáo sau thảm họa Holocaust, sự phát triển của khoa học Kinh Thánh cho đến Công Đồng Vaticano II và cuối cùng là sự thành lập nhà nước Israel vào năm 1948. Trong bối cảnh Kitô giáo, thì những hậu quả mà con người phải đối diện trong thảm họa Holocaust chính là yếu tố quyết định thúc đẩy Giáo hội soạn thảo bản văn này. Một yếu tố khác đóng vai trò không nhỏ liên quan đến yếu tố chính trị và thực tiễn đó là sự ra đời của nhà nước Israel. Sau khi nhà nước này được thành lập, Giáo Hội Công Giáo đã có thể hiện diện ở Đất Thánh và đã thi hành đời sống mục vụ của mình trong một đất nước vốn được xem là quốc gia của Do thái Giáo. Khi xem xét đến những nguyên lý thần học được tìm thấy trong Nostra Aetate như là một cấu trúc nền tảng chúng ta cần lưu ý rằng, trong những nghiên cứu Kinh thánh trước Công Đồng, hình ảnh của Đức Giêsu Nadaret đã bắt đầu được xem xét nhiều hơn trong bối cảnh của Do thái giáo trong thời đó. Do đó, Tân Ước đã được xem xét trong bối cảnh của các truyền thống của Do thái và Đức Giêsu được xem là một người Do thái trong thời đại của Ngài và tuân theo những truyền thống này.
Khi phản tỉnh về những ảnh hưởng của các tài liệu Công Đồng Vaticano II, chúng ta không e ngại để xác nhận rằng Nostra Aetate là một tài liệu quan trọng giữa các tài liệu này và nó đóng góp một phần quan trọng và đưa ra một định hướng nền tảng cho Giáo hội Công Giáo sau công đồng. Sự tôn trọng dành cho người Do Thái được diễn tả trong Tuyên Ngôn này đã giúp hai bên chuyển từ thái độ nghi kỵ lẫn nhau trong nhiều thế kỷ sang thái độ sang thái độ hợp tác, hai bên đã trở thành đối tác đáng tin cậy của nhau và thậm chí là thành những người bạn thân để có thể cùng nhau đối diện với những khủng hoảng và vượt qua những xung đột trong một cách thế tích cực.

Trong cuộc đối thoại với Do thái giáo, khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức đã nhấn mạnh rằng, theo bước chân người tiềm nhiệm, ngài không chỉ ước mong phát triển mà còn tăng cường mối liên hệ với những người Do thái. Điều này thì không thể nghi ngờ vì những nỗ lực của Đức Gioan Phaolo II trong việc đối thoại giữa Công Giáo và Do thái thì được đảm bảo và được xây dựng trên Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin do hồng Y Ratzinger làm bộ trưởng. Với tư cách là một nhà nghiên cứu Kinh Thánh, ngang qua việc nghiên cứu Cựu Ước và Tân Ước, hồng Y Ratzinger đã xây dựng những mối tương quan thắm thiết với người Do thái; và ngài cũng đã tăng cường các mối tương quan cá nhân với người Do thái trong thời gian ngài ở Roma. Quan điểm nền tảng thần học của Ratzinger dựa trên niềm xác tín cho rằng Kinh thánh chỉ có thể được hiểu một cách đích thực khi xem nó là cuốn sách duy nhất; và do đó, “concordia testamentorum” (sự hoà hợp giữa các bản văn Kinh Thánh) là một một yếu tố thiết yếu để giải thích đúng đắn sứ điệp Kinh thánh về cứu độ.

Trong ánh sáng của những niềm xác tín này, ta không lấy làm ngạc nhiên khi Đức Thánh Cha gánh vác sứ mạng hòa giải đã được bắt đầu bởi vị tiền nhiệm của mình trong công cuộc đối thoại giữa Công giáo và Do thái. Ngài không chỉ gửi đến vị Trưởng Hội Đường Do thái giáo ở Roma trong là thư đầu tiên trong triều đại của ngài mà còn tái xác nhận điều này trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với vị ủy viên của người Do thái vào ngày 9 tháng 7 năm 2005. Giáo hội Công giáo đang bước những bước đi vững chắc dựa trên những nguyên lý được thiết lập bởi Nostra Aetate; và tiếp bước vị tiền nhiệm của mình, Đức Thánh Cha chắn chắn sẽ tiếp tục cuộc đối thoại này.

Vietvatican
Nguyễn Minh Triệu sj

Đức Thánh Cha chúc mừng Tổng thống Obama

Đức Thánh Cha chúc mừng Tổng thống Obama

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 chúc mừng tổng thống Barack Obama được tái cử và ngài cầu nguyện cho những lý tưởng tự do và công lý, vốn hướng dẫn các nhà lập quốc Hoa Kỳ, tiếp tục triển nở.

Phòng báo chí Tòa Thánh không công bố nguyên văn bức điện của ĐTC gửi cho tổng thống Obama qua trung gian Đức TGM Carlo Maria Viganò, Sứ thần Tòa Thánh tại Washington hôm 7 tháng 11-2012, nhưng thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết:

”Trong bức điện, ĐTC gửi những lời cầu chúc tốt đẹp nhất đến tổng thống trong nhiệm kỳ mới và cho biết sẽ cầu xin Thiên Chúa trợ giúp tổng thống trong trách nhiệm rất trọng đại trước đất nước và cộng đồng quốc tế”.

ĐTC cũng cho tổng thống Obama biết là ngài cầu nguyện để những lý tưởng tự do và công lý vốn đã hướng dẫn các nhà lập quốc Hoa Kỳ có thể tiếp tục chiếu sáng rạng người trong lúc quốc gia tiến bước.

Tuyên bố với giới báo chí, Cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cũng bày tỏ hy vọng tổng thống Obama sẽ thăng tiến một nền văn hóa sự sống và tự do tôn giáo. Hy vọng của mọi người là tổng thống Obama đáp ứng những mong đợi của nhân dân Hoa Kỳ và phục vụ luật pháp cũng như công lý để mưu an sinh và sự tăng trưởng của mỗi người, qua việc tôn trọng các giá trị thiết yếu về nhân bản và tinh thần và qua sự thăng tiến một nền văn hóa sự sống và tự do tôn giáo, vốn luôn luôn là điều rất quý giá đối với truyền thống nhân dân Hoa kỳ và niền văn hóa của họ”.

Các GM Công Giáo Hoa Kỳ đã phê bình tổng thống Obama vì đã ủng hộ luật cho phá thai và kế hoạch của chính phủ Mỹ do ông Obama lãnh đạo đòi hệ thống bảo hiểm tư của hầu hết các tổ chức Công Giáo phải trả tiền phí tổn ngừa thai nhân tạo, làm tuyệt đường sinh sản, là những điều đi ngược giáo huấn luân lý Công Giáo.

Theo Cha Lombardi, ”Vai trò của tổng thống Hoa Kỳ là một trách vụ rất lớn lao không những đối với đại quốc gia này, nhưng còn đối với các dân tộc trên toàn thế giới, xét vì vai trò của Hoa Kỳ trên chính trường hoàn cầu. Cha hy vọng tổng thống có thể tìm được những phương thế tốt nhất để thăng tiến an sinh thể lý và tinh thần của mọi người, thực sự góp phần phát triển toàn diện của con người, cũng như công lý và hòa bình trên thế giới”.

ĐHY Timothy Dolan, TGM New York, Chủ tịch HĐGM Hoa Kỳ, cũng gửi thư chúc mừng tổng thống Obama và khẳng định rằng:

”Nhân dân đất nước chúng ta một lần nữa lại ủy thác cho tổng thống một trách nhiệm lớn lao. Các GM Công Giáo Hoa Kỳ cầu nguyện xin Chúa ban cho Tổng thống được sức mạnh và khôn ngoan để đáp ứng các thách đố khó khăn mà Hoa Kỳ đang phải đương đầu.

Trong thư, ĐHY Dolan cũng cho biết các GM cầu nguyện để tổng thống Obama giúp tái lập ý thức công dân đối với trật tự công cộng, để các cuộc nói chuyện công cộng được thấm đượm tinh thần tôn trọng và bác ái đối với mối người. 'Đặc biệt chúng tôi cầu nguyện để tổng thống thi hành chức vụ để theo đuổi công ích, nhất là chăm sóc đến những người dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta, trong đó có cả các thai nhi, người nghèo, và người di dân. Chúng tôi sẽ tiếp tục lập trường bênh vực sự sống, hôn nhân và quyền tự do đầu tiên được quí chuộng nhất, đó là tự do tôn giáo. (CNS 7-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 8 tháng 11-2012, dành cho Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học, ĐTC Biển Đức 16 cổ võ sự đối thoại và cộng tác giữa khoa học và đức tin.

Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học đã nhóm khóa họp toàn thể từ 5 đến 7 tháng 11-2012 tại nội thành Vatican, dưới quyền chủ tọa của giáo sư chủ tịch Werner Arber, với sự tham dự của 60 thành viên quốc tế. Chủ đề khóa họp là ”Sự phức tạp và tương tự trong khoa học: các khía cạnh lý thuyết, phương pháp và giải thích”.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhận xét rằng ”Sự phức tạp và cao cả của khoa học hiện nay trong tất cả những gì giúp con người hiểu biết về thiên nhiên, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến con người. Chỉ có con người mới có thể liên tục mở rộng kiến thức của mình về chân lý và xếp đặt chúng một cách khôn ngoan để mưu ích cho mình và môi trường xung quanh”.

ĐTC cũng nói đến sự tiếp xúc hữu ích giữa khoa học với các ngành triết học và thần học Kitô giáo, đồng thời ngài nhấn mạnh rằng ”Vũ trụ này không phải là một sự hỗn độn hoặc là kết quả của một sự hỗn mang, đúng hơn, nó xuất hiện như một phức thể có trật tự, giúp chúng ta, qua sự phân tích và loại suy so sánh, đi từ sự chuyên môn đến một quan điểm bao quát hơn, và ngược lại.”

ĐTC xác tín rằng ”trong đại công trình khám phá các mầu nhiệm về con người và vũ trụ, cần phải tiếp tục có sự đối thoại và cộng tác giữa thế giới khoa học và thế giới đức tin trong việc xây dựng một nền văn hóa tôn trọng con người, bênh vực phẩm giá con người và tự do, bênh vực tương lai của gia đình nhân loại và sự phát triển dài hạn của trái đất chúng ta. Nếu không có sự hỗ tương cần thiết như thế, thì những vấn nạn lớn của con người sẽ rời bỏ lãnh vực lý trí và chân lý, gây thiệt hại lớn cho chúng nhân loại, cho hòa bình thế giới và cho vận mệnh tối hậu của chúng ta” (SD 8-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sự Thưởng Phạt Đời Đời

Sự Thưởng Phạt Đời Đời

Hỏi: Nhân tháng cầu cách riêng cho các linh hồn (tháng 11), xin Cha giải thích hai câu hỏi sau :

1- Tại sao Thiên Chúa là tình thương và tha thứ lại có thể phạt con người trong nơi gọi là hoả ngục được? Và thực sự có nơi gọi là “hoả ngục” hay không?

2- Luyện tội là nơi nào và dành cho ai ?

 

Trả lời:

1- Đúng, Thiên Chúa là tình yêu như Thánh Gioan đã quả quyết. (x.1Ga :4:8)

Chính vì yêu thương nên Thiên Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc con người nhờ Chúa Giêsu-Kitô, Đấng cũng vì yêu thương con người mà đã tự hiến chiu khổ hình thập giá để “hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28) Thiên Chúa tuyệt đối không được lợi lộc gì và cũng không hề muốn tìm lợi lãi gì cho riêng mình mà phải làm việc này. Đây là điều chắc chắn chúng ta phải tin và cảm tạ Chúa về tình thương vô biên của Người là Cha nhân lành.

Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho con người sự khác biệt độc đáo so với mọi loài thụ tạo khác: đó là có trí hiểu biết và ý muốn tự do (intelligence and free will). Nghĩa là Ngài không tạo dựng loài người như những người máy “robots” chỉ biết thi hành theo mệnh lệnh của người điều khiển, mà là những tạo vật có lý trí và tự do để nhận biết và chọn lựa. Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng ý chí tự do này của con người. Do đó, con người phải chịu trách nhiệm trước Chúa về mọi chọn lựa của mình khi sống trên trần gian này.

Và cũng chính vì con người có lý trí và tự do nên mới có vấn đề thưởng phạt được đặt ra. cho riêng con người trước Thiên Chúa giầu tình thương nhưng cũng rất công minh khi phán xét con người

Nhưng truớc khi đi sâu vào sự thưởng phạt của Thiên Chúa, chúng ta cần biết xem Kinh Thánh và Giáo lý của Giáo Hội nói gì về nơi gọi là “hoả ngục = hell

A- Kinh Thánh

Trước hết, Ngôn sứ Isaia đã dùng hình ảnh sau đây để nói về nơi trừng phạt đời đời của những ai chối bỏ Thiên Chúa và tình thương của Người để làm những sự dữ trái nghịch hoàn toàn với tình thương và bản chất cực tốt cực lành của Chúa:

Khi ra về, mọi người sẽ thấy xác những kẻ phản loạn chống lại Ta vì giòi bọ rúc tiả, chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tàn lụi . Chúng sẽ là đồ ghê tởm cho mọi người phàm”. (Is 60:24)

Sau này, khi đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói đến hoả ngục và hình phạt ở nơi này như sau:

Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết, lửa không hề tắt.” (Mc 9: 47- 48)

Nơi khác, Chúa còn nói rõ thêm: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28)

Thánh Gioan Tông Đồ cũng quả quyết như sau về sự hư mất đời đời dành cho những ai không yêu mến người khác như Chúa dạy:

Phàm ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân
Và anh em biết : không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó.
” (1 Ga 3 : 15)

B- Giáo Lý của Giáo Hội

Từ ngữ hoả ngục (hell) được dịch từ chữ “Sheol” của Do Thái, hay “Hades” của Hy lạp để chỉ nơi ở của những người không được nhìn thấy Thiên Chúa, là nguồn vui và hạnh phúc bất diệt. Đây chính là nơi mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến trong khi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nơi này “dành cho những ai, cho đến lúc chết, vẫn từ chối tin và trở lại. Đó là nơi cả hồn lẫn xác sẽ bị hư mất. Và danh từ “hoả ngục” được dùng để chỉ tình trạng ly khai chung cuộc khỏi mọi hiệp thông với Thiên Chúa và các thánh trên trời.” (x. SGLGHCG, số 633, 1033).

Vì thế Giáo Hội, theo gương Chúa Giêsu, cũng tha thiết và nghiêm trọng “cảnh cáo các tín hữu về thực tế đáng buồn và thảm khốc của sự chết đời đời, còn được gọi là hoả ngục” (x. Sđd, số 1056-58)

Giáo lý của Giáo Hội cũng nói thêm là “Linh hồn của những người chết trong tình trạng mang tội trọng sẽ lập tức xuống hoả ngục, lửa vĩnh viễn.” (x. Sđd số 1035)

Nói rõ hơn, những ai biết mình đang có tội trọng như giết người, ngoại tình, âm mưu giết vợ hay chồng của người khác để cướp vợ hay chồng của họ, trôm cướp, tống tiền, làm chứng gian để hại người khác…thì phải nhanh chóng chạy đến với bí tích hòa giải để xưng và đền bù thiệt hại gây ra cho người khác (trộm cắp) để được tha tội và nối lại tình thương với Chúa, là Đấng gớm ghét mọi tội lỗi nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết sám hối xin tha.

Như vậy, qua những bằng chứng trên đây, chúng ta không có lý do gì để nghi ngờ hay phủ nhận sự tồn tại của một nơi đáng sợ hãi gọi là “hoả ngục”, tức là nơi hoàn toàn đối nghịch với “Thiên đàng” (paradise), là chỗ “vinh phúc cho ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa và được sống đời đời” sau khi đã hoàn tất hành trình đức tin trong trần thế này theo lời dạy của Thánh Phêrô. (x. 2 Pet 1:4)

C- Chúacó phạt ai xuống hoả ngục hay không?

Như đã nói ở trên, Thiên Chúa là tình yêu và giầu lòng tha thứ, là “Đấng cứu độ chúng ta, Đấngmuốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (x.1 Tm 2:4). Nghĩa là, Thiên Chúa không tiền định hay muốn cho ai phải hư mất đời đời, tức là phải phạt trong nơi gọi là hoả ngục. Lý do là vì “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. (Ga 3: 16)

Tuy nhiên, như đã nói ở trên, Thiên Chúa tạo dựng con người với hai đặc tính độc đáo là có lý trí và ý chí tự do. Lý trí để nhận biết và ý muốn tự do để lựa chọn. Như vậy, nếu Chúa bắt buộc con người phải yêu mến Ngài thì tình yêu này sẽ không có giá trị vì như thế con người sẽ mất hết tự do lựa chọn và sống như mọi loài thụ tạo khác mà thôi. Chính vì Thiên Chúa ban cho và hoàn toàn tôn trọng cho con người sử dụng ý chí tự do (free will) nên sự chọn lựa của cá nhân mới có giá trị thưởng phạt.

Nói khác đi, Thiên Chúa không ép buộc ai phải yêu mến và sống theo đường lối của Ngài. Ngược lại, Ngài chỉ mời gọi và tuỳ con người tự do đáp trả như tác giả Đệ Nhị Luật đã viết:

Hôm nay tôi lấy trời đất làm chứng để cáo tội anh (em): tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh (em) hãy chọn để anh (em) và dòng dõi anh (em) được sống.”(Đnl 30:19)

Do đó, nếu con người sử dụng ý muốn hay ý chí tự do (free will) mà khước từ Thiên Chúa để sống theo ý riêng của mình thì Thiên Chúa sẽ tôn trọng và người ta phải hoàn toàn chịu mọi hâu quả về sự chọn lựa của mình trong cuộc sống trên trần gian này cho đến chết.

Thực tế khắp nơi và ở mọi thời đại đã cho ta thấy rõ là : có biết bao triệu người đã và đang chọn nếp sống phóng túng, gian ác, lưu manh, trộm cướp, bóc lột, gian dâm, khủng bố, giết người, dâm ô, và tôn thờ tiền bạc, vật chất với mọi thú vui vô luân, vô đạo. v.v… Đây là những lối sống hoàn toàn đi ngược với mọi Thánh chỉ của Thiên Chúa và Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Giêsu đã rao giảng và trả giá bằng chính cái chết của Người trên thập giá năm xưa.

Nếu người ta cương quyết chọn con đường sai trái và từ chối hoáncải để được tha thứ và cứu độ thì họ đã tự ý chọn lựa cho mình nơi ở dành cho những kẻ đã khước từ Thiên Chúa là tình thương, an vui, công bình và thánh thiện. Nghĩa là, nếu cuộc sống trên đời này có dẫn đưa ai cuối cùng phải dừng chân ở nơi gọi là “hoả ngục” thì đó hoàn toàn là hậu quả tất nhiên của sư tự do cá nhân muốn chọn lựa, chứ không phải vì Chúa muốn trừng phạt ai, hay tiền định cho ai phải chịu hình phạt đáng sợ này. Như vậy, phải hiểu án phạt hoả ngục theo nghĩa con người có lý trí và tự do đã chọn lựa cho mình một nếp sống hoàn toàn trái ngược với cuộc sống dẫn đưa đến hạnh phúc thiên đàng như Chúa hứa ban cho những ai thành tâm ước muốn khi còn sống trên đời này.Cho nên, không có gì là tàn nhẫn hay trái ngược với tình thương vô biên của Thiên Chúa là Đấng “muốn cho mọi người được cứu độ” và sống đời đời.

Mặt khác, sở dĩ phải đặt vấn đề “thưởng phạt đời đời” là vì sự có mặt của tội lỗi và sự dữ trong trần gian này như một thực tế không ai có thể phủ nhận được

Đó là chiến tranh, vì quyền lợi kinh tế hay chính trị, đang giết hại hàng trăm ngàn người vô tội ở Iraq, Afghanistan, Libya, Syria…Đó là những kẻ đang khai thác kỹ nghệ mãi dâm, sản xuất phim ảnh đồi trụy, buôn bán ma túy, phụ nữ và trẻ em cho những kẻ tìm thú vui dâm ô vô cùng khốn nạn này ở khắp nơi trên thế giới. Đó là các tập đoàn tư bản xanh và đỏ đang gia sức bóc lột dân nghèo, lấy của công làm của tư, độc quyền cai trị, kinh doanh và thao túng thị trường để vơ vết của cải cách bất công, vô nhân đạo.

Nghĩa là, bao lâu còn sống trên trần gian này và trong bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, con người sẽ luôn luôn bị giằng co giữa sự dữ và sự thiện, giữa cái tốt và cái xấu đối chọi nhau như ánh sáng và bóng tối.

Nếu nhờ đức tin và lý trí, chúng ta nhận biết và tin có Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Đấng tạo dựng mọi loài mọi vật, là Chân Thiên Mỹ tuyết đối, thì lời mời gọi sẽ là: hoặc chọn Chúa để yêu mến và sống theo đường lối của Người hay chốibỏ Chúa để buông mình sống theo những đòi hỏi, quyến rũ của trần gian về danh vọng, tiền tài, vui thú vô luân vô đạo và bịt tai nhắm mắt không nghe tiếng lương tâm và không còn nhìn rõ lằn ranh giữa sự thiện và sự dữ, sự tội đầy rẫy trong trấn thế này.

Do đó, nếu ai phải bị hư mất đời đời trong nơi gọi là “hỏa ngục” thì đó chính là hậu quả chọn lựa của người ấy khi sống trên trần thế này, chứ không phải vì Thiên Chúa đã tiền định hay muốn phạt ai xuống hỏa ngục. Trong tinh thần đó, ân thưởng mà Thiên Chúa hứa ban được ví như bàn tiệc với những thực phẩm tối hảo, trường sinh bất tử mà Người đã dọn sẵn và mời mọi khách đến thưởng thức.

Nếu ai từ khước tham dự Bàn tiệc Nước Trời, thì dĩ nhiên họ không được hưởng những thực phẩm tối cần cho sự sống đời đời, khiến phải chết đói, chết khát là hậu quả tất yếu họ phải gánh chịu vì đã tự do chọn lựa như thế.

2- Luyện Tội (Purgatory) là gì?

Theo giáo lý của Giáo Hội thì Luyên Tội hay Luyện ngục là nơi dành cho “những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn thì, tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết hầu đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.” (x . SGLGHCG, số 1030)

Nói rõ hơn, một người sau khi chết sẽ tức khắc bị phán xét riêng để nếu đã thánh thiện đủ thì được vào ngay nơi gọi là “Thiên đàng” để sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa. Ngược lại, nếu đã phạm mọi tội nghịch cùng Thiên Chúa và hoàn toàn từ khước Người cho đến hơi thở cuối cùng thì sẽ vào nơi gọi là “hỏa ngục” như đã giải thích ở trên.Nhưng điều này chỉ có Chúa biết mà thôi và không ai trong Giáo Hội có thể biết được. Vì thế, Giáo Hội vẫn dạy phải cầu cho mọi người đã qua đời kể cả những người đã tự tử chết, vì không biết số phận đời đời của họ ra sao, sau khi chết.

Giữa Thiên Đàng và hỏa ngục, còn nơi thứ ba gọi là Luyện ngục hay Luyện tội là nơi dành cho những linh hồn đã lìa đời trong on nghĩa của Chúa, nhưng chưa thánh thiện đủ để vào ngay Thiên Đàng mà cần được thanh luyện thêm ở nơi này một thời gian trước khi được vào chốn an nghỉ muôn đời với Chúa trên Thiên Đàng.

Cũng theo giáo lý của Giáo Hội, thì các Thánh ở trên trời, các linh hồn thánh trong Luyện Tội và các tín hữu còn sống đều hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện, ca ngượi và cảm tạ dâng lên Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng “chậm giận và giầu tình thương.” (Tv 103: 8).

Đây là tín điều các Thánh thông công mà Giáo Hội dạy con cái mình tin và sống trong cuộc lữ hành tiến về Quê Trời. Nghĩa là các Thánh trên Thiên Đàng có thể cầu bầu đắc lực cho các linh hồn trong Luyện ngục và cho các giáo hữu còn sống trên trần gian. Các linh hồn trong Luyện ngục cũng có thể cầu xin hữu hiệu cho các tín hữu còn sống, nhưng không thể tự giúp mình được vì thời giờ làm việc lành phúc đức đã hết.Vì thế, các linh hồn mong đợi các tín hữu còn sống làm việc lành để cầu cho các linh hồn sớm được đón nhận vào Thiên đàng. Vì thế, chúng ta được khuyên khích cầu nguyện cách riêng cho các linh hồn trong tháng 11 là tháng dành để cầu xin cho các linh hồn đang còn được thanh luyện trong nơi Luyện tội. Giáo Hội ban ân xá (Indulgences) để tha các hình phạt hữu hạn (temporal punishment) cho người còn sống và cho các linh hồn trong Luyện tôi. Hình phạt hữu hạn hay việc đền tội là việc xin tẩy xóa những hậu quả của các tội nặng nhẹ đã được tha qua bí tích hòa giải. Tội được tha nhưng hậu quả của tội còn để lại trong tâm hồn hối nhân. Do đó, mọi hối nhân, sau khi xưng tội cách thành thật, đều phải làm việc gọi là “đền tội” do cha giải tội ấn định.

Nhằm mục đích tha hay tẩy xóa các hình phạt hữu hạn, Giáo Hội ban một đặc ân gọi là ân xá (Indulgence) lấy trong kho tàng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và công nghiệp của Đức Mẹ và các Thánh để ban cho các tính hữu còn sống hay các linh hồn trong Luyện tội. Ân xá được ban trong những dịp đặc biệt như trong tháng cầu cho các linh hồn (tháng 11) trong Năm Thánh (Year of Jubilee) Năm Đức Tin (năm nay cho đến 24 tháng 11 năm 2013). Ân xá có thể là từng phần (partial indulgence) hay toàn phần tức ân toàn xá (full indulgences) để tha các hình phạt hữu hạn nói trên. Do đó, mọi tín hữu đang hiệp thông với Giáo Hội có thể lãnh ân xá để xin tha hình phạt hữu hạn cho mình hay nhường lại cho các linh hồn nơi Luyện Tội, nhưng không thể nhường cho các tín hữu còn sống.

Muốn hưởng ân toàn xá thì các tín hữu phải thi hành một số việc lành ấn định như xưng tội, rước Mình Thánh Chúa, viếng nhà thờ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha.Về việc viếng nhà thờ thì trong tháng 11 có thể viếng bất cứ nhà thờ nào cũng được. Riêng cho Năm thánh hay Năm Đức Tin thì phải viếng nhà thờ nào được Giáo quyền địa phương (Đức giám mục) chỉ định để được ân xá. Vậy chúng ta hay sốt sắng làm những việc lành thường lệ để lãnh ân xá cầu cho các linh hồn trong tháng 11 này, và trong suốt Năm Đức Tin đang mở ra trong toàn Giáo Hội.

Tóm lại, có Thiên Đàng là nơi dành cho những ai yếu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và xa lánh mọi tội lỗi bao lâu còn sống trên trần gian này. Cũng có hỏa ngục là nơi dành cho những người đã tự do chọn chỗ này cho mình khi tự ý khước từ Thiên Chúa để sống theo ma quỉ, xác thịt và trần gian cho đến hơi thở cuối cùng.Ở giữa hai nơi trên là chốn thanh luyện các linh hồn chưa được tẩy sạch mọi hậu quả của tội lỗi trước khi được gia nhập hàng ngũ các Thánh và các Thiên Thần trên Thiên Đàng.

Ước mong giải đáp này thỏa mãn các câu hỏi được đặt ra.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Đức Thánh Cha chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Bulgari

Đức Thánh Cha chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Bulgari

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Bulgari về sự qua đời của Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Maxime, đồng thời ngài cảm tạ Chúa vì những quan hệ tốt đẹp Đức Cố Thượng Phụ đã phát huy với Giáo Hội Công Giáo.

Đức Thượng Phụ qua đời lúc gần 4 giờ sáng ngày 6 tháng -11-2012 tại nhà thương Lonenets ở thủ đô Sophia, hưởng thọ 98 tuổi, sau hơn 1 tháng điều trị tại đây. Người cai quan Giáo Hội Chính Thống Bulgari trong 41 năm trời.
Trong điện văn gửi đến Đức TGM Grigorij của giáo phận Veliko Trnovo, Chủ tịch lâm thời của Thánh Hội đồng Chính Thống Bulgari, ĐTC bày tỏ đau buồn vì sự qua đi của Đức Thượng Phụ Maxime, ”người anh em rất quí mến trong Chúa Kitô”.

Nhân danh Giáo Hội Công Giáo, ĐTC chia buồn với toàn thể các GM, LM, và tín hữu Chính Thống Bulgari, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những điều tốt lành Đức Cố Thượng Phụ đã làm cho Giáo Hội và dân tộc của Người. ”Đặc biệt tôi nhớ đến sự đón tiếp nồng hậu đã dành cho Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 trong cuộc viếng thăm tại Bulgari hồi tháng 5 năm 2002. Tôi cũng cảm tạ Chúa vì những quan hệ tốt đẹp mà Đức Thượng Phụ đã phát huy với Giáo Hội Công Giáo tại Bulgari, và tôi cũng cầu mong những quan hệ tốt đẹp ấy có thể được tiếp tục để công bố Tin Mừng”.

Đức Thượng Phụ Maxime sinh ngày 29 tháng 10-1914 tại Oreshak, miền trung Bulgari, tục danh là Marin Minkov. Năm 1941 ngài trở thành đan sĩ với tên là Maxime. Năm 1971 ngài được bầu làm TGM giáo phận Sophia, Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Bulgari.

Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Bulgari, tân chính phủ tìm cách thay thế các nhân vật được bổ nhiệm dưới thời cộng sản, kể cả Đức Thượng Phụ Maxime. Giáo Hội Chính Thống Bulgari bị chia làm 2 phe. Một nhóm GM và LM toan tính lật đổ Đức Thượng Phụ Maxime, nhưng không thành công và họp lập ra một Hội đồng mới. Sự chia rẽ lan rộng và đưa tới nhiều cuộc đụng độ, chiếm đóng các thánh đường. Có 30% trong số 1 ngàn LM toàn quốc theo phe ly khai. Tuy nhiên phần lớn vẫn trung thành với Đức Thượng Phụ Maxime, người vẫn được các tòa Thượng Phụ Chính Thống khác trên thế giới công nhận.

Một Ủy ban điều tra về các cộng tác viên với cơ quan mật vụ nhà nước cộng sản Bulgari không tìm thấy liên hệ gì giữa Đức Thượng Phụ Maxime với chế độ cộng sản, tuy rằng, trong số 15 GM Bulgari, thì có 11 vị đã làm việc cho chế độ cộng sản.

Trong số 7,4 triệu dân Bulgari, có tới 80% là tín hữu Chính Thống. 13 vị GM thành viên Thánh Hội Đồng nhóm họp để chọn người tạm thời cai quản Giáo Hội trong vòng 4 tháng tới đây tức là cho đến khi Đại Hội đồng của Giáo Hội chọn vị Thượng Phụ mới. (SD, AP 6-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 



 

Đức Thánh Cha chúc mừng Đức Tân Thượng Phụ Chính Thống Copte

Đức Thánh Cha chúc mừng Đức Tân Thượng Phụ Chính Thống Copte

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 nồng nhiệt chúc mừng Đức tân Thượng Phụ Anba Tawadros, Giáo Chủ Chính Thống Copte Ai Cập.

Đức Thượng Phụ Tawadros, nguyên là GM phụ tá giáo phận Beheria, đã đắc cử hôm 4 tháng 11-2012, kế nhiệm Đức Thượng Phụ Shenuda III, 88 tuổi, qua đời hồi tháng 3 năm nay, sau 40 năm cai quản Giáo Hội này.

Trong điện văn công bố hôm 5 tháng 11-2012 tại Vatican, ĐTC bày tỏ với Đức tân Thượng Phụ, toàn thể hàng giáo sĩ và tín hữu, những lời cầu chúc tốt đẹp nhất và tình liên đới trong kinh nguyện, xin Chúa tuôn đổ phúc lành trên sứ vụ Đức Thượng Phụ sắp lãnh nhận.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Trong thời kỳ có nhiều thách đố hiện nay, điều quan trọng đối với mọi Kitô hữu là làm chứng về tình thương và tình hiệp thông liên kết họ với nhau, nhớ đến lời nguyện của Chúa trong bữa Tiệc Ly: Ước gì chúng được nên một, để thế gian tin (Xc Ga 17,21). Tôi cũng cảm tạ Đấng Tối Cao vì những tiến bộ đã đạt được dưới thời vị tiền nhiệm đáng kính mến của Đức Thượng Phụ, trong quan hệ giữa Giáo Hội Chính Thống Copte và Giáo Hội Công Giáo”.

Sau cùng, ĐTC ”hy vọng và cầu nguyện để tình thân hữu và đối thoại giữa chúng ta, được Thánh Linh hướng dẫn, sẽ mang lại những thành quả, trong tình liên đới chặt chẽ hơn và sự hòa giải lâu bền”.

Lễ nhậm chức của Đức Thượng Phụ Tawadros sẽ được cử hành vào ngày 18-11 tới đây với sự tham dự của Tổng thống Mohammed Mustri cùng với nhiều vị quốc trưởng Âu Châu, các vị đại sứ và nhiều quan chức chính quyền.

Đức tân Thượng Phụ Tawadros năm nay 60 tuổi, nguyên là một dược sĩ trước khi đi tu. Các cơ quan truyền thông Ai Cập đề cao kiến thức thần học cũng như các hoạt động mục vụ của ngài với giới trẻ. Ngài được chọn làm vị Thượng Phụ thứ 118 của Chính Thống Copte theo một thể thức phức tạp, qua nhiều giai đoạn. Và chúa nhật 4 tháng 11 vừa qua, một em bé đã bốc thăm chọn 1 trong 3 ứng viên chung kết. Các tín hữu Chính Thống Copte xác tín rằng Chúa dùng một bàn tay trẻ em thơ ngây để chọn người cai quản Giáo Hội. Hôm đó cũng trùng vào sinh nhật thứ 60 của Đức Tân Thượng Phụ.

Chính phủ Ai Cập và đảng Anh em Hồi giáo đã chúc mừng Đức tân Thượng Phụ Tawadros. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Đức Cha Barnaba El Soryany, GM giáo phận thánh Giorgio của Chính Thống Copte ở Roma nhận định rằng Đức Thượng Phụ Tawadros là một người rất tích cực đối với toàn dân Copte, đặc biệt là ở Ai cập. Việc ngài được chọn thực là một món quà đối với tất cả mọi người. Đức Tawadros cũng là người rất bình tĩnh và được nhiều người yêu mến. ”Cùng ngài chúng tôi sẽ tiến bước, và Giáo Hội sẽ tiến bước trong cuộc đối thoại: ngài hy vọng nhiều nơi cuộc đối thoại.”

HĐGM Đức đã gửi điện chúc mừng Đức Thượng Phụ Tawadros. Đức TGM Chủ tịch Robert Zollitsch cầu chúc Đức tân Thượng Phụ được Chúa chúc lành trong trách vụ lớn lao và trách nhiệm nặng nề. Đồng thời ngài kêu gọi chính quyền Ai Cập tôn trọng tự do tôn giáo của mọi người dân cũng như cổ võ đối thoại giữa các tôn giáo. Đức TGM Zollitsch ca ngợi sự dấn thân của Giáo Hội Chính Thống Copte trong cuộc đối thoại đại kết đồng thời khẳng định rằng ”Tôi rất vui mừng vì có những tiếp xúc tốt đẹp giữa Giáo Hội Chính Thống Copte với Giáo Hội Công Giáo Copte Ai Cập dưới quyền điều khiển của ĐHY Thượng Phụ Antonios Naguib”.

Giáo Hội Chính Thống Copte là cộng đoàn Kitô đông nhất tại Ai Cập và bắt nguồn từ thánh Marco Thánh Sử. Số tín hữu của Giáo Hội này được ước lượng từ 5 đến 12 triệu trong tổng số 80 triệu dân Ai Cập. Ngoài ra có khoảng nửa triệu tín hữu Copte sinh sống tại nước ngoài. (KNA 5-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ

LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ

Người Việt ta từ ngàn năm xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ là loại chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Chữ Việt có  trước cả chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam đã có những khám phá và còn tiếp tục truy tìm. Cùng với các nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa (Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt đã có chữ viết riêng từ trước kỷ Công nguyên (BC).

Bộ chữ này lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các mặt Trống Đồng và nhiều di vật cổ xưa khác đã được khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở vùng cực bắc biên giới Việt Nam, đều có một dạng ký hiệu giống nhau, những hình con nòng nọc là những tự dạng, biểu tượng để ghi chép lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ chữ Việt cổ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn xưa.

(ĐỌC TIẾP XIN VÀO LINK DẪN . . . .lich su chu quoc ngu)

Chỉ luôn muốn sự thiện và nhìn người khác với cái nhìn của Thiên Chúa

Chỉ luôn muốn sự thiện và nhìn người khác với cái nhìn của Thiên Chúa

Từ Thiên Chúa, chúng ta luôn luôn và chỉ học biết muốn sự thiện chứ không bao giờ muốn sự dữ. Chúng ta học biết nhìn người khác với cái nhìn của Chúa Giêsu Kitô: một cái nhìn của tình yêu thương khởi hành từ con tim và không dừng lại ở ngoại diện, nhưng vượt qua các dáng vẻ bề ngoài để tiếp nhận được các chờ mong sâu thẳm của người khác được lắng nghe và được chú ý.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 5 tháng 11-2012 để đọc kinh Truyền Tin với ngài.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay (Mc 12,28-34) tái đề nghị với chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan tới giới răn trọng nhất: giới răn của tình yêu thương: mến Chúa, yêu người. Các thánh, mà chúng ta vừa mới cử hành trong cùng một ngày lễ trọng, chính là những người tín thác nơi ơn thánh của Thiên Chúa và tìm sống theo luật nền tảng này. Thật thế, giới răn yêu thương có thể được thực thi một cách tràn đầy bởi người sống tương quan sâu xa với Thiên Chúa, y như đứa bé có khả năng yêu thương từ một tương quan tốt với cha mẹ nó. Thánh Gioan thành Avila, mà tôi mới tuyên bố là Tiến Sĩ Hội Thánh, viết ở đầu ”Khảo luận về tình yệu Thiên Chúa” của người như sau: ”Lý do mạnh nhất thúc đẩy con tim chúng ta yêu mến Thiên Chúa là nhìn lại tình yêu mà Người có đối với chúng ta… Hơn các lợi ích khác, điều này thúc đẩy con tim yêu mến; bởi vì người làm một điều lành cho người khác, thì cho họ cái gì mình có; nhưng người yêu thương, thì trao ban chính mình với tất cả những cái mình có, mà không còn lại gì khác để cho” (s. 1). Trước khi là một giới răn, tình yêu là một ơn, một thực tại, mà Thiên Chúa làm cho chúng ta nhận biết và sống kinh nghiệm, để như một hạt giống, nó có thể nảy mầm cả bên trong chúng ta và phát triển trong cuộc sống chúng ta.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ:

Nếu tình yêu của Thiên Chúa đã đâm rễ sâu trong một người, thì người đó có khả năng yêu thương cả người không đáng được yêu, y như Thiên Chúa yêu thương chúng ta vậy. Cha mẹ không chỉ yêu thương con cái khi chúng xứng đáng thôi, nhưng các ngài luôn luôn yêu thương chúng, dĩ nhiên cả khi các ngài làm cho chúng hiểu khi chúng sai. Chúng ta học được từ Thiên Chúa chỉ luôn luôn muốn sự lành và không bao giờ muốn sự dữ. Chúng ta học nhìn người khác với cái nhìn của Chúa Giêsu Kitô. Một cái nhìn phát xuất từ con tim và không dừng lại ở bề ngoài, nhưng đi xa hơn các dáng vẻ bề ngoài và đón nhận được các chờ mong của người khác: được lắng nghe và chú ý một cách nhưng không; tắt một lời một cái nhìn của tinh yêu thương. Nhưng cũng xảy ra điều ngược lại, đó là khi tôi rộng mở cho người khác như họ là, bằng cách đến gặp gỡ họ, sẵn sàng đối với họ, thì tôi cũng rộng mở cho việc hiểu biết Thiên Chúa, cảm nhận rằng Người hiên hữu và tốt lành. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không thể tách rời nhau và có tương quan hai chiều với nhau. Đức Giêsu đã không sáng chế ra tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, nhưng Người đã vén mở cho thấy chúng là một giới rằn duy nhất; và Người đã không chỉ vén mở nó bằng lời nói, mà nhất là bằng chứng tá của Người: Chính Con Người của Đức Giêsu và tất cả mầu nhiệm của Người nhập thể sự hiệp nhất của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, như hai cánh dọc và ngang của Thập Giá. Trong Bí tích Thánh Thể Người ban cho chúng ta tình yêu hai chiều ấy bằng cách tự hiến Chính Mình, để được nuôi dưỡng bởi Bánh này, chúng ta cũng yêu nhau như Người đã yêu chúng ta.

Anh chị em thân mến, qua sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta hãy cầu nguyện để mọi kitô hữu biết chứng tỏ đức tin của mình nơi một Thiên Chúa duy nhất với chứng tá trong sáng của tình yêu thương đối với tha nhân.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau đó Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Bằng tiếng Pháp ngài nói: Khi yêu mến Thiên Chúa duy nhất và yêu mến tha nhân như chính mình, chúng ta xây dựng sự hài hòa và bình an trong các gia đình, các cộng đoàn và đất nước của chúng ta. Để hiểu biết giới răn này của Chúa nhiều hơn, mỗi ngày anh chị em hãy tìm ra thời giờ đọc và suy niệm Lời Chúa. Như đối với các thánh, Lời Chúa sẽ là ánh sáng cho chiếu bước đi của anh chị em và là niềm vui cho con tim của anh chị em.

Chào đoàn tín hữu dòng Ba Phanxicô Slovenia Đức Thánh Cha cầu mong chuyến hành hương Roma khích lệ họ luôn là chứng nhân tươi vui của tình yêu Thiên Chúa trong suốt Năm Đức Tin này.

Bằng tiếng Đức ngài cầu chúc ánh sáng tình yêu của Chúa giúp mọi người nhận ra nơi tha nhân hình ảnh của Thiên Chúa và yêu mến họ. Vì đó là dấu chỉ Nước Chúa hiện hiện trong thế giới này.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

VIỆC LÀM CỦA ĐỨC TIN LÀ ĐỨC ÁI

 VIỆC LÀM CỦA ĐỨC TIN LÀ ĐỨC ÁI

Trong Do-thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do-thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do-thái. Người Do-thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Ðạo Do-thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?". Người đáp: "Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi" (Mc 12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Ðệ Nhị luật 6, 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật 19,18. Như vậy Chúa Giê-su đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: "Mến Chúa yêu người".

1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.

Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái.

Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.

Còn chúng ta, điều gì quan trọng nhất?

Có người cho đó là tiền: có tiền mua tiên cũng được. Mọi người đều cần tiền. Đồng tiền ảnh hưởng trên mọi sinh hoạt, chi phối mọi sinh hoạt, thậm chí còn là mục đích của mọi sinh hoạt. Điều quan trọng hơn cả là làm sao kiếm được nhiều tiền, càng nhiều càng tốt. Tiền bạc là thước đo sự thành công ở đời.

Có người cho đó là địa vị: làm thế nào để có chỗ đứng trong xã hội, được người khác kính trọng, phục tùng.

Người khác cho đó là tình yêu: chỉ có tình yêu mới làm cho người ta hạnh phúc. Đối với đôi nam nữ đang yêu thì tình yêu là quan trọng nhất.

Nhiều người cho đó là học vấn: đối với học sinh hay sinh viên, đỗ đạt là quan trọng nhất.

Đối với phần đông những người trưởng thành, thì điều quan trọng là vợ con, là gia đình, là nghề nghiệp, là nơi ăn chốn ở.

Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.

Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.

Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.

Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.

Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.

Chúa Giê-su đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.

2. Yêu tha nhân như chính mình.

Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giê-su đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gio-an quả quyết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy" (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối” (1 Ga 2, 9 ).

Đối với Chúa Giê-su, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.

Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến. Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì "Yêu mến là chu toàn lề luật" (Rm 13,10).

3. Việc làm của Đức tin là Đức ái.

Thánh Gia-cô-bê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phao-lô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.

Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: "Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13). Và Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng: "Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì? Đức tin ấy có thể cứu họ được không? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói: "Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no" nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói: "Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi" (Gc 2,14-18).

Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Ki-tô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Ki-tô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. "Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy" (Mt 25,40): những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Ki-tô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi "trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ" (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1 – Porta Fidei, Số 14).

Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Ki-tô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay (Số 7).

Năm Đức Tin sống Đức Ái, chúng ta cùng chung tay với Chúa Giê-su thực hiện Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,19).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

YÊU MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ THƯƠNG YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

 YÊU MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ THƯƠNG YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

Đoạn Phúc Âm Thánh Máccô hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và một trong các kinh sư, được cấu trúc một cách đơn sơ:
 
– a)  đặt câu hỏi nhập đề: " Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu" (Mc 12, 28),
 
– b) tiếp theo là câu trả lời của Chúa Giêsu: " Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực…Yêu mến người thân cận như chính mình" (Mc 12, 29-31).
 
– c)  câu trả lời của Chúa Giêsu được đón nhận một cách thích thú, người đối thoại bày tỏ ý kiến ngưỡng mộ và  lập lại: " Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng…Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều qúy hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ" (Mc 12, 33).
 
– d) và đến phiên Chúa Giêsu xác nhận giá trị sự hiểu biết của ông: " Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu " (Mc 12, 34).
 
Câu bình luận cuối cùng của Thánh Marco kết thúc đoạn Phúc Âm và cũng kết thúc chuổi các cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các người đại diện Do Thái giáo được khởi đầu từ những dòng dầu của chương 12 (x. Mc 12, 13): "Sau đó không ai dám chất vấn Người nữa" (Mc 12, 34b).
 
1 – Trong đoạn Phúc Âm Thánh Máccô tuờng thuật lại cuộc hội thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và vị kinh sư, điều nổi bậc làm chúng ta chú ý là thái độ của vị kinh sư đối với Chúa Giêsu. Thái độ của ông khác với cử chỉ của những người Pharisêu hay những người thân tín của vua Hêrôđê cử đến, được Thánh Máccô ghi lại trong các cuộc đối thoại trước đó: "Họ cử mấy người Pharisêu và mấy người thuộc phái Hêrôđê đến cùng Người, để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy" (Mc 12, 13).

Hoặc là đối với những người Sa đốc cũng vậy: "Có những người thuộc nhóm Sa đốc đến gặp Chúa Giêsu. Nhóm nầy chủ trương không có sự sống lại" (Mc 12, 18).
 
Thái độ không có gì là thân thiện của những nhóm người vừa kể cũng được Phúc Âm Thánh Mátthêu và Thánh Luca ghi lại: "Khi nghe tin Chúa Giêsu làm cho nhóm người Sa đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp lại với nhau. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Chúa Giêsu để thử Người" (Mt 22, 34-35). "Có mấy người thông thái luật kia đứng lên hỏi Chúa  Giêsu để thử Người " (Lc 10, 25).
 
Trong khi đó thì vị kinh sư  đối thoại với Chúa Giêsu không có gì là ác cảm đối với Người. Ông hỏi Người một cách thành thật và cảm nhận giá trị câu trả lời của Người:
 
"Thưa Thầy, trong mười điều răn, điều nào trọng nhất" (Mc 12, 28).
– "Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm. Thầy nói rất đúng" (Mc 12, 32).
 
Thái độ của vị kinh sư  đối thoại với Chúa Giêsu cho thấy không có gì  là ngụ ý bất chính bên dưới. Và câu cảm nhận giá trị  của ông, một thành viên có thẩm quyền của Do Thái giáo, cho thấy rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu không có gì ngược lại truyền thống tôn giáo của dân chúng Do Thái, đúng hơn là Chúa Giêsu giải thích Lề Luật Moisen theo chân lý, theo ý muốn của Thiên Chúa, đã được mạc khải ra trong Lề Luật: "Thưa Thầy hay lắm, Thầy nói rất đúng! Thiên Chúa là Đấng duy nhứt, ngoài Người ra không có Đấng nào khác" (Mc 12, 32).
 
Và cũng chính vì đó mà  đoạn Phúc Âm được dành không cho ai hơn là  Chúa Giêsu để cảm nhận định giá và  kết thúc: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu" (Mc 12, 34). Điều vừa kể cho thấy ngụ ý của Thánh Máccô muốn nói với vị kinh sư cũng như cho những ai đọc Phúc Âm Ngài: lời giảng dạy của Chúa Giêsu là những  giá trị tuyệt đối, đối với mọi người chúng ta.
 
2 – Câu hỏi dẫn nhập của vị  kinh sư, "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu " ( Mc 12, 28) là câu hỏi có liên quan đến bối cảnh bàn cải lúc đó giữa các kinh sư và các thầy thông thái luật Do Thái về tầm mức quan trọng của các giới răn và theo thứ bậc quan trọng nào. Đọc bản dịch Cựu Ước tiếng Hy Lạp, chúng ta thấy dịch giả có cách dịch không xác quyết như: "Điều răn nào là điều răn thứ nhứt trong hết mọi sự?" Nếu đề cập đến Lề  Luật Môsê, câu hỏi trên có ý nghĩa là "là điều răn quan trọng nhất trong các điều răn" hay "điều răn cao cả nhất".
 
Quan trọng nhất hay cao cả nhất, bởi vì bản Lề Luật Môsê là bản văn thể hiện thánh ý Thiên Chúa, được diển tả ra bằng các giới điều luật. Nói cách khác,Thiên Chúa mạc khải thánh ý Ngài qua các điều răn trong Lề Luật. Và câu trả lời của Chúa Giêsu cho vị kinh sư là những gì Người lấy lại tư tưởng được sách Đệ Nhị Luật ghi lại, và chúng ta đã nghe ở bài đọc thứ nhất: "Hãy nghe đây, hởi Israel ! Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhứt. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em" (Dt 6, 4-5). Thánh Máccô không những chỉ trích lại câu 5, câu nêu lên điều răn: "Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em" (Dt 6, 5), mà còn ghi lại cả câu 4 của sách Đệ Nhị  Luật: " …Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất " (Dt 6, 4).
 
Cách trích lại cả hai câu vừa kể của Thánh Máccô từ sách Đệ Nhị Luật cho thấy ngụ ý của ngài. Không những giới răn đặt mỗi người chúng ta có bổn phận đối với  Thiên Chúa bằng tình thương và trách nhiệm cá nhân, "Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em", mà còn đặt mối tương quan tình thương và  trách nhiệm đó đối với Chúa trong nhãn quang đức tin của cộng đồng, bởi vì Thiên Chúa không phải chỉ là Thiên Chúa riêng rẻ của mỗi cá  nhân, mà còn là Chúa chung của cả cộng đồng nhân loại, "Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất ".
 
Và thương yêu Chúa bằng tình thương và trách nhiệm trong nhãn quang đức tin của cộng đồng là thương yêu Chúa và có trách nhiệm làm cho anh em của mình cũng biết để thương yêu Chúa như mình, vì  Chúa là Thiên Chúa duy nhứt, là nguồn hạnh phúc duy nhứt của cả nhân loại. Bổn phận truyền  giáo, loan báo cho anh em biết và  nhân chứng về Chúa để anh em cũng thương yêu, vâng phục và thờ phượng Người, là bổn phận của mỗi người đã được biết Chúa.
 
Còn nữa, câu (Dt 6, 4) sách Đệ Nhị Luật được Thánh Máccô trích dẫn còn nói lên đặc tính duy nhứt và độc quyền tình thương của con người phải có đối với Chúa: " Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất". Ngoài Thiên Chúa ra, không có một chúa nào khác. Cũng không có bất cứ của cải vật chất hay tinh thần nào khác là Chúa khiến con người phải thờ phượng và thương yêu. Quyền lực, của cải tài sản, trí khôn ngoan thông minh,  sắc đẹp, kể cả tình thương đôi lứa, gia đình không  thể là trung tâm điểm của cuộc sống con người và con người có thể hy sinh, cúng hiến cuộc sống mình cho những thực tại đó.
 
Tư tưởng đó được Chúa Giêsu giải thích để nhấn mạnh trong Phúc Âm Thánh Máccô: "Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi" (Mc 12, 30). Câu giải thích vừa kể hơi khác một chút đối với câu trong sách Đệ Nhị Luật: "Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em" (Dt 6, 5).
 
Tuy nhiên cả hai câu đều có  cùng một ý nghĩa, nói lên tình thương đối với Chúa là tình thương liên hệ, bao gồm đến tất cả mọi khả năng của con người. Không những chỉ thương yêu Chúa bằng tình cảm xôn xao trong tâm hồn, mà là quy động tất cả mọi khả năng con người chúng ta, từ "linh hồn" đến tình cảm "hết lòng", trí khôn , đến cả thân thể và sức lực thể xác " hết trí khôn và hết sức ngươi". Nói tóm lại, tình yêu dành cho Thiên Chúa là tình yêu trọn vẹn, từ thể xác  đến tinh thần, từ tài sản vật chất đến gia sản tâm linh, từ trí khôn đến sức lực thân thể.
 
3 – Đoạn sách Đệ Nhi Luật ở bài đọc thứ nhứt nói cho chúng ta mối tương quan giữa "mến yêu Thiên Chúa" và "tuân giữ mọi lề luật": "Như vậy, anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người, mà tôi truyền cho anh em, và anh em sẽ được sống lâu" (Dt 6, 2). Tình yêu nói lên nền tảng sâu xa, phát xuất từ nội tâm sâu thẩm của con người, đối với các động tác của con người, ý thức và  tự do chọn lựa tác động của mình để thực hành.
 
Tuân giữ lề luật mà  không được hướng dẫn bằng xác tín lý trí là  hành động chính đáng, bằng tình thương, chỉ là  động tác máy móc, trống rổng bên ngoài. Mối tương quan giữa " tình yêu " và " tuân giữ mọi lề luật " đó, được Chúa Giêsu lấy lại từ điều răn thứ nhứt, " ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng…" kết hợp với điều răn thứ hai, " yêu mến người thân cận như chính mình", liên tưởng đến tư tưởng trong sách Lêvi: "Các ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương người đồng loại như chính mình: Ta là Thiên Chúa" (Lv 19, 18).
 
Theo văn mạch của đoạn văn vừa kể thì "người thân cận" được đề cập đên trong Phúc Âm Thánh Marco là người cùng một " quốc tịch" (những người thuộc về dân ngươi ( Lv 19, 18) hay " đồng bào", nói theo ngôn ngữ Việt chúng ta, dĩ nhiên kể cả " đồng bào Thượng ",như chúng ta thường nói, mặc dầu có lẽ chúng ta không cùng  một chủng tộc. Ý nghĩa vừa kể được đề cập đến trong bản dịch Hy Lạp, được gọi là bản dịch "Bảy Mươi", danh từ "người thân cận" (plesion), ám chỉ những người không cùng quốc tịch Do Thái, nhưng cùng sống chung với dân Do Thái  bên ngoài khuôn viên lãnh thổ đặc thù của họ, cũng phải được xem là "người thân cận", không phân biệt quốc tịch, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, là "người đồng loại " (Lv 19, 18).
 
Và như vậy, dựa vào văn mạch Cựu Ước, thành ngữ "như chính mình" (Mc 12, 31; Lv 19, 18), có nghĩa là cũng phải lo lắng cho họ nhu cầu cần thiết, ước vọng và lợi thú của " người thân cận", như là chính mình đứng ra lo cho mình.
 
4 – Trong câu trả lời của vị  kinh sư, đặt tầm quan trọng của hai điều răn  được đề cập, liên quan đến các nghi thức và  lễ vật tế tự: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, là điều qúy hơn mọi lể toàn thiêu và hy lễ" (Mc 12, 33).
 
Nhận xét của ông thoát xuất từ  những gì các tiên tri đã dạy bảo trong Cựu Ước:
 
"Ông Samuel nói: Chúa có ưa thích các lễ vật toàn thiêu và hy lễ, như ưa thích người ta vâng lời Chúa không? Nầy, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu" (1 Sm 15, 22).
 
– "Chúa phán: Ngần  ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào có  nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ  bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên Ta chẳng thèm" (Is 1, 11).
 
– "Vì Ta muốn tình yêu chớ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là của lễ toàn thiêu" (Os 6,6).
 
Những đoạn văn vừa trích dẫn các sách tiên tri cho thấy không phải Thiên Chúa lên án hay từ chối của lễ dâng lên Người, cho bằng người đòi buộc con người vâng phục thánh ý Người:
 
* " …vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu" (1 Sm 15, 22).
  
* " …thích được các ngươi nhận biết hơn là của lễ toàn thiêu" (Os 6, 6).
 
Điều vừa kể cho thấy những gì Thiên Chúa đòi buộc nơi con người không thể hay không phải chỉ là những tác động thờ phượng, dâng cúng, tế tự bên ngoài, mà là sự dâng hiến bằng tác động và tâm tình sâu thẩm trong tâm hồn của mình cho Người, "..hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hêt sức lực" (Mc 12, 29). Trong lời bình luận cuối cùng của  đoạn Phúc Âm Thánh Marco hôm nay cho thấy Người nhìn nhận sự hiểu biết chính đáng và tâm hồn ngay thẳng của vị kinh sự đối thoại với Người: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu" (Mc 12, 34).
 
Nói một cách khái quát hơn, ai biết giải thích Thánh Kinh một cách đúng đắn, như vị  kinh sư đang đối thoại với Chúa Giêsu, hiểu được thánh ý Chúa Cha trong Sách Thánh và Lề Luật, sống vâng theo những gì Người muốn, là người sẽ "không còn xa Nước Thiên Chúa đâu". Và chắc chắn ghi lại câu khen ngợi vừa kể của Chúa Giêsu đối với vị kinh sư, Thánh Máccô viết một cách ẩn ý. Ẩn ý đó, chúng ta có thể làm sáng tỏ hơn bằng cách đặt câu hỏi: "Vậy thì vị kinh sư cần làm gì khác hơn, để tới được Nước Thiên Chúa, hội nhập vào và thực sự trọn hưởng được mọi hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa?"
 
Câu trả lời được Phúc Âm Thánh Máccô đặt sẵn trước mặt vị kinh sư: Chúa Giêsu đang đứng trước mặt ông! Đó là hội nhập vào Chúa Giêsu, bước theo Người,trở thành môn đệ Người, sống với Người, bởi vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nơi con người Chúa Giêsu Thiên Chúa làm cho vuơng quốc của Người hiện diện: "Còn nếu Ta dựa vào Thánh Thần của Thiên Chúa mà trừ qủy, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12, 28).
 
Triều đại Thiên Chúa đang được Chúa Cha mạc khải cho chúng ta nơi con người Chúa Giêsu. Qua những gì suy niệm, đoạn Phúc Âm Thánh Máccô hôm nay là một lời mời gọi mọi tín hữu Chúa Kitô :
 
– sống nhân chứng Phúc Âm, trở thành môn  đệ Chúa Giêsu, sống khắn khít với Chúa Giêsu, yêu thương Chúa Cha với tất cả con người của mình
 
– và yêu thương, lo lắng, tạo mọi tốt đẹp cho anh em như cho chính mình.

Nguyễn Học Tập

GIỚI LUẬT CĂN BẢN

 GIỚI LUẬT CĂN BẢN

CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN NĂM B (04/11/2012)
 [Đnl 6,2-6; Dt 7,23-28; Mc 12,28b-34]

Bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (己 所 不 欲 勿 施 於 人: Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác – Khổng Tử); “Ái nhân như ái thân” (身 : Yêu người như yêu mình – Nho giáo). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Vì tình yêu, Người đã dựng nên loài người có nam có nữ; cũng vì tình yêu, Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7, 12); "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12); "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 15).

Quả  nhiên tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người là vô  cùng vô tận. Ngay khi dựng nên vũ trụ, Đấng Sáng Tạo đã  vì tình yêu bao la (tình bác ái) mà dựng nên con người theo hình ảnh Người, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất (St 1, 28). Tuy vậy nhưng Thiên Chúa vẫn không quên con người là vật thụ tạo, để tồn tại và phát triển thì vẫn rất cần đến một thứ tình yêu giới tính (tình ái), và vì thế nên "Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người". Và rồi Thiên Chúa phán với con người có nam có nữ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất" (St 1, 27-28).  

Trong Thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu", ĐGH Biển Đức XVI đã lý giải rất rõ ràng về Tình Yêu Thiên Chúa. Luận điểm của ĐGH đã đi từ Cựu Ước tới Tân Ước theo "nhãn quan tôn giáo" (thần học – triết lý siêu nhiên) để nhận định và lý giải Tình Yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Tuy nhiên, ngài vẫn không quên "nhãn quan triết học" (triết lý nhân sinh), khi ngài viết: "Chiều kích triết học đáng nêu ra trong hình ảnh Thánh Kinh này, và tầm quan trọng từ quan điểm lịch sử các tôn giáo, là một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng Thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. "Eros" (ái tình: 愛 情) vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với "agape" (bác ái: 博愛)." (Tđ "Thiên Chúa là Tình Yêu", số 19).

Thời Cựu Ước, Luật Mô-sê đuợc ban bố cho dân thi hành có tới 613 điều (trong đó có 365 điều xấu cấm làm và 248 điều tốt dạy phải làm). Tuy nhiên, giới luật của Thiên Chúa được ghi trên bia đá và trao cho ngôn sứ Mô-sê trên núi Si-nai (Xh 20, 1-21) chỉ có 10 điều, trong đó bao gồm 3 điều về yêu mến Thiên Chúa và 7 điều còn lại là yêu thương đồng loại. Như vậy, rút gọn lại, chỉ còn 2 điều cơ bản: Mến Chúa + yêu người. Và để tìm ra 2 giới luật căn bản này thì lại thấy ở 2 sách khác nhau trong Cựu Ước: Điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật: "Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức anh (em)" (Đnl 6, 5); điều răn sau trong sách Lê-vi:“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Đến thời Tân Ước thì chính Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu – nối kết lại thành một giới răn quan trọng nhất: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó" (Mc 12, 29-31).

Tuy rằng Đức Ki-tô vẫn nói đó là 2 điều răn, nhưng thực chất giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là "Tình Yêu" được thể hiện bằng 2 chiều kích: Mến Chúa + yêu người. Hai chiều kích đó vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau, đan quyện vào nhau, không thể tách rời. Thật vậy, không thể yêu Thiên Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại, không thể yêu tha nhân mà lại không yêu Thiên Chúa được. Vì thế ngay sau Lời dạy của Đức Ki-tô, thì chính kẻ đã thắc mắc – một kinh sư – cũng phải thốt lên: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ." (Mc 12, 32-33); và được Thầy Chí Thánh chúc  phúc: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!" (Mc 12, 34).

Thánh Gio-an đã xác quyết: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga 4, 20). Và thánh Phao-lô cũng đã viết: "Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5, 14); "Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô" (Gl 6,2). Ấy là chưa kể chính Đức Ki-tô trong lời dạy về ngày cánh chung cũng khẳng định: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Muốn yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức lực, thì phải yêu tha nhân như yêu chính mình. Và chỉ có yêu tha nhân như yêu chính bản thân mình mới là thực sự yêu mến Thiên Chúa.

Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Cúi xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời. Ôi! “Lạy Chúa từ nhân. Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người … Lạy Chúa! Xin hãy dạy con tìm yêu mến người hơn được người mến yêu, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết…” (Kinh hoà bình – TCCĐ). Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.