Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người

Hằng năm chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa giáng sinh xuống thế làm người.

Chúng ta tin như vậy. Nhưng biến cố Chúa Giêsu giáng sinh cách đây hơn hai ngàn năm đã xảy ra trong khung cảnh lịch sử của đời sống nhân loại.

Thánh sử Luca viết thuật trong phúc âm về biến cố lịch sử Chúa Giêsu sinh ra như sau: „Thời ấy, hoàng đế Augustus ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ„ ( Lc 2,1) ̣

Những lời này là mốc điểm cho lịch sử ngày lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người. Nhưng thắc mắc đặt ra hoàng đế Augustus là ai? Tại sao Chúa Giêsu giáng sinh vào triều đại hoàng đế này, và có sự gì trùng hợp hay tương đồng không?

1. Hoàng đế Augustus

Augustus sinh ngày 23.09.63 trước Chúa giáng sinh ở Roma với tên Galius Octavius. Mẹ của Augustus, bà Atila, là cháu gái của Vua Caesar và của Octavius. Như thế Augustus là cháu gọi Julius Caesar bằng ông, và trong khế ước thừa tự Ông đã nhận Augustus là con nuôi và là người thừa tự chính gia tài của mình.

Năm 42. trước Chúa giáng sinh Augustus thỏa thuận với Antonius cai trị phần phía Tây, còn Antonius phần phía Đông đế quốc. Nhưng sau đó Augustus lại tranh chấp với Antonius, và sau cùng đánh thắng Antonius cùng nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập năm 31. trước Chúa giáng sinh ở Actium. Từ lúc đó Augustus một mình trở thành người cai trị toàn cõi đế quốc Roma.

Ngày 16.01.27 trước Chúa giáng sinh Thượng viện (Sena) ̣ Roma trao tặng danh hiệu Augustus cho ông, tiếng Hylạp là Sebastos, Vị đáng kính tôn thờ, cũng như nhiều danh dự khác nữa, cùng tước hiệu danh dự về những nhân đức virtus- Can đảm, clementia – nhân từ, iustitia – công chính, và pietas – người có trách nhiệm. Từ lúc đó Ông có tên chính thức: Imperator Caesar divi filius Ausgustus – Hoàng đế Augustus, con của thần linh Caesar.

Ngoài ra Ông còn có danh hiêụ là vị cứu tinh ( Soter) , mà trong bản văn kinh thánh Cựu ước tiếng Hy Lạp danh xưng này chỉ dành cho một mình Thiên Chúa.

Augustus là vị hoàng đế Roma thứ nhất và cai trị thiên hạ từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Năm 12. trước Chúa giáng sinh Augustus được tuyên xưng bầu chọn là Pontifex maximus.

Năm 2. trước Chúa giáng sinh, vào thời điểm năm này Chúa Giêsu giáng sinh làm người, Augustus nhận thêm danh hiệu Pater patriae – người cha dân tộc.

Ngày 19.08. năm 14 sau Chúa giáng sinh Augustus băng hà ở Nola, và được công nhận tuyên dương là Vị Thần linh đất nước.

Tháng thứ 8. trong năm từ năm 8. trước Chúa giáng sinh có tên Augustus đặt theo tên của hoàng đế Augustus, để nhắc nhớ lại vào tháng này Ông trở thành vị Toàn quyền thứ nhất của đế quốc Roma.

2. Khung cảnh lịch sử

„Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần , Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm người.“ (Kinh tin kính.)

Lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Hội Thánh về Chúa Giêsu, mà chúng ta đọc hằng tuần theo ý nghĩa đạo đức thần học. Nhưng trong lời tuyên xưng đức tin đó còn gói ghém, hay đúng hơn sân khấu lịch sử đời sống, lúc Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian, đã diễn ra vào thời điểm lúc đó.

Sân khấu lịch sử đó là đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Augustus bao rùm khắp Âu Châu, sang tận miền Tiểu Á Châu, vùng Trung Đông, nơi quê hương Do Thái của Chúa Giêsu.

Hoàng đế Augustus được xưng tụng là vị cứu tinh mang lại hòa bình cho thiên hạ. Và chính ông đã cho lập Ara Pacis Augusti – Bàn thờ hòa bình của Augustus, ở tại Roma, mà ngày nay còn sót lại di tích để khảo cứu.

Rồi ngày sinh ra của Hoàng đế Augustus , ngày 23.09. cũng được cắt nghĩa theo ý nghĩa là người sinh ra để kiến tạo mang hòa bình cho nhân loại. Và ngày sinh ra của hoàng đế Augustus cũng được hiểu là ngày xoay chuyển sang mốc chặng thời gian mới khác. Theo phân chia thay đổi thời tiết thiên nhiên bốn mùa bên xứ lạnh Âu châu, Bắc Mỹ châu, ngày 23.09. hằng năm là ngày mốc điểm từ mùa Hè chuyển sang mùa Thu

Thánh Luca trong phúc âm đã tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh lồng trong khung cảnh lịch sử mọi người trong đế quốc Roma thời đó theo lệnh hoàng đế Roma phải trở về quê quán của mình mà khai tên trong sổ bộ thuế khóa. (Lc 2,) ̣

Đức giáo hoàng Benedicktô XVI. đã có nhận xét về khung cảnh lịch sử Chúa Giêsu giáng sinh: Thánh Luca trong tường thuật đã nói đến hoàng đế Augustus của đế quốc Roma và lời công bố toàn dân trở về quê quaăn cũ của mình khai tên vào sổ bộ mang chiều kích tập hợp đại kết, đồng thời như một khung lịch sử và thần học cho những biến cố được thuật lại. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 73.)

3. Chúa Giêsu sinh ra làm người

Thánh sử Matthêu viết về nguồn gốc gia phả của Chúa Giêsu: Từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là 14 đời. Từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời. Và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,1-17).

Ngài sinh ra trong đất nước Do Thái, ở Bethlehem (Lc 2,) ̣Như thế quê hương quốc tịch của Chúa Giêsu là đất nước Do Thái, Ngài là công dân Do Thái.

Chúa Giêsu có tên thật là J.hosua hoặc Jesua hoặc Jesu (nếu là tiếng Aramê). Tên này có nghiã là: “Giavê là sự cứu độ” hay “Giavê ban ơn cứu độ”. Giêsu không phải là một tên gọi đặc biệt và mới lạ của riêng Chúa Giêsu, nhưng là tên gọi khá thông dụng và rất được ưa chuộng vào thời đó.

Về ngày sinh ra cùng năm sinh của Chúa Giêsu không có sử sách nào ghi lại. Chỉ biết trước khi đạo Công giáo truyền sang đế quốc Roma, từ thời xa xưa ở nhiều nền văn hóa dân gian, ngày 25.12. là một ngày đặc biệt, là ngày bản lề chuyển tiếp sang mùa Đông với thời tiết gía lạnh cùng tối tăm. Theo văn hóa người Roma, họ kính thờ Thần Saturn, vị Thần mặt Trời không hề bị chiến thắng vào ngày này.

Những tín hữu Chúa Kitô từ năm 217 sau Chúa Giáng sinh, dưới thời Đức giáo hoàng Hippolytus, Giáo Hội Công giáo thành Roma đã tìm cách lấy ngày này thay vì thờ thần mặt trời theo nghi lễ xã hội của dân ngoại Roma, làm ngày mừng sinh nhật Chúa Giesu sinh xuống làm người trên trần gian.

Hội Thánh Công giáo muốn „rửa tội“ ngày 25.12. theo nghi lễ tôn giáo dân ngoại Roma, thành ngày lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người, Đấng là Mặt Trời công chính thay cho Thần mặt trời không hề bị chiến thắng của dân Roma.

Tiến trình cố gắng này kéo dài cùng nhiều thử thách tưởng chừng như thất bại. Nhưng đến thế kỷ thứ 4. khi đạo Công giáo được chính thức công nhận trong toàn đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Constantino, cố gắng „rửa tội“ ngày thờ thần mặt trời theo nghi lễ ngoại đạo thành ngày theo nghi lễ đạo Công giáo mới chính thức thành công được công nhận.

Và cho đến thế kỷ thứ 8. sau Chúa Giáng sinh, ngày 25.12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu trở thành ngày lễ chung cho Hội Thánh Công giáo trên hoàn cầu.

Căn cứ theo Phúc âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng chân thật đến trong trần gian (Ga 8,9), ̣ và theo sách Tiên tri Maleachi, Chúa Giêsu, Đấng Mặt Trời công chính (3,2). Nên „rửa tội“ lấy ngày 25.12. theo ý nghĩa văn hóa của dân Roma ngày xưa cho trở thành ngày kính thờ Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời đến trong trần gian là điều rất thuận tiện thích hợp cùng phải lẽ và chính đáng.

Chúa Giêsu sinh ra vào một thời gian nhất định trong khung cảnh lịch sử xã hội thời hoàng đế Roma Augustus ra chiếu chỉ toàn dân về quê quán cũ khai tên tuổi. Và lúc Chúa Giêsu ra giảng đạo loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cũng vào thời điểm nhất định, năm thứ 15. thời hoàng đế Teberius cai trị đế quốc Roma. (Lc 3,1.) ̣

Chúa Giêsu không phải là một nhân vật thần thoại sinh ra và xuất hiện vào một lúc naầo đó. Ngài là một con người thuộc vào một thời gian chính xác được sử sách ghi chép lại và vào một không gian hình thể địa lý chính xác: điểm hoàn vũ và điểm cụ thể cùng chung hợp gặp gỡ nối kết với nhau.

Nơi Ngài thể hiện Logos ( Ngôi Lời) trong ý nghĩa sáng tạo của mọi sự vật đã đi vào cuộc sống trần gian. Logos muôn thuở đã trở thành người trong mối tương quan không gian và thời gian. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 74.)

4. Giữa hai nhân vật lịch sử

1. Triều đại

Augustus là một vị hoàng đế của đế quốc Roma từ 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Chúa Giêsu cũng là một vị Vua, như Ngài đã xác nhận về mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. (Ga 18,36). Triều đại của Vua Giêsu là lòng con người không có biên giớ về hình thể địa lý cũng như thời gian và bao trùm hết mọi con người. ̣

2. Sứ mạng

Hoàng đế Augustus ban hành chiếu chỉ sắc lệnh được mệnh danh Eu-Angelion: tin mừng. Cho dù chiếu chỉ sắc lệnh của hoàng đế tốt hay không tốt.

Trong ý ngĩa và mục đích đó, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu cũng là Tin mừng ơn cứu độ được loan báo cho muôn dân gian vào mọi thời đại.

3. Đích điểm đạt tới

Hoàng đế Augustus đã thành công trong việc chấm dứt nội chiến trong đế quốc Roma thời đó và mang lại nền hòa bình trong xã hội đế quốc Roma do Ông cai trị, Pax Romana.

Chúa Giêsu cũng là người mang hòa bình đến trong trần gian, như chính Ngài xác nhận: Ngài là sự hòa bình. Nền hòa bình mà trần gian không thể cho được. ( Ga 14, 23-31), Pax Christi.

Hoàng đế Augustus dựa vào quyền lực sức mạnh trần gian.

Còn Chúa Giêsu là vị thủ lãnh dựa trên sức lực quyền uy tinh thần.

4. Người Cha

Hoàng đế Augustus được Senat trao tặng danh hiệu Pater Patriae, người cha tổ quốc.

Chúa Giêsu cũng là một người cha. Ai tin vào Ngài , người đó trở thành con Thiên Chúa. Trong dụ ngôn cỏ lùng ở Phúc âm Thánh Mattheo ( 13, 36-38) ̣ Chúa Giêsu đã gọi những hạt giống tốt trong nước Ngài là con Thiên Chúa.

5.Con Thiên Chúa

Hoàng đế Augustus đã để cho mình được xưng tụng tôn thờ là vị thần linh ở phần phía đông đế quốc Roma.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian và luôn luôn được xưng tụng là Con Thiên Chúa.

6. Những người cùng đồng hành

Hoàng đế Augustus năm giữ quyền hành như một vị toàn quyền tối cao duy nhất. chung quanh ông có 12 vị quân sư phục vụ quyền bính cho hoàng đế.

Chúa Giêsu trái lại kêu gọi thu tập 12 Môn đệ không phải để phục vụ cho quyền bính của mình, nhưng họ sẽ là những người tiếp tục sứ mạng của Chúa ra đi rao giảng nước Thiên Chúa trong trần gian.

******************

Augustus sinh ra làm vua cai trị dân thiên hạ trong đế quốc Roma dựa trên quyền lực sức mạnh của tiền bạc, luật lệ cùng vũ khí.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra trong trần gian không dựa trên sức mạnh thế lực đó, nhưng trên nền tảng sức lực tinh thần yêu mền cùng mang ơn cứu độ cho con người.

Con người là trung tâm điểm sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã sinh xuống làm người như mọi người.

Ơn cứu độ giải thoát cho con người khỏi hình phạt tội lỗi là sứ mạng chính yếu Thiên Chúa Chúa muốn mang đến. Chính vì thế Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người mang ánh sáng ơn tha thứ hòa bình xuống trần gian.

Trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Thiên Chúa, con người là cao điểm của công trình. Chính vì thế Chúa Giêsu là Logos sáng tạo vĩnh cửu của Thiên Chúa đã trở thành người trong công trình sáng tạo này.

Con Thiên Chúa làm người, để con người giữ địa vị làm người của mình.

Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh 2012

Lm. Đa-minh Nguyễn Ngọc Long  

Hãy viếng thăm các người đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em

Hãy viếng thăm các người đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em

Trong mùa Giáng Sinh nay chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria thăm viếng những ai sống trong cảnh khó khăn, cách riêng các anh chị em đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khuyến khích như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với hàng ngàn tín hữu tu tập quanh hang đá khổng lồ tại quảng trường thánh Phêrộ trưa Chúa Nhật 23 tháng 12-2010.

Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa Phúc Âm Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng, kể lại biến cố Đức Maria viếng người bà con là bà Elidabét, đang mang thai thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Thánh Cha nói: giai thoại này không chỉ diễn tả một cử chỉ lễ phép đơn sơ, nhưng biểu thị một cách rất đơn sơ sự gặp gỡ giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thật thế, cả hai phụ nữ đều mang thai nhập thể sự chờ mong và Đấng được trông đợi. Đức Thánh Cha giải thích cảnh này như sau:

Bà Elidabét cao niên biểu tượng cho dân Israel đang trông chờ Đấng Cứu Thế, trong khi Đức Maria trẻ tuổi mang trong mình việc thành toàn của sự chờ mong ấy lợi ích cho toàn nhân loại. Nơi hai phụ nữ gặp nhau và nhận biết nhau trước hết các hoa trái lòng họ, là thánh Gioan và Đức Kitô. Pudenzio, thi sĩ kitô, chú giải rằng: ”Qua miệng của thân mẫu mình trẻ thơ trong cung lòng già nua chào mừng Chúa Con của Đức Trinh Nữ” (Apotheosis 590: PL 59,970). Nỗi sướng vui của Gioan trong lòng bà Elidabét là dấu chỉ việc thành toàn của sự trông đợi: Thiên Chúa sắp viếng thăm dân Người. Trong biến cố Truyền Tin tổng lãnh thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria về việc bà Elidabét mang thai (x. Lc 1,36) như là bằng chứng quyền năng của Thiên Chúa: sự hiếm muộn, mặc dù ở tuổi đã cao, đã biến thành sự phong phú.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: khi đón tiếp Đức Maria, bà Elidabét nhận ra rằng lời Thiên Chúa hứa với nhân loại đang được hiện thực và bà kêu lên: ”Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ, và người con em đang mang trong lòng cũng được chúc phúc! Bởi đâu tôi đựơc Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như thế này?” (Lc 1,42-43). Tầm nguyên lời chào này của bà Elidabét Đức Thánh Cha nói:

Trong Thánh Kinh Cựu Ước kiểu nói ”Em có phúc hơn mọi phụ nữ” được quy chiếu cho bà Giaele (Tl 5,24) và bà Giuđíchtha (Gđ 13,1), là hai phụ nữ chiến sĩ, dấn thân cứu dân Israel. Giờ đây trái lại, nó được hướng tới Đức Maria, là thiếu nữ hòa bình sắp sinh hạ Đấng Cửu Thế của thế giới. Như vậy sự nhảy mừng của Gioan (x. Lc 1,44) nhắc nhớ vũ điệu vua Đavít đã múa, khi hộ tống Hòm Bia Giao Ước vào thành Giêrusalem (x. 1 Sb 15,29). Hòm Bia chứa đựng Lề Luật, bánh manna và cây gậy của Aharon (x. Dt 9,4), đã là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Trẻ Gioan sẽ sinh ra nhảy mừng trước Đức Maria, Hòm Bia của Giáo ước mới, Đấng mang trong lòng Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người.

Đức Thánh Cha giải thích thêm ý nghĩa cảnh Đức Maria viếng thăm bà Elidabét: Cảnh viếng thăm cũng diễn tả vẻ đẹp của sự tiếp đón: ở đâu có sự tiếp đón nhau, lắng nghe nhau, và dành chỗ cho người khác, thì ở đó có Thiên Chúa và niềm vui đến từ Thiên Chúa. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria trong mùa Giáng Sinh này, bằng cách viếng thăm những người đang sống cảnh khó khăn, cách riêng các anh chị em đau yếu, các tù nhân, người già và trẻ em. Và chúng ta cũng hãy bắt chước bà Elidabét tiếp đón khách trọ như tiếp đón chính Thiên Chúa: không ước ao Người chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết Chúa, không chờ đợi Chúa chúng ta sẽ không bao giờ gặp gỡ Người, không kiếm tìm Chúa chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy Người. Với cùng niềm vui của Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Elidabét (x. Lc 1,39), cả chúng ta nữa cũng hãy đi gặp Chúa đến. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho tất cả mọi người tìm kiếm Thiên Chúa, bằng cách khám phá ra rằng chính Thiên Chúa đến thăm chúng ta trước. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria, Hòm Bia của Giáo Ước Mới và Vĩnh Cửu, trái tim chúng ta để Mẹ làm cho nó trở nên xứng đáng hơn tiếp đón sự viếng thăm của Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng Sinh.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài đã chúc mọi người một lễ Giáng Sinh thánh thiện, an bình và hạnh phúc. Bằng tiếng Pháp Đức Thánh Cha nhắn nhủ tín hữu vượt xa hơn các chuẩn bị bề ngoài và khía cạnh hời hợt, để đi theo Mẹ Maria trong sự cầm trí thinh lặng.

Trong tiếng Anh ngài mời gọi mọi người dành chỗ trong con tim cho Thiên Chúa. Trong tiếng Tây Ban Nha ngài kêu gọi chia sẻ niềm vui Giáng Sinh cho nhau.

Bằng tiếng Ba Lan ngài đặc biệt hướng tới các anh chị em cô đơn, đau yếu hay phải đương đầu với các khó khăn của cuộc sống và cầu chúc họ được an bình, hơi ấm và tình thương. Với tất cả ngài cầu chúc niềm hy vọng, sự tha thứ và hòa giải.

Linh Tiến Khải

XIN CHÚA CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI

XIN CHÚA CỨ LÀM CHO TÔI NHƯ LỜI SỨ THẦN NÓI

Mọi tín hữu Công Giáo đều tha thiết với kinh Kính Mừng, được chúng ta đọc hằng ngày  để lần chuổi Mân Côi. Phần đầu của kinh Kính Mừng được tạo ra bằng cách tháp ghép lời chào mừng của sứ thần Gabriel đến truyền tin cho Đức Mẹ Maria:

– ” Mừng vui lên , hởi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà ” ( Lc 1, 28)

và lời chúc tụng của bà  Elisabeth, khi Đức Mẹ Maria đến thăm bà:

– ” Em được chúc phúc hơn mọi phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” ( Lc 1, 42).

Đoạn Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật lại cho chúng ta biến cố vừa kể, biến cố  Đức Mẹ Maria đến viếng thăm người chị họ là bà Elisabeth, khi Đức Mẹ vừa được thiên sứ truyền tin Mẹ sẽ mang thai Chúa Giêsu.

Để nói lên  tính cách long trọng của biến cố Chúa Giêsu đến trong cung lòng Mẹ Maria, để nhập thể làm người, Thánh Luca diễn tả các chi tiết về thời điểm  liên quan đến biến cố, như Ngài đã làm đối với ơn gọi và sứ mạng của Thánh Gioan Tẩy Giả, mà chúng ta đã có dịp suy niệm cách đây hai Chúa Nhật. Để diễn tả biến cố truyền tin cho Đức Mẹ, Thánh Luca ghi lại thời điểm và nơi chốn:

– ” Khi bà Elisabeth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilea, gọi là Nazareth, gặp một Trinh Nữ đã hứa hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David, Trinh nữ ấy tên là Maria” ( Lc 1, 26-27).

Và để diễn tả bối cảnh bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Đức Mẹ đến viêng thăm người chị  bà con Elisabeth, Thánh Luca ghi lại:

– ” Hồi ấy bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda. Bà vào nhà ông Zaccaria chào hỏi bà Elisabeth” ( Lc 1, 39-40).

Theo bước chân của Mẹ Maria, chúng ta cũng đến chào bà Elisabeth và nghe được phản ứng của bà:

– ” Bà Elisabeth vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy mừng, bà được tràn đầy Chúa Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được phúc hơn mọi người nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” ( Lc 1, 41-43).

Chúng ta tự hỏi làm sao chỉ qua một lời chào hỏi đơn sơ của Mẹ Maria, bà Elisabeth đã cảm nhận được chúc phúc và tràn đầy Chúa Thánh Thần. Câu trả lời có lẽ chúng ta tìm được  ở đoạn Phúc Âm trước đó, khi thiên sứ  Gabriel truyền tin cho Mẹ Maria. Với câu nói của  Đức Mẹ:

– ” Vâng , tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38),

Mẹ Maria được Thiên Chúa  ở với Mẹ, Mẹ được tràn đầy ơn Thiên Chúa và quyền năng Thiên Chúa che chở Mẹ:

– ” Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà…” ( Lc 1, 35).

Hiểu được trạng thái đầy ân sủng của Mẹ Maria, chúng ta hiểu được tại sao bà Elisabeth cảm nhận được Chúa chúc phúc qua lời chào của Mẹ và Thánh Gioan cũng vui sướng nhảy mừng trong bụng mẹ. Cách hành xử của Mẹ Maria cho chúng ta mẫu gương để suy niệm.

A – Trước hết vừa khi được thiên sứ báo tin Mẹ sẽ thụ thai Chúa Giêsu, tràn đầyân sủng của Thiên Chúa, “và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”, như vừa kể, Mẹ Maria liền

– ” vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda “

để thăm người chị bà con Elisabeth, vì sứ thần đã báo cho Mẹ:

– ” Bà hãy xem bà Elisabeth, người họ hàng với bà, tuy tuổi đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai ” ( Lc 1, 36).

Mẹ Maria đến thăm người chị bà con để được tận mắt chứng kiến những gì ân sủng Thiên Chúa đang thực hiện nơi bà Elisabeth. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải  biết nhìn ân sủng Chúa ban cho nơi người khác, nơi anh chị em chúng ta để cảm tạ và cùng với họ cảm tạ những kỳ công mà Thiên Chúa không ngừng ban xuống cho anh chị em nhân loại chúng ta.

Kế đến thái độ ” vội vã lên đường ” của Mẹ Maria cũng là mẫu gương cho chúng ta suy niệm. Mỗi người Kitô hữu chúng ta được ơn gọi biết Chúa, sống trong ân sủng của Chúa, được sống thân tình với Chúa Giêsu trong Thánh Thể và được hiểu biết Chúa qua lời Người giảng dạy.

Tất cả những điều đó, cuộc sống Ki Tô hữu của chúng ta, là những nén bạc Chúa giao cho. Chúng ta không nên ” điềm nhiên toạ thị”, dững dưng, sống như không có một người nào khác trong xã hội, đem nén bạc chôn giấu như người đầy tớ bất trung, mà là làm cho nén bạc sinh lợi ( Lc 19, 12-27)

Nói cách khác, mỗi người Ki Tô hữu, mỗi cuộc sống Ki Tô hữu là một ơn gọi truyền giáo, chúng ta đã nhận được ngay từ lúc chúng ta nhận phép Rửa Tội. Hãy biết ” vội vã lên đường “,  đem Tin Mừng ơn cứu rỗi của Chúa Giêsu đến cho anh em, làm cho anh em cũng được ” tràn đầy Chúa Thánh Thần” như Đức Mẹ đã làm cho bà Elisabeth. Tư cách đó của Mẹ Maria một lần nữa được thể hiện rõ rệt trong lời nguyện Magnificat, Mẹ dâng lên để cảm tạ Chúa, trong chiều hướng hướng thượng để tỏ lòng biết ơn:

– ” Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi. Phận tỳ nữ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay muôn đời sẽ ngợi khen tôi diễm phúc” ( Lc 1, 47-48).

Nhưng đồng thời Mẹ Maria cũng báo cho mọi người biết phúc đức mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, do tình thương bao la đại lượng của Người. Người ban nhưng không cho Mẹ cũng như ơn cứu rỗi Người đem đến nhưng không cho chúng ta, để tất cả chúng ta cùng Mẹ Maria cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa:

– ” Phận tỳ nữ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ” ( Lc 1, 48).

Mỗi người chúng ta được Chúa gọi trở thành Ki Tô hữu một cách nhưng không, chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria biết khiêm tốn cảm tạ Chúa và trở thành ngôn sứ, đem ân sủng đó cho tất cả anh em.

B – Kế đến Mẹ Maria là mẫu gương cho cuộc sống đức tin.

Sau một vài câu nói nghi ngờ, trước sự xuất hiện bất thần của thiên sứ Gabriel, Mẹ Maria cúi đầu vâng phục, tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào ý muốn của Thiên Chúa:

– ” Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói ” ( Lc 1, 38).

Mẹ Maria tin cậy và phó  thác hoàn toàn con người của mình vào bàn tay quyền năng và tình Cha con của Thiên Chúa, để Ngài xử dụng Mẹ trong chương trình của Ngài. Lòng tin đó không phải là sự  cuồng tín mù quáng, mà là tin vào lời của Chúa hứa như những gì Người đã làm trong Cựu  Ước và được thiên sứ lập lại:

– ” Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( Lc 1, 37).

Chính lòng tin cậy, phó thác và  cộng tác của con người mới làm cho ý muốn và  quyền năng của Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử  của chúng ta, lịch sử của từng người một cũng như lịch sử của xã hội nhân loại. Một vị thánh tiến sĩ Giáo Hội, Thánh Toma dAquino đã nói:

– ” Thiên Chúa sinh ra chúng ta không cần có chúng ta, nhưng Thiên Chúa không thể cứu chúng ta, nếu không có chúng ta “.

Muốn chúng ta được cứu rỗi và  đem ơn cứu rỗi đó đến cho anh em, Thiên Chúa cần có chúng ta.

Mẹ Maria được Thiên Chúa chúc phúc, có Thiên Chúa ở với Mẹ như  lời thiên sứ Gabriel chào mừng:

– ” Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” ( Lc 1, 28).

Nhưng phúc đức của Mẹ không những vì Thiên Chúa dành cho Mẹ nhiều ân sủng, so với các phụ nữ khác , mà vì Mẹ biết tin cậy, phó thác và cộng tác tích cực với ý muốn của Thiên Chúa:

– ” Vâng , tôi đây tỳ nữ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói “.

Và ” vội vã lên đường ” đem  Tin Mừng và hồng ân của Chúa đến cho anh em. Đó là cách hành xử chứng tá  đức tin của Mẹ Maria. Cách hành xử đó làm cho Mẹ  còn trổi vượt hơn, phúc đức hơn  cả những đặc ân Thiên Chúa dành cho Mẹ từ lúc đầu. Đó là những gì Chúa Giêsu sẽ xác nhận sau nầy, khi một phụ nữ nghe lời giảng khôn ngoan của Ngài, lên tiếng ngợi khen Mẹ Ngài:

– ” Khi Chúa Giêsu đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa với Người: Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm “. – ” Đúng hơn phải nói rằng, Chúa Giêsu đáp lại, phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” ( Lc 11, 27-28).

Và đó là những gì Giáo Hội dạy chúng ta một cách ngắn gọn trong những lời  đầu của Kinh Tin Kính bằng La Ngữ:

– “Credo in Unum Deum Patrem Omnipotentem” (Con tin cậy và phó thác vào: Credo in…) một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng…

Ước gì mỗi lần đọc Kinh Tin Kính, chúng ta nhớ đến gương tin cậy và phó thác đi liền với sự nỗ lực cộng tác  của Mẹ Maria.

Nguyễn Học Tập

HỘI HIỆP SĨ COLOMBO NEWTOWN PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH LẦN HẠT MÂN CÔI CẦU NGUYỆN CHO GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ THẢM SÁT

HỘI HIỆP SĨ COLOMBO NEWTOWN PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH LẦN HẠT MÂN CÔI CẦU NGUYỆN CHO GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ THẢM SÁT

NEWTOWN CONECTICUT: Trong những ngày vừa qua Hội Hiệp Sĩ Colombo giáo xứ thánh Rosa thành Lima tỉnh Newtown đã phát động chiến dịch toàn Hoa Kỳ lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho gia đình các nạn nhân vụ thảm sát tại trường tiểu học ngày 14 tháng 12-2012.

Ông Tim Haas, đại hiệp sĩ, cho biết đây là cách thức tưởng niệm các vị thánh vô tội đã bị sát hại: 12 bé gái và 8 bé trai. Cần phải cầu nguyện nhiều cho gia đình các em thắng vượt giai đoạn khó khăn hiện nay. Hội Hiệp Sĩ Colombo xin mỗi người tham gia chiến dịch cầu nguyện đọc ba kinh Kính Mừng cầu cho ba ý chỉ: thứ nhất cho các nạn nhân và gia đình họ, thứ hai cho các giáo viên và thứ ba cho người dân thành phố có can đảm chịu đựng cái tang đau đớn này và dấn thân làm cho thế giới này trở nên tốt lành hơn. Ông nói Kinh Mân Côi có sức mạnh củng cố đức tin của chúng ta. Ngày 19 tháng 12-2012 chỉ nội trong 24 giờ đã có hơn 60,000 kinh Kính Mừng được đọc theo các ý chỉ này.

Bà chị của cha Luke, linh mục chánh xứ giáo xức thánh nữ Rosa thành Lima Newtown thì xin mọi người cũng nhớ cầu nguyện cho em của bà và các linh mục khác trong tỉnh Newtown. Trong mấy ngày qua mỗi ngày cha Luke phải cử hành hai đám táng. Trong tuần vừa qua đã có 8 đám táng. Ông Haas cho biết trong đám táng các bà mẹ các em đã làm chứng cho tình yêu thương của họ đối với con cái họ, và tuy đau đớn nhưng họ thông truyền cho mọi người tình yêu thương đó. Nỗi đớn đau mất con của họ cũng giống nỗi đớn đau của Mẹ Maria nất Chúa Giêsu.

Theo ông kinh Kính Mừng là câu trả lời tốt nhất cho sự dữ. Khi trở thành hiệp sĩ Colombo mỗi thành viên cũng nhận được tràng hạt Mân Côi và ít nhất mỗi tuần phải lần hạt một lần. Ông nói: lần hạt Mân Côi, tham dự thánh lễ, rước Mình Thánh Chúa và xưng tội là các món qùa giúp chúng ta đương đầu với các tình trạng đau buồn như hiện nay.

Ngày 21 tháng 12-2012 lại xảy ra một vụ giết người khác tại Pensylvania làm cho 4 người thiệt mạng kể cả thủ phạm. Trong các ngày qua đã có hơn 400 ngàn người ký thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền Hoa Kỳ hạn chế bán các loại vũ khí chiến tranh (CNA 21-12-2012). Linh Tiến Khải – Vietvatican

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các Hồng Y và các chức sắc Tòa Thánh đến chúc mừng ngài sáng ngày 21 tháng 12-2012 nhân dịp Giáng Sinh và Năm Mới, ĐTC Biển Đức 16 đã kiểm điểm sinh hoạt của Tòa Thánh trong năm 2012.

Ngỏ lời với mọi người sau lời chúc mừng của ĐHY Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y đoàn, ĐTC cũng nhắc nhở mọi người hiện diện rằng, với tư cách là một gia đình, tất cả đang được mời gọi để đón mừng Hài Nhi Giêsu tại hang đá Belem, Đấng là Thiên Chúa nhưng đã đến gần con người và trở thành một người như chúng ta. Tiếp đến Ngài cũng gửi những lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả mọi người, đặc biệt là các vị Sứ Thần Tòa Thánh trên toàn thế giới. Cuối cùng, Đức Thánh Cha điểm lại những sự kiện quan trọng trong năm, bao gồm 3 cuộc công du, Đại Hội Các Gia Đình Thế Giới Tại Milan, Thượng Hội Đồng Thế Giới Lần Thứ 13 và cuối cùng là Năm Đức Tin. Trước hết, Đức Thánh Cha trình bày ngắn gọn những chia sẻ của ngài về ba cuộc công du trong năm vừa qua, ngài nói:

“Cuối năm nay chúng ta lại chứng kiến biết bao nhiêu cảnh huống khó khăn, những vấn đề và những thách đố lớn lao, nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng nhìn thấy những dấu chỉ của niềm hy vọng, trong Giáo hội cũng như trong thế giới. Hôm nay tôi muốn đề cập đến một vài yếu tố quan trong liên quan đến đời sống Giáo hội cũng như phận vụ Giáo Hoàng của tôi. Trước hết là những chuyến công du tới Mê-xi-cô và Cuba, những cuộc gặp gỡ với sức mạnh của đức tin không thể nào quên, một đức tin được bén rễ sâu trong trái tim con người ở đây; và họ thể hiện một đời sống vui tươi phát xuất từ đức tin. Trong các cuộc viếng thăm nơi vùng đất này, tôi nhớ có biết bao nhiêu đoàn người đông đảo nối tiếp nhau trong niềm vui và hạnh phúc. Nhiều bạn trẻ đã quỳ gối bên đường để đón nhận phép lành của Đấng kế vị thánh Phêrô. Tôi cũng nhớ những buổi cử hành phụng vụ hết sức long trọng bên tượng Chúa Kitô Vua làm cho Vương quyền của Người hiện diện giữa chúng ta, nhờ đó chúng ta cảm nhận được bình an, sự công chính và chân lý của Ngài. Tất cả sự kiện này diễn ra tại các quốc gia mà nơi đó đang phải đối diện với những vấn nạn khác nhau, những hình thức bạo lực cũng như những khó khăn về kinh tế. Trong khi những vấn nạn này không thể giải quyết bằng lòng nhiệt thành tôn giáo, thì nó cũng không thể nào giải quyết được nếu thiếu một sự thanh luyện của con tim xuất phát từ sức mạnh của đức tin, và từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Tại Cuba, tôi cũng được tham dự những cử hành phụng vụ long trọng, với những tiếng hát, lời kinh và cả sự thinh lặng làm cho sự hiện diện của Đức Kitô thực sự trở nên hữu hình giữa một đất nước mà chính quyền lâu nay đã nỗ lực để loại bỏ Ngài. Một sự tìm kiếm sự cân bằng giữa trách nhiệm và tự do ở đất nước này không thể thành công nếu bỏ qua điểm tham chiếu nền tảng mà con người đã khám phá ra ngang qua cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng nói về cuộc thăm viếng Lebanon và Đại Hội Gia Đình Quốc Tế ở Milan. Dù có nhiều chủ đề và nhiều sự kiện được bàn thảo trong năm nay, tuy nhiên Đức Thánh Cha muốn tập trung vào ba chủ đề chính yếu, đó là: gia đình, phục vụ hòa bình trong thế giới và đối thoại giữa các tôn giáo và cuối cùng là cuộc công bố sứ điệp của Đức Kitô trong thế giới ngày nay cho những người chưa biết Chúa Kitô hay cho những người dầu đã gặp gỡ Ngài nhưng chưa nhận ra Ngài.

Về chủ đề gia đình, Đức Thánh Cha nói như sau:

“Trước hết, những niềm vui lớn lao mà ngày họp mặt ở Milan mang lại cho thấy, giữa bao khó khăn và thách đố, gia đình vẫn mạnh mẽ và sống động trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta không thừa nhận cuộc khủng hoảng đang đe dọa nền tảng của gia đình, đặc biệt là trong thế giới Tây Phương. Chúng ta cần lưu ý rằng, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của gia đình như là một bối cảnh đích thực mà nơi đó chuyển giao kế hoạch của cuộc sống con người. Nơi gia đình chúng ta học để biết sống cho và sống với người khác. Vì thế, vấn nạn về gia đình không chỉ đơn thuần là một vấn nạn của một cấu trúc xã hội cụ thể, nhưng còn là vấn vạn về chính con người, về bản chất của con người và về con đường con người phải theo để trở nên người đích thực. Thách đố này bao gồm nhiều mặt. Trước hết là câu hỏi về khả năng của con người để thực hiện một cuộc cam kết hay là lẩn tránh sự cam kết đó. Một người có thể tự ràng buộc mình suốt cuộc đời không? Điều này có tương hợp với bản chất con người không? Điều này có đi ngược với tự do và mục đích tự thành toàn của bản thân không? Con người có thể trở nên là người đích thực khi chỉ sống cho riêng mình và chỉ đi vào mối tương quan với người khác khi thấy có thể phá vỡ mối tương quan này bất kỳ khi nào muốn không? Một sự cam kết suốt cuộc đời có đi ngược với tự do không? Một sự khước từ làm bất kỳ cuộc dấn thân nào cho thấy con người vẫn còn đóng kín với chính mình và giữ cái “Tôi” cho riêng mình và không thực sự vượt lên trên nó. Nhưng chỉ trong sự trao ban, con người mới thực sự tìm thấy chính mình. Và chỉ ngang qua việc mở ra với cái khác, người khác, với con cái, với gia đình, và để cho mình được biến đổi ngang qua những đau khổ, con người mới thực sự khám phá ra sự rộng lớn của bản tính nhân loại. Khi một sự dấn thân như thế bị loại trừ, hình ảnh về con người đích thực cũng biến mất: người cha, người mẹ, con cái – những yếu tố thiết yếu về kinh nghiệm hiện hữu của con người cũng biến mất.”

Nói về bản chất gia đình, Đức Thánh Cha nhắc nhở về bản chất của con người được sáng tạo như là những người nam và người nữ. Đó chính là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải là sản phẩm của con người. Ngài nói:

“Thế giới ngày nay người ta từ chối bản chất của mình, và cho rằng, bản chất con người không phải là một điều gì được định sẵn nhưng họ có thể tự quyết định cho bản thân. Theo tường thuật sáng tạo của Thánh Kinh, con người được sáng tạo như những người nam và người nữ chính là bản chất của con người. Tính hai mặt này là một khía cạnh thiết yếu của con người. Tính hai mặt này là một điều được trao ban, nhưng giờ đây người ta đang tranh luận về nó. Giờ đây, Thiên Chúa không còn sáng tạo ra người nam và người nữ, thay vào đó là xã hội, và chính con người tự quyết định cho chính mình.” Đứng trước vấn nạn trên, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng, khi người ta chọn lựa để tự sáng tạo cho chính mình, thì họ cũng khước từ Đấng Tạo Hóa, và khi ấy phẩm giá con người cũng biến mất. Và do đó, bất cứ ai chống lại Thiên Chúa, thì cũng đang chống lại con người.

Liên quan đến vấn đề đối thoại, Đức Thánh Cha nói rằng:

“Hiện nay, Giáo hội của chúng ta đang đối diện với ba lĩnh vực đối thoại chính yếu, ngang qua những cuộc đối thoại này, Giáo hội muốn hiện diện trong công cuộc đấu tranh cho con người và cho nhân tính của con người. Đối thoại với các quốc gia, với xã hội – bao gồm đối thoại với các nền văn hóa và khoa học – và cuối cùng là đối thoại với các tôn giáo. Trong các cuộc đối thoại này, tiếng nói của Giáo hội được đặt nền tảng trên ánh sáng của Đức Tin. Dầu vậy, Giáo hội cũng hợp tác với ký ức của nhân loại, vốn là những kinh nghiệm ngay từ giai đoạn đầu của lịch sử. Nơi đó, Giáo hội đã học về những điều kiện của con người, Giáo Hội kinh nghiệm về những giới hạn cũng như sự vĩ đại của nó, những cơ hội và những thách đố. Văn hóa nhân loại, mà Giáo hội là một sự đảm bảo, phát triển ngang qua cuộc gặp gỡ giữa mạc khải của Thiên Chúa và cuộc sống con người. Giáo hội đại diện cho ký ức về cái gì có ý nghĩa là trở thành người đích thực trong khi đối diện với nền văn minh hay lãng quên, và do đó chỉ biết đến nó và những tiêu chuẩn của nó. Một cá nhân không có trí nhớ sẽ đánh mất căn tính của mình thế nào, thì con người không có ký ức cũng sẽ đánh mất căn tính của họ như vậy. Điều mà Giáo hội đã học được từ cuộc gặp gỡ giữa mạc khải và kinh nghiệm của con người thực sự vượt ra khỏi lãnh vực của lý trí nhưng nó cũng không thuộc về một thế giới xa lạ vốn không liên hệ gì đến những người không tin. Ngang qua việc đi vào tư tưởng và sự hiểu biết của con người, tri thức này là một sự mở rộng địa hạt của lý trí, và do đó, nó cũng nói cho những người không chia sẻ Đức Tin trong Giáo hội. Trong cuộc đối thoại với các quốc gia và xã hội, dĩ nhiên là Giáo hội không có sẵn các câu trả lời cho những câu hỏi riêng biệt. Cùng với những thể chế khác trong xã hội, Giáo hội cũng phải vật lộn với những câu trả lời để đáp trả một cách tốt nhất cho chân lý tồn tại của con người. Những giá trị mà Giáo hội nhận thấy là nền tảng và không thể thay thế cho sự tồn tại của con người, Giáo hội phải công bố nó một cách rõ ràng và minh bạch. Giáo hội làm tất cả để có thể thuyết phục mọi người, vì thế điều này có thể đụng chạm đến các thể chế chính trị.”

Tiếp đến, về vấn đề đối thoại tôn giáo, Đức Thánh Cha cho nói rằng:

“Trong tình huống hiện tại của con người, cuộc đối thoại tôn giáo là một điều kiện cần thiết cho nền hòa bình trên thế giới và đó là nhiệm vụ của các Kitô Hữu cũng như các cộng đoàn tôn giáo khác. Cuộc đối thoại này mang những chiều kích khác nhau. Trước hết, đó đơn giản chỉ là một cuộc đối thoại về cuộc sống, đối thoại để sống cùng với nhau. Vì thế cuộc đối thoại này không hệ tại ở việc thảo luận những chủ đề của đức tin, nhưng về những vấn đề cụ thể của việc sống chung và chia sẻ trách nhiệm đối với xã hội, đối với đất nước và con người. Trong tiến trình này, điều cần thiết là phải học để biết chấp nhận người khác trong sự khác biệt của họ và cả trong sự khác biệt về suy nghĩ nơi họ. Để làm được điều này, sự chia sẻ trách nhiệm về công lý và hòa bình phải trở nên những nguyên lý hướng dẫn của cuộc đối thoại.”

Sau đó, Đức Thánh Cha chia sẻ một cách vắn tắt về chủ đề truyền giảng Tin Mừng, hay công cuộc Phúc Âm Hóa. Đức Thánh Cha nói rằng, những yếu tố nền tảng của tiếng trình Phúc Âm Hóa xuất hiện trong trình thuật của Thánh Gioan về việc kêu gọi hai môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, những người mà sẽ trở nên môn đệ của Đức ki-tô (Ga 1,35-39).

“Trước hết, chúng ta có một hành động công bố rất đơn sơ. Ông Gioan chỉ về phía Đức Giêsu và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Một hành động tương tự được tường thuật trong một vài câu sau đó. Lần này, chính Anrê đã nói với em trai của mình rằng: “Tôi đã thấy Đấng Mesia” (1,41). Yếu tố đầu tiên và nền tảng nhất là một sự công bố chân thật, một Kerygma, vốn có sức lôi cuốn nhờ vào sự xác tín nội tâm sâu xa của người công bố. Trong trình thuật về các môn đệ đầu tiên, đoạn tiếp theo trình bày về việc lắng nghe và đi theo Đức Giê-su, chưa phải với tư cách là người môn đệ nhưng chỉ vì sự tò mò thánh thiêng, một khoảng khắc của sự tìm kiếm. Cả hai môn đệ này đều là những con người đang tìm kiếm. Họ đặt khát vọng mong chờ Thiên Chúa lên trên, và vượt qua những vấn đề thường ngày. Và khi đươc khích lệ bởi lời công bố, cuộc tìm kiếm của họ trở nên cụ thể. Họ muốn đến để biết rõ hơn về con người được Thánh Gioan Tẩy Giả mô tả là Chiên Thiên Chúa. Cảnh thứ ba bắt đầu khi Đức Giêsu quay qua, bắt gặp họ và hỏi: “Các con đang tìm gì?” Họ đáp lại bằng một câu hỏi xa hơn, minh chứng sự mở ra đối với sự mong chờ của mình, sự sẵn sàng của họ để bước những chặng đường tiếp theo. Họ hỏi: “Thưa thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời “Hãy đến mà xem” của Đức Giê-su là một lời mời gọi bước đi với Ngài, và ngang qua đó, đôi mắt của họ mở ra để nhìn thấy Ngài. Lời công bố chỉ hiệu quả trong những tình huống nơi đó người lắng nghe sẵn sàng cho Chúa đến gần họ, nơi đó con người đang tìm kiếm và đang trên đường hướng đến Thiên Chúa. Trái tim của họ được đụng chạm khi Đức Giê-su hướng đến họ, và như vậy cuộc gặp gỡ với lời công bố trở nên một sự tò mò linh thánh giúp người ta biết đến Thiên Chúa sâu xa hơn. Khi họ bước đi với Đức Giêsu, họ được dẫn tới nơi Ngài sống, đó chính là cộng đoàn Giáo hội, và cũng chính là Thân Thể của Ngài. Điều đó có nghĩa là họ đang đi vào cộng đoàn của những người dự tòng, một cộng đoàn vừa học hỏi vừa sống đạo, nơi mà ánh mắt chúng ta sẽ được mở ra khi chúng ta bước đi.

“Hãy đến mà xem”, câu nói mà Đức Giêsu đã nói với hai người môn đệ đi tìm kiếm Ngài khi xưa, thì Ngài cũng nói với những con người đang trên đường tìm kiếm trong thế giới hôm nay. Vào thời điểm cuối năm này, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho Giáo hội để, bất chấp những giới hạn của mình, người ta vẫn không ngừng nhận ra nơi đó chính là nơi Thiên Chúa cư ngụ. Xin Ngài cũng mở mắt cho chúng ta khi chúng ta bước đi trên hành trình trở về nhà Ngài, để chúng ta có thể thấy rõ hơn và xác tín hơn: “Chúng tôi đã gặp Ngài, Ngài chính là Đấng mà toàn thể thế giới đang chờ đợi, là Đức Giê-su, là con Thiên Chúa Thật và là người thật.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha chúc mừng Giáng sinh tới mọi người hiện diện và toàn thể các tín hữu trên toàn thế giới, ngài nói:

“Với những tâm tình này, từ thâu thẳm trái tim tôi, tôi ước mong mọi người có một lễ Giáng Sinh an lành và một Năm Mới Hạnh Phúc.”

Nguyễn Minh Triệu sj

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các trẻ em tìm Chúa

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các trẻ em tìm Chúa

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến dành cho phái đoàn Thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia, sáng ngày 20 tháng 12-2012, ĐTC nhắn nhủ các em tìm Chúa Giêsu như tác giả sự sống, niềm vui, tình thương và an bình.

50 em thiếu nhi đại diện cho hàng chục ngàn thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia, cùng với giáo sư Franco Miano Chủ tịch Phong trào, và Đức Cha Tổng Tuyên úy Domenico Sigalini, đến chúc mừng ĐTC nhân dịp lễ Giáng Sinh. Lên tiếng trong dịp này, ngài nhắc đến chủ đề hoạt động của các thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia là ”đi tìm kiếm tác giả”. ĐTC giải thích cho các em: tác giả sự sống, tác giả niềm vui và tác giả tình thương đối với các em chính là Chúa Giêsu.

ĐTC nói: ”Có bao nhiêu người làm cho các con được hạnh phúc, nhưng có một Người Bạn lớn nhất là Tác giả niềm vui của mọi người và với Tác giả ấy, tâm hồn các con được tràn đầy một niềm vui vượt lên trên mọi niềm vui khác, và kéo dài trọn đời: đó chính là Chúa Giêsu. Các con hãy nhớ rằng hễ các con càng học biết Chúa và đối thoại với Chúa, thì các con càng cảm thấy hài lòng trong tâm hồn và có khả năng vượt thắng những sầu muộn bé nhỏ nhiều khi xảy ra trong tâm hồn các con”.

Về việc tìm kiếm tác giả tình thương, ĐTC nhận xét rằng: ”Tất cả chúng ta đều cần yêu mến và cảm thấy có người chấp nhận và yêu mến chúng ta. Cảm thấy được yêu chính là điều cần thiết để sống, nhưng một điều không kém phần quan trọng, có là có khả năng yêu mến người khác, để làm cho cuộc sống của mọi người được tươi đẹp, cả cuộc sống của những người bạn đồng lứa tuổi với các con đang ở trong tình cảnh khó khăn. Vì thế, cha hài lòng vì sáng kiến của các con trong tháng giêng hỗ trợ một sự án tại Ai Cập nhắm giúp đỡ cụ thể cho các trẻ em bụi đời”. (SD 20-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha kêu gọi suy tư và xét mình nhân lễ Giáng Sinh

Đức Thánh Cha kêu gọi suy tư và xét mình nhân lễ Giáng Sinh

LUÂN ĐÔN. ĐTC mời gọi các tín hữu và mọi người thiện chí suy tư và xét mình nhân dịp lễ Giáng Sinh, lấy hứng từ Tin Mừng.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong một bài bình luận về lễ Giáng Sinh đăng trên tờ Finance Times (Tài Chánh Thời Báo), xuất bản tại Luân Đôn ngày 20 tháng 12-2012, theo lời thỉnh cầu của ban chủ nhiệm báo này.

Sau khi diễn giải ý nghĩa câu Chúa Giêsu trả lời cho những người muốn bắt bẻ Chúa ”Hãy trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, ĐTC viết:

”Sự giáng sinh của Chúa Kitô thách thức chúng ta hãy kiểm điểm lại những ưu tiên, giá trị và chính lối sống của chúng ta. Trong khi Lễ Giáng Sinh chắc chắn là một thời điểm đầy vui mừng, nhưng đây cũng là cơ hội để suy tư sâu xa, và xét mình. Vào cuối một năm cam go về kinh tế đối với nhiều người, chúng ta có thể học hỏi được điều gì từ sự khiêm hạ, nghèo khó, đơn sơ của cảnh tượng hang đá máng cỏ?

”Lễ Giáng Sinh có thể là một thời điểm trong đó chúng ta học cách đọc Tin Mừng, để biết Chúa Giêsu, không những như một hài nhi trong máng cỏ, nhưng còn như một Đấng qua đó chúng ta nhận ra Thiên Chúa làm Người. ĐTC xác quyết rằng: ”Chính trong Tin Mừng mà các tín hữu Kitô tìm được nguồn hứng cho cuộc sống thường nhất và dấn thân trong thế sự – dù là tại Quốc hội hay tại Thị trường chứng khoán-. Các tín hữu Kitô không được tránh né trần thế; họ phải dấn thân với trần thế. Nhưng sự dấn thân của họ trong chính trị và kinh tế phải vượt lên trên mọi hình thức ý thức hệ”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Các tín hữu Kitô chiến đấu chống nghèo đói vì họ nhìn nhận phẩm giá tối cao của mỗi người, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và nhắm đến cuộc sống vĩnh cửu. Các tín hữu Kitô hoạt động để có sự chia sẻ quân bình hơn các tài nguyên trái đất, vì họ xác tín rằng, trong tư cách là những người quản lý công trình sáng tạo của Thiên Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải chăm sóc những người yếu thế và dễ tổn thương nhất. Các Kitô hữu chống lại sự ham hố và bóc lột vì xác tín rằng lòng quảng đại và tình yêu thương vị tha, như Chúa Giêsu thành Nazareth đã dạy và sống, chính là con đường dẫn đến cuộc sống sung mãn. Niềm tin của Kitô hữu nơi vận mệnh siêu việt của mỗi người cho thấy cần cấp thiết hoạt động để thăng tiến hòa bình và công lý cho mọi người.”

ĐTC cũng cổ võ sự cộng tác của các tín hữu Kitô với những người khác. Kitô hữu trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar chứ không phải những gì thuộc về Thiên Chúa. Nhiều khi trong lịch sử, Kitô hữu đã không thể chiều theo những yêu cầu của Cesar. Từ việc tôn thờ hoàng đế trong đế quốc La Mã xưa kia cho đến các chế độ độc tài trong thế kỷ vừa qua, Cesar đã tìm cách chiếm chỗ của Thiên Chúa. Khi các tín hữu Kitô từ chối cúi mình trước các thần tượng giả dối được đề ra ngày nay, họ không theo một vũ trụ quan lỗi thời. Đúng ra là vì họ tự do đối với những cưỡng bách của ý thức hệ, họ được soi sáng nhờ nhân sinh quan cao quí về vận mệnh của con người, nên họ không thể thỏa hiệp với nhưng gì hạ giá quan niệm ấy.”

Sau cùng, ĐTC viết: ”Tại Italia, nhiều cảnh tượng hang đá diễn tả ở hậu trường cảnh điêu tàn của những dinh thực thời La Mã. Điều này cho thấy sự giáng sinh của Hài Nhi Giêsu đánh dấu sự cáo chung của trật tự cũ, của thế giới ngoại giáo, trong đó không ai dám chống lại những đòi hỏi của Cesar. Nay có một vị vua mới, Ngài không dựa vào sức mạnh của võ khí, nhưng dựa trên sức mạnh của tình thương. Ngài mang hy vọng cho tất cả những người, như Ngài, sống bên lề xã hội. Ngài mang hy vọng cho tất cả những người bị tổn thương vì những thay đổi của cải trong một thế giới bấp bênh. Từ máng cỏ, Chúa Kitô kêu gọi chúng ta sống như những công dân của nước trời, một nước mà mỗi người thiện chí có thể giúp xây dựng trên trái đất này” (SD 20-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

VATICAN. Sáng 20 tháng 12-2012, ĐTC đã cho phép Bộ Phong thánh công bố 24 sắc lệnh liên quan đến các án phong chân phước và hiển thánh, trong đó có sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô 6. Đứng đầu danh sách là sắc lệnh nhìn nhận phép lạ của chân phước Antonio Primaldo và hơn 800 vị tử đạo tại thành phố Otranto, nam Italia. Các vị bị người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo giết hại vào ngày 13-8 năm 1480. Hai sắc lệnh khác nhìn nhận phép lạ của hai nữ chân phước Laura di Santa Caterina, người Colombia, sáng lập dòng các nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Nữ Catarina, qua đời năm 1949 tại Belencito-Medellín, thọ 75 tuổi. Tiếp đến là nữ chân phước Maria Guadalupe đồng sáng lập dòng các nữ tu thánh nữ Margarita Maria và người nghèo. Qua đời năm 1963 thọ 85 tuổi. Có 5 sắc lệnh nhìn nhận phép lạ và 3 sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của các vị tôi tớ Chúa thuộc nhiều nước như Italia, Argentina, Tây Ban Nha, Ba Lan, Ucraine, Croát, trong đó có nhiều vị bị giết vì đức tin trong thời nội chiến ở Tây Ban Nha. Sau cùng 10 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của các vị tôi tớ Chúa, đứng đầu là Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, qua đời năm 1978 thọ 81 tuổi. Nhóm hơn 800 chân phước tử đạo ở Otranto có lẽ là nhóm đông đảo nhất được nhìn nhận phép lạ và sẽ được tôn phong hiển thánh. Cuộc tử đạo của các vị diễn ra cách đây 532 năm, sau khi quân Thổ Nhĩ kỳ của Pascià Acmet vây thành Otranto nam Italia từ ngày 28 tháng 7 đến 11 tháng 8 năm 1480. Họ chiếm được thành và tụ tập 813 người còn sống sót, và đưa lên ngòn đồi Minerva gần đó, buộc phải chối bỏ Chúa Kitô, nếu không sẽ bị giết chết. Vị tử đạo đầu tiên là Antonio Primaldo, lần lượt tất cả đều bị chém chết. Ngày 14 tháng 12 năm 1771, ĐGH Clemente 14 công bố sắc lệnh nhìn nhận các vị tử đạo là chân phước. (SD 20-12-2012) G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Noi gương Mẹ Maria khiêm nhường vâng phục tiếp đón Chúa Giêsu Kitô

Noi gương Mẹ Maria khiêm nhường vâng phục tiếp đón Chúa Giêsu Kitô

Lễ Chúa Giáng Sinh mời gọi chúng ta noi gương Mẹ Maria sống khiêm nhường, vâng phục tiếp đón Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người, và luôn tin tưởng trong mọi hoàn cảnh vui buồn và đêm đen của cuộc sống. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 7,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 19 tháng 12-2012 tại đại thính đường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã suy tư về đức tin của Mẹ Maria trong mầu nhiệm Tryền Tin. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trên lộ trình Mùa vọng Trinh Nữ Maria chiếm một chỗ đặc biệt như là Đấng trong một cách thế duy nhất đã chờ đợi việc hiện thực các lời hứa của Thiên Chúa, bằng cách tiếp đón trong đức tin và thịt xác Đức Giêsu Con Thiên Chúa, trong sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa.

”Khaire kekharitomene, ho Kyrios meta sou” ”Hãy vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Chúa ở cùng tôn nương” (Lc 1,28). Đó là các lời tổng lãnh thiên thần Gabriel chào Mẹ Maria. Thoạt tiên từ ”khaire” hãy vui lên xem ra là một lời chào thông thường trong môi trường Hy lạp, nhưng nếu được đọc trong bối cảnh của truyền thống kinh thánh, nó có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Từ này hiện diện bốn lần trong Thánh Kinh Cựu Ước tiếng Hy lạp, và luôn luôn loan báo tin vui Đấng Cứu Thế đến (x. Sp 3,14; Ge 2,21; Dcr 9,9; Ac 4,21). Như thế lời sứ thần chào Đức Maria là một lời mời gọi vui lên, một nièm vui sâu xa, loan báo chấm dứt buồn thương hiện diện trong thế giới trước cái hạn hẹp của cuộc sống, trước khổ đau, cái chết, sự gian ác, bóng tối của sự dữ xem ra làm lu mờ ánh sáng lòng lành của Thiên Chúa. Đó là một lời chào ghi dấu sự khởi đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.

Nhưng tại sao Đức Maria lại được kêu mời vui lên như thế? Câu trả lời ở trong phần hai của lời chào: ”Chúa ở cùng tôn nương”. Cả ở đây nữa để hiểu rõ ý nghĩa của kiểu nói chúng ta phải quay về Thánh Kinh Cựu Ước. Chúng ta tìm thấy kiểu nói này trong sách ngôn sứ Sôphônia: ”Hãy vui lên hỡi con gái Sion… Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi… Thiên Chúa của ngươi ở giữa ngươi là một đấng cứu độ quyền năng” (Sp 3,14-17). Trong các lời này có một lời hứa kép cho dân, cho con gái Sion: Thiên Chúa sẽ đến như đấng cứu tinh của Israel và sẽ ngự giữa dân Người, trong cung lòng con gái Sion.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trong cuộc đối thoại giữa thiên thần và Đức Maria lời hứa đó được hiện thực: Đức Maria được đồng hóa với dân tộc được Thiên Chúa cưới, Người đích thực là con gái Sion; nơi Người thành toàn sự đợi trông Thiên Chúa đến vĩnh viễn, nơi Người Thiên Chúa sống động đến ở.

Trong lời chào của sứ thần, Đức Maria được gọi là ”Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy lạp từ ”ân sủng” Kharis có cùng gốc với từ ”niềm vui”. Cả trong kiểu nói này nữa nguồn gốc niềm vui của Đức Maria cũng được minh giải: niềm vui đến từ ân sủng, nghĩa là đến từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, đến từ sự gắn liền sống động với Người, đến từ chỗ là nơi ở của Chúa Thánh Thần, hoàn toàn được nhào nặn bởi hoạt động của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Đức Maria là thụ tạo trong một cách thế duy nhất đã mở toang các cánh cửa cho Đấng Tạo Hóa, tự đặt mình trong tay Người, không giới hạn. Mẹ hoàn toàn sống nhờ và trong tương quan với Chúa; trong thái độ lắng nghe, chú ý tiếp nhận các dấu chỉ của Thiên Chúa trên lộ trình của dân Người; Mẹ được tháp nhập vào trong một lịch sử đức tin và hy vọng nơi các lời hứa của Thiên Chúa, làm thành mô cuộc sống của Mẹ. Và Mẹ tự do quy phục lời đã nhận được, quy phục ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin.

Và Thánh sử Luca trình thuật câu chuyện của Đức Maria qua sự song song với câu chuyện của tổ phụ Abraham. Cũng như tổ phụ Abraham là cha của các kẻ tin, người đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi ra khỏi miền đất ông đã sống, ra khỏi các an ninh của mình để bắt đầu lộ trình hướng tới một vùng đất không được biết và chỉ được chiếm hữu trong lời Thiên Chúa hứa, Đức Maria hoàn toàn tín thác nơi lời sứ thần của Thiên Chúa nói và trở thành mẫu gương và Mẹ của mọi kẻ tin.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nhấn mạnh một khía cạnh quan trọng khác trong thái độ sống của Mẹ Maria: đó là sự rộng mở tâm hồn cho Thiên Chúa và cho hoạt động của Người trong đức tin bao gồm cả yếu tố của sự tăm tối nữa. Tương quan của con người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, không loại trừ điều tông đồ Phaolô khẳng định trước sự khôn ngoan sâu thẳm của Thiên Chúa: ”Các phán quyết của Người ai dò cho thấu, các đường lối của Người ai theo dõi được” (Rm 11.33). Nhưng chính người, mà như Đức Maria, hoàn toàn rộng mở cho Thiên Chúa, đạt tới việc chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa, cả khi nó nhiệm mầu và thường không trùng hợp với ý muốn riêng, và là một lưỡi gươm đâu thâu linh hồn, như cụ già Simeon sẽ nói tiên tri cho Đức Maria, khi Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (x. Lc 2,35). Con đường đức tin của tổ phụ Abraham bao gồm lúc vui sướng vì ơn có con là Igiaác, nhưng cũng bao gồm lúc đen tối, khi ông phải lên núi Moria để hoàn thành một cử chỉ mâu thuẫn: Thiên Chúa đòi ông hiến tế đứa con mà Người vừa mới ban cho ông. Trên núi thiên thần truyền lệnh cho ông: ”Đừng giơ tay chống lại con trẻ, và đừng làm gì nó cả! Giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Thiên Chúa và đã không từ chối đứa con duy nhất của ngươi đối với Ta” (St 22,12). Sự tín thác hoàn toàn của Abraham nơi Thiên Chúa, tín trung với các lời hứa, đã không suy giảm, cả khi lời Người bí nhiệm và khó chấp nhận. Đối với Đức Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống niềm vui của việc Truyền Tin, nhưng cũng đi ngang qua việc đóng đinh của Con Mẹ, để sau cùng đạt tới ánh sáng của sự Phục Sinh. Áp dụng vào cuộc sống của kitô hữu Đức Thánh Cha nói:

Cả đối với con đường đức tin của từng người trong chúng ta cũng không khác: nó gặp các lúc có ánh sáng, nhưng cũng gặp các chặng trong đó Thiên Chúa xem ra vắng bóng, sự thinh lặng của Người đè nặng trên con tim chúng ta và ý muốn của Người không hợp với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng rộng mở cho Thiên Chúa, đón nhận ơn đức tin, hoàn toàn đặt tin tưởng nơi Người như tổ phụ Abraham và như Đức Maria bao nhiêu, thì với sự hiện diện của Người Thiên Chúa lại càng khiến cho chúng ta có khả năng sống mọi hoàn cảnh cuộc đời trong an bình và chắc chắn về sự trung thành và tình yêu của Người bấy nhiêu. Tuy nhiên điều này có nghĩa là phải ra khỏi chính mình và các dự án riêng của mình, bởi vì Lời Chúa là ngọn đèn hướng dẫn các tư tưởng và hành động của chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã tìm hiểu thêm một khía cạnh khác trong các trình thuật thời thơ ấu của Đức Giêsu, khi thánh Giuse và Mẹ Maria dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ theo luật Môshê: ”Mọi con đầu lòng phải dâng cho Chúa” (X Lc 2,22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia Nagiaret còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, nếu chúng ta đọc trình thuật dưới ánh sáng khoa học tin mừng của Chúa Giêsu 12 tuổi, được tìm thấy trong Đền Thờ đang thảo luận giữa các bậc thầy, sau ba ngày tìm kiếm. Đáp lại các lời âu lo của Đức Mẹ và thánh Giuse: ”Con ơi tại sao Con đã làm cho cha mẹ điều này? Này cha và mẹ đã lo lắng tìm Con”, là câu trả lời bí ẩn của Chúa Giêsu ”Tại sao cha mẹ lại tìm Con? Cha mẹ lại không biết là Con phải lo các việc của Cha Con sao?” (Lc 2,48-49). Đức Maria phải canh tân đức tin sâu xa, với nó Mẹ đã nói ”có” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận quyền ưu tiên của Người Cha thật của Đức Giêsu; phải biết để cho Người Con mà Mẹ đã sinh ra ấy được tự do đi theo sứ mệnh của Người. Và tiếng ”có” của Mẹ Maria đối với ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin, lập lại dọc dài trong suốt cuộc sống của Mẹ, cho tới lúc khó khăn nhất là lúc của Thập Giá.

Mẹ Maria đã có thể sống con đường này bên cạnh Con Mẹ với đức tin vững vàng, cả trong đêm đen cũng không mất niềm trông cậy. Trong ngày Truyền Tin Mẹ bối rối khi nghe các lời của sứ thần. Đó là sự kính sợ mà con người cảm thấy trước sự gần gũi của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ của người sợ hãi điều Thiên Chúa có thể xin. Mẹ Maria suy nghĩ về ý nghĩa lời chào của sứ thần. Trong tiếng Hy lạp được Phúc âm dùng để định nghĩa sự suy nghĩ ”dielogizeto” nhắc tới gốc của từ ”đối thoại”. Điều này có nghĩa là Mẹ Maria bước vào trong sự đối thoại thân tình với Lời Chúa đã được loan báo cho Mẹ, không coi nó một cách hời hợt mà dừng lại để cho nó thấm vào trong tâm trí, hầu hiểu điều Chúa muốn nơi Mẹ, hiểu ý nghĩa của lời loan báo.

Mẹ Maria còn có một thái độ nội tâm khác trước hành động của Thiên Chúa: đó là ”gìn giữ mọi sự trong lòng và suy gẫm” như kể trong trình thuật Chúa Giêsu sinh ra. (Lc 2,19). Có thể nói Mẹ ”giữ chung”, ”để chung” trong tim tất cả mọi biến cố đang xảy ra cho Mẹ, đặt để từng yếu tố, từng lời nói, từng sự kiện vào trong cái toàn thể và đối chiếu, duy trì, bằng cách thừa nhận rằng tất cả đến từ thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ biết nhìn vào chiều sâu để cho các biến cố gọi hỏi, soạn thảo chúng, phân định chúng, và chiếm hữu được sự hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới bảo đảm được thôi. Đó là sự khiêm tốn thẳm sâu của đức tin vâng lời của Mẹ Maria, tiếp nhận cả những diều Mẹ không hiểu trong hành động của Thiên Chúa, bằng cách để cho Chúa rộng mở tâm trí của Mẹ.

Lễ trọng Giáng Sinh mà chúng ta sắp cử hành mời gọi chúng ta sống sự khiêm tốn và vâng phục này của đức tin. Vinh quang của Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và quyền bính của một vì vua, không rạng ngời trong một thành phố danh tiếng hay trong một dinh thự sang trọng, nhưng đến ở trong cung lòng của một trinh nữ và tự mạc khải trong sự nghèo nàn của một trẻ thơ. Cả trong cuộc sống của chúng ta nữa, sự toàn năng của Thiên Chúa thường hành động trong thinh lặng với sức mạnh của chân lý và tình yêu. Đức tin nói với chúng ta rằng sau cùng quyền năng không tự vệ của Trẻ Thơ đó sẽ chiến thắng tiếng ồn ào của các quyền lực trần gian.

Chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức Thánh Cha đã chúc tất cả một lễ Giáng Sinh tươi vui an bình. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á

Chủ tịch FABC mời gọi người Công giáo Việt Nam sống đức tin làm gương cho Giáo hội Á châu

December 17, 2012

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á thumbnail

Đức Hồng y Oswald Gracias dâng Thánh lễ tại nhà thờ Đaminh Ba Chuông

Hôm 15 tháng 12, sau khi kết thúc đại hội khoáng đại Liên hội đồng Giám mục Á châu (FABC) lần thứ X tại Tòa giám mục Xuân Lộc, các tham dự viên đã chia thành 15 nhóm đến thăm Tổng giáo phận TP.HCM.

78 hồng y, tổng giám mục và giám mục cùng hàng trăm linh mục đã hiệp dâng Thánh lễ tại Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn và 14 giáo xứ thuộc 14 giáo hạt của Tổng giáo phận TP.HCM.

Tại giáo xứ Đaminh Ba Chuông, Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Đức Hồng y Oswald Gracias, Đức cha Paul Tan và Philip Banchong đã đồng tế Thánh lễ có sự tham dự của hơn 1.000 người gồm các linh mục trong giáo hạt và dòng Đa Minh, đại diện tu sĩ và bề trên các dòng.

“Tôi muốn nói với anh chị em rằng có rất nhiều điều chúng tôi cần phải học hỏi nơi cộng đoàn giáo dân Việt Nam và chúng tôi rất hãnh diện về điều đó. Tôi mong rằng tinh thần hăng say, đạo đức của anh chị em sẽ trở nên tiên phong cho các giáo hội tại Á châu” – Đức Hồng y Oswald Gracias – chủ tịch FABC – nói với cộng đoàn bằng tiếng Anh và được một linh mục dịch sang tiếng Việt.

Vị Tổng Giám mục của giáo phận Mumbai, Ấn Độ còn nhấn mạnh rằng “Tôi rất ấn tượng về tinh thần đạo đức của giáo dân Việt Nam. Những gì tôi đã thấy chứng tỏ Giáo hội Việt Nam là một Giáo hội rất sống động”.

“Vấn đề là chúng ta giữ làm sao cho đức tin đó luôn sống động và phát triển để thông truyền đức tin đó cho người khác? Làm sao để Lời Chúa đi vào đời sống chúng ta và trở thành trung tâm đời sống của mỗi người để rồi chúng ta chia sẻ nó cho người khác, cho thế giới” – vị hồng y lưu ý.

Và ngài mời gọi tất cả linh mục, tu sĩ “hãy cộng tác với nhau để đem Tin Mừng đến cho người khác và để làm được điều đó thì các cha và nữ tu trước tiên phải loan báo Tin Mừng cho bản thân bằng việc học hỏi Lời Chúa. Vì chỉ khi nào Đức Kitô ngự trị trong bản thân mình thì mình mới có thể chia sẻ Ngài cho người khác được”.

“Chúng ta phải học hỏi Lời Chúa và truyền bá cho mọi người giá trị mà Tin Mừng mang đến trong đời sống”.

Ngài nói rằng Lời Chúa phải được thực thi trong đời sống hằng ngày qua việc sống bác ái yêu thương và công bằng đối với mọi người.

“Chúa đã ban rất nhiều đặc ân cho các linh mục tu sĩ, vậy xin các vị hãy cố gắng tận dụng các đặc ân đó, phát triển các đặc ân đó nhiều hơn nữa” – ngài nhắn nhủ.

“Tôi sẽ tiếp tục cầu nguyện cho giáo dân Việt Nam và xin mọi người hãy cầu nguyện cho chúng tôi – các vị giám mục Á châu”.

Tiếng vỗ tay vang rền khi Đức Hồng y Oswald Gracias ngỏ lời chúc mừng Lễ Giáng sinh đến cộng đoàn và cảm ơn những bài thánh ca được hát bằng tiếng Latinh trong Thánh lễ đã khiến ngài rất xúc động.

Đáp lại mời gọi trên, cha Giuse Trần Hòa Hưng – Chủ tịch Liên hiệp các bề trên thượng cấp Việt Nam – nói rằng “Chúng con tin tưởng cuộc gặp gỡ trong Thánh lễ này sẽ củng cố thêm sức mạnh đức tin, thắt chặt mối dây hiệp thông huynh đệ đồng thời mở ra niềm hy vọng mới cho tất cả tín hữu trong toàn giáo phận”.

Vị linh mục đồng thời là giám tỉnh dòng Don Bosco còn cam kết rằng “trong Năm Đức Tin này, toàn thể gia đình giáo phận, các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân cố gắng xây dựng cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và nhiệt thành loan báo Tin Mừng”.

Tổng giáo phận TP.HCM hiện có hơn 200 giáo xứ với 700,000 giáo dân do hai giám mục, 700 linh mục và 5.764 tu sĩ coi sóc.

Sáng ngày 16 tháng 12, các đại biểu FABC đã dâng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Sau Thánh lễ, Đức Hồng y Oswald Gracias công bố sứ điệp của Đại hội với chín điểm trọng tâm: gặp gỡ Đức Kitô, nhiệt thành loan báo Tin Mừng, tập chú vào Nước Trời, dấn thân xây dựng sự hiệp thông, đối thoại, khiêm tốn, nhất tâm bảo vệ phẩm giá con người, liên đới với các nạn nhân trong xã hội, và can đảm thể hiện đức tin bằng sự hy sinh.

Đại hội FABC bốn năm một lần được tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam có chủ đề “40 năm FABC: Đáp ứng những thách đố tại Á châu” từ ngày 10-16/12.

UCANEWS VIETNAM

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

                                                                     Francis Rodrigues từ Mangalore India 
Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng thumbnail
Đại diện Bờ Biển Ngà tham dự tang lễ của Đức cha Dr Ambrose Madtha

Đức Tổng giám mục đại diện Đức Thánh cha Ambrose Madtha được mai táng tại quê nhà Beltanghady, miền nam Ấn Độ, vào thứ Bảy qua đời do bị tai nạn xe. Vụ tai nạn xảy ra vào ngày 8-12 tại Bờ Biển Ngà, nơi ngài được bổ nhiệm làm đại diện Tòa Thánh gần đây nhất.

Đức cha Madtha qua đời ở tuổi 57, làm sứ thần Tòa Thánh tại 6 quốc gia trong đó có Đài Loan, Albania và Bờ Biển Ngà.

Khoảng 3.500 người tham dự tang lễ của ngài tại nhà thờ giáo xứ Chúa Cứu Thế ở Beltanghady, bang Karnataka, trong đó có một phái đoàn đến từ Bờ Biển Ngà.

Đức cha Madtha được xem là người kiến tạo hòa bình đáng tin cậy tại nhiều nơi ngài được bổ nhiệm.

Lãnh đạo Hồi giáo, Dosso có mặt trong phái đoàn Bờ Biển Ngà, nói Đức cha Madtha đã xây dựng cầu nối giữa các tín ngưỡng, hồi tưởng lại việc ngài in và phát 120 bản sao kinh Qu’ran sau khi một Kitô hữu đốt sách thánh của Hồi giáo, khơi lên phản đối kịch liệt.

“Đó là cử chỉ vĩ đại … nhằm duy trì hòa bình và thân ái. Và là lý do tôi đến tham dự tang lễ”, Dosso nói.

Vào cuối năm 2010, ngài đóng vai trò người trung gian trong hậu trường khi cựu tổng thống Bờ Biển Ngà Laurent Gbagbo cố tình nắm giữ quyền lực sau khi tranh cử thất bại.

Tại Đài Loan – nơi ngài được bổ nhiệm đầu tiên – Đức cha Madtha lúc đó đã thu xếp cho tổng thống Trần Thủy Biển tham dự tang lễ của Đức Gioan Phaolô II. Chưa từng có lãnh đạo nào của quốc đảo bị cô lập ngoại giao này viếng thăm Vatican trước đó.

UCANEWS VIETNAM

Toàn Văn Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

Toàn Văn Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

 

Anh chị em thân mến,

Nhân dịp lần thứ 50 ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi, được tổ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 2013, Ngày Chúa Nhật Thứ 4 Phục Sinh, tôi muốn mời gọi các bạn phản tỉnh về chủ đề: Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng đặt nền tảng trên đức tin, được diễn ra trong năm Đức Tin cùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc công Đồng Vaticano II. Trong khi Công Đồng đang họp, Tôi tớ Chúa, Đức Phaolô VI, đã thiết lập ngày toàn thể Giáo hội cầu nguyện cho ơn gọi. Vào ngày này, mọi người được mời gọi để cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha, xin Ngài tiếp tục sai các thợ gặt đến với Giáo Hội (Mt 9,38). Tại thời điểm đó, Ngài nói rằng: “Vấn đề có đủ số lượng các linh mục có một ảnh hưởng trực tiếp đến mọi tín hữu, không chỉ vì linh mục là nền tảng của xã hội Kitô giáo trong tương lai, nhưng hơn thế, việc có đủ số linh mục là một dấu chỉ rõ ràng của sức sống đức tin và là dấu chỉ tình yêu thương của mỗi giáo xứ cũng như các cộng đoàn giáo phận, đồng thời nó cũng là dấu chỉ rõ ràng về một đời sống luân lý lành mạnh nơi các gia đình Kitô hữu. Nơi đâu ta càng thấy có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, nơi đó người ta đang sống Tin Mừng với sự quảng đại lớn lao (Đức Phaolô VI, Sứ Điệp Radio, 11 tháng 4 năm 1964).

Trong suốt nhiều thế kỷ qua, các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau từ khắp nơi trên thế giới quây quần bên nhau vào ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh và cùng nhau cầu nguyện để xin Thiên Chúa những món quà ơn gọi linh thánh, đồng thời gợi ý cho mọi người tiếp tục phản tỉnh về nhu cần khẩn thiết trong việc đáp trả lời mời gọi linh thánh. Thực vậy, hàng năm sự kiện quan trọng này đã giúp các Kitô hữu thấy được tầm quan trọng của ơn gọi linh mục và tu sĩ, và nhờ đó giúp họ ý thức về điều này trong đời sống thiêng liêng, cầu nguyện và tông đồ của mình.

Hy vọng là một sự trông mong về một điều gì đó tích cực trong tương lai, nhưng mặt khác nó cũng nuôi dưỡng hiện tại thường bị ghi dấu bởi những bất mãn và thất bại. Vậy, đâu là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta? Nhìn vào lịch sử của dân tộc Do thái, được tường thuật lại trong Cựu Ước, chúng ta thấy một yếu tố luôn xuất hiện, đặc biệt là trong những thời điểm khó nhăn như thời Lưu Đày, một yếu tố được tìm thấy đặc biệt nơi các bài viết của các Ngôn Sứ, đó là việc Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa với các Tổ Phụ: Một sự ghi nhớ mời gọi chúng ta bắt chước mẫu gương sáng chói của Tổ Phụ Abraham, ngài “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: “Dòng dõi người sẽ đông đảo như thế” (Rm 4,18). Một chân lý đầy an ủi và có tính soi sáng luôn hiển lộ trong toàn bộ lịch sử cứu độ, đó chính là sự trung tín của Thiên Chúa đối với Giao Ước. Ngài luôn đi vào Giao Ước và đổi mới nó, bất chấp con người đã phá vỡ nó khi bất trung và phạm tội, từ thời lụt hồng thủy (St 8,21-22) đến lúc xuất hành và ngang qua cuộc hành trình qua sa mạc (x. Dt 9,7).

Sự trung tín đó khiến cho Thiên Chúa tiếp tục ký kết một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu với con người, nhờ vào máu của Người Con, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta. Trong mỗi giây phút, đặc biệt là trong những lúc khó khăn, sự trung tín của Thiên Chúa luôn là nguồn sức mạnh đích thực của lịch sử cứu độ. Sức mạnh này khơi nên trong trái tim của những người nam và người nữ một niềm xác tín vững chắc vào niềm hy vọng rằng một ngày họ sẽ đạt đến “Đất Hứa”. Đây chính là nơi chúng ta tìm thấy nền tảng chắc chắn của mọi hy vọng: Thiên Chúa chưa bao giờ từ bỏ chúng ta và Ngài vẫn luôn trung tín với Lời của mình. Vì lý do đó, trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay khó khăn, chúng ta vẫn có thể nuôi dưỡng một niềm hy vọng chắc chắn và cầu nguyện với Thánh Vịnh: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến (Tv 62, 6).

Như thế, để có hy vọng, chúng ta cần tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng tín trung, Ngài luôn giữ lời hứa đã giao ước. Vì thế, đức tin và hy vọng có mối liên hệ mật thiết với nhau. “Thực ra, “Hy vọng” là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh – đến mức trong nhiều đoạn những từ “đức tin” và “hy vọng” dường như có thể hoán chuyển cho nhau. Vì thế Thư Do Thái liên kết chặt chẽ “sự viên mãn của đức tin” (10:22) với “sự tuyên xưng cách quả quyết niềm hy vọng của chúng ta” (10:23). Cũng thế, trong thư Thứ Nhất, khi Thánh Phêrô khích lệ các Kitô hữu hãy luôn luôn sẵn sàng đưa ra câu trả lời liên quan đến logos – ý nghĩa và lý do –cho niềm hy vọng của họ (x. 3:15), thì từ “hy vọng” là tương đương với từ “đức tin” (Spe Salvi, 2).

Anh chị em thân mến, Chính xác thì sự trung tín của Thiên Chúa là gì mà chúng ta có thể đặt để niềm hy vọng của mình? Thưa, đó chính là tình yêu của Ngài. Ngang qua Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa là Đấng đã đổ tràn tình yêu vào nơi sâu thẳm nhất trong mỗi chúng ta (xem Rm 5,5). Và tình yêu này, được biểu lộ trọn vẹn nơi Đức Kitô, đã thấm sâu vào tâm khảm mỗi chúng ta và đòi hỏi một lời đáp trả ngang qua cách thức mà mỗi cá nhân muốn chọn lựa cách sống cho riêng mình. Tình yêu Thiên Chúa đôi lúc dẫn người ta tới nơi mà mình chưa bao giờ tưởng tượng, nhưng tình yêu này cũng luôn dẫn ta đến với những con người mà ta muốn tìm gặp. Như thế, hy vọng được dưỡng nuôi bởi sự xác tín này: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16).

Tình yêu sâu xa và mang tính đòi hỏi này đã thấm sâu vào chúng ta và trao ban cho chúng ta một niềm can đảm. Tình yêu này cũng trao cho ta niềm hy vọng vào cuộc hành trình của mình, vào lịch sử và tương lai. Cách riêng, cha muốn nhắn nhủ với các bạn trẻ, cha muốn nhắc lại rằng: “Sự sống của các con sẽ là gì nếu thiếu tình yêu này? Thiên Chúa chăm sóc mọi người nam và người nữ từ khi tạo dựng đến khi thời gian tới hồi viên mãn, khi Ngài hoàn tất kế hoạch cứu độ của mình. Nơi Thiên Chúa Phục Sinh, chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn” (Bài Huấn Dụ Dành Cho Các Bạn Trẻ Thuộc Giáo phận Sang Marino – Montefeltro, 19 tháng 6 năm 2011). Như xưa Đức Giêsu đã sống cuộc đời dương thế như thế nào, thì hôm nay Đức Giêsu Phục sinh cũng đồng hành trong cuộc sống của chúng ta như vậy. Ngài dìm mình vào hành động của chúng ta, với tất cả khao khát và nhu cầu của ta. Giữa mọi hoàn cảnh, Đức Giêsu tiếp tục nói với chúng ta; Ngài mời gọi chúng ta sống với Ngài, vì chỉ duy Ngài là Đấng có thể thỏa đáp được mọi khát vọng nơi ta. Giờ đây, Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn các môn đệ chính là Giáo Hội, và Ngài vẫn mời gọi mọi người bước theo mình. Lời mời gọi này có thể đến bất kỳ lúc nào. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục cất lời: “Hãy đến và theo tôi” (Mc 10,21). Chấp nhận lời mời gọi này nghĩa là không còn chọn lựa con đường của riêng mình nữa. Theo Ngài nghĩa là đặt để ý muốn của chúng ta nơi Ý muốn của Đức Giêsu, trao ban cho Ngài chính mình, đặt Ngài vào vị trí trổi vượt trong mọi lĩnh vực của đời sống: gia đình, công việc, sở thích riêng và chính bản thân mình. Theo Đức Giêsu cũng có nghĩa là giao nộp chính chúng ta cho Ngài, sống trong tình thân mật với Ngài, và nhờ Ngài đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, và cũng là với anh chị em chúng ta. Sự hiệp thông đời sống với Đức Giêsu là một “tình trạng” đặc ân, nơi đó chúng ta có thể kinh nghiệm được niềm hy vọng và nơi đó đời sống chúng ta trở nên tròn đầy và tự do.

Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta. Tiến trình này, một tiến trình mà ngang qua đó chúng ta đáp trả một cách tích cực đối với lời mời gọi của Thiên Chúa, chỉ khả thi nơi những cộng đoàn Kitô hữu sống đức tin một cách mạnh mẽ và quảng đại làm chứng cho Tin Mừng, nơi có một cảm thức truyền giáo mạnh mẽ đến nỗi thúc đẩy người ta hiến mình cho Nước Thiên Chúa. Tiến trình này được nuôi dưỡng bởi các bí tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và ngang qua một đời sống cầu nguyện liên lỉ. Đời sống cầu nguyện, “một đàng là cái gì đó rất riêng tư, là một cuộc gặp gỡ giữa thâm sâu của chính tôi với Chúa, Thiên Chúa hằng sống. Đàng khác, lời cầu ấy phải luôn được hướng dẫn và soi sáng bởi những kinh nguyện quý giá của Giáo Hội và của các thánh, và bởi lời cầu phụng vụ, trong đó Chúa dạy đi dạy lại chúng ta làm thế nào cầu nguyện cho xứng hợp” (Spe Salvi, 34).

Đời sống cầu nguyện sâu xa và bền bỉ giúp tăng trưởng đức tin nơi cộng đoàn Kitô hữu. Đồng thời đời sống cầu nguyện cũng giúp đổi mới không ngừng niềm xác tín rằng Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Ngài và luôn nuôi dưỡng họ bằng cách trao ban những ơn gọi đặc biệt – ơn gọi linh mục và tu sĩ – để họ có thể là dấu chỉ hy vọng cho thế giới. Thực vậy, linh mục và tu sĩ được mời gọi để trao ban chính mình một cách vô điều kiện cho Dân Thiên Chúa, trong một sự phục vụ yêu thương cho Tin Mừng và Giáo hội, với niềm xác tín vào niềm hy vọng vốn chỉ có thể đến từ một sự mở ra đối với Thiên Chúa. Do đó, ngang qua những chứng tá về đức tin và lòng nhiệt thành tông đồ, họ có thể thông truyền, đặc biệt với các thế hệ trẻ, một khao khát mạnh mẽ để quảng đại và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô, Đấng mời gọi họ bước theo Ngài một cách gần gũi hơn. Khi một người môn đệ của Đức Giêsu chấp nhận lời mời gọi thần linh để dâng hiến chính mình trong đời sống linh mục hay tu trì, chúng ta chứng kiến một hoa trái chín mùi nhất của cộng đoàn Kitô hữu, giúp chúng ta nhìn vào tương lai của Giáo Hội và sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội trong niềm tin tưởng và hy vọng. Điều này đòi hỏi cần có những người thợ gặt mới để công bố Tin Mừng, để cử hành Thánh Lễ và bí Tích Hòa Giải. Vì thế, không thể thiếu những linh mục nhiệt thành, những người luôn ở bên người trẻ với tư cách là “những người bạn đồng hành”, giúp đỡ họ, trong bước đường đời đầy khó khăn và cam go, nhận ra Đức Ki-tô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (xem Ga 14,6). Các linh mục cũng là người nói cho người trẻ về lòng can đảm của Tin Mừng, về vẻ đẹp của việc phục vụ Thiên Chúa, cộng đoàn Kitô hữu và anh chị em của mình! Các linh mục là hiện thân của hoa trái phát sinh từ một sự dấn thân nhiệt thành vốn trao ban ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của họ, vì đời sống này được đặt nền tảng trên niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước ( x. Ga 4,19).

Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô.

Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên con đường đức ái đầy đòi hỏi và sự can đảm này. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban; các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu; và các con sẽ học để sẵn sàng đưa ra một câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (Pr 3,15).

Nguyễn Minh Triệu sj Chuyển ngữ – Vietvatican

Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin

Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Sống đức tin Công Giáo cách sâu sắc và tưởng thành không những đòi hỏi phải có can đảm để tuyên xưng đức tin ấy bằng hành động cụ thể bên ngoài qua việc chu toàn những bổn phận thiêng liêng của người tín hữu sống trong Giáo Hội, như siêng năng việc thờ phượng Chúa, học hỏi lời Chúa, năng lãnh nhận các bí tích ban ơn cứu độ như Thánh Thể và hòa giải, và làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời -mà hơn nữa- còn phải ý thức sâu xa về những nguy cơ đe dọa đức tin đó nữa.

(Xem tiếp . . . .Năm Đức Tin- Nguy cơ của tiền bạc cho đời sống Đức Tin )

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma

VATICAN. Sáng chúa nhật 16 tháng 12-2012, ĐTC đã viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma. Đây là giáo xứ thứ 2 tại Roma được ngài viếng thăm trong năm nay.

Xứ này thuộc khu vực Đồi Prenestino ở mạn Đông Roma, được thành lập hồi giữa thập niên 1980. Sau nhiều khó khăn ban đầu, giáo xứ có được một thánh đường mới được thánh hiến hồi năm 2007 sau một thời gian dài chờ đợi. Hiện nay có gần 8 ngàn dân thuộc giáo xứ này và do Cha Fabio Fasciani làm chánh xứ. Đến nơi vào lúc quá 9 giờ rưỡi, ĐTC đã được ĐHY Giám quản Vallini, Đức cha phụ tá khu vực Giuseppe Marciante cùng với 8 LM tiếp đón. Ngài đặc biệt chào thăm lối 30 đôi vợ chồng trẻ có con được rửa tội trong năm qua, trước khi cử hành thánh lễ trước sự hiện diện của hơn 500 người ngồi chật thánh đường. Nhiều người khác tham dự thánh lễ từ bên ngoài hoặc qua truyền hình.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến đặc tính và ý nghĩa của chúa nhật thứ 3 mùa vọng, cũng được gọi là ”Chúa nhật ‘Gaudete’ (Anh chị em hãy vui mừng). Ngài nói: ”Chúa nhật này phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên. Mùa vọng là một dấn thân và hoán cải để chuẩn bị Chúa đến; nhưng hôm nay Giáo Hội cho chúng ta nếm hưởng trước niềm vui của lễ Giáng Sinh đang đến gần. Thực vậy, Mùa vọng cũng là mùa vui mừng, vì trong đó niềm mong đợi Chúa Cứu Thế được khơi dậy trong tâm hồn các tín hữu, và việc chờ đợi một người mà chúng ta yêu mến sắp đến, luôn luôn là lý do làm chúng ta vui mừng.”

Tiếp đến, ĐTC lần lượt giải thích ý nghĩa của 3 bài đọc trong ngày lễ:

– Bài đọc thứ I là một lời mời gọi tha thiết hãy vui mừng và bắt đầu bằng câu ”Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui lên.. Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nhảy mừng và hết lòng tung hô” (Sofonia 3,14). Câu này cũng giống như lời loan báo của Thiên Thần với Mẹ Maria ”Hỡi Bà đầy ơn phúc, hãy vui lên” (Lc 1,26). Lý do chính yếu để thiếu nữ Sion có thể vui mừng được diễn tả trong lời quả quyết mà chúng ta đã nghe, đó là ”Chúa đang ở giữa bạn” (Xp 3,15.17)… Ngôn Sứ muốn nói với chúng ta rằng không có lý do gì để thất vọng, nản chí, buồn sầu, dù tình trạng ta phải đương đầu có thế nào đi nữa, vì chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Chúa, nguyên sự hiện diện ấy cũng đủ để làm cho con tim được thanh thản và hân hoan.

– Trong bài đọc II, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu thành Philiphê vui lên trong Chúa. Tại sao cần vui mừng? Thưa vì ”Chúa đang đến gần!” (Pl 4,5). Trong vài ngày nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa đến, Ngài trở thành trẻ thơ và anh em của chúng ta để ở với chúng ta, và chia sẻ thân phận phàm nhân của chúng ta. Chúng ta phải vui mừng vì sự gần gũi, vì sự hiện diện của Chúa. Thánh Tông đồ mạnh mẽ nói trong một thư khác rằng không điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô. Chỉ có tội lỗi mới làm cho chúng ta xa Chúa.. Nhưng cả khi chúng ta lìa xa Chúa, Ngài vẫn không ngừng yêu thương và gần gũi chúng ta trong lượng từ bi của Ngài, sẵn sàng tha thứ và tái đón nhận chúng ta trong tình thương của Ngài”.

– Sau cùng bài Phúc Âm hôm nay nói rằng để đón tiếp Chúa chúng ta phải chuẩn bị, cứu xét kỹ lưỡng lối sống của chúng ta. Với những người hỏi thánh Gioan Tẩy Giả xem phải làm gì để sẵn sàng đón Đấng Cứu Thế đến (Xc Lc 3,10.12.14), thánh nhân trả lời rằng Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường, nhưng Chúa muốn mỗi người sống theo các tiêu chuẩn liên đới và công bằng; nếu không có những đức tính này thì ta không thể chuẩn bị tốt đẹp để gặp gỡ Chúa.

ĐTC cũng ghi nhận sự khiêm tốn sâu xa của thánh Gioan khi thánh nhân xác nhận sứ mạng của mình chỉ là dọn đường cho Chúa Giêsu, đồng thời Người loan báo một Đấng ”mạnh mẽ hơn”, sẽ làm phép rửa ”trong Thánh Linh và lửa” chứ không phải trong nước.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC chào thăm mọi người hiện diện, từ ĐHY Giám quản, tới cha sở và các thành phần khác nhau trong giáo xứ, và cả các em đang học giáo lý. Ngài nhắn nhủ rằng ”Năm Đức Tin chúng ta đang sống phải trở thành cơ hội để làm tăng trưởng và củng cố kinh nghiệm về việc giảng dạy giáo lý, làm sao để toàn thể khu phố này được nhận biết và đào sâu đạo lý của Giáo Hội và gặp gỡ Chúa như một Nhân Vật Sinh Động. Tôi đặc biệt ngỏ lời với các gia đình, và cầu chúc họ hoàn toàn thực hiện được ơn gọi yêu thương với lòng quảng đại và kiên trì. Sau cùng ĐTC khích lệ các trẻ em nam nữ và những người trẻ trong giáo xứ và nói rằng: ”Các con hãy cảm thấy mình là những người thực sự giữ vai chính trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, dành trọn năng lực tươi mát, lòng hăng say, khả năng của các con để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân trong cộng đoàn”.

Sau khi kết thúc thánh lễ, ĐTC còn dừng lại tại nhà nguyện nơi cử hành thánh lễ ngày thường, để chào thăm những người già cả và anh chị em bệnh nhân.

Kinh Truyền Tin

Trở về Vatican, ĐTC đã xuất hiện lúc quá 12 giờ trưa tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô, trong đó có đông đảo các trẻ em và thân nhân thuộc các giáo xứ ở Roma.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm chúa nhật thứ 3 mùa vọng hôm qua, với cảnh tượng thánh Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng đến xin Ngài làm phép rửa ở sông Giordan. Vì thánh Gioan dùng những lời nghiêm nghị khuyên mọi người chuẩn bị đón Đức Cứu Thế đến, một số người hỏi thánh nhân: ”Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3,10.12.14). Các cuộc đối thoại này thật ý nghĩa và rất thời sự.

Câu trả lời thứ I của thánh nhân hướng về tập thể dân chúng. Thánh Gioan Tẩy Giả nói: ”Ai có hai áo chùng, thì hãy cho người không có một áo, và ai có lương thực để ăn thì cũng hãy làm như vậy” (v.11). Ở đây chúng ta có thể thấy một tiêu chuẩn công lý, được đức bác ái linh hoạt. Công lý đòi phải vượt thắng sự chênh lệch giữa người có dư thừa và người thiếu những điều tối cần thiết; bác ái thúc đẩy quan tâm đến người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, thay vì tìm kiếm những lý lẽ biện minh để bảo vệ tư lợi. Công lý và bác ái không đối nghịch nhau, nhưng cả hai đều cần thiết và bổ túc cho nhau. ”Tình thương luôn luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất”, vì ”luôn luôn có những tình trạng thiếu thốn về vật chất trong đó sự trợ giúp là điều tối cần thiết trong sự yêu thương cụ thể đối với tha nhân” (Deus caritas est, 28)

Câu trả lời thứ hai của thánh Gioan dành cho một số người thu thuế cho người Roma. Những người này bị khinh rẻ vì họ thường lợi dụng địa vị để ăn cắp. Thánh Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng đừng đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định (Xc v.13). Nhân danh Thiên Chúa, vị Ngôn Sứ không đòi phải có những cử chỉ ngoại thường, nhưng trước tiên hãy chu toàn nghĩa vụ của mình một cách lương thiện. Bước đầu tiên tiến về cuộc sống đời đời luôn luôn là tuân giữ các giới răn; trong trường hợp này đó là giới răn thứ bẩy: ”chớ trộm cắp” (Xc Xh 20,15).

Câu trả lời thứ ba liên quan đến các binh sĩ, một loại người có một quyền bính nào đó, và vì thế dễ bị cám dỗ lạm quyền. Với các binh sĩ, thánh Gioan nói: ”Đừng ngược đãi và đừng bóc lột ai; hãy hài lòng với đồng lương của các anh” (v.14). Cả trong trường hợp này, sự hoán cải bắt đầu bằng sự lương thiện và tôn trọng tha nhân: chỉ dẫn này có giá trị đối với mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn hơn.

ĐTC nhận xét rằng ”xét chung các cuộc đối thoại này, điều gây ấn tượng mạnh nhất là tính chất rất cụ thể trong những lời của thánh Gioan: Vì Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về những gì chúng ta làm, nên trong cách cư xử cần chứng tỏ chúng ta tuân theo ý Chúa. Và chính vì thế, những chỉ dẫn của thánh Gioan Tẩy Giả vẫn luôn thời sự: cả trong thế giới phức tạp của chúng ta ngày nay, tình thế sẽ khá hơn nếu mỗi người tuân giữ các qui luật hành xử này. Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, giúp chúng ta chuẩn bị Lễ Giáng sinh với nhiều thành quả tốt đẹp của sự hoán cải.

Kêu gọi và chào thăm Sau kinh Truyền Tin và phép lành, ĐTC nhắc nhở mọi người rằng: ”Từ ngày 28-12 đến 2-1 tới đây, tại Roma sẽ có cuộc gặp gỡ các bạn trẻ Âu Châu do Cộng đồng Taizé cổ võ. Tôi cám ơn các gia đình theo truyền thống hiếu khách của Roma, đã sẵn sàng đón tiếp các bạn trẻ ấy. Cám ơn Chúa, vì số cầu nhiều hơn số cung, tôi lập lại lời kêu gọi đã gửi đến các giáo xứ, để các gia đình khác, trong sự đơn sơ, cũng có thể trải qua kinh nghiệm thật đẹp về tình thân hữu Kitô.”

Theo tòa Giám Quản Roma, có hơn 40 ngàn bạn trẻ Kitô Âu Châu thuộc các hệ phái Kitô, về đây tham dự cuộc gặp gỡ.

Trong lời chào thăm các tín hữu hành hương, bằng tiếng Pháp, ĐTC nhắc đến chúa nhật thứ ba mùa vọng là chúa nhật vui mừng, nhưng ngài đặt câu hỏi: ”Nhưng sự vui mừng có nghĩa gì khi mà con người đang chịu đau khổ vì thử thách hoặc cô đơn? Trong năm Đức Tin này, chúng ta cố gắng coi cuộc sống và những khó khăn của chúng ta với cặp mắt đức tin, để khám phá thấy Chúa Kitô là nguồn mạch vui mừng! Sự hiện diện của Chúa có sứ cứu độ, giải thoát con tim chúng ta khỏi những gì làm chúng ta lo âu; sự hiện diện của Ngài đổi mới và làm cho hòa dịu. Đúng vậy, chúng ta hãy vui lên trong Chúa đang tới! Ước gì niềm vui của chúng ta cũng lan tỏa trong các gia đình, nơi làm việc, trong các cộng đoàn và đất nước chúng ta bằng những cử chỉ quan tâm, chia sẻ và tha thứ!

Với các tíin hữu nói tiếng Anh, ĐTC nhắc đến vụ thảm sát 28 người hôm 14 tháng 12-2012 và nói: ”Tôi rất đau buồn vì bạo lực vô nghĩa lý xảy ra hôm thứ sáu vừa qua tại thành phố Newtown bang Connecticut. Tôi bảo đảm sự gần gũi của tôi trong kinh nguyện, với các gia đình nạn nhân, nhất là những gia đình bị mất một người con. Xin Thiên Chúa của sự ủi an đánh động tâm hồn và thoa dịu nỗi đau khổ của họ. Trong mùa vọng này, chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện sốt sắng hơn và hoạt động cho hòa bình. Tôi khẩn cầu dồi dào phúc lành của thiên Chúa cho những người bị thương tổn vì thảm trạng này và mỗi người trong anh chị em.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt chào thăm các em bé Roma đến đây để xin làm phép tượng Chúa Hài Đồng. Ngài nói: ”Các con rất thân mến, trong khi cha làm phép các tượng Chúa Giêsu mà các con sẽ đặt trong hang đá của các con, cha thành tâm chúc lành cho mỗi người trong các con và gia đình các con, cũng như cho các thầy cô và Trung Tâm sinh hoạt của các trẻ em thuộc các giáo xứ (oratorio) Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

HẠT LÚA TRONG NIA

HẠT LÚA TRONG NIA

Hạt lúa trong nia là hạt lúa no tròn, đẫy đà, chắc mẫm, vàng sáng. Hạt lúa ngoài nia là hạt lúa lép xẹp, rỗng ruột, nhẹ tênh.

Năm 1979, cánh đồng ông Bỉnh ở xứ tôi gần như mất trắng. Mẹ tôi sảy cả nia lúa mà không còn được mấy hạt chắc trong nia. Cả hecta ruộng được vài bao lúa chắc, còn lại là cả đống lúa lép. Cha tôi, mẹ tôi nhìn đàn con mà đau thắt ruột. Mất mùa, đói chắc.

Trong bữa cơm chiều, một hạt cơm cõng năm bảy lát củ  khoai nhìn chua xót. Mẹ tôi nói: “Hành trình đời người như hành trình của hạt lúa con ạ. Thiên Chúa đã gieo chúng ta vào ruộng đời, và đến một ngày nào đó, Người sẽ đến mà thu hoạch. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người. Mỗi người phải là hạt lúa trong nia để Thiên Chúa thu vào kho lẫm của người. Nếu là hạt lúa lép, hẳn Người để ngoài đồng kia mà đốt đi”.

Lời Chúa hôm nay gợi lại cho tôi những bài huấn  đức của Mẹ thật tuyệt vời trong đêm trăng khó  ngủ vì đói. Chị em tôi vẫn cảm phục  Đức Tin của mẹ. Giữa lúc khốn khổ như thế mà mẹ vẫn không quên nhiệm vụ làm gương và giáo dục đức tin cho chúng tôi.

Mẹ từng giải thích cho chúng tôi về nguyên nhân sinh lúa lép: do cây lúa yếu, ngã đổ, do sâu bệnh, do sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn trên lá, đạo ôn cổ  bong, do sạ dày, do dọn đất không kỹ, thiếu phân, thiếu nước… Đời sống đức tin cũng vậy con ạ. Rồi mẹ dừng lại ở đó để chị em tôi tự hiểu.

Vâng, nếu ngày ấy chưa hiểu ý mẹ, thì  mỗi Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng, Thánh Gioan Tẩy Giả lại giải thích cho chúng tôi hiểu “chúng tôi phải làm gì “ để trở nên một hạt lúa no tròn chắc mẫm:

-“Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”.

-“Các ngươi đừng đòi gì  quá mức đã ấn định cho các ngươi”

-“Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Vâng, hạt lúa Đức Tin của tôi của bạn hẳn cũng phải là hạt lúa no tròn chắc mẫm để khi Chúa  đến, hạt lúa đời mình được Chúa chon vào kho lẫm của Người.

Để được no tròn, phải tránh các nguyên nhân gây lép: một mặt cây lúa yếu do bộ rễ yếu vì không bám chặt vào Lời Chúa, vào Thánh Thể, mặt khác, cây lúa đời mình để nhiễm bệnh kiêu căng, ích kỷ, hà tiện, bất công, và bao thứ bệnh nguy hiểm khác cho Đức Tin.

Thánh Gioan còn đề nghị rất rõ phương thức làm cho hạt lúa no tròn. Đó là: Bác Ái, Công Bình.

Bác ái, công bình không chỉ là những khẩu hiệu, logo, bích chương hay biểu ngữ, nhưng là một cuộc sống sẻ chia đích thực vì yêu mến Chúa. Sự sẻ chia cho người vì yêu mến Chúa, có sức làm cho mỗi chúng ta thêm phong phú dồi dào về đời sống đức tin: vì “Những bác ái trong cuộc đời tôi là kho tàng muôn đời cho tôi. Ngày tôi về với Người trên trời, kho tàng ấy lại thuộc về tôi” (x Lời bài hát Tôi Biết Tôi Tin. PMCHH”.

Tôi bỗng nhớ trong lễ Giỗ Tổ Tộc Họ Trần Bùi và Mừng Chúa Giáng Sinh tại gx. Gia Viên ngày 09-12-2012, Cha Vĩnh Tiến giới thiệu gx. Xuân Sơn, hạt Túc Trưng, và mong mọi người sẻ chia. Người dẫn chương trình có đặt vấn đề: Mừng Chúa Giáng Sinh bằng việc bác ái cụ thể và đọc liền mấy câu thơ: “Hướng lòng lên tới Xuân Sơn, Nghe Con Thiên Chúa từng cơn nghẹn ngào. Tình này con quyết dâng trao, Tiền này con quyết gửi vào Xuân Sơn”. Rồi anh dí dõm: “Trong Nước Trời, không sử dụng đồng tiền in hình ông Abraham Lincohn, và các ông khác, nhưng sử dụng đồng tiền in hình Đức Giê-su, hoặc đồng tiền in hình Thánh Giá”. Và hôm ấy, gần 700 khách tham dự đã cùng đồng tình đổi tiền đang sử dụng thành tiền in hình Đức Giê-su, bằng cách bỏ vào thùng tiền hiệp thông làm quà cho giáo xứ Xuân Sơn. Mọi người hôm ấy hẳn vui vẻ, vì biết việc bác ái của mình chính là việc làm cho hạt lúa của mình no tròn, hạt lúa trong nia.

Hơn nữa, khi làm việc bác ái sẻ chia cho người, cũng chính là lúc chúng ta thể hiện đức công bình với Thiên Chúa và với anh em. Với Thiên Chúa Đức Công Bình là một hành vi cảm tạ. Với tha nhân, đức công bình không thể là một sự quân bình ăn đồng chia đều xét trên cá vị, hoặc được phép hưởng dùng cách ưu tiên cho xứng danh xứng phận, nhưng lại là sự hưởng dùng ở một mức vừa đủ để sống trong khi ta vẫn có thể tự do sử dụng cách sung túc hơn. Biết bao người đã chọn cách sống vừa phải, và phần sung túc có thể kia thì nhường cho những người thiếu thốn. Không thiếu những đại gia giàu lòng đai lượng nhưng không vì cầu được danh tiếng hay tên tuổi hão huyền. Cũng không thiếu những hạt muối chia đôi trong cảnh lao tù, khốn khó. Càng không thiếu những sẻ chia khi người chia sẻ thực sự là những người đói khổ.

Những hạt lúa của bao người đang no tròn chắc mẫm. Có lẽ nào, tôi và bạn bằng lòng làm hạt lúa lép rỗng ruột, nhẹ tênh bay theo gió cuốn giữa đời. Cũng có người vì thấy tôi, thấy bạn có chút khả năng, kiến thức giáo lý, chức vụ trong giáo hội, hay những đóng góp cách nào đó mà khen tặng chúng ta là “hạt gạo trên sàng”, nhưng thực ra, hạt hạo trên sàng phải là hạt gạo no tròn đức bác ái.

Chúa nhật thứ III mùa Vọng là Chúa Nhật hồng, Chúa Nhật vui mừng vì Chúa sắp đến cho tất cả những ai sẵn sàng chờ đợi bằng chính đời sống bác ái công bình. Họ sẽ vui mừng vì an tâm tin rằng mình sẽ là hạt lúa trong nia, hạt lúa được vào kho lẫm của Thiên Chúa, hạt lúa được cứu độ.

Lạy Chúa Giê-su, Ngài sẽ sảy con trong nia lúa của Ngài. Xin cho đời sống Đức Tin của con no đầy vì những sẻ chia cụ thể cho người thân, kẻ sơ, cho người thương, kẻ ghét. Và xin cho tất cả việc bác ái công bình của chúng con làm là vì Tin vào Ơn Cứu Độ Chúa hứa ban. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

VUI TRONG CHỜ ĐỢI

VUI TRONG CHỜ ĐỢI

Bước vào Mùa Vọng người Kitô hữu nói chung và  người Công Giáo nói riêng được Giáo Hội mời gọi chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh, mừng và chiêm ngắm ngày mà Thiên Chúa ký kết giao ước và trao ban Tình Yêu của Ngài cho con người nhân loại ngang qua mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Ngôi Hai Thiên Chúa. Việc chuẩn bị được bắt đầu từ Chúa nhật thứ I Mùa Vọng và kéo dài trong 4 tuần qua những hành vi: Tỉnh thức, cầu nguyện, tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội, rước lễ và thực thi việc bác ái…

Vọng là mong, chờ, và đợi! Ta mong, chờ và đợi ai, ta mong, chờ và đợi điều gì? Người Do Thái khi xưa đã cất lên lời khấn nguyện: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy mưa, mưa đức công chính, đất mở ra đi cho nảy mầm ơn cứu độ…” (Is.45,8). Lời cầu nguyện trên nói lên sự mong, chờ và đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa ban tặng cho dân tộc họ một vị cứu tinh, để rồi qua vị cứu tinh, người sẽ dẫn dắt và giúp họ thoát khỏi sự thống trị của đế quốc Rôma đang ngày đêm đè nặng trên vai họ những sưu cao thuế nặng, những luật lệ hà khắc…như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hòa bình vô tận…” (Is.9,5-6).

Ngày nay, giữa những đồn đoán về ngày tận cùng của vũ trụ, trái đất; giữa những khó khăn về kinh tế, những cănh bệnh lạ, bệnh nan y đang bao trùm lên đời sống, sức khỏe của con người nhân loại; giữa những tha hóa về mặt đạo đức, những tội ác ngày càng lan tràn; giữa những mối bất hòa, nghi kỵ, chia rẽ từ mái ấm gia đình trở đi; giữa những tranh chấp về chủ quyền, tranh dành quyền bá chủ thế giới, đắc thắng khi sở hữu những vũ khí tối tân, tàn độc…còn đó quanh ta những bức tranh hào nhoáng, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sữ dữ luôn lôi kéo ta vào con đường chết. Như những người Do Thái năm xưa, ta cũng mong, chờ và đợi, hay đúng nghĩa hơn là ta ao ước gia đình luôn hạnh phúc, cuộc sống bình yên, một thế giới đầy ắp tiếng cười, một người bạn cảm thông….ta chờ và đợi Thiên Chúa đến và giúp ta vượt khó, giúp ta tránh xa cạm bẫy của quyền lực sự dữ…

Cố nhạc sỹ Lê Thương đã diễn tả hình ảnh người phụ nữ mong, chờ và đợi hình bóng của đức lang quân qua nhạc phẩm “Hòn Vọng Phu” dưới lăng kính vô vọng và tuyệt vọng, từ sự vô vọng và tuyệt vọng đã làm cho người phụ nữ bằng xương, bằng thịt hóa thánh khối đá vô tri, vô giác. Không, những người Do Thái năm xưa và ta ngày nay không vô vọng, tuyệt vọng, không hóa đá khi mong, chờ và đợi. Sau những mong, chờ và đợi là những niềm vui được khởi đi từ Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Ngôn ngữ của tiên tri Xôphônia đã minh chứng điều ấy: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi…Đức Vua của Ítraen đang Ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa..” (Xp.3,14-15). Thánh Phaolô cũng diễn tả niềm vui ấy trong thư ngài gửi cho giáo đoàn Philípphê: “ Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại, vui lên anh em…” (Pl.4,4).

Vâng! Sau cơn mưa trời lại sáng, sau những mong, chờ  và đợi là những niềm vui. Niềm vui ấy không chỉ đóng khung trong bản văn Kinh Thánh, nhưng được  thực tại hóa ngay trong lòng Giáo Hội qua phẩm phục màu hồng của vị chủ tế trong thánh lễ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng; qua những dấu chỉ bên ngoài: Bộ mặt đường phố như được khoác một tấm áo mới bằng những ánh đèn muôn màu muôn sắc, những hình ảnh trang trí sinh động, vui nhộn; những chiếc hang đá như muốn diễn tả lại khung cảnh “Nhập Thế” của Con Thiên Chúa tại Belem năm xưa; hòa quyện vào những bài thánh ca, những khúc nhạc vui nhộn…

Niềm vui của những người Do Thái năm xưa, của Giáo Hội, của ta ngày nay được khởi đi từ Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, niềm vui ấy được đúc kết thành hai từ “Bình An”.  Đức Kitô đã phán: “ Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian..” (Ga.14,21). Niềm vui, sự bình an của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại không theo kiểu thế gian, vì thế cho nên, ta khó cảm và khó đón nhận được một cách trọn vẹn. Vì sao thế? Xin thưa, vì ta đang là những người sống giữa thế gian, đang phải gánh chịu những hệ lụy từ thế gian.

Vâng! Ta đang sống giữa thế gian, ta đang phải gánh chịu những hệ lụy từ thế gian, vì thế  không ít thì nhiều ta có những suy nghĩ, cách hành xử theo thế gian. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ta được mời gọi đổi mới cuộc đời, đổi mới cách suy nghĩ và hành động khác với thế gian như lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc.3,4-6).

Để giúp ta đổi mới, giúp ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động, giúp ta cảm và đón nhận niềm vui, sự bình an của Thiên Chúa ngang qua Hài Đồng Giêsu trong mùa Giáng Sinh và trong suốt cuộc đời ta, nhất là giúp ta sống đúng với tâm tình của Mùa Vọng, mùa mong, chờ và đợi. Trước tiên ta học nơi những Người Do Thái năm xưa, sau khi lắng nghe lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, họ nhìn nhận mình đầy tội lỗi, để rồi họ cùng nhau bước xuống dòng sông Giođan đón nhận nghi thức thanh tẩy từ ông Gioan tẩy Giả, không những thế, họ còn muốn biết công việc, và làm như thế nào, những mong qua hành động, qua công việc cộng với lòng sám hối, họ hân hoan đón mừng Đấng mà họ đang mong, chờ và đợi. Thế là, từ người bình dân cho tới người vị vọng, từ người ngư phủ cho tới người binh lính và người thu thuế, không hẹn mà gặp, họ tìm đến ông Gioan và hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”.

Cứ ngỡ rằng ông Gioan Tẩy Giả mời gọi họ bước vào đời sống mà ông đang sống, thực hiện những công việc mà ông đã và đang thực hiện, nhưng không, ông chỉ khuyên họ hãy sống và thực hiện tốt công việc, bổn phận hiện tại của mình:

  • V ớ i d â n ch ú n g ô n g khuyên: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”
  • V ớ i nh ữ n g ng ư ờ i thu thu ế , ô n g khuy ê n : “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”
  • Đối với binh lính ông khuyên: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”(x.Lc.3,10-14).
Đây cũng chính là lời khuyên giúp ta sống Mùa Vọng một cách tròn đầy, giúp ta cảm và đón nhận niềm vui và bình an của Thiên Chúa một cách đích thực. Nhờ niềm vui và sự bình an của Thiên Chúa giúp ta sống an vui và hạnh phúc, giúp ta chuẩn bị tốt tâm hồn đón mừng Chúa đến viếng thăm và nhất là giúp ta giới thiệu Chúa cho mọi người.

Còn đó tấm gương sống tâm tình mong, chờ và  đợi , tấm gương đổi mới cách nghĩ, hành động một cách triệt để trong tâm tình tin tưởng hoàn toàn, phó thác hoàn toàn, nhất là tâm tình đơn sơ, khiêm hạ để đón mừng Chúa giá ngự. Đó chính là Mẹ Maria.

Lạy Chúa! Xin khắc ghi lời khuyên của Chúa qua thánh Gioan Tẩy Giả, xin giúp con luôn sống trong tỉnh thức và cầu nguyện, giúp con noi gương Mẹ Maria trong tâm tình Mong, chờ và đợi Chúa đến, xin giúp con và tất cả mọi người trở thành cây viết chì trong lòng bàn tay của Chúa, để Chúa thực hiện những nét chữ Yêu thương nơi thế giới này.Amen

Antôn Lương Văn Liêm– Đạo Binh Đức Me

Công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2013

 

Công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2013

VATICAN. Trong sứ điệp công bố hôm 15 tháng 12-2013, nhân ngày cầu nguyện cho ơn gọi LM tu sĩ, ĐTC Biển Đức 16 khích lệ toàn thể cộng đoàn Giáo Hội sốt sắng cầu nguyện và cộng tác vào việc khơi dậy ơn gọi.

Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi lần thứ 50 sẽ được cử hành vào chúa nhật 21 tháng 4-2013, cũng là chúa nhật thứ 4 Phục Sinh, với chủ đề: ”Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng dựa trên đức tin”.

Trong Sứ điệp, ĐTC nhắc đến nền tảng niềm hy vọng Kitô giáo là xác tín về lòng trung tín của Thiên Chúa: ”Trong mọi lúc, nhất là trong những thời điểm khó khăn nhất, chính sự trung tín của Thiên Chúa luôn luôn là động lực của lịch sử và ơn cứu độ, làm rung động tâm hồn con người và củng cố họ trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ đạt được ”Đất Hứa”. Đó chính là nền tảng của mọi niềm hy vọng: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Ngài trung tín với lời đã hứa. Chính vì thế, trong mọi hoàn cảnh, phúc lợi hay bất lợi, chúng ta có thể nuôi dưỡng một niềm cậy trông và cùng với tác giả Thánh Vịnh cấu nguyện: ”Hồn tôi hỡi, hãy nghỉ an trong Chúa, Niềm hy vọng của tôi từ Người mà đến” (Tv 62,6).

ĐTC viết thêm rằng ”lòng trung tín của Thiên Chúa hệ tại tình thương của Người. Người chính là Cha đổ tràn tình thương trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh (Xc Rm 5,5). Và tình thương ấy được biểu lộ trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô. Tình thương ấy gọi hỏi cuộc sống chúng ta, đòi một câu trả lời về câu trả lời mà mỗi người muốn làm cho cuộc sống của mình, về những gì họ sẵn sàng đề ra để thực hiện trọn vẹn câu trả lời ấy”.

Từ những điều trên đây, ĐTC xác quyết rằng Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi con người bước theo Người, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn còn lập lại: ”Hãy đến và theo Thầy!” (Mc 10,21). Để đón nhận lời mời gọi ấy, ta không được chọn bản thân mình làm đường đi. Theo Chúa có nghĩa là dìm ý chí chúng ta trong ý Chúa Giêsu, thực sự dành ưu tiên cho Chúa, đặt Người ở chỗ thứ nhất so với tất cả những gì thuộc về cuộc sống của chúng ta: gia đình, công ăn việc làm, những lợi ích cá nhân, và chính bản thân. Điều này có nghĩa là đặt trọn cuộc sống của chúng ta cho Chúa, sống với Chúa trong sự thân mật sâu xa, đi vào cuộc hiệp thông với Chúa Cha trong Thánh Linh, nhờ Chúa Giêsu, và qua đó, hiệp thông với anh chị em mình”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”ơn gọi LM tu sĩ nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ bản thân với Chúa Kitô, đối thoại chân thành và tín thác nơi Chúa, để đi vào thánh ý Người. Vì thế, cần tăng trưởng trong kinh nghiệm đức tin, được hiểu như một quan hệ sâu xa với Chúa Giêsu, lắng nghe tiếng Chúa vang dội trong nội tâm chúng ta.. Hành trình ấy, – làm ta có khả năng đón nhận tiếng gọi của Chúa,- có thể xảy ra giữa lòng những cộng đoàn Kitô sống bầu không khí đức tin nồng nhiệt, quảng đại làm chứng về lòng gắn bó với Tin Mừng, hăng say truyền giáo, đi tới sự hiến thân trọn vẹn cho Nước Chúa, được nuôi dưỡng bằng sự siêng năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là Thánh Thể, và bằng đời sống cầu nguyện nhiệt thành”. (SD 15-12-2012)

G. Trần Đức anh OP – Vietvatican

Họp báo công bố Sứ điệp Hòa Bình của Đức Thánh Cha

Họp báo công bố Sứ điệp Hòa Bình của Đức Thánh Cha

VATICAN. Ngày 14 tháng 12-2012, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã giới thiệu Sứ điệp của ĐTC nhân ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 46 sẽ được cử hành vào ngày 1 tháng giêng 2013 tới đây với chủ đề ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình”.

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo giới thiệu cũng có Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, Tổng thư ký của Hội đồng Công lý và Hòa bình, cùng một số chức sắc khác của Tòa Thánh. Sứ điệp của ĐTC gồm 7 đoạn chia làm 3 phần:

Trong phần đầu tiên (1-4), ĐTC nêu lý do tại sao ngài chọn đề tài ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình” và giải thích ý nghĩa sâu xa của mối phúc này, cũng như của hòa bình là hồng ân của Thiên Chúa và công trình của con người. Mặc dù tình trạng đáng báo động của thế giới hoàn cầu hóa với những lò căng thẳng xã hội và những hình thức xung đột bạo lực khác nhau, ĐTC nhận thấy vẫn có những công trình hòa bình chứng tỏ ơn gọi bẩm sinh của nhân loại hướng về hòa bình (n.1) và có một ước muốn hòa bình tương ứng với quyền lợi và nghĩa vụ của sự phát triển toàn diện, xã hội và cộng đoàn”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để trở thành người xây dựng hòa bình, một điều cơ bản là chú ý tới chiều kích siêu việt, liên lỷ đàm thoại với Thiên Chúa và nhìn nhận mình thuộc một gia đình nhân loại duy nhất, với những liên hệ giữa con người với nhau và các tổ chức được một tinh thần cộng đồng hướng dẫn, trong đó có sự nhìn nhận quyền lợi và nghĩa vụ của nhau” (n.3). Xét cho cùng, người xây dựng hòa bình theo mối phúc thật của Chúa Giêsu chính là người tìm kiếm thiện tích của tha nhân, thiện ích trọn vẹn của linh hồn và thân xác, cũng như cộng tác vào việc thực hiện công ích của các xã hội khác nhau” (n.3).

Trong phần II (4-5), ĐTC khẳng định rằng việc thực hiện công ích và hòa bình gắn liền với việc tôn trọng sự sống con người toàn diện. Một người thực sự xây dựng hòa bình là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong mọi chiều kích: bản thân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống sung mãn chính là tột định của hòa bình (n.4).

Trong chiều hướng này, ĐTC viết rằng ”điều quan trọng là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con ngươi như phá thai và làm cho chết êm dịu” (n.4).

ĐTC cũng nói tới sự thăng tiến thiện ích bản thân của con người trong đó có chiều kích siêu việt. Về điểm này, ngài khẳng định rằng ai hoạt động cho cuộc sống an bình của các dân tộc, thì cũng bảo vệ tự do tôn giáo, không phải như một thứ tự do không bị ràng buộc và cưỡng bách trong việc chọn lựa tôn giáo, nhưng còn như ”tự do làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội” (n.4). Về việc thăng tiến chiều kích cộng đồng của thiện ích, ĐTC nhấn mạnh tới tầm quan trọng của quyền có công ăn việc làm. Điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu này là phải xét lao công về phương diện luân lý đạo đức, tinh thần, và như một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghi-en cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm” (n.4).

Trong phần thứ III (6-7), ĐTC đề cao tầm quan trọng của việc giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình. Đây cũng là đề tài được ngài đề cập đến trong Sứ điệp hòa bình hồi năm ngoái. Ngài viết ”Đông đảo những người xây dựng hòa bình được mời gọi dấn thân thực hiện một sự giáo dục giá trị về mặt xã hội. Cần tái khám phá vai trò hàng đầu của gia đình, là tế bào cơ bản của xã hội về phương diện dân số, luân lý, sư phạm, kinh tế và chính trị. Gia đình có một ơn gọi tự nhiên là thăng tiến sự sống” (n.6). Vì thế, cần bảo vệ quyền của các bậc cha mẹ được giáo dục con cái mình và vai trò hàng đầu của trẻ mẹ trong việc giáo dục con cái về luân lý và tôn giáo.

Cả các cộng đồng tôn giáo cũng có một nghĩa vụ rất lớn giáo dục về hòa bình. ĐTC đề cao chức năng quan trọng của các tổ chức văn hóa, học đường và đại học trong việc đóng góp vào việc đổi mới các thành phần lãnh đạo và các tổ chức. Ngài cũng khẳng định rằng nền sư phạm về hòa bình đòi phải có một đời sống nội tâm phong phú, cần có những điểm tham chiếu vững chắc về luân lý và có những thái độ cũng như lối sống thích hợp (n.7).

Cũng nên nói thêm rằng những nhóm đồng tính luyến ái thì cảm thấy bị ”xúc phạm” vì đoạn sứ điệp của ĐTC chống lại hôn nhân đồng phái. Ngài viết: ”Cơ cấu tự nhiên của hôn nhân cần phải được nhìn nhận và thăng tiến, như sự kết hiệp giữa một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt.. Những hình thức kết hiệp này trong thực tế làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn cơ cấu tự nhiên, làm lu mờ đặc tính và vai trò không thể thay thế được của hôn nhân trong xã hội…” (SD 14-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những người Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng[1], khi chúng ta công bố ơn cứu độ của Đức Kitô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại.

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn diện của con người.

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗi người, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy. Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của Chúa. Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Mối phúc Tin Mừng 2. Các mối phúc mà Đức Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Kinh Thánh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai hậu, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên Chúa như thế thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Đức Giêsu nói cho họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám phá ra mình là con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở bên cạnh họ. Họ hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với những con người dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Đức Giêsu, mạc khải Tình yêu của Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi khi chúng ta đón nhận Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta kinh nghiệm được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa, đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy. Cụ thể, Đức Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đầy tin tưởng giữa con người với Thiên Chúa.

Mối phúc của Đức Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia sẻ. Điều tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại ngày nay cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những giả định vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng tồn tại được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện trở thành cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần tập trung vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.

Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con người tạo nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Yavê ban uy lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).

Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người 3.Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình[2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hòa bình. Không có chân lý về con người vốn được Đấng Tạo Hóa ghi dấu trong trái tim con người, tự do và bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính mình.

Để trở nên người kiến tạo hòa bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hòa bình vốn là tội lỗi trong tất cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.

Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và công bình, các quyền hỗ tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa bình là một trật tự được sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ cảm thấy nhu cầu của tha nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện ích với tha nhân và lao tác cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những giá trị tinh thần. Hòa bình là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong một cách thế phù hợp với phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là những hữu thể có lý trí, con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]

Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới, giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).

Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Đức Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Đức Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của chúng ta (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh hồn và trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.

Từ lời dạy này, người ta có thể suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường phải đi trong việc theo đuổi hòa bình.

(còn tiếp) Nguyễn Minh Triệu sj chuyển ngữ – Vietvatican

[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1. [2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng 4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.

[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.

TRÁNH NÓI XẤU THA NHÂN

 

TRÁNH NÓI XẤU THA NHÂN

1.LỜI CHÚA:

“CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37).

2.CÂU CHUYỆN:

Thời Hy-lạp cổ đại, triết gia SÔ-CỜ-RÁT (Socrates) là một người nổi tiếng về sự thông thái khôn ngoan và  được nhiều người ngưỡng mộ. Một hôm có một người quen đến nói thì thầm vào tai ông rằng:

“Ông có biết chuyện gì mới xảy ra cho ông bạn thân của ông hay không?” Sô-cờ-rát liền nói:

“Khoan đã. Trước khi nghe ông kể câu chuyện đó, tôi muốn ông cùng với tôi xem xét để sàng lọc ba bước về câu chuyện đó đã”. Người kia hỏi lại:

“Xem xét để sàng lọc ư?” Sô-cờ-rát đáp: “Đúng vậy. Bước sàng lọc thứ nhất là XÉT VỀ SỰ THẬT: Ông có cam đoan với tôi rằng những gì ông sắp nói ra về ông bạn thân của tôi hòan tòan chính xác hay không?”

Người kia trả lời: “Không chắc lắm. Thật ra tôi chỉ được nghe người khác thuật lại mà thôi”. Sô-cờ-rát liền nói:

“Được rồi. Bây giờ qua bước sàng lọc thứ hai là XÉT VỀ THIỆN Ý: Điều ông sắp nói ra với tôi có phải là điều tốt đáng biểu dương không?” Người kia trả lời:

“Không phải điều tốt, mà còn ngược lại!” Sô-cờ-rát tiếp tục:

“Như vậy là ông đang định nói một điều không tốt về người bạn thân của tôi. Nhưng ông lại không chắc điều đó có phải là sự thật hay không. Bây giờ là bước sàng lọc cuối cùng là XÉT VỀ ÍCH LỢI: Câu chuyện ông sắp nói với tôi có mang lại lợi ích gì cho tôi không?” Người kia đáp:

“Không. Thực sự là không!” Bấy giờ Sô-cờ-rát mới ôn tồn kết luận như sau:

“Vậy thì những điều ông muốn nói với tôi không phải là sự thật, không phải là điều tốt đáng biểu dương, và cũng chẳng đem lại lợi ích gì cho tôi. Thế thì ông nói nó ra với tôi làm chi?”

3. SUY NIỆM:

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy trong cuộc sống thường ngày không được nói hành nói xấu tha nhân. Lý do có  thể tóm gọn như sau : Một là hành động bất công khi lên án một người mà không cho họ bào chữa. Hai là hành động lỗi bác ái khi làm mất tình đòan kết nội bộ và động cơ dẫn đến sự nói xấu thường do ích kỷ, tự mãn và ganh ghét những người hơn mình. Ba là hành động tội ác, nếu việc nói xấu đó gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho danh dự và uy tín của người bị hại.

Đức Khổng Tử đã dạy học trò: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người). Còn Chúa Giê-su thì dạy các môn đệ: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12). Ngòai ra Người cũng dạy chúng ta tôn trọng sự thật: “CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37).

Có người lại đặt vấn đề: Nếu biết một người làm điều xấu mà im lặng là đồng lõa và làm cho kẻ đó ngày một lún sâu vào tội ác. Vậy trong trường hợp đó, ta nên làm gì để vừa giữ được đức bác ái, lại vừa không bao che cho tội ác? Câu trả lời đã được Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Chúa dạy như sau: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngọai hay một người thu thuế” (Mt 18, 15-17). 4. THẢO LUẬN:

1) Bạn có đồng ý với ba bước sàng lọc, khi nghe những lời nói xấu về người vắng mặt của triết gia Sô-cờ-rát không?

2) Tại sao chúng ta không nên nói ra những điều xấu của kẻ vắng mặt dù điều đó có thật? 3) Tội nói hành khác với tội vu khống thế nào? Khi nào tội vu khống biến thành trọng tội?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Cha từ ái. Xin dạy chúng con biết sống công bình ngay chính noi gương Đức Giê-su Con yêu của Cha. Xin cho chúng con tranh nói những điều gian dối bất công cho những người chúng con không ưa. Xin cho chúng con luôn nói lời ngay thật để xứng đáng nên con thảo của Cha và luôn làm vui lòng Cha, noi gương Chúa Giê-su là Con rất yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha.

– X HIỆP CÙNG MẸ MARIA – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON. Lm. ĐAN VINH – Hiephoithanhmau.co