Hạt giống Lời Chúa

Hạt giống Lời Chúa

Một cầu thủ đấu bóng rổ đã tâm sự với các phóng viên báo chí như sau:

Quan niệm của tôi về cuộc sống nay đã thay đổi hẳn, tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn trong lúc này là dành nhiều thời giờ hơn để sống gần gũi với con cái tôi và biết thưởng thức, quí trọng những điều khác nữa, chứ không phải chỉ có môn thể thao bóng rổ mà thôi. Dù gặp bất hạnh, nhưng anh Colin đã là người có phúc hơn những người khác, bởi vì anh đã nghe được điều mà nhiều người muốn nghe mà không được nghe, đó là nghe được tiếng Chúa nói với anh trong các biến cố cuộc đời. Anh Colin khám phá ra được rằng, cuộc sống của anh còn có nhiều điều hay ho và quan trọng khác nữa.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa dùng mọi tình huống để thức tỉnh chúng ta lắng nghe và sống Lời Ngài. Dụ ngôn về người gieo giống hôm nay cần được chúng ta dành nhiều thời gian trong ngày sống để suy niệm nhiều hơn, để lĩnh hội các ý nghĩa mà chính Chúa đã giải nghĩa cho các môn đệ.

Thiên Chúa đã luôn luôn gieo vãi Lời Ngài khắp nơi, với mọi hạng người, với mọi hoàn cảnh. Chúng ta đáp lại Lời Chúa như thế nào? Chúng ta có cần Chúa mở mắt chúng ta qua một biến cố đau thương như biến cố đã xảy ra với anh Colin hay không? Có cần Thiên Chúa thiêu đốt tất cả những gì chúng ta đang mù quáng bám víu vào như là giá trị duy nhất của đời mình, để giúp chúng ta trở về với Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa hay không?

Bằng cách nào đó không thể nói là tự nhiên tốt được. Tâm hồn con người cũng thế, tự nó không phải tự nhiên tốt, nhưng cần được ân sủng Chúa thánh hóa, thanh luyện mới có thể trở nên tốt, và mỗi người chúng ta cần cộng tác với ơn Chúa để tâm hồn chúng ta được trở nên mảnh đất tốt và trổ sinh nhiều hoa trái.

Thiên Chúa rất thường đến viếng thăm chúng ta qua các biến cố lớn nhỏ, vui buồn, nhưng rất nhiều khi hay là hầu hết nhiều khi, hầu hết mỗi lần Chúa đến thăm để nói với chúng ta một điều gì đó, mạc khải cho chúng ta một điều gì đó thì chúng ta lại vắng mặt, chúng ta lại lo ra. Nhiều lần chúng ta được tiếp xúc với Lời Chúa nhưng chúng ta lại lơ là không màng chi đến Lời Chúa nữa.

Ước chi hôm nay, trong giây phút này, chúng ta hãy trở về ngồi lại nơi căn nhà tâm hồn của chúng ta trong thinh lặng để kiểm điểm lại những gì mình đã làm hư hỏng, để được kín múc lấy sức mạnh của Chúa mà giúp ta canh tân trong cuộc sống.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hồi tâm trở về, lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, để mảnh đất tâm hồn chúng con trở nên mảnh đất tốt, để chúng con luôn biết đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái trong tâm hồn chúng con mỗi ngày một hơn. Amen.

Veritas Radio

Gieo giống

Gieo giống

Bác nông phu đi ra ruộng và gieo hạt giống. Đây là một hình ảnh đẹp và quen thuộc. Bác nông phu đi với dáng bộ nghiêm trang và thận trọng, vai đeo thúng lúa. Ông thọc tay phải vào thúng, bốc hạt giống xạ xuống trên ruộng đồng theo nhịp chân bước. Người gieo giống đi gieo và đã xảy ra là có những hạt rơi trên vệ đường và chim trời đến ăn mất. Những hạt khác rơi trên sỏi đá, chúng mọc lên nhưng vì không đủ đất, cho nên bị ánh nắng mặt trời làm cho khô héo. Còn những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm cho chúng chết ngạt. Và sau cùng, những hạt khác rơi vào đất tốt, chúng sinh hoa kết quả, có hạt được 100, hạt 60, hạt 30.

Chúng ta có thể nghĩ rằng: gieo giống gì mà kỳ lạ quá vậy. Tại sao không gieo trên đất tốt, mà còn gieo cả trên vệ đường, trên đất xấu và cả vào trong bụi gai. Gieo như thế vì đó là phương pháp làm ruộng của người dân miền Palestina. Họ có cách gieo giống khác với chúng ta. Họ gieo giống trước rồi mới cày úp sau. Vì vậy, ông bạn gieo giống trong dụ ngôn, đi gieo trong ruộng chưa cày bừa chi cả. Suốt thời gian đất nghỉ, dân làng thường đi tắt qua những thửa ruộng đã gặt hái chỉ còn lại những gốc rạ. Vậy khi gieo, ông ta đã tung hạt giống trên cả thửa ruộng, trên cả những con đường tắt này với ý định là sẽ cày cả con đường này lên, nhưng chim trời đã nhìn thấy những hạt giống đó và đã ăn mất trước khi chúng nẩy mầm. Ông cũng chủ ý gieo vào cả bụi gai khô héo vì ông cũng định cày cả đám gai này nữa. Nhưng hạt gai đã rụng xuống đất, lại được cày úp lẫn lộn với những hạt lúa, do đó gai mọc lên và làm cây lúa non chết ngạt. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy những hạt rơi trên sỏi đá. Đó là lớp sỏi đá cứng nằm ngầm dưới mặt đất, chỉ có một lớp đất mỏng phủ trên, người ta không trông thấy và chỉ khám phá ra khi lưỡi cày đụng phải. Nếu gặp lớp sỏi đá này, rễ lúa không thể đâm sâu xuống được và ánh nắng mặt trời sẽ làm cho chúng khô héo. Hình như người gieo giống không mấy lạc quan với công việc của mình. Nhưng may thay, phần lúa giống còn lại rơi trên đất tốt và đã sinh hoa kết quả tốt đẹp, hạt được 30, 60 hay 100.

Dĩ nhiên chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu đang giảng bằng dụ ngôn, và chân lý tôn giáo được núp sau hình ảnh của dụ ngôn đó. Điều này thực sự muốn nói là kết quả của lời Chúa. Lời ấy có khả năng phát triển và sinh hoa kết trái cách phi thường trong lòng người. Chính thánh Marcô đã cắt nghĩa dụ ngôn này một cách vắn tắt: Người gieo giống là chính Thiên Chúa và hạt giống là Tin Mừng, hay nói một cách khác, chính Chúa Giêsu là người gieo giống và hạt giống là những lời Ngài giảng dạy, còn tâm hồn chúng ta là những thửa đất. Thế nhưng những thửa đất ấy giờ đây như thế nào?

Lời Chúa nơi chúng ta không phải là những hạt giống rơi trên vệ đường, rơi giữa bụi gai hay ở trên sỏi đá. Nhưng lời đó phải được thâm nhập vào tận đáy lòng chúng ta để rồi sinh hoa kết trái một cách tốt đẹp. Lời Chúa luôn có một sức sống làm nẩy sinh hoa trái, nhưng lời ấy có thực sự đem lại kết quả tốt cho tâm hồn chúng ta hay không, thì còn tuỳ thái độ đón nhận và cộng tác của chúng ta đối với lời Chúa.

Sức sống của hạt giống

 Sức sống của hạt giống

Vào một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
 
Chờ đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
 
Chúa trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
 
Chị nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
 
Chúa mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống thôi. (Anthony de Mello).

Tin mừng Chúa nhật hôm nay có tên gọi là “Dụ ngôn người gieo giống”. Thiên Chúa là người gieo giống. Chúng ta là đất. Hạt giống là lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Tùy vào thái độ của mỗi người, chân thành đón nhận hay lười biếng khước từ, Lời Chúa sẽ sinh những hiệu quả khác nhau.

Hạt giống được gieo trên bốn loại đất, đất vệ đường, đất lẫn sỏi đá, đất có nhiều gai góc và đất tốt. Đất nào cho năng suất nấy. Làm sao bên lề đường khô cằn sỏi đá, hạt giống có thể sinh hoa kết trái được? Trong bụi gai chằng chịt cỏ rác không mọc nổi, hạt giống làm sao vươn lên để thánh cây xanh tốt được? Chúa Giêsu ví lời giảng dạy của Ngài như hạt giống trong tay người nông dân. Hạt giống gieo trên những loại đất khác nhau, số phận các hạt giống khác nhau. Lời Chúa cũng có nhiều số phận khác biệt. Có lời sinh lợi muôn vàn lời. Có lời sống èo uột bị bóp nghẹt. Có lời làm tròn sứ mạng được uỷ thác. Có lời biến mất như rơi vào cõi hư không. Khác biệt về thành quả không hệ tại bởi hạt giống tốt xấu mà bởi phẩm chất ruộng đất. Thửa ruộng mà Chúa Giêsu nói đến không phải ruộng trên mặt đất mà là cõi lòng con người. Vì thế, dụ ngôn hạt giống gieo trên các loại đất khác nhau gợi lên những ý nghĩa.

Tấm lòng quảng đại của người đi gieo.
 
Người đi gieo đã gieo hạt giống trên những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ. Những mảnh đất sỏi đá, gai góc, lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người gieo hạt không bỏ rơi một mảnh đất nào vì tấm lòng quãng đại của ông, chỉ muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn. Thiên Chúa quảng đại nhìn mọi người với chính phẩm giá của họ trong niềm hy vọng của Ngài. Vì thế, mảnh đất nào cũng nhận được hạt giống đồng đều. Ai cũng có cơ may nhận được ân sủng cứu độ Tin Mừng nếu như họ thành tâm thiên chí. Lòng quảng đại không phân biệt đối xử, không ưu tiên ai mà cũng chẳng loại trừ ai, không thất vọng về hiện tại của người khác mà biết kiên tâm đợi chờ hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.

Không ai hoàn toàn là “lề đường”, là “sỏi đá” hay là “bụi gai”. Trong mỗi con người luôn có một mảnh đất tốt cho dù nó chỉ nhỏ bé thôi. Có thiện chí đón nhận hạt giống cũng sẽ có một mùa gặt bội thu “đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (Mt 13, 23). Thiên Chúa vẫn gieo Lời Ngài vào lòng chúng ta, vì Ngài chắc chắn rằng: “Lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác” (Is 55, 11).

Thánh Phêrô đã ba lần chối Chúa, nhưng trong ngài vẫn còn một mảnh đất tốt của lòng sám hối. Thánh Phaolô hăng say bách hại các kitô hữu, nhưng trong ngài vẫn còn đó một mảnh đất tốt của lòng nhiệt thành và khiêm tốn. Thánh Augustinô bị những bụi gai của tri thức, kiêu căng và dục vọng vây bủa, nhưng vẫn còn có một mảnh đất tốt hướng tìm chân lý, chỉ chờ hạt giống gieo trồng là nở rộ mùa gặt phong nhiêu… Còn nhiều lắm những mảnh đất tốt như thế trong Giáo Hội và trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Tất cả những mảnh đất tốt đó, cho dù có nhỏ nhoi đi chăng nữa, nhưng một khi đã được đón nhận Lời Chân Lý thì đúng như lời Chúa nói, đã sinh lợi “hạt một trăm, hạt sáu mươi, hạt ba mươi”.

Hạt giống tiềm ẩn sự sống.
 
Hạt giống có vỏ cứng bảo vệ, khi được gieo vào lòng đất vỏ sẽ vỡ ra cho mầm đâm chồi. Chồi non lên xanh là hình ảnh của sự sống mới. Sự sống vào đời mới bằng một cuộc phiêu lưu, bằng niềm phó thác cho tương lai.

Hạt giống là ánh sáng, là Tin mừng, là thiện hảo tốt lành, là giá trị Nước Trời. Tự nó, hạt giống có một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong hạt giống có mầm sự sống, hễ cứ gặp điều kiện thuận lợi là mọc lên. Trong mầm sống có sự sống tiếp nguồn từ sự sống của Thiên Chúa. Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh sức sống tiềm tàng thì “Hạt lúa mục nát đi” (x. Ga 12,24) lại là một hình ảnh khác nói lên niềm hy vọng một mùa gặt mới sau khi chịu ‘mục nát”. Hạt giống là hồng ân Thiên Chúa, phong phú bao la và vô cùng mạnh mẽ. Điều quan trọng là hãy cho hạt giống một cơ hội để mọc lên.

Niềm hy vọng mùa gặt phong phú
 
Nếu người gieo hạt đã đặt hy vọng vào từng mảnh đất bất kể mức độ tốt xấu thì bổn phận của đất là không được phụ lòng người quảng đại gieo hạt. Thiên Chúa làm được mọi sự nhưng Ngài cần con người cộng tác.Thiên Chúa vẫn luôn tin tưởng và hy vọng nơi con người.

Trong các hoạt động tông đồ, không cần phải phân tích người nào là lề đường, là sỏi đá hay bụi gai. Hạt giống cứ gieo vào đất, chúng ta hãy làm việc tốt cho người khác. Chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho hạt giống mọc lên và sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 5-9).

Niềm hy vọng phải là một đặc trưng của đời sống người kitô hữu. Chính niềm hy vọng đó sẽ giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống hiện tại, hướng tới một tương lai tươi sáng và một cuộc sống vĩnh cửu của người được làm con cái Thiên Chúa.

Mầu nhiệm Nước Trời còn ẩn chứa nhiều điều huyền diệu và chỉ cõi lòng nào chân thành, khiêm nhường đón nhận mới có cơ duyên thưởng thức những huyền diệu của Lời Hằng Sống. Nhận lấy hạt giống Lời Chúa trong mình, chúng ta từ từ sinh hoa trái trong Giáo Hội cho vinh quang của Thiên Chúa (GLCG # 1724).

Người nông dân có câu: “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Giống là cần thiết, nhưng nước, phân bón và công chăm sóc thật là quan trọng. Giống tốt, gieo xạ đúng quy trình kỹ thuật, nhưng để đất khô hạn thì lúa không lên xanh. Có giống, có nước mà không có phân bón thuốc trừ sâu, thì lúa sẽ èo uột không kết quả. Có được giống tốt, nước bảo đảm, phân thuốc đầy đủ, nhưng chẳng chăm sóc thì không thu lợi được bao nhiêu.

Người sáng, người mù hay người câm điếc cũng đều có thể nghe Lời Chúa, đón nhận hạt giống Lời Chúa gieo vào lòng, nhưng quan trọng là đem ra thực hành.

Có một mảnh đất hoang cỏ mọc um tùm. Ông Tư mua lại thửa đất ấy rồi cày xới, làm sạch cỏ, rồi ông trồng cây, trồng hoa, trồng rau. Một thời gian sau, mảnh đất trở thành một khu vườn thật đẹp. Một hôm, ông Tư đang làm việc trong vườn, cha xứ đi qua và nói: “Khu vườn thật là đẹp! Ông Tư thấy không, khi ông biết cộng tác với Thiên Chúa thì kết quả như thế đó”. Ông Tư trả lời: “Vâng, cha cứ thử nghĩ lại xem, miếng đất này như thế nào khi chỉ có một mình Chúa làm việc ở đây”.
 
Cầu Nguyện
 
Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
 
Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
 
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.
 
Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Mana)

 

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Hạt giống và người gieo giống

Hạt giống và người gieo giống

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hạt giống và người gieo giống, cũng như về thửa đất đón nhận hạt giống.

Trước hết, hạt giống và người gieo giống chính là Đức Kitô.

Thực vậy, Ngài đã đến trong cánh đồng trần gian. Thế nhưng, Ngài đã bị hiểu lầm, đã gặp biết bao nhiêu khó khăn và thất bại. Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như một hạt giống, Ngài đã nảy mầm đâm bông và kết trái.

Tiếp đến, hạt giống và người gieo giống còn là Giáo Hội.

Thực vậy, như Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua giòng thời gian cũng đã gặp phải biết bao nhiêu thất bại và cấm cách. Tuy nhiên, tất cả không thể làm cho Giáo Hội nghi ngờ hay thất vọng về sứ mạng của mình.

Hạt giống lời Chúa cũng như bản chất của Giáo Hội, có thể là rất nhỏ bé. Nhỏ bé như một hạt cải, nhỏ bé như một dúm men, nhưng năng lực của lời Chúa cũng như của Giáo Hội là vô hạn.

Không phải là qua những thành công rực rỡ bên ngoài mà Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại. Trái lại, Ngài đã bước vào chặng đường thập giá, bước vào tiến trình của một hạt giống được gieo vào lòng đất cần phải mục nát.

Bởi đó, Ngài đã trách cứ hai môn đệ trên đường về Emmaus:

– Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó rồi mới được vào chốn vinh quang hay sao?

Cũng vậy, Giáo Hội cần phải bước vào chặng đường thập giá, cần phải bước vào tiến trình mục nát của một hạt giống. Những thời Giáo Hội được huy hoàng nhất chưa hẳn đã là những thời mà Nước Chúa được mở rộng hơn cả.

Còn thửa đất thì sao?

Trước tiên, thửa đất là thế gian này.

Thực vậy, Đức Kitô đã đến trong thế gian và gieo vào đó hạt giống lời của Ngài. Thế gian trước kia đang khô cằn và chờ mong ơn cứu độ. Thế nhưng, kể từ đây có thể trở nên phì nhiêu cho lời Chúa sinh hoa kết trái.

Thế nhưng quan trọng hơn cả, mảnh đất phì nhiêu ấy phải là chính cõi lòng chúng ta. Đúng thế, mặc dù lời Chúa đầy hiệu năng, nhưng tự nó lời Chúa cũng không đủ để đảm bảo một mùa gặt tốt đẹp, bởi vì lời Chúa còn cần phải gặp được những thửa đất tốt.

Thiên Chúa tiếp tục gieo vãi hạt giống lời Ngài vào cõi lòng chúng ta. Nhiều người nghe nhưng ít người hiểu. Nhưng hiểu mà thôi cũng chưa đủ, chúng ta còn phải sống lời Chúa. Bởi vì, không phải chỉ nghe, chỉ hiểu là lời Chúa tự động nảy nở trong cõi lòng chúng ta và đem lại những hoa trái.

Mặc dù lời Chúa có đủ sức để đảo lộn cuộc đời chúng ta, nhưng hiệu năng của lời Chúa không phải là tự động, không phải là máy móc. Sự tăng trưởng của lời Chúa hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta.

Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta sự tự do và Ngài luôn tôn trọng sự tự do ấy cho tới cùng. Ngài đề nghị mà không ép buộc:

– Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào và dùng bữa với kẻ ấy.

Chúng ta có tự do để trở nên một đám sỏi đá, một bụi gai, một lối đi cằn cỗi, nhưng đồng thời cũng có thể là một thửa đất tốt. Tất cả mọi loại đất đều tùy thuộc ở cõi lòng chúng ta.

Vậy chúng ta sẽ là thửa đất nào? Chúng ta đã nghe và đã hiểu, nhưng liệu chúng có dám sống lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy hay không?

Hạt giống Lời Chúa

Hạt giống Lời Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ông Chirgwin, trong quyển sách mang tựa đề: “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo”đã kể câu chuyện sau đây:

Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế không thể tưởng tượng nổi.

Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, đàn bà, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng, hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ đi công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may cảm lòng, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Hai bà chỉ để lại cho hắn quyển Thánh Kinh Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi mà tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực.

Niềm hy vọng của họ đã trở thành hiện thực, Ishi-I đã đọc những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt, khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lời ấy đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại:

“Đọc đến lời ấy “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.

Cuối cùng, ông Chirgwin, tác giả câu chuyện này, kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp một tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hoà nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.

(Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến một chuyện phim video mới đây được giải thưởng Oscar, mang tựa đề: “Dead man walking” (Người chết biết đi). Ở các quầy cho thuê băng video, mang tựa đề: “Tên tử tội”).

Anh chị em thân mến,

Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên giết người không gớm tay như anh Tokichi Kshi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ và giáo dân đang dấn thân phục vụ những trẻ em bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội. Đúng như Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng hôm nay: “Lời Chúa như hạt giống được gieo vào đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành một trăm”.

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người gieo giống”để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa nhân loại và đem lại kết quả như thế nào: Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ được, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, bị chết nghẹt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Vậy thì chúng ta đừng ai nản lòng vì mất mát, thiệt thòi. Người gieo giống cứ thẳng tay tung vãi khắp nơi một cách quảng đại, không dè xẻn. Bên ngoài xem ra như mọi sự chống lại việc triển nở của hạt giống Lời Chúa. Nhưng hãy chờ mùa gặt đến, kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng, vì đây là công việc của Thiên Chúa. (Một tên giết người không gớm tay như Ishi-I, thế mà Lời Chúa đã từ từ thấm nhập vào tâm hồn, đã cải hoá anh thành một con người mới, một người hoà nhã, lễ độ, sám hối và đã tin).

Thánh Justinô tử đạo vào năm 150, khi suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này đã khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng, đừng bao giờ thất vọng: “Chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đã được gieo vào cánh đồng thế giới chúng ta. Ngài cũng đã bị hiểu lầm, bị chống đối, đã gặp bao thất bại… Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như hạt giống, Ngài đã nẩy sinh bao hoa trái sự sống dồi dào”.

Thưa anh chị em,

Ngày nay Giáo Hội không ngừng rao giảng Lời Chúa qua các thế hệ trên khắp thế giới. Giáo Hội cũng gặp nhiều khó khăn, thất bại như: thiếu phương tiện, bị bách hại, đời sống kém cỏi của một số giáo sĩ và giáo dân, số người rửa tội ngày càng ít đi trong một thế giới duy vật và trần tục hoá. Thật đáng buồn khi thấy đời sống đạo ngày càng sa sút. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài đường lộ. Tuy nhiên, như lời Thánh Justinô: đứng thất vọng, người gieo cứ việc gieo và để cho Lời Chúa âm thầm hoạt động. Không có gì được phép làm cho chúng ta phải nghi ngờ hay chán nản. Hạt giống Lời Chúa có thể là bé nhỏ, có thể bị đối xử tàn tệ, bị chà đạp, bị lấn át, nhưng năng lực của nó là vô hạn (x. Bđ: Is 55,10-11).

Bổn phận của chúng ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống giữa lòng đời. Không phải chỉ nghe suông mà còn tìm hiểu ý Chúa muốn chúng ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại chống lại việc tìm hiểu và thực thi Lời Chúa: nào là những quyến rũ của đời sống trần tục, nào là những lo lắng việc đời, ham mê của cái. Chúng như chim trời sà xuống cướp lấy hạt giống vừa rơi xuống, hoặc như sỏi đá, như bụi gai cản trở, bóp nghẹt Lời Chúa.

Anh chị em thân mến,

Mỗi Chúa Nhật, chúng ta họp nhau dự Tiệc Thánh, gồm có Lời Chúa và Thánh Thể của Chúa. Hãy đón nhận với niềm tin yêu để Lời Chúa và Thánh Thể trở nên sức sống và ánh sáng, niềm vui và hy vọng cho cuộc đời chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta lại trở thành người ra đi gieo giống, người Tông đồ rao giảng Lời Chúa, góp phần vào mùa thu hoạch của Giáo Hội cho Nước Trời vào ngày sau hết.

Hoạt động của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV trong Đệ Nhất Thế Chiến

Hoạt động của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV trong Đệ Nhất Thế Chiến

Phỏng vấn Linh Mục Massimo Mancini giáo sư Lịch sử Giáo Hội phân khoa Thần Học Triveneto Venezia bắc Italia

Trong các tuần tới đây Âu châu tưởng niệm 100 năm Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, một cuộc chiến đã khiến cho 20 triệu người thiệt mạng và tàn khốc hơn tất cả mọi cuộc chiến trước đó, vì có sư tham dự của nhiều nước trên thế giới và việc sử dụng các vũ khí mới chưa từng có như máy bay, xe tăng, tầu ngầm, và cả vũ khí hóa học nữa.

Năm 1914 tình hình Âu châu căng thẳng vì các đối nghịch giữa các cường quốc lớn Pháp, Đức và Anh. Hai nước Pháp và Anh có nhiều thuộc địa rộng lớn cung cấp các nguyên liệu rẻ tiền và hầu như vô tận. Đức mặc dù có nền kinh tế phát triển vượt Pháp và bắt kịp Anh quốc, nhưng có ít thuộc địa, nên không có các nguồn tài nguyên phong phú và có thị trường quốc tế nhỏ hơn so với Pháp và Anh. Pháp và Anh muốn ngăn chặn nền kinh tế bành trướng đang lên của Đức. Ngoài sự cạnh tranh kinh tế này, còn có sự đua tranh chính trị nữa. Các cường quốc Âu châu muốn kiểm soát vùng Balcan và biển Địa Trung Hải, nhất là người Nga và người Áo muốn lợi dụng sự yếu kém của đế quốc Ottoman để bành trướng bằng cách chinh phục các vùng đất làm thành bán đảo Balcan. Có một yếu tố khác nữa tạo ra các căng thẳng lớn giữa các nước đó là khuynh hướng quốc gia, đặc biệt là của Pháp vì Pháp muốn chiếm các vùng đất Alsace và Lorraine đã bị mất trong chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871. Italia thì muốn chiếm lại miền Trento và Trieste.

Chính trong tình hình đua tranh căng thẳng đó Trưởng quận công Francesco Ferdinando, người sẽ kế vị vua Áo, và vợ bị một sinh viện người Serbi ám sát ngày 28 tháng 6 năm 1914 tại Sarajevo. Vụ ám sát này đã là cớ khiến cho Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ giữa các đế quốc vùng trung Âu châu là Đức, Áo, Hungari, Ottoman, và các cường quốc của Thỏa hiệp tay ba gồm Pháp, Anh và Nga. Đức mơ thành lập một nước lớn bao gồm tất cả các vùng nói tiếng Đức. Trong khi Nga ước muốn hiệp nhất tất cả các dân tôc nói tiếng Slave.

Thế là Áo tuyến chiến với Serbia, vì coi Serbia là nơi tiếp đón mọi lực lượng Slave đòi độc lập, và muốn trừng phạt vùng đất này một lần cho luôn mãi. Chỉ nội trong mấy ngày nhiều quốc gia khác nhau tham chiến. Bên cạnh Đức, Áo là Thổ Nhỉ Kỳ, Bulgaria, Nhật Bản và Rumania. Các người đảng xã hội và các tín hữu công giáo chủ trương hòa bình, nhưng lập trường của họ không được lắng nghe. Các phe lâm chiến cũng không chú ý đến các lời cảnh cáo rất nghiêm ngặt của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV coi chiến tranh là hậu qủa của ích kỷ, của chủ thuyết duỵ vật và việc thiếu các giá trị luân lý và tinh thần.

Ban đầu người ta chỉ nghĩ tới một cuộc chiến kết thúc nhanh chóng, nhưng mọi tính toán đều sai và cuộc chiến biến thành ”chiến tranh hầm trú” kéo dài hết năm này sang năm khác. Binh sĩ đào các đường hầm dài hàng trăm cây số, với các bãi mìn và hàng rào kẽm gai, rồi sống và di chuyển trong đó để cầm chân nhau. Mặt trận trải dài hàng ngàn cây số giữa hai bên và cần binh sĩ tới độ phải tổng động viên đàn ông con trai. Tình trạng này bắt buộc các phụ nữ phải làm việc trong các nhà máy sản xuất quân trang quân dụng. Tuy có các trận đánh đẫm máu nhưng không bên nào tiến được. Người ta đã phải dùng tới máy bay oanh tạc các đường hầm từ trên cao, cũng như xe tăng, hơi ngạt và súng phun lửa.

Phía ngoài biển hải quân Anh phong tỏa không cho quân Đức tiếp viện. Quân Đức bắt đầu sử dụng các tầu ngầm và nạn nhân thường là các tầu của Hoa Kỳ tiếp tế cho Anh quốc.

Năm 1917 các cuộc tàn sát thê thảm bị phơi bầy trước mắt mọi người. Mặc dù Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV liên tục kêu gọi ngưng chiến và dịnh nghĩa nhân loại đáng xấu hổ, chiến tranh vẫn tiếp diễn khiến cho các dân tộc Âu châu mệt mỏi vì đói khát, hàng ngàn người tị nạn về nhà với thân thể què cụt. Không còn nông dân để cầy cấy, cũng không còn công nhân trong các hãng xưởng, tất cả đều do phụ nữ, trẻ em và người già đảm trách.

Mùa xuân năm 1917 nhiều vụ nổi dậy đã bắt buộc Nga hoàng Nicola II phải từ chức, hàng triệu binh sĩ Nga mệt nỏi đói khát bỏ chiến tuyến về nhà. Đảng Bônxêvích của Lenin lên nắm quyền, và ký thỏa hiệp đình chiến và hòa bình với Đức. Nga ra khỏi chiến tranh nhưng mất Ba Lan, Estonia, Lettonia, Lituania và Phần Lan. Được rảnh tay, Áo và Đức dồn toàn lực đánh Pháp, Anh và Italia.

Vụ tầu xuyên đại tây dương Lusitania bị quân Đức đánh chìm làm cho 124 người Mỹ bị chết, khiến cho vào mùa xuân năm 1917 Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Cùng với các binh sĩ Mỹ là các đồ tiếp tế, quân trang quân dụng và thực phẩm. Trên bình diện quân sự tuy không tiến xa hơn, nhưng Đức và Áo xem ra còn vững. Nhưng trên bình diện kinh tế thì vô cùng thảm hại, vì đồng ruộng bị bỏ hoang không có người canh tác, thiếu nhiên liệu, thực phẩm, cả đến phần ăn của binh sĩ cũng bị hạn chế. Sau các nỗ lực cuối cùng tấn công mà không chiến thắng, tháng 11 năm 1918 Áo ký thỏa hiệp ngưng bắn với Italia, và Đức xin cầu hòa. Các vụ nổi loạn của dân chúng đã khiến cho hai hoàng đế Áo và Đức phải từ chức.

Chính trong bối cảnh chiến tranh trên đây ngày mùng 3 tháng 9 năm 1914 Đức Hồng Y Giacomo Della Chiesa, Tổng Giám Mục Bologna, được bầu làm Giáo Hoàng, lấy tên là Biển Đức XV. Vụ bầu cử đã diễn ra giữa tiếng bom đạn của Đệ Nhất Thế Chiến, mà Đức tân Giáo Hoàng định nghĩa là một ”tai ương vô ích”. Trong hơn 7 năm làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha Biển Đức XV tìm cách ngăn chặn cuộc xung khắc, hăng say tái phát động các tương quan với miền nam thế giới và Viễn Đông, công bố Bộ giáo luật mới, giảm các giọng điệu của phong trào duy tân tiến, tái tổ chức việc truyền giáo, và ủng hộ tín hữu công giáo trong cuộc sống chính trị. Nhưng hoạt động lớn nhất của ngài là hoạt động cho hòa bình.

Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Massimo Mancini, giáo sư Lịch sử Giáo Hội phân khoa Thần Học Triveneto Venezia bắc Italia, về hoạt động của Đức Thánh Cha Biển Đức XV cho hòa bình.

Hỏi: Thưa cha Mancini, trong lịch sử Giáo Hội thuộc thế kỷ XX gương mặt của Đức Thánh Cha Biển Đức XV xem ra là một gương mặt lu mờ, ít đựơc biết tới, có đúng thế không?

Đáp: Đức Biển Đức XV là một vị Giáo Hoàng đã sống trong các hoàn cảnh khó khăn, khi Tòa Thánh chưa được thừa nhận trên bình diện quốc tế, nhưng ngài đã thành công trong việc là một đối tác có giá trị và hữu hiệu bên cạnh các quốc gia hùng mạnh để đi tới hòa bình. Cả khi hòa bình đã chỉ tới sau bốn năm chiến tranh. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV mời gọi mọi dân tộc lâm chiến làm hòa với nhau. Ngài đã không bênh vực bên nào hết, và đây là một khía cạnh sẽ bị nhiều người chỉ trích. Nhưng Đức Biển Đức XV biết rằng nhiệm vụ của ngài là cha của tất cả mọi kitô hữu, là đưa mọi người tới hòa bình, mà không ủng hộ nước nào cả. Và điều này đã không được người ta hiểu.

Hỏi: Đã không chỉ có các lời kêu gọi hòa bình, nhưng nhờ kinh có nghiệm ngoại giao Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV tìm mọi cách để giải quyết các xung khắc, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Đúng thế, một mặt ngài lo cống hiến sự trợ giúp cho tất cả những người bị thiệt hại bởi chiến tranh chừng nào có thể. Mặt khác sau ba năm chiến tranh đẫm máu và thê thảm Đức Biển Đức XV đã đưa ra một đề nghị và gửi một văn thư ngoại giao cho tất cả các cường quốc lâm chiến, bằng cách chỉ cbo họ thấy các giải pháp cho các vấn đề cụ thể. Nhưng lời đề nghị cụ thể của ngài bị các cường quốc khước từ, ngoại trừ vua Carlo I của nhà Asburgo. Chắc chắn đó đã không phải là một chiến thắng, nhưng là một thời điểm tiên tri lớn từ phía Đức Giáo Hoàng.

Hỏi: Liên quan tới công tác truyền giáo, Đức Biển Đức XV cũng đã để lại dấu vết hoạt động của ngài, có đúng thế không thưa giáo sư?

Đáp: Vâng, với Tông thư ”Maximum illud” công bố ngày 30 tháng 11 năm 1919 Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV đã trao ban cho công tác truyền giáo một sức đẩy mới, băng cách tìm thực hiện chương trình của một hàng giáo sĩ địa phương. Như thế các giám mục, linh mục là những người dân bản địa, một việc truyền giáo không gắn liền với chế độ thực dân của các cường quốc âu châu, nhưng để cho nổi bật lên các tài gnuyên và nhân lực của các dân tộc địa phương cần được rao truyền Tin Mừng, cho một sứ điệp thực sự tin mừng.

Hỏi: Đức Biển Đức XV đã là một vị Giáo Hoàng canh tân nhìn xa thấy rộng liên quan tới cả sự dấn thân của tín hữu công giáo trong lãnh vực chính trị nữa, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV cũng là một người rất chú ý tới sự hiện diện của tín hữu công giáo trong lãnh vực chính trị tại các nước khác nhau. Trước tiên là tại Italia ngài đã ủng hộ việc thành lập Đảng nhân dân mới Italia của linh mục Luigi Turzo. Đây là đảng phái chính trị đầu tiên tại Italia có nguồn hứng công giáo. Dưới triều đại của Đức Biển Đức XV cũng đã có các thương thảo ngầm để đem lại giải pháp cho ”Vần đế của Roma” đã kéo dài hàng chục năm trời và là nguyên do xung khắc giữa Italia và Tòa Thánh.

(RG 29-6-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Angelus với ĐTC: Chia sẻ gánh nặng cho nhau

Angelus với ĐTC: Chia sẻ gánh nặng cho nhau

Kính thưa quý vị thính giả,

Trong hai tháng hè 7 và 8 này, nhiều hoạt động của Đức Thánh Cha đã bị hủy bỏ, nhưng ngài vẫn muốn giữ lại giờ đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hành hương tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào trưa Chúa Nhật hàng tuần. Chia sẻ với các tín hữu hôm Chúa Nhật 6.7 vừa qua, Ngài đã lấy cảm hứng từ bài Tin Mừng, trong đó có lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hỡi tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đức Thánh Cha nói rằng, lời mời gọi này của Đức Giêsu dành cho hết thảy mọi người, xưa cũng như nay, giàu cũng như nghèo, nhưng đặc biệt, Đức Giêsu dành cho những ai đang chịu đau khổ nhất.

Ngài cũng chia sẻ thêm rằng khi mang lấy ách của Chúa theo lời mời gọi của Ngài, chúng ta cũng phải trở nên những con người biết chia sẻ gánh nặng với anh chị em mình, trở thành người mang đến cho họ niềm an ủi.

Ngài nói:

“Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, chúng ta nghe thấy lời mời gọi của Đức Giêsu. Ngài nói: "Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11,28). Khi Đức Giêsu nói điều này, đang hiện diện trước mắt Ngài là những con người mà Ngài gặp gỡ hàng ngày trên đường đi lên Galilea: rất nhiều người đơn sơ, người nghèo, bệnh nhân, tội nhân, người bị gạt ra bên ngoài xã hội… Những con người này thường đi theo Ngài để nghe lời Ngài – lời trao ban hy vọng! Những lời của Đức Giêsu luôn trao ban niềm hy vọng! Họ cũng muốn chỉ cần chạm vào vạt áo của Ngài. Chính Đức Giêsu cũng đã đi tìm những đám đông mệt mỏi và bất lực như đàn chiên không có người chăm sóc này (x. Mt 9,35-36) và Ngài tìm họ để rao giảng cho họ biết về Nước Chúa và để chữa lành nhiều người trong số họ về thể xác cũng như tinh thần. Bây giờ, Ngài mời gọi hết thảy họ hãy đến với mình: "Hãy đến với tôi" và Ngài hứa ban cho họ nghỉ ngơi và bồi dưỡng.”

Đức Thánh Cha giải thích rằng:

“Lời mời gọi này của Đức Giêsu nới rộng cho đến chúng ta ngày nay, vươn đến nhiều anh chị em đang bị đè nặng bởi những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, bởi những tình huống sinh tồn vất vả và nhiều khi chẳng có giá trị gì để nhắc tới. Trong những quốc gia nghèn nàn hơn, mà thậm chí nơi những vùng ngoại ô của những nước giàu, ta vẫn có thể tìm thấy nhiều người mệt mỏi và bất lực dưới sức nặng không thể chịu nỗi của việc bị bỏ rơi và sự hờ hững. Sự hờ hững: hờ hững của con người đối với những người thiếu thốn thật tệ hại biết bao! Tệ hại hơn, sự hờ hững của các Kitô hữu! Những người ở bên lề xã hội là những người nam nữ bị cái nghèo hành hạ, nhưng cũng có khi bị chính sự bất mãn của cuộc sống và sự hụt hẫng. Nhiều người bị buộc phải tỵ nạn khỏi quê cha đất tổ của mình, đánh liều chính cuộc sống của mình. Nhiều người hơn nữa mỗi ngày phải mang gánh nặng của một hệ thống kinh tế bóc lột con người, đè nặng trên họ cái "ách" không thể vác nỗi mà số ít những người có đặc lợi không muốn mang. Đức Giêsu nói với từng người con của Cha trên trời rằng: "Hãy đến với Ta, hỡi tất cả". Nhưng Ngài cũng nói điều này với những ai sở hữu nhiều thứ mà trong con tim của họ trống trơn, không có Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng gửi gắm đến những người này: "Hãy đến với ta". Lời mời gọi của Đức Giêsu dành cho tất cả. Nhưng cách đặc biệt, Ngài dành cho những ai đang đau khổ nhất.”

Đức Thánh Cha nói thêm rằng:

“Đức Giêsu hứa cho tất cả mọi người được nghỉ ngơi nhưng Ngài cũng trao ban cho chúng ta một lời mời gọi nữa, lời mời gọi nhưng cũng giống như một mệnh lệnh: "Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29). "Ách" của Chúa bao gồm cả việc giúp chia sẻ gánh nặng với người khác bằng tình yêu huynh đệ. Cứ mỗi khi nhận được sự nghỉ ngơi và êm ái nơi Đức Kitô, chúng ta cũng được mời gọi để trở nên sự nghỉ ngơi và êm ái cho anh chị em mình, với thái độ hiền lành và khiêm nhường, noi gương Thầy Chí Thánh. Sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng giúp chúng ta không chỉ chia sẻ gánh nặng của người khác nhưng còn không đè nặng lên họ quan điểm cá nhân, phán đoán, phê bình và sự hờ hững của chúng ta nữa.”

Cuối cùng, Ngài mời gọi người hãy hướng lòng về Mẹ Maria:

“Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Rất Thánh, đón nhận dưới tà áo mẹ tất cả những ai mệt mỏi và bất lực để nhờ đức tin tỏa sáng, được chứng thực trong cuộc sống, chúng ta có thể trở thành nơi nghỉ ngơi cho những ai đang cần giúp đỡ, cần sự hiền lành và niềm hy vọng.”

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

“Hãy học cùng Ta…”

"Hãy học cùng Ta…"

Cuối mỗi cấp, học sinh hoặc sinh viên phải thi lấy bằng tốt nghiệp ra trường, gọi là tốt nghiệp trung học, tốt nghiệp đại học. Không biết có ai đã dùng từ tốt nghiệp cho những người học Giáo Lý, Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân không, nhưng hình như mới đây, hai từ “tốt nghiệp” cũng dành cho những Đại Chủng Sinh hoàn tất chương trình Đào Tạo Linh Mục tại các Đại Chủng Viện.

Thiết tưởng, ấy cũng chỉ là chuyện từ ngữ theo cách của xã hội mà thôi.

Điều quan trọng ở chỗ: học không phải chỉ để tốt nghiệp, càng không phải để lấy bằng tốt nghiệp, nhưng là để có một cuộc biển đổi nên người trưởng thành. Học sinh nên người trưởng thành là có ý thức và trách nhiệm về tư tưởng, lời nói việc làm của mình. Cũng vậy, người học Giáo Lý nên người trưởng thành, ấy là có ý thức chuẩn xác về ơn gọi được làm con cái Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và có trách nhiệm sống cho ra người con của Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến chữ “học”: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.

Trong Tin Mừng, tất cả những câu mệnh lệnh của Chúa Giêsu đều nói đến việc “làm”, như: “Hãy tin”, “hãy từ bỏ”, “hãy cầu nguyện”, “hãy tha thứ”, “hãy yêu nhau”… “Đừng thù oán”, “đừng lên án”… Và chỉ có một câu duy nhất này, Chúa bảo “hãy học”.

Như vậy, hẳn là môn học mà Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy học, ấy là môn học quan trọng lắm. Đã vậy Chúa lại bảo “hãy học cùng Ta”, không học ở nơi thầy nào khác, cho thấy rằng chỉ có Chúa Giêsu mới xứng đáng là thầy dạy môn học nầy. Môn học đó là “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.

Hãy học cùng Chúa Giêsu, vì Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

Quả thật, chỉ có Chúa Giêsu mới là người hiền lành kiểu mẫu, hiền lành đến mức chấp nhận thương tích mà không đánh trả, hay báo thù; hiền lành vì yêu và yêu cả người phản bội, sỉ nhục, thóa mạ hay hành hung tàn nhẫn… đúng như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Người hiến thân vì Người tình nguyện và không mở miệng như con chiên hiền lành bị đem đi giết, và như chiên non trước mặt người xén lông, Người thinh lặng chẳng hé môi” (Is 53, 7). Và Thánh Vịnh 30 mô tả chân dung của Chúa Giêsu: “Con đã nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi, thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa” (Tv 30).

Sự hiền lành ấy còn mang nét đẹp trung tín đến ngàn đời, không có gì thay đổi được bản tính “hiền lành, hay thương xót” của Thiên Chúa Cha, phản chiếu nơi Chúa Giêsu, Người Con chí ái. Ấy vậy, Ngôn Sứ Giêrêmia nói: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi” (Gr 11, 19).

Chỉ có Chúa Giêsu mới là người khiêm tốn, như Ngôn Sứ Dacaria ca tụng: “Này vua ngươi đến với ngươi. Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ” (Dcr 9, 9).

Và Thánh Tông Đồ Phaolô còn khẳng định lòng khiêm nhượng của Chúa Giêsu sâu thẳm đến mức không giữ cho mình địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng lại khiêm hạ vâng phục Thiên Chúa Cha mọi đàng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)

Bài học “hiền lành và khiêm nhượng” của Chúa Giêsu quả là một bài học khó nuốt, vì có vẻ như bài học ấy muốn dẫn học viên đến cái chết vì yêu, như Ngài đã chết vì yêu vậy. Hơn nữa, lại không thấy Chúa nói gì đến lễ tốt nghiệp, hay được vinh quang gì khi tốt nghiệp.

Thực ra, Chúa đã nói đến lễ tốt nghiệp ấy rồi: “và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.

Chúa muốn chúng ta được bình an trong cuộc đời. Bình an có một giá trị lớn lao trong đời sống con người, vì khi có bình an hồn xác, ta mới có được hạnh phúc. Bình an là kết quả của lòng hiền lành khiêm nhượng, vì Chúa biết khi không có lòng hiền lành và khiêm nhượng thì chỉ chuốc lấy đau khổ, khó nhọc và gánh nặng.

Vì muốn chúng ta được bình an, Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đến và học cùng Ngài: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Nhìn lại cuộc sống chúng ta, quả là đang khó nhọc và gánh nặng.

Khó nhọc, gánh nặng là vì chưa khiêm nhượng trong lòng đủ để có thể ký thác đường đời cho Chúa, lại ảo tưởng với trí tuệ, khả năng, sự khôn khéo của mình có thể giải quyết mọi vấn đề để mang lại cho mình bình an hạnh phúc.

Khó nhọc và gánh nặng là vì không đủ hiền lành nhẫn nhịn chấp nhận sự thua kém, lại nông nổi lao mình vào chỗ tranh chấp hơn thua để chuốc lấy cái mất bình an cứ dày vò, đày đọa tâm hồn.

Khó nhọc và gánh nặng cho nhau trong cuộc đời, là vì không đủ hiền lành và khiêm tốn nhìn nhận mỗi sự hiện diện của người bạn đời, của tha nhân, kể cả của người nghèo hèn thấp kém, mất tư cách, mất phẩm hạnh… đều có thể mang lại cho ta một hồng ân quí giá của Thiên Chúa.

Khó nhọc và gánh nặng vì lòng tự phụ, vì tính chủ quan của người lớn hoặc tự cho mình là lớn, hoặc chỉ thích “chức” quyền, mà không chấp nhận thi hành nhiệm “vụ”, chắc chắn sẽ có lúc vấp ngã trên đường đời, để lộ chân tướng dối trá của lòng mình ra cho thiên hạ đàm tiếu.

Khó nhọc và gánh nặng là vì mình đành lòng chấp nhận làm nô lệ cho những đam mê xác thịt hay hư nát này: hư danh, lạc thú, giàu sang, hưởng thụ…dẫn đến sự suy sụp tinh thần, kiệt quệ sức lực, mất cả ý chí nghị lực trong cuộc đời.

Thánh Phaolô khuyến cáo: “Chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động xấu xa của thân xác, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8, 11 – 13).

Vâng, chính những món nợ xác thịt làm cho chúng ta ra khó nhọc và gánh nặng, ra đau khổ và mất bình an. Món nợ hư danh, món nợ nhục dục, món nợ của cải phù vân, món nợ hưởng thụ. Như tâm sự của một tác giả:

…Tôi đã vay của trần gian,

mấy ngàn mảnh hữu danh vô thực

Tôi đã mượn của thân xác phù vân,

những thoáng mơ màng hạnh phúc

Tôi phải trả cho người,

bằng sự nô lệ cả đời tôi

Tôi phải trả cho phù vân,

bằng sự chết nghìn thu tan tác.

Có còn được nghe niềm bình an ca hát

Nơi vực thẳm lòng kiêu ngạo của tôi ?

Ôi ! Đức Khiêm Hạ trên cao vời

Hãy nhỏ xuống lòng tôi,

mấy giọt ân tình lòng thứ tha, thương xót

một kiếp đời không chịu học Chúa Giêsu.

(Tuyết Mai Texas)

Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta sống “hiền lành và khiêm nhượng” theo gương Ngài, không phải để chúng ta phải chết, nhưng là để chúng ta được vinh dự chết cái tôi kiêu hãnh, cái tôi mặt dày mặt dạn của mình, cái tôi khó từ bỏ của mình để sống cho người khác được sống; để chúng ta cất được những khó nhọc, những gánh nặng do làm nô lệ tính xác thịt của mình; và cuối cùng, là để tâm hồn chúng ta được bình an.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng trong lòng, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, tin tưởng Chúa và học cùng Chúa sự hiền lành khiêm nhượng, để chúng con được thanh thản, bình an, hạnh phúc trong Chúa luôn. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

Hiền lành

Hiền lành

Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người chung quanh.

Quả thực, Chúa Giêsu đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn: “Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.

Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.

Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác xuống.

Cũng thế, người hiền lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.

Lại nữa, bao lâu còn là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập tha thứ.

Có lẽ tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương mẫu hiền lành của Ngài.

Sưu tầm

Khóa họp thứ 5 của Hội đồng Hồng Y cố vấn của Đức Giáo Hoàng

Khóa họp thứ 5 của Hội đồng Hồng Y cố vấn của Đức Giáo Hoàng

VATICAN. Khóa họp thứ 5 của Hội đồng Hồng Y cố vấn của ĐTC về việc cải tổ giáo triều Roma đang tiến hành tại Vatican từ ngày 1 đến 4-7-2014.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 2-7-2014, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết ĐTC tham dự tất cả các phiên họp của Hội đồng và hiện nay Hội đồng gồm 9 Hồng Y thành viên, thay vì 8 vị như khi mới thành lập, vì ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nay cũng là thành viên trọn vẹn của Hội đồng.

Trong khóa họp này, Hội đồng bàn về việc cải tổ Phủ Thống đốc Quốc gia thành Vatican, Phủ Quốc vụ khanh và các Hội đồng của Tòa Thánh. Hiện nay Hội đồng còn ở giai đoạn trao đổi và nghiên cứu thông tin về các cơ quan này và chưa thể nói là có một dự thảo Hiến chế mới thay thế Hiến Chế Pastor Bonus (Mục Tử Nhân Lành) có từ năm 1988 và hiện còn giá trị liên quan đến các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Ngoài ra, Hội đồng cũng bàn về Viện Giáo Vụ (IOR), quen gọi là ngân hàng Vatican. Khi bàn về vấn đề này, cũng có sự tham dự của Hội đồng các HY giám sát viện giáo vụ.

Về những tin tức gần đây cho rằng chủ tịch viện giáo vụ là Ông Ernst von Freyberg, người Đức, sắp từ chức sau 17 tháng tại nhiệm, Cha Lombardi tuyên bố rằng: ”Viện Giáo Vụ đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp và phát triển, và ở trong sự thanh thản. Sự đóng góp của ông Ernst vonFreyberg tiếp tục được đánh giá rất cao và được coi là rất tích cực. Việc làm sáng tỏ hơn là điều rất có thể, vì sắp có cuộc họp của Hội đồng Kinh tế của Tòa Thánh vào ngày 5-7-2014, và cũng sẽ bàn về qui chế của viện IOR. (SD 2-7-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho Đức Cha Bùi Văn Đọc và 23 Tổng Giám Mục chính tòa

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho Đức Cha Bùi Văn Đọc và 23 Tổng Giám Mục chính tòa

VATICAN-POPE-MASS-PALLIUM

VATICAN. Lúc 9 giờ 30 sáng chúa nhật 29-6-2014, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể mừng kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, và trao dây Pallium cho 24 vị TGM chính tòa, trong đó có Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM Sàigòn.

24 vị TGM đến từ 22 quốc gia, trong đó có 6 vị từ Á châu là Việt Nam, Ấn độ, Pakistan, Indonesia, 2 vị Philippines. Từ Mỹ có Đức Cha Leonard Paul Blair, TGM giáo phận Hartfort (CT).

Ngoài ra có 3 vị TGM không đến được và xin nhận dây Pallium tại giáo phận thuộc quyền, do vị Đại diện Tòa Thánh trao.

Dây Pallium là một dây làm bằng lông chiên màu trắng, bề ngang chừng 5 centimét, có 6 hình thánh giá kết bằng tơ màu đen, được đeo ở cổ, có 2 giải ngắn một ở phía trước ngực và một ở phía sau lưng. Dây này biểu tượng quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh và tượng trưng tình hiệp thông với Đấng kế vị thánh Phêrô.

Đồng tế thánh lễ có 50 HY, 70 GM và 350 Linh mục tất cả đều trong phẩm phục màu đỏ, cùng với trên 8 ngàn tín hữu, trong đó có 7 người thuộc phái đoàn Đức TGM Sàigòn, đặc biệt là chị ruột của ngài là bà Bùi Thị Hữu.

Ở chỗ danh dự trước bàn thờ chính có phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople do Đức TGM Loannis hướng dẫn.

Nơi hông bên phái Đền thờ, tượng thánh Phêrô bằng đồng đen được mặc phẩm phục là áo choàng mầu đỏ, theo một thói quen rất cổ kính.

Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn ca đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Nga, và ca đoàn ”Mẹ Giáo Hội” ở Roma.

Trao dây Pallium

Nghi thức trao dây Pallium thật đơn sơ và diễn ra vào đầu thánh lễ. 4 Phó tế xuống mộ Thánh Phêrô để mang 27 dây Pallium lên cạnh bàn thờ chính để ĐTC chuẩn bị làm phép.

ĐHY Renato Martino, tân Trưởng Đẳng Phó Tế, giới thiệu các vị TGM chính tòa lên ĐTC và xin ngài trao dây Pallium cho các vị. ĐHY cũng nhắc đến 3 vị TGM không thể đến Roma được và xin được nhận dây Pallium này trong giáo phận thuộc quyền, từ vị Đại diện Tòa Thánh, đó là các vị TGM giáo phận Lilongwe bên Malawi Phi châu, Mandaly bên Myanmar và Đức Cha Stepan Burger, thụ phong TGM cùng ngày hôm qua ở Freiburg im Breisgau bên Đức, nên không thể đến dự.

Kế đến các TGM tuyên thệ luôn trung thành và vâng phục Thánh Phêrô Tông Đồ, Tòa Thánh, Giáo Hội, ĐTC và các Đấng Kế vị hợp pháp.

ĐTC đọc công thức làm phép các dây Pallium, xin Thiên Chúa là Đấng đã đặt Con của Ngài làm Mục Tử nhân lành chăn dắt Giáo hội là đoàn chiên của Chúa đổ tràn đầy ơn lành trên các dây Pallium và trên các tân TGM, nhờ ơn Chúa, sẽ đeo dây này, để được nhìn nhận như những Mục Tử đoàn chiên Chúa, và biểu lộ trong cuộc sống của mình thực tại ý nghĩa của dây nay. Xin cho các vị Mục Tử này nhận lấy ách Tin Mừng đặt trên vai mình và ách ấy trở nên dịu dàng để các vị đi trước người khác trong việc sống các giới răn của Chúa, nêu gương trung thành kiên trì, cho đến khi đáng được đưa vào đồng cỏ vĩnh cửu trong nước Chúa.

ĐTC cũng đọc công thức trong đó có đoạn nói rằng: ”Ước gì giây Pallium này, đối với anh em, là biểu hiệu sự hiệp nhất và là dấu chỉ sự hiệp thông với Tòa Thánh, là mối giây bác ái và là một khích lệ can đảm mạnh mẽ để trong ngày Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, vua của các Mục Tử, đến và tỏ hiện, anh em cùng với đoàn chiên được ủy thác cho anh em, có thể được mặc lấy áo của sự bất tử và vinh quang”.

Tiếp đến từng vị tân TGM tiến lên quỳ trước mặt ĐTC để ngài đeo dây Pallium cho. Sau cùng, Đức TGM Ilsonde Jesus Montanari, người Brazil, Tổng thư ký Bộ Giám Mục, đã tiến lên trước mặt ĐTC để nhận các dây Pallium còn lại để chuyển tới các vị TGM vắng mặt.

Bài giảng Thánh Lễ

Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào bài đọc sách Tông Đồ Công Vụ, ĐTC quảng diễn sự kiện thánh Phêrô được Chúa giải thoát khỏi mọi sợ hãi và ngài mời gọi các vị Mục Tử và tín hữu tín thác và theo Chúa. Ngài nói:

Trong ngày lễ trọng kính thánh Phêrô và Phaolô, bổn mạng chính của Roma, chúng ta vui mừng và biết ơn đón tiếp Phái đoàn do Đức Thượng Phụ chung, người anh em đáng kính và quí mến Bartolomeo gửi đến, và được Đức TGM Ioannis hướng dẫn. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho cuộc viếng thăm này có thể củng cố các mối giây huynh đệ của chúng ta trong hành trình tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn giữa hai Giáo Hội anh em, mà chúng ta rất mong ước.

”Chúa đã sai thiên thần của Ngài và giải thoát tôi khỏi tay Hêrôđê” (Cv 12,11). Vào đầu sứ vụ của Phêrô trong cộng đồng Kitô ở Jerusalem, vẫn còn một sự sợ hãi lớn vì những bách hại của vua Hêrôđê chống lại một số thành phần của Giáo Hội. Thánh Giacôbê đã bị giết và giờ đây chính thánh Phêrô cũng bị cầm tù để làm hài lòng dân chúng. Trong khi thánh nhân bị giam trong ngục và bị xiềng xích, Người nghe tiếng thiên thần nói: 'Hãy đứng lên! .. thắt lưng và đi dép vào… mặc áo và theo tôi!” (Cv 12,7-8). Xiềng xích rơi xuống và cửa nhà tù tự động mở ra. Phêrô nhận thấy rằng mình được Chúa giải thoát khỏi sợ hãi và xích xiềng. Đúng vậy, Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi và mọi xiềng xích để chúng ta có thể thực sự tự do. Buổi lễ hôm nay diễn tả thật rõ thực tại ấy với những lời trong điệp khúc trong thánh vịnh đáp ca: ”Chúa đã giải thoát tôi khỏi mọi sợ hãi”.

Đây là vấn đề đối với chúng ta ngày nay: sợ hãi và những nương náu mục vụ.

Anh em GM thân mến, tôi tự hỏi: chúng ta có sợ hãi hay không? Chúng ta sợ cái gì? và nếu có sợ thì đâu là nơi nương náu chúng ta tìm kiếm trong đời sống mục vụ để được an toàn chắc chắn? Phải chăng chúng ta tìm kiếm sự hỗ trợ của những người quyền lực trần thế? Hoặc chúng ta để cho mình bị lừa đảo vì kiêu ngạo tìm kiếm những thỏa mãn và ca tụng, tuyên dương, và chúng ta tưởng sẽ được an toàn như thế? Chúng ta đặt an ninh của chúng ta ở đâu?

ĐTC nói tiếp:

”Chứng từ của thánh Phêrô Tông Đồ nhắc nhở chúng ta rằng nơi nương náu đích thực của chúng ta là lòng tín thác nơi Thiên Chúa: lòng tín thác ấy đẩy xa mọi sợ hãi và làm cho chúng ta được giải thoát khỏi mọi nô lệ và cám dỗ trần tục. Ngày nay, GM Roma và các GM khác, đặc biệt là các vị TGM đã nhận dây Pallium, cảm thấy được gương của thánh Phêrô gọi hỏi hãy kiểm chứng lòng tín thác nơi Chúa.

Thánh Phêrô tìm lại được niềm tín thác khi Chúa Giêsu ba lần nói với Người: ”Hãy chăn các chiên của Thầy” (Ga 21.15.16.17). Và đồng thời, thánh nhân, Simon, ba lần tuyên xưng lòng yêu mến đối với Chúa Giêsu, qua đó thánh nhân chữa lành ba lần chối Chúa trong cuộc khổ nạn. Phêrô còn cảm thấy bị thiêu đốt trong tâm hồn vì vết thương làm cho Chúa đau buồn trong đêm phản bội. Giờ đây Chúa hỏi thánh nhân: ”Con có yêu mến Thầy không?”. Phêrô không tín thác nơi bản thân và sức riêng của mình, nhưng nơi Chúa Giêsu và lòng từ bi của Ngài: ”Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự; Chúa biết con rất mến Thầy” (Ga 21.17). Và thế là sợ hãi, tình trạng bất an và nhút nhát biến mất.

”Phêrô đã nghiệm thấy rằng lòng trung tín của Thiên Chúa lớn hơn những bất trung của chúng ta và mạnh mẽ hơn những chối bỏ của chúng ta. Người nhận thấy rằng lòng trung tín của Chúa xua tan sợ hãi của chúng ta và vượt lên trên mọi tưởng tượng của con người. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta: ”Con có mến Thầy không?” Chúa hỏi như thế vì Ngài biết những sợ hãi và cơ cực của chúng ta. Phêrô chỉ đường cho chúng ta: hãy tín thác nơi Chúa, Đấng 'biết mọi sự' về chúng ta, Chúa tin tưởng không phải nơi khả năng trung thành của chúng ta đối với Ngài, nhưng về lòng trung tín không thể lay chuyển của Ngài. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi chúng ta, vì Ngài không thể chối bỏ chính mính (Xv 2 Tm 2,13). Lòng trung tín – mà Thiên Chúa không ngừng khẳng định cả với các Mục Tử chúng ta, vượt lên trên những công trạng của chúng ta, – chính là nguồn mạch lòng tín thác và an bình của chúng ta. Lòng trung tín của Chúa đối với chúng ta luôn khơi lên nơi chúng ta ước muốn phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em trong tình bác ái.

Tình yêu của Chúa Giêsu phải đủ cho Phêrô. Thánh nhân không được chiều theo cám dỗ tò mò, ghen tương, như khi thấy Gioan ở cạnh, thánh nhân hỏi Chúa Giêsu: ”Lạy Chúa, anh ấy sẽ ra sao?” (Ga 21,21). Chúa trả lời Phêrô: ”Điều ấy có hệ gì đến con? Phần con hãy theo Thầy” (Ga 21,22).

Và ĐTC kết luận rằng:

”Hỡi các anh em TGM quí mến, kinh nghiệm này của Phêrô là một sứ điệp quan trọng cho cả chúng ta ngày nay. Hôm nay Chúa cũng lập lại với tôi, với anh em, và với tất cả các Mục Tử: Hãy theo Thầy! Đừng mất thời giờ trong những câu hỏi hoặc những chuyện tầm phào vô ích; đừng dừng lại ở những điều phụ thuộc, nhưng hãy nhìn điều cốt yêu và theo Thầy. Hãy theo Thầy mặc dù có những khó khăn. Hãy theo Thầy trong việc rao giảng Tin Mừng. Hãy theo Thầy trong cuộc sống chứng tá tương ứng với hồng ân phép rửa tội và truyền chức thánh. Hãy theo Thầy khi nói về Thầy với những người anh em đang sống, ngày qua ngày, trong những cơ cực cảu công việc, đối thoại và tình thân hữu. Hãy theo Thầy trong việc loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, nhất là những người rốt cùng, để không một ai bị thiếu Lời Sự Sống, giải thoát khỏi mọi sợ hãi và mang lại lòng tín thác nơi lòng trung tín của Thiên Chúa”.

Các lời nguyện giáo dân đã được xướng lên bằng các thứ tiếng Nga, Bồ đào nha, tiếng Hoa, Pháp, và tiếng Yoruba ở miền tây nam Nigeria và tây Phi châu, lần lượt cầu nguyện cho Giáo Hội, cho tân TGM nhận dây Pallium, cho các dân tộc trên trái đất và các nhà cầm quyền, người nghèo, bệnh nhân, những người lẻ loi và đau khổ, sau cùng là cho toàn thể các tín hữu Kitô.

Thánh lễ kéo dài 1 giờ 40 phút và kết thúc lúc 11 giờ 10, với bài ca: ”Chúng con chạy đến nương náu nơi sự bảo trợ của Mẹ Thiên Chúa:

ĐTC đã cùng với vị TGM trưởng Phái đoàn chính thống Constantinople xuống cầu nguyện tại Mộ của Thánh Phêrô Tông Đồ và trước tượng thánh nhân bên hông Đền Thờ.

Sau đó, ngài về dinh tông tòa và lúc 12 giờ trưa, ngài xuất hiện tại cửa sổ lầu 3 để chủ sự buổi đọc kinh truyền tin chung với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quang trường thánh Phêrô.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO CHÚA

TỪ BỎ MỌI SỰ MÀ ĐI THEO CHÚA

Chúa Giêsu đã nói với những người muốn theo Ngài: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Lời Chúa là một đòi hỏi thật mãnh liệt và sâu xa đối với mọi Kitô hữu. Thế nhưng, con đường theo Chúa không phải cứ phẳng lì như mặt nước. Cuộc hành trình theo Đức Kitô có những lúc thật êm xuôi nhưng có những lúc thật dậy sóng.Chúa nói những điều trên để môn đệ của Chúa luôn ý thức việc theo chúa đòi hỏi môn đệ phải biết từ bỏ, quảng đại và hy sinh.

Cuộc hành trình theo Đức Kitô có thể gọi nôm na là một cuộc hải hành. Trong cuộc hải hành đức tin, thực tế có những lúc người môn đệ cảm thấy êm xuôi, lặng lẽ, tuy nhiên, có lần Chúa đã từng nói: “Hãy đến mà xem” và Ngài cũng đã từng nói trắng với những người muốn theo Ngài : “Chồn có hang.Chim có tổ. Con người không đá gối đầu”. Nói lên thực tế như vậy, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải bám chặt vào Ngài, phải sống thanh thản và đặt dưới sự quan phòng của Ngài.Trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay Chúa Giêsu kết thúc bài giảng nói về truyền giáo. Chúa nói với các Tông đồ và qua các Tông đồ, Ngài nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả để đi theo làm môn đệ của Chúa. Sự từ bỏ mà Chúa nói, đòi hỏi các môn đệ một cách thật nghiêm túc, và sâu xa đến nỗi muốn theo Ngài: “Phải vác Thập giá mà theo Ngài”. Thập giá là điều khó khăn, thử thách mà người môn đệ phải phấn đấu, hy sinh và quảng đại để làm theo ý Chúa, theo ý Cha của Ngài như Ngài đã vâng phục Cha để chết trên thập giá mà cứu độ gian trần, cứu độ con người. Ngài nói tiếp : “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mắt mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Chúa muốn các môn đệ của Ngài khi đã chọn Ngài thì phải liều mình, đến nỗi nếu cần phải hiến dâng cả mạng sống để làm chứng cho Ngài. Theo Chúa, làm môn đệ của Chúa quả thực đòi hỏi con người nhiều lắm. Theo Chúa để sống với Chúa luôn là một thách thức đối với người tín hữu. Bởi vì, những điều Chúa nói luôn là những đòi hỏi con người phải từ bỏ, phải quảng đại, phải hy sinh.

Chúa Giêsu hứa ban thưởng gấp bội cho những ai đã thực hành điều Ngài muốn, những điều Ngài đòi hỏi, yêu cầu. Tại sao Chúa lại đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có khác thường, có nghịch lý không ? Con đường theo Chúa đầy những nghịch lý và cái nghịch lý để theo chúa là từ bỏ tất cả : Cha mẹ, anh em, gia đình thân thương, gia tài, của cải, danh vọng và cả mạng sống của mình.Đó là nghịch lý lớn nhất để theo Chúa.

Làm môn đệ Chúa, ở lại và đi theo, sống với Chúa là phải từ bỏ vì Chúa đã sống như vậy, nghĩa là Ngài đã bỏ gia đình, bỏ tất cả để chỉ làm theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài đã sống thật thảo hiền với Chúa Cha và làm gương cho mọi người, cho nhân loại về sự từ bỏ. Không chỉ những người dấn thân, đi tu trong các Dòng tu, trong các Tu hội là phải từ bỏ. Nhưng người Kitô hữu cũng được Chúa mời gọi sống triệt để “đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy” và sống lời Chúa : “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy”. Trong cuộc sống hằng ngày giữa trăm ngàn bề bộn của công việc, gia đình, cha mẹ, anh em luôn là giằng co giữa người môn đệ Chúa với đòi hỏi của chúa Giêsu và sự gắn bó với Chúa. Rồi những giằng co giữa danh vọng, tiền tài, của cải với sự trung thành với bổn phận, với giới răn của Chúa.

Giữa những giằng co của tình cảm gia đình, những người thân thương, danh vọng,tiền tài, của cải, môn đệ của Chúa phải làm gì, phải chọn lựa làm sao? Lời Chúa ngày hôm nay sẽ giúp soi sáng, hướng dẫn để người môn đệ Chúa chọn lựa đúng và thực hành đúng!

Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai cột trụ của Giáo Hội Chúa. Thánh Phêrô là Vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu đức tin. Với việc tuyên tín của thánh Phêrô về Chúa Giêsu, là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống.Chúa Giêsu tỏ mình cho các Tông đồ và tuyên bố thiết lập Nước Thiên Chúa cụ thể trên thế giới, trên trần gian dựa trên nền tảng đá là các Tông đồ, đặc biệt là thánh Phêrô và sau này, khi trắc nghiệm tình yêu của thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội của Chúa. Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: “Hãy chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Ta”.

Lạy Chúa Giêsu, hai thánh Phêrô và Phaolô cùng các Tông đồ khác đã bỏ mọi mà theo Chúa, sống chết cho Chúa. Xin cho chúng con cũng biết từ bỏ để chúng con luôn làm theo ý Chúa như Chúa đã hoàn toàn làm theo ý Chúa Cha. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Chúa đòi hỏi người môn đệ những gì để theo Ngài ?
2. Tại sao môn đệ lại phải vác Thập giá mà theo Chúa ?
3. Thánh Phêrô và thánh Phaolô là ai ?
4. Tại sao khi Phêrô tuyên tín Chúa là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các Tông đồ và thiết lập Giáo Hội của Chúa ở trần gian này ?

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Hai Vì Sao Sáng

Hai Vì Sao Sáng

Bài ca nhập lễ vang lên hùng tráng trong ngày Lễ kính hai Thánh Tông đồ Phêrô, Phaolô : Hai vì sao sáng chói, lấp lánh trên bầu trời, ngời sáng đêm trường, rực rỡ soi đường sưởi ấm yêu thương.Hai tình yêu chiến thắng,ngất ngây trong cuộc đời,từ trái tim nồng dòng máu anh hùng ngời sáng muôn trùng.

Phêrô-Phaolô, hai vì sao sáng ngời chiếu toả ánh sáng Chúa Kitô cho nhân loại.Hai con người xuất thân khác nhau, tính cách khác nhau nhưng cùng một niềm tin, cùng một sứ mạng và cùng một vinh quang được đội triều thiên vinh hiển để trở thành hai vì sao sáng cho Giáo hội.

Còn nhớ hôm nào, người ba lần chối Giêsu. Còn nhớ ngày nào, người bắt Chúa trong căm thù”. Lời ca ngắn đúc kết phần một trong cuộc đời hai Ngài : chối Thầy, bắt Thầy. Nhưng cuộc đời phần hai đã viết nên những trang hào hùng oanh liệt. Nhờ tình yêu Chúa dẫn lối, hai Ngài cầm đuốc Tông đồ rao truyền Tin mừng cho thế giới.

Phêrô-Phaolô, hai cột trụ Giáo hội. Một vị được Đức Giêsu đặt làm đá tảng. Một vị được Đức Giêsu sai đi làm tông đồ dân ngoại. Cả hai vị đã làm được những việc lạ lùng giống như Thầy: chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỷ, cho người chết sống lại và cuối cùng cả hai được phúc tử đạo.

Phêrô-Phaolô, trước khi là thánh, hai vị cũng là người tội lỗi, yếu đuối, chập choạng trên con đường đức tin.Cả hai đều hăng say năng nổ, muốn dùng sức lực của mình và phương tiện thế gian để bảo vệ Chúa mình tôn thờ, và muốn tiêu diệt những kẻ không theo đạo giống mình. Chúa Giêsu đã cứu cả hai, mỗi người được cứu một cách. Chúa Giêsu không dùng một chút vốn liếng tài ba nào của Phaolô để xây dựng Giáo Hội, cũng như không thấy sự dốt nát hèn kém nào của Phêrô gây trở ngại cho việc thiết lập Giáo Hội.

Đọc lại cuộc đời của hai Thánh Tông đồ để nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.

1. Thánh Phêrô

Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời ông ra làm hai : cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy; phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.

Trong cuộc đời phần một của Phêrô, ông đi từ lỗi lầm này sang lỗi lầm khác.Cuối đời của Chúa,Chúa đã bị ông từ chối thê thảm (Mc 14,66-72).Gom nhặt những đoạn phúc âm nói về Phêrô, ta thấy mãnh đời của ông có nét chân dung thế này: là tông đồ bị Chúa mắng nhiều nhất.

– Mắng lần đầu tiên : Quân yếu tin (Mt 14,31)

– Lần thứ hai : Ngu tối (Mt 15,16)

– Lần thứ ba : Satan (Mc 8,33)

Khi Chúa bị bắt, bị kết án, Phêrô đã chối Thầy 3 lần. Phêrô chối Chúa vì quá yếu đuối chứ không phải vì không yêu Thầy.Trước cái chết, Phêrô rùng mình chối bỏ, tìm đường chạy trốn.Thế nhưng trước yếu đuối ấy, Phêrô đã khóc lóc nhớ lại lời Chúa nói về thân phận mình, ông oà khóc nức nở như một đứa bé với dòng lệ sám hối. Chúa đã nhìn ông bằng ánh mắt thứ tha trìu mến. Đời ông là giằng co giữa yếu đuối và dũng mảnh, giữa trọn vẹn và dang dỡ, giữa xa và gần, giữa trời và đất. Trái tim ông có u tối đi tìm ánh sáng, có nuối tiếc đi tìm lý tưởng. Đời ông có tự tin gặp vấp ngã, có phấn đấu gặp thất bại. Trong sự vấp ngã yếu đuối cuộc đời phần một của người môn đệ này vẫn có một tâm hồn chân thành.

Phần hai cuộc đời ông là một thiên anh hùng ca.Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Gioan (Ga 21,2-3). Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mù sương gió cho Nước Trời.

Sứ mạng theo Đức Kitô khởi đầu từ đây khi bảy anh em ra đi đánh cá, vất vả cả đêm mà không được gì. Đức Giêsu Phục sinh đến và ban cho họ mẻ cá lạ lùng.Chính Đấng Phục sinh đã hỏi: Phêrô, con có yêu mến Thầy không ? Phêrô đáp : Thưa Thầy,Thầy biềt rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy. Sau khi Phêrô trả lời câu hỏi ấy với tất cả chọn lựa cân nhắc, Chúa nói với ông : Thầy bảo cho anh biết lúc còn trẻ anh tự thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý.Nhưng khi đã về già,anh đã phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn tới nơi anh chẳng muốn. Phúc âm Gioan cắt nghĩa rõ con đường này là : Người nói như vậy có ý ám chỉ ông phải chết cách nào.Thế rồi Chúa bảo ông : hãy theo Thầy. Chỉ chờ đợi lời mời gọi này, Phêrô lập tức lên đường thực thi sứ mạng Thầy trao.Từ đây “trên tảng đá này Thầy xây Giáo hội của Thầy, cửa hoả ngục sẽ không thắng được”.Từ đây, những trang sử vẻ vang của Giáo hội sơ khai được viết nên bởi vị Tông đồ có lòng yêu mến Chúa thiết tha.

2. Thánh Phaolô

Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, chúng ta bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái-Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Cuộc đời phần một của Phaolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và trên đường Đamat truy lùng các Kitô hữu.

Được ơn trở lại trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô,Tông Đồ dân ngoại. Cuộc đời phần hai của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca.

Sách Công vụ tông đồ kể : trên đường Đamat, Phaolô rong ruổi trên yên ngựa hăng say truy bắt các Kitô hữu, thình lình, ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó.Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô.Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể.

Khi đã biết Chúa Kitô “những gì xưa kia tôi cho là có lợi,thì nay,vì Đức Kitô,tôi cho là thiệt thòi.Hơn nữa, tôi còn coi tất cả mọi sự là thiệt thòi,so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô,Chúa của tôi.Vì Ngài, tôi đành mất hết,và tôi coi tất cả như đồ bỏ,để được Đức kitô và được kết hợp với Người.Được như vậy,không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại,nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu ( Pl 3,7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người : “Vì anh em,phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô,thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gal 3,27-28).Vì Đức Kitô là “tất cả mọi sự và trong mọi người” (Col 3,11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô.Các mối phúc thật được kết tinh nơi cuộc đời thánh nhân. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cor 9,3-18 ; 2Cor 11,8-10), hạnh phúc vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những “… lao tù đòn vọt,bao lần suýt chết,năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một,ba lần bị đánh đòn,một lần bị ném đá,ba lần bị đắm tàu,một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi.Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi ‘phải thực hiện nhiều cuộc hành trình,gặp bao nguy hiểm trên sông,nguy hiểm do trộm cướp,nguy hiểm do đồng bào,nguy hiểm vì dân ngoại,nguy hiểm ở thành phố,trong sa mạc,ngoài biển khơi,nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc,thường phải thức đêm,bị đói khát,nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng” (2 Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù thường xuyên, có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ, có khi không khỏi nao núng: “anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta,cũng đừng hổ thẹn vì tôi,là kẻ bị tù vì Ngài”. Phaolô không hổ thẹn “vì tôi biết tôi đã tin vào ai …”(2 Tim 1,8-12).Vì Đức Kitô “tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi,nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích” (2Tim 2,9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình “ Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành” (2 Cor 12,9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin mãnh liệt ấy  “chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp;hoang mang nhưng không tuyêt vọng;bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi;bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt”(2 Cor 4,8-9).

Vị Tông đồ dân ngoại đã nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức “Khốn thân tôi,nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa,là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi”(Gal 2,20).

Vì Đức Kitô và vì Tin mừng, thánh nhân đã sống và chết cho sứ mạng. Cuộc sống buôn ba vì Nước trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân,bắt bớ ,đói khát,trần truồng,nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

3. Hai Vì Sao Sáng

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đưa hai ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy lại có những điểm tương đồng lạ lùng.Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha.Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh.  “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội.

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất. Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa. Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến”. Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào”.

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa. luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen.

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

Anh là tảng đá

Anh là tảng đá

Trích trong Mana

Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt, rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.

Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình. Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ. Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào, về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh. Ông chưa hề gặp mặt Đức Giêsu khi Ngài còn sống.

Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng. Cả hai đều được Đức Giêsu gọi. Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con. Phaolô được gọi khi ông hung hăng tiến vào Đamát. Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp. Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang. Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng. Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã. Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô, trong một phút giây quá tự tin vào sức mình. Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô, trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.

Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai. Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.

Phêrô và Phaolô đều yêu Đức Giêsu cách nồng nhiệt, vì họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.

"Này anh Simon, anh có mến Thầy không?

Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." (Ga 21,16)

Cả Phaolô cũng yêu Đấng ông chưa hề chung sống, vì Ngài là "Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi." (Gl 2, 20). Phaolô đã không ngần ngại khẳng định: Không gì có thể tách được chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 35.39)

Tình yêu Đức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo, vì nói cho cùng truyền giáo chính là giúp người khác nhận ra và yêu mến Đấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.

Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng, bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau. Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40). Còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28). "Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Đức Giêsu" (Gl 6, 1-7)

Cả hai vị đã chết như Thầy. Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18). Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng, và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).

Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới, dám bỏ, dám theo và dám yêu dám sống và dám chết cho Đức Kitô và Tin Mừng. Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.

Gợi Ý Chia Sẻ

Bạn biết gì về thánh Phêrô và thánh Phaolô? Có nét nào nơi hai vị thánh làm bạn ưa thích?

Bạn nghĩ gì về Đức Thánh Cha? Bạn biết gì về những hoạt động của Ngài cho giới trẻ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

 

Công bố Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới tháng 10-2014

Công bố Tài Liệu Làm Việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới tháng 10-2014

VATICAN. Sáng 26-6-2014, Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM khóa đặc biệt tiến hành tại Vatican từ ngày 5 đến 19-10 năm nay đã được công bố.

ĐHY Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, đã giới thiệu văn kiện này dài hơn 60 trang đúc kết các câu trả lời theo bản 39 câu hỏi, và sẽ được dùng làm căn bản cho các cuộc thảo luận tại Công nghị GM thế giới tới đây về đề tài ”Những thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng”.

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh cũng có ĐHY Peter Erdoe, TGM Esztergom – Budapest, Tổng tường trình viên, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, Chủ tịch thừa Ủy và Đức Cha Bruno Forte, TGM giáo phận Chieti-Vasto, Italia, Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị GM thế giới tới đây.

Bố cục

Tài liệu gồm 3 phần:

– Phần thứ I nói về việc thông truyền Tin Mừng gia đình ngày nay và được chia làm 4 chương lần lượt nói về: ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình (c.I); kiến thức và sự đón nhận Kinh Thánh cũng như các Văn kiện của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình (c.II), Tin Mừng về gia đình và luật tự nhiên (c. III); Gia đình và ơn gọi của con người trong Chúa Kitô (c.IV)

– Phần thứ II nói về Mục vụ gia trình trước các thánh đố và gồm có 3 chương: Trước tiên là các đề nghị liên quan đến việc mục vụ gia đình (c.I), tiếp đến là những thách đố mục vụ về gia đình ngày nay (c.II), thứ ba là những hoàn cảnh khó khăn trong việc mục vụ gia đình (c.III)

– Phần thứ III bàn về sự cởi mở đón nhận sự sống và trách nhiệm giáo dục. Phần này gồm hai chương: trước tiên là những thách đố mục vụ đối với việc cởi mở đón nhận sự sống (c.I) tiếp đến là Giáo Hội và Gia đình đứng trước thách đố giáo dục (c.II).

Tài liệu làm việc trình bày một cái nhìn về thực tại gia đình ngày nay và là khởi đầu của tiến trình suy tư sâu xa, và được khai triển qua hai giai đoạn khác nhau: trước tiên là Thượng HĐGM khóa đặc biệt từ ngày 5 đến 19-10 năm nay có mục đích thu thập các dữ kiện và lập trường, tiếp đến là Thượng HĐGM khóa thường lệ vào tháng 10 năm tới, 2015, nhắm đề ra những đường hướng mục vụ gia đình cần thi hành. Văn kiện chung kết của khóa họp thứ hai này sẽ được đệ trình lên ĐTC để ngài quyết định (SD 26-6-2014)

Nội dung tổng quát của Tài Liệu Làm Việc

Tin Mừng về gia đình, những tình trạng khó khăn của gia đình, giáo dục về cuộc sống và đức tin trong gia đình, đó là 3 lãnh vực được khai triển trong tài liệu làm việc của Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt vào tháng 10 tới đây về gia đình. Văn kiện này tóm tắt và tổng hợp những câu trả lời bản câu hỏi liên quan những đề tài hôn nhân và gia đình công bố hồi tháng 11 năm 2013 để chuẩn bị cho Thượng HĐGM.

I. Phần thứ I: ”Thông truyền Tin Mừng gia đình ngày nay”

Trong phần này, Tài Liệu tái khẳng định những dữ kiện Kinh Thánh về gia đình, dựa trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa và là những cộng tác viên của Chúa trong việc đón nhận và thông truyền sự sống. Vì thế, sau khi nhắc lại nhiều văn kiện của Giáo Hội về đề tại gia đình, trong đó có Thông điệp ”Humanae vitae” (Sự sống con người) của ĐGH Phaolô 6, Tài liệu làm việc nhấn mạnh sự kiện nhiều tín hữu chỉ có kiến thức ít ỏi về vấn đề này, một phần cũng vì các linh mục ít được chuẩn bị nên không biết đề cập một cách đúng đắn về đề tài hôn nhân và gia đình, đặc biệt là lãnh vực tính dục và sinh sản.

Giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề này nói chung chỉ được các tín hữu đón nhận một phần, người ta chấp nhận việc bảo vệ phẩm giá sự sống con người, nhưng lại chống lại đạo lý về việc kiểm soát sinh sản, về ly dị hoặc về những quan hệ tính dục trước khi kết hôn. Tất cả tình trạng đó một phần cũng do bối cảnh xã hội ngày nay, trong đó chủ nghĩa cá nhân, duy vật, nền văn hóa ”gạt bỏ” chiếm ưu thế. Vì thế, cần tìm lại những phương thức mới mẻ, ngôn ngữ mới để thông truyền giáo huấn của Hội Thánh trong lãnh vực này, huấn luyện một cách thích hợp cho các nhân viên mục vụ.

Tiếp đến, Tài liệu làm việc trình bày một suy tư đặc thù về sự khó hiểu ý nghĩa và giá trị của ”luật tự nhiên”, ở căn cội chiều kích phu phụ giữa một người nam và một người nữ. Đối với nhiều người, ”tự nhiên” có nghĩa là ”bộc phát”, và điều này làm cho người ta quan niệm các quyền con người như một sự thực thi những ước muốn riêng của mình. Điều này mở đường cho lý thuyết gender, hay là giới tính, làm băng hoại ý tưởng theo đó sự kết hiệp vợ chồng là ”chung thủy”, là mãi mãi; nó cũng khiến người ta chấp nhận sự đa thê hoặc từ bỏ người phối ngẫu của mình. Vì không nhìn nhận luật tự nhiên, nên nhiều đôi vợ chồng ngày nay ly dị, hoặc sống chung mà không kết hôn, ngừa thai, và cũng vì họ con cái bị coi như một chướng ngại cho cuộc sống thoải mái của mình, đặc biệt là tại Âu Châu và Bắc Mỹ.

Một thách đố lớn khác được Tài liệu Làm việc nêu rõ, đó là sự riêng tư hóa gia đình: gia đình không còn được coi là một yếu tố tích cực của xã hội, một tế bào cơ bản của xã hội nữa.

Vì thế, Nhà Nước được yêu cầu hãy bảo vệ gia đình và phục hồi vai trò của gia đình như chủ thể xã hội trong nhiều bối cảnh như công ăn việc làm, giáo dục, y tế, bảo vệ sự sống.

Rồi khi nhìn mẫu gương Thánh Gia Nazareth, Tài Liệu Làm việc tái khẳng định tầm quan trọng của cha mẹ như những nhà giáo dục đầu tiên cho con cái về đức tin, và nhấn mạnh sự phân biệt vai trò giữa người cha và người mẹ, hai vai trò ấy bổ túc cho nhau và cha mẹ đều can dự vào sự tăng trưởng của con cái và kinh tế gia đình.

Gia đình, trong tư cách là ”Giáo Hội tại gia”, cần phải được xây dựng mỗi ngày, trong kiên nhẫn, cảm thông và yêu thương, để giúp con người được phát triển toàn diện. Đặc biệt có hai yếu tố được Tài liệu Làm việc cổ võ: trước tiên là liên hệ trường tồn giữa gia đình và giáo xứ là ”gia đình của các gia đình”, và yếu tố thứ hai là cần có việc thường huấn, về thần học, cũng như về nhân bản và hiện sinh, để các gia đình gặp khủng hoảng, nhất là nơi nào có nạn bạo hành trong gia đình. ”Chữa lành các vết thương đã phải chịu và loại bỏ tận gốc rễ những nguyên nhân gây ra những vết thương ấy”, vì nạn lạm dụng, bạo hành và bỏ rơi sẽ không tạo ra sự tăng trưởng nào trong gia đình.

II. Phần thứ hai: ”Việc mục vụ gia đình đng trước những thách đố mới”

Sau khi nhắc lại tầm quan trọng của việc chuẩn bị hôn nhân, cổ võ lòng đạo đức bình dân nâng đỡ gia đình và linh đạo về gia đình với tinh thần truyền giáo, không quá tự tham chiếu chính mình, Tài liệu Làm Việc đến những thách đố mục vụ ngày nay. Bao nhiêu hoàn cảnh khó khăn mà gia đình ngày nay đang phải đương đầu như: hình ảnh và vai trò người cha bị suy yếu, gia đình bị phân tán vì ly dị và chia cách, nạn bạo hành và lạm dụng đối với phụ nữ và trẻ em, ”một dữ kiện thực sự đáng lo âu, đặt câu hỏi cho toàn thể xã hội và việc mục vụ của Giáo Hội về gia đình”, nạn buôn bán trẻ vị thành niên, ma túy, nghiện rượu, cờ bạc, nạn nghiện các mạng xã hội cản ngăn việc đối thoại trong gia đình và cướp mất thời giờ rảnh rỗi lẽ ra phải dành cho những quan hệ giữa con người với nhau.

Văn kiện của THĐGM thế giới cũng nêu bật ảnh hưởng của công việc làm trên đời sống gia đình: thời khóa biểu làm việc quá vất vả, công ăn việc làm bấp bênh, chế độ làm việc uyển chuyển đòi nhiều công nhân viên phải di chuyển xa, không được nghỉ việc ngày chúa nhật, những điều đó cản trở việc sống chung với nhau trong gia đình. Vì thế, Giáo Hội cần phải hỗ trợ cụ thể cho những công ăn việc làm xứng đáng, đồng lương đúng đắn, một chính sách thuế khóa bênh vực gia đình.

Những yếu tố khác gây khó khăn cho việc mục vụ gia đình là di cư, về vấn đề này, Văn kiện đề cao sự cần thiết phải tạo điều kiện dễ dàng cho việc đoàn tụ gia đình; tiếp đến là nạn nghèo đói, trào lưu duy tiêu thụ, chiến tranh, sự khác đạo giữa đôi vợ chồng, từ đó có những khó khăn trong việc giáo dục con cái; thái độ đối với bệnh tật, nhất là bệnh Sida. Nhưng Tài Liệu làm việc không quên nhắc đến điều ”phản chứng, gương mù” trong Giáo Hội, như những xì căng đan lạm dụng tính dục, loạn dục trẻ em, những linh mục có lối sống khoa trương, hoặc có thái độ loại trừ đối với những người ly dị hoặc những cha mẹ độc thân. Tất cả những điều đó góp phần làm giảm uy tín tinh thần của Giáo Hội.

Tài liệu làm việc đề cập đến những hoàn cảnh mục vụ khó khăn và nhấn mạnh rằng sự kiện nam nữ sống chung không kết hôn thường vì họ thiếu được huấn luyện về hôn nhân, hoặc vì quan niệm tình yêu chỉ là một điều riêng tư, hoặc cũng vì họ sợ dấn thân trong đời sống vợ chồng, coi đây là một sự mất tự do cá nhân. Cũng không thiếu những lý do xã hội, trong đó có nạn thất nghiệp của người trẻ, thiếu nhà ở, hoặc thiếu những chính sách gia đình thích hợp. Vì thế, việc giáo dục về tình cảm và sự hiện diện yêu thương của Giáo Hội để giúp đỡ những ngừơi trẻ hiểu tình thương như một sự hướng tới một dự phong sống chung với một người bạn đường chứ không phải như một quan niệm thơ mộng về tình cảm.

Vấn đề những người ly dị và tái hôn dân sự

Cũng trong Phần thứ II, Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM về gia đình sắp tới dành một phần dài để nói về những tình trạng không hợp giáo luật, lý do vì các câu trả lời gửi về tập trung nhiều vào vấn đề những người ly dị tái hôn. Nói chung người ta nêu bật con số lớn những ngừơi sống bất cần trong tình trạng như thế và không yêu cầu được rước lễ hoặc lãnh nhận bí tích hòa giải.

Trái lại, có nhiều người khác cảm thấy bị gạt ra ngoài lề, và họ tự hỏi tại sao những tội khác được tha thứ mà tội ly dị tái hôn thì không, và họ cảm thấy việc Giáo Hội cấm lãnh nhận các bí tích như một hình phạt, do đó mở đường cho một não trạng đòi hỏi đối với chính các bí tích. Trong một số trường hợp, một vài HĐGM yêu cầu có những phương thế mới để có thể thực thi lòng từ bi, khoan dung và ân xá đối với những vụ tái hôn như thế. Những giải pháp khác, như mỗi linh mục cho phép những trường hợp cụ thể được lãnh nhận các bí tích, hoặc nhìn sang các Giáo Hội Chính Thống cho tín hữu ly dị tái hôn trong một số trường hợp, tuy nhiên những giải pháp này không làm cho các tín hữu Công Giáo cảm thấy được tái chấp nhận công khai trong đời sống Giáo Hội và không loại trừ sự ly dị.

Về đề nghị đơn giản hóa thủ tục cứu xét tuyên bố hôn nhân vô hiệu – ví dụ cứu xét xem có cần phải có hai phán quyết đồng thuận của hai cấp tòa án hay không, khi mà không có yêu cầu kháng án, Tài liệu của Thượng HĐGM mời gọi hãy thận trọng, để tránh những bất công và sai lầm, và để không nuôi dưỡng ý tưởng về một thứ ly dị Công Giáo. Trái lại, Tài liệu đề nghị một sự đào tạo thích hợp những người có khả năng để theo dõi những trường hợp như thế và gia tăng con số các tòa án về lãnh vực này. Dầu sao thì người ta thấy rõ rằng tiến hành mau lẹ hơn thủ tục cứu xét đơn xin tuyên bố hôn nhân bất thành chỉ là điều hữu ích nếu ta thi hành việc mục vụ gia đình một cách toàn diện.

Tóm lại, Tài liệu làm việc nêu rõ rằng đối với những hoàn cảnh khó khăn, Giáo Hội không được có thái độ quan tòa lên án, nhưng là thái độ của một người mẹ luôn đón nhận con cái mình, và nhấn mạnh rằng ”sự kiện không được lãnh nhận các bí tích không có nghĩa là bị loại khỏi đời sống Kitô và quan hệ với Thiên Chúa”. Trong viễn tượng đó, các cha sở cần hết sức đón tiếp và sẵn sàng đối với những người không thực hành đạo và không tin xin làm đám cưới, vì đây có thể là cơ hội thuận tiện để loan báo Tin Mừng cho cặp nam nữ. Ngoài ra, Giáo Hội cần phải tháp tùng các đôi vợ chồng cả sau khi họ cưới nhau, qua những cuộc gặp gỡ chuyên biệt.

Đồng tính luyến ái

Ngoài ra, về sự kết hiệp giữa những người đồng phái, Tài liệu nêu bật điều này là tất cả các HĐGM đều chống lại việc ban hành luật lệ cho phép sự kết hiệp như thế, hoặc sự định nghĩa lại hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Tuy nhiên, Tài liệu yêu cầu phải có thái độ tôn trọng và không phán đoán đối với những người ấy, đồng thời nêu rõ tình trạng thiếu những chương trình mục vụ cho những ngừơi đồng tính luyến ái, vì đây là hiện tượng mới mẻ gần đây. Các câu trả lời được trình bày trong Tài liệu làm việc tuyên bố chống lại luật lệ cho phép những cặp đồng tính luyến ái nhận con nuôi, vì đây là điều gây nguy hiểm cho thiện ích toàn diện của trẻ vị thành niên, là những người cần một người cha và một người mẹ. Tuy nhiên, nếu những người ấy xin rửa tội cho trẻ em, thì em phải được đón nhận với cùng một sự chăm sóc, dịu dàng và quan tâm như đối với các trẻ em khác.

III. Phần thứ III: ”Cởi mở đối với sự sống và trách nhiệm giáo dục”

Trước tiên văn kiện nhận xét rằng đạo lý của Giáo Hội về sự cởi mở đối với sự sống ít được các đôi vợ chồng biết đến trong chiều kích tích cực và vì thế họ coi đạo lý này như một sự xen mình vào đời sống lứa đôi, và giới hạn quyền tự quyết của lương tâm họ. Từ đó có sự lẫn lộn giữa các thuốc ngừa thai và các phương pháp tự nhiên để điều hòa sinh sản mà họ lầm tưởng là vô hiệu lực. Tuy nhiên các phương pháp này phản ánh sinh thái (ecologia) con người và phẩm giá quan hệ tính dục giữa đôi vợ chồng. Về vấn đề bao cao su chống bệnh Sida, người ta yêu cầu Giáo Hội giải thích rõ hơn lập trường của mình, và cũng để trả lời cho một số lập luận thu hẹp và chế nhạo từ phía các cơ quan truyền thông, cũng như để tránh đóng khung vấn đề trong một khung cảnh hoàn toàn là kỹ thuật, trong khi thực ra đây là ”những thảm kịch ghi đậm trên đời sống của nhiều người”.

Nhiều người yêu cầu Giáo hội có những câu trả lời có nền tảng, đi xa hơn sự lên án chung chung, đối với ý thức hệ gender, giới tính, ngày càng lan tràn. Ngoài ra, họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải thích các phương pháp tự nhiên điều hòa sinh sản với sự cộng tác của các trung tâm đại học chuyên biệt, dành nhiều cho vấn đề này trong việc đào tạo các LM, vì thường các linh mục không được chuẩn bị về vấn đề này. Nói chung, Tài Liệu đề nghị thăng tiến một tâm thức cởi mở đối với sự sống như sự dấn thân của các tín hữu về mặt dân sự, cổ võ những đạo luật và cơ cấu nâng đỡ sự sống đang sinh ra.

Sau cùng về việc thông truyền đức tin trong gia đình, Tài liệu của Thượng HĐGM nhấn mạnh rằng cần phải nâng đỡ các trường Công Giáo, các trường này ngày càng thay thế gia đình và vì thế phải kiến tạo bầu không khí đón tiếp, có khả năng chứng tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa.

Về việc thông truyền đức tin trong những hoàn cảnh khó khăn ví dụ cha mẹ ở trong tình trạng bất hợp lệ và xin cho con cái được lãnh nhận các bí tích, Tài Liệu cổ võ thái độ đón tiếp, không nuôi thành kiến, vì nhiều khi con cái loan báo Tin Mừng cho cha mẹ, và để các trẻ em hiểu rằng tình trạng bất hợp lệ chứ không phải con người. Dường như ngày càng cần có một nền mục vụ nhạy cảm, được hướng dẫn tôn trọng những hoàn cảnh bất hợp lệ ấy, có khả năng nâng đỡ thực sự việc giáo dục con cái. Trong viễn tượng ấy, cần tái thẩm định vai trò của cac cha mẹ đỡ đầu trong hành trình đức tin của trẻ em và người trẻ, trong khi một sự tháp tùng mục vụ chuyên biệt cần thực hiện cho các hôn nhân hỗn hợp và hôn nhân khác đạo. Tài liệu làm việc kết thúc với Kinh nguyện do ĐTC Phanxicô soạn và đọc trong buổi đọc Kinh truyền tin chúa nhật 29-12 năm 2013, lễ Thánh Gia.

Cần nhớ rằng Thượng HĐGM thế giới vào tháng 10 tới đây về những thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh loan báo Tin Mừng sẽ là một Thượng HĐGM ngoại thường, gắn liền với sự cấp thiết của vấn đề cần được bàn tới. Nghĩa vụ đầu tiên của Công nghị Giám mục này là thẩm định và đào sâu các dữ kiện do các Giáo Hội địa phương trình bày. Trái lại những đường hướng mục vụ cần thực thi sẽ ở trung tâm của Thượng HĐGM khóa thường lệ nhóm vào tháng 10 năm tới, cũng về đề tài gia đình.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Kitô hữu là thành phần thuộc Giáo Hội là một thân mình và một dân duy nhất

Kitô hữu là thành phần thuộc Giáo Hội là một thân mình và một dân duy nhất

Không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương các anh em khác; không thể hiệp thông với Thiên Chúa mà không hiệp thông với Giáo Hội và chúng ta không thể là các kitô hữu tốt, nếu không tìm theo Chúa Giêsu cùng với tất cả các anh chị em khác như một dân duy nhất và một thân mình duy nhất.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên với 60,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần hôm 25-6-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô.

Trong số các đoàn hành hương cũng có nhóm 37 người thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn sang Roma dự lễ trao dây Pallium ngày 29-6-2014 cho các Tổng Giám Mục, trong đó có Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng Giám Mục Sài Gòn kiêm Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”tầm quan trọng thuộc về dân Chúa”. Sau khi chào tín hữu ngài nói: hôm nay có một nhóm tín hữu hành hương nối liền với chúng ta trong đại thính đường Phaolô VI. Họ là các tín hữu đau yếu. Bởi vì với thời tiết giữa cái nóng và có thể mưa này họ ở trong đó thì thận trọng hơn. Nhưng họ được nối liền với chúng ta qua màn hình khổng lồ. Và như thế chúng ta hiệp nhất trong cùng một buổi tiếp kiến. Và hôm nay chúng ta tất cả sẽ đặc biệt cầu nguyện cho họ cho bệnh tật của họ. Xin cám ơn anh chị em.

Trong bài giáo lý đầu tiên về Giáo Hội thứ tư tuần trước (18-6-2014), chúng ta đã khởi hành với sáng kiến của Thiên Chúa muốn thành lập một dân đem phước lành của Ngài đến cho mọi dân tộc của trái đất. Ngài bắt đầu với Abraham và với biết bao kiên nhẫn, Thiên Chúa chuẩn bị dân tộc này trong Cựu Ước cho tới khi nơi Đức Giêsu Kitô Ngài đặt để nó như dấu chỉ và dụng cụ sự hiệp nhất của con người với Thiên Chúa và giữa họ với nhau (x. LG, 1). Hôm nay chúng ta tìm hiểu tầm quan trọng thuộc về dân này. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Chúng ta không bị cô lập và không là kitô hữu với tư cách cá nhân mỗi người cho chính mình, không: căn tính của chúng ta là việc thuộc về! Chúng ta là kitô hữu bởi vì chúng ta thuộc về Giáo Hội. Nó như là tên họ: nếu tên gọi là ”tôi là tín hữu kitô”, thì tên họ là ”thuộc về Giáo Hội”. Thật là đẹp ghi nhận rằng sự tùy thuộc này cũng được diễn tả trong tên gọi mà Thiên Chúa gán cho chính mình. Khi trả lời ông Môshê trong vụ hiện ra với ông trong ”bụi gai cháy” (x. Xh 3,15) Ngài tự định nghĩa như là Thiên Chúa của các cha ông, Ngài không nói Ta là Đấng Toàn Năng, không, Ta là Thiên Chúa của Abraham, Igiaac và Giacóp. Trong cách thức này Ngài tự biểu lộ ra như vị Thiên Chúa đã ký kết một giao ước với cha ông chúng ta và luôn trung thành với giao ước đó và mời gọi chúng ta bước vào trong tương quan đi trước chúng ta ấy. Tương quan này của Thiên Chúa với dân Người đi trước chúng ta tất cả, đến từ thời đó.

Trong nghĩa này, với lòng biết ơn tôi nghĩ tới những người đã đi trước chúng ta và đã tiếp đón chúng ta vào trong Giáo Hội. Không có ai tự mình trở thành kitô hữu! Điều này rõ chưa? Không có ai tự mình trở thành kitô hữu. Người ta không chế tạo tín hữu kitô trong phòng thí nghiệm. Kitô hữu là phần của một dân đến từ xa. Kitô hữu thuộc về một dân gọi là Giáo Hội và Giáo Hội này làm họ trở thành tín hữu kitô ngày Rửa Tội dĩ nhiên, rồi trong lộ trình giáo lý và biết bao điều khác. Nhưng không ai, không ai tự mình trở thành kitô hữu. Nếu chúng ta tin, nếu chúng ta biết cầu nguyện, nếu chúng ta biết Chúa và có thể lắng nghe Lời Ngài, nếu chúng ta cảm thấy Ngài ở gần và nhận ra Ngài trong các anh em khác, là bởi vì trước chúng ta họ đã sống đức tin rồi thông truyền đức tin cho chúng ta, đức tin chúng ta đã nhận được từ cha ông chúng ta và các ngài đã dậy cho chúng ta.

Nếu chúng ta nghĩ kỹ điều đó, ai biết đã có bao gương mặt thân yêu hiện ra trước mắt chúng ta trong lúc này: có thể là gương mặt của cha mẹ là những người đã xin Bí tích Rửa Tội cho chúng ta, gương mặt của ông bà hay của một người trong gia đình đã dậy chúng ta làm dấu Thánh Giá và đọc các kinh đầu tiên – tôi luôn luôn nhớ biết bao gương mặt của nữ tu đã dậy giáo lý cho tôi và gương mặt đó luôn đến – chắc chắn chị ở trên Trời vì chị là một phụ nữ thánh thiện – nhưng tôi luôn nhớ và cảm tạ Thiên Chúa vì nữ tu đó – hay gương mặt của cha xứ, của một linh mục hay một nữ tu, của một giáo lý viên đã thông truyền nội dung đức tin cho chúng ta và đã làm cho chúng ta lớn lên như kitô hữu.

Đấy, đây chính là Giáo Hội: là một đại gia đình, trong đó chúng ta được tiếp đón và học sống như tín hữu và môn đệ của Chúa Giêsu.

Con đường này chúng ta có thể sống không chỉ nhờ các người khác, nhưng cùng với các người khác. Trong Giáo Hội không có chuyện ”tự làm”, không có các ”người đập tự do”. Biết bao lần Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã miêu tả Giáo Hội như là một ”chúng tôi” giáo hội! Đôi khi xảy ra là chúng ta nghe một ai đó nói: ”Tôi tin nơi Thiên Chúa, tôi tin nơi Đức Giêsu, nhưng Giáo Hội thì không, không ăn nhập gì với tôi…” Biết bao lần chúng ta đã nghe điều này? Và điều này không được. Có người cho rằng có thể có tương quan cá nhân, trực tiếp, tức thì với Chúa Giêsu Kitô ngoài sự hiệp thông và trung gian của Giáo hội. Đó là các cám dỗ nguy hiểm và tai hại. Như Đức Phaolô VI vĩ đại đã nói, chúng là các phân chia vô lý. Có đúng thật là cùng nhau bước đi đòi hỏi dấn thân và đôi khi có thể gây mệt nhọc: có thể xảy ra là vài anh chị em gây vấn đề cho chúng ta hay làm gương mù gương xấu cho chúng ta… Nhưng Chúa đã tín thác sứ điệp cứu độ cho những con người, cho tất cả chúng ta, cho các nhân chứng và chính trong các anh chị em của chúng ta với các ơn và các hạn hẹp của họ, Chúa đến gặp gỡ chúng ta và làm cho chúng ta nhận biết Người. Và điều này có nghĩa là thuộc về Giáo Hội. Xin anh chị em hãy nhớ kỹ: là kitô hữu có nghĩa là thuộc về Giáo Hội. Tên là ”kitô hữu”, họ là ”thuộc về Giáo Hội”.

Các bạn thân mến, chúng ta hãy xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, ơn không bao giờ rơi vào cám dỗ nghĩ rằng có thể làm mà không cần các người khác, có thể làm mà không cần Giáo Hội, có thể tự cứu rỗi một mình, là kitô hữu của phòng thí nghiệm. Trái lại, không thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương các người anh em, không thể yêu Thiên Chúa ngoài Giáo Hội: Không thể hiệp thông với Thiên Chúa mà không hiệp thông trong Giáo Hội, và chúng ta không thể là các kitô hữu tốt, nếu không cùng với tất cả mọi người tìm theo Chúa Giêsu như một dân tộc duy nhất, một thân mình duy nhất và đó là Giáo Hội.

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương, cách riêng phái đoàn đại học Bếtlêhem về Roma hành hương nhân dịp kỷ niệm 40 năm thành lập đã đem lại nhiều thiện ích cho nhân dân Palestine. Ngài cũng chào các nhóm tới từ Australia, Đài Loan, Ấn Độ, quần đảo Antilles, Việt Nam, Honduras, Colombia, Mêhicô, Argentina và cầu chúc tất cả mọi người các ngày hành hương sốt sắng và bổ ích.

Chào các đoàn hành hương Ba Lan Đức Thánh Cha nói thứ sáu tới là Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đây là dịp ca tụng Thánh Tâm đã yêu thương chúng ta biết bao. Trong cuộc sống càng gặp các khó khăn, lo lắng và vấn đề bao nhiêu, chúng ta hãy càng tín thác nơi Chúa Giêsu bấy nhiêu là Đấng đã mời gọi chúng ta: ”Hãy đến cùng Thầy, hỡi tất cả các con là những người mệt mỏi và bị áp bức và Thầy sẽ bổ sức cho” (Mt 11,28).

Chào các nhóm tiếng Ý Đức Thánh Cha khích lệ mọi người luôn cảm thấy cộng đoàn kitô như là nơi ưu tiên của việc rao truyền Tin Mừng, đào tạo tinh thần và giáo dục bác ái.

Ngài nhắn nhủ các bạn trẻ luôn tìm thấy nơi Thánh Thể của nuôi tinh thần. Đức Thánh Cha xin các anh chị em đau yếu dâng khổ đau và lời cầu lên Chúa để Ngài tiếp tục trải dài tình yêu trong con tim loài người. Ngài xin các cặp vợ chồng mới cưới hãy tiến tới Thánh Thể với đức tin canh tân để trở thành các gia đình được linh hoạt bởi chứng tá kitô cụ thể.

Buỗi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

TIỀN HÔ HẬU ỦNG

 TIỀN HÔ HẬU ỦNG 

Saint John Baptist

Thời phong kiến, mỗi khi vua chúa đi kinh lý viếng thăm dân tình, thì thế nào cũng có cờ xí rợp trời, võng lọng xênh xang, giáo mác đầy đường. Chung quanh kiệu vua là lính tráng sắc phục nghiêm túc, gươm đao chỉnh tề bảo vệ thiên tử. Ngoài ra, để mở đường, một tốp lính thị vệ đi trước cầm loa nói thật lớn (tiền hô) “Thánh thượng giá lâm”, cốt ý cho dân chúng biết mà tránh rạt sang hai bên bờ cỏ ven đường, nằm úp mặt xuống, miệng ngậm cọng rác (“cắn cỏ ngậm vành”) tỏ vẻ nhớ ơn trời bể của ông vua. Quân lính đi phía sau ứng tiếng (hậu ủng) tung hô “vạn tuế, vạn vạn tuế” nhiều lần. Do tích đó mà có thành ngữ “tiền hô hậu ủng”.

Hôm nay (24/6), Giáo hội mừng kỷ niệm sinh nhật thánh Gio-an Tẩy Giả (cũng gọi là Gio-an Tiền Hô). Thử tìm hiểu xem tại sao thánh nhân lại có biệt danh ấy? Trước hết, cũng cần phải tìm hiểu xem vì sao thánh nhân lại có tên là Gio-an? Thánh sử Lu-ca trình thuật: “Đang khi Da-ca-ri-a dâng hương trong đền thờ, sứ thần của Chúa hiện ra và bảo: "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an…  Em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa.. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ" (Lc 1, 11-16). Theo tiếng Do-thái, Gio-an có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng thương xót”. Gio-an được sinh ra khi cha mẹ tuổi đã cao mà vẫn chưa có con, đó là một món quà đặc biệt thể hiện rất rõ lòng thương xót của Thiên Chúa. Như thế, Gio-an Tẩy Giả là kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn từ trước vô cùng, để trở thành ngôn sứ loan báo tình thương xót, ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.

Gọi là thánh Gio-an Tiền Hô vì thánh nhân là người đi trước để dọn đường cho Đức Vua Tình Yêu Giê-su Ki-tô đi thi hành sứ vụ cứu độ trần gian. Nếu theo như lời Thánh nhân xác nhận: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1, 23), thì lại nảy sinh vấn nạn: Hoang địa là đất hoang vắng không người ở, vậy thì thánh Gio-an hô cho ai nghe? Bài Tin mừng hôm nay (Lc 1, 57-66.80) đã trả lời cho vấn nạn đó: “… Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en” (Lc 1, 80). Như vậy là phải hiểu thánh Gio-an vào sống trong hoang địa là sống một cuộc đời khổ hạnh, chay tịnh (“ăn châu chấu và mật ong rừng”) để chiêm niệm về vai trò và sứ vụ của mình, nhất là về Đấng "quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần" (Mc 1, 7-8). Sau thời gian sống trong hoang địa, vào khoảng 30 tuổi, thánh nhân mới chính thức thi hành sứ vụ “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan” (Mc 1, 4-5). 

Điều đó cho thấy không thể hiểu cụm từ “tiếng hô trong hoang địa” theo nghĩa chiểu tự (nghĩa đen) mà phải hiểu theo nghĩa thiêng liêng (nghĩa bóng). Chúng ta vẫn từng nghe nói “nhiều lúc thấy tâm hồn trống trải, hoang vắng như sa mạc” hoặc câu nói “tôi đang lang thang trong sa mạc cuộc đời”. Đó là những lúc không thấy một tư tưởng nào, một ấn tượng nào rõ rệt trong đầu óc, cũng chẳng có một điểm tựa nào cho cuộc sống thiếu vắng niềm tin. Và từ chỗ đó có thể suy ra tiếng hoang địa ở đây chính là tâm hồn (tâm địa) con người khi chưa có ánh sáng chân lý soi rọi, hoang vắng như sa mạc vậy. Và thánh Gio-an Tiền Hô là người được sai đến để khai thông hoang mạc tâm hồn con người, hầu đón nhận một tư tưởng chính thống, một niềm tin kiên định về một cứu cánh bất diệt: Hồng ân Cứu Độ từ nơi Thiên Chúa. Nói khác hơn, thánh Gio-an Tiền Hô là người được sai đến để thức tỉnh con người đang chìm đắm trong u mê tăm tối của sa mạc cuộc đời – Thức tỉnh cho loài người biết được thời của Con Một Thiên Chúa Cứu Độ Trần Gian đã điểm, Người đã đến, hãy dọn sẵn tâm hồn mà đón tiếp Người.

Còn vì sao lại gọi thánh Gio-an Tẩy Giả? Tiếng “tẩy giả” chỉ có nghĩa là người gột rửa (Tẩy: gột rửa, làm cho sạch sẽ những gì bị tì ố, dơ bẩn; giả: ông, người). Vậy thì thánh Gio-an Tẩy giả là người được Thiên Chúa sai đến để gột rửa tâm hồn (giục lòng con người biết ăn năn hối cải), mà đón nhận Lời Hằng Sống (“Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” – Lc 3, 3). Đối với con người, nếu muốn làm sạch thân thể hoặc một vật dụng nào đó, thì phải dùng nước – nước là nguyên liệu chính – để rửa sạch mọi vết nhơ. Từ thực tế đó, Thiên Chúa dùng nước làm biểu tượng Ngôi Ba Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới tẩy rửa tâm hồn con người cho nên thiện hảo được mà thôi (“Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” – Mt 3, 11).

Như vậy, thánh Gio-an Tiền Hô (hoặc còn gọi là Gio-an Tẩy Giả) được Thiên Chúa sai xuống trần với sứ vụ là “Hô” lên, là “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Mc 1, 4). Và khi mọi người nghe, rồi hưởng ứng tiếng “hô” của ngài, thì chính ngài sẽ thực hiện nghi thức “Tẩy” sạch tâm hồn của họ (“Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan” (Mc 1, 4-5), để xứng đáng tiếp đón Đấng Cứu Độ. Từ sự kiện đó, Giáo Hội thiết lập bí tích Thánh Tẩy (Phép Rửa) để tháp nhập những tín hữu vào Nhệm Thể Đức Ki-tô. Khi người tín hữu chịu Phép Rửa, thì cũng là lúc được tham dự vào ba chức vụ của Đức Ki-tô (ngôn sứ, tư tế, vương giả), tiếp nối bước đường của Thánh Gio-an Tẩy Giả “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đó cũng chính là sứ mạng tối hậu và khẩn cấp mà Thiên Chúa đang chờ đợi người Ki-tô hữu hoàn thành trong thời đại hiện nay.

Là Ki-tô hữu, người đã được chính Đức Giê-su “làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và Lửa" (Lc 3, 16), chúng ta không thể sống thiếu trách nhiệm về cuộc sống của mình và của tha nhân. Chúng ta càng không thể để cho những khuynh hướng xấu làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá con người “giống hình ảnh Thiên Chúa” nơi chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng phải là những chứng nhân về Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Loan báo Tin mừng không chỉ bằng lời nói mà trên hết phải bằng đời sống chứng nhân. Thật vậy, “Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì vì thầy dạy đó cũng là chứng nhân” (Thánh Gio-an Phao-lô II). Chúng ta phải hô to cho cả thế giới thấy rằng: ngoài đời sống vật chất, con người còn có đời sống tâm linh tương giao với Thiên Chúa. Tắt một lời, chỉ sống theo ý định của Thiên Chúa, con người mới tìm được hạnh phúc và an bình đích thực trong cuộc sống hôm nay và đạt được cứu cánh hạnh phúc đời sau.

Tóm lại, mỗi khi chịu Phép Rửa, người tín hữu được ơn gọi làm Ki-tô hữu, tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Giê-su (Hội Thánh) để thi hành sứ vụ “loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” được xây dựng trên nền tảng bất biến: Mến Chúa yêu người. Hãy vui mừng vì được cùng tiếp tay thánh Gio-an Tẩy Giả thi hành sứ mạng, nhưng đừng quên cầu xin Thần Khi Chúa soi sáng, hướng dẫn, ban dũng khí để chu toàn sứ mạng được trao phó.

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gio-an Tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân Chúa sẵn sàng đón Đức Ki-tô. Xin rộng ban cho các tín hữu được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào con đường cứu độ và bình an. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen” (Lời nguyện nhập lễ lễ mừng Sinh Nhật Thánh Gio-an Tẩy Giả).

JM. Lam Thy ĐVD. 

Angelus với ĐTC: Biến cuộc sống của chúng ta thành tấm bánh bẻ ra cho mọi người

Angelus với ĐTC: Biến cuộc sống của chúng ta thành tấm bánh bẻ ra cho mọi người

VATICAN. Trưa Chúa Nhật 22-6, như thường lệ, hàng chục ngàn tín hữu hành hương đã quy tụ về Quảng Trường Thánh Phêrô, Vatican để nghe chia sẻ của Đức Thánh Cha, đọc kinh truyền tin và nhận phép lành từ ngài. Nhân ngày Chúa Nhật Kính Mình và Máu Thánh Chúa hôm nay, Đức Thánh Cha đã chia sẻ với mọi người về giá trí quý báu của Mình Máu Thánh Chúa, và ý nghĩa của việc bẻ bánh đời mình ra cho mọi người.

Khởi đầu bài chia sẻ, ngài nói: “Xin chào anh chị em,

Vào Chúa Nhật hôm nay, Ý và nhiều nước khác mừng lễ Mình và Máu Thánh Đức Kitô, trong tiếng Latinh gọi là Corpus Domini hay Corpus Christi. Cộng đoàn giáo hội quy tụ lại quanh Thánh Thể để thờ phượng gia sản quý báu nhất mà Đức Giêsu đã để lại cho mình.

Tin Mừng Gioan đã trình bày diễn từ của Đức Giêsu về “bánh hằng sống” trong Hội đường Caphacnaum, trong đó, Ngài nói:” Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh ta ban chính là thịt ta để cho thế gian được sống” (Ga 6,51). Đức Giêsu đã nhấn mạnh rằng Ngài không đến trái đất này để trao ban điều gì khác, nhưng là trao ban chính Ngài, sự sống của Ngài, như của ăn bồi dưỡng cho những ai có lòng tin vào Ngài. Sự hiệp thông này của chúng ta với Chúa thúc bách chúng ta, những môn đệ của Ngài, hãy noi gương Ngài, biến sự hiện hữu của chúng ta, qua thái độ sống của chúng ta, thành tấm bánh bẻ ra cho người khác, như chính Thầy đã bẻ bánh là chính thịt mình vậy. Về phần chúng ta, chính cách hành xử quảng đại dành cho người thân cận sẽ chiếu tỏa thái độ bẻ đời mình ra cho người khác.”

Ngài nói thêm rằng nhờ rước Mình và Máu Thánh Chúa Kitô mà đời sống của chúng ta được biến đổi. Ta sẽ có khả năng yêu một cách vô hạn như Thiên Chúa, Đấng không có giới hạn trong tình yêu. Ngài nói:

“Mỗi khi chúng ta tham dự Thánh Lễ và được Mình Chúa Kitô nuôi dưỡng, sự hiện diện của Đức Giêsu và của Thánh Thần hoạt đng trong chúng ta, khuôn đúc con tim chúng ta, thông truyền cho chúng ta những thái độ nội tâm, biến chuyển thành cung cách hành xử theo Tin Mừng. Trên hết, thái độ ngoan ngoãn với Lời Chúa, sau đó là tình huynh đệ giữa chúng ta, sự can đảm của chứng tá Kitô hữu, sự kỳ diệu của đức ái, khả năng trao ban hy vọng cho những ai đang mt đi niềm tin, khả năng đón tiếp những ai bị loại trừ. Theo đó, Thánh Thể làm cho lối sống Kitô hữu đưc trưng thành hơn. Bác ái ca Đức Kitô, nếu đưc đón nhận với con tim rộng mở, sẽ thay đổi chúng ta, biến đổi chúng ta, trao ban cho chúng ta khả năng yêu thương không theo mc đo lường của con người vốn luôn có hạn, nhưng theo thưc đo ca Thiên Chúa. Mà thưc đo của Thiên Chúa thì đến mức nào?

Không có giới hạn! Thước đo của Thiên Chúa là không có giới hạn. Tất cả! Tất cả! Tất cả! Không ai có thể đo lường được tình yêu của Thiên Chúa: vì tình yêu ấy là vô hạn! Chúng ta trở nên có khả năng yêu cả những người không yêu chúng ta: điều này không dễ tí nào, phải không? Yêu người không yêu chúng ta… Chẳng dễ tí nào! Bởi vì nếu chúng ta biết rằng một người không yêu chúng ta, chúng ta cũng sẽ chẳng yêu người ấy! Đúng không! Chúng ta phải yêu cả những ai không yêu chúng ta! Chúng ta hãy chống lại điều xấu bằng điều lành, bằng sự tha thứ, sẻ chia và đón nhận. Nhờ Đức Giêsu và Thánh Thần của Người, đời sống của chúng ta cũng phải trở nên “tấm bánh bẻ ra” cho anh chị em chúng ta. Sống như thế, chúng ta sẽ khám phá ra niềm vui đích thật! Niềm vui khi biến mình thành món quà để đổi lại món quà to lớn hơn mà chúng ta đã lãnh nhận trước, không phải bởi công trạng của chúng ta. Điều này thật tuyệt vời phải không: đời sống của chúng ta trở thành món quà! Noi gương Đức Giêsu. Tôi muốn nhắc nhớ hai điều này. Thứ nhất, giới hạn của tình yêu Thiên Chúa là yêu không giới hạn. Điều này có rõ không? Cuộc sống của chúng ta, với tình yêu của Giêsu, nhận được từ Thánh Thể, tự biến thành món quà. Giống như cuộc sống của Giêsu vậy. Đừng quên hai điều này: giới hạn tình yêu của Thiên Chúa và yêu không giới hạn. Bước theo Đức Giêsu, chúng ta – với Thánh Thể – biến cuộc sống của chúng ta thành một món quà.”

Sau cùng, ngài mời gọi mọi người hãy hướng lòng về Mẹ Maria để xin Mẹ giúp mình biết yêu quý Đức Giêsu như Mẹ:

Đức Giêsu, tấm bánh sự sống đi đi đã từ trời hạ giới và đã làm người nhờ đức tin của Đức Maria Cực Thánh. Sau khi đã cưu mang Người trong mình với một tình yêu khôn xiết, Mẹ đã theo Người một cách trung tín đến tận thập giá và sự phục sinh. Chúng ta hãy cầu xin mẹ giúp chúng ta tái khám phá nét đẹp của Thánh Thể, và biến Thánh Thể trở thành trung tâm của đời sống chúng ta, đặc biệt nơi Thánh Lễ Chúa Nhật và Chầu Mình Thánh Chúa.”

Sau buổi đọc kinh truyền tin, Đức Thánh Cha nhắc nhở các tín hữu nhớ đến Ngày Liên Hiệp Quốc Gia chống lại nạn bạo hành vào ngày 26-6 tới. Ngài mạnh mẽ lên án nạn bạo hành dưới mọi hình thức và ngài xin mọi người hãy đấu tranh chống lại nạn này, đồng thời cầu nguyện, giúp đỡ các nạn nhân và gia đình của họ.

Ngài cũng gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương và xin họ cầu nguyện cho mình.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Tấm bánh tình yêu

Tấm bánh tình yêu

Mỗi khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh tấm bánh.

Tấm bánh, tình yêu gần gũi.

Sao Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày càng xuống giá, bớt được quý trọng.

Tuy bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm nhưng không có không được.

Chúa trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị.

Thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.

Tấm bánh, tình yêu tự hiến.

Bánh sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm.

Bánh chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến, bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời mọc tiêu thụ.

Khi xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi cho ta được lớn mạnh.

Tấm bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.

Tấm bánh, tình yêu hiệp thông.

Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở thành cành nho gắn kết với cây nho.

Hôm nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn nữa.

Tấm bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân loại được mặn mà thắm thiết.

Với những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và trong cách sống Bí tích Thánh Thể.

Yêu mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường, sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?

Cử hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình, thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?

Sống Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu không?

2) Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?

3) Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Mình Máu Thánh Chúa

Mình Máu Thánh Chúa

Một Mục sư nọ kể lại câu chuyện sau đây: Hai người lính vào trong một Giáo đường. Họ đứng giữa cộng đoàn đang sốt sắng cầu nguyện, người lính lớn tiếng đe dọa: Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn chết tại chỗ. Ai bỏ đạo thì đứng sang bên phải và được thả về; những người còn lại chuẩn bị để chết vì niềm tin của mình. Nhưng trong bầu khí hoàn toàn tin tưởng, không ai rời khỏi vị trí mình đang cầu nguyện. Trước bầu khí thinh lặng và thánh thiêng ấy, hai người lính kia thả súng xuống và nói: Chúng tôi là những người Kitô, sở dĩ chúng tôi đã hành xử như vừa rồi là vì chúng tôi muốn thử xem có ai là người sẵn sàng chết cho niềm tin của mình không? Và chỉ những người như thế mới đáng được về.

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa tra vấn các người Kitô, mỗi người chúng ta có quyết liệt đến mức sẵn sàng chết vì điều mình tin chăng?

Sách Phúc Âm của Gioan đã thuật lại cho độc giả tới màn khá gay cấn. Sau bài Tin Mừng, tác giả cho biết nhiều môn đệ của Chúa Giêsu không ngần ngại nói trắng ra điều họ nghĩ: “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (Ga 6,60). Kết quả là nhiều môn đệ rút lui không còn tin vào Chúa Giêsu nữa, không còn đồng hành chung với Ngài nữa. Đó là lúc chính Chúa Giêsu đã muốn nhóm Mười Hai phải xác định rõ lập trường về niềm tin của mình: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Chúng ta biết, một bên là Phêrô đã tuyên xưng thay cho các Tông Đồ: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”. Và bên kia là Giuđa Iscariô không những bỏ Thầy mà còn phản Thầy nữa.

Toàn bộ chương VI của Phúc Âm thánh Gioan đặt các môn đệ trước thái độ quyết liệt này, các ông đã được thấy Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều (x. Ga 6,1-10), rồi đi trên mặt nước và trong nháy mắt thuyền đã cập bến không cần chèo chống (x. Ga 6,16-21). Rồi cuối bài giảng tại hội đường Capharnaum, ở đó Chúa Giêsu xưng mình là Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,26-59). Bài Phúc Âm hôm nay rút từ bài diễn văn của Chúa tại Hội Đường Capharnaum: “Ta là Bánh Hằng Sống từ Trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời và bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta đây để cho thế gian được sống”.

Chúng ta có còn tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa phán hay không?

Ngày 3.5.1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh Lễ Mình và Máu Thánh Chúa tại đền thờ thánh Gioan Latêranô ở Rôma. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong ước tất cả mọi người hiệp ý với Ngài dâng lên Chúa Giêsu Thánh Thể lời nguyện cho hòa bình tại Kosovo và cho tất cả mọi người trên thế giới. Sau đây xin được trích lại bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Thánh Lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa để chúng ta cùng hiệp ý chia sẻ và mừng kính Lễ Mình Máu Thánh Chúa trong ngày hôm nay.

“Hỡi Sion, hãy dâng lên lời chúc tụng Đấng Cứu Thế”.

Lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa là ngày Lễ Chúc Tụng và Tạ Ơn. Trong lễ này, dân Kitô hiệp nhau quanh bàn thờ để chiêm ngắm và tôn thờ mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhớ hy tế Chúa Kitô, Đấng đã ban cho tất cả mọi người ơn cứu độ và sự bình an.

Việc cử hành Thánh Lễ trọng thể và cuộc rước kiệu theo truyền thống, cả hai đều hướng đến một mục tiêu đặc biệt là cầu khẩn tha thiết cho “Hòa Bình”. Trong khi chúng ta tôn thờ Mình Thánh của Đấng là Đầu, là Chúa Giêsu. Làm sao chúng ta không liên đới để trở thành những chi thể của Người đang chịu đau khổ vì chiến tranh?

Phải, thưa anh chị em thân mến,

Những tín hữu Rôma và khách hành hương hôm nay, tất cả chúng ta bắt đầu cầu nguyện chung với nhau cho Hòa Bình. Chúng ta hãy cầu nguyện đặc biêt cho hòa bình tại Kosovo. Ước chi Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe soi sáng và hướng dẫn chúng ta.

Trong bài đọc thứ nhất vang lên mệnh lệnh của Chúa: “Con hãy nhớ lại con đường mà Thiên Chúa đã cho con đi qua” (Dnl 8,2). “Con hãy nhớ lại”, đây là mệnh lệnh thứ nhất, không phải lời mời gọi mà là mệnh lệnh Chúa gởi đến dân Ngài trước khi đưa họ vào đất hứa. Thiên Chúa ra lệnh cho họ là đừng quên.

Để có được sự hòa bình của Thiên Chúa hứa ban thì trước hết hãy “đừng quên”, hãy biết sử dụng những kinh nghiệm đã trải qua, kể cả những sai lầm, người ta cũng có thể rút ra một bài học để định hướng tốt hơn cho con đường mình đang đi. Khi nhìn về thế kỷ này và nhìn về ngàn năm sắp kết thúc, làm sao chúng ta không nhớ lại những thử thách khủng khiếp mà nhân loại đã gánh chịu, chúng ta không thể nào quên được, ngược lại chúng ta phải nhớ. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, giúp chúng ta rút ra những bài học đúng từ những thăng trầm chúng ta trải qua cũng như của những ai đã đi trước chúng ta.

Lịch sử muốn nói đến những khát vọng to lớn là muốn có hòa bình, nhưng cũng nói đến thất vọng mà nhân loại đã phải chịu nữa là “nước mắt và máu”. Chính ngày hôm nay 3.6.1963, cách đây hơn ba mươi năm về trước, Đức Gioan XXIII qua đời. Ngài là vị Giáo Hoàng của “Thông Điệp Hòa Bình Trên Mặt Đất”. Thông Điệp này đã được mọi người đồng thanh ca tụng biết chừng nào, trong đó có nói lên những đường nét chính đích thực cho việc xây dựng hòa bình thế giới. Nhưng biết bao lần trong những năm qua, người ta phải chứng kiến biết bao vụ bùng nổ, gây chiến, bạo lực, chiến tranh trên thế giới. Tuy nhiên, người tín hữu không đầu hàng, người tín hữu biết mình có sức cậy dựa vào sự trợ lực của Thiên Chúa. Về điểm này, những lời của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc Ly thật là có ý nghĩa: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy đem lại bình an không như cách thức thế gian đã ban cho” (Ga 14,27).

Ngày hôm nay, chúng ta muốn hiểu thấu những lời này và hiểu cách sâu xa hơn nữa. Trong tinh thần, chúng ta hãy bước vào nhà Tiệc Ly với Chúa Giêsu qua việc Ngài trao ban chính Mình và Máu Ngài dưới hình bánh và rượu mà Ngài đã thực hiện ở Calvariô đang được tái diễn trong nhiệm tích Thánh Thể. Chính trong cách thức này mà Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta sự bình an. Sau này Thánh Phaolô đã bình luận: “Người là hòa bình của chúng ta”.

Khi trao ban chính Mình, Chúa Giêsu Kitô trao ban cho chúng ta chính sự bình an. Hòa bình của Chúa không phải là hòa bình của thế gian, nhưng hòa bình của Chúa Kitô là kết quả sự Vượt Qua của Ngài, nghĩa là kết quả của hy tế trong cuộc vượt qua của Ngài.

“Bánh mà Ta ban cho là Thịt Ta để cho thế gian được sống”. Đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, những lời này của Chúa Giêsu làm cho chúng ta hiểu thế nào là nguồn mạch của hòa bình đích thực. Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, là Bánh được trao ban cho thế gian để được sống. Đó là Bánh mà Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, ngõ hầu để nhân loại được sống và sống dồi dào: “Thiên Chúa đã không tha Con Một Ngài, nhưng đã trao ban Con Một Ngài” (Ga 3,16), để cứu rỗi tất cả, như là Bánh nuôi sống tất cả.

Ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng thật rõ ràng. Để được sống thì không chỉ tin Chúa mà thôi, còn cần phải sống như Chúa, sống bằng sự sống của Chúa. Vì vậy mà Ngôi Lời đã Nhập Thể, chết và sống lại. Người đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta biết Thánh Thể, ngõ hầu chúng ta có thể sống nhờ Ngài, như Ngài sống nhờ Chúa Cha (Ga 6,5). Bí tích Thánh Thể là bí tích của hồng ân mà chính Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta, là bí tích của tình thương và hòa bình, là sức sống sung mãn “Bánh Hằng Sống, Bánh ban sức sống”.

Ước gì lễ Kính Mình Máu Thánh Chúa gia tăng đức tin của chúng ta vào Chúa Giêsu, vào Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta, ban cho chúng ta sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu, bước theo Chúa chúng con dấn thân chống lại bạo lực của con người trên con người mà không dùng đến bạo lực. Chúng con cần có sức mạnh của tình thương Chúa, chúng con cần lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa để được sống sự sống của Chúa, để được sức mạnh của Chúa, sức mạnh của tình thương chiến thắng trên bạo lực.

Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn, nhờ bí tích Thánh Thể chúng con được lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa, chúng con lãnh nhận sự sống của Chúa trong mình chúng con, xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

Veritas Radio