Các Hồng Y bắt đầu bầu Giáo Hoàng

Các Hồng Y bắt đầu bầu Giáo Hoàng

VATICAN. Chiều 12 tháng 3-2013, 115 Hồng y cử tri đã bắt đầu mật nghị bầu vị Giáo Hoàng thứ 266 trong lịch sử Giáo Hội.

Nghi thức mật nghị mở đầu bằng cuộc rước trọng thể của các HY cử tri cùng với các chức sắc khác lúc 4 giờ rưỡi, từ nhà nguyện Paolina ở lầu I trong dinh Tông Tòa tiến về nhà nguyện Sistina ở cùng lầu. Một đoàn vệ binh Thụy Sĩ trong lễ phục đã dàn chào các Hồng Y. Trong cuộc rước các vị và mọi người đã hát kinh cầu các thánh.

Trong số 30 người tháp tùng đoàn rước, có ĐHY Prospero Grech 88 tuổi người Malta, Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Hồng y đoàn, Đức TGM Phó nhiếp chính Piero Luigi Celata.

Hiện diện tại Nhà nguyện Sistina khi đoàn rước tiến vào cũng có Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh và Đức TGM Georg Gaenswein, Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, cũng là bí thư riêng của Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16, tư lệnh đoàn vệ binh Thụy Sĩ, nhiều chức sắc khác cùng với ca đoàn Sistina.

Tại nhà nguyện Sistina, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Giovanni Battista Re là vị kỳ cựu nhất trong số các HY cử tri thuộc đẳng Giám Mục, các HY cử tri và mọi người đã hát kinh cầu xin ơn Chúa Thánh Thần, rồi các HY cử hành nghi thức tuyên thệ: trước tiên là phần chung, tất cả các Hồng y cùng đọc, cam kết trung thành tuân giữ mọi qui định trong Tông Hiến ”Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa” do ĐGH Gioan Phaolô 2 ban hành ngày 22-2-1996, đồng thời giữ bí mật với tất cả mọi người về cuộc bầu cử Giáo Hoàng này, về những gì xảy ra tại nơi bầu, về việc bầu, không vi phạm bí mật này trong và sau cuộc bầu, trừ khi được ĐGH mới cho phép rõ ràng. Các vị cũng cam kết không bao giờ ủng hộ hoặc hỗ trợ bất kỳ sự can thiệp, chống đối hoặc sự can thiệp nào của chính quyền đời thuộc bất cứ cấp nào, hoặc bất kỳ phe nhóm hoặc cá nhân nào muốn xen mình vào việc bầu Giáo Hoàng”.

Tiếp đến mỗi Hồng y, theo thứ tự, tiến đến trước sách Phúc Âm đặt ở giữa nhà nguyện và đọc câu: ”Tôi, Hồng Y.. tuyên hứa, cam kết và thề”. Rồi đặt tay trên sách Phúc Âm và nói: ”Xin Thiên Chúa giúp tôi như thế và Sách Thánh Phúc Âm mà tay tôi chạm đến đây”.

ĐHY Phạm Minh Mẫn là vị thứ 44 tuyên thệ theo thứ tự.

Toàn bộ nghi thức khai mạc mật nghị kéo dài 1 tiếng đồng hồ. Đúng 17.35, hai cánh cửa lớn của nhà nguyện được kép lại.

Sau nghi thức tuyên thệ của các HY cử tri, Đức Ông Guido Marini, Trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐGH long trọng tuyên bố: ”Extra omnes!” tất cả những người không phải HY cử tri hãy ra ngoài!”

Kế đến, ĐHY Prospero Grech đã trình bày bài suy niệm. Ngài thuộc dòng thánh Augustino, giảng dạy môn chú giải trong hơn 30 năm trời tại Giáo Hoàng Học viện Kinh Thánh ở Roma, và là vị đồng sáng lập viên Giáo Hoàng Học viện Augustinianum ở Roma, chuyên về Giáo phụ học. Cha Grech được ĐTC Biển Đức 16 bổ nhiệm làm Hồng y ngày 18 tháng 2 năm 2012.

Sau bài suy niệm của ĐHY Grech, ĐHY chủ tịch mật nghị Giovanni Battista Re hỏi các HY xem có gì cản trở việc bỏ phiếu không. Nếu không ai nói gì thì các HY bắt đầu bỏ phiếu lần đầu tiên bầu Giáo Hoàng.

Nghi thức bắt đầu mật nghị được nhiều đài truyền hình trên thế giới trực tiếp trình chiếu. Tại Quảng trường thánh Phêrô, mặc dù trời rất u ám, và có lúc mưa, nhưng cũng có hàng trăm tín hữu theo dõi lễ nghi qua 4 màn hình khổng lồ bố trí tại quảng trường. Sau khi cánh cửa nhà nguyện Sistina được khép lại. Vẫn còn đông đảo tín hữu can đảm đứng dưới trời mưa ở quảng trường trước màn hình có chiếu ống khói trên nhà nguyện Sistina chờ khói báo kết quả cuộc bỏ phiếu.

Cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, lần bỏ phiếu đầu tiên thường kéo dài lâu hơn, vì quá nửa các HY hiện nay chưa tham dự mật nghị bao giờ.

Đây là mật nghị thứ 75 kể từ 739 năm nay, tức là từ năm 1274 khi ĐGH Gregorio 10 ấn định hình thức mật nghị như hiện thời.

Thời gian mật nghị bầu Giáo Hoàng tương đối ngắn, từ 2 cho đến 4 ngày. Chẳng hạn mật nghị năm 1958 bầu Đức Gioan 23 kéo dài 4 ngày với 11 lần bỏ phiếu; mật nghị năm 1963 bầu Đức Phaolô 6 kéo dài 6 ngày với 6 lần bỏ phiếu; mật nghị năm 1978 bầu Đức Gioan Phaolô I dài 2 ngày với 4 lần bỏ phiếu; cùng năm đó mật nghị bầu Đức Gioan Phaolô 2 dài 3 ngày với 8 lần bỏ phiếu; sau cùng mật nghị năm 2005 bầu ĐGH Biển Đức 16 dài 1 ngày rưỡi với 4 lần bỏ phiếu.

G. Trần Đức Anh O.P – Vatican Radio

Thánh lễ khai mạc Mật Nghị Bầu Giáo Hoàng

Thánh lễ khai mạc Mật Nghị Bầu Giáo Hoàng

Lúc 10 giờ sáng thứ ba 12 tháng 3-2013, Đức Hồng Y Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y Đoàn, đã chủ sự thánh lễ trong đền thờ thánh Phêrô cầu cho cuộc bầu Đức Tân Giáo Hoàng và cũng để khai mạc Mật Nghị Bầu Giáo Hoàng.

Cùng đồng tế thánh lễ đã có hầu như gần hết 170 Hồng Y hiện diện ở Roma, trong đó có 115 Hồng Y Cử tri. Tham dự thánh lễ có vài Hồng Y cao niên, hàng chục Tổng Giám Mục, Giám Mục, hàng trăm linh mục, tu sĩ nam nữ, 10,000 giáo dân và du khách hành hương.

Giảng trong thánh lễ Đức Hồng Y Angelo Sodano nói: ”Con sẽ ca tụng lòng thương xót Chúa cho đến muôn đời” là tiếng ca một lần nữa lại vang lên bên cạnh Mộ của Tông Đồ Phêrô trong giờ phút quan trọng này của lịch sử Giáo Hội. Đó là các lời của Thánh vịnh 88 tươi nở trên môi chúng ta để thờ lậy, cám tạ và khẩn nài Thiên Chúa Cha trên trời. Lời ca đẹp này đã dẫn chúng ta vào trong sự chiêm ngắm Đấng luôn luôn canh thức trên Giáo Hội với tình yêu thương, bằng cách đỡ nâng Giáo Hội trên con đường của nó qua các thế kỷ và làm cho nó sinh động với Thánh Thần của Người.

Cả chúng ta nữa hôm nay với thái độ nội tâm này chúng ta cũng muốn dâng mình cùng với Chúa Kitô cho Thiên Chúa Cha ở trên Trời để cám ơn Người vì sự trợ giúp yêu thương Người luôn luôn dành cho Hội Thánh Người và đặc biệt cho Triều đại sáng láng Người ban cho chúng ta qua cuộc sống và các công trình của Người Kế Vị thứ 265 của thánh Phêrô, là Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI kính yêu của chúng ta, mà trong lúc này đây chúng ta lập lại tất cả lòng biết ơn của chúng ta đối với người”. Đề cập tới mục đích thánh lễ Đức Hồng Y Sodano nói:

Đồng thời hôm nay chúng ta muốn khẩn nài Chúa, qua sự ân cần mục tử của các Hồng Y, mau khấng ban một Mục Tử Tốt Lành khác cho Hội Thánh Người. Chắc chắn niềm tin nơi lời hứa của Chúa Kitô liên quan tới sự bất diệt của Giáo Hội Người nâng đỡ chúng ta trong giờ này. Thật thế, Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: ”Con là Đá và trên đá tảng này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy, và các cửa hỏa ngục sẽ không thắng nổi nó” (x. Mt 16,18).

Tiếp tục bài giảng Đức Hồng Y Niên trưởng Hồng Y Đoàn quảng diễn ý nghĩa các bài đọc của thánh lễ cầu cho việc bầu Tân Giáo Hoàng. Bài đọc thứ nhất trích từ ”Sách ủi an” (cch. 40-66) của ngôn sứ Isaia là một lời tiên tri được hướng tới dân Israel đang sống kiếp lưu đầy bên Babilonia. Thiên Chúa báo cho biết Người sẽ gửi tới cho họ một Đấng Messia tràn đầy thương xót, một Đấng Cứu Thế sẽ có thể nói: ”Thần Khí của Chúa là Thiên Chúa ở trên tôi… Người đã sai tôi đi loan báo tin mừng cho người nghèo hèn, băng bó những con tim tan nát, công bố tự do cho các nô lệ, phóng thích các tù nhân, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Is 61,1-3).

Việc thành toàn lời tiên tri ấy đã được hiện thực tràn đầy nơi Đức Giêsu, Đấng đã đến thế gian để làm cho tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với loài người được hiện diện. Đó là một tình yêu đặc biệt được nhận ra trong việc tiếp cận với khổ đau, bất công, nghèo túng, với tất cả sự giòn mỏng thể lý cũng như luân lý của con người. Thông điệp ”Dives misericordia” Thiên Chúa giầu lòng thương xót” của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nổi tiếng liên quan tới điều này. Và người viết thêm: ”kiểu biểu lộ tình yêu này trong ngôn ngữ kinh thánh được gọi là ”lòng xót thương” (Ibidem, s. 3).

Thế rồi sứ mệnh thương xót này được Chúa Kitô tín thác cho các Chủ Chăn của Giáo Hội Người. Đó là sứ mệnh khiến dấn thân mọi linh mục và giám mục, nhưng còn dấn thân hơn nữa Giám Mục Roma, là Chủ Chăn của Giáo Hội hoàn vũ. Thật thế, Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: ”Simon con Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?… Hãy chăn các chiên con của Thầy” (Ga 21,15). Chú giải các lời này thánh Agostino nói: ”vì thế chăn đắt đoàn chiên của Chúa là nhiệm vụ của tình yêu” (In Iohannis Evangelium, 123, 5: PL 35, 1967).

Thật ra, chính tình yêu này thúc đẩy các Chủ Chăn của Giáo Hội chu toàn sứ mệnh phục vụ con người của mọi thời, từ việc phục vụ bác ái tức khắc nhất cho tới việc phục vụ cao cả hơn, là cống hiến cho con người ánh sáng của Tin Mừng và sức mạnh của ơn thánh.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chỉ cho thấy điều đó trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay (x. s. 3). Thật vậy, chúng ta đọc thấy sứ điệp đó: ”Đôi khi người ta có khuynh hướng hạn hẹp từ ”bác ái” vào tình liên đới hay vào sự trợ giúp nhân đạo đơn sơ. Trái lại, thật là quan trọng nhắc nhớ rằng việc loan báo Tin Mừng hay ”phục vụ Lời” là công trình bác ái cao cả nhất. Không có hành động thi ân nào, và như thế là bác ái, đối với tha nhân bằng việc bẻ bánh Lời Chúa, khiến cho họ tham dự vào Tin Mừng của Phúc Âm, dẫn đưa họ vào trong tương quan với Thiên Chúa: loan báo Tin Mừng là việc thămg tiến bản vị con người cao cả và toàn vẹn nhất. Như Vị Tôi Tớ Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết trong Thông điệp ”Tiến Bộ các Dân Tộc”: loan báo Chúa Kitô là yếu tố đầu tiên và chính yếu của sự phát triển (x. s. 16).”

Bài đọc thứ hai trích từ thứ gửi tín hữu Ephêxô, được Tông Đồ Phaolô viết trong chính thành phố Roma này, trong lần bị tù đầu tiên giữa các năm 62-63 sau công nguyên.

Đó là một lá thư tuyệt vời, trong đó Phaolô giới thiệu mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Giáo Hội, phần đầu là giáo thuyết (ch. 1-3), phần hai trong đó có bài đọc chúng ta vừa nghe, có giọng mục vụ hơn (ch 4-6). Trong phần này thánh Phaolô giảng dậy các hiệu qủa thực hành của phần giáo thuyết đã trình bầy trước đó, và bắt đầu với một lời kêu gọi hiệp nhất giáo hội: ”Vậy tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhu anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở khiếm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,1-3).

Thế rồi thánh Phaolô giải thích rằng trong sự hiệp nhất của Giáo Hội có các đặc sủng khác biệt, theo ân sủng đa dạng của Chúa Kitô, nhưng sự khác biệt này là để xây dựng thân mình duy nhất của Chúa Kitô: ”Chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dậy dỗ. Nhờ đó dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô” (Ep 4,11-12).

Chính vì sự hiệp nhất của Thân Mình Mầu Nhiệm mà Chúa Kitô đã gửi Thánh Thần của Người và đồng thời đã thiết lập các Tông Đồ, trong đó đứng đầu là Phêrô như là nền tảng hữu hình sự hiệp nhất của Giáo Hội.

Trong văn bản thánh Phaolô cũng dậy tất cả chúng ta rằng chúng ta phải cộng tác và xây dựng sự hiệp nhất của Giáo Hội, bởi vì để thực hiện sự hiệp nhất thì cần ”sự cộng tác của mỗi khớp, theo năng lực của mỗi chi thể” (Ep 4,16). Vì thế, tất cả chúng ta được mời gọi cộng tác với Người Kế Vị Thánh Phêrô, nền tảng hữu hình sự hiệp nhất ấy của Giáo Hội.”

Trong phần cuối của bài giảng Đức Hồng Y Sodano đề cập tới sứ mệnh của Giáo Hoàng. Ngài nói: ”Anh chị em thân mến, Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta trở về Bữa Tiệc Ly, khi Chúa nói với các Tông Đồ: ”Đây là điều răn của

Thầy: đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Như thế văn bản cũng nối liền với bài đọc thứ nhất của ngôn sứ Isaia liên quan tới hoạt động của Đấng Cứu Thế, để nhắc nhớ chúng ta rằng tình yêu là thái độ nền tảng của các Chủ Chăn của Giáo Hội. Và chính tình yêu đó thôi thúc chúng ta hiến mạng sống mình vì anh em. Thật thế, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ”không có tình yêu nào lớn lao hơn là tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,12).

Như thế, thái độ nền tảng của mỗi Chủ Chăn là hiến mạng sống cho các chiên của mình (x. Ga 10,15). Điều này có giá trị nhất là đối với Người Kế Vị Thánh Phêrô, Chủ Chăn của Giáo Hội hoàn vũ. Bởi vì chức vụ mục tử càng cao và càng phổ quát bao nhiêu, thì tình bác ái của Mục Tử càng phải lớn lao bấy nhiêu. Bởi thế trong con tim của mỗi Người Kế Vị Thánh Phêrô luộn luôn vang lên các lời mà một ngày kia Vị Thầy và là Chúa đã nói với người thuyền chài khiêm hạ vùng Galilea: ”Con có yêu Thầy hơn những người này không? Hãy chăn các chiên con của Thầy… hãy chăn các chiên của Thầy” (x. Ga 21,15-17).

Theo gót công việc phục vụ tình yêu này đối với Giáo Hội và toàn nhân loại các vị Giáo Hoàng cuối cùng đã là những tác nhân của biết bao sáng kiến tốt lành đối với các dân tộc và cộng đoàn quốc tế, bằng cách không ngừng thăng tiến công lý và hòa bình. Chúng ta hãy cầu nguyện để Vị Giáo Hoàng tương lai có thể tiếp nối công trình không ngừng này trên bình diện quốc tế.

Ngoài ra, việc phục vụ bác ái này là phần của bản chất sâu xa của Giáo Hội. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhắc nhớ điều đó khi nói rằng: ”cả việc phục vụ bác ái cũng là một chiều kích làm thành sứ mệnh của Giáo Hội và là kiểu diễn tả bản chất không thể khước từ được của nó” (Tông thư tự sắc Intima Ecclesiae natura, 11-11 2012; Thông điệp Deus caritas est, s. 15).

Đó là một sứ mệnh bác ái của riêng Giáo Hội, và một cách đặc biệt là của riêng Giáo Hội Roma, mà theo kiểu nói hay đẹp của Thánh Ignaxio thành Antiokia, là Giáo Hội ”chủ tọa tình bác aí” (Ad Romanos, Dẫn nhập; LG 13).

Thưa các anh em, chúng ta hãy cầu nguyện để Chúa ban cho chúng ta một Giáo Hoàng chu toàn sứ mệnh đó với con tim quảng đại. Chúng ta xin Chúa điều đó qua sự bầu cử của Mẹ Maria Chí Thánh, Nữ Vương các Tông Đồ, và lời bầu cử của tất cả các Vị Tử Đạo và các Thánh là những người dọc dài các thế kỷ đã khiến cho Giáo Hội Roma này được vinh quang. Amen.”

Vì các bài sách thánh đã được tuyên đọc bằng các thứ tiếng Anh và Tây Ban Nha, nên các lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng: Pháp, Swahili, Bồ Đào Nha, Malayalam và Đức, cầu cho Giáo Hội; cho các Hồng Y xin cho các vị được tràn đầy Chúa Thánh Thần, được các ơn thông minh, cố vấn, khôn ngoan và phân định. Tiếp đến là cầu cho mọi dân tộc trên thế giới, cho các nhu cầu của cuộc sống con người, và cho gia đình dân Chúa hiện diện trong Thánh Lễ.

Đức Hồng Y Sodano đã cho một số tín hữu rước lễ trong khi mấy chục linh phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu khác.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Lịch sử và qui luật mật nghị bầu Giáo Hoàng

Lịch sử và qui luật mật nghị bầu Giáo Hoàng

VATICAN. Thứ ba 12 tháng 3-2013 là một ngày đáng ghi nhớ trong lịch sử Giáo Hội: khởi đầu mật nghị bầu vị Giáo Hoàng mới kế nhiệm Đức Biển Đức 16.

Lúc 10 giờ sáng, các Hồng Y, kể cả các vị trên 80 tuổi, đồng tế thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô do ĐHY niên trưởng Angelo Sodano chủ sự, để cầu cho việc bầu Giáo Hoàng.

Tiếp đến, lúc 4 giờ rưỡi chiều cùng ngày, 115 Hồng y cử tri bắt đầu đi rước từ nhà nguyện Paolina ở lầu I trong dinh Tông Tòa tiến về nhà nguyện Sistina ở cùng lầu. Cùng đi trong đoàn rước này còn có hơn 20 người khác, đứng đầu là ĐHY Prospero Grech 88 tuổi người Malta, là vị được giao phó nhiệm vụ trình bày bài suy niệm cho các HY cử tri, tiếp đến là Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Hồng y đoàn, Đức Cha Phó nhiếp chính, Đức ông trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐGH và các vị phụ tá, 2 Đức Ông công chứng viên, ca đoàn của ĐGH, v.v.

Sau khi tiến vào nhà nguyện Sistina, các HY cử tri cử hành nghi thức tuyên thệ rồi, Đức ông trưởng nghi Guido Marini sẽ tuyên bố: “Extra omnes!” Tất cả những người không phải HY cử tri hãy ra ngoài! Sau bài suy niệm của ĐHY Grech, các Hồng Y sẽ bắt đầu bỏ phiếu lần đầu tiên bầu Giáo Hoàng. Tiếp đến các vị đọc kinh chiều và trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa tối.

Lịch sử mật nghị

Trong lịch sử Giáo hội, đây là mật nghị thứ 75 kể từ 772 năm nay, tức là kể từ năm 1241 là năm mà mật nghị HY bầu Giáo Hoàng có hình thức như hiện nay.

Mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng”, gọi là ”Conclave”, có nguyên ngữ từ tiếng la tinh ”cum-clave” nghĩa đen là ”với chìa khóa” chỉ nơi đặc biệt trong nhà được khóa kín. Trong Giáo Hội từ này được dùng theo nghĩa chuyên biệt để chỉ ”nơi diễn ra cuộc bầu Giáo Hoàng, có các cửa được khóa kín”, hoặc chỉ toàn bộ các HY tiến hành việc bầu Giáo Hoàng. Từ này được ĐGH Honorio III sử dụng lần đầu tiên năm 1216, trong hoàn cảnh ngài được bầu làm Giáo Hoàng.

Thực vậy, trước đó, vào năm 1179, ĐHY Alessandro III quyết định chung kết dành việc bầu Giáo Hoàng cho các Hồng y mà thôi và loại trừ sự tham dự của giáo dân. Nhưng số Hồng Y bấy giờ tương đối ít ỏi, chỉ vào khoảng từ 10 tới 20 vị, và trong thế kỷ thứ 13 không bao giờ vượt quá con số 30 Hồng y. Tình trạng này cũng góp kéo dài thời gian bầu Giáo Hoàng và điều ấy có nghĩa là Tòa Thánh trống vị quá lâu, gây thiệt hại cho Giáo Hội. Nhiều khi thời gian bầu Giáo Hoàng kéo dài nhiều tháng và có khi nhiều năm trời. Dân Chúa là những người ý thức điều đó và 4 lần họ đã bó buộc các Hồng Y phải tiến hành mau lẹ việc bầu Giáo Hoàng bằng cách khóa kín các Hồng y lại.

Thực vậy, năm 1216 dân thành Perugia ở miền trung Italia đã khóa kín các HY trong dinh thự thành phố nơi các vị hội họp để buộc các vị sớm bầu được vị Giáo Hoàng mới. Dân thành Roma cũng hành động tương tự sau khi ĐGH Gregorio IX qua đời năm 1241: họ khóa kín các Hồng y trong một dinh thự trên sườn đồi Palatino. Rồi đến dân chúng ở Anagni cũng làm như thế vào năm 1243 để chấm dứt tình trạng Tòa Thánh trống vị quá lâu sau khi ĐGH Celestino IV qua đời 2 năm trước đó (1241). Vụ cuối cùng nhưng cũng là vụ nổi tiếng nhất đó là dân thành Viterbo cách Roma 80 cây số ra tay hành động: sau khi ĐGH Clemente IV qua đời năm 1268, 18 HY tập họp trong dinh thự Giáo Hoàng ở Viterbo để bầu người kế vị, nhưng các vị không thỏa thuận được với nhau. Vua nước Pháp cũng như các nhân vật khác can thiệp yêu cầu các HY cố gắng thỏa thuận với nhau để bầu được vị Giáo Hoàng mới, nhưng vẫn không có kết quả. Bấy giờ dân thành Viterbo, với sự khuyến khích của thánh Bonaventura, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, liền khóa kín dinh thự Giáo Hoàng và xây gạch bín kín tất cả các cửa ra vào để buộc các HY sớm thỏa thuận với nhau. Dầu vậy, các HY trong dinh thự vẫn không đi tới mục tiêu. Không thể kiên nhẫn hơn, dân thành liền leo lên dinh thự, tháo gỡ mái che, và chỉ cho các Hồng Y ăn bánh với nước lã. Sau cùng các Hồng Y tìm được một thỏa thuận với nhau và bầu được ĐGH Gregorio X. Tổng cộng Tòa Thánh bấy giờ bị trống vị trong 2 năm, 9 tháng và 2 ngày.

Say khi đắc cử Giáo Hoàng, để tránh tái diễn tình trạng tai hại như vậy, trong công đồng chung Lyon thứ 2 năm 1274, ĐGH Gregorio X đã công bố tông hiến ”Ubi pericolo” chính thức thành lập Conclave, ”mật nghị”, phê chuẩn hành động của dân Chúa. Những qui định trong Tông hiến ấy rất tỉ mỉ và nghiêm ngặt, theo đó 10 ngày sau khi ĐGH qua đời, các HY phải nhóm họp trong cùng dinh Tông Tòa nơi ĐGH đã qua đời, hoặc tại một thành phố khác, tùy theo hoàn cảnh, trong một phòng duy nhất, không có tường cũng chẳng có màn phân chia. Các HY buộc phải sống chung, không thể ra ngoài, cũng không được tiếp xúc với bên ngoài, không được nói bí mật với HY nào khác. Những chìa khóa nơi mật nghị phải được vị HY Nhiếp chính giữ ở bên trong, và những chìa khóa bên ngoài do vị tư lệnh đội binh giữ. Thực phẩm được chuyển vào bên trong mật nghị qua một cửa sổ quay được canh giữ và kiểm soát cẩn mật để không một sứ điệp nào được chuyển qua cửa này. Nếu sau 3 ngày mà các HY không bầu được Giáo Hoàng mới, thì trong 5 ngày kế tiếp, các HY chỉ được một đĩa thực phẩm trong bữa ăn trưa và 1 đĩa trong bữa ăn tối; sau 5 ngày ấy, các HY chỉ được bánh, nước lã hoặc rượu mà thôi.

Quy luật của ĐGH Gregorio X khó thực hiện, nên 2 năm sau đó bị ĐGH Adriano V và Gioan XXI bãi bỏ, và thế là tệ nạn Tòa Thánh trống tòa quá lâu lại tái xuất hiện. Đó là một bằng chứng hùng hồn về giá trị và hiệu năng của Tông hiến do ĐGH Gregorio X ban hành.

Thánh Celestino V, trong 5 tháng làm Giáo Hoàng cho đến khi từ nhiệm, đã liên tiếp ban hành 3 Sắc chỉ (Quia in futurum, 28.9.1294; Pridem 27.10.1294; Constitutionem 10.12.1294) tái lập các qui luật về mật nghị bầu Giáo Hoàng. Nhờ đó, người kế vị là ĐGH Bonifaxio VIII đã được bầu lên chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vào ngày 24-12-1294. Ngài đã long trọng tái khẳng định các qui luật ấy. Từ đó, đã 719 năm trôi qua, các qui luật về mật nghị Giáo Hoàng liên tục được tuân hành, tuy có một số thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh và do kinh nghiệm.

Tiến tới luật hiện hành

Nhiều vị Giáo Hoàng đã góp phần sửa chữa luật bầu cử với những qui định ngày càng chính xác và tỉ mỉ hơn:
– Với Tông Hiến ”Vacante Sede Apostolica”, Tông tòa trống vị, ngày 25 tháng 12-1904, Thánh Giáo Hoàng Piô 10 đã gồm tóm tất cả các qui luật trước đó, trong một văn kiện duy nhất, và đồng thời nghiêm cấm bất kỳ sự can thiệp nào của chính quyền dân sự vào mật nghị bầu Giáo Hoàng.

– Năm 1975, Đức Phaolô VI ban hành Tông Hiến ”Romano Pontifici eligendo”, Bầu Giáo Hoàng. Văn kiện này được tu chính với Tông Hiến ”Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa” do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành năm 1996.
ĐTC Biển Đức XVI đã ban hành 2 tự sắc vào năm 2007 và ngày 22 tháng 2-2-13 thay đổi vài điểm trong Tông hiến của vị tiền nhiệm.

Qui luật hiện nay

Như vậy theo qui luật hiện hành, cách thức duy nhất ngày nay để bầu Giáo Hoàng là bầu bỏ phiếu kín và cần phải có 2 phần 3 số phiếu của những người hiện diện để đắc cử. Số Hồng Y cử tri hiện nay là 115 vị, vì thế để đắc cử Giáo Hoàng trong mật nghị từ ngày 12 tháng 3-2013 thì cần được ít là 77 phiếu.

Tính chất cô lập và bí mật của mật nghị vẫn phải hết sức tuân giữ, đứng trước những phương tiện truyền thông tối tân ngày nay.

Tuy Tông hiến không truyền phải niêm phong kín các cửa ra vào và các cửa sổ, chặn các hành lang và thang máy, như luật trước đây, nhưng tiếp tục đòi phải cô lập các Hồng y cử tri.

Trong thời gian mật nghị bầu Giáo Hoàng, các Hồng y cử tri không được tiếp xúc với bên ngoài, đọc báo chí, nghe Radio, coi Truyền hình, dùng điện thoại, viết thư hoặc các phương tiện khác để liên lạc với người bên ngoài mật nghị (n.57). Mục đích là để các vị được hoàn toàn tự do, không chịu một áp lực nào của bất cử ai.

Tất cả những người phục vụ trong mật nghị bầu Giáo Hoàng mà tiết lộ bí mật sẽ bị vạ tuyệt thông tức khắc dành riêng quyền giải cho Tòa Thánh. ĐTC quy định thêm rằng:

Tôi cũng ra lệnh cho các Hồng y cử tri, với tất cả trách nhiệm nặng nề trong lương tâm, phải giữ mọi bí mật về cuộc bầu Giáo Hoàng, kể cả sau khi đã bầu vị Giáo Hoàng mới và không được vi phạm điu đó bằng bất cứ cách nào, trừ khi đưc phép đặc biệt và rõ ràng của chính ĐGH. Để các Hồng y cử tri có thể tránh được sự tò mò của người khác và các bẫy họ giăng ra làm thương tn phán đoán độc lập và tự do quyết định của các vị, tôi tuyệt đối cấm, không được du nhập với bất kỳ lý do gì những máy móc để thu hoặc phát lại âm thanh, hình ảnh hoặc chữ viết vào nơi diễn ra cuộc bầu cử, và nếu các máy đó hiện diện tại nơi ấy, thì không được sử dụng” (nn.60-61).

Đức Hồng y nhiếp chính có nhiệm vụ nhờ các chuyên viên kỹ thuật đáng tin cậy kiểm soát nơi họp của các Hồng y cử tri và nhà nguyện Sistina để phát hiện những Micro hoặc dụng cụ thu âm, thu hình bí mật người ta có thể gắn vào đó.

Luật nghiêm cấm mọi sự can thiệp từ bên ngoài đối với việc bầu Giáo Hoàng. HY nào, vì bất kỳ lý do nào, nhận sứ mạng của nhà cầm quyền dân sự, bất cứ cấp nào, để đề nghị việc phủ quyết, đối với việc bầu Giáo Hoàng, sẽ bị vạ tuyệt thông tức khắc.

Các Hồng y cử tri sẽ nhóm họp mỗi ngày hai lần sáng chiều tại Nhà nguyện Sistina để bầu Giáo Hoàng mới. Mỗi buổi như thế có thể có hai lần bỏ phiếu. Khi bỏ phiếu, vị Hồng y phải giơ cao phiếu của mình và đọc lời tuyên thệ theo công thức: ”Tôi xin Chúa Kitô, Đấng sẽ xét xử tôi, làm chứng rằng tôi bỏ phiếu cho người mà, theo Chúa, tôi thấy là phải bầu” (n.66).

Các Hồng y bị liệt giường tại Nhà trọ thánh Martha mà không đến Nhà nguyện Sistina để bỏ phiếu được, thì 3 Hồng y sẽ mang thùng phiếu đến tận phòng các vị ấy để nhận phiếu bầu (n.67)

Sau 3 ngày đầu tiên bỏ phiếu mà không có kết quả, cử tri đoàn sẽ ngưng bỏ phiếu trong vòng một ngày để cầu nguyện, trao đổi ý kiến, và nghe huấn dụ thiêng liêng của ĐHY trưởng đẳng phó tế, rồi lại tiếp tục bầu. Sau 7 lần bỏ phiếu nữa mà vẫn không có kết quả, thì lại tạm ngưng để cầu nguyện và trao đổi. Nếu sau 7 lần bỏ phiếu nữa mà không có kết quả, thì lại tạm ngưng như vậy. Đến lần bỏ phiếu thứ 33 hoặc 34 mà không kết quả 2/3 số phiếu thì các Hồng y được mời gọi phát biểu ý kiến về cách bầu cử và sau đó sẽ tiến hành việc bầu theo sự quyết định của đa số tuyệt đối các cử tri (không cần sự đồng ý của toàn thể các cử tri như luật cũ đòi hỏi. Có thể chỉ bầu trong số 2 người được nhiều phiếu nhất và vẫn buộc phải được 2/3 số phiếu thì mới được coi là đắc cử (qui luật do ĐGH Biển Đức 16 qui định năm 2007). Hai ứng viên nhiều phiếu nhất như thế không được tham gia cuộc bỏ phiếu về hai vị như vậy.

Các Hồng y sẽ tiến hành việc chúc mừng và bày tỏ sự tuân phục vị tân Giáo Hoàng. Sau đó, vị Hồng y trưởng đẳng Phó tế loan báo cho dân chúng danh tánh của vị đắc cử. Đức tân Giáo Hoàng sẽ ban phép lành cho Roma và toàn thế giới từ bao lơn của Đền thờ Thánh Phêrô (n.89)

Để ngăn ngừa sự thoái thác của người đắc cử, ĐTC Gioan Phaolô 2 qui định rằng: ”Tôi xin vị đắc cử đừng vì sợ gánh nặng của chức vụ mà tránh né trách vụ đã được kêu gọi lãnh nhận, trái lại hãy khiêm tốn tuân phục ý định của Chúa. Vì Thiên Chúa, Đấng trao trách vụ ấy, cũng sẽ nâng đ đ ngưi đắc cử có thể vác nổi gánh nặng đó” (n.86)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng sẽ bắt đầu ngày 12 tháng 3-2013

Mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng sẽ bắt đầu ngày 12 tháng 3-2013

VATICAN. Chiều ngày 8 tháng 3-2013, Hồng y đoàn đã bỏ phiếu quyết định bắt đầu mật nghị từ ngày thứ ba 12 tháng 3-2013 để bầu Giáo Hoàng mới.

Quyết định trên đây được các Hồng y thông qua trong phiên họp toàn thể thứ 9 từ lúc 17 đến 19 giờ chiều thứ sáu vừa qua.

Sáng ngày 12 tháng 3, sẽ có thánh lễ xin ơn Chúa Thánh Thần tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu cho việc bầu Giáo Hoàng, ban chiều các Hồng Y sẽ tiến vào Nhà Nguyện Sistina và bắt đầu cuộc bỏ phiếu.

115 Hồng y cử tri sẽ bốc thăm để nhận phòng tại Nhà Trọ Thánh Marta ở nội thành Vatican. Trong thời gian mật nghị, các HY không được tiếp xúc với bên ngoài bằng bất kỳ phương tiện nào, và cũng không được theo dõi tin tức qua báo chí hoặc các phương tiện truyền thông khác.

Ngôi nhà 5 tầng này cũng sẽ được bao phủ bằng hệ thống phá sóng để ngăn chặn việc sử dụng điện thoại di động.

Tất cả các chức sắc và nhân viên phục vụ tại Nhà Trọ thánh Marta, dù là giáo sĩ hay giáo dân, đều phải tuyên thệ giữ bí mật về những gì liên quan đến việc bầu Giáo Hoàng. Trong số các nhân viên này có 2 bác sĩ, y tá, những người làm bếp và dọn bàn, vệ sinh, những người coi nhà thánh, chuyên viên kỹ thuật. Ngoài ra có vị Tổng thư ký Hồng y đoàn là Đức TGM Lorenzo Baldisseri, cũng là Tổng thư ký Bộ GM, và Đức Ông Guido Marini, Trưởng Ban nghi lễ phụng vụ của ĐGH.

Danh sách những chức sắc và nhân viên trên đây được ĐHY nhiếp chính Tarcisio Bertone và 3 HY Phụ tá phê chuẩn, chiếu theo Tông Hiến “Mục tử toàn thể đoàn chiên Chúa”. Sau khi đọc lời tuyên thệ giữ bí mật về mật nghị bầu Giáo Hoàng, đương sự phải ký tên vào bản tuyên thệ trước mặt ĐHY nhiếp chính và hai chức sắc về nghi lễ của Tòa Thánh.

Cách đây 8 năm, Hồng đoàn đã nhóm 12 phiên họp trước khi bắt đầu mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng. Phiên nhóm cuối cùng diễn ra ngày 16 tháng 4-2005 và mật nghị bầu cử bắt đầu sáng ngày 18 tháng 4-2005 với thánh lễ lúc 10 giờ sáng tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Ban chiều cùng ngày các Hồng y cử tri tề tựu tại Nhà nguyện Paolina trong dinh Tông Tòa và đi rước vào Nhà nguyện Sistina.

Đến chiều ngày 19 tháng 4-2005, ĐHY Joseph Ratzinger đắc cử và trở thành vị Giáo Hoàng thứ 265 trong lịch sử Giáo Hội.

G. Trần Đức Anh OP-Vatican Radio
 

Bầu Giáo hoàng mới

Bầu Giáo hoàng mới

Khi một vị giáo hoàng qua đời hoặc từ nhiệm, việc điều hành Giáo hội được trao cho Hồng y đoàn. Các hồng y là những giám mục đang coi sóc các giáo phận trên khắp thế giới, hoặc đang làm việc tại Vatican, là những vị được đích thân Đức giáo hoàng tuyển chọn. Trách nhiệm lớn nhất của các ngài là bầu chọn vị giáo hoàng mới.

Trong giai đoạn “trống tòa”, các hồng y tiến hành nhiều cuộc họp tại Vatican, được gọi là họp khoáng đại. Các ngài bàn luận về những nhu cầu và thách đố Giáo hội đang phải đối diện. Các ngài cũng chuẩn bị cho việc bầu giáo hoàng mới, được gọi là Mật tuyển viện. Những quyết định chỉ dành riêng cho Đức giáo hoàng, ví dụ bổ nhiệm giám mục hay triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục, những việc này phải đợi đến khi bầu cử xong.

Nhớ lại Mật tuyển viện năm 2005, Đức hồng y Joseph Ratzinger (vị giáo hoàng tương lai) đã chia sẻ với các hồng y những suy tư gây ấn tượng sâu đậm. Ngài nói:

Biết bao nhiêu ngọn gió học thuyết đã xuất hiện trong những thập niên gần đây, biết bao dòng ý thức hệ, biết bao hình thái tư tưởn… Con thuyền bé nhỏ của nhiều Kitô hữu thường xuyên bị lay động vì những ngọn sóng này, lắc lư từ thái cực này sang thái cực khác, từ chủ nghĩa Mác-xít đến chủ thuyết tự do, từ chủ trương tập thể đến chủ nghĩa cá nhân cực đoan, từ vô thần đến thứ huyền bí mơ hồ, từ bất khả tri đến chiết trung và còn nhiều thứ khác. Những giáo phái mới mọc lên từng ngày… Tuyên xưng đức tin rõ ràng theo như Kinh Tin Kính của Hội Thánh lại bị cho là bảo thủ cực đoan. Đang khi đó chủ nghĩa tương đối, nghĩa là cho phép người ta chiều theo bất cứ ngọn gió học thuyết nào, xem ra được coi như thái độ duy nhất thích hợp với con người hiện đại. Cái đang được kiến tạo ở đây chính là sự độc tài của chủ nghĩa tương đối, vốn cho rằng chẳng có gì là vững chắc, và xem cái tôi của mình, khao khát của mình, là chuẩn mực tối hậu.

Tuy nhiên chúng ta có một chuẩn mực khác, đó là Con Thiên Chúa và là con người thật sự. Người là chuẩn mực của nền nhân bản chân chính. Một đức tin không trưởng thành sẽ mãi chạy theo những làn sóng thời trang mới mẻ, còn đức tin trưởng thành và chín chắn được bắt rễ sâu xa trong tình thân với Chúa Kitô. Chính tình thân này mở ra cho chúng ta tất cả những gì là tốt lành, ban cho chúng ta tiêu chuẩn để phân định cái thật với cái giả, chân lý và giả dối. Chúng ta phải chín muồi trong đức tin trưởng thành này, và chúng ta muốn dẫn đoàn chiên của Chúa Kitô đến đức tin trưởng thành ấy. Chính đức tin ấy – và chỉ có đức tin ấy – mới tạo nên sự hiệp nhất và thực hiện sự hiệp nhất trong đức ái. Ở đây, thánh Phaolô cống hiến cho chúng ta một từ ngữ rất đẹp: sống chân lý trong đức ái, như là công thức nền tảng của đời sống Kitô giáo. Trong Chúa Kitô, chân lý và tình yêu hội tụ. Chúng ta càng đến gần Chúa Kitô bao nhiêu thì chân lý và tình yêu càng vững chắc nơi chúng ta bấy nhiêu. Tình yêu không có chân lý là thứ tình yêu mù quáng; chân lý không có tình yêu chỉ là thanh la chũm chọe!”

Rồi ngài nói thêm:

Ai cũng muốn kiếm tìm những gì bền vững. Nhưng cái gì tồn tại mãi? Không phải tiền bạc. Những dinh thự cũng chẳng tồn tại mãi, sách vở cũng thế. Sau một thời gian nào đó, lâu hay chóng, mọi thứ đều tan biến. Điều duy nhất tồn tại đến vĩnh hằng là linh hồn của con người được Thiên Chúa tạo dựng để sống vĩnh hằng. Do đó hoa trái tồn tại mãi mà chúng ta phải gieo trồng nơi linh hồn con người là tình yêu và sự hiểu biết, là những cử chỉ chạm đến lòng người, là những lời lẽ mở lòng người ra với niềm vui của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa để Ngài giúp chúng ta trổ sinh hoa trái, thứ hoa trái tồn tại mãi. Chỉ bằng cách đó, trái đất này mới được biến đổi từ thung lũng nước mắt thành địa đàng của Thiên Chúa”.

Thông thường, sau 15 – 20 ngày kể từ khi trống tòa, các hồng y quy tụ tại Đền thờ Thánh Phêrô để dâng Thánh Lễ, xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn cho việc bầu chọn vị giáo hoàng mới. Chỉ có các hồng y dưới 80 tuổi mới được bỏ phiếu trong Mật tuyển viện. Con số các vị này được giới hạn ở 120. Mật tuyển viện bắt đầu khi các hồng y được rước vào Nhà nguyện Sistine và có lời thề giữ bí mật tuyệt đối trước khi cửa Nhà nguyện được niêm phong. Các hồng y sẽ đọc chung lời thề sau:

Chúng tôi, các hồng y cử tri, tập thể và cá nhân, hiện diện trong lần bầu chọn Giáo hoàng này, xin đoan thề và tuyên hứa tuân giữ cách trung thành và tỉ mỉ những điều khoản trong Tông thư Universi Dominici Gregis.

Chúng tôi đoan thề và tuyên hứa rằng bất cứ ai trong chúng tôi, theo sự an bài của Chúa, được bầu làm Giáo hoàng, sẽ trung thành đảm nhận sứ vụ Thánh Phêrô, làm Mục tử của Hội Thánh phổ quát, và kiên vững khẳng định, bảo vệ những quyền và tự do về mặt thiêng liêng cũng như trần thế của Tòa Thánh.

Trên hết mọi sự, chúng tôi đoan thề và tuyên hứa sẽ giữ tuyệt đối bí mật về tất cả những gì liên quan đến việc bầu giáo hoàng, cũng như những gì diễn ra tại nơi bầu chọn, trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến kết quả bỏ phiếu; chúng tôi hứa sẽ không tiết lộ bí mật này bằng bất cứ cách nào, trong hoặc sau khi bầu vị giáo hoàng mới, trừ khi được Đức giáo hoàng minh nhiên cho phép; chúng tôi hứa không bao giờ hỗ trợ cho bất cứ hình thức can thiệp hoặc chống đối nào, qua đó các quyền bính thế tục hoặc các nhóm hoặc những cá nhân có thể can thiệp vào việc bầu giáo hoàng”.

Tiếp theo lời thề chung, từng hồng y sẽ tiến đến trước Sách Phúc Âm, được đặt giữa Nhà nguyện, và nói thêm:

Và tôi, hồng y …… xin đoan thề và tuyên hứa như thế, xin giúp con, lạy Chúa và Sách Phúc Âm mà con chạm tay tới”.

Các hồng y bỏ phiếu kín, từng người một tiến đến trước bức danh họa của Michelangelo về Ngày Phán Xét, dâng lời cầu nguyện và bỏ lá phiếu của mình. Mỗi ngày có 4 lần bỏ phiếu, cho đến khi một ứng viên nhận được 2/3 số phiếu bầu. Kết quả của mỗi vòng bỏ phiếu được xướng lên và được 3 hồng y ghi nhận. Nếu không có vị nào đạt được 2/3 số phiếu bầu, thì những phiếu này được đem đốt, trộn với hóa chất, tạo nên khói đen. Mọi người bên ngoài nhìn vào luồng khói đen thì biết là chưa có kết quả.

Khi một ứng viên nhận được 2/3 phiếu bầu, hồng y niên trưởng của Hồng y đoàn sẽ hỏi xem ngài có chấp nhận hay không. Nếu ngài chấp nhận, ngài sẽ chọn tước hiệu và mặc phẩm phục giáo hoàng trước khi tiến ra bao lơn trước Đền thờ Thánh Phêrô. Những phiếu bầu trong vòng cuối cùng được trộn với hóa chất để cho khói trắng, báo hiệu cho cả thế giới biết việc bầu giáo hoàng mới đã hoàn tất.

-

Vị hồng y niên trưởng trong số các hồng y phó tế, hiện nay là hồng y Jean-Louis Tauran (người Pháp), sẽ loan báo từ bao lơn của Đền Thánh Phêrô: “Habemus papam” (Chúng ta có giáo hoàng). Sau đó Đức Tân Giáo Hoàng tiến ra và ban phép lành cho thành Rôma và toàn thế giới (urbi et orbi).

(WHĐ)

NGÀY CUỐI CÙNG TRONG TRIỀU ĐAI GIÁO HOÀNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

NGÀY CUỐI CÙNG TRONG TRIỀU ĐAI GIÁO HOÀNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

Pope last day flying helicopter to retreat homeVATICAN: Lúc 11 giờ sáng 28 tháng 2-2013 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gặp 144 Hồng Y hiện diện tại Roma trong phòng Clemente để chào từ biệt các vị.

Ngỏ lời chào Đức Thánh Cha Đức Hồng Y Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y Đoàn nói: ”Trong sự rúng động lớn lao các Hồng Y hiện diện tại Roma vây quanh Đức Thánh Cha hôm nay, để bầy tỏ một lần nữa sự trìu mến sâu xa và lòng biết ơn đối với chứng tá hy sinh phục vụ tông đồ của Đức Thánh Cha, vì thiện ích cho Giáo Hội của Chúa Kitô và của toàn nhân loại.

Thứ bẩy vừa qua, vào cuối tuần tĩnh tâm tại Vatican Đức thánh Cha đã muốn cám ơn các cộng sự viên của các Cơ quan trung ương Tòa Thánh, khi dùng những lời cảm động sau đây: ”Các bạn thân mến, tôi muốn cảm ơn tất cả các bạn không phải chỉ vì tuần này, mà vì tám năm này, trong đó các bạn đã cùng tôi vác gánh nặng của sứ vụ Phêrô, với khả năng chuyên môn, lòng trìu mến, tình yêu thương và đức tin”.

Kính thưa Người Kế Vị Thánh Phêrô kính yêu, chúng con phải cám ơn Đức Thánh Cha vì gương sáng Ngài đã cho chúng con trong tám năm Triều đại giáo hoàng của ngài. Ngày 19 tháng 4 năm 2005 Đức Thánh Cha đã được tháp nhập vào danh sách dài các Người Kế Vị Thánh Phêrô và hôm nay 28 tháng 2 năm 2013 Đức Thánh Cha sắp rời bỏ chúng con, trong khi chờ đợi bánh lái của con thuyền Giáo Hội được trao vào bàn tay khác. Và như thế sẽ tiếp nối việc kế vị tông đồ, mà Chúa đã hứa cho Giáo Hội thánh thiện của Người, cho tới khi sẽ nghe được tiếng của Thiên Thần sách Khải Huyền công bố: ”Thời gian không còn nữa: mầu nhiệm của Thiên Chúa đã hoàn tất” (Kh 10,6-7). Lịch sử Giáo Hội sẽ kết thúc mhư thế cùng với lịch sử thế giới, với biến cố trời mới đất mới đến.

Thưa Đức Thánh Cha, với tình yêu thương sâu xa chúng con đã tìm cách đồng hành với Đức thánh Cha trên Con đường của ngài, bằng cách sống lại kinh nghiệm của các môn đệ làng Emmaus. Sau khi cùng đi với Chúa Giêsu một đoạn đường dài, các vị nói với nhau: ”Con tim của chúng ta đã không bừng cháy lên, khi Người nói với chúng ta dọc đường sao?” (Lc 24,32).

Vâng, kính thưa Đức Thánh Cha, xin ngài cũng biết cho rằng con tim của chúng con cũng đã bừng cháy lên khi chúng con cùng đi với Đức thánh Cha trong tám năm qua. Hôm nay chúng con muốn một lần nữa bầy tỏ tất cả lòng tri ân của chúng con đối với Đức Thánh Cha. Chúng con xin cùng nhau lập lại với Đức Thánh Cha một kiểu bầy tỏ đặc thù nơi quê sinh của Đức Thánh Cha: ”Vergelt's Gott”, xin Thiên Chúa thưởng công cho Đức Thánh Cha”.

Ngỏ lời với các Hồng Y Đức Thánh Cha cám ơn Đức Hồng Y Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y Đoàn, đã luôn luôn nói lên các tâm tình của toàn Hồng Y Đoàn một cách ”Con tim với con tim”. Quy chiếu về câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmaus, Đức Thánh Cha nói: ”Đối với tôi cũng thế, đã là một niềm vui lớn lao cùng đi với anh em trong các năm này dưới ánh sáng sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Như tôi đã nói trước hàng ngàn tín hữu đầy quảng trường thánh Phêrô, sự gần gũi và lời cố vấn của anh em đã trợ giúp tôi rất nhiều trong sứ vụ của tôi. Trong 8 năm qua chúng ta đã sống với đức tin những lúc rất đẹp đầy ánh sáng rạng rỡ trên con đường của Giáo Hội cùng với những lúc, trong đó có vài đám mây dầy đặc trên trời. Chúng ta đã tìm cách phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội Người với tình yêu thương sâu xa và hoàn toàn, là linh hồn sứ vụ của chúng ta. Chúng ta đã trao ban hy vọng, niềm hy vọng đến với chúng ta từ Chúa Kitô, và chỉ có nó có thể soi dẫn đường đi. Chúng ta có thể cùng nhau cảm tạ Chúa, là Đấng đã làm cho chúng ta lớn lên trong sự hiệp thông, cùng nhau cầu xin Người trợ giúp anh em lớn lên hơn nữa trong sự hiệp nhất sâu xa này, để Hồng Y Đoàn giống như một dàn nhạc, trong đó các khác biệt, diễn tả Giáo Hội đại đồng, luôn luôn cùng quy hướng về sự hòa hợp cao hơn. Tôi muốn để lại cho anh em một tư tưởng đơn sơ mà tôi rất thích, một tư tưởng về Giáo Hội, về mầu nhiệm của Giáo Hội, tạo thành lý do và nỗi đam mê của cuộc sống, có thể nói vậy, đối với tất cả chúng ta.”

Đức Thánh Cha đã mượn một tư tưởng mà thần học gia Romano Guardini đã viết trong cuốn sách cuối cùng với lời đề tặng ngài, và ngài đặc biệt ưa thích cuốn sách đó. Romano Guardini viết: ”Giáo Hội không phải là cơ cấu được nghĩ ra và xây dựng trên bàn giấy, nhưng là một thực tại sống động. Như mọi sinh vật, Giáo Hội sống dọc dài thời gian trở thành, bằng cách biến đổi mình, tuy trong bản chất nó vẫn luôn luôn là thế. Trái tim của Giáo Hội là Chúa Kitô”.

Đức Thánh Cha nói thêm trong lời từ biệt các Hồng Y: ”Đó xem ra đã là kinh nghiệm của chúng ta hôm qua, tai quảng trường thánh Phêrô. Nhìn thấy rằng Giáo Hội là một thân thể sống động, được Chúa Thánh Thần linh hoạt và sống một cách thực sự bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Giáo Hội ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Nó là của Thiên Chúa, của Chúa Kitô, của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã thấy hôm qua. Vì thế một kiểu diễn tả nổi tiếng khác nữa của thần học gia Guardini cũng thật hùng hồn: đó là ”Giáo Hội thức tỉnh nơi các tâm hồn”. Giáo Hội sống, lớn lên, và thức tỉnh trong các tâm hồn, và cũng như Đức Trinh Nữ Maria họ tiếp nhận Lời Chúa và thụ thai bởi công trình của Chúa Thánh Thần. Họ hiến dâng cho Thiên Chúa thịt xác mình, và trong sự nghèo nàn và khiêm tốn họ trở thành những người có khả năng sinh ra Chúa Kitô mỗi ngày trong thế gian. Qua Giáo Hội mầu nhiệm Nhập Thể luôn mãi hiện diện. Chúa Kitô tiếp tục bước đi qua thời gian trong tất cả mọi nơi. Anh em thân mến, chúng ta hãy hiệp nhất trong mầu nhiệm này, trong lời cầu nguyện, một cách đặc biệt trong Thánh Thể hằng ngày, và như thế chúng ta phục vụ Giáo Hội và toàn nhân loại. Đó là niềm vui của chúng ta, mà không ai có thế lấy mất được.

Trước khi chào anh em từng người một tôi ước mong nói với anh em rằng tôi sẽ tiếp tục gần gũi anh em với lời cầu nguyện, đặc biệt trong các ngày sắp tới, để anh em tràn đầy ngoan ngoãn đối với hành động của Chúa Thánh Thần trong việc bầu Đức Tân Giáo Hoàng. Xin Chúa chỉ cho anh em thấy người được Chúa muốn. Và giữa anh em, giữa Hồng Y Đoàn có một Giáo Hoàng tương lai, mà ngay từ hôm nay tôi hứa kính trọng và vâng phục. Vì tất cả những điều này, với lòng trìu mến và biết ơn, tôi hết lòng ban phép lành tòa thánh cho anh em.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã bắt tay từ giã từng Hồng Y một, trong sự cảm động và luyến tiếc của mọi người.

Lúc 5 giờ chiều 28 tháng 2-2013 Đức Thánh Cha đã lấy trực thăng đi Castel Gandolfo, cách Roma 30 cây số. Trong sân Damaso toàn Vệ Binh Thụy Sĩ trong lễ phục đứng giàn hàng chào danh dự. Hai bên là các Đức Ông, các tu sĩ nam nữ và giáo đân làm việc trong thành Vatican. Tiễn chân Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y Đoàn, và Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Xe chở Đức Thánh Cha đến bãi đậu của trực thăng ở góc cao nhất của đồi Vaticăng. Khi trực thăng cất cánh chuông đền thờ thánh Phêrô và các nhà thờ toàn giáo phận Roma đã đổ hồi, từ biệt Đức Thánh Cha. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại bãi đậu trực thăng ở Castel Gandolfo có Đức Cha Franco Marando Giám Mục giáo phận Albano, ông thị trưởng Castel Gandolfo và một số giới chức đạo đời.

Từ lúc 4 giờ chiều ngày 28 tháng 2-2013, hàng chục ngàn tín hữu đã tụ tập tại quảng trường nhỏ trước dinh nghỉ mát.

Trong khi chờ đợi Đức Thánh Cha, họ đã lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ dười sự điều khiển của cha sở giáo xứ. Họ đem theo rất nhiều cờ, khăn quàng và biểu ngữ viết ”Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, chúng con cám ơn ngài”; ”Cám ơn Đức Thánh Cha”; ”Lòng khiêm tốn của ngài khiến cho ngài vĩ đại hơn nữa. Xin Cám ơn” vv… Chuông các nhà thờ Castel Gandolfo cũng rộn rã đổ hồi.

Lúc 5 giờ 40 Đức Thánh Cha đã ra bao lơn chào tín hữu thành phố và du khách. Vừa thấy ngài tín hữu đã hoan hô vẫy cờ và gọi tên Đức Thánh Cha.

Ngỏ lời với mọi người Đức Thánh Cha nói: ”Tôi rất sung sướng được ở với anh chị em. Xin cám ơn tình bạn mà anh chị em dành cho tôi. Hôm nay khác với những ngày khác, vì từ sau 8 giờ tối tôi không còn là Giáo Hoàng Roma nữa, mà chỉ là một người lữ hành bình thường thôi. Nhưng với tất cả sức lực, các suy tư và lời cầu nguyện, tôi vẫn phục vụ Giáo Hội. Chúng ta hãy cùng nhau tiến bước trong niềm tín thác nơi Thiên Chúa và tình yêu của Người. Xin cám ơn anh chị em, và chúc anh chị em một đêm an lành”.

Quả thế, đây là lần xuất hiện cuối cùng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong triều đại Giáo Hoàng của ngài.

Vì từ lúc 8 giờ tối 28 tháng 2-2013 ngài không còn giữ chức Chủ Chăn Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ nữa. Tuy vẫn tiếp tục được gọi là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, hay Đức Nguyên Giáo Hoàng Biển Đức XVI, hay Đức Nguyên Giáo Hoàng, nhưng Đức Ratzinger sẽ chỉ mặc áo chùng trắng, không có mảnh áo khoác ngắn trên vai, cũng không có nhẫn Giáo Hoàng, vì nhẫn này sẽ bị phá hủy, và cũng không mang giầy mầu đỏ, nhưng mang giầy mầu nâu. Cũng từ lúc 8 giờ tối thứ năm 28 tháng 2-2013 đội cận vệ Thụy Sĩ tại Castel Gandolfo chấm dứt nhiệm vụ bảo vệ Đức Ratzinger và giao quyền lại cho đội Hiến Binh Vatican.

Đức Ratzinger sẽ cư ngụ tại Castel Gandolfo vài tháng trước khi về sống trong đan viện của các nữ tu dòng kín được tu sửa lại, tại nội thành Vatican trong thinh lặng và cầu nguyện. (SD 28-2-2013)

Linh Tiến Khải Radio Vatican
 

 

Nội dung Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về vài thay đổi điều luật liên quan tới việc bầu Giáo Hoàng

Nội dung Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về vài thay đổi điều luật liên quan tới việc bầu Giáo Hoàng

Ngày 25 tháng 2-2013 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cho công bố Tông thư tự sắc ”Normas nonnullas – Các điều luật là không” về vài thay đổi liên quan tới các điều luật bầu Giáo Hoàng. Tông thư mang chữ ký ngày 22 tháng 2 năm 2013.

Mở đầu Tông thư Đức Thánh Cha viết: ”Với Tông thư ”De aliquabus mutationibus in normis de electione Romani Pontificis – Về vài thay đổi trong luật bầu Giáo Hoàng Roma” được ban bố như Tự sắc tại Roma ngày 11 tháng 6 năm 2007 trong năm thứ ba triều đại giáo hoàng của tôi, tôi đã thiết định vài điều luật, mà trong khi hủy bỏ các luật đã viết ở số 75 của Tông Hiến ”Universi Dominici gregis – Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa”, do vị tiền nhiệm của tôi là Chân phước Gioan Phaolô II ban hành ngày 22 tháng 2 năm 1996, chúng đã tái lập điều luật do truyền thống phê chuẩn, theo đó để việc bầu Giáo Hoàng Roma có hiệu lực phải luôn luôn có đa số hai phần ba phiếu của các Hồng Y cử tri hiện diện.

Vì tầm quan trọng của việc bảo đảm cho diễn tiến của những gì liên hệ, dù với tầm mức khác nhau, cho việc bầu Đức Giáo Hoàng Roma, đặc biệt cho một sự giải thích nào đó và việc thực thi một vài định liệu, tôi thiết lập và quy định rằng vài điều luật của Tông Hiến Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa, và những gì chính tôi đã đặt định trong Tông thư nói trên, được thay thế bởi các điều luật sau đây:

Số 35. ”Không một Hồng Y cử tri nào sẽ bị loại trừ khỏi việc bầu cử tích cực hay thụ động, vì bất cứ lý do hay viện cớ nào, giữ nguyên những gì đã được đưa ra trong số 40 cho tới số 75 của Tông hiến”.

Số 37. ”Ngoài ra tôi cũng ra lệnh rằng, từ khi Tông Tòa trống vị một cách hợp pháp, thì đợi 15 ngày trọn trước khi bắt đầu Mật Nghị; tuy nhiên tôi để cho Hồng Y Đoàn quyền bắt đầu Mật Nghị trước, nếu nhận thấy có sự hiện diện của tất cả càc Hồng Y cử tri, cũng như quyền kéo dài ra vài ngày việc bầu cử, nếu có các lý do nghiêm trọng. Tuy nhiên lâu nhất là 20 ngày, bắt đầu từ khi Trống Tòa, tất cả các Hồng Y cử tri hiện diện phải tiến hành việc bầu cử”.

Số 43. ”Từ lúc đã sắp đặt việc bắt đầu các hoạt động của cuộc bầu cử, cho tới khi công báo biến cố bầu Giáo Hoàng, hay cho tới khi Đức Tân Giáo Hoàng sẽ ra lệnh, các nơi của nhà trọ thánh Marta, cũng như và một cách đặc biệt nhà nguyện Sistina, và các nơi được chỉ định cho các buổi cử hành phụng vụ, phải bị đóng, dưới quyền của Đức Hồng Y Nhiếp chính và với sự cộng tác của vị Phó nhiếp chính và Phụ tá Quốc Vụ Khanh, đối với những người không được phép, theo những gì thiết định trong các số sau đây.

Toàn lãnh thổ Thành Phố Vaticăng và cả sinh hoạt bình thường của các Văn phòng có trụ sở ở trong nội thành phải được điều hợp trong thời gian này, làm sao để bảo đảm sự kín đáo và tiến hành tự do các công việc gắn liền với việc bầu Giáo Hoàng. Cách đặc biệt phải dự liệu, cả với sự trợ giủp của các Đức Ông giúp lễ, để các Hồng Y cử tri không bị tới gần bởi bất cứ ai trong lộ trình đi từ nhà trọ thánh Marta cho tới Dinh Tông Tòa Vaticăng.”

Số 46, triệt 1. ”Để đáp ứng các nhu cầu cá nhân và văn phòng liên hệ tới diễn tiến của việc bầu cử, vị Thư ký Hồng Y Đoàn, cũng giữ chức Thư ký của Cộng đoàn bầu cử, vị Trưởng ban nghi lễ giáo hoàng với tám chuyên viên nghi lễ, và hai nam tu sĩ đặc trách phòng thánh giáo hoàng, một giáo sĩ do Đức Hồng Y niên trưởng hay vị Hồng Y đại diện lựa chọn để trợ giúp trong nhiệm vụ, phải sẵn sàng và vì thế được cư ngụ một cách xứng hợp trong những nơi thích đáng trong các giới hạn nói tới trong số 43 của Tông Hiến”.

Số 47. ”Tất cả những người được liệt kê trong các số từ 46 tới 55, triệt 2 của Tông Hiến, mà vì bất cứ lý do nào và trong bất cứ lúc nào, biết được từ bất cứ ai một cách trực tiếp hay giám tiếp liên quan tới các giấy tờ của việc bầu cử, và một cách đặc biệt, những gì liên quan tới các lần bỏ phiếu trong chính cuộc bầu, đều bị bó buộc phải giữ bí mật với bất cứ người nào xa lạ với các Hồng Y cử tri: vì mục đích đó, trước khi có các công việc của cuộc bầu cử, họ phải thề theo các cách thế và công thức chỉ trong số sau đây.”

”Tôi (nói tên) hứa và thề tuyệt đối giữ bí mật với bất cứ ai không phải là thành phần của Hồng Y đoàn cử tri, và điều đó một cách vĩnh viễn, trừ khi nhận được quyền đặc biệt được ban một cách rõ ràng bởi Đức Tân Giáo Hoàng được bầu hay các Người Kế Vị, về tất cả những gì trực tiếp hay gián tiếp liên quan tới các cuộc bỏ phiếu và các cuộc kiểm phiếu bầu Giáo Hoàng.

Tôi cũng hứa và thề không sử dụng bất cứ dụng cụ thu tiếng hay nghe hoặc thu hình những gì trong thời gian bầu cử, diễn ra trong môi trường của Thành Phố Vaticăng, và một cách đặc biệt những gì trực tiếp hay gián tiếp bằng bất cứ cách nào có dính líu tới các công việc liên quan tới chính việc bầu cử.

Tôi tuyên bố đưa ra lời thề này, ý thức rằng một việc vi phạm sẽ bao gồm hình phạt vạ tuyệt thông ”tức khắc” mà Tòa Thánh dành cho tôi. Như thế xin Thiên Chúa giúp tôi và các Phúc Âm mà tôi sờ tới với bàn tay này.”

Số 49. ”Sau khi đã cử hành theo các nghi thức được viết trước các lễ an táng vị Giáo Hoàng qua đời, đã chuẩn bị những gì cần thiết cho diễn tiến theo luật của việc bầu cử, vào ngày đã định, chiếu theo những gì nói tới trong số 37 của Tông Hiến, để bắt đầu Mật Nghị, tất cả các Hồng Y quy tụ trong Đền thờ thánh Phêrô trong nội thành Vaticăng, hay ở nơi nào khác theo sự thích hợp và các nhu cầu của thời gian và không gian để tham dự vào một buổi cử hành Thánh Thể trọng thể với Thánh lễ cầu cho việc bầu giáo hoàng. Điều này sẽ phải được thi hành vào một giờ thích hợp vào ban sáng, như thế để ban chiều có thể diễn ra những gì đã được quy định trong các số tiếp theo của Tông Hiến.”

Số 50. ”Từ nhà nguyện Paolina của Dinh Tông Tòa, nơi tụ họp vào một giờ thích hợp vào sau ban trưa, các Hồng Y cử tri mặc phẩm phục sẽ cùng nhau rước kiệu trọng thể tới nhà nguyện Sistina của Dinh Tông Tòa, nơi diễn ra cuộc bầu cứ, vừa đi vừa hát Kinh Veni Creator, khẩn nài sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.

Sẽ tham dự cuộc rước kiệu vị Phó Nhiếp chính, Tổng hiệu thính viên của Phòng tông tòa, và hai thành viên của mỗi Đoàn Công chứng tông tòa số các tham sự viên, đoàn các Đức Ông hiệu thính viên của Tòa thượng thẩm Rota Roma, và đoàn các Đức Ông giúp lễ.”

Số 51, triệt 2. ”Vì thế Hồng Y Đoàn, hoạt động dưới quyền và trách nhiệm của vị Nhiếp chính, được trợ giúp bởi Bộ đặc biệt được số 7 của Tông hiến nói tới, sẽ lo lắng để tất cả đều được sắp đặt trước, cả từ bên ngoài với sự trợ giúp vị Phó Nhiếp chính và vị Phụ tá Quốc Vụ khanh, làm sao để bảo vệ việc bầu cử bình thường và sự kín đáo của nó.”

Sồ 55 triệt 3. ”Nếu xảy ra bất cứ việc vi phạm nào chống lại điều luật này, thì các thủ phạm phải biết rằng họ bị vạ tuyệt thông tức khắc do Tòa Thánh dành cho họ.”

Số 62. ”Bị hủy bỏ các kiểu bầu gọi là biểu quyết hay gợi hứng và giàm xếp. Từ nay trở đi hình thức bầu Giáo Hoàng Roma sẽ chỉ duy nhất là bầu bằng phiếu kín.

Vì thế tôi thiết định rằng để cuộc bầu Đức Giáo Hoàng Roma có giá trị phải có ít nhất hai phần ba số phiếu, do các cử tri hiện diện bỏ phiếu”.

Số 64. ”Thể thức kiểm phiếu diễn tiến theo ba giai đoạn. Giai đoạn đầu có thể gọi là tiền kiểm phiếu, bao gồm: 1) thứ nhất, việc chuẩn bị các phiếu từ phía các Nghi lễ viên – được mời vào Phòng cùng với vị Thư ký của Hồng Y Đoàn và vị Trưởng nghi lễ các buổi cử hành phụng vụ của Tòa Thánh – các vị này phân phát cho mỗi Hồng Y 2 hay 3 phiếu; 2) thứ hai, bắt thăm giữa các Hồng Y cử tri, để chọn 3 vị Kiểm phiếu, 3 vị có nhiệm vụ thu phiếu bầu của các Hồng Y yếu đau, gọi ngắn gọn là các vị Yếu, và 3 vị Coi lại; việc bắt thăm đó được làm công khai bởi Đức Hồng Y Niên trưởng, rút thăm 9 tên của các vị sẽ đảm trách các nhiệm vụ nói trên; 3) thứ ba, nếu trong việc rút thăm các vị Kiểm phiếu, các vị Yếu và các vị Coi lại, ra trúng tên của các Hồng Y cử tri, mà vì đau yếu hay vì lý đo khác, không thể thi hành các nhiệm vụ này, thì rút thăm các vị khác không bị ngăn trở thay thế vào. Tên của ba vị đầu tiên là các vị Kiểm phiếu, ba vị kế tiếp là các vị Yếu, ba vị khác là các vị Coi lại.”

Số 70, triệt 2. ”Các vị kiểm phiếu cộng tất cả các phiếu bầu mà mỗi người đã đem lại, và nếu không có ai đủ hai phần ba số phiếu của lần bầu ấy, thì Đức Giáo Hoàng chưa được bầu; trái lại, nếu kết qủa là một người đã được ít nhất hai phần ba số phiếu, thì việc bầu giáo Hoàng Roma có giá trị giáo luật.”

Số 75. ”Nếu các lần bỏ phiếu như được nói tới trong các số 72, 73 và 74 của Tông Hiến kể trên, không có kết qủa, thì phải dành ra một ngày để cầu nguyện, suy tư và đối thoại; trong các lần bầu sau đó, tuân giữ trật tự được thiết định trong số 74 của Tông Hiến, sẽ chỉ có tiếng nói thụ động của hai vị đã được nhiều phiếu nhất trong lần kiểm phiếu trước, cũng sẽ không thể tháo lui khỏi sự thiết định rằng để việc bầu cử có giá trị, cả trong các lần kiểm phiếu này nữa, cũng phải có đa số đủ tính cách ít nhất là hai phần ba phiếu của các Hồng Y cử tri hiện diện. Trong các lần bỏ phiếu này, hai vị đã có nhiều phiếu nhất có tiếng nói thụ động, không có tiếng nói tích cực.”

Số 87. ”Sau khi đã bầu cử theo giáo luật, vị Hồng Y đẳng Phó tế cuối cùng gọi vào phòng bầu cử Thư ký của Hồng Y Đoàn, vị Trưởng ban nghi lễ phụng vụ tòa thánh và hai Nghi lễ viên; rồi Hồng Y Niên trưởng, hay vị Hồng Y cao niên nhất, nhân danh toàn Hội đồng bầu cử hỏi sự đồng ý của vị được bầu với các lời sau đây: ”Ngài có chấp nhận việc bầu cử ngài hợp giáo luật làm Giáo Hoàng không?” Sau khi nhận được sự đồng ý, thì hỏi: ”Ngài muốn được gọi tên là gì?”. Khi đó vị Trưởng nghi lễ phụng vụ tòa thánh với nhiệm vụ chưởng khế và trước hai chuyên viên nghi lễ chứng nhân, thảo một tài liệu liên quan tới việc chấp nhận của vị Tân Giáo Hoàng và tên do ngài nhận”.

Tài liêu này sẽ có hiệu lực ngay sau khi được công bố trên báo Quan Sát viên Roma.

Tôi quyết định và thiết lập, mặc cho bất cứ việc định liệu trái ngược nào.

Làm tại Roma, gần Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày 22 tháng Hai năm 2013, năm thứ tám triều đại Giáo Hoàng của tôi.

Biển Đức XVI Giáo Hoàng

(SD 25-2-2013)

Linh Tiến Khải

Quyết định từ nhiệm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Quyết định từ nhiệm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Một số nhận định của Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia

Vào cuối Công nghị Hồng Y sáng ngày 11 tháng 2-2013, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã báo tin cho các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục hiện diện ngài quyết định từ chức Giáo Hoàng. Tin này đã khiến cho mọi người hiện diện và toàn thế giới kinh ngạc. Thế là sau gần 8 năm làm Chủ Chăn Giáo Hội công giáo hoàn vũ, bắt đầu từ 20 giờ ngày 28 tháng 2 năm 2013 Ngai tòa Thánh Phêrô sẽ trống ngôi.

Trên nguyên tắc, trong các ngày 15-20 tháng Ba, Hồng Y Đoàn sẽ nhóm Mật Nghị đề bầu người kế vị. Hiện nay Hồng Y Đoàn còn 117 vị, trong đó có 60 vị Âu châu, 19 vị châu Mỹ Latinh, 14 vị Bắc Mỹ, 12 vị Phi châu, 11 vị Á châu và 1 vị Đại Dương châu.

Trong số các nước có nhiều Hồng Y nhất đứng đầu là Italia gồm 28 vị, thứ hai là Hoa Kỳ gồm 11 vị, thứ ba là Đức gồm 6 vị. Tiếp đến là các nước Brasil, Ấn Độ, và Tây Ban Nha mỗi nước 5 vị. Pháp và Ba Lan mỗi nước có 4 vị. Hai nước Canada và Mexico mỗi nước có 3 vị. Các nước Argentina, Nigeria và Bồ Đào Nha mỗi nước 2 vị.

Từ ngày 11 tháng 2-2013 hàng chục đài truyền hình quốc tế đã gửi các phóng viên đến Roma để theo dõi tin tức và tường trình các biến cố, nhất là Mật Nghị Hồng Y Đoàn để bầu vị Tân Giáo Hoàng.

Giảng trong thánh lễ Ngày Quốc Tế các Bệnh Nhân cử hành tại khuôn viên đại học Sinh học y khoa Roma, Đức Cha Mariano Crociata, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Italia, nói việc Đức Thánh Cha Biển Đửc XVI từ nhiệm là một dấu chỉ của tình yêu thương đối với Giáo Hội và thiện ích của Giáo Hội. Cử chỉ của Đức Thánh Cha diễn tả một sự tư do lớn lao và tôn trọng đối với chính ngài. Đức Cha Crociata đã nêu bật lòng trìu mến của ngài đối với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô. Ngài nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội bằng cách canh tân lòng tin tưởng nơi sự kiện cả trong những lúc khó khăn này chính Thiên Chúa hoạt động và hướng dẫn lịch sử”.

Trong thông cáo công bố sau đó Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia, bầy tỏ rằng quyết định của Đức Thánh Cha để lại cho tâm hồn mọi người nỗi đớn đau và tiếc nuối. Và ngài bảo đảm với Đức Thánh Cha lòng biết ơn và sự gần gữi trìu mến của các Giám Mục Italia, vì sự chú ý liên tục của Đức Thánh Cha đối với dân nước Italia, và vì sự hướng dẫn chắc chắn và khiêm tốn qua đó Đức Thánh Cha đã lèo lái con thuyền Giáo Hội.

Từ đầu tháng Giêng tới phiên các Giám Mục Italia về Roma viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolô và thăm Toà Thánh theo Giáo Luật. Đã có 14 nhóm được Đức Thánh Cha tiếp đón, còn lại 16 nhóm nữa. Cho tới ngày 28 tháng Hai khi Đức Thánh Cha chính thức thôi chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội hoàn vũ ngài còn tiếp kiến các Giám Mục vùng Liguria và Lombardia. Như thế Đức Thánh Cha đã gặp các Giám Mục các vùng Abruzzo-Molise, Basilicata, Calabria, Campania, Emilia-Romagna và Lazio. Còn lại các Giám Mục các vùng Piemonte, Puglia, Sardaigna, Sicilia, Toscana, Triveneto và Umbria, dự kiến vào đầu tháng Ba, phải đợi Đức Tân Giáo Hoàng.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Hồng Y Angelo Bagnasco, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia, về quyết định từ nhiệm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Bài phỏng vấn Đức Hồng Y dành cho phóng viên Francesco Ognibene của nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Đồng Giám Mục Italia, số ra ngày 12-2-2013.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y có thể nói gì liên quan tới biến cố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI từ nhiệm, trong công nghị sáng ngày 11 tháng 2 vừa qua?

Đáp: Công nghị đã tiến hành như dự kiến, nhưng trước khi ban phép lành Đức Thánh Cha đã đọc một văn bản của ngài bằng tiếng Latinh, ngắn gọn, trong đó ngài đã báo cho biết ý định kết thúc việc phục vụ của ngài trên ngai tòa Phêrô ngày 28 tháng Hai. Đã có sự chú ý thinh lặng lớn trong khi Đức Thánh Cha nói, nhưng sau các lời đó sự thinh lặng lại còn có thể sờ mó được hơn nữa, trộn lẫn với sự ngạc nhiên, bối rối và tiếc nuối rất lớn. Thế rồi khi Đức Thánh Cha đã đi ra, sau một lúc đã không có ai nói gì, sau đó chúng tôi mới nhút nhát trao đổi các tâm tình và khám phá ra rằng chúng giống nhau.

Hỏi: Sự lựa chọn của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã được đón nhận như thế nào thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Chúng tÔi tất cả đã rất xúc động, nhưng chúng tôi phải đặt để biến cố này vào trong chân trời của đức tin: Chúa Kitô là Mục Tử của các mục tử, Giáo Hội vững vàng trong tay của Chúa Giêsu, là Đấng dùng các người đã được Người tuyển chọn. Cùng với sự bối rối lúc đầu, còn lưu lại trong con tim, nổi lên một vòng tay rất lớn ôm ấp Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, từ phía các tín hữu, vì bóng dáng của con người mà Chúa đã ban cho chúng ta trong 8 năm trời, đứng thẳng khiêm tốn hơn, vì huấn quyền sâu sắc mà ngài đã cống hiến cho chúng ta với tâm hồn và cách thức dịu dàng, tôn trọng, khiêm tốn mà ai cũng thừa nhận, đặc biệt là trong các giờ phút này.

Hỏi: Vậy chúng ta có thể đọc được những gì trong các lời của từ nhiệm của Đức Thánh Cha?

Đáp: Quyết định này nảy sinh từ một nhận thức linh hồn gia tăng trong các năm qua, khiêm tốn một cách sâu thẳm, đầy đức tin và trong sự tự do của con tim, không tự khẳng định chính mình, nhưng biết rằng chỉ phải loan báo Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Tất cả những gì ngài đã làm: các cử chỉ, lời nói, lựa chọn, ngài đã chỉ sống cho điều đó. Năm Đức Tin cũng chứng minh cho thấy sự lo lắng, mà ngài đã loan báo ngay từ đầu triều đại của ngài: vấn đề chính của Giáo Hội ngày nay là đức tin. Đức Giáo Hoàng không chú ý đến việc thích ứng với ý kiến thống trị, bởi vì ngài là một người tự do và vì thế can đảm. Quyết định mà ngài vừa mới loan báo nằm trong bản chất ấy của tâm hồn ngài, là hơi thở thường ngày đã khiến cho ngài lượng định tuổi tác của ngài như Đức Thánh Cha nói, trong tương quan với các nhu cầu gia tăng của Giáo Hội ngày nay.

Hỏi: Có lời nào trong các lời Đức Thánh Cha nói có thể giúp chúng ta đọc được các tâm tình và các chủ ý của ngài không?

Đáp: Tôi không suy đoán mình hiểu biết Đức Thánh Cha một cách sâu xa, nhưng trong việc tiếp xúc với ngài trong các năm qua và cả trong những lúc rất khó khăn và đau khổ – như trong lúc bùng nổ các trường hợp giáo sĩ tu sĩ lạm dụng tính dục trẻ em – tôi đã có ấn tượng rất mạnh về sự thanh thản và tin tưởng của ngài. Tôi đem theo trong mình ấn tượng rất mạnh về một người sống tất cả những điều xảy ra với cái nhìn đức tin. Ngài là thí dụ cho thấy phải sống kitô giáo như thế nào: đó là nhìn các sự vật với con mắt của Chúa. Giáo huấn của ngài trong các năm qua, cùng với con người của ngài, là một lời kêu mời, một gương sáng và một lời rao giảng đức tin có trung tâm là Chúa Giêsu Kitô.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y tâm trạng của rất nhiều người khi nghe tin Đức Thánh Cha từ nhiệm là ngạc nhiên và đau buồn, có lẽ có nhiều người nghĩ tới sự kiện Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phục vụ cho tới cùng. Tại sao lại có sự khác biệt giữa hai Giáo Hoàng như vậy?

Đáp: Các tình trạng khác nhau cũng như các nhân vật khác nhau. Mỗi người đã lượng định trước mặt Chúa, trong lời cầu nguyện, tình trạng riêng của mình và của Giáo Hội, mà mình được thánh hiến như là tôi tớ. Tôi nghĩ rằng không có bổn phận và không thể thể đưa ra các so sánh tế nhị như vậy, bởi vì chúng liên quan tới cung thánh của lương tâm cá nhân.

Hỏi: Có người nói rằng quyết định này cho thấy một Giáo Hội giòn mỏng hơn, và được phơi bầy ra cho người muốn nó khác với điều Giáo Hội là, có phải thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Trái lại, sự ”bất lực” mà Đức Thánh Cha nói tới ở đây không liên quan tới khả năng luân lý hay ít can đảm, ít chú ý hoặc muốn rút lui về một cuộc sống ít nặng nề hơn. Các lượng định của Đức Thánh Cha liên quan tới sức khỏe vật lý và tuổi già, với sự mòn mỏi mà trong các tháng qua người ta cũng có thể trông thấy. Chắc chắn là người ta không thể nói rằng đây là một vị Giáo Hoàng không can đảm. Nếu có người nghĩ rằng đây là một sự trốn chạy, thì phải tự hỏi tại sao ngài đã không từ nhiệm giữa bão tố của các vụ giáo sĩ tu sĩ làm dụng tính dục trẻ em.

Hỏi: Biến cố không thể thấy trước này có liên quan tới Năm Đức Tin không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Có thể coi đó như là một lời loan báo quyền tối thượng của đức tin và tính cách trung tâm điểm của Chúa Kitô. Là người chúng ta là dụng cụ và là tôi tớ, dĩ nhiện bằng cách dấn thân một cách thông minh và có tinh thần trách nhiệm, nhưng người lèo lái vĩ đại là Chúa Kitô. Nếu đó là đức tin của chúng ta, thì việc lựa chọn có lương tâm mà Đức Thánh Cha đã làm, trở thành một lời loan báo cuối cùng và hữu hình có Chúa Kitô ở trung tâm có nghĩa là gì.

Hỏi: Tức nó giống như một lần nữa Đức Thánh Cha chỉ cho chúng ta thấy Chúa Kitô…

Đáp: Vâng, đúng thế. Xét cho cùng một lần nữa, là người rất tránh né, với cử chỉ từ nhiệm này xem ra Đức Thánh Cha di chuyển sự chú ý từ ngài sang Chúa.

Hỏi: Còn có một tâm tình khác nữa, thưa Đức Hồng Y: đó là nhiều người có cảm tưởng họ mất đi một người cha. Làm thế nào để đương đầu với tình trạng này của tâm hồn?

Đáp: Trước hết chúng ta cảm tạ Chúa, bởi vì thật là đẹp cảm thấy rằng Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đi vào trái tim con người một cách rõ ràng và phổ quát như vậy. Người không chỉ là thần học gia mà còn là người cha nữa. Chúa Giêsu đã thành lập Giáo Hội như là kiểu diễn tả tình yêu của Người đối với thế giới và Người cũng diễn tả nó ra qua các chủ chăn của Giáo hội, trước hết là qua nền tảng hữu hình là Đấng Kế Vị Thánh Phêrô. Giờ đây cần phải tin tưởng vững mạnh, bởi vì Chúa Giêsu mới là Đấng vĩ đại điều khiển Giáo Hội. Người không bao giờ bỏ rơi Giáo Hội. Chúng ta có ý thức lớn lao thương mến, gần gũi và biết ơn Đức Thánh Cha trong các năm qua đã diễn tả tình phụ tử của Thiên Chúa một cách vừa mạnh mẽ vừa hiền dịu như vậy. Nhưng chúng ta cũng phải rất thanh thản: bởi vì có sự quan phòng của Thiên Chúa. Lịch sử Giáo Hội dậy cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa trông thấy và định liệu.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y nhận ra tình hiền phụ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đối với Giáo Hội Italia như thế nào, vì trong các tuần này các Giám Mục Italia đang về Roma viếng mộ hai Thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, theo xác định của Giáo Luật cứ năm năm một lần?

Đáp: Các Giám Mục vùng Liguria chúng tôi đang được Đức Thánh Cha chờ đợi. Đây là một dịp để bầy tỏ lòng biết ơn và lòng qúy mến đối với ngài. Tôi đã sờ mó được bằng tay sự chú ý của Đức Thánh Cha đối với Giáo hội Italia trong tất cả mọi buổi tiếp kiến mà ngài đã dành cho tôi trong tư cách là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Italia. Ngài đã sắp đặt để tôi có thể gặp ngài trước mỗi cuộc gặp gỡ với các Giám Mục Italia, và như thế là bốn năm lần mỗi năm.

Đối với tôi đây đã là một món qùa và là một đặc ân rất lớn. Các buổi gặp gỡ với Đức Thánh Cha đã là một ơn củng cố đức tin và hướng dẫn đối với Giáo Hội Italia. Đức Thánh Cha đã luôn luôn lắng nghe với sự rất mực chú ý và kín đáo, bằng cách gợi ý và khuyến khích, và cho thấy ngài rất qúy mến Hội Đồng Giám Mục và dân nước Italia. Cuộc gặp gỡ mới đây nhất là hồi cuối tháng Giêng vừa qua. Nó đã đặc biệt kéo dài tới một giờ. Với lời nói và cái nhìn của ngài Đức Thánh Cha đã hỏi thăm tin tức với một sự chăm chú đặc biệt. Tôi đã kể lại kinh nghiệm này với các anh em Giám Mục trong Ban Thường Vụ, vì tôi thấy xem ra đó là một đặc ân rất lớn.

Hỏi: Trong các lời nói trong Công nghị hôm 11 tháng Hai vừa qua, Đức Thánh Cha cũng đã chỉ cho các chủ chăn một kiểu hướng dẫn Giáo Hội, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Vâng. Đức Thánh Cha đã nhắc lại ý thức rằng sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó cho các chủ chăn và trước hết là cho Người Kế Vị Thánh Phêrô, lớn lao hơn đôi vai của con người. Nhưng chính từ đó nổi bật lên sự hiện diện và cao cả của Thiên Chúa, là Đấng hướng dẫn Giáo Hội qua các nghèo nàn của chúng tôi. Ơn thánh phải thắng thế chứ không phải các khả năng của con người. Tôi muốn nhấn mạnh rằng Đức Thánh Cha nói rằng ”chức vụ thừa tác được chu toàn ”bằng cách chịu khổ đau và cầu nguyện” là hai yếu tố cai quản của Giáo Hội mà chính ngài đã sống – cũng như Đức Gioan Phaolô II đã sống.

Hỏi: Đức Thánh Cha cũng cho biết rằng ngài ”ở lại với chúng ta” trong lời cầu nguyện, bằng cách chỉ cho thấy chiều kích mới trong cuộc sống của ngài. Đức Hồng Y nghĩ gì về lời nói này của Đức Thánh Cha?

Đáp: Lời cầu nguyện diễn tả đức tin nơi Chúa. Trong tông thư ”Cánh cửa đức tin” Đức Thánh Cha nói rằng tin là quyết định ở lại với Chúa Giêsu để sống với Người. Lời cầu nguyện được đặt để ở đây: tin là quyết định ở lại với Chúa, và trong điều này có tình gia đình và sự đồng hành với Chúa mà chúng ta gọi là con đường thiêng liêng. Một cách chuyên biệt con đường ấy mặc lấy hình thức của lời cầu nguyện. Sự kiện Đức Thánh Cha ở lại với chúng ta trong lời cầu nguyện nhắc nhớ cho chúng ta biết nòng cốt của đức tin kitô: đó là ”ở lại với Chúa Giêsu” trong thế gian mà không thuộc về thế gian.

Hỏi: Sự kiện Đức Thánh Cha chọn chính ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức, một ngày lễ được dân chúng yêu mến, để báo tin từ nhiệm của ngài, có ý nghĩa gì thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Chắc chắn đây không phải là trường hợp ngẫu nhiên. Sự lựa chọn xác đáng, còn hơn thế nữa nó như là một cử chỉ sùng kính Đức Mẹ. Trong các chuyến công du của ngài Đức Thánh Cha đã luôn luôn viếng thăm các trung tâm thánh mẫu. Tại Lộ Đức lòng sùng kính Đức Mẹ được diễn tả như là tình yêu thương xót, chữa lành thân xác, khi Thiên Chúa muốn và các linh hồn muốn. Tình yêu thương của Thiên Chúa tại Lộ Đức trở thành lòng thương xót đối với các khổ đau khốn khó của thế giới chúng ta. Đối với tôi xem ra đây là việc nêu bật rất hay đẹp và quan trọng đối với nhân loại ngày nay, đang tuyệt đối cần cảm thấy mình được yêu thương. Nếu thế giới đôi khi bạo lực như vậy, là có lẽ bởi vì nó không biết rằng nó được yêu trong lòng thương xót.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, đây chưa phải là lúc đưa ra các tổng kết, nhưng có yếu tố nào mà Đức Hồng Y đã nhận thấy thay đổi một cách sâu xa nhất dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI hay không?

Đáp: Có nhiều yếu tố khác nhau và còn qúa sớm để lượng định chúng. Nhưng đối với tôi xem ra Đức Thánh Cha nhấn mạnh trên tính cách trung tâm của đức tin, và như thế tức là đặt để Chúa Giêsu Kitô vào trung tâm cuộc sống. Và trong các năm qua Đức Thánh Cha đã lôi kéo sự chú ý của mọi người trên điều mà Công Đồng Chung Vatican II đã chỉ cho thấy, nghĩa là sự ưu tiên cho phụng vụ, là nơi và là không gian của mầu nhiệm, trong đó con người gặp gỡ Thiên Chúa, và trong sự tự do của nó để cho mình được nắm bắt bởi mầu nhiệm của Thiên Chúa, và được Thiên Chúa biến đổi. Ngay từ đầu triều đại của ngài Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh tính cách trung tâm của phụng vụ Thánh Thể như suối nguồn và tột đỉnh của toàn thể cuộc sống kitô và sứ mệnh của Giáo Hội. Ngài đã liên tục nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Bí tích Thánh Thể sinh ra dân Chúa. Và xem ra việc nêu bật này đã đi vào trong cuộc sống của các cộng đoàn và lương tâm của dân kitô.

Hỏi: Làm thế nào để đương đầu với thời gian chưa từng có này trước Mật Nghị Hồng Y bầu Đức Tân Giáo Hoàng, thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Với một thái độ tin tưởng lớn lao và sự thanh thản. Sự tiếc nuối và bối rối ban đầu là dấu chỉ cho thấy Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đi vào trong con tim của chúng ta như thế nào, khi đem Chúa Giêsu đến cho chúng ta với con người của ngài, với ánh sáng lời ngài, và sự nồng ấm hiền dịu của ngài. Nhưng các tâm tình này phải được sống bên trong một chân trời rộng lớn hơn: đó là sự thanh thản đâm rễ sâu trong đức tin. Chúng ta hãy bỏ ra ngoài biết bao nhiêu diễn văn và lời nói: tín hữu tin tưởng nơi Chúa Kitô. Chúng ta đừng chạy theo các giả thiết, các phỏng đoàn, và các mê sảng mà người ta sẽ làm trong những ngày này. Chúng ta hãy cầu nguyện, với cái nhìn gắn chặt vào Chúa Giêsu, để Giáo Hội tiếp tục lịch sử của mình trong sự trung thành với Chúa Kitô và với con người. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Biển Đức XVI và cho Người Kế Vị tương lai của Thánh Phêrô.

(Avvenire 12-2-2013)

Linh Tiến Khải– Radio Vatican

Đức Thánh Cha có thể ban hành Tự Sắc minh định luật bầu Giáo Hoàng

Đức Thánh Cha có thể ban hành Tự Sắc minh định luật bầu Giáo Hoàng

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết ĐTC Biển Đức 16 cứu xét việc ban hành một Tự Sắc xác định một số điểm trong qui luật bầu Giáo Hoàng.

Theo luật hiện hành, trong Tông Hiến ”Mục tử của toàn thể đoàn chiên Chúa”, các Hồng y có mặt tại Roma phải đợi các Hồng Y khác trọn 15 ngày thì mới có thể bắt đầu mật nghị bầu Giáo Hoàng.

Tuy nhiên, hoàn cảnh hiện nay khác hẳn, vì ĐTC Biển Đức 16 tuyên bố trước (17 ngày) sự bắt đầu có hiệu lực việc từ nhiệm và ngoài ra, lần này không có 9 ngày chuẩn bị lễ an táng Đức Giáo Hoàng. Vì thế, trong thời gian qua, nhiều Hồng y đã nêu ý kiến về việc nên để cho các Hồng Y có thể bắt đầu mật nghị sớm hơn.

Cha Lombardi nói với giới báo chí sáng 20 tháng 2-2013 rằng: ”ĐGH đang cứu xét việc công bố một tự sắc, trong những ngày tới đây, dĩ nhiên là trước khi Tòa Thánh trống tòa, để làm sáng tỏ một vài điểm đặc thù trong Tông Hiến về mật nghị Hồng Y. Tôi không biết ĐGH có thấy tự sắc ấy là điều cần thiết hoặc thích hợp để xác định vấn đề bắt đầu mật nghị hay không.. Việc nghiên cứu này cũng làm sao để hòa hợp với văn kiện về nghi thức mật nghị bầu Giáo Hoàng. Dầu sao thì quyết định chung kết tùy thuộc ĐTC. Và nếu có văn kiện này, thì nó sẽ được công bố một cách thích hợp”.

Mặt khác, hôm 19 tháng 2-2013, ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, đã ra thông báo mời gọi tất cả các tín hữu trong giáo phận đến tham dự buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ĐTC Biển Đức 16 tại quảng trường thánh Phêrô vào lúc 10 giờ rưỡi sáng thứ tư 27 tháng 2 tới đây.

ĐHY viết: ”Cộng đoàn giáo phận chúng ta trong những năm qua đã nhiều lần cảm nghiệm sự gần gũi hiền phụ của ĐTC Biển Đức 16, Ngài không bao giờ thiếu những lời soi sáng để hướng dẫn chúng ta trên hành trình thiêng liêng và mục vụ. Các cuộc viếng thăm ngài thực hiện trong các giáo xứ và các thực tại khác đã cho nhiều người trong chúng ta được cảm thấy sự hiền dịu và tâm hồn tế nhị của ngài.”

”Vì thế, tôi muốn mời gọi tất cả anh chị em hãy tham dự thời điểm đầy ý nghĩa này trong đời sống Giáo Hội và giáo phận chúng ta để một lần nữa biểu lộ lòng kính mến của chúng ta đối với ĐTC và khẩn nguyện Chúa Giêsu vị Mục Tử Đời Đời của Giáo Hội với ngài, cho ngài.

Để vào Quảng trường Thánh Phêrô dự tiếp kiến ngày 27 tháng 2-2013 của ĐTC, không cần phải có vé (SD 19-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

 

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cuối cùng trong tư cách là Giáo Hoàng

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cuối cùng trong tư cách là Giáo Hoàng

ĐTC cử hánh thánh lễ cuối cùng với tư cách là Giáo Hoàng

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều 13 tháng 2-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã cử hành lễ tro và cũng là thánh lễ cuối cùng trước sự hiện diện của đông đảo tín hữu, trong tư cách là Giáo Hoàng.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ có lối 60 Hồng y và GM, trước sự hiện diện của các tín hữu ngồi chật thánh đường, cùng với nhiều vị trong ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Buổi lễ bắt đầu với cuộc rước thống hối do ĐTC chủ sự, đi từ cuối đền thờ tiến lên bàn thờ chính với sự tham dự của các tu sĩ dòng Biển Đức và Đa Minh cùng với các HY, GM đồng tế.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC nhắc đến truyền thống rất cổ kính cử hành chặng thứ I của mùa chay trong Vương cung thánh đường thánh Sabina trên đồi Avventino. Nhưng do hoàn cảnh đặc biệt, để nhiều người có thể tham dự, ”lễ này được cử hành tại Đền thờ Vatican chiều hôm nay, quanh mộ thánh Phêrô Tông Đồ, cũng với mục đích cầu xin sự chuyển cầu của thánh nhân cho hành trình của Giáo Hội trong lúc đặc biệt này, canh tân niềm tin của chúng ta nơi Vị Mục Tử Tối Cao là Chúa Kitô”. ĐTC nói:

”Đối với tôi, đây là cơ hội thuận tiện để cám ơn tất cả mọi người, nhất là các tín hữu thuộc giáo phận Roma, trong lúc tôi sắp kết thúc sứ vụ Phêrô, và tôi xin mọi người đặc biệt nhớ đến tôi trong kinh nguyện”.

Tiếp đến, ĐTC đã quảng diễn các bài đọc của thứ tư lễ tro, nhất là lời mời gọi hoán cải. ”Sự trở về cùng Chúa là điều có thể thực hiện được như 'ân thánh', vì đó là công trình của Thiên Chúa và là hoa quả của đức tin mà chúng ta đặt nơi lòng từ bi Chúa. Nhưng sự trở về cùng Chúa chỉ trở thành thực tại cụ thể trong đời sống chúng ta khi ơn thánh thấu nhập vào nội tâm sâu thẳm và đánh động tâm hồn, ban cho chúng ta sức mạnh của của sự ”xé lòng”. Ngôn sứ cũng làm vang dội những lời này của Thiên Chúa: 'Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (v.13). Thực vậy, cả ngày nay, nhiều người sẵn sàng xé áo trước những xìcăngđan và bất công, – dĩ nhiên là do người khác phạm – nhưng ít người dường như sẵn sàng hành động trên chính con tim, trên lương tâm, trên những ý hướng của mình, để cho Chúa biến cải, đổi mới và hoán cải”.

ĐTC nhắc nhở rằng lời kêu gọi hoán cải ấy không phải chỉ với tư cách cá nhân, nhưng cả với tư cách cộng đoàn. ”Chiều kích cộng đoàn là một yếu tố thiết yếu trong đức tin và trong đời sống Kitô. Chúa Kitô đã đến để ”tập họp những con cái Thiên Chúa bị tản mác” (Xc Ga 11,52)..”

ĐTC cũng nhấn mạnh lời ngôn sứ Gioel ”Xin Chúa thương xót dân Chúa, đừng để cho gia nghiệp Chúa phải hổ thẹn, đừng để các dân tộc thống trị nó. Tại sao thiên hạ dám nói rằng: Chúa của chúng ở đâu?” (v.17). Ngài giải thích rằng: Lời cầu nguyện này làm cho chúng ta suy nghĩ về tầm quan trọng của chứng tá đức tin và đời sống Kitô của mỗi người chúng ta và các cộng đoàn của chúng ta để biểu lộ khuôn mặt của Giáo Hội và khuôn mặt này nhiều khi bị tủi hổ. Tôi đặc biệt nghĩ đến những tội chống lại sự hiệp nhất của Giáo Hội, những chia rẽ trong thân mình Hội Thánh. Sống mùa chay trong tình hiệp thông nồng nhiệt và hiển nhiên hơn của Giáo Hội, vượt thắng những thái độ cá nhân chủ nghĩa và cạnh tranh, đó là một dấu hiệu khiêm tốn và quí giá đối với những người xa lìa đức tin hoặc dửng dưng”.

ĐTC quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Mathêu về việc làm phúc bố thí, cầu nguyện và ăn chay để đáp lại lời mời gọi hãy hết lòng trở về cùng Chúa. Ngài nói:

”Chúa Giêsu nhấn mạnh đặc tính chân thực của mỗi hành vi tôn giáo như là chất lượng và sự chân thật trong tương quan với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa tố giác thái độ tôn giáo giả hình, thái độ muốn xuất hiện, những thái độ tìm kiếm sự hoan hô và ủng hộ. Môn đệ chân chính không phục vụ bản thân hoặc ”công chúng”, nhưng là phục vụ Chúa, trong sự đơn sơ và quảng đại. ”Và Cha con, Đấng nhìn thấy trong nơi bí nhiệm, sẽ thưởng cho con” (Mt 6,4,6.18).

Và ĐTC kết luận rằng: ”Như thế chứng tá của chúng ta càng có ảnh hưởng quyết định hơn nếu chúng ta càng ít tìm kiếm vinh danh cho chúng ta và nếu chúng ta ý thức rằng phần thưởng của người công chính là chính Thiên Chúa, là được kết hiệp với Chúa, đời này trong hành trình đức tin, và vào cuối đời, trong an bình và trong ánh sáng cuộc gặp gỡ diện đối diện với Chúa mãi mãi” (Xc Cr 13,12).

Sau bài giảng là nghi thức làm phép và xức tro. DHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêro đã bỏ tro trên đầu ĐTC trước khi Ngài xức tro cho một số hồng y và một số linh mục tu sĩ dòng Đaminh và Biển Đức cùng với một số tín hữu.

Lời chào của ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh

Cuối thánh lễ, ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã đại diện tất cả mọi người chào mừng ĐTC và nhắc đến quyết định giã từ sứ vụ GM Roma và Kế Vị Thánh Phêrô Tông Đồ:

”Kính thưa Đức Thánh Cha,

Với tâm tình rất xúc động và rất kính trọng, không những Giáo Hội nhưng cả thế giới đã hay tin về quyết định của ĐTC rời bỏ sứ vụ GM Roma và Người Kế Vị Thánh Phêrô.

”Thưa ĐTC, chúng con sẽ không thành thực nếu chúng con không nói với ĐTC rằng chiều hôm nay có một màn buồn sầu bao phủ tâm hồn chúng con. Trong những năm qua, Giáo Huấn của ĐTC là một cánh cửa sổ mở ra cho Giáo Hội và thế giới, để cho những tia sáng sự thật và tình thương của Thiên Chúa chiếu rọi vào, để mang ánh sáng và sức nóng cho hành trình của chúng con, nhất là trong những lúc mây đen dầy đặc che phủ”.
”Tất cả chúng con đã hiểu rằng chính lòng yêu mến sâu đậm của ĐTC đối với Thiên Chúa và Giáo Hội đã thúc đẩy ĐTC đi tới hành động từ nhiệm ấy, biểu lộ một tâm hồn thanh khiết, đức tin vững mạnh, sức mạnh của sự khiêm tốn và dịu hiền cùng với lòng can đảm mạnh mẽ, nổi bật trong mỗi bước tiến trong cuộc đời và sứ vụ của ĐTC, và chúng chỉ có thể đến từ sự ở với Chúa, ở dưới ánh sáng Lời Chúa, liên tục lên núi gặp gỡ Chúa để rồi trở xuống nơi xã hội con người.

“Kính thưa Đức Thánh Cha, cách đây vài ngài, ĐTC đã nói với các chủng sinh của Giáo Hội Roma rằng là Kitô hữu, chúng ta biết tương lai là của chúng ta, tương lai là của Thiên Chúa, và cây Giáo Hội luôn tiếp tục tăng trưởng. Giáo Hội luôn đổi mới, luôn tái sinh. Phục vụ Giáo Hội với ý thức mạnh mẽ Giáo Hội không phải là của chúng ta nhưng là của Thiên chúa, và không phải chúng ta xây dựng Giáo Hội, nhưng là Thiên Chúa, để có thể lên sự thật: ”Chúng ta là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta chỉ làm điều chúng ta phải làm” (Lc 17,10), hoàn toàn tín thác nơi Chúa, đó là đại giáo huấn mà ĐTC, qua quyết định đau thương này, không những dành cho chúng con là những Mục tử của Giáo Hội, nhưng còn cho toàn thể Dân Chúa. ”Thánh Lễ là cảm tạ Thiên Chúa. Chiều hôm nay chúng con muốn cảm tạ Chúa vì hành trình mà toàn thể Giáo Hội đã thực hiện dưới sự hướng dẫn của ĐTC và chúng con muốn nói với ĐTC tự thâm tâm chúng con, với tất cả lòng quí mến, xúc động và ngưỡng mộ rằng: Cám ơn ĐTC vì đã cho chúng con tấm gương rạng người về người thợ đơn sơ và khiêm tốn trong vườn nho của Chúa, nhưng là một người thợ đã muốn thực hiện trong mọi lúc điều quan trọng nhất để mang Chúa đến cho con người và đưa con người về cùng Thiên Chúa”.

Giuse. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Thiên Chúa nhập thể tự ban mình cho nhân loại với sự nhưng không và tình yêu thương

Thiên Chúa nhập thể tự ban mình cho nhân loại với sự nhưng không và tình yêu thương

Mầu nhiệm Nhập Thể cho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đã không cho cái gì, nhưng là cho chính mình trong Người Con Duy Nhất với sự nhưng không và tình yêu thương. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với mấy ngàn tín hữu tham dự buổi tiếp kiến thứ hai của năm 2013 trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 9 tháng 1-2013.

Vì đang là mùa Giáng Sinh nên trong bài huấn dụ ngài đã tiếp tục khai triển ý nghĩa mầu nhiệm Ngôi Lời Con Thiên Chúa nhập thể làm người.

Trong mùa này khi tham dự các lễ nghi phụng vụ chúng ta thường nghe vang lên nhiều lần từ ”nhập thể” diễn tả thực tại chúng ta cử hành trong lễ Giáng Sinh: đó là Con Thiên Chúa đã làm người, như chúng ta đọc trong kinh Tin Kính. Từ chính yếu này đối với đức tin kitô có nghĩa là gì? Nó bắt nguồn từ tiếng La tinh ”incarnatio”. Và Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa từ ”nhập thể” như sau:

Ở đây từ ”thịt xác”, theo sử dụng của tiếng Do thái, ám chỉ con người trong sự toàn vẹn của nó, tất cả con người, nhưng chính dưới khía cạnh của sự tàn tạ, của tính chất tạm thời, của sự nghèo nàn và hữu hạn của nó. Điều này để nói với chúng ta rằng ơn cứu độ do Thiên Chúa nhập thể nơi Đức Giêsu thành Nagiarét đem đến, liên quan tới con người trong thực tại cụ thể và trong bất cứ tình trạng sống nào của nó.

Thiên Chúa đã nhận lấy điều kiện là người để chữa lành nó khỏi tất cả những gì chia rẽ nó với Người, để cho phép chúng ta gọi Người, trong Người Con Duy Nhất, với tên gọi ”Abba, Cha” và thật sự chúng ta là con cái của Người. Thánh Ireneo khẳng định rằng: ”Đó là lý do, bởi đó Ngôi Lời đã làm người, và Con Thiên Chúa, Con của con người: để cho con người, khi bước vào sự hiệp thông với Ngôi Lời và như thế nhận được ơn là con Thiên Chúa, trở thành con Thiên Chúa” (Adversus haereses 3,19,1; PG 7,939; x. SGLGHCG, 460).

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha ghi nhận rằng sự kiện ”Ngôi Lời nhập thể” đã trở thành một thực tại quen thuộc, khiến cho chúng ta không còn ý thức được sự cao cả mà nó diễn tả nữa. Thật thế, trong mùa Giáng Sinh thường khi người ta chú ý nhiều tới các khía cạnh bề ngoài, các ”màu mè” của ngày lễ hơn là trọng tâm sự mới mẻ kitô vĩ đại mà chúng ta cử hành: một cái gì không thể tưởng được, mà chỉ có Thiên Chúa có thể làm và chúng ta chỉ có thể bước vào đó với lòng tin. Ngôi Lời, Ngôi Lời là Thiên Chúa (x. Ga 1,1) mà nhờ Người mọi sự đều được tạo thánh (x. 1,3), và Người đã đồng hành với loài người trong lịch sử với ánh sáng của Người (x. 1,4-5; 1,9) trở thành thịt xác và ở giữa chúng ta, trở thành một người như chúng ta (X. 1,14). Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định rằng: ”Con Thiên Chúa… đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí tuệ con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng qủa tim con người. Sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (GS 22). Vì thế thật là điều quan trọng tái chiếm được sự kinh ngạc trước mầu nhiệm, để cho chúng ta được bao bọc bởi sự vĩ đại của biến cố: Thiên Chúa đã rong ruổi các nẻo đường của chúng ta như là người, bước vào trong thời gian của con người để thông truyền cho chúng ta chính sự sống của Người (x. Ga 1,14). Và Người đã làm điều đó với ánh quang của một vì vua, chế ngự thế giới với quyền lực của Người, nhưng với sự khiêm tốn của một trẻ thơ.

Điểm thứ hai Đức Thánh Cha suy tư trong bài huấn dụ là thói quen tặng qùa trong dịp Giáng Sinh. Đôi khi nó là một cử chỉ làm vì tập tục, nhưng nói chung nó diễn tả sự trìu mến, và là dấu chỉ của tình yêu và sự qúy mến. Trong lời nguyện lễ rạng đông Giáng Sinh chúng ta đọc: ”Lậy Cha, xin nhận lấy của lễ chúng con dâng trong đêm ánh sáng này, và nhờ sự trao đổi mầu nhiệm của các ơn này xin biến đổi chúng con trong Chúa Kitô Con Chúa, là Đấng đã nâng con người lên bên Chúa trong vinh quang”. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Tư tưởng ban tặng này là trung tậm của phụng vụ và nhắc nhở lương tâm chúng ta ơn nguyên thủy của lễ Giáng Sinh: trong đêm thánh này Thiên Chúa làm người đã muốn tự ban tặng mình cho loài người, đã tự ban mình cho chúng ta; Người đã nhận lấy nhân tính của chúng ta để ban cho chúng ta thiên tính của Người. Đó là ơn vĩ đại. Cả trong việc tặng quà của chúng ta qùa đắt giá hay ít giá không quan trọng; ai không thành công trong việc cho đi một ít chính mình, thì luôn luôn cho ít. Còn hơn thế nữa, đôi khi người ta tìm thay thế trái tim và sự dấn thân cho đi chính mình, bằng tiền bạc với các sự vật vật chất. Mầu nhiệm Nhập Thể đang chỉ cho thấy rằng Thiên Chúa đã không làm như vậy: Người đã không cho cái gì, nhưng là cho chính mình trong Người Con Duy Nhất. Ở đây chúng ta tìm thấy mô thức việc cho đi của chúng ta, để cho các tương quan của chúng ta, đặc biệt là các tương quan quan trọng nhất, được hướng dẫn bởi sự nhưng không và tình yêu thương.

Điểm suy tư thứ ba là sự kiện nhập thể của Thiên Chúa làm người cho thấy cái thực tế chưa từng có của tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, hành động của Thiên Chúa không hạn chế nơi các lời nói, còn hơn thế nữa chúng ta có thể nói rằng Người không hài lòng với việc nói, mà còn đắm mình trong lịch sử của chúng ta và lãnh nhận trên mình sự mệt nhọc và cái nặng nề của cuộc sống con người. Con Thiên Chúa đã thực sự làm người, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, trong một thời gian và nơi chốn xác định, tại Bếtlêhem trong triều đại của hoàng đế Augusto, dưới thời tổng trấn Quirino (x. Lc 2,1-12).

Người đã lớn lên trong một gia đình, đã có các bạn hữu, đã thành lập một nhóm các môn đệ, đã dậy dỗ các Tông Đồ để tiếp tục sứ mệnh của Người, đã kết thúc chặng đường dương thế trên thập giá. Kiểu hành động này của Thiên Chúa mạnh mẽ khích lệ chúng ta tự vấn về sự thực tế đức tin của chúng ta. Nó không được hạn chế ở lãnh vực tình cảm, các xúc động, mà phải bước vào trong cái cụ thể của cuộc sống, nghĩa là phải đụng chạm tới cuộc sống thường ngày của chúng ta và hướng dẫn nó một cách cụ thể. Thiên Chúa đã không chỉ dừng lại ở lời nói, nhưng đã chỉ cho chúng ta sống thế nào, bằng cách chia sẻ chính kinh nghiệm của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi.

Sách giáo lý của Đức Giáo Hoàng Pio X hỏi: ”Để sống theo Thiên Chúa chúng ta phải làm gì?”, và trả lời: ”Để sống theo Thiên Chúa chúng ta phải tin các chân lý được Người mạc khải, và giữ các giới răn với sự trợ giúp của ơn thánh Người, có được qua các bí tích và việc cầu nguyện”. Đức tin có một khía cạnh nền tảng không chỉ liên quan tới trí tuệ và con tim, mà liên quan tới toàn cuộc sống chúng ta.

Điểm thứ tư trong suy tư của Đức Thánh Cha liên quan tới khắng định của thánh Gioan: Từ nguyên thủy Ngôi Lời đã ở gần Thiên Chúa và nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành (Ga 1,1-3). Thánh sử rõ ràng ám chỉ trình thuật tạo dựng trong các chương đầu sách Sáng Thế và đọc lại chúng dưới ánh sáng của Chúa Kitô. Đây là một tiêu chuẩn nền tảng trong việc đọc Thánh Kinh: Cưụ Ước và Tân Ước luôn luôn được đọc chung với nhau, và từ Tân Ước mở ra ý nghĩa sâu xa hơn của cả Cựu Ước. Chính Ngôi Lời luôn luôn hiện hữu gần Thiên Chúa, và chính Người là Thiên Chúa, và nhờ Người và cho Người mà tất cả được tạo thành (x. Cl 1,16-17) đã làm người: Thiên Chúa vĩnh cửu và vô biên đã dìm mình trong cái hữu hạn của con người, trong thụ tạo của Người, để tái dẫn đưa con người và toàn thụ tạo tới với Người. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng: ”Việc tạo dựng thứ nhất tìm thấy ý nghĩa và tột đỉnh của nó trong việc tạo dựng mới nơi Chúa Kitô, mà ánh quang vượt ánh quang của việc tạo dựng đầu tiên” (s. 349).

Các Giáo Phụ đã để Đức Giêsu và Ađam cạnh nhau đến độ định nghĩa Người là ”Adam thứ hai” hay Ađam vĩnh viễn, hình ảnh toàn hảo của Thiên Chúa. Với việc nhập thể của Con Thiên Chúa, xảy ra một cuộc tạo dựng mới, trả lời hoàn toàn cho câu hỏi ”Ai là con người”. Chỉ nơi Đức Giêsu chương trình của Thiên Chúa đối với con người mới biểu lộ tràn đầy: Người là con người vĩnh viễn theo Thiên Chúa. Công Đồng Chung Vaticăng II đã mạnh mẽ nêu bật điều này: ”Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể… Bởi vì Chúa Kitô, Ađam mới, biểu lộ con người cho con người một cách tràn đầy và vén mở cho nó ơn gọi rất cao vời của nó” (GS 22; SGLGHCG, 359). Nơi Hài Nhi Con Thiên Chúa được chiêm ngắm trong lễ Giáng Sinh chúng ta có thể nhận biết gương mặt thật của con người; và chỉ khi chúng ta rộng mở cho hoạt động của ơn thánh Chúa và tìm theo Người mỗi ngày chúng ta mới thực hiện được chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu băng nhiều thứ tiếng khác nhau. Chào các bạn trẻ người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới ngài nhắc cho mọi người biết rằng Chúa Nhât tới đây là lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đây là dịp thuận tiện giúp suy tư trở lại việc thuộc về Chúa Kitô trong đức tin của Giáo Hội. Đức Thánh Cha khuyên các bạn trẻ tái khám phá ra mọi ngày ơn thánh đến từ bí tích Rửa Tội. Ngài khích lệ các bệnh nhân kín múc sức mạnh từ bí tích ấy trong những lúc khổ đau, không được an ủi. Và ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biết diễn tả dấn thân của bí tích Rửa tội trong cuộc sống gia đình.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải  

Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân 2013

Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân 2013

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các tín hữu tăng cường các hoạt động bác ái trong các cộng đoàn Giáo Hội nhân dịp Năm Đức Tin.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong Sứ điệp công bố hôm 8 tháng 1-2012, nhân dịp Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 21 sẽ được cử hành trọng thể tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting ở miền nam nước Đức vào ngày 11 tháng 2 tới đây, Lễ Đức Mẹ Lộ Đức, với chủ đề là câu nói của Chúa Giêsu sau khi kể dụ ngôn người Samaritano nhân lành ”Anh cũng hãy đi và làm như vậy” (Lc 10, 37).

Sau đây là bản dịch Sứ điệp của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến!

1. Ngày 11 tháng 2-2013 lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 21 sẽ được cử hành trọng thể tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting. Ngày này đối với các bệnh nhân và các nhân viên y tế, các tín hữu Kitô và mọi người thiện chí là ”thời điểm ưu tiên để cầu nguyện, chia sẻ, dâng đau khổ để mưu ích cho Giáo Hội và nhắc nhở tất cả mọi người cần nhận ra nơi khuôn mặt của người anh em đau yếu của mình Thánh Nhan Chúa Kitô, Đấng cứu độ nhân loại qua đau khổ, chịu chết và sống lại” (Gioan Phaolô 2, Thư thành lập Ngày Quốc Tế các bệnh nhân, 13 tháng 5-1992,3). Trong hoàn cảnh này, tôi đặc biệt cảm thấy gần gũi mỗi người trong anh chị em, các bệnh nhân quí mến, là những người đang sống một thời điểm thử thách khó khăn, tại các nhà từ thiện, dưỡng đường hoặc tại gia, vì bệnh bật và đau khổ. Ước gì những lời trấn an này của các Nghị Phụ Công đồng chung Vatican 2 cũng được gửi đến tất cả anh chị em: ”Anh chị em không bị bỏ rơi, cũng chẳng phải là vô dụng: anh chị em được Chúa Kitô kêu gọi, anh chị em là hình ảnh trong sáng của Chúa” (Sứ điệp gửi người nghèo, các bệnh nhân và người đau khổ).

2. Để tháp tùng anh chị em trong cuộc hành hương thiêng liêng từ Lộ Đức, là địa điểm và là biểu tượng hy vọng và ân phúc, dẫn chúng ta đến Đền thánh Altoetting, tôi muốn đề nghị anh chị em suy tư về hình ảnh biểu tượng người Samaritano Nhân Lành (Xc Lc 10,25-37). Dụ ngôn Phúc Âm được thánh Luca thuật lại được tháp nhập vào trong một loạt những hình ảnh và trình thuật rút từ đời sống thường nhật, qua đó Chúa Giêsu muốn giúp ta hiểu tình thương sâu đậm của Thiên Chúa đối với mỗi người, đặc biệt khi họ ở trong bệnh tật và đau khổ. Nhưng đồng thời, qua lời kết luận dụ ngôn người Samaritano Nhân Lành, ”Anh hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37), Chúa chỉ rõ đâu là thái độ mà mỗi môn đệ của Chúa phải có đối với tha nhân, nhất là những người cần được chăm sóc. Vấn đề ở đây là kín múc, từ tình thương vô biên của Thiên Chúa, qua một quan hệ nồng nhiệt với Chúa trong kinh nguyện, sức mạnh để sống hằng ngày sự quan tâm cụ thể như người Samaritano Nhân Lành, đối với những ai bị thương tích trong thân xác và tinh thần, những người đang kêu cứu, và cả những người vô danh và thiếu thốn phương tiện. Điều này được áp dụng không những cho các nhân viên mục vụ và y tế, nhưng cho tất cả mọi người, kể cả bệnh nhân, họ có thể sống tình trạng của mình trong viễn tượng đức tin. ”Không phải tránh né đau khổ, trốn chạy trước đau khổ, chữa lành con người, nhưng là khả năng chấp nhập sầu muộn và trưởng thành trong đó, tìm được ý nghĩa nhờ sự kết hiệp với Chúa Kitô, Đấng đã chịu đau khổ với tình thương vô biên” (Thông điệp Spe salvi, 37).

3. Nhiều Giáo Phụ đã nhìn thấy chính Chúa Giêsu nơi hình ảnh người Samaritano Nhân Lành, và các vị nhìn thấy nơi người bị cướp đả thương, Adam, Nhân loại bị hư mất và bị thương vì tội lỗi của mình (Xc Origne, Bài giảng về Tin Mừng Luca XXXIV, 1-9; Ambrogio, Chú giải Tin Mừng thánh Luca, 71-84; Augustino, Bài giảng 171). Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng làm cho tình thương của Chúa Cha hiện diện, tình thương trung tín, vĩnh cửu, không có hàng rào cũng chẳng có biên cương. Nhưng Chúa Giêsu cũng là Đấng ”tự cởi bỏ chiếc áo thần linh của Ngài”, hạ mình xuống từ thân phận thần linh, để mặc lấy hình người (Pl 2,6-8), và đến gần đau khổ của con người, đến độ xuống ngục, như chúng ta đọc trong kinh Tin Mính, và mang lại hy vọng và ánh sáng. Ngài không coi sự đồng hàng với Thiên Chúa, địa vị là Thiên Chúa của Ngài như một kho báu riêng (Xc Pl 2,6), nhưng cúi mình xuống, đầy lòng từ bi, trên vực thẳm đau khổ của con người, để đổ dầu an ủi và rượu hy vọng.

4. ”Năm Đức Tin chúng ta đang sống là một cơ hội thuận tiện để tăng cường việc phục vụ bác ái trong các cộng đoàn Giáo Hội của chúng ta, để mỗi người trở thành người Samaritano Nhân Lành đối với tha nhân, đối với những người đang ở cạnh chúng ta. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc đến một số nhân vật giữa vô số các vị trong lịch sử Giáo Hội, đã giúp đỡ những người bệnh tật yếu đau, đề cao giá trị của đau khổ trên bình diện nhân bản và thiêng liêng, để trở thành mẫu gương và khích lệ. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Nhan Thánh, ”chuyên gia và khoa học tình yêu” (Gioan Phaolô 2, Tông thư ”Ngàn Năm mới đang đến”, 42), đã biết sống ”trong sự kết hiệp sâu xa với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu” căn bệnh ”đưa thánh nữ đến cái chết qua đau khổ lớn lao” (Buổi tiếp kiến chung, 6-4-2011). Đấng Đáng Kính LM Luigi Novarese, mà nhiều người ngày nay vẫn còn giữ kỷ niệm sống động, khi thi hành sứ vụ, đã đặc biệt cảm thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện cho và với các bệnh nhân và những người đau khổ, mà Cha thường tháp tùng đến các trung tâm Thánh Mẫu, nhất là tới Hang Đá Lộ Đức. Được đức bác ái đối với tha nhân thúc đẩy, Ông Raoul Follereau dâng hiến trọn cuộc đời để săn sóc những người bị bệnh phong cùi (Hansen) cho đến tận những vùng xa xăm hẻo lánh nhất trên trái đất, Ông cũng cổ võ Ngày Thế giới chống bệnh phong cùi. Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta luôn bắt đầu mỗi ngày bằng cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Thánh Thể, trước khi ra đường, với xâu chuỗi Mân Côi trong tay, để gặp gỡ và phụng sự Chúa trong những người đau khổ, nhất là nơi những người ”không được mong muốn, không được yêu thương, chăm sóc”. Thánh nữ Anna Schaeffer làng Mindelstetten bên Đức, cũng biết kết hiệp một cách gương mẫu những đau khổ của chị với khổ đau của Chúa Kitô: ”Cái giường đau khổ trở thành … căn phòng tu viện và đau khổ trở thành công tác phục vụ truyền giáo của chị.. Được củng cố nhờ Rước lễ hằng ngày, chị trở thành một dụng cụ chuyển cầu không biết mệt mỏi trong kinh nguyện và phản ánh tình thương của Thiên Chúa đối với nhiều người tìm kiếm lời khuyên của chị” (Bài giảng lễ phong thánh, 21-10-2012). Trong Phúc âm nổi bật hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria, Người đã theo Chúa Con chịu đau khổ cho đến hy tế tột cùng trên đồi Golgota. Mẹ không bao giờ mất niềm hy vọng nơi chiến thắng của Thiên Chúa trên sự ác, đau khổ và sự chết, và Mẹ biết đón nhận với cùng một vòng tay tin yêu Con Thiên Chúa sinh ra nơi hang đá Bethlehem và chết trên thập giá. Niềm tín thác mạnh mẽ của Mẹ nơi quyền năng của Thiên Chúa được chiếu sáng nhờ sự sống lại của Cháu Kitô, Đấng ban hy vọng cho những ai ở trong đau khổ và canh tân niềm xác tín về sự gần gũi và an ủi của Chúa.

5. Sau cùng, tôi muốn nghĩ đến, với lòng biết ơn nồng nhiệt và khích lệ, tất cả các tổ chức y tế Công Giáo và xã hội dân sự, các giáo phận, cộng đoàn Kitô, các gia đình dòng tu dấn thân trong việc mục vụ y tế, tôi nghĩ đến các hiệp hội các nhân viên y tế và thiện nguyện. Ước gì tất cả đều gia tăng ý thức rằng ”khi quảng đại và yêu thương tiếp đón mỗi sự sống con người, nhất là những người yếu thế và bệnh tật, Giáo Hội ngày nay đang sống một thời điểm căn bản trong sứ vụ của mình” (Gioan Phaolô 2, Tông Huấn hậu Thượng Hội đồng Giám Mục ”Người Tín hữu giáo dân”, 38).

Tôi phó thác Ngày Thế Giới các bệnh nhân lần thứ 21 cho sự chuyển cầu của Đức Mẹ Maria Ân Phúc chí thánh được tôn kính tại Altoetting, xin Mẹ luôn tháp tùng nhân loại đau khổ, đang tìm kiếm sự thoa dịu và niềm hy vọng vững chắc, xin Mẹ trợ giúp tất cả những người can dự vào công việc tông đồ từ bi để họ trở thành những người Samaritano Nhân Lành cho anh chị em mình đang chịu thử thách vì bệnh tật và đau khổ, đồng thời tôi vui lòng ban Phép Lành Tòa Thánh”

Vatican ngày 2 tháng 1 năm 2013

Biển Đức 16, Giáo Hoàng

Trong thời gian qua, ĐTC cũng đã bổ nhiệm Đức TGM Zygmund Zimowski, người Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, làm Đặc Sứ của ngài đến chủ sự Ngày Thế Giới các bệnh nhân tới đây tại Trung tâm Thánh Mẫu Altoetting ở miền nam Đức. Đền thánh này được thành lập hồi cuối thể kỷ 15, sau khi một em bé 3 tuổi chết đuối được Đức Mẹ hồi sinh vào năm 1489.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của chủ thuyết bất khả ngộ

Phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của chủ thuyết bất khả ngộ

Các Giám Mục phải là những người quan tâm hướng về Thiên Chúa để có thể quan tâm tới con người. Phải phải can đảm và khiêm nhường trước các tín điều bất khoan nhượng của chủ thuyết bất khả ngộ thống trị thế giới ngày nay.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ các tân Giám Mục như trên trong bải giảng thánh lễ truyền chức cử hành tại đền thờ thánh Phêrô trong khung cảnh lễ Hiển Linh 6 tháng 1-2013.

Bốn Tân Tổng Giám Mục được truyền chức là Đức Cha Georg Ganswein, 56 tuổi, Bí thư riêng của Đức Thánh Cha, được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng. Trong chức vụ mới Đức Cha sẽ đặc trách về các buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha và chuẩn bị các chuyến viếng thăm của ngài ở Italia. Ba vị Tổng Giám Mục còn lại là Đức Cha Vincenzo Zani, người Italia, Tổng thư ký Bộ giáo dục công giáo, Đức Cha Fortunatus Nwachukwu, người Nigeria, tân Sứ Thần Tòa thánh tại Nicaragua, và Đức Cha Nicolas Thévénin, người Pháp, Sứ Thần Tòa Thánh.

Hai vị phụ phong trong buổi lễ là Đức Hồng Y Tarcicsio Bertone, Quốc vụ Khanh Tòa thánh và Đức Hồng Y Zenon Grocholewski, Tổng trưởng Bộ giáo dục công giáo.

Tham dự thánh lễ có gần 100 vị gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục và Giám Mục, cùng với các linh mục, tu sĩ nam nữ, thân nhân bạn bè của các tiến chức, ngoại giao đoàn canh Tòa Thánh và 10.000 tín hữu và du khách hành hương.

Sau Phúc Âm Phó tế đã hát lời loan báo Phục Sinh. Tiếp đến cộng đoàn đã hát kinh Cầu Xin Chúa Thánh Thần, rồi Đức Hồng Y Marc Ouellet, người Canada, Tổng trưởng Bộ Giám Muc giới thiệu các tiến chức với Đức Thánh Cha.

Trong bài giảng Đức Thánh Cha đã nói về ý nghĩa của biến cố Hiển Linh và mời gọi các tiến chức noi gương ba nhà Đạo sĩ phương đông. Hiển Linh là sự biểu lộ lòng lành và tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Dưới sự hướng dẫn của ngôi sao các Đạo sĩ đã tìm ra con đường tới Bếtlêhem; nhưng đối với Giáo Hội đó chỉ là bước khởi đầu của một cuộc rước vĩ đại dọc dài lịch sử. Các Đạo sĩ đến từ Phương Đông đại diện cho thế giới các dân tộc, Giáo Hội của các người không do thái, qua các thế kỷ tiến bước về với Con Trẻ ở Bếtlêhem, phủ phục và thờ lậy Con Thiên Chúa. Thật ra ngay từ đầu lịch sử Giáo Hội, con người đến từ mọi nơi thuộc mọi lục địa, mọi nền văn hóa và các kiểu suy nghĩ và cách sống khác nhau đã và đang tiến bước về với Chúa Kitô.

Các Đạo sĩ là những người bị thúc đẩy bởi sự âu lo kiếm tìm Thiên Chúa và ơn cứu rỗi của thế giới, nên không hài lòng với địa vị và của cải họ có, mà muốn biết làm sao để là người, và biết sự thật về chính con người, về Thiên Chúa và thế giới. Họ là những người kiếm tìm Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã khuyến khích các tân chức noi gương ba nhà Đạo sĩ phương đông và định nghĩa Giám Muc như sau:

Nhất là vị Giám Mục phải là người quan tâm hướng về Thiên Chúa, bởi vì chỉ như thế Giám Mục mới thực sự quan tâm tới con người. Chúng ta cũng có thể nói ngược lại: một Giám Mục phải là một người có con tim chú ý tới con người, bị đánh động bởi các chuyện của con người. Giám Mục phải là một người sống cho người khác. Nhưng ngài chỉ thực sự được như vậy, nếu là một người bị Thiên Chúa chinh phục. Nếu đối với ngài, sự lo lắng đối với Thiên Chúa trở thành một sự lo lắng đối với con người là thụ tạo của Chúa. Giám Mục phải là người đi trước và chỉ đường cho con người tiến tới đức tin, đức cậy và đức mến. Như là người hành hương của Thiên Chúa Giám Mục phải là con người cầu nguyện và sống trong sự tiếp xúc nội tâm liên lỉ với Thiên Chúa.

Giám Mục là người được mời gọi có can đảm và sự khiêm tốn của đức tin như các nhà Đạo sĩ, chắc hẳn đã bị nhạo cười vì được hướng dẫn bởi một ngôi sao họ du hành về nơi vô định. Xem ra họ đáng nực cười, nhưng bởi vì các vị đã được Thiên Chúa đánh động trong nội tâm, nên đối với họ việc tìm kiếm chân lý quan trọng hơn sự chế nhạo của thế giới, bề ngoài xem ra thông minh. Cũng thế vị Giám Mục ngày nay sẽ thường xung khắc với sự thông minh thống trị của những người bám víu vào cái xem ra chắc chắn. Ai sống và loan báo đức tin của Giáo Hội, trong nhiều điểm không phù hợp với các ý kiến thống trị của thời đại chúng ta ngày nay. Và Đức Thánh Cha giải thích lý do các xung khắc đó như sau: Chủ thuyết bất khả ngộ đang thống trị rộng rãi ngày nay có các tín điều của nó, và nó rất bất khoan nhượng đối với tất cả những gì đặt nó trong vấn nạn và cật vấn các tiêu chuẩn của nó. Vì thế can đảm chống lại các hướng dẫn thống trị là điều đặc biệt cấp bách đối với một Giám Mục này nay. Do đó Giám Mục phải là người can đảm. Sự can đảm ấy không hệ tại việc đánh trả với bạo lực, trong tính hiếu chiến, nhưng là để cho mình bị đánh và đương đầu với các tiêu chuẩn của các ý kiến thống trị. Can đảm ở lại một cách vững vàng với chân lý là điều được đòi hỏi nơi nhưng người Chúa gửi đi như chiên con giữa sói. Ai kính sự Chúa, thì khộng sợ hãi gì hết” sách Huấn Ca nói vậy (Hc 34,16). Lòng kính sợ Chúa giải thoát khỏi sự sợ hãi loài người. Nó khiến được tự do”.

Cũng như đã xảy ra cho các Tông Đồ, cũng thế các Giám Mục là những người kế vị các Tông Đồ phải chờ đợi bị đánh đập nhiều lần, một cách tân tiến, nếu không ngừng loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô một cách dễ nghe và dễ hiểu. Dĩ nhiên, các Giám Mục không được mời gọi khiệu khích, trái lại phải kêu mời mọi người bước vào trong niềm vui của chân lý, bằng cách chỉ đường như các ngôi sao lóng lánh trên bầu trời lich sử. Sự ưng thuận của các ý kiến thống trị không phải là tiêu chuẩn phải vâng phục. Tiêu chuẩn là chính Chúa. Nếu chúng ta bảo vệ lý lẽ của Chúa, thì nhờ Người, chúng ta sẽ luôn luôn chinh phục được các người mới cho con đường Tin Mừng. Nhưng một cách không thể tránh né được, chúng ta sẽ bị đánh bởi những người sống trái nghịch với Tin Mừng, và khi đó chúng ta sẽ biết ơn vì được coi là xứng đáng thông phần vào cuộc Khổ Nạn của Chủa Kitô.

Sau khi các tiến chức đã thề hứa trung thành với các nhiệm vụ Giám Mục của mình cho tới chết, cộng đoàn đã hát kinh cầu các Thánh xin các vị bầu cử cho các tiến chức nằm phủ phục trước bàn thờ. Tiếp đến hai vị phụ phong, các Hồng Y và các Tổng Giám Mục đặt tay trên đầu các tiến chức. Các Phó tế cầm sách Phúc Âm mở trền đầu các tiến chức, trong khi Đức Thánh Cha đọc công thức truyền chức. Rồi từng vị tiến lên để được Đức Thánh Cha xức dầu thánh hiến, trao sách Phúc Âm, đeo nhẫn, nhận mũ và gậy Giám Mục. Sau đó càc Tân Tổng Giám Mục trao hôn bình an với Đức Thánh Cha, các Hồng Y, và các Tổng Giám Mục, và nhận lời chúc mừng của các vị.

Vì thánh lễ kéo dài nên Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin trễ 15 phút. Ngài đã xin lỗi mọi người vị sự chậm trễ này. Đức Thánh Cha đã gửi lời cầu chúc bình an, và đặc biệt chúc mừng các Giáo Hội Đông Phương mừng lễ Giáng Sinh ngày mùng 7 tháng Giêng theo lịch Giuliano. Ngài cũng nhắc tới Ngày Thánh Nhi cử hành tại Italia hôm qua và cám ơn các thiếu nhi đã dấn thân loan báo Tin Mừng và trợ giúp các trẻ em nghèo. Đức Thánh Cha xin các em đem tình yêu Chúa đến cho mọi người. Ngài cũng đặc biệt chào mừng hiệp hội Các Gia đinh Tự Do Âu châu tổ chức cuộc diễn hành lịch sử dân ca vũ, năm nay theo các truyến thống của vùng Arezzo trung Italia. Hàng chục đoàn người mặc các sắc phục địa phương với cờ quạt hộ tống ba vua cỡi ngựa, đã bắt đau diễn hành lúc 10 giờ trên đại lộ Hòa Giải đế tiến về quảng trường thánh Phêrô tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha.

Trong bài huấn dụ ngắn Đức Thánh Cha nói tuy có hơi khác nhau nhưng lễ Hiển Linh mà Giáo Hội Latinh Roma mừng hôm qua, và lễ Giáng Sinh mà các Giáo Hội Đônb phương mừng ngày mùng 7 tháng Giếng, đều nêu bật rằng Hài Nhi sinh trong hang đá Bếtlehem là ánh sáng thế gian, dẫn lối cho mọi dân tộc. Trên bình diện đức tin thì một đàng trong lễ Giáng Sinh chúng ta thấy ở trước Đức Giêsu có đức tin của Mẹ Maria, của thánh Giuse và các mục đồng. Hôm nay trong lể Hiển Linh có đức tin của các Đạo sĩ đến từ Phương Đông để thờ lậy vua Do thái. Ngài nói:

Đức Trinh Nữ Maria cùng với chồng mình diễn tả ”nhánh” của Israel, ”số sót” đã đươc các tiên tri loan báo, từ đó Đấng Cứu Thế xuất thân. Trái lại các Đạo sĩ diễn tả các dân tộc, và chúng ta cũng có thể nói các nền văn hóa, và các tôn giáo đang tiến bước về với Thiên Chúa, trong sự kiếm tìm vương quốc hòa bình, công bằng, chân lý và tự do của Người. Nhân tố đức tin của dân Israel là dân đã nhận biết và tin nơi Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải cho các Tổ Phụ và trong con đường lịch sử, đã được biểu hiện nơi Đức Maria, ”Con gái Sion”. Vào thời viên mãn đức tin ấy đã thành toàn nơi Mẹ là ”người có phúc vì đã tin”; và nơi Mẹ Ngôi Lời đã nhập thể, Thiên Chúa đã xuất hiện” trong thế giới. Đức tin của Mẹ trở thành mẫu gương đức tin của Giáo Hội, Dân của Giáo Ước mới, một dân đại đồng ngay từ đầu. Nó có thể được để bên cạnh đức tin của tổ phụ Abraham: nó là sự khởi đầu của cùng một lời hứa của cùng một chương trình bất biến của Thiên Chúa, giờ đây được thành toàn nơi Đức Giêsu Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô trong sáng và mạnh mẽ khiến cho có thể hiểu được ngôn ngữ của vũ trụ cũng như ngôn ngữ của Thánh Kinh, và như thế tất cả những ai, như ba nhà Đạo sĩ, rộng mở cho chân lý có thể nhận biết nó và đạt tới việc chiêm ngưỡng Đấng Cứu Độ thế giới.

Sau đó Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Maria Mẹ Thiên Chúa

Maria Mẹ Thiên Chúa

Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, Mẹ rất thánh của chúng ta, được đọc lên hàng triệu triệu lần mỗi ngày. Danh hiệu này được đọc trong phụng vụ của Giáo Hội hoàn vũ, trong kinh nguyện riêng tư tại gia đình, trên xe hay lúc tản bộ. Dĩ nhiên, tôi cũng từng đọc cả trăm lần mỗi ngày lời Mẹ Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta càng hiểu biết và yêu mến mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì chúng ta càng hiểu biết và yêu mến cách trọn vẹn hơn mầu nhiệm Chúa Cứu Thế, Người Con rất yêu dấu của Đức Mẹ. Và, do lòng sùng kính, hiếu thảo của một người con đối với Mẹ Thiên Chúa, tôi muốn tìm hiểu từ ngữ này trên hai phương diện: lịch sử và thần học, hầu hiểu biết được quan điểm của Giáo Hội Công Giáo đối với danh xưng này.

ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ

Thánh danh Mẹ Thiên Chúa được dùng trong kinh nguyện của Giáo Hội từ lâu trước cuộc tranh luận giáo thuyết làm nên một giai đoạn thử thách đức tin Kitô hữu. Tuy nhiên, tước hiệu chính xác Mẹ Thiên Chúa đã được Đức Giám Mục Alexander thành Alexandria xưng tụng khoảng năm 281 – 300 A.D.

Theo lịch sử Công Giáo, Nestôriô chủ trương rằng việc nhập thể bao gồm một sự biến đổi trọn vẹn của Ngôi Lời. Đối với ông, Đức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa, nhưng là mẹ một con người thuần túy, một người có tên Giêsu, người mang Ngôi Lời. Để lên án học thuyết sai lầm về Thánh Mẫu Học và Kitô Học của bè rối Nestôriô, Công Đồng chung Êphêsô năm 431, dưới quyền điều khiển của Thánh Cyrilô thành Alexandria, đã tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Thiên Chúa trở thành một tín điều và mầu nhiệm của đức tin Công Giáo chúng ta. Tước hiệu này đã trở nên một phần vĩnh viễn trong những kinh tuyên xưng đức tin và trong phụng vụ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo.

1)- Trong Thánh Kinh:

Mặc dù Thánh Kinh không chính thức dùng từ ngữ Mẹ Thiên Chúa, nhưng từ ngữ đó đã được hàm chứa một cách rõ rệt và minh bạch trong Thánh Kinh. Theo tiên tri Isaia, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel (Is, 7:14; Mt, 1:23). Từ câu này, chúng ta có thể nói : Trinh Nữ đó sẽ là Mẹ Thiên Chúa.

Lời tiên tri trên được thực hiện trong Phúc Âm Luca khi sứ thần Gabriel báo tin cho Mẹ Maria : “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai v sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…; vì thế Trẻ Thánh sinh ra bởi Bà, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc, 1:31-35).

Cũng vậy, Thánh Phaolô nói : Thiên Chúa đã sai con mình đến sinh bởi người nữ và sinh dưới chế độ luật (Gal,4:14). Và từ dòng dõi họ Đức Kitô, theo huyết nhục, cũng từ họ mà ra, là Đấng vượt trên muôn loài, tức là Thiên Chúa, đáng ca tụng đời đời. (Rm, 9:5). Chúng ta cũng thấy, trong Phúc Âm Thánh Gioan, Mẹ Maria được gọi là Mẹ Chúa Giêsu (2:1; 19:26), và Mẹ Chúa trong Luca, đoạn nói về việc Đức Mẹ đến thăm bà Elizabeth (1:43). Do đó, trong Thánh Kinh, ta thấy Thiên Chúa Cha mời gọi Đức Maria và do lời FIAT tự nguyện của Mẹ, trong quyền lực ơn sủng của Thánh Thần, Mẹ trở nên Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người; và như thế, Mẹ Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

2)- Qua Thánh Truyền:

Các Kitô hữu thời sơ khai, được các Tông Đồ hướng dẫn, có một niềm tin vững chắc vào chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Điều này được chứng tỏ bằng những việc tôn kính phổ quát như : Kinh Tin Kính của các Tông Đồ : Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Con Một Thiên Chúa Cha, Đấng xuống thai bởi phép Chúa Thánh Thần, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria; công thức rửa tội ở thời kỳ đầu và những kinh nguyện phụng vụ.

Thêm vào đó, tước hiệu Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã được tin yêu và truyền dậy bởi các giáo phụ như Thánh Cyrilô, Athanasiô, Ignatiô, Antiochia… Vào thời Thánh Athanasiô năm 373, chúng ta thấy có câu : Chúng tôi thú nhận rằng Con Thiên Chúa đã trở nên nhục thể qua việc nhận lấy thân xác từ một Trinh Nữ, Đấng Mẹ Thiên Chúa. Và Thánh Giêgoriô Nagianô tuyên bố : “Nếu người nào không nhận Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa thì người đó không có Thiên Chúa làm Cha.”

Vì thế, qua Thánh truyền, chúng ta có thể xác quyết rằng Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, và như vậy Mẹ Rất Thánh của chúng ta thật là Mẹ Thiên Chúa.

3)- Qua Giáo Huấn của Giáo Hội:

Trước tiên, Maria, Mẹ Thiên Chúa được tuyên bố để bênh vực Thiên Tính Chúa Giêsu, Con Mẹ, trong Công Đồng Chung thứ III tại ÊPhêsô năm 431 do Đức Giáo Hoàng Celestinô I. Thật ra, vào năm 428, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đã bị phản đối công khai tại Constantinople. Những Công Đồng kế tiếp như Chalcedonia năm 451 và Constantinople II năm 553 đã làm sáng tỏ hơn ý nghĩa tước hiệu Mẹ Thiên Chúa.

Công Đồng Constantinople III (680-681) đã lên án phái Monothelites và nhắc lại một số công thức cổ truyền. Công Đồng xác quyết rằng: Chúa Giêsu Kitô được sinh ra bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, và Đức Trinh Nữ Maria chính thức và thật sự là Mẹ Thiên Chúa theo nhân tính của Chúa Kitô.

Ngoài ra, chúng ta còn có những giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng gần đây về Mẹ Thiên Chúa như Đức Giáo Hoàng Piô XI, đã ra thông điệp Mediator Dei để mừng kỷ niệm 1500 năm Công Đồng Êphêsô và công bố lễ Mẹ Thiên Chúa mừng trong toàn thể Giáo Hôi vào ngày 11 tháng 10.

Đức Piô XII, trong thông điệp lịch sử của ngài, đã tuyên bố Năm Thánh Mẫu vào năm 1954 và chủ trương rằng chức Mẹ Thiên Chúa là nguồn gốc tất cả mọi ơn sủng và đặc sủng của Mẹ Maria.

Sau cùng, Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen gentium, chương VIII đã nói về Mẹ Thiên Chúa. Và trong Hiến Chế về Phụng Vụ, các Nghị Phụ trong Công Đồng đã chuyển lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 11 tháng 10 sang mồng 1 tháng 1.

4)- Trong Thánh Lễ:

Thánh Lễ của chúng ta thật phong phú với những lời cầu nguyện cùng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng ta. Vì tính chất phong phú đó, tôi xin trình bầy việc nhắc đi nhắc lại tước hiệu cao cả này mà ta thấy chứa đựng trong Thánh Lễ.

Cả 4 kinh nguyện Thánh Thể đều nhắc tới Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trong kinh nguyện Thánh Thể I, vị linh mục đọc : Hiệp cùng Hội Thánh, chúng con kính nhớ Đức Maria vinh hiển trọn đời đồng trinh Mẹ Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Kinh nguyện Thánh Thể II, III và IV đọc : Cùng với Đưc Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa.v.v….

CÁI NHÌN THẦN HỌC

Để hiểu hơn về chức Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy nghiên cứu những học thuyết bàn về chức vị này, những học thuyết bao gồm cách thiết yếu việc nhiệm sinh từ đời đời của Đức Kitô bởi Thiên Chúa Cha liên quan tới việc Ngài được sinh ra trong thời gian bởi Đức Trinh Nữ Maria. Theo Thánh Cyrilô, chúng ta có thể nhận ra chức Mẹ Thiên Chúa của Mẹ Maria qua những quan điểm sau đây :

a)- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hiện hữu với Thiên Chúa Cha từ đời đời, và là Ngôi Lời.

b)- Trong Chúa Giêsu Kitô, thiên tính và nhân tính kết hợp một cách bất khả phân ly trong một ngôi. Công Đồng Nicea định nghĩa Chúa Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, Ngài có cùng một bản thể như Thiên Chúa Cha. Những Công Đồng khác cũng xác nhận đức tin này, như Công Đồng Chalcedonia năm 451, đã dạy rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là người trong một ngôi vị. Vì Chúa Giêsu có 2 bản tính, nên chúng ta có thể hiểu sự nhiệm sinh của Ngài từ muôn đời bởi Thiên Chúa Cha và sự sinh ra trong thời gian của Ngài bởi Đức Trinh Nữ Maria.

Bởi ngôi vị bất khả phân chia của Ngài, Con Thiên Chúa tuyệt đối đồng nhất với con của Đức Trinh Nữ Maria. Vì thế, Đức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa.

Hơn nữa, vào thế kỷ 13, Thánh Tôma đã đóng góp, bằng một đường lối đặc biệt, vào việc làm cho mầu nhiệm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria thêm minh bạch và ý nghĩa. Ngài đã sáng tác và kéo dài việc bàn giải về Đức Maria như Mẹ Thiên Chúa nơi phần viết về Kitô Học trong bộ Tổng Luận Thần Học.

Qua những điều được trình bầy ở trên, chúng ta ý thức và xác nhận rằng Đức Maria thực sự là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa từ đời đời và là người thật. Vì thế, Đức Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa. Mẹ cũng là người đầu tiên chạm tới và làm sáng tỏ những mầu nhiệm cứu độ của tình thương Thiên Chúa. Thánh Kinh không những cho chúng ta biết phần nào sự kiện lịch sử trong quá khứ, điều chúng ta gọi là mạc khải.

Thêm vào đó, bởi ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, các Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã để lại cho chúng ta một giáo huấn trọn hảo về Thánh Mẫu Học trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội ở Chương VIII. Nơi chương này, chúng ta có một khoa Thánh Mẫu Học phong phú mà các Giáo Phụ của Công Đồng đã mượn tư tưởng của Thánh Ambrôsiô dạy rằng : Mẹ Thiên Chúa là một mẫu gương của Giáo Hội về Đức Tin, đức ái và sự hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô.

Các nghị phụ của Công Đồng Vaticanô II đã bày tỏ chính bản chất chân lý về Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa một cách thỏa đáng, nên không cần bàn gì thêm về chân lý căn bản này trong đức tin của chúng ta nữa.

LM Cao xuân Thành (tinmung.net)

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

Đức Thánh Cha chủ sự buổi cầu nguyện với các bạn trẻ Taizé

VATICAN. Lúc 6 giờ chiều 29 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi cầu nguyện với hàng chục ngàn bạn trẻ Kitô Âu Châu, tại Quảng trường thánh Phêrô.

Đây là cuộc gặp gỡ thứ 35 do tu viện đại kết Taizé bên Pháp tổ chức từ chiều ngày 28-12-2012 và đến ngày 2-1-2013, với sự tham dự của 40 ngàn bạn trẻ.

Từ hàng giờ trước khi chính thức bắt đầu buổi cầu nguyện, các bạn trẻ đã có mặt tại quảng trường thanh gia phần thánh ca do ca đoàn đảm trách. Lúc gần 6 giờ, ĐTC đã từ nội thành Vatican tiến ra, trong xe bọc kiếng, tiến qua các lối đi ở quảng trường để chào thăm các bạn bạn trẻ, trước khi tiến lên thềm đền thờ, nơi có lễ đài đơn sơ, với ảnh Chúa Kitô chịu đóng đanh, hai bên có Đức Mẹ và thánh Gioan.

Hai bên lễ đài có các tu huynh Taizé cùng với các LM Công Giáo, Chính Thống và Mục Sư Tin Lành, Anh giáo. Đại diện cho chính quyền địa phương có ông đô trưởng Gianni Alemanno.

Buổi cầu nguyện bắt đầu với dấu thánh giá của ĐTC và diễn ra với các thánh ca, thánh vịnh, đọc Kinh Thánh và kinh nguyện bằng nhiều thứ tiếng, giữa hàng chục ngàn ánh nến lung linh trong đêm tối.

Cuối buổi đọc kinh, trong lời chào mừng ĐTC, thầy Alois, một tín hữu Công Giáo người Đức, tu viện trưởng Taizé, cho biết các bạn trẻ hiện diện thuộc các hệ phái Kitô khác nhau, đến từ toàn Âu Châu và từ các đại lục khác: tất cả đều được liên kết nhờ một phép rửa và cùng có Lời Chúa… Thầy Roger Schutz, người sáng lập tu viện đại kết Taizé đã mở ra những hành trình hòa giải.. Nhờ chứng tá của Thầy, rất nhiều người đã muốn thực hiện trước sự hòa giải qua cuộc sống: họ đã sống như những người được hòa giải. Các tín hữu Kitô hòa giải có thể trở thành những chứng nhân về an bình và hiệp thông, trở thành những người mang một tình liên đới mới trong toàn thể nhân loại. Sự tìm kiếm một quan hệ bản thân với Thiên Chúa, chính là nền tảng của tiến trình ấy. Phong trào đại kết bằng việc cầu nguyện này không khuyến khích một thái độ bao dung dễ dàng, nhưng tạo điều kiện cho sự lắng nghe lẫn nhau và đối thoại chân thành”. Trong bài huấn dụ với những đoạn bằng 5 thứ tiếng, ĐTC ghi nhận đây là lần thứ 4 Roma đón tiếp các bạn trẻ tham dự cuộc gặp gỡ Âu Châu và ngài nói: ”Trong dịp này, tôi muốn lại lại những lời mà vị Tiền Nhiệm của tôi Gioan Phaolô 2 đã nói với các bạn trẻ trong cuộc gặp gỡ thứ 3 của các bạn tại Roma: ”Giáo Hoàng cũng cảm thấy dấn thân sâu xa với các bạn trong cuộc lữ hành tín thác này trên trái đất.. Cả tôi cũng được kêu gọi trở thành một người lữ hành tín thác nhân danh Chúa Kitô” (30-12-1987)

Và ĐTC đề cao sự nghiệp và tấm gương của thầy Roger: ”Như một chứng nhân không biết mệt mỏi về Tin Mừng hòa bình và hòa giải, thầy Roger đã khích lệ tất cả những người đi qua Taizé trở thành người tìm kiếm hiệp thông. Chúng ta phải lắng nghe trong con tim chúng ta về tinh thần linh đạo đại kết được sống thực của Thầy, và để cho mình được chứng tá của Thầy hướng dẫn tiến tới một phong trào đại kết được thực sự nội tâm và linh đạo hóa. Theo gương của Thầy Roger, ước gì nhiều người trong các bạn có thể trở thành những người mang sứ điệp hiệp nhất này. Tôi bảo đảm với các bạn về quyết tâm không thể hồi lại của Giáo Hội Công Giáo trong việc tiếp tục tìm kiếm con đường hòa giải dẫn đến sự hiệp nhất hữu hình của các tín hữu Kitô. Vì thế, tôi này tôi rất thân ái chào thăm các tín hữu Chính Thống và Tin Lành trong số các bạn”.

ĐTC cũng nhắc nhở các bạn trẻ rằng: ”Chúa Kitô đang mong ước nhận được từ nơi mỗi người trong các bạn câu trả lời cho câu hỏi: ”Thầy là ai đối với các con?”. Chúa mong nhận được câu trả lời đến từ tự do nội tâm sâu xa của các bạn, chứ không từ sự cưỡng bách hoặc sợ hãi. Chính khi trả lời câu hỏi ấy, cuộc sống của các bạn sẽ tìm được ý nghĩa mạnh mẽ nhất (…). Trong những ngày này ở Roma, gước gì các bạn để cho lời thưa xin vâng với Chúa Kitô trổi lên trong tâm hồn các bạn, đặc biệt tận dụng những lúc thinh lặng lâu dài vốn giữ một chỗ đứng trung tâm trong các buổi đọc kinh chung của các bạn”

Buổi đọc kinh kéo dài một tiếng đồng hồ. Sau khi ban phép lành kết thúc ĐTC còn bắt tay chào thăm các tu huynh Taizé hiện diện. (SD 29-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Lịch làm việc năm 2013 của Đức Bênêđictô XVI

Gerard O’Connell từ Rome

Đức Thánh cha Bênêđictô XVI lại có một năm bận rộn nữa phía trước với việc phát hành tông huấnthứ ba, đi Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới và tổ chức công nghị tấn phong hồng y mới.

Khi bước sang năm mới 2013, Đức Bênêđictô XVI trở thành vị giáo hoàng lớn tuổi thứ năm trong lịch sử Giáo hội. Vào ngày chín tháng Giêng, ngài sẽ vượt qua Đức Piô IX để xếp ở vị trí thứ tư. Lúc đó chỉ có ba giáo hoàng từng thọ hơn ngài là Đức Clement X, 86 tuổi, Đức Clement XII 87 tuổi và Đức Leo XIII trị vì cho đến tuổi 93.

Đức giáo hoàng thần học gia 85 tuổi sẽ khai mạc Năm Mới bằng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô nhân Ngày Thế giới Hòa bình có sự hiện diện của đại sứ đến từ 179 quốc gia hiện đang có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh.

Vào ngày lễ Chúa Hiển Linh, 6-1, ngài sẽ tấn phong một số giám mục tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, trong đó có thư ký riêng lâu năm của ngài là Đức ông Georg Ganswein, người vừa được ngài nâng lên hàng tổng giám mục và còn chỉ định làm người đứng đầu phủ giáo hoàng, trong khi vẫn giữ – ít ra là trong lúc này – vai trò thư ký riêng của Đức giáo hoàng.

Đến thứ Hai ngày 7-1, Đức Bênêđictô XVI sẽ chúc mừng Năm Mới đến các ngoại giao đoàn tại Tòa Thánh và trình bày quan điểm của mình về tình hình thế giới hiện nay.

Vắng mặt tại sự kiện thường niên này đáng chú ý nhất là Trung Quốc, quốc gia khiến ngài phải đau đầu từ khi lên ngôi giáo hoàng năm 2005. Cho đến nay nước này vẫn khăng khăng rằng mình phải có tiếng nói sau cùng trong các bổ nhiệm giám mục cho Giáo hội Công giáo ở đại lục.

Cuối tháng Giêng, Đức giáo hoàng sẽ phát hành tông huấn mới về chủ đề “Đức tin”. Ngài đã viết các tông huấn về Bác ái và Hy vọng và đến nay ngài đã hoàn thành bộ ba này. Bản văn mới sẽ là nguồn cảm hứng và hướng dẫn quan trọng cho tín hữu trong Năm Đức tin này.

Như thường lệ, Đức Bênêđictô sẽ chủ tế các nghi thức chính trong Tuần Thánh và canh thức Phục sinh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 30-3. Ngày hôm sau là Chúa nhật Phục sinh, ngài sẽ đọc Thông điệp truyền thống gửi thành phố Rôma và Thế giới (“Urbi et Orbi”) tại ban công chính của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Thông điệp và lời chúc mừng Phục sinh của ngài sẽ được phát thanh và truyền hình đến khoảng 2 tỷ khán thính giả toàn cầu.

Vào ngày 16-4, người giữ chức giáo hoàng lâu nhất trong tám vị giáo hoàng người Đức trong lịch sử Giáo hội sẽ mừng sinh nhật thứ 86. Ba ngày sau, ngài sẽ bước sang năm thứ chín trong cương vị giáo hoàng. Ngài được bầu làm giáo hoàng vào ngày 19 tháng 4-2005.

Vị giáo hoàng công du nhiều thứ hai trong lịch sử dự kiến sẽ sang Rio de Janeiro, Brazil tham dự Ngày Giới trẻ thế giới (23-28/7). Các nguồn tin cho biết chuyến tông du này sẽ mất một tuần, và sự kiện này sẽ thu hút hàng trăm ngàn người trẻ đến từ khắp thế giới.

Cho đến nay, đó là chuyến đi duy nhất được ngài lên lịch rõ ràng cho năm 2013. Ngài đã đến Phi châu hai lần, và đây là lần thứ ba ngài đến Mỹ Latinh, nơi có hơn phân nửa số người Công giáo sinh sống trên thế giới.

Đức Bênêđictô XVI chưa đến thăm châu Á và dường như hiện nay ngài không thể, nhưng các nguồn tin ở Rôma cho rằng ngài có thể đi một hoặc hai chuyến đi ngắn ở châu Âu trong năm 2013, trong đó có thể có chuyến thăm cuối tuần đến Ireland để thúc đẩy Giáo hội đang khủng hoảng ở đó, mặc dù chưa có người nào ở Rôma xác nhận điều này.

Tới giữa tháng 10, ngài sẽ phong một số vị thánh mới và có khả năng Chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II sẽ đứng đầu danh sách các thánh mới.

Đức Bênêđictô muốn phát hành, càng nhanh càng tốt, Tông huấn về những đúc kết của Thượng Hội đồng giám mục về Tân Phúc âm hóa diễn ra hồi tháng 10-2012, nếu không có gì thay đổi, có thể ngài sẽ làm thế trước cuối năm 2013.

Đức Bênêđictô XVI sẽ chủ tọa lễ bế mạc Năm Đức tin vào ngày 24-11. Các nguồn tin cho biết ngài có thể sẽ tổ chức công nghị vào thời điểm đó để tôn phong các tân hồng y từ các châu lục.

Trong số những người được dự đoán sẽ được nhận mũ đỏ lúc đó có Đức Tổng Giám mục Vincent Nichols của Westminter và Đức Tổng giám mục Gerhard Muller (Đức), tân Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý đức tin.

Trong cả năm, Đức Bênêđictô sẽ có vô số các cuộc hội kiến, trong đó có cuộc tiếp kiến các nguyên thủ quốc gia và chính phủ, tân đại sứ và sứ thần, cũng như các hội đồng giám mục từ các nước sang Rôma hành hương “Ad Limina” năm năm một lần.

Trong năm 2013, ngài sẽ tổ chức các cuộc họp định kỳ hàng tuần hay hàng tháng với các vị đứng đầu các văn phong khác nhau của Vatican, và quyết định về các vấn đề quan trọng với họ theo yêu cầu. Ngài sẽ bổ nhiệm giám mục cho các giáo phận trên tất cả các châu lục, và cũng sẽ thay đổi và tái bổ nhiệm trong Giáo triều Rôma. Nhiều người ở Rôma cho rằng có thể ngài sẽ thay Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh Bertone, người bước sang tuổi 78 vào cuối năm 2012, hoặc sẽ chỉ định một vị trong ngoại giao đoàn của Tòa Thánh trợ giúp đức hồng y.

Như nhiều người biết, trong lịch làm việc hàng tuần Đức Thánh cha có các cuộc biệt kiến với khách hành hương đến từ khắp thế giới vào thứ Tư. Đức Bênêđictô XVI quý trọng những lúc như thế vì lúc đó ngài là thầy dạy đức tin, “một người Cha của Giáo hội”.

Nhìn lướt qua nhật ký bên trên khiến người ta kết luận rằng Đức Bênêđictô có lịch làm việc bận rộn trong năm 2013. Ngoài ra, dựa trên kinh nghiệm của tám năm qua, người ta có thể nghĩ ngài cũng sẽ đưa ra một vài bất ngờ trong năm tới.

Trích từ UCANEWS

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Hằng năm chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa giáng sinh xuống thế làm người.

Chúng ta tin như vậy. Nhưng biến cố Chúa Giêsu giáng sinh cách đây hơn hai ngàn năm đã xảy ra trong khung cảnh lịch sử của đời sống nhân loại.

Thánh sử Luca viết thuật trong phúc âm về biến cố lịch sử Chúa Giêsu sinh ra như sau: „Thời ấy, hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ„ ( Lc 2,1) ̣

Những lời này là mốc điểm cho lịch sử ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người. Nhưng thắc mắc đặt ra hoàng đế Augustus là ai? Tại sao Chúa Giêsu giáng sinh vào triều đại hoàng đế này, và có sự gì trùng hợp hay tương đồng không?

1. Hoàng đế Augustus

Augustus sinh ngày 23.09.63 trước Chúa giáng sinh ở Roma với tên Galius Octavius. Mẹ của Augustus, bà Atila, là cháu gái của Vua Caesar và của Octavius. Như thế Augustus là cháu gọi Julius Caesar bằng ông, và trong khế ước thừa tự Ông đã nhận Augustus là con nuôi và là người thừa tự chính gia tài của mình.

Năm 42. trước Chúa giáng sinh Augustus thỏa thuận với Antonius cai trị phần phía Tây, còn Antonius phần phía Đông đế quốc. Nhưng sau đó Augustus lại tranh chấp với Antonius, và sau cùng đánh thắng Antonius cùng nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập năm 31. trước Chúa giáng sinh ở Actium. Từ lúc đó Augustus một mình trở thành người cai trị toàn cõi đế quốc Roma.

Ngày 16.01.27 trước Chúa giáng sinh Thượng viện (Sena) ̣ Roma trao tặng danh hiệu Augustus cho ông, tiếng Hylạp là Sebastos, Vị đáng kính tôn thờ, cũng như nhiều danh dự khác nữa, cùng tước hiệu danh dự về những nhân đức virtus- Can đảm, clementia – nhân từ, iustitia – công chính, và pietas – người có trách nhiệm. Từ lúc đó Ông có tên chính thức: Imperator Caesar divi filius Ausgustus – Hoàng đế Augustus, con của thần linh Caesar.

Ngoài ra Ông còn có danh hiêụ là vị cứu tinh ( Soter) , mà trong bản văn kinh thánh Cựu ước tiếng Hy Lạp danh xưng này chỉ dành cho một mình Thiên Chúa.

Augustus là vị hoàng đế Roma thứ nhất và cai trị thiên hạ từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Năm 12. trước Chúa giáng sinh Augustus được tuyên xưng bầu chọn là Pontifex maximus.

Năm 2. trước Chúa giáng sinh, vào thời điểm năm này Chúa Giêsu giáng sinh làm người, Augustus nhận thêm danh hiệu Pater patriae – người cha dân tộc.

Ngày 19.08. năm 14 sau Chúa giáng sinh Augustus băng hà ở Nola, và được công nhận tuyên dương là Vị Thần linh đất nước.

Tháng thứ 8. trong năm từ năm 8. trước Chúa giáng sinh có tên Augustus đặt theo tên của hoàng đế Augustus, để nhắc nhớ lại vào tháng này Ông trở thành vị Toàn quyền thứ nhất của đế quốc Roma.

2. Khung cảnh lịch sử

„Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần , Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm người.“ (Kinh tin kính.)

Lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Hội Thánh về Chúa Giêsu, mà chúng ta đọc hằng tuần theo ý nghĩa đạo đức thần học. Nhưng trong lời tuyên xưng đức tin đó còn gói ghém, hay đúng hơn sân khấu lịch sử đời sống, lúc Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian, đã diễn ra vào thời điểm lúc đó.

Sân khấu lịch sử đó là đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Augustus bao rùm khắp Âu Châu, sang tận miền Tiểu Á Châu, vùng Trung Đông, nơi quê hương Do Thái của Chúa Giêsu.

Hoàng đế Augustus được xưng tụng là vị cứu tinh mang lại hòa bình cho thiên hạ. Và chính ông đã cho lập Ara Pacis Augusti – Bàn thờ hòa bình của Augustus, ở tại Roma, mà ngày nay còn sót lại di tích để khảo cứu.

Rồi ngày sinh ra của Hoàng đế Augustus , ngày 23.09. cũng được cắt nghĩa theo ý nghĩa là người sinh ra để kiến tạo mang hòa bình cho nhân loại. Và ngày sinh ra của hoàng đế Augustus cũng được hiểu là ngày xoay chuyển sang mốc chặng thời gian mới khác. Theo phân chia thay đổi thời tiết thiên nhiên bốn mùa bên xứ lạnh Âu châu, Bắc Mỹ châu, ngày 23.09. hằng năm là ngày mốc điểm từ mùa Hè chuyển sang mùa Thu

Thánh Luca trong phúc âm đã tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh lồng trong khung cảnh lịch sử mọi người trong đế quốc Roma thời đó theo lệnh hoàng đế Roma phải trở về quê quán của mình mà khai tên trong sổ bộ thuế khóa. (Lc 2,) ̣

Đức giáo hoàng Benedicktô XVI. đã có nhận xét về khung cảnh lịch sử Chúa Giêsu giáng sinh: Thánh Luca trong tường thuật đã nói đến hoàng đế Augustus của đế quốc Roma và lời công bố toàn dân trở về quê quaăn cũ của mình khai tên vào sổ bộ mang chiều kích tập hợp đại kết, đồng thời như một khung lịch sử và thần học cho những biến cố được thuật lại. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 73.)

3. Chúa Giêsu sinh ra làm người

Thánh sử Matthêu viết về nguồn gốc gia phả của Chúa Giêsu: Từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là 14 đời. Từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời. Và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,1-17).

Ngài sinh ra trong đất nước Do Thái, ở Bethlehem (Lc 2,) ̣Như thế quê hương quốc tịch của Chúa Giêsu là đất nước Do Thái, Ngài là công dân Do Thái.

Chúa Giêsu có tên thật là J.hosua hoặc Jesua hoặc Jesu (nếu là tiếng Aramê). Tên này có nghiã là: “Giavê là sự cứu độ” hay “Giavê ban ơn cứu độ”. Giêsu không phải là một tên gọi đặc biệt và mới lạ của riêng Chúa Giêsu, nhưng là tên gọi khá thông dụng và rất được ưa chuộng vào thời đó.

Về ngày sinh ra cùng năm sinh của Chúa Giêsu không có sử sách nào ghi lại. Chỉ biết trước khi đạo Công giáo truyền sang đế quốc Roma, từ thời xa xưa ở nhiều nền văn hóa dân gian, ngày 25.12. là một ngày đặc biệt, là ngày bản lề chuyển tiếp sang mùa Đông với thời tiết gía lạnh cùng tối tăm. Theo văn hóa người Roma, họ kính thờ Thần Saturn, vị Thần mặt Trời không hề bị chiến thắng vào ngày này.

Những tín hữu Chúa Kitô từ năm 217 sau Chúa Giáng sinh, dưới thời Đức giáo hoàng Hippolytus, Giáo Hội Công giáo thành Roma đã tìm cách lấy ngày này thay vì thờ thần mặt trời theo nghi lễ xã hội của dân ngoại Roma, làm ngày mừng sinh nhật Chúa Giesu sinh xuống làm người trên trần gian.

Hội Thánh Công giáo muốn „rửa tội“ ngày 25.12. theo nghi lễ tôn giáo dân ngoại Roma, thành ngày lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người, Đấng là Mặt Trời công chính thay cho Thần mặt trời không hề bị chiến thắng của dân Roma.

Tiến trình cố gắng này kéo dài cùng nhiều thử thách tưởng chừng như thất bại. Nhưng đến thế kỷ thứ 4. khi đạo Công giáo được chính thức công nhận trong toàn đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Constantino, cố gắng „rửa tội“ ngày thờ thần mặt trời theo nghi lễ ngoại đạo thành ngày theo nghi lễ đạo Công giáo mới chính thức thành công được công nhận.

Và cho đến thế kỷ thứ 8. sau Chúa Giáng sinh, ngày 25.12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu trở thành ngày lễ chung cho Hội Thánh Công giáo trên hoàn cầu.

Căn cứ theo Phúc âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng chân thật đến trong trần gian (Ga 8,9), ̣ và theo sách Tiên tri Maleachi, Chúa Giêsu, Đấng Mặt Trời công chính (3,2). Nên „rửa tội“ lấy ngày 25.12. theo ý nghĩa văn hóa của dân Roma ngày xưa cho trở thành ngày kính thờ Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời đến trong trần gian là điều rất thuận tiện thích hợp cùng phải lẽ và chính đáng.

Chúa Giêsu sinh ra vào một thời gian nhất định trong khung cảnh lịch sử xã hội thời hoàng đế Roma Augustus ra chiếu chỉ toàn dân về quê quán cũ khai tên tuổi. Và lúc Chúa Giêsu ra giảng đạo loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cũng vào thời điểm nhất định, năm thứ 15. thời hoàng đế Teberius cai trị đế quốc Roma. (Lc 3,1.) ̣

Chúa Giêsu không phải là một nhân vật thần thoại sinh ra và xuất hiện vào một lúc naầo đó. Ngài là một con người thuộc vào một thời gian chính xác được sử sách ghi chép lại và vào một không gian hình thể địa lý chính xác: điểm hoàn vũ và điểm cụ thể cùng chung hợp gặp gỡ nối kết với nhau.

Nơi Ngài thể hiện Logos ( Ngôi Lời) trong ý nghĩa sáng tạo của mọi sự vật đã đi vào cuộc sống trần gian. Logos muôn thuở đã trở thành người trong mối tương quan không gian và thời gian. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 74.)

4. Giữa hai nhân vật lịch sử

1. Triều đại

Augustus là một vị hoàng đế của đế quốc Roma từ 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Chúa Giêsu cũng là một vị Vua, như Ngài đã xác nhận về mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. (Ga 18,36). Triều đại của Vua Giêsu là lòng con người không có biên giớ về hình thể địa lý cũng như thời gian và bao trùm hết mọi con người. ̣

2. Sứ mạng

Hoàng đế Augustus ban hành chiếu chỉ sắc lệnh được mệnh danh Eu-Angelion: tin mừng. Cho dù chiếu chỉ sắc lệnh của hoàng đế tốt hay không tốt.

Trong ý ngĩa và mục đích đó, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu cũng là Tin mừng ơn cứu độ được loan báo cho muôn dân gian vào mọi thời đại.

3. Đích điểm đạt tới

Hoàng đế Augustus đã thành công trong việc chấm dứt nội chiến trong đế quốc Roma thời đó và mang lại nền hòa bình trong xã hội đế quốc Roma do Ông cai trị, Pax Romana.

Chúa Giêsu cũng là người mang hòa bình đến trong trần gian, như chính Ngài xác nhận: Ngài là sự hòa bình. Nền hòa bình mà trần gian không thể cho được. ( Ga 14, 23-31), Pax Christi.

Hoàng đế Augustus dựa vào quyền lực sức mạnh trần gian.

Còn Chúa Giêsu là vị thủ lãnh dựa trên sức lực quyền uy tinh thần.

4. Người Cha

Hoàng đế Augustus được Senat trao tặng danh hiệu Pater Patriae, người cha tổ quốc.

Chúa Giêsu cũng là một người cha. Ai tin vào Ngài , người đó trở thành con Thiên Chúa. Trong dụ ngôn cỏ lùng ở Phúc âm Thánh Mattheo ( 13, 36-38) ̣ Chúa Giêsu đã gọi những hạt giống tốt trong nước Ngài là con Thiên Chúa.

5.Con Thiên Chúa

Hoàng đế Augustus đã để cho mình được xưng tụng tôn thờ là vị thần linh ở phần phía đông đế quốc Roma.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian và luôn luôn được xưng tụng là Con Thiên Chúa.

6. Những người cùng đồng hành

Hoàng đế Augustus năm giữ quyền hành như một vị toàn quyền tối cao duy nhất. chung quanh ông có 12 vị quân sư phục vụ quyền bính cho hoàng đế.

Chúa Giêsu trái lại kêu gọi thu tập 12 Môn đệ không phải để phục vụ cho quyền bính của mình, nhưng họ sẽ là những người tiếp tục sứ mạng của Chúa ra đi rao giảng nước Thiên Chúa trong trần gian.

******************

Augustus sinh ra làm vua cai trị dân thiên hạ trong đế quốc Roma dựa trên quyền lực sức mạnh của tiền bạc, luật lệ cùng vũ khí.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra trong trần gian không dựa trên sức mạnh thế lực đó, nhưng trên nền tảng sức lực tinh thần yêu mền cùng mang ơn cứu độ cho con người.

Con người là trung tâm điểm sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã sinh xuống làm người như mọi người.

Ơn cứu độ giải thoát cho con người khỏi hình phạt tội lỗi là sứ mạng chính yếu Thiên Chúa Chúa muốn mang đến. Chính vì thế Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người mang ánh sáng ơn tha thứ hòa bình xuống trần gian.

Trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Thiên Chúa, con người là cao điểm của công trình. Chính vì thế Chúa Giêsu là Logos sáng tạo vĩnh cửu của Thiên Chúa đã trở thành người trong công trình sáng tạo này.

Con Thiên Chúa làm người, để con người giữ địa vị làm người của mình.

Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh 2012

Lm. Đa-minh Nguyễn Ngọc Long  

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các Hồng Y và các chức sắc Tòa Thánh đến chúc mừng ngài sáng ngày 21 tháng 12-2012 nhân dịp Giáng Sinh và Năm Mới, ĐTC Biển Đức 16 đã kiểm điểm sinh hoạt của Tòa Thánh trong năm 2012.

Ngỏ lời với mọi người sau lời chúc mừng của ĐHY Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y đoàn, ĐTC cũng nhắc nhở mọi người hiện diện rằng, với tư cách là một gia đình, tất cả đang được mời gọi để đón mừng Hài Nhi Giêsu tại hang đá Belem, Đấng là Thiên Chúa nhưng đã đến gần con người và trở thành một người như chúng ta. Tiếp đến Ngài cũng gửi những lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả mọi người, đặc biệt là các vị Sứ Thần Tòa Thánh trên toàn thế giới. Cuối cùng, Đức Thánh Cha điểm lại những sự kiện quan trọng trong năm, bao gồm 3 cuộc công du, Đại Hội Các Gia Đình Thế Giới Tại Milan, Thượng Hội Đồng Thế Giới Lần Thứ 13 và cuối cùng là Năm Đức Tin. Trước hết, Đức Thánh Cha trình bày ngắn gọn những chia sẻ của ngài về ba cuộc công du trong năm vừa qua, ngài nói:

“Cuối năm nay chúng ta lại chứng kiến biết bao nhiêu cảnh huống khó khăn, những vấn đề và những thách đố lớn lao, nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng nhìn thấy những dấu chỉ của niềm hy vọng, trong Giáo hội cũng như trong thế giới. Hôm nay tôi muốn đề cập đến một vài yếu tố quan trong liên quan đến đời sống Giáo hội cũng như phận vụ Giáo Hoàng của tôi. Trước hết là những chuyến công du tới Mê-xi-cô và Cuba, những cuộc gặp gỡ với sức mạnh của đức tin không thể nào quên, một đức tin được bén rễ sâu trong trái tim con người ở đây; và họ thể hiện một đời sống vui tươi phát xuất từ đức tin. Trong các cuộc viếng thăm nơi vùng đất này, tôi nhớ có biết bao nhiêu đoàn người đông đảo nối tiếp nhau trong niềm vui và hạnh phúc. Nhiều bạn trẻ đã quỳ gối bên đường để đón nhận phép lành của Đấng kế vị thánh Phêrô. Tôi cũng nhớ những buổi cử hành phụng vụ hết sức long trọng bên tượng Chúa Kitô Vua làm cho Vương quyền của Người hiện diện giữa chúng ta, nhờ đó chúng ta cảm nhận được bình an, sự công chính và chân lý của Ngài. Tất cả sự kiện này diễn ra tại các quốc gia mà nơi đó đang phải đối diện với những vấn nạn khác nhau, những hình thức bạo lực cũng như những khó khăn về kinh tế. Trong khi những vấn nạn này không thể giải quyết bằng lòng nhiệt thành tôn giáo, thì nó cũng không thể nào giải quyết được nếu thiếu một sự thanh luyện của con tim xuất phát từ sức mạnh của đức tin, và từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Tại Cuba, tôi cũng được tham dự những cử hành phụng vụ long trọng, với những tiếng hát, lời kinh và cả sự thinh lặng làm cho sự hiện diện của Đức Kitô thực sự trở nên hữu hình giữa một đất nước mà chính quyền lâu nay đã nỗ lực để loại bỏ Ngài. Một sự tìm kiếm sự cân bằng giữa trách nhiệm và tự do ở đất nước này không thể thành công nếu bỏ qua điểm tham chiếu nền tảng mà con người đã khám phá ra ngang qua cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng nói về cuộc thăm viếng Lebanon và Đại Hội Gia Đình Quốc Tế ở Milan. Dù có nhiều chủ đề và nhiều sự kiện được bàn thảo trong năm nay, tuy nhiên Đức Thánh Cha muốn tập trung vào ba chủ đề chính yếu, đó là: gia đình, phục vụ hòa bình trong thế giới và đối thoại giữa các tôn giáo và cuối cùng là cuộc công bố sứ điệp của Đức Kitô trong thế giới ngày nay cho những người chưa biết Chúa Kitô hay cho những người dầu đã gặp gỡ Ngài nhưng chưa nhận ra Ngài.

Về chủ đề gia đình, Đức Thánh Cha nói như sau:

“Trước hết, những niềm vui lớn lao mà ngày họp mặt ở Milan mang lại cho thấy, giữa bao khó khăn và thách đố, gia đình vẫn mạnh mẽ và sống động trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta không thừa nhận cuộc khủng hoảng đang đe dọa nền tảng của gia đình, đặc biệt là trong thế giới Tây Phương. Chúng ta cần lưu ý rằng, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của gia đình như là một bối cảnh đích thực mà nơi đó chuyển giao kế hoạch của cuộc sống con người. Nơi gia đình chúng ta học để biết sống cho và sống với người khác. Vì thế, vấn nạn về gia đình không chỉ đơn thuần là một vấn nạn của một cấu trúc xã hội cụ thể, nhưng còn là vấn vạn về chính con người, về bản chất của con người và về con đường con người phải theo để trở nên người đích thực. Thách đố này bao gồm nhiều mặt. Trước hết là câu hỏi về khả năng của con người để thực hiện một cuộc cam kết hay là lẩn tránh sự cam kết đó. Một người có thể tự ràng buộc mình suốt cuộc đời không? Điều này có tương hợp với bản chất con người không? Điều này có đi ngược với tự do và mục đích tự thành toàn của bản thân không? Con người có thể trở nên là người đích thực khi chỉ sống cho riêng mình và chỉ đi vào mối tương quan với người khác khi thấy có thể phá vỡ mối tương quan này bất kỳ khi nào muốn không? Một sự cam kết suốt cuộc đời có đi ngược với tự do không? Một sự khước từ làm bất kỳ cuộc dấn thân nào cho thấy con người vẫn còn đóng kín với chính mình và giữ cái “Tôi” cho riêng mình và không thực sự vượt lên trên nó. Nhưng chỉ trong sự trao ban, con người mới thực sự tìm thấy chính mình. Và chỉ ngang qua việc mở ra với cái khác, người khác, với con cái, với gia đình, và để cho mình được biến đổi ngang qua những đau khổ, con người mới thực sự khám phá ra sự rộng lớn của bản tính nhân loại. Khi một sự dấn thân như thế bị loại trừ, hình ảnh về con người đích thực cũng biến mất: người cha, người mẹ, con cái – những yếu tố thiết yếu về kinh nghiệm hiện hữu của con người cũng biến mất.”

Nói về bản chất gia đình, Đức Thánh Cha nhắc nhở về bản chất của con người được sáng tạo như là những người nam và người nữ. Đó chính là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải là sản phẩm của con người. Ngài nói:

“Thế giới ngày nay người ta từ chối bản chất của mình, và cho rằng, bản chất con người không phải là một điều gì được định sẵn nhưng họ có thể tự quyết định cho bản thân. Theo tường thuật sáng tạo của Thánh Kinh, con người được sáng tạo như những người nam và người nữ chính là bản chất của con người. Tính hai mặt này là một khía cạnh thiết yếu của con người. Tính hai mặt này là một điều được trao ban, nhưng giờ đây người ta đang tranh luận về nó. Giờ đây, Thiên Chúa không còn sáng tạo ra người nam và người nữ, thay vào đó là xã hội, và chính con người tự quyết định cho chính mình.” Đứng trước vấn nạn trên, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng, khi người ta chọn lựa để tự sáng tạo cho chính mình, thì họ cũng khước từ Đấng Tạo Hóa, và khi ấy phẩm giá con người cũng biến mất. Và do đó, bất cứ ai chống lại Thiên Chúa, thì cũng đang chống lại con người.

Liên quan đến vấn đề đối thoại, Đức Thánh Cha nói rằng:

“Hiện nay, Giáo hội của chúng ta đang đối diện với ba lĩnh vực đối thoại chính yếu, ngang qua những cuộc đối thoại này, Giáo hội muốn hiện diện trong công cuộc đấu tranh cho con người và cho nhân tính của con người. Đối thoại với các quốc gia, với xã hội – bao gồm đối thoại với các nền văn hóa và khoa học – và cuối cùng là đối thoại với các tôn giáo. Trong các cuộc đối thoại này, tiếng nói của Giáo hội được đặt nền tảng trên ánh sáng của Đức Tin. Dầu vậy, Giáo hội cũng hợp tác với ký ức của nhân loại, vốn là những kinh nghiệm ngay từ giai đoạn đầu của lịch sử. Nơi đó, Giáo hội đã học về những điều kiện của con người, Giáo Hội kinh nghiệm về những giới hạn cũng như sự vĩ đại của nó, những cơ hội và những thách đố. Văn hóa nhân loại, mà Giáo hội là một sự đảm bảo, phát triển ngang qua cuộc gặp gỡ giữa mạc khải của Thiên Chúa và cuộc sống con người. Giáo hội đại diện cho ký ức về cái gì có ý nghĩa là trở thành người đích thực trong khi đối diện với nền văn minh hay lãng quên, và do đó chỉ biết đến nó và những tiêu chuẩn của nó. Một cá nhân không có trí nhớ sẽ đánh mất căn tính của mình thế nào, thì con người không có ký ức cũng sẽ đánh mất căn tính của họ như vậy. Điều mà Giáo hội đã học được từ cuộc gặp gỡ giữa mạc khải và kinh nghiệm của con người thực sự vượt ra khỏi lãnh vực của lý trí nhưng nó cũng không thuộc về một thế giới xa lạ vốn không liên hệ gì đến những người không tin. Ngang qua việc đi vào tư tưởng và sự hiểu biết của con người, tri thức này là một sự mở rộng địa hạt của lý trí, và do đó, nó cũng nói cho những người không chia sẻ Đức Tin trong Giáo hội. Trong cuộc đối thoại với các quốc gia và xã hội, dĩ nhiên là Giáo hội không có sẵn các câu trả lời cho những câu hỏi riêng biệt. Cùng với những thể chế khác trong xã hội, Giáo hội cũng phải vật lộn với những câu trả lời để đáp trả một cách tốt nhất cho chân lý tồn tại của con người. Những giá trị mà Giáo hội nhận thấy là nền tảng và không thể thay thế cho sự tồn tại của con người, Giáo hội phải công bố nó một cách rõ ràng và minh bạch. Giáo hội làm tất cả để có thể thuyết phục mọi người, vì thế điều này có thể đụng chạm đến các thể chế chính trị.”

Tiếp đến, về vấn đề đối thoại tôn giáo, Đức Thánh Cha cho nói rằng:

“Trong tình huống hiện tại của con người, cuộc đối thoại tôn giáo là một điều kiện cần thiết cho nền hòa bình trên thế giới và đó là nhiệm vụ của các Kitô Hữu cũng như các cộng đoàn tôn giáo khác. Cuộc đối thoại này mang những chiều kích khác nhau. Trước hết, đó đơn giản chỉ là một cuộc đối thoại về cuộc sống, đối thoại để sống cùng với nhau. Vì thế cuộc đối thoại này không hệ tại ở việc thảo luận những chủ đề của đức tin, nhưng về những vấn đề cụ thể của việc sống chung và chia sẻ trách nhiệm đối với xã hội, đối với đất nước và con người. Trong tiến trình này, điều cần thiết là phải học để biết chấp nhận người khác trong sự khác biệt của họ và cả trong sự khác biệt về suy nghĩ nơi họ. Để làm được điều này, sự chia sẻ trách nhiệm về công lý và hòa bình phải trở nên những nguyên lý hướng dẫn của cuộc đối thoại.”

Sau đó, Đức Thánh Cha chia sẻ một cách vắn tắt về chủ đề truyền giảng Tin Mừng, hay công cuộc Phúc Âm Hóa. Đức Thánh Cha nói rằng, những yếu tố nền tảng của tiếng trình Phúc Âm Hóa xuất hiện trong trình thuật của Thánh Gioan về việc kêu gọi hai môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, những người mà sẽ trở nên môn đệ của Đức ki-tô (Ga 1,35-39).

“Trước hết, chúng ta có một hành động công bố rất đơn sơ. Ông Gioan chỉ về phía Đức Giêsu và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Một hành động tương tự được tường thuật trong một vài câu sau đó. Lần này, chính Anrê đã nói với em trai của mình rằng: “Tôi đã thấy Đấng Mesia” (1,41). Yếu tố đầu tiên và nền tảng nhất là một sự công bố chân thật, một Kerygma, vốn có sức lôi cuốn nhờ vào sự xác tín nội tâm sâu xa của người công bố. Trong trình thuật về các môn đệ đầu tiên, đoạn tiếp theo trình bày về việc lắng nghe và đi theo Đức Giê-su, chưa phải với tư cách là người môn đệ nhưng chỉ vì sự tò mò thánh thiêng, một khoảng khắc của sự tìm kiếm. Cả hai môn đệ này đều là những con người đang tìm kiếm. Họ đặt khát vọng mong chờ Thiên Chúa lên trên, và vượt qua những vấn đề thường ngày. Và khi đươc khích lệ bởi lời công bố, cuộc tìm kiếm của họ trở nên cụ thể. Họ muốn đến để biết rõ hơn về con người được Thánh Gioan Tẩy Giả mô tả là Chiên Thiên Chúa. Cảnh thứ ba bắt đầu khi Đức Giêsu quay qua, bắt gặp họ và hỏi: “Các con đang tìm gì?” Họ đáp lại bằng một câu hỏi xa hơn, minh chứng sự mở ra đối với sự mong chờ của mình, sự sẵn sàng của họ để bước những chặng đường tiếp theo. Họ hỏi: “Thưa thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời “Hãy đến mà xem” của Đức Giê-su là một lời mời gọi bước đi với Ngài, và ngang qua đó, đôi mắt của họ mở ra để nhìn thấy Ngài. Lời công bố chỉ hiệu quả trong những tình huống nơi đó người lắng nghe sẵn sàng cho Chúa đến gần họ, nơi đó con người đang tìm kiếm và đang trên đường hướng đến Thiên Chúa. Trái tim của họ được đụng chạm khi Đức Giê-su hướng đến họ, và như vậy cuộc gặp gỡ với lời công bố trở nên một sự tò mò linh thánh giúp người ta biết đến Thiên Chúa sâu xa hơn. Khi họ bước đi với Đức Giêsu, họ được dẫn tới nơi Ngài sống, đó chính là cộng đoàn Giáo hội, và cũng chính là Thân Thể của Ngài. Điều đó có nghĩa là họ đang đi vào cộng đoàn của những người dự tòng, một cộng đoàn vừa học hỏi vừa sống đạo, nơi mà ánh mắt chúng ta sẽ được mở ra khi chúng ta bước đi.

“Hãy đến mà xem”, câu nói mà Đức Giêsu đã nói với hai người môn đệ đi tìm kiếm Ngài khi xưa, thì Ngài cũng nói với những con người đang trên đường tìm kiếm trong thế giới hôm nay. Vào thời điểm cuối năm này, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho Giáo hội để, bất chấp những giới hạn của mình, người ta vẫn không ngừng nhận ra nơi đó chính là nơi Thiên Chúa cư ngụ. Xin Ngài cũng mở mắt cho chúng ta khi chúng ta bước đi trên hành trình trở về nhà Ngài, để chúng ta có thể thấy rõ hơn và xác tín hơn: “Chúng tôi đã gặp Ngài, Ngài chính là Đấng mà toàn thể thế giới đang chờ đợi, là Đức Giê-su, là con Thiên Chúa Thật và là người thật.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha chúc mừng Giáng sinh tới mọi người hiện diện và toàn thể các tín hữu trên toàn thế giới, ngài nói:

“Với những tâm tình này, từ thâu thẳm trái tim tôi, tôi ước mong mọi người có một lễ Giáng Sinh an lành và một Năm Mới Hạnh Phúc.”

Nguyễn Minh Triệu sj

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

VATICAN. Sáng 20 tháng 12-2012, ĐTC đã cho phép Bộ Phong thánh công bố 24 sắc lệnh liên quan đến các án phong chân phước và hiển thánh, trong đó có sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô 6. Đứng đầu danh sách là sắc lệnh nhìn nhận phép lạ của chân phước Antonio Primaldo và hơn 800 vị tử đạo tại thành phố Otranto, nam Italia. Các vị bị người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo giết hại vào ngày 13-8 năm 1480. Hai sắc lệnh khác nhìn nhận phép lạ của hai nữ chân phước Laura di Santa Caterina, người Colombia, sáng lập dòng các nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Nữ Catarina, qua đời năm 1949 tại Belencito-Medellín, thọ 75 tuổi. Tiếp đến là nữ chân phước Maria Guadalupe đồng sáng lập dòng các nữ tu thánh nữ Margarita Maria và người nghèo. Qua đời năm 1963 thọ 85 tuổi. Có 5 sắc lệnh nhìn nhận phép lạ và 3 sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của các vị tôi tớ Chúa thuộc nhiều nước như Italia, Argentina, Tây Ban Nha, Ba Lan, Ucraine, Croát, trong đó có nhiều vị bị giết vì đức tin trong thời nội chiến ở Tây Ban Nha. Sau cùng 10 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của các vị tôi tớ Chúa, đứng đầu là Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, qua đời năm 1978 thọ 81 tuổi. Nhóm hơn 800 chân phước tử đạo ở Otranto có lẽ là nhóm đông đảo nhất được nhìn nhận phép lạ và sẽ được tôn phong hiển thánh. Cuộc tử đạo của các vị diễn ra cách đây 532 năm, sau khi quân Thổ Nhĩ kỳ của Pascià Acmet vây thành Otranto nam Italia từ ngày 28 tháng 7 đến 11 tháng 8 năm 1480. Họ chiếm được thành và tụ tập 813 người còn sống sót, và đưa lên ngòn đồi Minerva gần đó, buộc phải chối bỏ Chúa Kitô, nếu không sẽ bị giết chết. Vị tử đạo đầu tiên là Antonio Primaldo, lần lượt tất cả đều bị chém chết. Ngày 14 tháng 12 năm 1771, ĐGH Clemente 14 công bố sắc lệnh nhìn nhận các vị tử đạo là chân phước. (SD 20-12-2012) G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

                                                                     Francis Rodrigues từ Mangalore India 
Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng thumbnail
Đại diện Bờ Biển Ngà tham dự tang lễ của Đức cha Dr Ambrose Madtha

Đức Tổng giám mục đại diện Đức Thánh cha Ambrose Madtha được mai táng tại quê nhà Beltanghady, miền nam Ấn Độ, vào thứ Bảy qua đời do bị tai nạn xe. Vụ tai nạn xảy ra vào ngày 8-12 tại Bờ Biển Ngà, nơi ngài được bổ nhiệm làm đại diện Tòa Thánh gần đây nhất.

Đức cha Madtha qua đời ở tuổi 57, làm sứ thần Tòa Thánh tại 6 quốc gia trong đó có Đài Loan, Albania và Bờ Biển Ngà.

Khoảng 3.500 người tham dự tang lễ của ngài tại nhà thờ giáo xứ Chúa Cứu Thế ở Beltanghady, bang Karnataka, trong đó có một phái đoàn đến từ Bờ Biển Ngà.

Đức cha Madtha được xem là người kiến tạo hòa bình đáng tin cậy tại nhiều nơi ngài được bổ nhiệm.

Lãnh đạo Hồi giáo, Dosso có mặt trong phái đoàn Bờ Biển Ngà, nói Đức cha Madtha đã xây dựng cầu nối giữa các tín ngưỡng, hồi tưởng lại việc ngài in và phát 120 bản sao kinh Qu’ran sau khi một Kitô hữu đốt sách thánh của Hồi giáo, khơi lên phản đối kịch liệt.

“Đó là cử chỉ vĩ đại … nhằm duy trì hòa bình và thân ái. Và là lý do tôi đến tham dự tang lễ”, Dosso nói.

Vào cuối năm 2010, ngài đóng vai trò người trung gian trong hậu trường khi cựu tổng thống Bờ Biển Ngà Laurent Gbagbo cố tình nắm giữ quyền lực sau khi tranh cử thất bại.

Tại Đài Loan – nơi ngài được bổ nhiệm đầu tiên – Đức cha Madtha lúc đó đã thu xếp cho tổng thống Trần Thủy Biển tham dự tang lễ của Đức Gioan Phaolô II. Chưa từng có lãnh đạo nào của quốc đảo bị cô lập ngoại giao này viếng thăm Vatican trước đó.

UCANEWS VIETNAM