Hy Lễ Cứu Độ

Hy Lễ Cứu Độ

1. Đất, nước, đá

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7). Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25;5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.

Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Ai cập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10)

Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu (x.Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (x.Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (x.Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.

Như vậy, lịch sử sáng tạo,lịch sử cứu độ quyện đan với những cái tên gọi tầm thường: Đất, Nước, Đá.

2. Bánh và rượu

Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.

Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.

Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giảng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.

Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người.

Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.

“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử.Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường,và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói “Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.

3. Hy lễ cứu độ

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.

Thánh thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.

Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn 20 thế kỷ qua. Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.

Thánh thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta,chúng ta đều biết cả,sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”(Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?”( Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).

Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.

Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh thể. Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa.Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người.Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.

Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.

Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên.

Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Hiến lễ cuộc đời

Hiến lễ cuộc đời

Theo giáo lý của Hội thánh “Bản chất của Bí tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ” (BT cứu độ).

Vì thế, hôm nay chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng liêng của thánh lễ để qua đó chúng ta sẽ tham dự thánh lễ một cách tích cực và sốt sắng hơn. Vậy, thánh lễ là gì?

Thánh lễ là diễn lại cuộc hy tế của Chúa Giêsu ngày xưa trên thập giá, là bàn tiệc Nước Trời mà chúng ta được mời gọi tham dự; là thông phần khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, vì thế, khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta đóng vai trò của:

– Đức Trinh Nữ Maria: Mẹ dâng lên Thiên Chúa Cha lời xin vâng trọn vẹn qua sự hiệp thông với Con yêu qúy để cứu độ trần gian. Chính Mẹ đã kết hợp đau khổ từ trái tim của mình với đau khổ máu đổ tuôn rơi của Con để mang lại mùa xuân cứu rỗi cho trần gian.

Cũng vậy, khi chúng ta đi dâng thánh lễ, là chúng ta đem những lao công vất vả trong ngày của mình, những khổ đau trong tâm hồn, đem những tâm tình vui tươi, lạc quan của mình, hợp với của lễ trên bàn thờ là Đức Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha, để nhờ Đức Kitô, xin Ngài ban ơn cho chúng ta, tha tội cho chúng ta và xin ơn cứu độ cho toàn thể thế giới. Một sự hy sinh vất vả của một đời lao nhọc để đem lại nguồn sống và hạnh phúc cho mái ấm gia đình, là một lễ vật tuy không đổ máu nhưng cô quặng trong những giọt mồ hôi, những giọt nước mắt chảy ngược vào tim. Đó là một hiến tế mà bổn phận đòi hỏi chúng ta phải chu tòan. Đó là lễ vật mà hằng ngày chúng ta có thể thưa lên với Chúa: “Xin Chúa nhận lễ vật bởi tay cha để tôn vinh danh Chúa và sinh ơn ích cho toàn thể Hội thánh Người.

– Chúng ta cũng đóng vai trò của thánh Gioan Tông đồ, đã gan dạ đứng kề bên thập giá như một chứng nhân cho cái chết hiến tế của Thầy Chí Thánh Giêsu. Gioan không chạy trốn như bao môn đệ khác. Gioan không bàng quang như bao người khách qua đường, nhưng ông đứng dưới chân thập giá như muốn nói lên tấm lòng sẵn lòng cùng Thầy trải qua cuộc thương khó đau thương.

Cuộc sống của chúng ta luôn có thánh giá, thánh giá trong bổn phận, trong trách nhiệm, trong những lao nhọc của công ăn việc làm, trong những ưu tư lo lắng cho con cái, cho hạnh phúc gia đình. Đó là thánh giá mà Chúa đang cần chúng ta ôm lấy vào cuộc đời mình. Không trốn tránh thập giá, nghĩa là không lẩn trốn đau khổ, lẩn trốn trách nhiệm. Cuộc đời này ai cũng muốn an nhàn nhưng để được hưởng những tháng ngày an nhàn thì cần phải có những ngày tháng lao động cực khổ. Có gieo – có gặt. Có trồng mới có ngày hưởng nếm những thành quả của mình.

– Cuối cùng, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kitô. Chúa Kitô là Đầu Hội Thánh đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kitô là Đầu của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế, còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kitô vẫn đang đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho thế giới và cứu độ trần gian?

Chúng ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn, chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên Chúa Cha. Phải đóng góp phần chúng ta như Gioan đứng sát cây thập giá để nói lên tình yêu thuỷ chung sắt son với Thầy, cho dù phải cùng Thầy trải qua những cam go của đỉnh đồi Calve.

Thiết tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công con người làm nên hay sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?

Lạy Chúa, xin nhận lấy hạt lúa chấp nhận phân huỷ, mục nát là cuộc đời chúng con. Dưới cối xay của bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá đắng cay trong những thất bại, bị bỏ rơi, bị hiểu lầm,… Xin cho con được nghiền nát cho Chúa, cho dẫu tâm hồn và thân xác của con có tan nát nhưng xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một tấm bánh tinh tuyền hiến dâng cho Thiên Chúa. Amen.

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Đức Thánh Cha viếng thăm Giáo phận Cassano all’Jonio

Đức Thánh Cha viếng thăm Giáo phận Cassano all'Jonio

ROMA. Thứ bẩy 21-6-2014, ĐTC Phanxicô đã viếng thăm mục vụ giáo phận Cassano all'Jonio thuộc miền Calabria, nam Italia, gặp gỡ các tù nhân, người khuyết tật, các linh mục, người cao niên và cử hành thánh lễ cho các tín hữu.

Giáo phận Cassano cách Roma 400 cây số đường chim bay, có 106 ngàn tín hữu Công Giáo và hiện do Đức Cha Nunzio Galantino cai quản. Ngài cũng là Tổng thư ký HĐGM Italia. Vùng này thường bị nạn tổ chức bất lương N'drangheta, giống như mafia, hoành hành.

Chặng đầu tiên trong cuộc viếng thăm của ĐTC là nhà tù Castrovillari. Khi trực thăng chở ngài đáp xuống đây lúc quá 9 giờ sáng, Đức GM giáo phận cùng với ông thị trưởng và hàng trăm người đã nồng nhiệt đón tiếp, rồi ngài tiến vào nhà tù, Ông giám đốc Fedele Rizzo cùng với một toán cảnh sát chào đón, trước sự hiện diện của 200 người.

Lên tiếng sau khi thăm hỏi một số tù nhân, ĐTC cho biết cuộc viếng thăm của ngài tại đây là để bày tỏ sự gần gũi của ngài cũng như của Giáo Hội đối với mỗi người nam nữ đang ở trong nhà giam ở các nơi trên thế giới. Ngài cũng nhận xét rằng khi suy tư về các tù nhân, người ta thường nói đến vấn đề tôn trọng các quyền con người và sự cần thiết phải có những điều kiện thi hành án tù tương ứng. Khía cạnh này trong chính sách về các nhà cải huấn tuy là thiết yếu, nhưng vẫn chưa đủ, nếu không được bổ túc bằng sự dấn thân cụ thể của các cơ quan nhắm giúp các cựu tù nhân tái hội nhập vào xã hội.

ĐTC nói: ”Khi mục đích này bị lơ là, thì việc thi hành hình phạt chỉ là một phương thế trừng phạt và là một sự trả đũa của xã hội, nhiều khi có hại cho chính đương sự và cho xã hội”.

ĐTC cũng nhấn mạnh đến chiều kích tinh thần của tiến trình tái hội nhập vào xã hội và nói: ”Trong hành trình này cũng có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, khả năng để cho Thiên Chúa nhìn đến, Người là Đấng yêu thương chúng ta, cảm thông và tha thứ các lỗi lầm của chúng ta. Chúa là Thầy dạy sự tái hội nhập, Người cầm tay và dẫn chúng ta trở lại cộng đoàn xã hội. Chúa luôn tha thứ, tháo tùng và cảm thông chúng ta”.

ĐTC đã bắt tay chào từng nữ tù nhân và khi chào mọi ngừơi, ngài nói: ”Xin anh chị em cầu nguyện cho tôi”.

Sau khi viếng thăm nhà tù, ĐTC cùng với Đức GM sở tại đáp trực thăng đến Cassano vào lúc 11 giờ. Tại đây ngài viếng thăm trung tâm thánh Giuseppe Moscato, chuyên chữa trị chống đau cho các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời.

Tiếp đến tại nhà thờ chính tòa Cassano, ĐTC đã gặp gỡ hàng giáo sĩ địa phương lúc 12 giờ trưa.

Trong bài huấn dụ ngắn nhân dịp này, ngài nhắc nhở cho các LM về niềm vui làm linh mục, vẻ đẹp của tình huynh đệ, đồng thời khích lệ các vị làm việc với các gia đình và cho các gia đình. ĐTC nhận xét rằng nhiều khi LM cảm thấy khó chịu khi thinh lặng ở trước Nhà tạm Mình Thánh Chúa. Lúc ấy Chúa Giêsu cho chúng ta thấy mình là những người thợ tốt, hoặc chỉ là những công nhân, công chức; chúng ta là những máng mở rộng, quảng đại qua đó tình thương và ơn thánh của Chúa tuôn chảy dồi dào, hoặc chúng ta tự đặt mình ở trung tâm, và thay vì là máng chuyển, chúng ta trở thành những hàng rào không giúp gặp gỡ Chúa, với ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng”.

ĐTC cảnh giác các linh mục về thái độ cá nhân chủ nghĩa trong mục vụ, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa tuyên dương cái tôi, đến độ tôn thờ nó như thần tượng. Sau cùng, cần phải quan tâm giúp đỡ các gia đình trong thời kỳ khó khăn hiện nay, nhiều gia đình bị khủng hoảng. Ngài nói: ”Chún gta được kêu gọi làm chứng nhân, làm người trung gian về sự gần gũi của Thiên Chúa đối với các gia đình và về sức mạnh ngôn sứ của Lời Chúa cho các gia đình”.

Sau cuộc gặp gỡ với hàng giáo sĩ, ĐTC đã đến chủng viện Gioan Phaolô I của giáo phận để dùng bữa trưa với các bệnh nhân cho những người nghèo do Caritas giáo phận giúp đỡ cũng như các bạn trẻ thuộc cộng đồng cai nghiện ”Saman”.

Ban chiều lúc 2 giờ rưỡi, ĐTC viếng thăm những người già tại nhà dưỡng lão Casa Serana, trước khi đến Sibari để cử hành thánh lễ vào lúc 4 giờ rưỡi chiều với sự tham dự của khoảng 200 ngàn tín hữu. Sau cùng, lúc 6 giờ chiều ngài đáp trực thăng trở về Roma. (SD 21-6-2014)

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio


 

Đức Thánh Cha chủ sự Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa

Pope celebrate Holy Body and Blood of Christ

ROMA. Lúc 7 giờ chiều thứ năm 19-6-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ kính Mình Máu Thánh Chúa tại thềm Đền thờ thánh Gioan Laterano.

Tham dự thánh lễ, có đông đảo các HY và GM, cùng với các vị Giám Chức, LM và hàng chục ngàn tín hữu.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc lại lời ngôn sứ Môisê trách dân Do thái khi được vào Đất Hứa đã Chúa Đấng đã dùng manna để nuôi họ trong sa mạc: ”Chúa là Thiên Chúa của ngươi.. đã nuôi ngươi bằng manna, mà người không nhận biết” (Dnl 8,2). ”Sau khi định cư, dân tuyển đạt được một sự tự lập, được sung túc phần nào, và họ gặp nguy cơ quên những biến cố đau buồn quá khá mà họ đã vượt thắng được nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa và nhờ lòng từ nhân vô biên của Chúa. Bấy giờ Kinh Thánh nhắn nhủ họ hãy nhớ tất cả hành trình đã trải qua trong sa mạc, trong thời thiếu thốn và cơ cực. Lời mời gọi của Môisê là hãy trở lại với những gì thiết yếu, với kinh nghiệm hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, khi sự sinh tồn được ủy thác cho Chúa, để con người hiểu rằng ”mình không sống bởi cơm bánh mà thôi.. nhưng còn nhờ tất cả những gì bởi miệng Thiên Chúa mà ra” (Dnl 8,3).

ĐTC giải thích rằng con người không phải chỉ đói thể lý, nhưng còn có cái đói khác không thể thỏa mãn bằng lương thực, đó là cái đói sự sống, đói tình thương, đói sự vĩnh cửu.. Chúa Giêsu ban cho chúng ta lương thực ấy, đúng hơn, chính Ngài là bánh hằng sống ban sự sống cho thế giới (Xc Ga 6,51). Mình Chúa là lương thực chân thực dưới hình bánh, và Máu ngài là đồ uống thực sự dưới hình rượu..

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”Trong Bí tích Thánh Thể, Chúa thông truyền cho chúng ta tình thương, một tình thương lớn lao đến độ Chúa nuôi chúng ta bằng chính mình Chúa, một tình yêu nhưng không, luôn được dành cho những người đói khát và cần bồi dưỡng sức lực. Sống kinh nghiệm đức tin có nghĩa là để cho Chúa nuôi dưỡng và kiến tạo cuộc sống của mình không phải trên những của cải vật chất, nhưng trên thực tại không hư nát là những hồng ân của Thiên Chúa, là Lời Chúa và chính Thân Mình Chúa”

ĐTC không quên cảnh giác các tín hữu đừng chạy theo những thứ lương thực khác. Ngài nói: ”Một số người nuôi dưỡng mình bằng tiền bạc, người khác bằng thành công và sự háo danh, kẻ khác nữa bằng quyền lực và kiêu ngạo. Nhưng lương thực nuôi sống chúng ta thực sự chỉ có thể là lương thực Chúa ban!”

Trong phần kết luận, ĐTC mời gọi mỗi người, ngày hôm nay hãy tự hỏi: Tôi ăn ở đâu? Tôi muốn nuôi sống mình ở bàn ăn nào? Nơi bàn ăn của Chúa? Hay là tôi ước mơ ăn những lương thực ngon lành, nhưng trong sự nô lệ? Đâu là ký ức của tôi? Phải chăng tôi nhớ đến Chúa đã cứu thoát tôi, hay nhớ đến củ hành củ tỏi của thời nô lệ? Tôi làm cho linh hồn tôi được no đầy nhờ ký ức nào?”

Sau thánh lễ, ĐHY Giám quản Roma, Agostino Vallini, đã thay ĐTC chủ sự cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa cùng với hàng ngàn tín hữu tiến bước trên quảng đường dài hơn 1 cây số, tới Đền thờ Đức Bà Cả. Còn ngài thì đi xe thẳng tới Đền thờ và đợi đoàn rước đến, rồi ngài chủ sự nghi thức ban phép lành Mình Thánh Chúa cho mọi người.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh giải thích rằng, ĐTC không đi bộ rước kiệu trên quãng đường dài như vậy giữa hai Đại Vương cung thánh đường, vì ngài sắp thực hiện cuộc viếng thăm tại giáo phận Cassano miền Calabria vào thứ bẩy ngày mai, 21-6, và đồng thời, ngài cũng muốn sự chú ý của các tín hữu tập trung vào Mình Thánh Chúa trong cuộc rước, hợp với tinh thần của buổi lễ. (SD 19-6-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Khủng bố Hồi giáo nhắm vào các Kitô hữu trong cuộc tấn công thị trấn ở Kenya

Khủng bố Hồi giáo nhắm vào các Kitô hữu trong cuộc tấn công thị trấn ở Kenya

khung-bo-hoi-giao-nham-vao-cac-kito-huu-trong-cuoc-tan-cong-thi-tran-o-kenya

Theo hãng tin Telegraph cho biết, Al-Shabaab, nhóm khủng bố có liên kết với al-Qaeda của Somalia, đã nhận trách nhiệm về cuộc tấn công bởi hàng chục phần tử cực đoan tại một thị trấn ven biển Kenya vào đêm Chúa nhật, khiến 49 người thiệt mạng.

Nhóm Hồi giáo này cũng cảnh báo với khách du lịch và người nước ngoài nên tránh xa Kenya.
 
Nhóm tuyên bố, “Kenya giờ đây chính thức là một khu vực chiến tranh và bất kỳ khách du lịch nào đến thăm đất nước đều có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của mình. Quí vị nên tránh xaKenya hoặc phải gánh chịu hậu quả cay đắng.”
 
Shebab cũng tuyên bố sẽ thực hiện nhiều cuộc tấn công hơn nữa.
 
Trước đó, nhóm này đã tuyên bố sẽ thực hiện các cuộc tấn công khủng bố để trả thù cho sự hiện diện quân sự của Kenya tại Somali. Cùng với các chiến binh từ Somali, nhóm cũng có nhiều tín đồ từ Kenya.
 
Cũng như các tay súng đã tấn công trung tâm thương mại Westgate ở Nairobi vào năm ngoái, các nhân chứng của vụ tấn công hôm Chúa nhật ở Mpeketoni cho biết, các tay súng đã giết chết bất cứ ai không phải là người Hồi giáo hoặc không biết tiếng Somali.
 
Đức cha Emanuel Barbara, Giám Mục Malindi nói với Fides, “cuộc tấn công bắt đầu lúc 8 giờ 30 tối hôm 15/6, khi khoảng 50 quân du kích tiến vào trung tâm Mpeketoni. Họ lập tức tấn công đồn cảnh sát, cướp phá các kho vũ khí và giết chết một cảnh sát. Sau đó, họ phá hủy một ăng-ten điện thoại di động, nhưng may mắn thay còn có những ăng-ten khác nên tôi vẫn có thể giữ liên lạc với các linh mục và nữ tu. Cuối cùng, quân du kích tấn công hai khách sạn và buộc những người lái xe và người đi bộ dừng lại. Họ hỏi những người này là Hồi giáo hay Kitô hữu. Nếu là Kitô hữu, họ ra tay giết hại”.
 
Anne Gathigi cũng cho biết , “họ [tức nhóm khủng bố] đến nhà chúng tôi khoảng 8 giờ tối và hỏi chúng tôi bằng tiếng Swahili rằng, chúng tôi có phải người Hồi giáo không. Chồng tôi nói với họ chúng tôi là Kitô hữu và sau đó họ bắn ông ấy vào đầu và ngực.”
 
Vị Giám mục nói tiếp, “Tôi đã liên lạc với các mục tử và các nữ tu trong suốt cuộc tấn công giáo xứ và bốn tu viện của các nữ tu tại Mpeketoni. Một tu viện nằm ở trung tâm thị trấn. Cảm ơn Chúa, các nữ tu không bị liên lụy. Tôi đã nói với họ nên tắt điện và đừng di chuyển ra khỏi tu viện.”
 
Đức cha cho biết thêm, “cho đến nay đã có 48 nguời thiệt mạng nhưng đó vẫn chưa là con số cuối cùng.”
 
Đức cha Barbara kết luận, “Chúng tôi quan ngại sâu sắc, bởi cuộc tấn công diễn ra giữa thời điểm căng thẳng giữa chính phủ và phe đối lập. Vì lý do này, tôi xin quí vị hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để người dân Kenya không bị lôi cuốn bởi sự cám dỗ của lòng căm thù”.

 
(Hoàng Anh, VRNs 19.06.2014)

Hai nhà nhà thần học người Ba Lan và Pháp được trao giải thưởng Ratzinger

Hai nhà nhà thần học người Ba Lan và Pháp được trao giải thưởng Ratzinger

hai-nha-nha-than-hoc-nguoi-ba-lan-va-phap-duoc-trao-giai-thuong-ratzinger

Đài phát thanh Vatican cho biết, hai người chiến thắng giải thưởng Ratzinger năm 2014 đã được công bố hôm thứ Ba tại phòng Báo chí Tòa Thánh. Cả hai người chiến thắng đều là những học giả đã hoạt động tích cực trong cuộc đối thoại Công giáo-Do Thái.

Người đoạt giải thưởng thứ nhất là bà Anne-Marie Pelletier người Pháp. Bà là giảng viên khoa Thánh Kinh và Chú giải tại chủng viện Notre Dame ở Paris. Bà cũng từng dạy Thánh Kinh tại Học viện châu Âu về Khoa học Tôn giáo.

Bên cạnh đó, bà đã có thời gian phục vụ với vai trò là Phó Chủ tịch của Dịch vụ Thông tin, Tài liệu của người Do Thái và Kitô giáo ở Paris. Bà đã từng tham gia một số cuộc hội thảo được Tòa Thánh tài trợ, và là người dự thính tại Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 2001 về vai trò của Giám Mục như là tôi tớ của Tin Mừng.

Đức Hồng Y Camillo Ruini, Chủ tịch Ủy ban Khoa học của Quỹ Ratzinger nói: “Giáo sư Pelletier là một nhân cách quan trọng trong Công giáo đương đại của Pháp.”

Người đoạt giải thứ hai là Đức ông Waldemar Chrostowski. Ngài hiện là tổng biên tập của tạp chí Ba Lan Collectanea Theologica, và từng là Chủ tịch của Hiệp hội học giả Kinh Thánh Ba Lan từ năm 2005. Ngài tham dự trong vai trò một chuyên gia tại trong Thượng Hội Đồng Giám Mục về Lời Chúa và sứ mạng của Giáo Hội năm 2008.

Ngài đã viết nhiều bài báo khoa học, với các lĩnh vực ưu tiên là Cựu Ước, đặc biệt là các sánh Tiên tri. Ngoài ra, Đức ông còn là một chuyên gia văn chương Do Thái trong thời điểm giao thời giữa hai giao ướ, tức khoảng thời gian giữa Thánh Kinh Do Thái cho đến Tân Ước, và là chuyên gia về giáo lý Do Thái cũng như mối quan hệ giữa Do Thái và Kitô giáo.

Đức ông Chrostowski phục vụ trong Thần Học Khoa Học viện Warsaw từ năm 1987. Ngài cũng là thành viên lâu năm của Ủy ban của Hội đồng Giám mục Ba Lan về Đối thoại với Do Thái giáo và Hội đồng các Kitô hữu và người Do Thái ở Ba Lan. Ngài là người Ba Lan đầu tiên giành giải thưởng Ratzinger.

Đức Hồng Y Ruini nói về Đức ông như sau, “ngài đã kết hợp chặt chẽ sự học hỏi nghiêm túc với niềm đam mê Lời Chúa, trong việc phục vụ Giáo Hội và mối quan tâm tới việc đối thoại liên tôn.”

Buổi họp báo cũng đã đưa ra một bản cập nhật về việc chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ tư của Quỹ Ratzinger, sẽ diễn ra ngày từ ngày 23 đến ngày 24 tháng 10 năm 2014, tại Đại học Giáo Hoàng Bolivariana trong Medellín, Colombia. Hội nghị có chủ đề “Tôn trọng sự sống, con đường dẫn tới hòa bình.”

Hoàng Anh

Trích từ Báo Công Giáo

Giáo Hội là dân chúc tụng và là dấu chỉ tình yêu thương của Thiên Chúa đối với thế giới

Giáo Hội là dân chúc tụng và là dấu chỉ tình yêu thương của Thiên Chúa đối với thế giới

Giáo Hội là dân chúc tụng và là dấu chỉ tình yêu thương của Thiên Chúa đối với thế giới. Giáo Hội do Chúa Giêsu thành lập, nhưng là một dân tộc có lịch sử dài được chuẩn bị từ rất lâu trước Chúa Kitô, một dân tộc được tình yêu của Thiên Chúa chúc phúc để đem phúc lành ấy đến cho tất cả mọi dân tộc trên thế giới này.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 18-6-2014 tại quảng trường thánh Phêrô.

Sau khi chào tín hữu Đức Thánh Cha khen họ giỏi, vì với trời hay thay đổi bất thình lình trong những ngày này không ai biết sẽ có mưa hay không, nhưng ngài hy vọng Chúa thương để có thể kết thúc buổi tiếp kién mà không bị ướt.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha bất đầu loạt bai giáo lý mới về Giáo Hội. Ngài nói: nói về Giáo Hội cũng giống như một người con nói về mẹ mình và về gia đình mình. Và ngài định nghĩa Giáo Hội như sau:

Thật thế, Giáo Hội không phải là một cơ cấu có mục đích là chính mình hay một hiệp hội tư, một tổ chức phi chính quyền, lại càng không phải là hướng về hàng giáo sĩ hay về Vaticăng… Giáo Hội là chúng ta tất cả. Bạn nói về ai?” ”Không, về các linh mục..”. A, nhưng mà các linh mục là phần của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội là tất cả chúng ta chứ. Đừng thu hẹp Giáo Hôi lại nơi các linh mục, các giám mục, Vatican. Tất cả những điều này là các phần của Giáo Hội, nhưng Giáo Hội là tất cả chúng ta. tất cả là gia đình, là của người mẹ. Và Giáo Hội là một thực thể rộng rãi hơn nhiều, rộng mở cho toàn nhân loại và không nảy sinh từ một phòng thí nghiệm, không nảy sinh một cách bất thình lình, từ số không. Giáo Hội được xây dựng trên Chúa Giêsu, nhưng là một dân tộc có một lịch sử dài sau lưng và một sự chuẩn bị đã bắt đầu từ lâu trước Chúa Kitô.

Lịch sử hay ”tiền sử” đó của Giáo Hội được tìm thấy trong Thánh Kinh Cựu Ước. Theo Sách Sáng Thế mà chúng ta đã nghe, Thiên Chúa đã lựa chọn Abraham là cha của chúng ta trong lòng tin, và đã xin ông ra đi, bỏ quê hương xứ sở để đi tới một miền đất khác, mà Người sẽ chỉ cho (x. St 12,1-9). Và trong ơn gọi này Thiên Chúa không chỉ gọi Abraham như là cá nhân mà thôi, mà cũng lôi cuốn ngay từ đầu gia đình, bà con và tất cả những người phục vụ nhà ông nữa. Rồi một khi đã lên đường – Phải, và Giáo Hội bắt đầu bước đi như thế – Thiên Chúa sẽ còn nới rộng chân trời và sẽ đổ tràn đầy phúc lành của Người trên Abraham, bằng cách hứa cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời và như cát dưới biển. Dữ kiện quan trọng đầu tiên bắt đầu từ Abraham Thiên Chúa làm thành một dân để đem phúc lành của Người tới tất cả mọi gia đình của trái đất. Và Đức Giêsu sinh ra trong lòng dân tộc ấy. Chính Thiên Chúa làm nên dân tộc này, lịch sử này, Giáo Hội tiến bước và Đức Giêsu sinh ra trong dân tộc đó.

Yếu tồ thứ hai đó là không phải Abraham quy tụ một dân tộc chung quanh mình, mà là chính Thiên Chúa khai sinh ra dân tộc ấy. Bình thường con người hướng về thần linh, bằng cách tìm lấp đầy khoảng cách, bằng cách khẩn cầu sự yểm trợ và che chở. Người ta khẩn cầu các thần linh… Nhưng trong trường hợp này, trái lại người ta chứng kiến điều chưa từng thấy. Và Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau

Chính Thiên Chúa đưa ra sáng kiến. Chúng ta hãy nghe nhé! Chính Thiên Chúa gõ cửa nhà Abraham vá nói với ông: Hãy ra đi, hãy rời bỏ đất đai, hãy bắt đầu bước đi và Ta sẽ khiến cho ngươi trở thành một dân tộc lớn. Đó là khởi đầu của Giáo Hội và trong dân tộc này Chúa Giêsu sinh ra. Nhưng Thiên Chúa đưa ra sáng kiến và hướng lời Ngài tới con người bằng cách tạo ra một mối dây, một tương quan mới với ông. ”Nhưng thưa cha, làm sao? Thiên Chúa nói với chúng ta ư? ”Phải”. ”Và chúng ta có thể đàm thoại với Thiên Chúa à?” Phải, và điều này gọi là lời cầu nguyện, nhưng chính Thiên Chúa ban đầu đã làm điều đó. Như vậy Thiên Chúa làm thành một dân với tất cả những ai bước đi và tín thác nơi Ngài. Đây là điều kiện duy nhất: tin tưởng nơi Thiên Chúa. Nếu bạn tin tưởng nơi Thiên Chúa, lắng nghe Ngài và bước đi đó là làm thành Giáo Hội. Tình yêu của Thiên Chúa đi trước tất cả. Thiên Chúa luôn luôn là đầu tiên, Ngài đến trước chúng ta, Ngài đi trước chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Ngôn sứ Isaia hay Giêrêmia, tôi không nhớ rõ, một trong hai vị đã nói rằng Thiên Chúa như hoa hạnh đào, bởi vì đó là cây đầu tiên nở hoa trong mùa xuân. Để nói rằng Thiên Chúa luôn luôn nở hoa trước chúng ta, lôi chúng ta tới, Ngài chờ đợi chúng ta, Ngài mời gọi chúng ta, Ngài làm cho chúng ta bước đi. Ngài luôn luôn đi trước chúng ta. Và điều này gọi là tình yêu bởi vì Thiên Chúa luôn luôn chở đợi chúng ta. ”Nhưng mà thưa cha, con không tin điều

này, bởi vì cuộc đời con đã rất là xấu xa, làm sao con có thể nghĩ rằng Thiên Chúa chờ đơi con được?” ”Thiên Chơáu chờ đơi bạn. Và nếu bạn đã là một người tội lỗi lớn, thì Ngài lại càng chờ đợi bạn hơn với biết bao tình yêu, bởi vì Ngài là nhất. Đó là vẻ đẹp của Giáo Hội, đem chúng ta tới với Thiên Chúa, là Đấng chờ đợi chúng ta! Ngài đi trước Abraham. Ngài cũng đi trước cả Ađam nữa!

Tổ phụ Abraham và người nhà ông lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa và lên đường, mặc dù họ không biết rõ Thiên Chúa đó là ai và Ngài muốn dẫn họ đi đâu. Đúng thế bởi vì Abraham lên đường và không có sách thần học để nghiên cứu xem vị Thiên Chúa đã nói với ông là ai. Ông tín thác, ông tín thác nơi tình yêu. Thiên Chúa làm cho ông cảm thấy tình yêu và ông tín thác nơi Ngài. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là các người đó luôn luôn xác tín và trung thành. Trái lại, ngay từ đầu đã có các kháng cự, khép kín trong chính mình, trên các lợi lộc riêng, và cám dỗ mặc cả với Thiên Chúa và giải quyết các sự việc theo ý riêng. Đó là các phản bội và các tội lỗi ghi dấu con đường của dân dọc dài toàn lich sử cứu độ, là lịch sử sự tín trung cảu Thiên chúa và sự bất trung của dân. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mệt mỏi. Thiên Chúa kiên nhẫn, rất kiên nhẫn và trong thời gian Ngài tiếp tục giáo dục và đào tạo dân Ngài, như một người cha giáo dục và đào tạo con mình. Thiên Chúa bước đi với chúng ta. Ngôn sứ Hosêa nói: ”Ta đã bước đi với con và dậy con bước đi như một người cha dậy cho con mình”. Thật là hình ảnh dẹp về Thiên Chúa! Ngài làm với chúng ta như thế. Ngài dậy chúng ta bước đi. Đó cũng là thái độ Ngài có đối với Giáo Hội. Thật vậy cả chúng ta nữa, tuy có ý hướng theo Chúa Giêsu, nhưng hằng ngày chúng ta sống kinh nghiệm sự ích kỷ và cứng lòng. Nhưng khi chúng ta nhận mình là những kẻ tội lỗi, thì Thiên Chua đổ tràn đầy lòng thương xót và tình yêu của Ngài trên chúng ta. Ngài tha thứ cho chúng ta, ngài luôn tha thứ cho chúng ta. Chính điều đó làm cho chúng ta lớn lên như dân của Thiên Chúa, như Giáo Hội: không phải vì chúng ta giỏi, không phải do công lao của chúng ta, chúng ta ít ỏi chẳng là gì cả. Không phải cái đó mà là kinh nghiệm thường ngày cho chúng ta biết Chúa thương chúng ta và lo lắng cho chúng ta. Chính điều đó khiến cho chúng ta cảm thấy chúng ta là của Ngài, ở trong tay Ngài, và làm cho chúng ta lớn lên trong sự hiệp thông với Ngài và giữa chúng ta với nhau. Là Giáo Hội có nghĩa là cảm thấy mình ở trong tay Thiên Chúa, là Cha và yêu thương chúng ta, vuốt ve chúng ta, chờ đợi chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy sự dịu hiền của Ngài. Và đây là điều rất đẹp!

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Anh chị em thân mến đó là chương trình của Thiên Chúa. Khi Ngài gọi Abraham, Thiên Chúa đã nghĩ tới điều này: làm thành một dân tộc được phúc phúc bởi tình yêu của Ngài để dân tộc đó đem phước lành của Ngài đến với tất cả mọi dân tộc của trái đất. Chương trình ấy không thay đổi nó luôn luôn đang được thực hiên. Nơi Chúa Kitô nó đã có sự thành toàn và cả ngày nay nữa Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện nó trong Giáo Hội. Chúng ta hãy xin ơn trung thành với việc theo Chúa Giêsu và lắng nghe Lời Ngài, sẵn sàng ra đi mỗi ngày, như tổ phụ Abraham, hướng tới miền đất của Thiên Chúa và của con người, là quê hương thật của chúng ta, và như thế trở thành phước lành, dấu chỉ tình yệu thương của Thiên chúa đối với tất cả các con cái Ngài. Tôi thích nghĩ tới một từ đồng nghĩa, một tên gọi khác má kitô hữu chúng ta có thể có, đó là những người nam nữ, là dân chúc tụng. Với cuộc sống của mình kitô hữu phải luôn luôn chúc tụng Thiên Chúa và chúc tụng cả chúng ta nữa. Kitô hữu chúng ta là dân chúc lành, biết chúc lành. Và đó là mổt ơn gọi đẹp!

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương các nước bắc Mỹ và Tây Âu cũng như các nhòm tín hữu Nigeria, Zimbabwe, Kuweit, Ấn Độ, Nigeria, Australia, Mexico, Puerto Rico, Argentina và Brasil. Ngài chúc họ có những ngày hành hương tươi vui bổ ích. Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết ngày thứ năm 19-6 lá lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Ngài cầu mong Thánh Thể dưỡng nuôi đức tin của người trẻ. Ngài khích lệ người đau yếu đừng mỏi mệt thờ lậy Chúa trong thử thách, và nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới học yêu thương, noi gương Chúa Giêsu hiến mình vì yêu thương và để cứu rỗi chúng ta.
Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tệ nạn trẻ em lao động

Tệ nạn trẻ em lao động

Child labor 3 in VN

Ngày 12-6-2014 là Ngày quốc tế chống tệ nạn trẻ em lao động.

Vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 11-6-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi cộng đồng quốc tế bảo vệ trẻ em chống lại nạn bóc lột lao động và những hình thức nô lệ khác. Ngài nói: ”Ngày mai 12-6 là Ngày quốc tế chống nạn bóc lột sức lao động của trẻ vị thành niên. Hàng chục triệu trẻ em bị bó buộc phải làm việc trong những điều kiện làm suy thoái con người, chịu những hình thức nô lệ và bóc lột, cũng như bị lạm dụng, ngược đãi và kỳ thị. Tôi nhiệt liệt cầu mong cộng đồng quốc tế có thể mở rộng việc bảo vệ xã hội cho các trẻ vị thành niên để loại trừ tai ương này. Tất cả chúng ta hãy tái quyết tâm, đặc biệt là trong các gia đình, để bảo đảm cho mỗi trẻ em nam nữ được bảo tồn phẩm giá và cơ may được tăng trưởng lành mạnh. Tuổi thơ trải qua trong thanh thản sẽ giúp các em tin tưởng hướng nhìn về cuộc sống tương lai”.

Ngày quốc tế chống nạn khai thác lao động trẻ em năm nay 2014 có đề tài sự bảo vệ xã hội. Theo thống kê năm 2012 của tổ chức UNICEF hiện nay trên thế giới có 168 triệu trẻ em lao động, trong đó có 87 triệu em tuổi từ 5 đến 17 phải làm các công việc nguy hiểm có hại cho sức khỏe, sự an ninh và phát triển của các em.

Vùng Á châu Thái Bình Dương có nhiều trẻ em lao động tuổi từ 5 tới 17 nhất, tức 77,7 triệu, so với 59 triệu của vùng nam sa mạc Sahara bên Phi châu, và 12,5 triệu của vùng châu Mỹ Latinh và quần đảo Caraibi. Về tai nạn trong khi làm việc vùng nam sa mạc Sahara bên Phi châu dẫn đầu với tỷ lệ một trên năm em. Trong số các trẻ em lao động tuổi từ 5 tới 17 của thống kê năm 2012, có tới 59% trẻ em làm việc trong lãnh vực nông nghiệp, 32% trong các việc phục dịch khác nhau trong đó có 6,9% làm việc trong gia đình và 7,2% trong kỹ nghệ. Số các trẻ em làm các việc nguy hiểm lên tới 55 triệu trong đó có 30,3 triệu là trẻ gái. Số trẻ trai thuộc lứa tuổi cao nhất từ 15 tới 17 tuổi chiếm 55%, tức 47,5 triệu em phải làm các việc nguy hiểm.

Bà Carlotta Bellini thuộc phong trào ”Cứu các trẻ em” cho biết tình hình nghiêm trọng vì 70% tổng số các trẻ em lao động đã bắt đầu làm việc trước khi lên 16 tuổi, 40% đã làm việc trước khi được 14 tuổi, và 11% làm việc trước khi lên 11 tuổi. Nghiêm trọng hơn nữa là sự kiện đa số các trẻ em được phỏng vấn tuyên bố các em đã liên lụy trong các hoạt động bất hợp pháp trong lứa tuổi 12 tới 15.

Liên quan tới việc phòng ngừa nạn trẻ em lao động bà Bellini nói học đường phải là giây thắt lưng an toàn đầu tiên, khi an ninh trong gia đình giảm đi. Nhưng rất tiếc là học đường thường không cống hiến được các giải pháp hữu hiệu. Do đó cần phải canh tân học đường làm sao để đáp ứng được các đòi hỏi của các trẻ em vốn thường phải sống trong các môi trường khó khăn. Học đường phải chuẩn bị cho các trẻ em bước vào thế giới lao động, trao ban cho các em các cơ may, và biết lắng nghe các em.

Hiện tượng trẻ em lao động không chỉ hiện diện tại các nước đang trên đường phát triển bên Á châu, Đại dương châu, Phi châu và châu Mỹ Latinh, đặc biệt là Colombia và Brasil, nhưng cũng có tại các nước Âu châu, Hoa Kỳ và nhất là Đông Âu. Hiện tượng trẻ em lao động cũng có tại các vùng giầu tài nguyên có một nền kinh tế phồn thịnh, nhưng có thu nhập rất thấp tính theo đầu người, và có một số người phải sống trong cảnh không phát triển.

Thật ra không có các con số chắc chắn liên quan tới các trẻ em lao động trên thế giới, nhưng người ta biết vào thời xa xưa trẻ em đã bị khai thác sức lực cho nhiều công việc khác nhau. Thực tại này gắn liền với nạn nô lệ hay lãnh vực nông nghiệp và chăn nuôi. Khi cuộc cách mạng kỹ nghệ khởi đầu nạn trẻ em lao động trong các nhà máy lan tràn, nhất là trong các nhà máy dệt, trong đó các em phải làm việc 15 giờ mỗi ngày và nhận được đồng lương thấp tới nỗi không đủ mua lương thực. Kể cả ngày nay nữa nhiều trẻ em, nhất là các trẻ em bên Phi châu, phải làm việc để mưu sinh nhưng cũng không đủ để mua một đĩa cơm.

Vào thập niên 1980 bên Phi châu, Á châu và Nam Mỹ người ta ước đoán có hơn 5 triệu trẻ em lao động. Nhưng hiện nay số trẻ em lao động là 168 triệu, cũng có người cho rằng có tới 250 triệu. Có nhiều lãnh vực lao động khác nhau như lãnh vực sản xuất nông nghiệp, kỹ nghệ, đánh cá và làm việc trong các thành phố. Trong lãnh vực nông nghiệp trẻ em làm việc trong các ruộng vườn của gia đình hay làm việc như công nhân của các hãng đa quốc trong các đồn điền. Trong lãnh vực kỹ nghệ các trẻ em từ 7 tới 15 tuổi làm việc trong các xưởng dệt vải, dệt thảm, may quần áo hay trong các xưởng chế bóng đá hay giầy dép.

 

child labor 4

Lý do gây ra nạn trẻ em lao động là cảnh nghèo túng của gia đình. Các em phải làm việc để mưu sinh và nuôi sống gia đình. Cũng có nhiều trường hợp các em bị cha mẹ bán cho chủ để trả nợ cho gia đình. Đây là trường hợp nhiều trẻ em Ấn Độ làm việc trong các xưởng dệt thảm. Và có nhiều chủ nhân xích chân các em vào máy dệt vì sợ các em bỏ trốn. Vì phải làm việc như thế nên thường khi các em cũng không đựơc học hết bậc tiểu học. Tình trạng mù chữ này khiến cho các em không biết tới các quyền của mình, cả khi các em trở thành công nhân trưởng thành. Thật thế, có rất nhiều công nhân bị giới chủ nhân khai thác bóc lột vì mù chữ, nên không biết chủ bắt ký giấy trong đó nói những gì. Họ bị bó buộc phải tuân lệnh chủ nhân hết năm này sang năm khác, và có khi cả đời cho tới chết.

Câu chuyện em bé Iqbal người Pakistan nổi loạn chống lại các đàn áp và bạo lực của chủ đã trở thành biểu tượng tranh đấu cho phẩm giá và các quyền lợi của trẻ em lao động.

Tại các nước kỹ nghệ tân tiến như Italia cũng có nạn trẻ em lao động. Cứ 20 trẻ em dưới 16 tuổi thì có 1 em phải làm việc. Italia có 5,2% trẻ em trong lứa tuổi từ 7 tới 15 phải làm việc, tức tương đương với 260.000 em. Đó là kết qủa cuộc điều tra có tên gọi là ”Cuộc chơi đã hết” do phong trào ”Cứu các trẻ em” và Hiệp hội Bruno Trentin trình bầy trước bộ trưởng lao động và các giới chức liên hệ. Rất nhiều trẻ em bị khai thác lao động là các trẻ em bi bỏ rơi không có ai và cơ cấu xã hội nào săn sóc lo lắng cho các em.

Nạn trẻ em lao động tại miền bắc và miền trung Italia rất thấp, nhưng cao tại miền nam, và rất cao trên đảo Sicilia, vùng Foggia và Vibo Valentina. Theo thống kê năm 2011 có 16% người trẻ trong lứa tuổi 18-24 đã học xong trung học, nghĩa là rất cao so sánh với các nước Âu châu khác. Và hiện tượng này đi song song với nạn trẻ em lao động. Tìm hiểu chi tiết hơn người ta thấy hầu như 3/4 trẻ em làm việc cho gia đình: 41% trong các hoạt đông nghề nghiệp của cha mẹ, 33% trong gia đình, và trong số 26% làm việc cho thân nhân bạn bè có 12,8% làm việc cho các người bà con, và 13,8% làm việc cho bạn bè.

Có ba công việc thông thường nhất: thứ nhất là trong lãnh vực khách sạn, quán nước, quán ăn, phụ bếp, hầu bàn, làm bánh chiếm 18,7%; thứ hai là buôn bán chiếm 14,7% kể cả nghề bán rong; thứ ba là sinh hoạt tại đồng quê chiếm 13,6%, từ trồng tỉa cho tới chăn nuôi súc vật. Tiếp theo đó là các sinh hoạt thủ công nghệ chiếm 8,9%, giữ trẻ em chiếm 4%, làm việc văn phòng chiếm 2,8%, và trợ giúp trong các xưởng chiếm 1,5%.

 

Child labor

Hầu như 45% cho biết được trả tiền công và tỷ lệ gia tăng trong các sinh hoạt thuộc lãnh vực gia đình.

Liên quan tới việc phối hợp công việc làm và học hành 23% cho biết mệt nhọc nhưng là điều có thể làm được; 11% coi là rất mất sức tới độ phải chọn việc làm khi qúa mệt không chịu nổi nữa. Nhưng 65,4% người trẻ vị thành niên cho rằng không có vấn đề gì khi vừa đi làm vừa đi học.

Đa số các trẻ em được phỏng vấn không biết mình bị khai thác bóc lột và cũng không biết hợp đồng làm việc là gì. Miền Nam Italia là vùng có nhiều nguy cơ cho các trẻ em lao động hơn là miền trung và miền bắc. Cuộc khủng hoảng tài chánh kinh tế khiến cho tệ nạn trẻ em lao động trở thành nghiêm trọng hơn, vì gia đình rơi vào cảnh túng thiếu.

Tuy luật lệ Italia cấm trẻ em lao động và Italia cũng đã phê chuẩn hiệp ước Liện Hiệp Quốc năm 1989 về các quyền của trẻ em, nhưng chính quyền chưa thành công trong cuộc chiến chống lại nạn trẻ em lao động. Đã có một số sáng kiến được đưa ra như thăng tiến nhãn hiệu hàng hóa, để bảo đảm chúng đã không được làm bởi các trẻ em lao động, nhưng thật ra không đem lại các kết qủa mong ước. Vì các em lại bị bó buộc phải làm các việc khác có khi còn nguy hiểm hơn trước. Và số trẻ em nô lệ bị cướp mất tuổi thơ vẫn còn rất nhiều trên thế giới ngày nay.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm Cộng đồng thánh Egidio

Đức Thánh Cha viếng thăm Cộng đồng thánh Egidio

ROMA. Chiều chúa nhật 15-6-2014, ĐTC Phanxicô đã viếng thăm Cộng đồng thánh Egidio ở Roma và gặp gỡ dân nghèo cũng như những người di dân.

Khi đến nơi vào lúc quá 4 giờ rưỡi chiều, ĐTC đã chào thăm khoảng 10 ngàn người, đa số là những người di dân và dân nghèo, tụ tập tại khu vực San Callisto thuộc lãnh thổ Vatican, cho đến Vương cung thánh đường Santa Maria in Trastevere. Ở tiền đường của thánh đường, ĐTC chào thăm đại diện của Cộng đoàn Do thái, nhiều người sống tại khu vực này, và nhiều Hồng Y và các chức sắc của của Giáo Hội.

Ông Chủ tịch Cộng đoàn đã trao thư chính thức mời ĐTC đến viếng Hội đường của Do thái ở Roma, nơi mà hai vị tiền nhiệm của ngài, Đức Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16 đã từng viếng thăm.

Đầu buổi gặp gỡ, Giáo sư Andrea Riccardi, sáng lập viên kiêm chủ tịch Cộng đồng thánh Egidio đã trình bày với ĐTC lai lịch và hoạt động của Cộng đồng này do một nhóm thanh niên học sinh thành lập hồi năm 1968, họ họp nhau chia sẻ Lời Chúa và thực hành các công tác bác ái. Hiện nay Cộng đồng này có hơn 60 ngàn thành viên tại 70 nước trên thế giới.

Tiếp lời giáo sư Andrea, Đức TGM Jean Kawak, của Giáo Hội CT Siriac ở Damasco, trình bày với ĐTC thảm trạng của nhân dân Siria trong chiến tranh từ hơn 3 năm nay với hơn 160 ngàn người chết, nhiều GM và LM bị bắt cóc vẫn chưa được trả tự do. Ngài xin ĐTC nhớ đến Siria và dân chúng nước này trong kinh nguyện.

7 người khác, trong đó có một bà cụ 90 tuổi, và những người di dân lượt kể lại hoàn cảnh đau thương của họ và cho điết tìm được sự nâng đỡ nơi Cộng đồng thánh Egidio.

Về phần ĐTC, lên tiếng tại buổi gặp gỡ ngài ghi nhận sự hiện diện của nhiều người già, trẻ em và người trẻ tại nhà thờ và gọi đó là dấu chỉ chứng tỏ chất lượng của một xã hội. Ngài nói: ”Khi người già bị gạt bỏ, khi người già bị cô lập hóa và nhiều khi tắt lịm đi trong sự thiếu tình thương, thì đó là một dấu hiệu xấu! .. Người già và kinh nguyện của họ là một sự phong phú đối với cộng đồng thánh Egidio. Một dân tộc không gìn giữ người già, không chăm sóc người trẻ, thì đó là một dân tộc không có tương lai, không có hy vọng!”.

ĐTC nhắc đến sự kiện bao nhiêu người trẻ ở Âu Châu không có công ăn việc lạm, 75 triệu người trẻ dưới 25 tuổi ở đại lục này chẳng có việc làm cũng chẳng được học hành. Điều đó đang xảy ra tại Âu Châu này, một Âu Châu mệt mỏi, không già nua, nhưng mệt mỏi”.. Chúng ta phải giúp Âu Châu này được trẻ trung hóa, tìm lại căn cội của mình. Đúng vậy, Âu Châu đã chối chọ căn cội của mình. Chúng ta phải giúp Âu Châu tìm lại cội rễ của mình!”.

Sau buổi cầu nguyện tiếp đó và phép lành cho các tín hữu, ĐTC còn tiến sang trụ sở của Cộng Đồng thánh Egidio gần đó, để gặp gỡ các vị lãnh đạo của Cộng đoàn, trước khi trở về Vatican lúc gần 7 giờ tối (SD 16-6-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tổ chức ”Cứu trẻ em” kêu gọi chấm dứt tội bạo lực tình dục đối với các trẻ em

Tổ chức ”Cứu trẻ em” kêu gọi chấm dứt tội bạo lực tình dục đối với các trẻ em

Trong các ngày từ mùng 10 tới 13-6-2014 hội nghị quốc tế về Bạo lực tình dục chống lại các trẻ em đã diễn ra tại London thủ đô Anh quốc. Tham dự hội nghị có 140 ngoại trưởng các nước, cũng như đại diện của nhiều tổ chức dân sự, quân đội, pháp luật và các tổ chức phi chính quyền.

Trong hội nghị Phong trào ”Cứu trẻ em” đã đưa ra lời kêu gọi các chính quyền và tổ chức quốc tế nỗ lực cộng tác để chấm dứt tội phạm này chống lại hàng chục triệu trẻ em.

Phong trào này đã được khởi đầu vào tháng 4 năm 2013 và kết hợp sự cộng tác của tất cả mọi cá nhân và tổ chức muốn thăng tiến các giá trị xã hội và hạnh phúc của trẻ em. Phong trào nhận định rằng môi trường xã hội và hệ thống giáo dục ngày nay khiến cho trẻ em bị qúa nhiều áp lực cướp mất tuổi thơ hồn nhiên của chúng, và gây ra rất nhiều chấn thương thể lý cũng như tâm lý làm tổn hại cho cuộc sống. Trong số các thành viên của Phong trào có nhiều nhân vật nổi tiếng thuộc nhiều lãnh vực khác nhau. Phong trào đã tổ chức phiên họp hai ngày có rất nhiều chuyên viên tham dự. Trong số các thuyết trình viên có Anthony Seldom, Tim Gill, Reg Bailey, Susan Greenfield và Sue Palmer. Các thuyết trình viên đã chia sẻ kinh nghiệm của họ về việc cấp thiết bảo vệ trẻ em khỏi mọi ảnh hưởng gây thiệt hai cho sức khỏe và hạnh phúc của các em. Trẻ em cần được lớn lên trong một môi trường lành mạnh với các cha mẹ, thầy cô, và những người săn sóc các em lành mạnh. Và chúng ta cần chú ý tới các loại giá trị mà chúng ta muốn thăng tiến trong xã hội.

Việc bảo vệ các trẻ em là một nhu cầu cấp bách vì các thống kê hiện nay cho thấy 1 trên 10 trẻ em bị rối loạn tâm trí; 1 trên 5 em cần được giáo dục một cách đặc biệt; 1 trên 5 em có các dấu chỉ ăn uống lộn xộn; 1 trên 3 em bị bệnh mập phì; 1 trên 12 em tự gây thương tích cho chính mình.

Chiến dịch bảo vệ trẻ em đầu tiên do phong trào phát động hồi tháng 9 năm 2013 có tên gọi là ”Quá nhiều và quá sớm” nhằm tố cáo các cung cách tổ chức của hệ thống giáo dục xã hội đòi hỏi qúa nhiều nơi các trẻ em và tạo ra qúa nhiều áp lực đối với chúng, khiến cho trẻ em thường xuyên phải cố gắng nên lo âu sợ hãi và đánh mất đi tuổi thơ của chúng.

Chiến dịch này đã gây được tiếng vang lớn trong môi trường quốc gia và quốc tế. Mục đích thứ nhất phong trào nhắm tới là quy tụ tất cả những ai nhận ra sự soi mòn tuổi thơ tại Anh quốc và trợ giúp các nước khác trên thế giới chống lại hiện tượng đáng lo ngại này. Thứ hai là nhận diện ra vấn đề và tìm kiếm các giải pháp văn hóa và chính trị. Thứ ba là nêu bật, yểm trợ và thăng tiến các giải pháp sáng tạo trong tương lai nhằm bắt đầu một cuộc thảo luận sâu rộng trên toàn Anh quốc, liên quan tới mục đích giáo dục và định nghĩa thành công. Bảo đảm rằng các tình trạng hạnh phúc của trẻ em cần được chú ý ngang hàng với các kỹ năng của trí tuệ.

Nhận diện và lôi cuốn sự chú ý của quốc gia và quốc tế tới các áp lực không thích đáng trên bình diện phát triển gây thiệt hại cho sự phát triển thể lý, cảm xúc, tâm trí và tinh thần của trẻ em. Bảo vệ trẻ em, đặc biệt trong các năm đầu tiên của tuổi thơ, khỏi kỹ thuật màn hình và các đường hướng phát triển công nhận các lợi ích của thế giới vi tính. Bảo đảm các lợi ích của trẻ em theo Thỏa hiệp các quyền của trẻ em của Liên Hiệp Quốc và nêu bật các điều khoản về sự phát triển tự nhiên, thường chưa đạt được. Thành lập một Ủy ban liên ngành và chính trị mới cố vấn cho các chính quyền trong việc che chở và bảo vệ quyền được phát triển tự nhiên của trẻ em. Phát triển kiểu tiếp cận mới mẻ và gợi hứng phục vụ các nhu cầu của việc phát triển của trẻ em.

Phong trào ”Cứu các trẻ em” cũng thường xuyên thăng tiến các đóng góp ý kiến, đối thoại, trao đổi và tổ chức các cuộc hội luận giúp nhận ra các thí dụ gợi hứng cho các giải pháp trong tương lai.

Theo ước tính của phong trào ”Cứu các trẻ em” hiện nay trên thế giới có khoảng 30 triệu trẻ em vị thành niên là nạn nhân bạo lực tình dục trong hay sau các cuộc chiến và xung khắc đó đây trên thế giới. Hồi tháng 12 năm 2013 người ta ước tính tại Cộng hòa Trung Phi, nơi đang có các cuộc chiến tiếp diễn, việc hãm hiếp là hình thức phổ biến nhất đối với 40% các trẻ gái vị thánh niên. Cả các bé gái 5 tuổi cũng đã biết các bạo lực thể lý và tâm lý có nghĩa là gì.

Cũng trong năm 2013 bên Siria đã có 38,000 người kêu gọi Liên Hiệp Quốc cứu trợ sau khi đã chịu các tấn kích thể lý và các hành động bạo lực tình dục. Và người ta chắc chắn đây chỉ là chóp đỉnh của tảng băng bạo lực tính dục khổng lồ xảy ra trong chiến tranh tại Siria từ hơn 3 năm qua với hơn 100.000 người chết. Hãm hiếp là lý do giải thích tại sao nhiều cha mẹ lại bắt buộc các con gái còn bé lập gia đình, bởi vì họ sợ chúng có thể bị hãm hiếp trong cảnh chiến tranh và không muốn gia đình phải bị nhục vì có con gái rơi vào tình cảnh ấy.

Bên Lybia trong thời gian sau chiến tranh có tới 83% các trẻ gái sống sót dưới 17 tuổi đã sống kinh nghiệm bị hãm hiếp. Nhiều khi các trẻ em bị các lực lượng quân đội lạm dụng tình dục ngay tại những nơi, mà đáng lý ra chúng phải được che chở bảo vệ nhất như các trường học.

Em Emma thuộc Cộng hòa Congo kể lại rằng em đã bị một binh sĩ hãm hiếp, khi sống trong trại tị nạn với mẹ và các bạn. Lúc đó là 9 giờ sáng, em ở lại đàng sau vì khi chạy trốn em bị trặc chân. Bất thình lình em trông thấy một binh sĩ đứng trước mặt, tay lăm le một khẩu súng lục và nói: ”Mày chỉ có một lựa chọn thôi hoặc là hiến thân cho tao hay là tao giết mày”. Tôi nói là tôi không muốn chọn điều ấy và tôi bắt đầu chạy. Nhưng ông ta đuổi theo, chộp được tôi và hãm hiếp tôi. Ông ta đã không nói gì khi bạo hành tình dục tôi, nhưng tôi nghĩ ”tôi muốn rằng đừng có chiến tranh cũng đừng có người tỵ nạn, để đừng xảy ra các cảnh này”. Rồi tôi lại chạy trốn, nhưng lần này ông ta không bắt được tôi. Tôi chạy về nhà và thay quần áo. Quần áo tôi bị vấy máu vì tôi đã mất trinh.

Phong trào ”Cứu các trẻ em” hiện diện trong hội nghị quốc tế tại London với các đại diện và trẻ em nạn nhân bạo lực tình dục để mạnh mẽ yêu cầu các chính quyền hiện diện đưa vào chương trình hội nghị việc chống lại các hãm hiếp thể lý và tâm lý đối với các trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang, bằng cách chấm dứt tình trạng không trừng phạt các thủ phạm. Tổ chức đã đưa ra lời kêu gọi rất mạnh mẽ để hội nghị có các hành động cụ thể hầu thay đổi số phận của hàng chục triệu trẻ em bị bó buộc sống trong các hoàn cảnh nặng nề của chiến tranh và xung khắc. Cần phải đưa ra các biện pháp chuyên biệt để phòng ngừa mọi loại bạo lực chống lại các trẻ em và việc bảo vệ các em trong các môi trường chiến tranh phải là điều ưu tiên trong các can thiệp nhân đạo.

Để được như vậy phải tài trợ các sinh hoạt bảo vệ trẻ em chống lại các bạo hành tình dục, củng cố và bảo vệ các hệ thống giáo dục, phối hợp yểm trợ làm sao để các cơ quan liên hệ của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức đa quốc có tài nguyên, các khả năng chuyên môn và sự yểm trợ chính trị hầu đối phó với vấn đề một cách hữu hiệu, bằng cách đặc biết chú ý tới các thiếu niên nam nữ bị tuyển mộ hay bổ sung cho các lực lượng hay các nhóm vũ trang. Ngoài ra cũng cần đầu tư nhiều hơn cho các sinh hoạt đưa tin tức và tường trình các tội phạm bạo lực tình dục chống lại các trẻ em. Các biện pháp này đỏi buộc phải gia tăng chi phí đầu tư. Theo tổ chức ”Cứu các trẻ em” trong năm 2013 các chính quyền đã chỉ dành từ 0 đến 2% ngân qũy nhân đạo cho việc bảo vệ và phòng ngừa bạo lực chống lại trẻ em.

Phong trào đã tích cực hoạt động trong các vùng chiến tranh và vì thế biết các phương thế rất hữu hiệu giúp bảo vệ các thiếu niên nam nữ chống lại các tấn công thể lý trong chiến tranh và để cung cấp cho các em sống sót sự trợ giúp chuyên biệt mà các em cần.

Bên Colombia là quốc gia có nội chiến lâu nhất thế giới kéo dài từ 60 năm qua tổ chức ”Cứu các trẻ em” hoạt động với các không gian thích hợp với các trẻ em cho phép các em được hưởng các phục vụ chuyên biệt yểm trợ cảm xúc và tâm lý. Trong các trại tỵ nạn cho người Somali bên Kenya các rẻ em sống sót và gia đình các em nhận được sự trợ giúp chuyên biệt và sự cố vấn từ các chuyên viên trong lãnh vực bảo vệ các trẻ em vị thành niên.

Ngoài ra tổ chức ”Cứu các trẻ em” cũng hoạt động nhằm thay đổi các thói quen và cung cách hành xử nền tảng của bạo lực hay có nguy cơ gây ra bao lực đối với các trẻ em. Chẳng hạn bên Nepal qua các trung tâm riêng của mình tổ chức mạnh mẽ chống lại các thái độ và nền văn hóa bạo lực đối với các thiếu niên nam nữ và phụ nữ. Trong khi tại Myanmar tổ chức hoạt động bên cạnh các cộng đoàn địa phương để gây ý thức cho dân chúng liên quan tới các nguy cơ to lớn vì nạn tuyển mộ trẻ em chiến binh vào trong các lực lượng vũ trang từ phía giới quân nhân. Ngoài ra tổ chức ”Cứu các trẻ em” cũng hoạt động để bảo đảm cho các luật lệ được soạn thảo và củng cố để che chở các trẻ vị thành niên và đưa việc bảo vệ đó vào trong các cơ cấu quốc gia như lực lượng cảnh sát, các binh chủng quân đội và các lực lượng bảo hòa.

Bạo lực tính dục ám chỉ mọi hành động, mưu toan hay đe dọa có tính cách tính dục gây ra hay có thể gây ra đau đớn và khổ đau tâm lý, thể lý hay xúc cảm cho một cá nhân. Và nó bao gồm việc lạm dụng tính dục và khai thác tình dục. Thuộc loại này còn có các vụ hãm hiếp, loạn luân, các sách nhiễu tình dục, cưỡng bách mại dâm, nô lệ tình dục, và buôn bán cơ phận người nhằm mục đích khai thác tình dục.

Theo Bản tường trình của phong trào ”Cứu các trẻ em” tựa đề ”Các tội phạm không tả nổi chống lại các trẻ em. Bạo lực tình dục trong các xung đột”, có 15.95% các trẻ em trai gái trên thế giới là nạn nhân của các vụ lạm dụng tính dục khi sống trong các vùng có chiến tranh xung đột.

(SD 10-6-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ơn gọi của kitô hữu là phản ánh tình yêu thương của Thiên Chúa

Ơn gọi của kitô hữu là phản ánh tình yêu thương của Thiên Chúa

Ơn gọi của kitô hữu là phản ánh tình yêu thương của Thiên Chúa. Một người yêu thương tha nhân vì chính niềm vui yêu thương, phản ánh Thiên Chúa Ba Ngôi. Một gia đình trong đó người ta yêu thương nhau và trợ giúp nhau là phản ánh Thiên Chúa Ba Ngôi. Một giáo xứ, trong đó tín hữu yêu nhau và chia sẻ các của cải tinh thần và vật chất cho nhau là một phản ánh của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 15-6-2014 lễ kính Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh. Trong buổi đọc kinh Truyền Đức Thánh Cha cũng đã mời gọi mọi người hiệp ý với ngài cầu nguyện cho dân nước Irak được hưởng an ninh, hòa bình và hòa giải. Ngài cũng loan báo sẽ viếng thăm mục vụ Albania ngày 21 tháng 9 tới đây. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, tôi đang lo lắng theo dõi các biến cố của những ngày vừa qua bên Iraq. Tôi mời gọi tất cả mọi người hiệp ý với tôi cầu nguyện cho dân nước Iraq thân yêu, nhất là cho các nạn nhân và cho những ai phải đau khổ nhiều vì các hậu qủa của bạo lực gia tăng. Cách riêng cho nhiều người, trong đó có biết bao kitô hữu, đã phải bỏ nhà cửa. Tôi cầu chúc cho toàn dân Iraq được an ninh, hòa bình và một tương lai hòa giải, công bằng, trong đó tất cả mọi người dân Iraq, thuộc bất cứ tôn giáo nào có thể cùng nhau xây dựng quê hương của họ, làm cho Iraq trở thành một mô thức của sự sống chung.

Hôm nay tôi muốn báo tin là tôi nhận lời mời của các Giám Mục Albania và chính quyền, và tôi có ý đến thăm Tirana ngày Chúa Nhật 21 tháng 9 tởi đây. Với cuộc viếng thăm ngắn ngủi này tôi muốn củng cố Giáo Hội tại Albania và chứng tỏ sự khích lệ và tình yêu của tôi đối với một đất nước đã khổ đau lâu dài vì các ý thức hệ trong qúa khứ.

Trước đó trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng Chúa Ba Ngôi Rất Thánh. Ngày lễ giới thiệu cho sự chiêm niệm và thờ lạy của chúng ta cuộc sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: một cuộc sống của sự hiệp thông sâu xa và của tình yêu hoàn hảo, là nguồn gốc và mục đích của toàn vũ trụ và của mọi thụ tạo. Đức Thánh cha giải thích thêm như sau:

Trong Thiên Chúa Ba Ngôi chúng ta cũng nhận ra mô thức của Giáo Hội, trong đó chúng ta được mời gọi yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Tình yêu là dấu chỉ cụ thể biểu lộ niềm tin nơi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Tình yêu là dấu chỉ phân biệt của kitô hữu, như Chúa Giêsu đã nói: ”Từ dấu này mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy đó là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Thật là một mâu thuẫn nghĩ rằng các kitô hữu thù ghét nhau. Đó là một mâu thuẫn. Và ma qủy luôn luôn tìm điều đó: nó làm cho chúng ta thù ghét nhau, bởi vì nó luôn luôn gieo cỏ lùng của sự thù hận, nó không biết đến tình yêu: tình yêu là Thiên Chúa.

Chúng ta tất cả được mời gọi làm chứng và loan báo sứ điệp ”Thiên Chúa là tình yêu”, Thiên Chúa không xa cách hay vô cảm đối với các biến cố của con người. Ngài ở gần chúng ta, Ngài luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, đồng hành với chúng ta để chia sẻ các vui buồn cũng như các khổ đau, hy vọng và mệt nhọc của chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta tới độ đã nhập thể, và đến trong thế giới, không phải để xét xử thế giới nhưng để thể giới được cứu thoát nhờ Chúa Giêsu (Ga 3,16-17). Đó là tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Tình yêu này khó hiểu, nhưng chúng ta cảm thấy khi chúng ta tới gần Chúa Giêsu. Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta, Người luôn luôn chờ đợi chúng ta. Người yêu thương chúng ta biết bao! Và tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta cảm thấy là tình yêu của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Chúa Thánh Thần, ơn của Chúa Giêsu phục sinh, thông truyền cho chúng ta cuộc sống thiên linh, và như thế làm cho chúng ta bước vào trong sự năng động của Thiên Chúa Ba Ngôi, là một sự năng động của tình yêu, của sự hiệp thông, của việc phục vụ nhau và chia sẻ. Rồi Đức Thánh Cha cụ thể hóa kiểu sống này như sau:

Một người yêu thương tha nhân vì chính niềm vui yêu thương, phản ánh Thiên Chúa Ba Ngôi. Một gia đình trong đó người ta yêu thương nhau và trợ giúp nhau là phản ánh Thiên Chúa Ba Ngôi. Một giáo xứ, trong đó tín hữu yêu nhau và chia sẻ các của cải tinh thần và vật chất cho nhau là một phản ánh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu đích thật không giới hạn, nhưng biết tự giới hạn, để ra đi gặp gỡ người khác, để tôn trong sự tự do của người khác. Chúng ta đi lễ mọi ngày Chúa Nhật và chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể với nhau; và bí tích Thánh Thể giống như ”bụi gai cháy” trong đó Thiên Chúa Ba Ngôi ở và thông truyền chính mình; vì thế Giáo Hội đã để lễ kính Mình Máu Thánh Chúa sau lễ Chúa Ba Ngôi. Ngày thứ năm tới đây, theo truyền thống tại Roma, chúng ta sẽ cử hành thánh lễ tại Đền thờ Gioan Laterano rồi đi rước kiệu Mình Thánh Chúa. Tôi mời gọi tất cả mọi tín hữu Roma và các khách hành hương tham dự để bầy tỏ ước muốn của chúng là một dân ”được quy tụ trong sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Thánh Cipriano). Tôi chờ đợi anh chị em tất cả ngày thứ năm lúc 19 giờ cho Thánh lễ và buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa.

Xin Đức Trinh Nữ Maria, là thụ tạo hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta biến toàn cuộc đời mình, cả trong các cử chỉ bé nhỏ và các lựa chọn quan trọng nhất, trở thành một bài ca chúc tụng Thiên Chúa là Tình Yêu.

Đức Thánh Cha đã cất kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi hòa bình cho Iraq, và mời gọi người cầu nguyện cho ý chỉ này. Đức Thánh Cha đã cùng mọi người đọc một Kinh Kính Mừng cầu cho dân nước Iraq. Ngài cũng loan báo chuyên viếng thăm Albania ngày 21 tháng 9 năm nay.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm hành hương hiện diện: các giáo xứ, các gia đình và các hiệp hội. Ngài đã đặc biệt chào các quân nhân Colombia, các tín hữu đến từ Đài Loan, Hồng Kông, Avila và La Rioja Tây Ban Nha, cũng như các tín hữu đến từ Tuerto Argentina, từ Cagliari, Albino, Vignola, Lucca và Battipaglia.

Đức Thánh Cha cũng chào Phong trào tông đồ hoạt động ”Thăng tiến sự Thánh thiện” nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của vị sáng lập là vị tôi tở Chúa Guglielmo Giaquinta. Đức Thánh Cha khích lệ các thành viên tiếp tục tươi vui phổ biến công tác tông đồ của sự thánh thiện.

Ngài cững chào các bạn trẻ Casaleone mới chị phép Thêm Sức và các công nhân của nhóm y tế IDI Roma. Đặc biệt ngài chào nhóm các cộmg sự viên giúp việc trong các gia đình, săn sóc người già và những người không tự lập được trong gia đình, vì công việc phục vụ qúy báu của họ, thường bị lãng quên. Đức Thánh Cha đã cám ơn họ. Sau cùng ngài xin mọi người đừng quên cầu nguyện cho ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Phoenix – Một linh mục bị sát hại và một linh mục bị thương trầm trọng

Phoenix – Một linh mục bị sát hại và một linh mục bị thương trầm trọng

Nhà thờ Mother of Mercy Mission

Một linh mục vừa bị sát hại và một linh mục khác đang bị thương trầm trọng trong một giáo xứ tại thành phố Phoenix. Cảnh sát cho biết, đã nhận được một cú điện thoại 911 vào khoảng 9:00 tối ngày thứ Tư, 06-11-2014 từ nhà thờ Mother of Mercy, Mission Catholic Church. Cha Kenneth Walker bị bắn trọng thương và đã qua đời sau đó trong bệnh viện, còn phần Cha Terra bị thương rất trầm trọng và đang được chăm sóc tại bệnh viện.

Nguồn tin từ nhà thờ cho biết, không phải chỉ có một tên trộm có trang bị vũ khí đột nhập vào nhà thờ, có thể là có thêm một vài  đồng phạm khác. Cảnh sát tạm thời chưa xác định là mấy người nhưng sẽ tiến hành điều tra. Các điều tra viên đang thu thập các dữ chứng tại hiện trường và đồng thời kêu gọi mọi người đều hợp tác để giúp cảnh sát tìm ra thủ phạm đã thảm sát Cha Walker và làm trọng thương Cha Terra.

Cha Kenneth Walker chỉ mới 29 tuổi, cha là người rất nhiệt huyết, thụ phong linh mục được 2 năm, là thành viên của dòng Hội Huynh Đệ Linh Mục của Thánh Phêrô (Priestly Fraternity of St. Peter), và Cha Terra cũng thuộc dòng Hội này.

Cầu nguyện Cha Walker 2

Cha Walker sanh trưởng trong một gia đình chịu ảnh hưởng theo truyền thống Thánh Lễ La Tinh tại miền thượng New York. Cha Walker tốt nghiệp từ Học viện Đức Bà Tòa Đấng Khôn Ngoan (Our Lady Seat of Wisdom), một chủng viện Công giáo nằm ở tỉnh Ontario, nước Canada, nơi Cha theo  học từ năm 2003-2005. Cha Walker là một trong những sinh viên tốt nghiệp đầu tiên được thụ phong linh mục. Ngài thụ phong vào năm 2012 ở Nebraska.

Giáo dân của giáo xứ đã dâng lễ cầu nguyện vào sáng ngày thứ Năm, cầu nguyện cho linh hồn Cha Kenneth Walker và Cha Terra được mau sớm bình phục.

Các giáo dân cũng nói rằng, đây là một sự mất mát lớn đối với giáo xứ của họ, và là sự đau buồn cho giáo hội công giáo.

Cầu nguyện Cha Walker

Chiếc xe Mazda Tribune 2003 màu xanh của nhà thờ bị đánh cấp bởi bọn trộm giết người được tìm thấy cách 4 ngã tư đường từ nhà thờ.

Cảnh sát cho biết, nếu ai có thông tin về vấn đề này, xin hãy liên lạc và báo cho cơ quan hữu trách.

 

Thái Trọng

Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi

Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi

“Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”. Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: “Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.

Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả. Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật.”

Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.

Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa và trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính Thiên Chúa muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.

Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.

Veritas Radio

THIÊN CHÚA TÌNH YÊU

THIÊN CHÚA TÌNH YÊU

Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.

Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.

Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.

Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.

Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.

Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.

Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.

Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.

Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Tài liệu mật tiết lộ cuộc bầu chọn Thánh Piô X

Tài liệu mật tiết lộ cuộc bầu chọn Thánh Piô X

John Bingham cho The Telegraph

pius x

Một cuộc bỏ phiếu bí mật đã thay đổi quá trình bầu chọn giáo hoàng và đặt một con người trên con đường nên thánh.

Nhưng một bộ tài liệu về bầu chọn giáo hoàng hiếm thấy, được mang lén ra khỏi Mật Tuyển viện năm 1903, giải thích rõ Đức Hồng y Giusppe Melchiorre Sarto, hiện nay là Thánh Piô X, gần như chắc chắn không được lên ngôi giáo hoàng nếu không có sự can thiệp chính trị và sự lập lờ trong giáo luật bị quên lãng lâu nay.

Trong tài liệu, đem bán đấu giá tại London vào thứ Năm, có một biên bản ghi lại kết quả từ khi bắt đầu bỏ phiếu trong cuộc bầu chọn giáo hoàng vào tháng 8-1903 cho thấy Đức Hồng y Mariano Rampolla del Tindaro là ứng viên được ái mộ nhất, hơn xa mọi ứng viên.

Nhưng Đức Hồng y Rampolla, Quốc Vụ khanh Tòa Thánh dưới thời Đức Giáo hoàng trước là Đức Lêô XIII, bị Hoàng đế Áo-Hungary Franz Joseph phản đối dựa trên quyền Jus exclusivae, vốn cho phép một nhóm vua chúa được chọn thuộc Giáo hội Công giáo La mã có quyền bác bỏ bất kỳ vị giáo hoàng tương lai nào mà họ không chấp thuận.

Quyền này chỉ được dùng một vài lần trong lịch sử, cho phép nhà vua hay hoàng hậu của Tây Ban Nha, Pháp, Thánh chế La mã hay hoàng đế Áo-Hungary chỉ định một hồng y thực hiện quyền phủ quyết của họ kèm theo hướng dẫn can thiệp nếu người mà họ phản đối chuẩn bị được bầu chọn.

Mặc dù Đức Hồng y Sarto hưởng lợi từ động thái này, vì nó giúp ngài lên ngôi giáo hoàng, có sự tổn thương vì sự can thiệp này, và ngài đích thân bãi bỏ quyền Jus exclusivae.

Tài liệu sẽ do Fraser’s Autograph bán tại nhà đấu giá Dreweatts & Bloomsbury ở London, trong đó có một bản kiểm phiếu viết tay từ vòng bỏ phiếu lần hai cho thấy Đức Hồng y Rampolla có được sự ủng hộ của 29 trong số 61 hồng y có mặt trong Nguyện đường Sistine, con số này chưa chiếm được đa số phiếu.

Trong khi đó Đức Hồng y Sarto chỉ có 10 phiếu. Nhưng sau khi Đức Hồng y Rampolla bị bác bỏ, ngài lại được bầu làm giáo hoàng trong vòng bỏ phiếu thứ bảy.

Ngài qua đời tháng 8-1914, ngay sau khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, và được tôn phong thánh 40 năm sau đó.

Không ai biết chính xác lý do tại sao hoàng đế này phản đối Đức Hồng y Rampolla nhưng ngài được xem là một nhà cải cách Vatican và người ta nghĩ rằng ngài được xem là quá tự do đối với Franz Joseph. Trái lại, Đức Piô X là một người theo chủ nghĩa truyền thống được tưởng nhớ vì lên án chủ nghĩa tân thời.

Quy định của Mật Tuyển viện cấm các hồng y tiết lộ chi tiết cuộc bầu cử và theo truyền thống các tài liệu này được đốt trong một cái lò đặc biệt bốc lên khói đen nếu chưa có kết quả bầu cử và khói trắng khi đã bầu được tân giáo hoàng.

Nhưng các tài liệu đem bán đấu giá này được Đức Hồng y Domenico Svampa, Tổng Giám Mục của Bologna lúc đó, cất giữ.

Ngoài bản kiểm phiếu, còn có một lá phiếu kèm theo thông báo được Đức Hồng y Svampa ký tên trên mặt trái khẳng định ngài đã bỏ phiếu cho Đức Hồng y Sarto. Tài liệu này sau đó được một nhà báo người Ý sưu tầm.

“Có thể Đức Hồng y Svampa cất giữ lá phiếu có viết thông báo trên đó để làm bằng chứng ngài bỏ phiếu bầu Đức Hồng y Sarto không phải là vì tuân theo lệnh phủ quyết của hoàng đế nhưng là quyết định ngài tự đưa ra ngay từ đầu mật tuyển viện”, nhà bán đấu giá giải thích.

“Có thể là một động thái chính trị tốt vì Đức Hồng y Sarto đã trở thành Giáo Hoàng”.

Nguồn: The Telegraph

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống

Đức Thánh Cha chủ sự thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống

Pope Francis celebrates Pentacost mass 06-08-2014

VATICAN. ĐTC Phanxicô giải thích cho các tín hữu về 3 hoạt động của Chúa Thánh Linh đối với các tín hữu: dạy dỗ, nhắc nhớ và làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa và tha nhân.

Trên đây là nội dung bài giảng của ĐTC trong thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, sáng chúa nhật 8-6-2014 tại Đền thờ Thánh Phêrô, cùng với 90 Hồng Y, GM và 200 LM đồng tế, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu ngồi chật thánh đường.

Bài giảng của ĐTC

”Tất cả được tràn đầy Chúa Thánh Thần” Cv 2,4).

Khi nói với các Tông Đồ trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu nói rằng sau khi rời khỏi thế giới này, Ngài sẽ gửi đến họ hồng ân của Chúa Cha, tức là Thánh Linh (Xc Ga 15,26). Lời hứa này được thể hiện mạnh mẽ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Linh ngự xuống trên các môn đệ tụ họp tại Nhà Tiệc Ly. Sự đổ tràn Thánh Linh ấy, tuy là ngoại thường, nhưng không phải là xảy ra một lần duy nhất và giới hạn vào lúc ấy, nhưng là một biến cố đã và vẫn còn được tái diễn. Chúa Kitô vinh hiển ở bên hữu Chúa Cha tiếp tục thực hiện lời hứa, gửi đến Giáo Hội Thánh Linh ban sự sống, Người dạy dỗ, nhắc nhớ và làm cho chúng ta nói.

– Chúa Thánh Linh dạy dỗ chúng ta, Người là Thầy nội tâm. Người hướng dẫn chúng ta trên đường ngay nẻo chính qua những hoàn cảnh của cuộc sống. Người chỉ đường cho chúng ta. Trong thời kỳ đầu của Giáo Hội, Kitô giáo được gọi là ”con đường”, là ”đạo” (Xc Cv 9,2) và chính Chúa Giêsu là Đường. Chúa Thánh Linh dạy chúng ta bước theo Chúa Giêsu, tiến bước theo vết của Ngài. Thánh Linh là thầy dậy cuộc sống hơn là thầy dậy đạo lý. Và thuộc về cuộc sống chắc chắn cũng có sự hiểu biết, kiến thức, nhưng trong một chân trời rộng lớn và hòa hợp hơn của đời sống Kitô.

Chúa Thánh Linh nhắc nhớ chúng ta, Người nhắc nhở chúng ta về tất cả những gì Chúa Giêsu đã nói. Đó là ký ức sinh động của Giáo Hội. Và trong khi nhắc nhở chúng ta, Người làm cho chúng ta hiểu những lời của Chúa Giêsu.
ĐTC giải thích rằng:

”Việc nhắc nhớ này trong Thánh Linh và nhờ Thánh Linh không thu hẹp vào một sự kiện ký ức, và là một khía cạnh thiết yếu trong sự hiện diện của Chúa Kitô nơi chúng ta và trong Giáo Hội. Thánh Thần chân lý và tình thương nhắc nhớ chúng ta về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói, làm cho chúng ta ngày càng đi sâu vào trọn vẹn ý nghĩa những lời của Chúa. Điều này đòi chúng ta phải đáp lại: hễ chúng ta càng quảng đại đáp lại, thì lời Chúa Giêsu càng trở thành sự sống trong chúng ta, trở thành những thái độ, chọn lựa, cử chỉ, chứng tá. Nói tóm lại, Chúa Thánh Linh nhắc nhớ chúng ta về giới răn yêu thương, và kêu gọi chúng ta hãy sống giới răn ấy.
Một Kitô hữu không có ký ức thì không phải là một Kitô hữu chân chính: họ là một người nam nữ tù nhân của thời điểm hiện tại, không biết biến lịch sử của mình thành kho tàng, không biết đọc và sống lịch sử ấy như lịch sử cứu độ. Trái lại, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể giải thích những soi sáng nội tâm và những biến cố của cuộc sống dưới ánh sáng lời Chúa Giêsu. Và như thế sự khôn ngoan của ký ức, sự khôn ngoan của con tim, sẽ tăng trưởng trong chúng ta và đó là một hồng ân của Thánh Linh. Xin Chúa Thánh Linh hồi sinh trong tất cả chúng ta ký ức Kitô giáo!

”Chúa Thánh Linh dạy dỗ chúng ta, nhắc nhớ cho chúng ta – và một điểm khác nữa, Người làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa và với con người. Kinh nguyện là một hồng ân chúng ta nhận được nhưng không; đó là cuộc đối thoại với Chúa trong Thánh Linh, là Đấng cầu nguyện trong chúng ta và để chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha, là Ba, là Abba (Xc Rm 8,15; Gl 4,4); và điều này không phải chỉ là ”một kiểu nói”, nhưng là thực tại, chúng ta thực sự là con cái Thiên Chúa. ”Thực vậy, tất cả những người được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, thì họ là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14).

Và Thánh Linh làm cho chúng ta nói với con người trong cuộc đối thoại huynh đệ. Người giúp chúng ta nói với tha nhân, nhìn nhận họ là anh chị em; diễn tả với tinh thần thân hữu, dịu dàng, hiểu những lo âu và hy vọng, buồn sầu và vui mừng của tha nhân. Nhưng Chúa Thánh Linh cũng làm cho chúng ta nói với con người như ngôn sứ, nghĩa là biến chúng ta thành những ”máng” khiêm tốn và ngoan ngoãn chuyển Lời Chúa. Lời ngôn sứ được thực hiện trong sự thẳng thắn, để công khai chứng tỏ những mâu thuẫn và bất công nhưng luôn luôn với sự dịu dàng và ý hướng xây dựng. Được Thánh Thần tình thương thấu nhập, chúng ta có thể là dấu hiệu và là dụng cụ của Thiên Chúa, Đấng yêu thương, phục vụ và trao ban sự sống.

Và ĐTC kết luận rằng:

”Nói tóm lại, Chúa Thánh Linh dạy chúng ta con đường, nhắc nhớ và giải thích cho chúng ta Lời Chúa Giêsu; Người làm cho chúng ta cầu nguyện và gọi Thiên Chúa là Cha, làm cho chúng ta nói với con người trong cuộc đối thoại huynh đệ và như ngôn sứ.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, khi các môn đệ ”được tràn đầy Thánh Linh”, Giáo Hội được chịu phép rửa, được sinh ra ”để đi ra”, ”khởi hành” để loan báo Tin Mừng cho mọi người. Chúa Giêsu ra lệnh cho các Tông Đồ: họ không được rời xa khỏi thành Jerusalem trước khi lãnh nhận từ trên cao Sức Mạnh của Chúa Thánh Linh (Xc Cv 1,4.8). Không có Người thì không có sứ vụ truyền giáo, không có việc loan báo Tin Mừng. Vì thế cùng với Giáo Hội chúng ta hãy kêu cầu: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!

Lời nguyện giáo dân

Trong phần lời nguyện giáo dân, đã có 5 ý nguyện được xướng lên lần lượt bằng tiếng Aramaico là ngôn ngữ Chúa Giêsu đã dùng xưa kia, tiếng Pháp, Ucraina, Anh và Hoa: Cầu cho Giáo Hội: Xin Chúa Thánh Linh làm cho Giáo Hội ngày càng trở thành cộng đoàn từ bi và tha thứ và dẫn đưa mọi người đến niềm hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa; cầu cho ĐTC và tất cả những người rao giảng Tin Mừng: Xin Chúa Thánh Linh giữ gìn cuộc sống của các vị được hoàn toàn giống hy tế mà các vị dâng tiến và với chân lý mà các vị loan báo; cầu cho tất cả mọi dân tộc trên trái đất và các nhà cầm quyền: Xin Chúa Thánh Linh khơi lên những người có khả năng tiến bướctrên con đường cam go và cao cả đối thoại, công lý và hòa giải; cầu cho những người nghèo khổ và cô đơn: Xin Chúa Thánh Linh mở cửa hy vọng cho những người bị thương tích trong thân thể và tinh thần, khơi dậy nơi mọi người những tâm tình và thái độ bác ái chân chính; cầu cho các thừa sai: Xin Chúa Thánh Linh là nguồn mạch mọi sứ vụ trong Giáo Hội, làm cho những người được kêu gọi loan báo Tin Mừng cứu độ và làm chứng về Chúa Phục Sinh được vững mạnh và quảng đại.

Trong phần rước lễ có 70 LM đồng tế thi hành nhiệm vụ phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu hiện diện.

Thánh lễ kết thúc lúc 11 giờ rưỡi và nửa tiếng sau đó, vào lúc đúng ngọ, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ của căn hộ Giáo Hoàng để chủ sự buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với khoảng 50 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng đẹp.

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh, ĐTC tiếp tục diễn giải về ý nghĩa biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống:

”Anh chị em thân mến, Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống tưởng niệm việc Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trên các Tông Đồ tụ họp tại Nhà Tiệc Ly. Cũng như Lễ Phục Sinh là một biến cố xảy ra trong lễ của Do thái giáo và được viên mãn lạ lùng, sách Tông Đồ công vụ mô tả các dấu hiệu và thành quả ngoại thường của việc đổ tràn ơn Thánh Linh: gió thổi mạnh và những hình lưỡi lửa; sợ hãi biến mất và nhường chỗ cho can đảm: ngôn ngữ không còn bị ràng buộc và tất cả mọi người đều hiểu lời loan báo. Nơi nào Thánh Linh của Thiên Chúa đến, thì tất cả được tái sinh và biến đổi. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống đánh dấu sự khai sinh Giáo Hội và Giáo Hội xuất hiện công khai; có hai nét làm cho chúng ta chú ý: đó là một Giáo Hội gây ngạc nhiên và làm lúng túng.

”Một yếu tố cơ bản của lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là sự ngạc nhiên. Chẳng ai mong đợi nơi các môn đệ điều gì nữa: sau khi Chúa Giêsu chịu chết, họ là một nhóm nhỏ chẳng có gì đáng kể, họ là những người mồ côi thất bại với Thầy họ. Trái lại xảy ra một biến cố bất ngờ làm cho mọi người ngỡ ngàng: dân chúng bối rối ngạc nhiên vì mỗi người nghe các môn đệ nói trong ngôn ngữ của họ, kể lại những kỳ công của Thiên Chúa (Xc Cv 2,6-7.11). Giáo hội sinh ra trong ngày Lễ Hiện Xuống là một cộng đoàn làm cho người ta kinh ngạc, vì với sức mạnh đến từ Thiên Chúa, Giáo Hội loan báo một sứ điệp mới – là sự phục sinh của Chúa Kitô – với một ngôn ngữ mới – ngôn ngữ đại đồng của tình thương. Các môn đệ được quyền năng từ trên cao, can đảm và thẳng thắn nói với tự do của Chúa Thánh Linh.

Vì thế Giáo Hội được kêu gọi luôn luôn là Giáo Hội: có khả năng gây ngạc nhiên khi loan báo cho mọi người rằng Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng sự chết, vòng tay của Thiên Chúa luôn mở rộng, Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi để chữa lành và tha thứ cho chúng ta. Chính vì sứ mạng này, Chúa Giêsu phục sinh đã ban Thần Trí của Ngài cho Giáo Hội.

Ở Jerusalem có những người muốn các môn đệ của Chúa Giêsu bị sợ hãi ngăn chặn và khép kín trong nhà để khỏi gây phiền toái. Trái lại, Chúa phục sinh thúc đẩy họ vào thế giới: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Giáo Hội của lễ Hiện Xuống là một Giáo Hội không cam chịu là một cái gì vô thưởng vô phạt, hoặc là một thứ đồ trang trí. Trái lại đó là một Giáo Hội không do dự đi ra ngoài, gặp gỡ dân chúng, để loan báo sứ điệp đã được Chúa ủy thác cho họ, cho dù sứ điệp ấy làm phiền phức và làm cho các lương tâm bất an. Giáo Hội nảy sinh là duy nhất và phố quát, với căn tính rõ ràng, nhưng cởi mở, một Giáo Hội bao gồm cả thế giới, nhưng không nắm bắt thế giới, như vòng cung của Quảng trường này: hai vòng tay mở rộng để đón nhận, chứ không khép kín để giữ lại.

”Chúng ta hãy hướng về Đức Trinh Nữ Maria, trong buổi sáng ngày lễ Ngũ Tuần trong Nhà Tiệc Ly, cùng với các môn đệ. Nơi Mẹ, sức mạnh của Chúa Thánh Linh đã thực hiện những việc cao cả (Lc 1,49). Xin Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và là Mẹ Giáo Hội, chuyển cầu để hồng ân của Chúa Thánh Linh tái đổ tràn trên Giáo Hội và thế giới.

”Sau phép lành, ĐTC đã chào thăm các tín hữu hành hương, từ Roma và các nơi, các gia đình, các nhóm giáo xứ và hội đoàn và từng tín hữu từ Italia và các nước khác.

Ngài cũng thông báo: Như anh chị em đã biết, chiều tối hôm nay, tại Vatican, Tổng thống Israel và Palestine sẽ hiệp với tôi và Đức Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, Bartolomaios, để cầu xin Chúa ban hồng ân hòa bình tại Thánh Địa, Trung Đông và toàn thế giới. Tôi muốn cám ơn tất cả những người, cá nhân và cộng đoàn, đã va đang cầu nguyện cho cuộc gặp gỡ này, và sẽ hiệp ý cầu nguyện với chúng tôi. Xin cám anh chị em và cầu chúc một chúa nhật tốt đẹp..

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh cha chỉ trích các đôi vợ chồng không muốn có con

Đức Thánh cha chỉ trích các đôi vợ chồng không muốn có con

Carol Glatz cho Catholic News Service

-

Đức Thánh cha Phanxicô khẳng định “văn hóa sung túc” và an nhàn đã khiến cho các đôi vợ chồng nghĩ rằng cuộc sống thảnh thơi, đi du lịch khắp thế giới và có nhà nghỉ mát tốt hơn có con.

Ngài nói các đôi vợ chồng nên nhìn vào cách Chúa Giêsu yêu thương Giáo hội để biết cách trung thành, kiên trì và có kết quả tốt trong ơn gọi của mình.

Khoảng 15 đôi vợ chồng kỷ niệm 25 năm, 50 năm và 60 năm thành hôn đã tham dự Thánh lễ sáng do Đức Thánh cha cử hành hôm 2-6 tại Domus Sanctae Marthae, nơi ở của ngài.

Trong bài giảng lễ, Đức Phanxicô nói trung thành, kiên trì và có kết quả tốt là ba đặc tính trong tình yêu Chúa dành cho Giáo hội và cũng là ba trụ cột trong hôn nhân Kitô giáo.

Như Giáo hội sinh hoa kết quả khi cho ra những người con mới trong Đức Kitô thông qua Bí tích Rửa tội, hôn nhân cũng nên tiếp nhận cuộc sống mới, Đức Thánh cha nói trong bài giảng lễ, theo bản tin của Đài Phát thanh Vatican.

“Trong hôn nhân, kết quả này đôi khi có thể bị thử thách, khi chưa có con hay khi đau bệnh”, ngài nói.

Các đôi vợ chồng không thể có con hay mất con vẫn có thể trông mong nơi Đức Giêsu và “múc lấy nguồn sức mạnh từ kết quả Chúa Giêsu có được với Giáo hội”.

Tuy nhiên, “có những việc Chúa Giêsu không thích”, ngài nói, chẳng hạn như các đôi vợ chồng “không muốn có con, không muốn có kết quả tốt đẹp”.

Đức Thánh cha khẳng định “văn hóa sung túc này” khiến cho những người đã kết hôn cố ý không muốn có con.

Ngài nói văn hóa an nhàn “khiến chúng ta tin rằng không có con thì tốt hơn! Như thế bạn mới có thể thấy thế giới, đi nghỉ mát, bạn có thể có căn nhà lý tưởng ở miền quê, bạn sẽ thảnh thơi”.

Người ta nghĩ tốt hơn hay thoải mái hơn “khi nuôi một con chó con, hai con mèo và dành tình yêu cho hai con mèo và con chó con. Như vậy đúng hay không? Bạn đã chứng kiến điều này chưa?” ngài hỏi cộng đoàn.

“Và cuối cùng, cuộc hôn nhân này sẽ kết thúc trong tuổi già cô đơn, trong sự cay đắng của cảnh hiu quạnh”.

Đức Thánh cha nói Chúa Giêsu luôn trung thành với Giáo hội, “cô dâu của Ngài: xinh đẹp, thánh thiện, tội lỗi nhưng tình yêu của Ngài vẫn không thay đổi”.

Chúa Giêsu luôn trung thành, ngay cả với những người phạm tội và từ chối Ngài; và “lòng trung thành này giống như ngọn đèn” soi sáng hôn nhân, cho thấy “sự trung thành của tình yêu” trông như thế nào, ngài nói.

Ngoài luôn trung thành ra, tình yêu còn phải “luôn kiên trì”, ngài nói.

Như Chúa Giêsu tha thứ cho Giáo hội, vợ chồng cũng phải xin tha thứ cho nhau để “tình yêu vợ chồng có thể sống mãi”, ngài nói. “kiên trì trong tình yêu” phải bền bỉ trong lúc vui cũng như lúc buồn, “khi có vấn đề, vấn đề với con cái, vấn đề tiền bạc và những vấn đề khác”.

“Tình yêu bền vững, kiên trì, luôn tìm cách giải quyết mọi chuyện để cứu gia đình”, ngài nói.

UCANEWS VN

ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI

ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI

Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.

Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.

Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.

Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.

Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?

2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?

3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Hãy nhận lấy Thánh Thần.

Hãy nhận lấy Thánh Thần.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó: "Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?". Họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới" (Cv 19,1-2).

Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần, nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.

Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp, nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.

Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, Ngài đã làm một việc quan trọng, đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.

"Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19).

"Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).

Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21)

Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình. Chỉ có một sứ mạng duy nhất là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha. Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.

Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này? Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?

Sức sống ở nơi hơi thở.

Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình, hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.

Khi được trao ban Thánh Thần, họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.

Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.

Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa, và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.

Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3), và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).

Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.

Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.

Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung.

Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.

Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.

Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.

Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt, nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân, nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài, thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?

2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Thánh Thần,

Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con, thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới, để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.

Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con, chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới, để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi, và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.

Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới, để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm, nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng, đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu.

 

CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐẤNG TÁC SINH

 CHÚA THÁNH THẦN LÀ ĐẤNG TÁC SINH

Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò của Ngài là Đấng soi sáng, thánh hóa, đổi mới, Đấng ban sự bình an, niềm vui, can đảm, khôn ngoan, lo liệu, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Chúa…

Như vậy, Ngài là hồn sống, hơi thở của Giáo Hội. Không có Ngài, Giáo Hội như mất đi sức sống, sinh động và trở nên trống rống. Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo Hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
 
Để làm sáng tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần, các bài đọc trong thánh lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Ngài.

1. Vài trò của Chúa Thánh Thần qua ba bài đọc

Khởi đi từ bài đọc I trích trong sách Cv 2, 1-11, tác giả cho thấy: đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ vẫn đang tụ họp quanh Đức Maria để cầu nguyện liên lỉ và chờ mong điều Đức Giêsu đã hứa trước đó. Và, đúng như lời Đức Giêsu đã loan báo, Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống trên Đức Mẹ và các môn đệ. Như một sự tác sinh, lập tức, tất cả được tràn đầy Thánh Thần.

Ngay sau đó, như một đặc ân của Chúa Thánh Thần, các môn đệ từ một người ít học, nhà quê, nhát đảm, sợ sệt, nay trở nên thông thái và nói được những tiếng mới lạ, khiến mọi người đổ về hành hương đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Ngũ Tuần đều nghe các môn đệ nói được tiếng bản xứ của mình. Cứ thế, các ông tiếp tục can đảm, hăng say ra đi mọi nơi để loan báo và làm chứng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ nhân loại.

Sang bài đọc II, 1Cr 12,3b-7.12-13, thánh Phaolô nhắc đến đặc sủng của Chúa Thánh Thần được ban xuống cho mỗi người tùy theo nhu cầu của họ. Tuy nhiên, sự đa dạng của ơn Chúa Thánh Thần trên mỗi người là khác nhau, nhưng đều chung quy một điểm, đó là hiệp nhất trong đa dạng để phục vụ cho Lời của Đức Giêsu hầu sinh ích cho cộng đoàn tín hữu.

Qua bài đọc này, thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô phải luôn hiệp nhất trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng nhiệm thể Đức Kitô trong mầu nhiệm thân thể Ngài là Hội Thánh.

Sang bài Tin Mừng, Ga 20,19-23, thánh Gioan làm toát lên sứ mạng được sai đi rao giảng Tin Mừng của các môn đệ; đồng thời, ngài cũng cho thấy căn nguyên sự sống và hoạt động của các môn đệ là do Chúa Thánh Thần.

Thật thế, sau khi ban bình an cho các ông, ngay lập tức, Đức Giêsu đã trao ban cho các ông Chúa Thánh Thần và kèm theo là quyền tha tội. Tại sao thế? Thưa! Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng đổi mới và nguồn mọi sự bình an. Khi con người nhận được ân sủng của Ngài và khi tội lỗi được tẩy xóa, thì ắt được bình an, chan chứa niềm vui và hy vọng.

Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chính là ngày Giáo Hội được khai sinh, và cũng là ngày Giáo Hội lên đường để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình.

Hiểu như thế, thì ngày lễ hôm nay cũng là ngày lễ Hiện Xuống nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì: nếu xưa kia các môn đệ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng như thế nào, thì hôm nay, mỗi tín hữu cũng đón nhận cùng một Chúa Thánh Thần và cùng một sứ vụ như các ngài khi xưa.

2. Sứ mạng của Giáo Hội hôm nay
 
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, tiếp theo, qua Bí Tích Thêm Sức, mỗi người đón nhận Ngài cách dồi dào, phong phú để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế cách triệt để hơn trong vai trò là thành phần chi thể trong thân thể mầu nhiệm Giáo Hội, có Đức Giêsu là Đầu.

Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, là dịp mời gọi mỗi người chúng ta nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn chúng ta trở về tình trạng: “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để chúng ta làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.

Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà thánh Phaolô cho là hành động do xác thịt như: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5,19-21). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chúa Thánh Thần như: “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23).

Đạt được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ là khí cụ hữu dụng của Chúa Thánh Thần trên và trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội hôm nay.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến vì chúng con cần Ngài. Amen.
 

Jos. Vinc. Ngọc Biển