Vatican: Phong Thánh cho Chân Phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gần kề

Vatican: Phong Thánh cho Chân Phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gần kề

Blessed John Paul II

Rome  – Giáo hội Công giáo đang sắp sửa tuyên bố Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một vị thánh. Một nguồn tin quen thuộc từ Vatican trong quá trình phong thánh  được đưa ra vào ngày thứ Ba 2 tháng 7 năm 2013 vừa qua.

Hội đồng  xem xét các ứng cử viên cho việc phong thánh đã bỏ phiếu vào ngày Thứ Ba cho vị Giáo Hoàng qua đời gần đây nhất với một phép lạ thứ hai. Nguồn tin do một giới chức Vatican không nêu tên cho biết.

Có nhiều phép lạ của Cố Giáo Hoàng được xem xét nhưng chưa biết rõ phép lạ nào sẽ được công nhận ghi chép vào Thánh sử. Đức Thánh Cha Phanxicô phải quyết định và ký nhận để trở thành văn bản chánh thức.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhậm chức từ năm 1978 cho đến khi ông qua đời vào năm 2005, và Ngài là Giáo Hoàng nổi bật  – thu hút số đông trên toàn cầu.

Ngày tang lễ của Chân Phước Gioan Phaolô, hàng ngàn khách hành hương tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô đều hô vang "Santo Subito" nghĩa là “Phong Thánh ngay!”

 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô rất nhanh chóng được phong chân phước khi ông qua đời chỉ trong 6 năm kể từ khi qua đời vào năm 2005, đây là việc phong chân phước nhanh nhất trong thế kỷ.

Có ba giai đoạn cơ bản để trở thành một vị thánh Công giáo sau khi qua đời.

-Đầu tiên, danh hiệu "đáng kính" được chính thức Đức Giáo Hoàng để đánh giá một người nào đó để được thừa nhận các " nhân đức anh hùng."

-Thứ hai: Cần có một phép lạ , hoặc phải hy sinh vì đạo.(trở thành Chân Phước)

-Thứ ba : Phong thánh đòi hỏi một phép lạ thứ hai.

Vào năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chấp thuận cho Đức Gioan Phaolô II phép lạ đầu tiên: một nữ tu người Pháp được chữa khỏi bệnh run rẩy tay chân (Parkinson).

Sơ Marie-Simon-Pierre, một nữ tu đã cầu nguyện đến Cố Đức Giáo Hoàng sau khi ông qua đời, sau đó Sơ đã được chữa khỏi bệnh, chứng bệnh này cũng là căn bệnh của Chân Phước Gioan Phaolô khi còn sống.

Phép lạ thứ hai được báo cáo xảy ra ở Costa Rica, nơi một phụ nữ cho biết cô hồi phục từ một chấn thương não nghiêm trọng nhờ sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II, nguồn  tin phát xuất từ Vatican.

Patrick Kelly, giám đốc điều hành John Paul II Đền Thánh tại Washington, giải thích tiến trình điều tra các phép lạ của giáo hội.

"Một nhóm bác sĩ đầu tiên kiểm tra các phép lạ. Thứ hai, nhóm nghiên cứu của các nhà thần học nhìn vào phép lạ và sau đó họ thảo luận với nhau về tính hợp pháp và tất cả các sự kiện xung quanh những điều phép lạ", ông nói:

Kỷ lục về phong thánh nhanh nhất là thời hiện đại là Thánh Jose Maria Escriva, người Tây Ban Nha sáng lập ra dòng tu Công giáo Opus Dei của giáo dân và các thánh được hiến dâng cho việc tìm đến Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Escriva đã được phong thánh 27 năm sau khi ông qua đời.

Riêng Chân Phước Gioan Phaolô II có thể phá vỡ kỷ lục đó.

Theo nguồn tin tại Roma thì rất có thể Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô sẽ tuyên phong hiển thánh cho ĐGH Gioan Phaolô II vào ngày 8 tháng 12 là ngày đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đồng thời năm nay lễ trùng vào ngày Chúa Nhật, thích hợp cho việc tổ chức lễ phong thánh.

Một nguồn tin khác cũng đang được nói tới tại Roma là theo một giới chức của Vatican, xin được dấu tên, cho biết rất có thể Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng được phong thánh trong cùng ngày với ĐGH Gioan Phaolô II. Nguồn tin trên được hãng thông tấn ANSA xác nhận.

Truớc tin ĐGH Gioan Phaolô II sắp được phong thánh, dân chúng Ba Lan rất vui mừng. Linh Mục Robert Necek, phát ngôn viên của Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz tuyên bố với đài truyền thình TVN24 của Ba Lan rằng “ Hồ sơ đã đến chặng đường cuối cùng. Còn lại chỉ là quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô".

Thái Trọng (Phỏng dịch từ CNN và AP)

Tệ nạn của bệnh cờ bạc

Tệ nạn của bệnh cờ bạc

Một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập nhà thương chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc

Trong mọi thành phố lớn khắp thế giới hiện nay đều có các nhà đánh bạc Casino, nơi con người bị cám dỗ tới ”nướng tiền” cho các chủ sòng bài và guồng máy ăn chơi khổng lồ của nó. Nổi tiếng nhất phải kể đến Las Vegas bên Hoa Kỳ, là thành phố đỏ đen nằm giữa sa mạc, nhưng là nơi ăn chơi vô cùng sầm uất, với các sòng bài và đủ mọi màn giải trí cho du khách. Bên Á châu thì có các sòng bài Dubai và Macao. Nhưng các loại máy kéo tiền đủ loại hiện diện ở khắp mọi thành phố lớn nhỏ trên thế giới. Điều đáng ghi nhận là máu mê đánh bạc máy và ham kéo máy không phải chỉ là của người trẻ, mà của cả người già nữa.

Old people gambing 1

Bên Hoa Kỳ, trong thành phố nào bắt đầu mở khu phố đánh bạc, thì chỉ một thời gian sau là cộng đoàn thấy vắng vài cụ ông cụ bà trong các giờ phụng vụ và sinh hoạt. Các cụ bắt đầu mê cờ bạc và giải trí bằng cách đi kéo máy. Có cụ sau lễ Chúa Nhật là đi giải trí cho tới khi hết tiền mới về nhà. Biết đi kéo mày là chỉ có rỗng túi, nhưng không đi không được, vì qủy cờ bạc xúi bẩy xỏ mũi kéo đi. Thế là tiền hưu và tiền của con cháu biếu tặng tới đâu cúng hết cho sòng bài tới đó.

Nghiện cờ bạc là một trong các tệ nạn trên thế giới hiên nay, khiến cho hàng triệu người lâm cảnh tán gia bại sản, gia đình tan nát. Nó đã trở thành một bệnh nguy hiểm. Thống kê của tổ chức sức khỏe thế giới OMS của Liên Hiệp Quốc cho biết trên thế giới hiện có 3% tổng số dân toàn cầu bị bệnh cờ bạc. Chỉ riêng Italia đã có tới 800 ngàn người bị bệnh cờ bạc và 1,7 triệu người có ”máu đỏ đen”. Mỗi năm số người này làm mất đi 69,7 triệu giờ làm việc, vì nạn cờ bạc. Theo kết qủa nghiên cứu của tổ chức ESPAD-Italia, do phân bộ bệnh dịch và nghiên cứu trên các cơ cấu y tế của Học viện vật lý bệnh xá, kiểu chơi ”Cạo và thắng”, Sổ số tự phát, và Siêu xổ số được 58% thiếu nữ ưa thích. Trong khi 30% thanh niên thì thích đánh cá về các trận đấu thể thao. Trong số đó có 52,5% người chơi trong các quán giải khát, 39,1% chơi tại nhà bạn bè và 22,5% chơi tại các phòng chơi. Giới trẻ thanh niên chơi bạo tay hơn, trong khi các thiếu nữ thường không chơi quá 10 Euros.

Theo các thống kê mới nhất nạn cờ bạc tại Italia là dịch vụ hàng năm thu vào 80 tỷ Euros, tức tương đương với 5% tổng sản lượng quốc gia, nghĩa là Italia chỉ đứng sau Anh quốc. Bà Katia Lanosa, chủ tịch Hiệp hội các trạng sư về hôn nhân vùng Emilia Romagna trung Italia, cho biết nạn cờ bạc ngày càng là vấn đề gây đổ vỡ trong gia đình. Nó khiến cho một phần mười các cuộc hôn nhân bị đổ bể, và gia tăng số các trẻ em ăn cắp ăn trộm để có tiền kéo máy hay đánh bạc. Nạn cờ bạc cũng ngày càng gia tăng các cuộc khủng hoảng trong gia đình dẫn đến chỗ ly dị ly thân. Ngoài ra, hậu qủa của cuộc khủng hoảng trong tương quan hôn nhân là cảnh mất công ăn việc làm. Đồng lõa với nạn cờ bạc là thời giờ rảnh rỗi và tình trang không thỏa mãn trong cuộc sống. Bà Katia Lanosa cũng cho biết bệnh cờ bạc cũng thường là lý do của các cảnh bạo lực nghiêm trọng trong gia đình và ngoài xã hội. Nhu cầu cần tiền để đánh bạc khiến cho người bệnh có thể đi đến chỗ hành hạ vợ con và giết người thân, hay cướp bóc vũ trang. Ông Ugo Pastore, Biện lý trưởng vùng Emiglia Romagna, đặc trách về người trẻ vị thành niên cho biết càng ngày càng có nhiều thanh thiếu niên bị lôi cuốn vào tệ nạn cờ bạc. Lý do vì chúng là con cái các gia đình có cha mẹ nghiện cờ bạc, bị bỏ rơi không được săn sóc các nhu cầu tối thiểu, hay chúng bị lây bệnh cờ bạc của cha mẹ. Và số người trẻ trộm cắp tiền của bạn bè người thân gia tăng.

Tại Bergamo, miền bắc Italia, dân chúng của một khu chung cư đã phẫn nộ phát động phong trào tẩy chay các quán đặt máy đánh bạc. Hiện đã có hàng chục quán, nhưng trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều quán khác. Ông Anselmo Parolini, cha gia đình nói: ”Thật là xấu hổ. Chúng tôi lo âu cho con cái của chúng tôi. Chính vì thế chúng tôi đã phát động phong trào phản đối, tẩy chay các quán có đặt máy đánh bạc. Đã có 500 người ký tên, và chúng tôi sẽ đưa vấn đề lên văn phòng tài vụ của tình Bergamo. Chúng tôi cũng sẽ tổ chức môt cuộc biểu tình phản đối việc mở thêm các sòng bài điện tử và gây ý thức đối với tệ nạn xã hội ngày càng lan tràn và trầm trọng này. Nhưng thật ra, tuy có luật ban hành hồi tháng 12 năm 2012 thiết định các sòng bài điện tử phải ở xa các vùng nhậy cảm 400 mét, nhưng đã không có luật nào cấm mở các sòng bài điện tử như thế. Giới trẻ và cả người già ngày càng bị cám dỗ ghé vào kéo máy nơi các sòng bài điện tử này”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vi và các bạn một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập bệnh viện quốc gia chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc, về căn bệnh cờ bạc. Bà Henrietta hiện cũng điều khiển nhóm 12 chuyên viên nghiên cứu thuộc 4 đại học Anh quốc trong nhiều chương trình khác nhau nhắm thám hiểm não bộ của những người mắc ”bệnh cờ bạc”. Bà cũng là cố vấn của chính quyền Anh quốc về vấn đề này.

Hỏi: Thưa bà Henrietta, có thể thiết định số người mắc bệnh cờ bạc trên thế giới và tại Âu châu hiện nay là bao nhiêu không?

Đáp: Không phải mọi quốc gia trên thế giới đều đã làm các cuộc nghiên cứu chuyên biệt. Vấn đề đó là khi dùng các dụng cụ khác nhau, chẳng hạn như SOGS và CPGI để chẩn đoán bệnh cờ bạc, thì khó mà có thể làm thống kê. Vì thế tại sao lại quan trọng việc chỉ nên dùng một phương pháp, ít nhất là tại Âu châu. Bên anh quốc, có 0,9% dân nghiện cờ bạc, tức khoảng nửa triệu người tất cả.

Hỏi: Những người bị bệnh cờ bạc có nguy cơ phạm pháp không thưa bà?

Đáp: Có khoảng một phần ba những người bị bệnh cờ bạc phạm pháp. Tuy nhiên, đây cũng là tỷ lệ của tất cả những người bị bệnh cờ bạc trên toàn thế giới. Các tội phạm thông thường nhất là lừa đảo và trộm cắp. Thường họ cũng ăn cắp trong nơi làm việc, sau khi đã trộm cắp nơi bạn bè và người thân.

Hỏi: Thưa bà vậy chi phí chữa trị cho một người bị bệnh cờ bạc tại Anh quốc hiện nay là bao nhiêu?

Đáp: Việc chữa trị hoàn toàn miễn phí, và được tài trợ bởi tổ chức bác ái chuyên trợ giúp việc hồi phục các người mắc bệnh cờ bạc. Bệnh viện quốc gia chữa các bệnh nhân có vấn đề cờ bạc vẫn còn là nhà thương công duy nhất chữa bệnh cờ bạc tại Anh. Chúng tôi gặp gỡ các bệnh nhân lần đầu tiên để tư vấn, rồi sau đó có 8 lần gặp riêng hay gặp theo nhóm. Chúng tôi cũng cống hiến việc trị liệu trong gia đình nữa và trợ giúp để họ biết sử dụng tài chánh, ngoài các lần gặp gỡ chuyên biệt cho các phụ nữ hay những người vô gia cư.

Hỏi: Thưa bà, chính quyền Anh quốc có đang hoạt động đủ để chống lại bệnh cờ bạc hay không?

Đáp: Tôi tin rằng chính quyền thực sự đang làm nhiều cho vấn đề này. Ủy ban chiến thuật đặc trách cờ bạc lo lắng bảo vệ người lớn và trẻ em dễ bị thương tổn vì nạn cờ bạc. Ngoài ra Ủy ban cũng tung ra các cuộc nghiên cứu và tài trợ việc chữa trị. Tổ chức bác ái trợ giúp các bệnh nhân cờ bạc mỗi năm đầu tư hơn 5 triệu Euros cho công tác này; tôi cầu mong tổ chức gia tăng các việc đầu tư, và tôi nhận thấy rằng Anh quốc đã đi trước rất nhiều trong việc chống lại bệnh cờ bạc.

Hỏi: Hủy bỏ việc quảng cáo thăng tiến chơi cờ bạc có thể giúp gì cho cuộc chiến đấu này hay không thưa bà?

Đáp: 0,9% tổng số dân Anh quốc mắc bệnh cờ bạc, nhưng trong năm 2012 đã có tới 70% chơi cờ bạc ít nhất là một lần. Theo tôi nghĩ hủy bỏ việc quảng cáo xem ra không là điều thực tế. Tôi thấy điều phải làm là phối hợp việc quảng cáo làm sao để các nội dung ít lôi cuốn mời mọc hơn nhất là đối với người trẻ. Ngoài ra, chúng ta cũng bảo đảm làm sao để các quảng cáo đó không được thường xuyên qúa, và nhất là khi có trẻ em theo dõi các chương trình truyền hình.

Hỏi: Thế có các chiến thuật nào khác nữa hay không thưa bà?

Đáp: Có chứ. Một đường lối chính trị tự loại trừ cho phép các cá nhận tự loại mình ra khỏi các cuộc đánh cá là điều sống còn giúp che chở các người có máu mê cờ bạc. Vấn đề là làm thế nào để đạt được mục tiêu này. Tôi hiện đang hướng dẫn một nhóm cộng tác với chính quyền để tìm hiểu xem làm thế nào để đạt mục đích này mà không gây thiệt hại cho sự tự do lựa chọn của một cá nhân.

Hỏi: Thưa bà Henrietta, bệnh cờ bạc đang ngày càng trở thành tệ hại hơn hay sao?

Đáp: Năm 2000 và năm 2007 các phỏng đoán cho biết có khoảng 0,7% dân số toàn cầu bị bệnh cờ bạc. Năm 2010 con số này đã gia tăng lên 0,9%. Thống kê cuối cùng cho biết tại Anh quốc mỗi năm có 4.500 người bị bệnh cờ bạc, và số trẻ em vị thành niên dưới 16 tuổi đông gấp đôi. Nhưng cần phải chờ đợi kết qủa của cuộc nghiên cứu tới để hiểu xem bệnh mê cờ bạc có gia tăng hay không. Nếu là như vậy, thì vấn đề có thể tùy thuộc nơi các dụng cụ mới, trong đó có hệ thống liên mạng Internet. Vì những người mê cờ bạc có thể chơi ngay trên Internet tại nhà, trong phòng của mình, mà không cần phải đi tới các sòng bài.

Hỏi: Theo bà mỗi năm có thêm bao nhiêu người bị bệnh cờ bạc?

Đáp: Trong bệnh viện của chúng tôi mỗi năm có ít nhất 700 người bị bệnh cờ bạc điều trị. Phổ biến nhất là các vụ cá độ thể thao, kéo các máy điện tử, và đánh bạc trên Internet. Tôi mong ước rằng các phụ nữ mắc bệnh bài bạc cũng đến bệnh viện của chúng tôi để được chữa trị. Hiện nay số phụ nữ chỉ chiếm 10% các bệnh nhân đang được trợ giúp để chữa bệnh cờ bạc.

(Avvenire 15-5-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày 5-7-2013: công bố thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô

Ngày 5-7-2013: công bố thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô

VATICAN. Thông điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô sẽ được công bố vào ngày thứ sáu 5 tha1ng 7-2013 với tựa đề ”Lumen Fidei” (Ánh sáng Đức Tin).

Thông điệp sẽ được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh, do ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Thông điệp được công bố bằng 6 thứ tiếng: Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha. Hãng tin Ansa của Italia cho biết ấn bản tiếng Ý đầu tiên của thông điệp này, 90 trang khổ nhỏ, sẽ được ấn hành với nửa triệu bản và giá bán là 3,5 Euro.

Cách đây ít lâu chính ĐTC Phanxicô cho biết Thông điệp này được viết bằng ”4 tay”, nghĩa là ĐTC Biển Đức 16 đã soạn thông điệp này nhân dịp chuẩn bị kết thúc Năm Đức Tin, nhưng rồi ngài từ nhiệm nên chưa hoàn thành và công bố. ĐTC Phanxicô dùng tài liệu đó để hoàn thành Thông điệp đầu tiên của ngài.

Báo chí Italia nhận xét rằng đây là một kỷ lục: thông điệp được ban hành chỉ có 113 ngày sau khi Đức Phanxicô bắt đầu làm Giáo Hoàng, so với 8 tháng trong trường hợp thông điệp đầu tiên của ĐTC Biển Đức 16; 5 tháng đối với Đức Gioan Phaolô 2, 8 tháng trong trường hợp Đức Gioan 23 và 14 tháng đối với Đức Phaolô 6.
Cũng ngày 1-7-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết sáng thứ hai 8-7 tới đây, ĐTC sẽ thực hiện một cuộc viếng thăm ngắn tại đảo Lampedusa ở miền cực nam Italia.

Ngài đã xúc động sâu xa vì vụ đắm tàu mới đây gần Lampesuda của những người vượt biên từ Phi châu. Đây là thảm trạng mới nhất trong một loạt những biến cố thuộc loại này.

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC có ý cầu nguyện cho những người bị mất mạng trên biển, viếng thăm những người sống sót và những người tị nạn trên đảo Lampedusa, khích lệ dân chúng tại đảo này và kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tất cả mọi người hãy săn sóc những anh chị em này đang ở trong tình cảnh khốn cùng.
Cha Lombardi cho biết vì hoàn cảnh đặc biệt, cuộc viếng thăm của ĐTC sẽ diễn ra dưới hình thực âm thầm bao nhiêu có thể, kể cả về sự hiện diện của các GM và chính quyền địa phương, nghĩa là chỉ có sự hiện diện của Đức GM giáo phận Agrigento sở tại và thị trưởng ở đảo Lampedusa.

Theo chương trình do tòa TGM giáo phận Agrigento công bố, ĐTC sẽ khởi hành từ Roma lúc 8 giờ sáng và đến Lampedusa hơn 1 giờ sau đó. Ngài sẽ xuống thuyền có các ngư phủ Sicilia tháp tùng, và thả vòng hoa xuống biển để tưởng niệm các nạn nhân. Sau đó ĐTC sẽ đến Punta Favarolo chào thăm một nhóm người di dân. Sau cùng tại sân thể thao Arena, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ, rồi ngài thăm giáo xứ thánh Gerlando, trước khi trở lại phi trường lúc 12 giờ rưỡi để trở về Roma.

Cha sở Stefano Nastasi ở Lampedusa cho biết cộng đoàn Công Giáo địa phương đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ĐTC. Sân thể thao ở địa phương có thẻ chứa được từ 5 đến 10 ngàn người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo xứ Tam Biên đóng cửa, chuyển sang Nhà Thờ Kiếng cũ

Giáo xứ Tam Biên đóng cửa, chuyển sang Nhà Thờ Kiếng cũ

Thiên An/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV)Giáo dân gốc Việt cùng các sắc dân khác tại giáo xứ Tam Biên, Garden Grove, vừa tổ chức nghi thức đóng cửa, rời ngôi nhà thờ quen thuộc, để chuyển sang nhà thờ Chúa Kitô Vua (Nhà Thờ Kiếng trước đây), vào trưa Thứ Bảy, 29 Tháng Sáu.

 

Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên (trái) và Giám Mục Kevin Vann đóng cửa thánh đường Tam Biên, Garden Grove, trước sự chứng kiến của giáo dân. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Ngôi thánh đường nổi tiếng, Nhà Thờ Kiếng, với 10,661 tấm kiếng lớn dựng thành 7 tòa nhà khác nhau trên khuôn viên rộng 34 mẫu, như vậy chính thức trở thành nhà thờ chánh tòa mới của Giáo Phận Orange, một trong 10 giáo phận lớn nhất Hoa Kỳ.

Vì khu vực Little Saigon thuộc giáo phận này, sự kiện dời giáo xứ sang nhà chính tòa hôm Thứ Bảy có ý nghĩa quan trọng với hàng chục ngàn giáo dân gốc Việt.

Bị ảnh hưởng đáng kể nhất là các cộng đoàn giáo dân tại giáo xứ Tam Biên, những người được lệnh giáo phận rời nhà thờ để sinh hoạt tôn giáo tại địa điểm mới. Tam Biên có tỉ lệ đông đảo giáo dân là người Việt Nam. Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên hiện là linh mục chánh xứ của nhà thờ.

Bên cạnh nhiều người trung niên, cao niên đã chọn giáo xứ Tam Biên từ những năm 1975 làm nơi nâng đỡ tinh thần khi chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ, còn có những em thiếu nhi được mang đến nhà thờ này để được rửa tội khi mới chào đời, rồi sau đó học tiếng Việt, tập múa với các anh chị Việt Nam. Giáo dân gốc Việt tại nơi này thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cùng chọn Tam Biên làm nơi sinh hoạt tinh thần đều đặn mỗi tuần.

Vì ngôi nhà thờ Tam Biên chứa đựng nhiều kỷ niệm quan trọng trong đời người giáo dân tại đây, từ ngày vui đám cưới đến lễ tiễn đưa người quá cố, nhiều giáo dân, và cả linh mục, nữ tu, không cầm được nước mắt trong buổi lễ chia tay thánh đường.

Nghi thức đóng cửa, dời xứ

Buổi lễ bao gồm các nghi thức cầu nguyện, chia sẻ Phúc Âm và làm dấu thánh tại các địa điểm thánh bên trong và xung quanh Thánh đường.

 

Giám Mục Kevin Vann (trái) bắt đầu Thánh lễ Công Giáo đầu tiên tại Nhà Thờ Kiếng cũ, nay là Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô Vua. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Nghi lễ do Giám Mục Kevin Vann, giám mục giáo phận, làm chủ tế. Ðồng tế có ba linh mục của giáo xứ Tam Biên và một số linh mục khách mời. Thánh lễ được cử hành bằng ba thứ tiếng: Việt ngữ, Anh ngữ, và Tây Ban Nha.

Các em thiếu nhi nam nữ gốc Việt mặc áo dài đỏ, vàng, trắng, múa mở đầu. Tiếp theo là các giám mục và linh mục tiến lên bàn thánh.

Ba linh mục của nhà thờ Tam Biên, Nguyễn Văn Tuyên, Trần Cao Thượng, và Juan B. Navarro, bắt đầu chia sẻ lời nguyện với giáo dân.

“Với niềm tin và lòng cậy tín, chúng ta sẽ có thể biến ngôi thánh đường mới thành một nơi để cùng nhau làm việc phụng thờ. Cùng nhau, chúng ta sẽ đến thánh đường mới,” Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên mở đầu phần chia sẻ bằng tiếng Anh.

Tiếp đó là phần chia sẻ bằng tiếng Việt của Linh Mục Trần Cao Thượng, nhắc lại thời gian đầu khi giáo dân gốc Việt đặt chân đến giáo xứ Tam Biên và sự gắn bó giữa cộng đồng Việt Nam và ngôi thánh đường này.

Linh Mục Thượng nói thêm: “Như các tông đồ bỏ hết để theo Chúa, hôm nay, theo lời mời gọi của giáo phận, chúng ta sẵn sàng hy sinh để cùng hy vọng, đoàn kết, xây dựng…”

Nói đến đây, nước mắt Linh Mục Thượng tuôn chảy, giọng nghẹn lại, khiến nhiều người cảm động, khóc theo.
Linh Mục Juan B. Navarro sau đó nói chuyện với giáo dân bằng tiếng Tây Ban Nha, một số giáo dân làm dấu Thánh giá, cúi đầu.

Nghi thức đóng cửa nhà thờ chính thức bắt đầu vào khoảng 1 giờ 30 phút.

 

Thiếu nhi Việt Nam múa mở đầu Thánh Lễ di chuyển giáo xứ Tam Biên. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)


Thánh giá và hương trầm được đưa đến những địa điểm khác nhau bên trong nhà thờ. Tại mỗi địa điểm, các linh mục dừng lại đôi phút để cầu nguyện cùng giáo dân. Họ làm nghi thức này đầu tiên là tại cung thánh, sau đó là tòa giải tội, giếng rửa tội, và cuối cùng là nhà nguyện.

Sau nghi thức làm dấu thánh, toàn bộ người bên trong Thánh đường được mời ra ngoài để giáo xứ chính thức đóng cửa Thánh đường. Trong lời cầu nguyện của đại diện giáo dân Mỹ, Việt, và Hispanic, Giám Mục Kevin Vann và Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên từ từ khép lại cánh cửa ngôi nhà thờ Tam Biên.

Tiếp đó, linh mục và giáo dân đến cầu nguyện tại một số địa điểm khác, trước khi cùng lái xe sang Nhà Thờ Chánh Tòa Ki tô Vua. Các xe đều gắn nơ màu vàng lớn phía trước, nối đuôi nhau tiến vào “ngôi nhà Chúa” mới.

Vì nhà thờ chánh tòa còn đang sửa chữa, buổi lễ đầu tiên của người Công Giáo tại nơi này được diễn ra bên ngoài ngôi thánh đường.

Hàng ngàn chiếc ghế trắng muốt được xếp dài, nhưng vẫn không đủ cho số giáo dân tham dự đông đảo.
Cũng như tại buổi lễ chia tay nhà thờ Tam Biên cũ, lễ mừng ngôi Thánh đường mới thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau, thương nhớ có, hân hoan có, của các giáo dân tại đây.

Tâm tình giáo dân

Các giáo dân chia sẻ nhiều cảm xúc khác nhau, vui có, buồn có, tiếc nuối bên cạnh hân hoan, hy vọng… Mọi người đều nói “vâng theo lời giáo phận” và sẽ “cầu nguyện cho tương lai cộng đoàn Việt Nam.”
 

 

Quang cảnh Thánh Lễ tại sân Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô Vua, Garden Grove. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Ông Nguyễn Văn Lạc, 61 tuổi, người sinh hoạt tại nhà thờ Tam Biên từ Tháng Mười, 1975, nói: “Rất là buồn, nơi đây cộng đoàn Việt Nam đã phát triển mạnh, giờ phải đi là đi thôi.”

Bà Huệ Phạm, thuộc giáo xứ Tam Biên khoảng 20 năm trước khi vừa qua Mỹ, nói: “Cũng buồn đó, bây giờ là chia ra với đông đảo các sắc dân khác, nhưng phải vâng lời thôi. Chúng ta sẽ đoàn kết, cầu nguyện cho cộng đoàn Việt Nam.” Bà cũng là một thành viên ban tổ chức nghi lễ chào mừng giáo đường mới.

Ông Nguyễn Văn Bảy, thuộc giáo xứ Tam Biên từ năm 1980, nói: “Không buồn cũng không vui, cả hai đều là nơi thờ phượng Thiên Chúa.”

Ông Vũ Tràng, một người Việt Nam mới sang, nói: “Thánh đường mới này lớn, đẹp hơn rất nhiều. Tôi mừng cho sự phát triển mạnh mẽ của giáo phận.”

Ba em nhỏ mặc áo dài truyền thống, trong độ tuổi 10 đến 14, Diana Nguyễn, Lina Thạch, và Crystal Ðinh, cùng nói: “Tụi em có nhiều kỷ niệm với nhà thờ Tam Biên lắm, nơi tụi em được mang đến rửa tội lúc mới sinh được vài tháng, rồi đi học múa, rồi sinh hoạt thiếu nhi thánh thể.”

“Nhưng không sao mà, rồi tụi em sẽ có những kỷ niệm còn đẹp hơn tại ngôi thánh đường mới này.”

Ơn gọi sống theo Chúa

Ơn gọi sống theo Chúa

Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng để cứu chữa”.

Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài, và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán: “Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con người.

Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa.

Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”.

Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.

Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

Veritas Radio

Không quay đầu lại

Không quay đầu lại

Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.

Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.

Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.

Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.

Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.

Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

PHẢI DỨT KHOÁT THEO CHÚA

PHẢI DỨT KHOÁT THEO CHÚA

I. HOC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 9,51-62

2. Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm này gồm hai phần:

Phần thứ nhất thuật lại câu chuyện Đức Giê-su bị dân làng ở miền Sa-ma-ri từ chối không cho trọ. Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an tức giận yêu cầu được sai lửa từ trời xuống thiêu hủy làng đó. Nhưng Đức Giê-su quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.

Phần thứ hai ghi lại ba trường hợp người ta xin đi theo làm môn đệ Đức Giê-su. Trong mỗi trường hợp Đức Giê-su đều đòi người ta phải chọn lựa dứt khoát như sau:

+ Đối với kẻ thứ nhất xin theo, Người đòi anh ta phải chấp nhận cuộc sống thiếu thốn vật chất và không ổn định.

+ Với người thứ hai, Đức Giê-su đòi anh ta phải coi nhẹ bổn phận lo cho gia đình để ưu tiên lo công việc của Chúa.

+ Còn người thứ ba, Đức Giê-su đòi anh ta một trái tim không san sẻ, để chỉ lo phục vụ Nước Thiên Chúa mà thôi.

3. CHÚ THÍCH:

– C 51-52): + Được rước lên trời: Đây là thành ngữ ám chỉ cái chết cũng như cuộc lên trời của Đức Giê-su (Tin Mừng Lu-ca 9,31 chú thích về cuộc xuất hành của Người). + Nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem: Lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc Vượt Qua. + Vào một làng người Sa-ma-ri: Người Do Thái tránh giao thiệp với người Sa-ma-ri và còn khinh dễ họ, vì họ không còn thuần chủng nữa, và vì niềm tin của họ đã có nhiều dị biệt với người Do thái. Nhưng Đức Giê-su lại cố ý vào trọ trong một làng người Sa-ma-ri. Điều này cho thấy Người chính là chủ chiên đến để tìm chiên lạc và đưa về đàn. Về sau, trước khi lên trời, Đức Giê-su truyền cho các Tông Đồ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, trong đó có dân Sa-ma-ri (x. Cv 1,8). Các ông đã vâng lời Người: Phi-líp-phê loan báo Tin Mừng ở Sa-ma-ri (x. Cv 8,5). Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem cũng cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ (Cv 8,14).

C 53-56: + Dân làng không đón tiếp: Người Sa-ma-ri có ác cảm với người Do thái, đặc biệt những ai đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem. + Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy…?: Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an được gọi là “con của sấm sét” (x. Mc 3,17). Hai ông mới được nhìn thấy ngôn sứ Ê-li-a trong cuộc biến hình của Đức Giê-su (x. Lc 9,28-36), nên giờ đây muốn dùng hình phạt mà giáng xuống trên kẻ thù giống như vị ngôn sứ này đã làm (x. 2V 1,10-12). + Quở mắng các ông: Đức Giê-su muốn các môn đệ hành xử theo giáo huấn mà Người đã dạy về cách đối xử với kẻ thù: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình (x. Lc 6,27-35). + Và Người nói với các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”: Đức Giê-su dạy cho các môn đệ biết việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Đức Giê-su xuống thế gian để kiện toàn luật Mô-sê là luật cho phép trả thù những kẻ làm hại mình. Đối với Đức Giê-su: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa của tình thương. Tình thương thay thế hận thù, tha thứ thay thế báo oán và trừng phạt. Đó chính là tinh thần mà các môn đệ phải học tập cho bằng được. + Thầy trò đi sang làng khác: Điều này nói lên sự nhẫn nhịn của Đức Giê-su đối với những kẻ đối xử không tốt với mình.

C 57-58: + Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng: Lu-ca ghi lại ở đây ba trường hợp về ơn kêu gọi theo Chúa. Trong ba trường hợp này thì hai trường hợp được Mát-thêu thuật lại khi Đức Giê-su bắt đầu đi giảng đạo ở Ga-li-lê (x. Mt 6,19-22). Còn trường hợp thứ ba chỉ có trong Tin Mừng Lu-ca. Qua ba trường hợp này, Lu-ca muốn trình bày những đòi hỏi dứt khoát đối với những ai muốn làm môn đệ của Đức Giê-su. + “Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo… Con chồn có hang…”: Người này tự ý xin theo làm môn đệ và sẽ đi đến bất cứ nơi nào. Nhưng Đức Giê-su cho anh ta thấy cuộc sống khó nghèo và thiếu ổn định. “Không có chỗ dựa đầu”, nghĩa là không có sự bảo đảm về vật chất như một con thú rừng!

C 59-60: + “Xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, người xin làm môn đệ ngỏ lời trước (x. Mt 8,21-22), còn trong Tin Mừng Lu-ca, chính Đức Giê-su kêu gọi anh ta trước. Anh ta tỏ thái độ thiếu dứt khoát qua lời cầu xin về nhà phụng dưỡng cha. Đợi đến khi cha chết và được mai táng, rồi anh ta mới đi theo. Ở đây không nhất thiết là cha anh ta mới chết sắp đem đi chôn. Vì tại Pa-les-tin việc chôn cất một người chết phải thực hiện ngay trong ngày, nên khó mà nghĩ rằng Đức Giê-su lại không đồng ý cho anh ta lưu lại vài giờ để chôn cất cha cho tròn chữ hiếu. + “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”: Chắc chắn Đức Giê-su không cho bổn phận hiếu thảo với cha mẹ là không đáng kể (x. Mt 15,5-9 ; 1 Tm 5,8). Nhưng khi phải lựa chọn giữa tình thân gia đình với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, thì Người đòi môn đệ phải ưu tiên chọn đi theo Chúa.

4. CÂU HỎI: 1) Khi dùng thành ngữ “Được rước lên trời”, tác giả Luca muốn ám chỉ điều gì về cuộc xuất hành của Người? 2) Đức Giê-su nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem để làm gì? 3) Tại sao người Do Thái tránh giao thiệp và còn khinh dể người Sa-ma-ri, trái ngược với Đức Giê-su sẵn sàng đến với họ? Hãy kể ra một số trường hợp cụ thể Người đã làm? 4) So sánh phản ứng cua hai môn đệ Gia-cô-bê Gio-an va cua Đức Giê-su trước sự từ chối đón tiếp của dân làng Sa-ma-ri? Đức Giê-su muốn môn đệ Người phải phản ứng thế nào? 5) Người dạy và hành xử thế nào để nêu gương nhẫn nhịn cho các ông? 6) Hãy kê ba trường hợp người ta xin đi theo làm môn đệ Đức Giê-su và đòi hỏi của Người với mỗi người như thế nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9,60).

2. CÂU CHUYỆN:

Một vị linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quí để làm lễ vật ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, anh thanh niên giàu có vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy hồ cố tìm lấy lại viên ngọc quí giá. Nhưng sau một ngày vất vả tìm kiếm mà viên ngọc vẫn biệt tăm. Chiếu đến, với vẻ mặt thất vọng, anh thanh niên đến chỗ vị linh sư xin chỉ đích xác chỗ đã ném viên ngọc. Bấy giờ vị linh sư liền cầm viên ngọc thứ hai, lại ném xuống sông và nói: “Ta đã ném vào chỗ đó. Anh hãy lặn xuống mà tìm”. Chàng thanh niên hiểu rằng thầy muốn anh phải bỏ lòng ham mê của cải như một điều kiện tiên quyết để theo học với thầy.

3. SUY NIỆM:

Qua 3 trường hợp theo Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đòi hỏi những kẻ muốn theo Người cũng phải có thái độ từ bỏ dứt khoát như thế:

+ Người thứ nhất xin theo Đức Giê-su đến bất cứ nơi nào. Những người đòi anh phải chọn lựa: theo Thầy thì phải biết chấp nhận nay đây mai đó, không có chỗ gối đầu.

+ Người thứ hai được Đức Giê-su kêu gọi đã sẵn sàng đi theo. Nhưng anh ta xin về nhà phụng dưỡng cha già, đến khi cha chết rồi mới đi theo. Nhưng Người đòi anh phải dứt khoát chọn đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.

+ Người thứ ba xin đi theo Đức Giê-su, nhưng xin được về nhà từ giã gia đình trước đã. Nhưng Người đòi anh ta phải chọn lựa, dứt khoát với tình cảm gia đình: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”.

Thực ra, Đức Giê-su rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ (x. Mt 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x. Lc 14,26).

Nhìn lại mình, chúng ta thường hay chọn mình, chọn theo sở thích của mình, gia đình của mình… đang khi Đức Giê-su lại dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

4. THẢO LUẬN: 1) Trong cuộc sống hàng ngày, hãy kể ra ba điều bạn cho là quan trọng và cần thiết phải làm ngay. Tại sao? 2) Sống đúng tinh thần khoan dung của Đức Giê-su dễ hay khó? Tại sao? 3) Bạn quyết tâm sẽ phản ứng thế nào khi bị kẻ khác đối xử không tốt để xứng đáng làm môn đệ Đức Giê-su?

5. NGUYỆN CẦU

1) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Giàu sang, danh vọng, khoái lạc… là những điều hấp dẫn chúng con và trói buộc không cho chúng con ngước đầu lên cao. Xin giải thoát chúng con khỏi sự say mê tìm kiếm kho tàng ở dưới trần gian, để ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa. Lạy Chúa. Ước gì chúng con có thái độ dứt khoát hy sinh những gì đang có, để mua được viên ngọc quí giá là Nước Trời. Ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước lời mời gọi của Chúa dành cho chúng con.

2) LẠY CHÚA. Con cảm thấy Chúa đòi hỏi những ai muốn đi theo làm môn đệ Chúa hơi nhiều: Vì Chúa không có chỗ dựa đầu, nên Chúa đòi con phải biết hy sinh, sống đơn sơ và phó thác. Chúa còn muốn con phải tận lực rao truyền Triều Đại Thiên Chúa. Chúa đòi con phải đặt tình cảm gia đình sau bổn phận theo Chúa. Thật đúng như lời Chúa dạy: “Ai muốn theo Thầy phải bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà đi theo Thầy. Nếu chỉ dựa vào sức riêng tự nhiên, chắc là con khó đi theo Chúa. Nhưng nếu có ơn Chúa giúp con tin mình sẽ làm được mọi sự. Xin giúp con sống quảng đại với Chúa như Chúa đã từng quảng đại với con. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn quên mình và nghĩ tới người khác, để con xứng đáng trở nên môn đệ đích thực của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM Đan Vinh

NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

 NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

Chủ đề: “Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức Giêsu”

Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.

Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn “giữ ngày Chúa Nhật thánh thiện” có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật buồn.

Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước, bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với điều ông tin tưởng.

Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ trong đời ông tham dự loại này.

Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua 100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.

Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.

Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc. Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ vụ, làm việc với các tù binh khác.

Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.

Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.

Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói, “Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?”

Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim, được gọi là Chariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải Academy năm 1982.

Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:

Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước Trời.”

Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.

Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?

Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải đương đầu với sự chống đối trùm lấp?

Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, “Ông ta luôn luôn dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hoạch định chương trình trong ngày.”

Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện.

Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader’s Digest. Bài này nói về một giám đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời trống rỗng.

Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập đến sự trống rỗng này.

Ông cố vấn hỏi, “Bà có muốn lấp đầy nó không?” “Dĩ nhiên là có,” bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, “Hãy bắt đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện.”

Bà nhìn ông và nói, “Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi.” Ông mỉm cười và nói, “Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm.” Sau đó ông nói thêm vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, “Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương trình của Thiên Chúa.”

Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối không thắc mắc!

Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.

Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp thị đã nói: “Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan trọng là lời hứa.”

Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự trong đời sống chúng ta.

Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa Giêsu.

Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông cố vấn tiếp thị đã nói, “Điều quan trọng là lời hứa.”

Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.
Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;
biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;
biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;
biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;
biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,
ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa
.”

LM Mark Link, SJ

Ngày bi thảm cho Hôn Nhân ở Hoa Kỳ

Ngày bi thảm cho Hôn Nhân ở Hoa Kỳ

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ngày 26 tháng 6 đã phán quyết với tỷ lệ 5-4 một phần quan trọng của Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân (DOMA: Defense of Marriage Act) là vi hiến, chính phủ liên bang phải công nhận những "hôn nhân đồng tính" cuả các tiểu bang.

Tư pháp Anthony Kennedy, viết cho đa số như sau: Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân "vi phạm thủ tục cơ bản và nguyên tắc được bảo vệ công bình".

Tòa án nói rằng phần 3 của DOMA, định nghĩa hôn nhân như sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, vi phạm sự bảo đảm bình đẳng của Hiến pháp Hoa Kỳ.

"Hiệu lực thực tế của bộ luật này là áp đặt một bất lợi, một tình trạng phân biệt đối xử, và do đó, một sự kỳ thị trên tất cả những ai tham gia vào những cuộc hôn nhân đồng tính được hợp pháp hoá bởi quyền lực không thể tranh cãi cuả các Tiểu Bang HK".

Tư Pháp Antonin Scalia, đại diện cho thiểu số bất đồng, đã bác bỏ giả định của phe đa số là bộ luật có mục đích "chê bai", "làm tổn thương", "xuống cấp", "hạ thấp" và "làm nhục" cá nhân đồng tính.

Thay vào đó, ông giải thích, DOMA "chỉ làm một việc là hệ thống hóa một khía cạnh của hôn nhân mà xã hội của chúng ta chưa từng bao giờ đặt câu hỏi trong hầu hết lịch sử của nó – Thực ra, hầu như tất cả các xã hội trong tất cả lịch sử nhân loại cũng đã không bao giờ đặt câu hỏi như thế"

"Nếu một xã hội muốn có thay đổi thì đó là một điều," ông nói, "nhưng lại là một điều khác khi mà một tòa án dùng pháp luật để áp dụng thay đổi" bằng cách tuyên bố những người chống đối (hôn nhân đồng tính) là "kẻ thù của nhân loại."

Những người phản đối "hôn nhân đồng tính" đã lên tiếng lo ngại về quyền tự do tôn giáo nếu hôn nhân được định nghĩa lại.

ở các tiểu bang công nhận "hôn nhân đồng tính," các cơ sở bác ái xã hội cuả Công Giáo đã bị buộc phải đóng cửa vì chỉ đặt con nuôi cho một gia đình có một người mẹ và một người cha. Các cơ quan phi lợi nhuận và chủ doanh nghiệp tư nhân cũng đã phải đối mặt với nhiều áp lực và các vụ kiện buộc họ phải công nhận hôn nhân đồng tính, đi ngược với với niềm tin tôn giáo của họ.

Hậu quả cuả phán quyết về hôn nhân này sẽ có những tác động sâu rộng, vì luật DOMA có ảnh hưởng đến hơn 1.000 luật của liên bang và cả một khối to lớn cuả các quy định liên bang khác.

Cùng ngày, Tòa án tối cao cũng bác bỏ đơn kháng cáo bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California (California’s Proposition 8)

Nhắc lại sau khi một tòa án California phán quyết rằng "hôn nhân đồng tính" phải được công nhận trong tiểu bang, những người bảo vệ hôn nhân đã phát động một chiến dịch sửa đổi hiến pháp để công nhận hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ.

Trưng Cầu Dân Ý số 8 đã được phê duyệt bởi cử tri nhưng nhanh chóng bị thách thức tại tòa án. Một tòa cấp dưới đã phán quyết rằng các đề xuất là không hợp hiến, và trường hợp được kháng cáo lên toà trên.

Tòa án tối cao đã bác bỏ kháng cáo dựa trên cơ sở kỹ thuật chứ không phải là trên cơ sở giá trị, có nghĩa là phán quyết của tòa cấp dưới bãi bỏ Trưng Cầu Dân Ý số 8 vẫn có hiệu lực. Nói cách khác vấn đề 'hôn nhân đồng tính' sẽ được đấu lại tại California.

Theo phán quyết này, các tiểu bang có thể chọn định nghĩa hôn nhân cho phù hợp với mình. Về các tiểu bang hợp pháp hóa "hôn nhân đồng tính" thì chính phủ liên bang phải công nhận giá thú cuả họ. Hiện nay, chỉ có 12 tiểu bang và District of Columbia công nhận "hôn nhân đồng tính".

Hội Đồng Giám Mục HK, Đức Hồng Y Timothy Dolan của New York, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ, và Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco, Chủ tịch Tiểu ban khuyến khích và bảo vệ hôn nhân, đã nhanh chóng ra một tuyên bố về phán quyết cuả Tối Cao Pháp Viện là một “Ngày bi thảm cho Hôn Nhân và cuả Quốc Gia"
 
Lời tuyên bố như sau.

"Hôm nay là một ngày bi thảm cho hôn nhân và cuả đất nước chúng ta. Tòa án Tối cao đã thực hiện một sự bất công sâu sắc cho người dân Mỹ bằng cách bác bỏ một phần của bộ luật Bảo Vệ Hôn Nhân cuả Liên Bang. Tòa án đã làm sai. Chính phủ liên bang phải tôn trọng sự thật rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, ngay cả khi các tiểu bang không làm như vậy. Việc bảo tồn tự do và công lý đòi hỏi tất cả các luật lệ, dù là cuả liên bang hay tiểu bang, phải tôn trọng sự thật, kể cả sự thật về hôn nhân. Cũng là bất hạnh khi mà Tòa án đã không nắm lấy cơ hội để bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California mà thay vào đó quyết định không đưa ra phán quyết nào về vấn đề này. Lợi ích chung của tất cả mọi người, đặc biệt là cuả các con em cuả chúng ta, phụ thuộc vào một xã hội có sự cương quyết để duy trì sự thật về hôn nhân. Bây giờ là thời gian để nỗ lực hơn nữa trong việc làm chứng cho sự thật này. Những quyết định này là một phần của một cuộc tranh luận chung có những hậu quả nghiêm trọng. Tương lai của hôn nhân và hạnh phúc của xã hội chúng ta đang bị treo trên một sợi dây đu.

"Hôn nhân là định chế duy nhất, kết hợp một người nam và một người nữ trong cuộc sống, cung cấp một nền tảng vững chắc là Có Cha Có Mẹ cho mọi đứa trẻ sinh ra từ sự kết hợp của họ.

"Nền Văn hóa của chúng ta đã quá lâu khinh thường những gì đã được xác nhận qua bản chất cuả con người, kinh nghiệm, sự hợp lẽ, và qua sự thiết kế khôn ngoan của Thiên Chúa: đó là sự khác biệt giữa một người nam và một người nữ là quan trọng, và sự khác biệt giữa một người mẹ và một người cha cũng là quan trọng. Trong khi văn hóa thất bại nhiều trong việc tăng cường hôn nhân, nhưng điều này không phải là lý do để từ bỏ hôn nhân. Bây giờ phải là thời gian để củng cố hôn nhân thêm lên, không phải là lúc để tái định nghiã nó.

"Khi Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của hôn nhân – là suốt đời, là sự kết hợp một vợ một chồng – Chuá đã nhắc lại rằng sự sáng tạo ra con người của Thiên Chúa ngay từ "thuở ban đầu" là có nam có nữ (x. Mt 19). Khi đương đầu với phong tục và pháp luật của thời đó, Chúa Giêsu đã dạy một chân lý phổ biến mà mọi người có thể hiểu được. Sự thật của hôn nhân sẽ tồn tại, và chúng tôi sẽ tiếp tục mạnh dạn tuyên bố với sự tự tin và với lòng từ thiện.

"Bây giờ thì Tòa án tối cao đã ban hành quyết định rồi, với một quyết tâm mới chúng tôi kêu gọi tất cả các nhà lãnh đạo và tất cả mọi người dân của đất nước tốt đẹp này hãy đứng lên để chung nhau kiên định việc thúc đẩy và bảo vệ ý nghĩa độc đáo của hôn nhân: một người nam, một người nữ, cho sự sống. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho việc xét lại quyết định của Tòa án và những hậu quả được giải thích rõ ràng thêm."

Trần Mạnh Trác (Vietcatholic)

Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa

Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa

Giáo Hội là ”nhà của Thiên Chúa”, là đền thờ tinh thần mà chính Chúa Kitô Đền Thờ sống động của Thiên Chúa Cha, xây dựng, trong đó có Chúa Thánh Thần ở, linh hoạt, hướng đẫn và nâng đỡ, và chúng ta là các viên đá sống động.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên với 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 26-6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển hình ảnh cuối cùng giúp minh giải mầu nhiệm của Giáo Hội: đó là hình ảnh Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa (LG, 6). Ngài nói: Từ đền thờ khiến chúng ta nghĩ tới một dinh thự, một việc xây cất. Một cách đặc biệt tâm trí của nhiều người trở về với lịch sử của Dân Israel được kể trong Thánh Kinh Cựu Ước. Tại Giêrusalem Đền Thờ của vua Salomon đã là nơi găp gỡ với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện: bên trong Đền Thờ có Hòm Bia Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người; và trong Hòm Bia Giao Ước có các Bảng Lề Luật, có Bánh Manna và cây gậy của ông Aharon: một nhắc nhớ tới sự kiện Thiên Chúa đã luôn luôn ở trong lịch sử của dân Người, đồng hành với họ trên đường và hướng dẫn bước chân họ. Đền Thờ nhắc nhớ lịch sử này.

Cả chúng ta nữa khi chúng ta đến Đền Thờ chúng ta cũng phải nhớ tới lịch sử này, lịch sử của tôi, của mỗi người trong chúng ta, lịch sử của chúng ta, như Chúa Giêsu đã gặp gỡ tôi, như Chúa Giêsu đã đồng hành với tôi, như Chúa Giêsu yêu thương tôi và chúc lành cho tôi.

Đây, điều đã được hình dung trước trong Đền Thờ xưa kia đã được thực hiện bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: Giáo Hội là ”nhà của Thiên Chúa”, là nơi Người hiện diện, là nơi chúng ta có thể tìm thấy Chúa và gặp gỡ Chúa. Giáo Hội là Đền Thờ trong đó có Chúa Thánh Thần ở, Người là Đấng linh hoạt, hướng dẫn và đỡ nâng Giáo Hội. Nếu chúng ta tự hỏi chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở đâu? Chúng ta có thể bước vào sự hiệp thông với Người qua Chúa Kitô ở đâu? Chúng ta có thể tìm thấy ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi sáng cuộc sống chúng ta ở đâu? Câu trả lời là: trong dân của Thiên Chúa, giữa chúng ta, chúng ta là Giáo Hội. Giữa chúng ta, trong dân của Thiên Chúa và Giáo Hội, trong đó chúng ta gặp Chúa Thánh Thần, chúng ta gặp Thiên Chúa Cha.

Đền thờ xưa kia đã do tay con người làm ra: người ta muốn cho Thiên Chúa ”một ngôi nhà” để có một dấu chỉ hữu hình sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Với sự Nhập Thể của Con Thiên Chúa, lời tiên tri ngôn sứ Nathan nói với Vua Đavít (x. 2 Sm 7,1-19) được thành toàn: không phải nhà vua, không phải chúng ta ”cho Thiên Chúa một ngôi nhà”, nhưng chính Thiên Chúa ”xây nhà của Người” để đến ở giữa chúng ta, như thánh Gioan viết trong phần dẫn nhập Phúc âm (x. Ga 1,14). Chúa Kitô là Đền Thờ sống động của Thiên Chúa Cha, và chính Chúa Kitô xây ”ngôi nhà tinh thần của Người”, là Giáo Hội, được làm không phải bằng các viên đá vật chất, mà bằng các ”viên đá sống động” là chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô nói với các tín hữu Êphêxô rằng: anh em ”đã được xây trên nền tảng của các tông đồ và các ngôn sứ, có cùng ”đá tảng góc tường là chính Chúa Kitô Giêsu. Trong Người toàn công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Ep 2,20-22). Điều này thật là đẹp! Chúng ta là các viên đá sống động trong ngôi nhà của Thiên Chúa, hiệp nhất một cách sâu đậm với Chúa Kitô là dá tảng nâng đỡ và cũng là sự nâng đỡ giữa chúng ta với nhau, phải không? Và điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa chúng ta là Đền Thờ, là Giáo Hội, nhưng chúng ta là Giáo Hội sống động, chúng ta là Đền Thờ sống động, và trong chúng ta khi chúng ta hiệp nhất cùng nhau, thì có Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta lớn lên như là Giáo Hội. Chúng ta không cô đơn, chúng ta là dân của Thiên Chúa và Đức Thánh Cha chỉ mọi người hiện diện và nói: đây là Giáo Hội, dân của Thiên Chúa.

Rồi Đức Thánh Cha nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần như sau:

Và Chúa Thánh Thần với các ơn của Người chỉ định sự khác biệt: điều này quan trọng. Thế Chúa Thánh Thần làm gì giữa chúng ta? Người chỉ định sự khác biệt, sự khác biệt là sự phong phú trong Giáo Hội và hiệp nhất tất cả và mọi người, để xây nên một ngôi đền tinh thần, trong đó chúng ta không dâng lên các lễ tế vật chất, mà dâng lên chính chúng ta, cuộc sống của chúng ta (x. 1 Pr 2,4-5). Giáo Hội không phải là một giao thoa của các sự vật và các lợi lộc, mà là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, Đền Thờ trong đó Thiên Chúa hoạt động, Đền Thờ trong đó với ơn bí tích Rửa Tội, mỗi một người trong chúng ta là viên đá sống động. Điều này nói với chúng ta rằng không có ai là vô ích trong Giáo Hội cả. Nếu có người tình cờ nói tới ai đó rằng: ”Thôi về nhà đi, bạn là một người vô ích”. Điều này không thật đâu! Không có ai vô ích trong Giáo Hội cả: Tất cả chúng ta đều cần thiết để xây dựng Đền Thờ này. Không có ai là phụ thuộc cả! ”Ô tôi là người quan trọng nhất trong Giáo Hội!” Không. Tất cả chúng ta đều bằng nhau trước mắt Thiên Chúa, tất cả, tất cả. Nhưng mà một ai đó trong anh chị em có thể nói: ”Nhưng mà xin Đức Thánh Cha nghe đây, Đức Thánh Cha đâu có ngàng hàng với chúng con được!” Có chứ, tôi cũng như mọi người trong anh chị em thôi, chúng ta tất cả đều bằng nhau, chúng ta tất cả là anh em với nhau! Không có ai là vô danh cả. Tất cả chủng ta làm thành và xây dựng Giáo Hội. Điều này cũng mời gọi chúng ta suy tư về sự kiện nếu thiếu viên đá cuộc sống kitô của chúng ta, thì thiếu một cái gì đó cho vẻ đẹp của Giáo Hội.

Và vài người cũng có thể nói: ”A, tôi với Giáo Hội à không, tôi không ăn nhập gì tới Giáo Hội cả!” Nhưng mà thiếu viên đá đời bạn trong ngôi Đền Thờ xinh đẹp này! Không ai có thể bỏ đi được, phải không? Tất cả chúng ta đều phải đem đến cho Giáo Hội cuộc sống, con tim, tình yêu tư tưởng công việc làm… Tất cả cùng nhau!

Kết luận bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nêu lên câu hỏi sau đây:

Chúng ta sống sự kiện là Giáo Hội của chúng ta như thế nào? Chúng ta có là các viên đá sống động hay chúng ta là các viên đá mỏi mệt, chán nản, thờ ơ? Mà anh chị em có thấy một kitô hữu mệt mỏi, chán nản, thờ ơ là điều xấu xa không? Một kitô hữu như thế thất là xấu. Không được như vậy! Kitô hữu phải sinh động tươi vui là tín hữu kitô! Phải sống vẻ đẹp là thành phần dân của Thiên Chúa, là Giáo Hội. Vậy chúng ta có rộng mở cho hoạt động của Chúa Thánh Thần để là thành phần tích cực trong các cộng đoàn của chúng ta hay không, hay chúng ta khép kín trong chính mình và nói: ”Tôi có biết bao nhiêu điều phải làm, đó không phải là nhiệm vụ của tôi làm điều này điều nọ?” Đừng khép kín trong chính mình.

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn của Người, sức mạnh của Người để chúng ta có thể hiệp nhất một cách sâu xa với Chúa Kitô, là đá góc, là cột trụ, là đá đỡ nâng cuộc sống chúng ta và toàn cuộc sống của Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu nguyện để được linh hoạt bởi Thần Khí của Người. Chúng ta luôn là các viên đá sống động của Giáo Hội.

Sau khi chào nhiều phái đoàn tín hữu và chúc họ có những ngày hành hương Roma tươi vui và được nhiều ơn ích, Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha cũng đã để ra gần một giờ đồng hồ để chào một số Hồng Y Giám Mục tham dự buổi tiếp kiến cũng như tín hữu đứng hai bên khán đài, các cặp vợ chồng mới cưới và đặc biệt là các người tàn tật ngồi trên xe lăn. Hôm qua có nhiều em bé khi được Đức Thánh Cha hôn, cứ ôm chặt và không muốn rời cổ ngài nữa. Tín hữu tặng Đức Thánh Cha đủ thứ. Các em bé thì tặng hình chúng vẽ, cầu thủ các đội banh thì tặng Đức Thánh Cha áo của họ. Nhiều người đem các ảnh tượng, kể cả chén thánh để xin Đức Thánh Cha làm phép. Ngài dừng lại lắng nghe và nói chuyện lâu với một số người và không bao giờ tỏ ra vội vã. Đây là điểm đã thu hút tín hữu rất mạnh.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tái khẳng định tình thân hữu với Do thái giáo

Đức Thánh Cha tái khẳng định tình thân hữu với Do thái giáo

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái khẳng định quan hệ thân hữu giữa Giáo Hội Công Giáo và Do thái giáo, đồng thời cầu mong hai bên cộng tác với nhau để bênh vực phẩm giá con người.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 24 tháng 6-2013 dành cho Ủy ban Do thái Quốc tế đối thoại liên tôn. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh liên lạc với Do thái giáo.

ĐTC nhắc đến cuộc đối thoại đều đặn từ 40 năm nay giữa Giáo Hội Công Giáo và Do thái giáo, đồng thời ngài tái khẳng định giáo huấn của Công đồng chung Vatican 2, trong tuyên ngôn ”Nostra Aetate” đoạn số 4 về quan hệ với Do thái giáo, và trong đó Công đồng mạnh mẽ lên án sự oán ghét, bách hại và mọi hình thức bài Do Thái. Ngài nói: ”Do căn cội chung của chúng ta, một Kitô hữu không thể là người bài Do thái”.

ĐTC nhắc lại những quan hệ thân hữu chân thành của ngài với các vị lãnh đạo Do thái ở Buenos Aires, Argentina khi còn làm TGM tại đây: 'Chúng tôi thường nói chuyện về căn tính tôn giáo của nhau, hình ảnh con người chứa đựng trong Kinh Thánh, những cách thức để làm cho cảm thức về Thiên Chúa được luôn sinh động trong một thế giới bị tục hóa về nhiều phương diện. Chúng tôi cũng trao đổi trong nhiều dịp về những thách đố chung đang chờ đợi các tín hữu Kitô và Do thái”.

Và ĐTC nói với Ủy ban Do thái quốc tế rằng: ”Tôi khích lệ các bạn tiếp tục hành trình, tìm cách đưa các thế hệ trẻ tham gia vào tiến trình này. Nhân loại đang cần chứng tá chung của chúng ta bênh vực phẩm giá con người, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, và bênh vực hòa bình, cũng là hồng ân của Chúa.

Chủ tịch Liên hiệp các cộng đoàn Do thái Italia (UCEI), ông Renzo Gattegna, nói rằng những lời của ĐGH Phanxicô hôm nay về nạn bài Do thái chứng tỏ 'sự củng cố tiến trình đã khởi sự cách đây 50 năm với việc công bố Tuyên ngôn Nostra Aatate và với những kết quả rất quan trọng trong việc đối thoại và cảm thông nhau giữa các dân tộc” (SD 24-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Người có đạo

Người có đạo

Bài Tin Mừng hôm nay Lc 9,18-24, sau khi Chúa Giê-su hỏi “Người ta bảo Thầy là ai?”, Chúa lại hỏi: “Các con bảo Thầy là ai”… Và Thánh Phê-rô đã trả lời: “Thầy là Đức Ki-tô của Thiên Chúa”.

Khi tuyên tín như thế, hẳn là ông Phê-rô chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Đấng Messia, Đấng được Xức Dầu, gọi là Ki-tô. Vì thế Chúa đã giải thích thêm về “Đức Ki-tô của Thiên Chúa” rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba  sẽ sống lại.

Chúa Giê-su còn công khai nói với mọi người rắng : Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình.

Như vậy, khi tuyên tín vào Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là phải mặc lấy Đức Ki-tô, sống như Ngài đã sống, suy nghĩ như ngài đã suy nghĩ, yêu như ngài đã yêu, và chấp nhận con đường khiêm hạ, từ bỏ, công chính, hiến thân, phục vụ, chết và sống lại, rồi cùng Ngài về trời. Nói cách khác là : phải nên đồng hình đồng dạng với Ngài, thì lời tuyên tín kia mới là lời tuyên tín giá trị.

Chúa cũng đã hỏi ông bà chúng ta câu này. Và cách nào đó, ông bà đã trả lời “Chúa Giê-su là Đạo của chúng con”,  “Chúng con là kẻ có đạo”.

Chỗ tôi, trải qua 20 năm, 1975-1995, bà con nghèo khổ quá, bởi lúa bắp khoai chỉ được một vụ trong năm. Năm nào có mưa khá, thì còn có cái thu hoạch. Năm nào ít mưa là coi như công toi. Không có tiền để lo cho con cái, nhiều cha mẹ đành đi vay mượn, rồi chờ đến mùa lúa thì đong lúa cho người ta. Thế mới có chuyện “bán lúa non” mà “không có lúa già để trả!” Đành mắc nợ triền miên. Người mua lúa non, đong lúa già cũng phải kiếm cho mình phần lợi, nên không thiếu cảnh đong lúa mà người “bán lúa non” xót xa rơi lệ. Họ sàng sảy năm lần bảy lượt để chỉ lấy những hạt lúa chắc. Không một hạt lép nào có thể chen vào lẫm lúa họ. Người bán lúa non đành phải hốt đống lúa lép về mà sàng sảy lại để kiếm những hạt lúa đưng mà phơi, giả, nấu cháo cho con. Trong xóm tôi chỉ có một người mua lúa non tốt bụng. Đó là ông bà A. Ông luôn dặn bà: “Đừng mua quá rẻ của người ta. Người ta trả sao lấy vậy. Mình là người có đạo đó, nghe bà”.

Tôi vẫn nghĩ rằng câu nói “Mình là người có đạo” của ông bà ta xưa, tuy rất đơn sơ mộc mạc, nhưng lại là một ý thức cơ bản, một đức tin sống động, một kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin nơi dương thế.

Một ý thức cơ bản: “Mình là người có đạo”. Ngữ “người có đạo” lúc ấy dành cho người công giáo, cho các Kitô hữu, để phân biệt với từ “người lương” dành cho những người theo các đạo khác, và hiểu chữ lương là lương thiện. Tôi còn nhớ trong sách bổn ngày xưa có câu: “Có một đạo rất chính rất thật ấy là Đạo Thánh Đức Chúa Trời”. Và khi sử dụng từ “mình là người có đạo” cho một người và “mình con nhà có đạo” cho cả dòng họ, thì hiểu là: “Mình đã được rửa tội, là Ki-tô hữu, là người Công Giáo, thuộc dòng dõi của Chúa Giê-su Ki-tô, của Con Thiên Chúa và nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, được ơn gọi là nghĩa tử của Thiên Chúa”. Ý thức ấy vốn là ý thức cơ bản nhất của một “người có đạo”. Và chính ý thức ấy đã hướng dẫn, chỉ đạo mọi tư tưởng lời nói việc làm của ông bà ta xưa.

Một Đức Tin sống động: Bởi vậy, đừng chê ông bà ta ít học giáo lý, cũng đừng xem vốn giáo lý của mình thời nay là khá, là nhiều, nhưng hãy xem cách “sống giáo lý” của ông bà thời ấy.

Từ ý thức “mình là người có đạo”, Mẹ tôi thường dặn dò: “Đi đâu, ở đâu, làm việc gì, cũng phải nhớ mình là người có đạo nghe con”. Sau này chúng tôi mới hiểu là có ở đâu, làm gì, thì cũng phải giữ lề luật Chúa, giữ lời Chúa cho nên, cũng phải “đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su Ki-tô”. Cha thì hay dùng lời thánh Phaolô mà dặn: “Dầu khi ăn, dầu khi uống, dầu khi làm việc gì, cũng phải làm cho sáng danh Chúa”. Khi cha cho ý kiến về việc gì thì ý kiến cuối cùng vẫn là “nhưng phải xem coi có sáng danh Chúa không nghe con, không được sáng danh mình”.

“Mình là người có đạo” hẳn phải từ bỏ những tư tưởng, lời nói, việc làm không xứng với danh xưng quý giá ấý, hẳn phải từ bỏ “cái tôi” của mình để cho danh Chúa được cả sáng. Khi anh em chúng tôi nói, làm điều gì sai quấy, cha thường trách yêu: “Con quên mình là người có đạo sao?”. Khi chị tôi chuẩn bị lập gia đình, Mẹ kể cho chị nghe câu chuyện Tobia và Sara: “Tobia và Sara tâm sự: “Mình con nhà có đạo, không thể lấy nhau như lương dân”.

Kim chỉ nam chính xác: “Mình là người có đạo” như kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin chúng ta. Bởi vì, khi đã tháp nhập vào Đức Giê-su Kitô là “Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, người có đạo có Con Đường để đi, con đường Thật bảo đảm một Sự Sống Thật thay cho những con đường gian trá chỉ đưa con người ta đến sự chết ngàn thu. Người có đạo là người đi Con đường của Chúa Giê-su: con đường khiêm nhượng, từ bỏ, chấp nhận khổ đau, thập giá, con đường phục sinh và lên trời, và theo con đường ấy mà về trời. Đó là Sự Thật vĩnh cửu, thay cho sự thật về kiếp con người mong manh tàn lụi. Tôi vẫn mãi nghĩ rằng ngày ấy ông bà chúng ta chưa có văn minh, chưa có phương tiện, còn ít văn hóa, nhưng cái gọi là “Văn hóa Ki-tô Giáo” thì có nhiều hơn chúng ta hôm nay. Bởi, ông bà đã chọn Chúa Giê-su Ki-tô và theo đúng con đường của Chúa Giê-su Ki-tô đã đi:

Người có đạo không chối đạo, nhưng xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ.

Người có đạo không oán ghét, trả thù, nhưng yêu thương hết mọi người.

Người có đạo không xảo trá điêu ngoa, lường gạt, nhưng thực thà chân chất.

Người có đạo không sống cách vô luân lý, không tham danh lợi dục nhưng sống đúng phẩm hạnh của người con Cha trên trời.

Người có đạo không ích kỷ, hẹp hòi, không thu quén cho mình nhưng rộng lượng, quảng đại mong phần lợi cho anh em.

Và người có đạo không tham nhũng, hối lộ, thanh trừng nhau kiểu quan to, trộm cắp giết người kiểu dân nhỏ, không lấy quyền mà hiếp đáp, ăn chơi, trác táng, cùng không hoang đàng, phung phí … nhưng là người sống đời công chính của Đức Giê-su.

Người có đạo không toa rập bán nước, nhưng yêu quê hương và bảo vệ tổ quốc.

…………

Người có đạo không làm hoen ố hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng luôn là họa ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi xinh đẹp sáng láng thánh thiện.

Hôm nay, Chúa cũng đang hỏi chúng ta mọi lúc mọi nơi “Các con bảo Thầy là ai” để chúng ta xác minh lại niềm tin của mình rằng: “Thầy là Đức Giê-su Ki-tô, là Đạo của chúng con”, và Ngài cũng đang bảo chúng ta sống đức tin ấy cách sống động như ông bà ta xưa: “Mình là người có đạo”.

Xin cho ông bà yên tâm, xin cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam vui mừng vì dòng dõi “con nhà có đạo” Việt Nam thời nay đang bước theo Con Đường của Chúa Giê-su Ki-tô, noi gương đức tin sống động của ông bà, của các Thánh Tử Đạo.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn nhớ mình là “người có đạo” trong mọi lúc, mọi nơi, để vì yêu mến Đạo, vì yêu mến Chúa Giê-su, mà chúng con có thể từ bỏ tất cả những gì không làm đẹp lòng Chúa, không làm đẹp danh Chúa và sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, cho vinh danh Chúa. A men.

PM. Cao Huy Hoàng, 21-6-2013

Tôn Chỉ

TonChiTôn Chỉ hay Kim Chỉ Nam của người học sinh là Hấp Thu – Rèn Luyện – Nghĩ Suy và Thực Hành.  Tại sao chúng ta phải hấp thu và chúng ta hấp thu cái gì?  Chúng ta hấp thu những tinh hoa, những điều hay, những lẽ phải, những kiến thức, những kinh nghiệm của thế hệ đi trước.  Khi sinh ra ở đời, ai cũng là những đứa trẻ cả, rất yếu ớt và thiếu kinh nghiệm. Chúng ta phải học ăn, học nói, học gói và học mở.  Nhìn người lớn làm điều gì, chúng ta làm theo điều ấy từ lật, ngồi, bò, đi, ăn, uống cho đến những kỹ năng cao như tưởng tượng hay suy luận. Có những điều chúng ta không học nhưng cũng biết như hít thở không khí, nuốt thức ăn, kêu la khi đau, nhưng có những điều chúng ta phải học ví dụ như đánh đàn, chữa bệnh hay lái máy bay…

Các con bảo Thầy là ai?

Các con bảo Thầy là ai?

Lời tiên báo về cái chết của Ngài được Chúa Giêsu đưa ra lần đầu tiên ngay sau khi nghe lời xưng nhận phi thường của ông Phêrô. Đây là một trong những giây phút hệ trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Ngài hỏi câu đó khi Ngài đã nhất định đi lên Giêrusalem. Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài ở đó, và câu trả lời cho câu hỏi của Ngài là rất mực quan trọng. Điều Ngài đã biết đó chính là Ngài đang tiến đến cây thập giá để chết. Còn điều Ngài muốn biết trước khi Ngài ra đi là đã có ai thực sự khám phá Ngài là Đấng nào chưa? Câu trả lời đúng sẽ thay đổi tất cả. Nếu không có câu trả lời, mà chỉ có hiểu lầm, thì điều này có nghĩa là công việc của Ngài đã uổng công. Nếu có một nhận thức nào đó, dầu rất sơ sài, thì điều đó có nghĩa là Ngài đã thắp lên một ngọn đuốc trong tâm hồn loài người mà thời gian sẽ không bao giờ tắt được.

Ngài bắt đầu đưa ra một câu hỏi: “Dư luận quần chúng nói Thầy là ai?” Câu trả lời của họ cũng không khác gì câu trả lời của người đời ngày nay: người này bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác cho là Êlia, kẻ khác nữa cho là một tiên tri đời xưa sống lại: “Có nghĩa là một nhà cải cách, một nhà đại truyền giáo, một sứ giả của Thiên Chúa”. Những lời phỏng đoán đó không làm cho Chúa Giêsu hài lòng, rồi quay về phía các môn đệ: “Còn về phần các ngươi thì nói Ta là ai?” Lòng Chúa Giêsu hân hoan biết bao khi khám phá bất ngờ của Phêrô tràn ra môi miệng ông: “Thầy là Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa”. Khi nghe điều đó Ngài biết mình đã không thất bại.

Đây là một xác định vĩ đại về Đấng Kitô mà cả thế giới ngày nay vẫn được nghe, nhưng lúc ấy Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ: “Đừng nói điều ấy với ai”. Không những các môn đệ phải khám phá ra sự kiện đó, mà các ông còn phải khám phá ra ý nghĩa của sự kiện đó nữa. Các ông đã lớn lên trong một nền tư tưởng dạy rằng, phải trông đợi từ Thiên Chúa một vị vua chiến thắng sẽ dẫn dắt họ đến địa vị bá chủ thế giới. Cặp mắt của Phêrô hẳn đã sáng lên một niềm xúc động khi ông thốt lên lời đó. Nhưng Chúa Giêsu còn phải dạy cho các ông biết rằng Chúa Cứu Thế đã đến để chết trên cây thập giá. Ngài phải làm đảo lộn tư tưởng của các ông về Thiên Chúa và ý muốn của Ngài, và từ giờ phút này, Ngài sẽ để tâm làm việc đó. Các ông đã khám phá ra Ngài là ai, bây giờ các ông còn phải khám phá thêm ý nghĩa của sự khám phá đó. Chính các môn đệ phải biết ý nghĩa về sự chết và sống lại của Chúa trước đã. Ngày nay không một người nào có thể làm chứng về Đấng Kitô mà lại không biết ý nghĩa của sự chết chuộc tội và quyền năng của sự sống lại của Ngài. Rồi Chúa Giêsu cho các ông biết sự chết mà Ngài sắp phải chịu là rất cần, và quả quyết với họ rằng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại.

Có hai điều cần phải biết trong đoạn lời Chúa này:

. Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách hỏi người ta đang nói gì về Ngài, rồi đột nhiên hướng câu hỏi thẳng vào nhóm môn đệ: “Các ngươi nói Ta là ai?”.

Không bao giờ được cho là đủ nếu chỉ biết những điều người ta nói về Chúa Giêsu. Một người có thể trúng tuyển các kỳ thi về những lời nói và tư tưởng cổ kim của thiên hạ về Chúa Giêsu, người ấy có thể đọc hết các sách Kitô học, được viết bằng mọi thứ tiếng trên thế giới, nhưng người ấy vẫn chưa phải là Kitô hữu. Chúa Giêsu phải là một khám phá riêng của cá nhân chúng ta. Kitô giáo không phải là một câu chuyện lưu truyền. Đối với mỗi người, Chúa Giêsu không đến với câu hỏi rằng: “Ngươi có thể nói cho ta những điều kẻ khác đã nói và biết về Ta chăng?”. Nhưng Ngài hỏi: “Ngươi nói Ta là ai?” Phaolô đã không nói: “Tôi biết điều tôi đã tin”, nhưng ông nói: “Tôi biết Đấng tôi tin”. Kitô giáo không có nghĩa là đọc một bản tín điều nhưng là biết một Đấng nào.

Trong đoạn này chúng ta nghe tiếng “phải” từ miệng Chúa Giêsu, Ngài phán: “Ta phải đi lên thành Giêrusalem Chịu chết”.

Thật rất ý nghĩa khi chúng ta để ý đến những tiếng “phải” Chúa nói trong Phúc âm Luca. Ngài nói: “Há chẳng biết con phải lo việc của Cha con sao?” “Ta cũng phải loan báo Tin Mừng cho các thành khác”; “nhưng ngày nay, ngày mai và ngày kia Ta phải đi”. Ngài thường nói đi nói lại với các môn đệ rằng, Ngài phải đi đón cây thập giá của mình. Chúa Giêsu là người hiểu rõ mình có một định mệnh phải thi hành. Ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn của Ngài. Ngài không có mục đích nào khác với thế gian này ngoài việc làm trọn điều Thiên Chúa đã sai Ngài, là Kitô hữu, cũng như Chúa của mình, là Người hằng vâng lời.

Định mệnh của Ngài cũng là định mệnh của những kẻ là môn đệ của Ngài. Tại đây Chúa đặt ra các điều kiện cho những ai muốn là môn đệ của Ngài.

Người đó phải từ chối mình. Điều đó có nghĩa gì?

Một học giả đã giải thích như sau: Phêrô đã một lần từ chối Chúa khi ông nói về Chúa Giêsu rằng: “Tôi không biết người đó”. Chúng ta từ bỏ mình là nói rằng: “Tôi không biết tôi” tức là không biết chính sự hiện hữu của mình, coi mình như không có vậy. Chúng ta thường tự đặt mình lên cao dường như mình là quan trọng nhất trên thế gian này. Nếu muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải tự xóa mình đi, quên chính bản thân của mình.

Người đó phải vác thập giá của mình:

Cây thập giá không phải chỉ là biểu hiện sự đau đớn vì sỉ nhục, và còn là dụng cụ của sự chết. Chúa Giêsu biết rõ thế nào là đóng đinh vào thập giá. Khi Ngài còn là một cậu bé mười một tuổi, thì Giuđa, người xứ Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Lamã. Ông đã đánh phá kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth 6,4 cây số. Lamã trả thù tức khắc, Sepphoris bị san thành bình địa, dân chúng bị bắt làm nô lệ, hai ngàn loạn quân bị đóng đinh vào thập giá dựng dọc theo hai bên đường cái để làm lời cảnh cáo ghê sợ cho kẻ nào muốn nổi loạn. Vác thập gía mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa, là chúng ta sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.

Người đó phải phân phát sự sống mình chứ không tích trữ nó:

Toàn bộ các tiêu chuẩn trần gian phải đổi thay. Các câu hỏi không phải là “Tôi có thể thâu tích bao nhiêu?”, nhưng là “Tôi có thể phân phát bao nhiêu”. Không phải việc gì là điều an toàn để làm, nhưng là việc nào là điều phải lẽ để làm, không phải cái gì là tối thiểu được phép làm, nhưng là “cái gì là điều tối đa có thể làm”. Kitô hữu phải nhận thức rằng đời sống của mình là cho đi, không phải giữ lấy cho mình, nhưng là đem phân phát đời mình cho kẻ khác, không phải là tiết kiệm năng lực, nhưng là tiêu hao năng lực cho Chúa và tha nhân.

Thật ra sự chọn lựa này, nói cho cùng chỉ vì: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, vì tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hiệp với Người”.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết ơn trở thành những chứng nhân hữu hiệu của Ngài giữa anh chị em xung quanh, chứng nhân trung thành với đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận và giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

Veritas  Radio

Nhận diện Đức Kitô

Nhận diện Đức Kitô

Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.

“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.

Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.

Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.

Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?
2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?
3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?
4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?
5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?

ĐTGM NGÔ QUANG KIỆT

CÂU HỎI HƠN HAI NGÀN NĂM

CÂU HỎI HƠN HAI NGÀN NĂM

Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê, một thành phố được quận vương Philiphê chỉnh trang để tôn vinh Hoàng đế Cêsarê. Trên chóp đỉnh của một khối đá đứng sừng sững, một ngôi đền nguy nga bằng cẩm thạch trắng thờ Hoàng Đế La Mã được coi là một kỳ công trong vùng.Một số nhà chú giải cho rằng, cảnh tượng vĩ đại đó đã gợi ý khi Chúa tuyên bố Giáo hội của Ngài sẽ được xây trên nền tảng Phêrô vững chắc như một bàn thạch. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đã có từ khi Chúa quyết định đổi tên Simon thành Kêpha hay Phêrô, nghĩa là Đá trong cuộc gặp gỡ đầu tiên (Ga 1,42).

Theo thói quen trước khi quyết định những điều quan trọng, Chúa Giêsu vừa đến nơi liền đi vào một chỗ thanh vắng, một mình cầu nguyện với Chúa Cha. Các Tông đồ chờ Thầy ở ngoại ô thị trấn. Họ nghiệm rằng, mỗi khi Thầy xa họ và trở về là có diễn tiến mới.Thầy trò lại đi về phía những làng nhỏ. Dọc đường Ngài hỏi các ông : Người ta nói Thầy là ai ? Các ông đáp lại : có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Một số nói là Êlia, một số khác cho là một trong các tiên tri thời xưa như Giêrêmia. Nhưng Chúa nhấn mạnh : Còn các con, các con nói Thầy là ai ? Phêrô lên tiếng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Bài Tin Mừng cho thấy, có ba mức độ nhận biết về Chúa Giêsu.

– Dân chúng nhận thấy Chúa Giêsu là một tiên tri như Gioan Tẩy Giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri là sứ giả của Thiên Chúa nên thường có quyền làm được vài phép lạ như chữa bệnh, cứu đói… Dân chúng đến với tiên tri chủ yếu để xin ơn này ơn khác. Họ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Ngài để xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu vì lợi ích, để cầu lợi cầu phúc. Cho nên họ không thể nhận ra Ngài là Đấng Kitô.

– Các môn đệ nhận biết về Chúa Giêsu. Khi Chúa hỏi: “Các con bảo Thầy là ai ? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18 ; Is 11. 61,1-2 ; 1V 19,16). Chúa Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.

Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Ngài siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất, Ngài là Đấng Thánh của Israel và nước Ngài tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 ; 12).

Theo truyền thống tiền nhân, các môn đệ cũng quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế. Vì vậy, khi thấy Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin cho hai con trai: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Ngài ra và can ngăn Ngài đừng dại dột thế. Chúa Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).

– Mức độ thứ ba chính là cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu độ nơi Thập Giá và Phục Sinh. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Đó là sứ mệnh chính yếu của Đức Kitô: tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-18 ; 15, 13).Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.

Suy niệm trang Tin Mừng này, Thánh Gioan Kim Khẩu viết : khi Chúa hỏi về dư luận quần chúng, mọi Tông đồ đều trả lời. Khi Chúa hỏi cảm nghĩ của các ông, Phêrô một mình lên tiếng trước các bạn. Không phải do xác thịt nhưng nhờ Chúa Cha mạc khải nên Phêrô nhận biết Thầy Giêsu là Đức Kitô ở tầm mức cao nhất. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người” có một Giêsu “Thiên Chúa ”. Phêrô nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của Chúa Giêsu có một thần tình cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Vì thế, Phêrô được Chúa khen tặng và tín nhiệm trao quyền tối thượng : “Phêrô, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Ba hình ảnh cụ thể mô tả quyền tối thượng của Phêrô trong Giáo Hội. Đó là, Phêrô được trao chìa khóa Nước Trời, Phêrô được quyền tháo gỡ, cầm buộc và cửa địa ngục sẽ không thắng được.

Tuyên tín Chúa Giêsu là ai tức là xác định đường mình đi. Phêrô đã tuyên tín trên đường hành trình với Chúa. “Các con nói Thầy là ai?” Chúa không hỏi các môn đệ câu ấy trong lúc nghĩ ngơi mà lúc đi đường. Những ngày ở Giêrusalem, ở Galilê, ở Nazareth, người ta nói về Đức Giêsu, người ta xem Ngài làm phép lạ, họ gọi Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, là một tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Đức Kitô. Để biết Ngài, phải sống và hành trình với Ngài và cùng đi với Ngài trên mọi nẻo lối trần thế.

Chúa Giêsu là ai ? Câu hỏi là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Phêrô đã khám phá ra thần tính trong nhân tính của Chúa Giêsu. Phaolô trên đường Đamat, bị té ngựa do ánh sáng từ trời, đã hốt hoảng kêu lên : “Ngài là ai?” và có lời đáp bất ngờ : “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5), Phaolô khám phá ra nhân tính trong thần tính của Đấng đã gọi ngài.

Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ “dưới bầu trời này, không có Danh nào khác”, ngoài Danh Giêsu “được ban cho loài người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12). Nếu ai đó hỏi rằng điều gì làm nên một Kitô hữu, thì câu trả lời là: đó là người tin rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Niềm tin đó là đá nền, trên đó Hội Thánh được xây dựng (GLCG số 424). Tin vào Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Ngài như chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,4-5). Điều độc đáo và đặc biệt của niềm tin Kitô giáo là tin rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con hằng hữu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin Kitô giáo “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,11).

Chỉ trong ánh sáng này chúng ta mới hiểu được tại sao tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là bước theo Ngài, và bước theo Chúa là đòi hỏi quan trọng hơn mọi cam kết khác trong đời. Làm sao một con người thuần túy mà có thể nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37)? Đòi hỏi ấy chỉ có thể đến từ Đấng là chính Thiên Chúa. Làm sao một con người mà có thể nói: “Tất cả những ai nhìn nhận Thầy trước mặt người đời thì Con Người cũng sẽ nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)? Điều đó lại chẳng có nghĩa rằng ơn cứu độ vĩnh cửu tùy thuộc vào thái độ của người ta đối với Chúa Giêsu sao?

Nếu chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ơn cứu độ, nếu chỉ có Ngài mới là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” thì liệu có ai có thể được cứu độ mà không cần đến Chúa Giêsu? Nếu như thế, biết bao người chưa hề nghe đến Danh Chúa Giêsu, không có cơ hội để nhận biết và yêu mến Ngài thì sao ( GLCG số 846-847)? Chính Chúa Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này: đến giờ phán xét, Con Người sẽ tỏ cho thấy tất cả những hành động yêu thương chân chính dành cho tha nhân “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm…”, tất cả những hành động yêu thương ấy đều là cho chính Chúa: “Điều gì các ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, là làm cho chính Ta” (Mt 25; GLCG số 1038).

Sau lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã được biến đổi và trở nên khác với Simon ngày trước. Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Cả hai ngài đã trở nên cột trụ xây dựng Hội Thánh và cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi, đó là đức tin của Hội Thánh và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.

Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), bất cứ ai được tình yêu này chiếm hữu, bất cứ ai kinh nghiệm về sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và quyền năng phục sinh của Ngài, thì người ấy sẽ cảm thấy nỗi ước mong loan báo về Ngài, rao giảng Tin Mừng của Ngài, và dẫn mọi người đến niềm tin vào Chúa Giêsu (GLCG số 429).

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi ấy, Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng, bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng.

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi đã hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay. Trả lời là sống niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Ngài là Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính yêu thao thức tìm kiếm gặp gỡ gắn bó. Ngài ở trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, Thánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Ngài hiện diện nơi anh chị chung quanh để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên đới trách nhiệm. Ngài hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.

Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, yêu mến Ngài, bước theo Ngài. Và hơn nữa, “Anh em không còn là nô lệ nhưng là con” (Gal 4,7). Nhờ Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài, chúng ta trở nên những “con cái của Thiên Chúa” (1Cor 6,18).

LM Giuse Nguyễn hữu An

Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ gần 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 19-6-2013. Ngay từ lúc 6 giờ sáng đã có các đoàn hành hương đứng xếp hàng để chờ qua các trạm kiểm soát và vào quảng trưởng thánh Phêrô. Lúc 9 giờ 45 xe jeep trắng chở Đức Thánh Cha tiến ra quảng trường giữa tiếng vỗ tay reo hò liên tục đặc biệt là của các trẻ em và người trẻ. Có mấy người tàn tật “bắt cóc” được Đức Thánh Cha ngay khi xe vừa ra khỏi cổng. Ngài đã xuống ôm hôn một cụ già. Khi xe đi giữa các lối đi của quảng trường, Đức Thánh Cha phải vất vả quay phía trái rồi lại quay qua phía phải, vì tín hữu gào to lên: ”Xin Đức Thánh Cha quay qua phía chúng con”. Và không cần phải nói thì qúy vị cũng biết rằng các bà mẹ có con nhỏ đứng gần lối đi đưa con họ cho các cận vệ để họ bế các em lên cho Đức Thánh Cha hôn và xoa đầu chúng. Lần nào trước và sau khi tiếp kiến Đức Thánh Cha cũng mất 1 tiếng rưỡi đồng hồ để chào tín hữu. Vì thế tuy phải đứng chờ dưới trời mùa hè Roma nóng hơn 30 độ cả mấy giờ đồng hồ, mọi người vẫn vui vẻ, reo hò, và có điều rất lạ là đã không có ai bị xỉu. Mỗi một buổi tiếp kiến giống như một ngày lễ hội.

Sáng thứ tư 19-6-2013 trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô như Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định (LG 7). Đức Thánh Cha nói: Hình ảnh thân mình giúp chúng ta hiểu mối dây nối kết chặt chẽ này giữa Giáo Hội và Chúa Kitô, mà thánh Phaolô đã khai triển một cách đặc biệt trong chương 12 thư thứ I gửi tín hữu Corintô. Đức Thánh Cha định nghĩa Giáo Hội như sau:

Giáo Hội không phải là một hiệp hội cứu trợ, văn hóa hay chính trị, mà là một thân thể sống động, tiến bước và hành động trong dòng lịch sử. Và thân mình đó có một thủ lãnh là Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn, dưỡng nuôi và đỡ nâng thân mình. Đây là một điểm mà tôi muốn nêu bật: nếu ta tách rời đầu khỏi phần còn lại của thân thể, thì toàn con người không thể sống sót được. Trong Giáo Hội cũng thế: chúng ta phải luôn luôn gắn bó một cách sâu đậm với Chúa Giêsu. Nhưng không phải chỉ có thế: cũng như trong một thân thể, điều quan trọng là nhựa sống phải đi qua để thân thể sống, cũng thế chúng ta phải cho phép Chúa Giêsu hoạt động trong chúng ta, để cho Lời của Người hướng dẫn chúng ta, để cho sự hiện diện của Người trong Bí tích Thánh Thể dưỡng nuôi chúng ta, linh hoạt chúng ta, để cho tình yêu của Người ban sức mạnh cho chúng ta, cho tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Và phải luôn luôn, luôn luôn, luôn luôn như vậy! Anh chị em thân mến, chúng ta hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu, hãy tín thác nơi Người, hãy dịnh hướng cuộc sống của chúng ta theo Tin Mừng của Người, chúng ta hãy đưỡng nuôi mình với lời cầu nguyện mỗi ngày, với việc lắng nghe Lời Chúa, với việc tham dự vào các Bí Tích.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trên đường đến thành Damasco đã giúp thánh Phaolô hiểu được sự hiệp nhất sâu đậm giữa các tín hữu kitô với Chúa Kitô. Saulô, sau này sẽ được gọi là Phaolô, là một trong các nhà rao truyền Tin Mừng vĩ đại nhất. Nhưng trước đó Saulô đã là một người bách hại các kitô hữu, nhưng trong khi Saulô đến thành Damasco, thì bất thình lình một ánh sáng bao phủ ông, Ông té xuống đất và nghe một tiếng nói với ông: ”Saulô, Saulô, tại sao ngươi bách hai Ta?” Ông hỏi: ”Lạy Chúa Ngài là ai?” và tiếng nói đó trả lời: ”Ta là Giêsu mà ngươi bách hại” (Cv 9,3-5). Khi Chúa Giêsu lên trời Người đã không để chúng ta mồ côi, nhưng với ơn Thánh Thần sự hiệp nhất với Người để lại còn trở thành sâu đậm hơn nữa. Công Đồng Chung Vatican II khẳng định rằng ”khi thông truyền Thần Khí của Người, Chúa Giêsu thành lập một cách thần bí như thân mình Người các anh em Người, được mời gọi từ mọi dân tộc” (LG, 7)

Khía cạnh thứ hai cúa Giáo Hội đó là Giáo Hội như Thân Mình của Chúa Kitô. Thánh Phaolô khẳng định rằng như các chi thể của thân thể con người, tuy khác nhau và nhiều, nhưng chúng làm thành một thân thể duy nhất. Như vậy tất cả chúng ta đã được rửa tội qua cùng một Thần Khí trong một thân mình duy nhất (x. 1 Cr 12,12-13). Đức Thánh Gia giải thích điểm này như sau:

Như vậy trong Giáo Hội có một sự khác biệt, một sự khác nhau về bổn phận và nhiệm vụ; không có sự đồng nhất bằng phẳng, nhưng có sự phong phú các ơn mà Chúa Thánh Thần phân phát. Tuy nhiên có sự hiệp thông và hiệp nhất: tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này: là thành phần của Giáo Hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu, có nghĩa là hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng và các Giám Muc, là các dụng cụ của sự hiệp nhất và hiệp thông, và cũng có nghĩa là học hỏi và thắng vượt các khuynh hướng cá nhân và các chia rẽ, hiểu biết nhau nhiều hơn, hòa hợp các khác biệt và các phong phú của từng người; tắt một lời là yêu mến Thiên Chúa và những người sống gần chúng ta, trong gia đình, trong giáo xứ, trong các hội đoàn. Để có thể sống được thân mình và các chi thể phải hiệp nhất. Sự hiệp nhất lớn hơn các xung khắc, luôn luôn. Các xung đột nếu không được giải quyết tốt, tách rời chúng ta khỏi chính mình, tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa. Sự dụng độ có thể giúp chúng ta lớn lên, nhưng cũng có thể chia rẽ chúng ta. Chúng ta đừng đi trên con đường của các chia rẽ, của các đấu tranh giữa chúng ta, đừng! Tất cả hiệp nhất, tất cả hiệp nhất với các khác biệt của chúng ta, nhưng mà hiệp nhất, luôn luôn hiệp nhất. Hiệp nhất là con đường của Chúa Giêsu!

Sự hiệp nhất cao hơn các xung khắc. Sự hiệp nhất là một ơn mà chúng ta phải xin với Chúa, để Người giải thoát chúng ta khỏi các cám dỗ chia rẽ, các chiến đấu giữa chúng ta và các ích kỷ, bép xép mách lẻo. Các bép xép gây ra biết bao nhiêu đau đớn! Biết bao nhiêu đau đớn phải không? Biết bao sư dữ! Đừng bao giờ bép xé về người khác: đừng bao giờ. Các chia rẽ giữa các kitô hữu, việc tách riêng ra và các lợi nhuận thấp hèn gây ra biết bao nhiêu thiệt hại cho Giáo Hội! Các chia rẽ giữa chúng ta, và cả các chia rẽ giữa các cộng đoàn, kitô hữu tin lành, kitô hữu chính thống, kitô hữu công giáo… mà tại sao lại chia rẽ? Chúng ta phải tìm đem lại sự hiệp nhất.

Rồi Đức Thánh Cha kể cho mọi người nghe một chuyện. Ngài nói: hôm nay trước khi ra khỏi nhà, với một mục sư tin lành chúng tôi đã cầu nguyện chung với nhau khoảng 40 phút, nửa giờ, bằng cách tìm sự hiệp nhất. Chúng ta phải cầu nguyện chung với nhau giữa chúng ta là tín hữu công giáo, nhưng cả với các kitô hữu khác nữa, cầu nguyện để Chúa ban cho chúng ta sự hiệp nhất: sự hiệp nhất giữa chúng ta! Nhưng mà làm sao chúng ta có thể có sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô, nếu chúng ta không có khả năng hiệp nhất giữa tín hữu công giáo chúng ta, trong gia đình – có biết bao gia đình chống đối và chia rẽ nhau? Anh chị em hãy tìm sự hiệp nhất, và là sự hiệp nhất mà Giáo Hội làm, và sự hiệp nhất đến từ Chúa Giêsu Kitô. Chính Người gửi Thánh Thần đến cho chúng ta để tạo sự hiệp nhất.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Trong phần chào các tín hữu Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặc hiệt chào các phái đoàn hành hương đến từ các nước Phi châu như: Nam Phi, Papua Tân Guinea; và từ Á châu như các nước: Ấn Độ, Indonesia và Pakistan; cũng như các nước đến đến từ các nước châu Mỹ Latinh chẳng hạn như Argentina, Costa Rica, Honduras, Mexico, Cộng hàa Domninicana, và Brasil. Đức thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Ai Cập, Lebanese và Iraq.

Ngài cũng chào các tín hữu Italia thuộc các giáo xứ, hội đoàn, các nhóm và các tổ chức khác nhau, đặc biệt là các đoàn hành hương của các giáo phậm Pozzuoli, Lecce, Velletri Segni, Alessandria, Osimo, và Albano cùng với các Giám Mục và Tổng Giám Mục dẫn đầu. Ngài cầu chúc tất cả những ngày viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm các nơi thánh được nhiều ơn thánh và ích lợi thiêng liêng, giúp củng cố đức tin và sống trung thành với ơn gọi kitô. Đức Thánh Cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho ngài và cho sứ vụ phụng sự của ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Sau buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha đã đứng bắt tay chào các Giám Mục và tín hữu đứng hai bên khán đài cũng như các cặp vợ chồng mới cưới. Khi xe jeep đi ngang qua các người tàn tật ngồi trên ghế lăn ngài đã xuống xe đến bắt tay chào, ôm hôn, nói chuyện với họ và an ủi họ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình Chúa Kitô, trong đó mọi chi thể hiệp nhất với nhau nhờ sức mạnh của tình yêu thương

Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ gần 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 19-6-2013. Ngay từ lúc 6 giờ sáng đã có các đoàn hành hương đứng xếp hàng để chờ qua các trạm kiểm soát và vào quảng trưởng thánh Phêrô. Lúc 9 giờ 45 xe díp trắng chở Đức Thánh Cha tiến ra quảng trường giữa tiếng vỗ tay reo hò liên tục đặc biệt là của các trẻ em và người trẻ. Có mấy người tàn tật “bắt cóc” được Đức Thánh Cha ngay khi xe vừa ra khỏi cổng. Ngài đã xuống ôm hôn một cụ già. Khi xe đi giữa các lối đi của quảng trường, Đức Thánh Cha phải vất vả quay phía trái rồi lại quay qua phía phải, vì tín hữu gào to lên: ”Xin Đức Thánh Cha quay qua phía chúng con”. Và không cần phải nói thì qúy vị cũng biết rằng các bà mẹ có con nhỏ đứng gần lối đi đưa con họ cho các cận vệ để họ bế các em lên cho Đức Thánh Cha hôn và xoa đầu chúng. Lần nào trước và sau khi tiếp kiến Đức Thánh Cha cũng mất 1 tiếng rưỡi đồng hồ để chào tín hữu. Vì thế tuy phải đứng chờ dưới trời mùa hè Roma nóng hơn 30 độ cả mấy giờ đồng hồ, mọi người vẫn vui vẻ, reo hò, và có điều rất lạ là đã không có ai bị xỉu. Mỗi một buổi tiếp kiến giống như một ngày lễ hội.

Sáng thứ tư 19-6-2013 trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý Giáo Hội là Thân Mình của Chúa Kitô như Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định (LG 7). Đức Thánh Cha nói: Hình ảnh thân mình giúp chúng ta hiểu mối dây nối kết chặt chẽ này giữa Giáo Hội và Chúa Kitô, mà thánh Phaolô đã khai triển một cách đặc biệt trong chương 12 thư thứ I gửi tín hữu Corintô. Đức Thánh Cha định nghĩa Giáo Hội như sau:

Giáo Hội không phải là một hiệp hội cứu trợ, văn hóa hay chính trị, mà là một thân thể sống động, tiến bước và hành động trong dòng lịch sử. Và thân mình đó có một thủ lãnh là Đức Giêsu, Đấng hướng dẫn, dưỡng nuôi và đỡ nâng thân mình. Đây là một điểm mà tôi muốn nêu bật: nếu ta tách rời đầu khỏi phần còn lại của thân thể, thì toàn con người không thể sống sót được. Trong Giáo Hội cũng thế: chúng ta phải luôn luôn gắn bó một cách sâu đậm với Chúa Giêsu. Nhưng không phải chỉ có thế: cũng như trong một thân thể, điều quan trọng là nhựa sống phải đi qua để thân thể sống, cũng thế chúng ta phải cho phép Chúa Giêsu hoạt động trong chúng ta, để cho Lời của Người hướng dẫn chúng ta, để cho sự hiện diện của Người trong Bí tích Thánh Thể dưỡng nuôi chúng ta, linh hoạt chúng ta, để cho tình yêu của Người ban sức mạnh cho chúng ta, cho tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Và phải luôn luôn, luôn luôn, luôn luôn như vậy! Anh chị em thân mến, chúng ta hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu, hãy tín thác nơi Người, hãy dịnh hướng cuộc sống của chúng ta theo Tin Mừng của Người, chúng ta hãy đưỡng nuôi mình với lời cầu nguyện mỗi ngày, với việc lắng nghe Lời Chúa, với việc tham dự vào các Bí Tích.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trên đường đến thành Damasco đã giúp thánh Phaolô hiểu được sự hiệp nhất sâu đậm giữa các tín hữu kitô với Chúa Kitô. Saulô, sau này sẽ được gọi là Phaolô, là một trong các nhà rao truyền Tin Mừng vĩ đại nhất. Nhưng trước đó Saulô đã là một người bách hại các kitô hữu, nhưng trong khi Saulô đến thành Damasco, thì bất thình lình một ánh sáng bao phủ ông, Ông té xuống đất và nghe một tiếng nói với ông: ”Saulô, Saulô, tại sao ngươi bách hai Ta?” Ông hỏi: ”Lạy Chúa Ngài là ai?” và tiếng nói đó trả lời: ”Ta là Giêsu mà ngươi bách hại” (Cv 9,3-5). Khi Chúa Giêsu lên trời Người đã không để chúng ta mồ côi, nhưng với ơn Thánh Thần sự hiệp nhất với Người để lại còn trở thành sâu đậm hơn nữa. Công Đồng Chung Vaticăng II khẳng định rằng ”khi thông truyền Thần Khí của Người, Chúa Giêsu thành lập một cách thần bí như thân mình Người các anh em Người, được mời gọi từ mọi dân tộc” (LG, 7)

Khía cạnh thứ hai cúa Giáo Hội đó là Giáo Hội như Thân Mình của Chúa Kitô. Thánh Phaolô khẳng định rằng như các chi thể của thân thể con người, tuy khác nhau và nhiều, nhưng chúng làm thành một thân thể duy nhất. Như vậy tất cả chúng ta đã được rửa tội qua cùng một Thần Khí trong một thân mình duy nhất (x. 1 Cr 12,12-13). Đức Thánh Gia giải thích điểm này như sau:

Như vậy trong Giáo Hội có một sự khác biệt, một sự khác nhau về bổn phận và nhiệm vụ; không có sự đồng nhất bằng phẳng, nhưng có sự phong phú các ơn mà Chúa Thánh Thần phân phát. Tuy nhiên có sự hiệp thông và hiệp nhất: tất cả đều có tương quan với các người khác và tất cả đều đồng quy về việc làm thành một thân thể sống động duy nhất, gắn liền với Chúa Kitô một cách sâu xa. Chúng ta hãy nhớ rõ điều này: là thành phần của Giáo Hội có nghĩa là kết hiệp với Chúa Kitô và nhận được từ Người sự sống thiên linh khiến cho chúng ta sống như kitô hữu, có nghĩa là hiệp nhất với Đức Giáo Hoàng và các Giám Muc, là các dụng cụ của sự hiệp nhất và hiệp thông, và cũng có nghĩa là học hỏi và thắng vượt các khuynh hướng cá nhân và các chia rẽ, hiểu biết nhau nhiều hơn, hòa hợp các khác biệt và các phong phú của từng người; tắt một lời là yêu mến Thiên Chúa và những người sống gần chúng ta, trong gia đình, trong giáo xứ, trong các hội đoàn. Để có thể sống được thân mình và các chi thể phải hiệp nhất. Sự hiệp nhất lớn hơn các xung khắc, luôn luôn. Các xung đột nếu không được giải quyết tốt, tách rời chúng ta khỏi chính mình, tách rời chúng ta khỏi Thiên Chúa. Sự dụng độ có thể giúp chúng ta lớn lên, nhưng cũng có thể chia rẽ chúng ta. Chúng ta đừng đi trên con đường của các chia rẽ, của các đấu tranh giữa chúng ta, đừng! Tất cả hiệp nhất, tất cả hiệp nhất với các khác biệt của chúng ta, nhưng mà hiệp nhất, luôn luôn hiệp nhất. Hiệp nhất là con đường của Chúa Giêsu!

Sự hiệp nhất cao hơn các xung khắc. Sự hiệp nhất là một ơn mà chúng ta phải xin với Chúa, để Người giải thoát chúng ta khỏi các cám dỗ chia rẽ, các chiến đấu giữa chúng ta và các ích kỷ, bép xép mách lẻo. Các bép xép gây ra biết bao nhiêu đau đớn! Biết bao nhiêu đau đớn phải không? Biết bao sư dữ! Đừng bao giờ bép xé về người khác: đừng bao giờ. Các chia rẽ giữa các kitô hữu, việc tách riêng ra và các lợi nhuận thấp hèn gây ra biết bao nhiêu thiệt hại cho Giáo Hội! Các chia rẽ giữa chúng ta, và cả các chia rẽ giữa các cộng đoàn, kitô hữu tin lành, kitô hữu chính thống, kitô hữu công giáo… mà tại sao lại chia rẽ? Chúng ta phải tìm đem lại sự hiệp nhất.

Rồi Đức Thánh Cha kể cho mọi người nghe một chuyện. Ngài nói: hôm nay trước khi ra khỏi nhà, với một mục sư tin lành chúng tôi đã cầu nguyện chung với nhau khoảng 40 phút, nửa giờ, bằng cách tìm sự hiệp nhất. Chúng ta phải cầu nguyện chung với nhau giữa chúng ta là tín hữu công giáo, nhưng cả với các kitô hữu khác nữa, cầu nguyện để Chúa ban cho chúng ta sự hiệp nhất: sự hiệp nhất giữa chúng ta! Nhưng mà làm sao chúng ta có thể có sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô, nếu chúng ta không có khả năng hiệp nhất giữa tín hữu công giáo chúng ta, trong gia đình – có biết bao gia đình chống đối và chia rẽ nhau? Anh chị em hãy tìm sự hiệp nhất, và là sự hiệp nhất mà Giáo Hội làm, và sự hiệp nhất đến từ Chúa Giêsu Kitô. Chính Người gửi Thánh Thần đến cho chúng ta để tạo sự hiệp nhất.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta là chi thể của Thân Mình Giáo Hội luôn hiệp nhất với Chúa Kitô một sách sâu đậm; hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta không làm cho Thần Mình của Giáo Hội đau khỗ vì các xung đột, chia rẽ và ích kỷ của chúng ta; giúp chúng ta là các chi thể sống động được gắn liền với nhau bởi một sức mạnh duy nhất, sức mạnh của tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng chúng ta.

Trong phần chào các tín hữu Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặc hiệt chào các phái đoàn hành hương đến từ các nước Phi châu như: Nam Phi, Papua Tân Guinea; và từ Á châu như các nước: Ấn Độ, Indonesia và Pakistan; cũng như các nước đến đến từ các nước châu Mỹ Latinh chẳng hạn như Argentina, Costa Rica, Honduras, Mêhicô, Cộng hàa Domninicana, và Brasil. Đức thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Ai Cập, Libăng và Irak.

Ngài cũng chào các tín hữu Italia thuộc các giáo xứ, hội đoàn, các nhóm và các tổ chức khác nhau, đặc biệt là các đoàn hành hương của các giáo phậm Pozzuoli, Lecce, Velletri Segni, Alessandria, Osimo, và Albano cùng với các Giám Mục và Tổng Giám Mục dẫn đầu. Ngài cầu chúc tất cả những ngày viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm các nơi thánh được nhiều ơn thánh và ích lợi thiêng liêng, giúp củng cố đức tin và sống trung thành với ơn gọi kitô. Đức Thánh Cha cũng xin mọi người cầu nguyện cho ngài và cho sứ vụ phụng sự của ngài.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Sau buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha đã đứng bắt tay chào các Giám Mục và tín hữu đứng hai bên khán đài cũng như các cặp vợ chồng mới cưới. Khi xe díp đi ngang qua các người tàn tật ngồi trên ghế lăn ngài đã xuống xe đến bắt tay chào, ôm hôn, nói chuyện với họ và an ủi họ.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Cây ma túy Cannabis chẳng những không chữa lành, mà còn hại cho sức khỏe

Cây ma túy Cannabis chẳng những không chữa lành, mà còn hại cho sức khỏe

Một số nhận định của ông Giovanni Serpelloni, giám đốc phân bộ chính trị chống ma túy Italia

Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ hiện nay, càng ngày người trẻ càng bị cám dỗ dùng các chất ma túy khác nhau rất có hại cho sức khỏe. Bên cạnh các loại ma túy mạnh như bạch phiến và các loại ma túy hóa học, có cây Cannabis, mà một vài chính trị gia chủ trương cho tự do sử dụng.

Trong một tường trình mới đây ”Đài quan sát ma túy và người nghiện ma túy Âu châu” cho biết hiện nay số người trẻ dùng Heroine giảm bớt, nhưng thay vào đó là các loại ma túy hóa học rẻ hơn, nhưng cũng rất nguy hại cho não bộ và cơ thể con người. So sánh với qúa khứ số lượng người dùng “metamfetamina” cũng như khả năng và kỹ thuật sản suất chất ma túy này đã gia tăng rất nhiều. Nhu cầu ma túy tổng hơp tại Âu châu được đáp ứng phần lớn bởi các phòng thí nghiệm hiện hữu bên trong lục địa Âu châu, đặc biệt là tại các nước Hòa Lan, Bỉ, Ba Lan và Lituania. Trái lại, nói chung thị trường Heroine Âu châu không quan trọng, và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn nắm giữ vai trò trung tâm trong việc buôn bán ma túy. Loại ma túy thường được sử dụng nhiều nhất là Cocain, nhập vào Âu châu qua hai ngõ chính là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Nhưng hiện nay có thêm các lộ trình mới: lượng Cocain được cất giấu trong các thùng chở hàng hóa ngày càng nhiều hơn. Mới đây các lực lượng cảnh sát đã khám phá ra và tịch thu nhiều kiện hàng tại Biển Đen và Biển Đông Baltic. Để tránh bị bắt các tổ chức buôn bán ma túy dùng các kỹ thuật hóa học tinh vi để bọc chất Cocain bằng các loại hàng được phép nhập cảng như quần áo, và các sản phẩm bằng nhựa.

Ông Rob Wainwright, giám đốc cảnh sát Âu châu Europol, cho biết Anh quốc, Hòa Lan, Bỉ và bắc Pháp thuộc vùng địa lý có vấn đề nhất, vì thu hút nhiều làn sóng các sản phẩm bất hợp pháp. Và một vài tổ chức trong số các tổ chức tội phạm ý nghĩa nhất chỉ huy các đường dây du nhập này. Bà Cecilia Malmstroem, Ủy viên nội vụ Âu châu, cho biết Ủy ban Âu châu đề nghị cấm bán loại ma túy tổng hợp 4 MA trong toàn Âu châu. Loại 4 MA đã bị cấm tại 10 nước: Áo. đảo Chypre, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hungarie, Ailen, Anh quốc, Lituania và Hòa Lan, vì người ta nghi nó đã gây ra 21 trường hợp tử vong trong năm 2010-2011. Bà cho rằng việc kiểm soát và đóng các biên giới không đủ để ngăn chặn ma túy du nhập, nhưng cần phải có hoạt động trao đổi tin tức giữa các lực lượng cảnh sát toàn Âu châu nữa.

Theo các thống kê mới nhất hiện nay năm 2011 có 12.65% học sinh sinh viên trong lứa tuổi 15-19 dùng Cannabis, và năm 2012 có 12.94%, tức gia tăng 0.29%. Số người trẻ dùng Heroin giảm 0.06% và số người trẻ dùng Cocain giảm 0.11%, trong khi số người trẻ dùng các chất kích thích gia tăng 0.07%, và số người trẻ dùng các chất gây ra ảo giác giảm 0,16%.

Thị trường Âu châu hiện có tới 12 triệu người dùng Cannabis tuổi từ 15 tới 64, trong đó có 5 triệu người trẻ dưới 24 tuổi. Italia là quốc gia tiêu thụ 14% tổng lượng Cannabis lưu hành trong Âu châu. Âu châu cũng là đại lục tiêu thụ 30% tổng lượng Hashish lưu hành trên thế giới.

Ông Wolfgang Goetz, giám đốc ”Trung tâm Âu châu đặc trách các người nghiện ma túy” cho biết Âu châu là vùng ngày càng sản xuất nhiều loại ma túy tổng hợp và Cannabis. Khuynh hướng sản xuất ma túy bất hợp pháp cũng ngày càng lan tràn trong những vùng ít bị nghi ngờ. Hiện tượng này gia tăng bất an ninh cho cuộc sống cộng đồng. Ông Goetz cũng nói rằng số người nghiện ma túy ngày càng gia tăng tự nó là một báo động đáng cho giới chức hữu trách chính trị phải lưu tâm. Bởi vì đối với nhiều người dân Âu châu, đặc biệt là giới trẻ, việc dùng ma túy không phải là chuyện ”thỉnh thoảng” mới xảy ra nữa, mà là chuyện xảy ra mỗi ngày.

Việc nghiện ngập ma túy được khích lệ bởi việc nảy sinh ra các tổ chức ”grow shop” ”quán lớn lên” thịnh hành hồi bán thập niên 1990 tại Bắc Mỹ và Âu châu. Tại Âu châu tổ chức này đã hiện diện trong 15 nước và nó nấp sau việc buôn bán các sản phẩm, mà không phải trả lời cho việc sử dụng chúng.

Ngoài phong trào tự trồng cây ma túy, còn có các hoạt động của các tổ chức tội phạm cấu kết vớí nhau trong dịch vụ buôn bán Cocain và nhựa Cannabis. Phi châu ngày càng trở thành vùng chuyển vận và phân phối ma túy, trong khi các tổ chức tội phạm nắm vai trò quan trọng trong các nước Tây Bắc Âu châu.

Riêng tại Italia phong trào tự trồng cây Cannabis ngày càng lan rộng và các chính quyền miền theo nhau cho phép sử dụng nó. Hai miền mới nhất là Marche và Emilia Romagna. Nhưng các luật do các chính quyền vùng miền đưa ra đi ngược lại với luật quốc gia bảo vệ sức khỏe của người dân. Ngoài các vùng Liguria, Emiglia Romagna và Marche, hồi tháng 5 năm 2012 chính quyền vùng Toscana cũng đã ra luật cho phép sử dụng Cannabis, và vào tháng 9 cùng năm tới phiên vùng Veneto. Các luật này nói chung đều giống nhau. Chúng cho phép sử dụng Cannabis trong lãnh vực ung thư và thần kinh não bộ, cũng như trên các bệnh nhân cuối đời và các bênh nhân bị đa xơ cứng. Các loại thuốc chế bằng Cannabis này phải được nhập cảng và có giấy phép nghiêm ngặt của các nhà thương. Một trong những thuốc chế bằng Cannabis nổi tiếng là Bedrocan của Hòa Lan. Tiếp đến là Sativex, dễ dùng vì như dưởi dạng thuốc xịt.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Đồng Giám Mục Italia, bác sĩ Antonio Poselli, chuyên viên bệnh ưng thư cho biết các nghiên cứu quốc tế cho thấy các kết qủa của Cannabis rất yếu kém và gây thất vọng, chứ không có hiệu quả nhiều như người ta tưởng nghĩ hay thổi phồng. Việc dùng các loại thuốc giảm đau có chất á phiện trở thành dễ dàng hơn vì có luật số 38 ban hành năm 2010 cho phép. Chúng là các loại thuốc giảm đau hữu ích nhất, dễ sử dụng nhất và các bệnh nhân có thể chịu được, không phải chỉ nơi các bệnh nhân cuối đời mà cả các bệnh nhân có các triệu chứng đau đớn nói chung nữa. Chính bác sĩ đã chưa gặp trường hợp nào các bệnh nhân yêu cầu dùng Cannabis hay các loại thuốc chế từ Cannabis để chữa trị cho họ. Việc chính quyền nhiều vùng khác nhau tại Italia cho phép sử dụng Cannabis có tính cách ý thức hệ và xấu xa, vì sử dụng sự đau đớn của các bênh nhân như lý cớ cho các sử dụng khác. Thực ra các loại thuốc chế từ Cannabis mắc hơn là dùng morphin để giảm đau. Theo bác sĩ việc trồng cây Cannabis dùng để dệt vải canapa là một loại sợi môi sinh thảo mộc có các khả năng cao thì có lợi hơn là dùng nó để làm thuốc giảm đau.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Giovanni Serpelloni, giám đốc phân bộ chính trị chống ma túy Italia, về các nguy hại của cây ma túy Cannabis.

Hỏi: Thưa ông Serpelloni, bà Lucia Spiri, 31 tuổi, thuộc Câu lạc bộ ”Cannabis Social Club” là tổ chức thăng tiến việc trồng tập thể cây Cannabis để chữa bệnh tại Racaele trong tỉnh Salento, đã tuyên bố rằng: từ khi bà dùng Cannabis bà đã loại bỏ hoàn toàn các loại thuốc chống bệnh đa xơ cứng, mà bà đã bị từ 13 năm nay. Lời tuyên bố này có đáng tin cậy không? Vì thật là đáng kinh tởm khi lừa dối các bệnh nhân đa xơ cứng liên quan tới việc dùng cây ma túy Cannabis để chữa bệnh cho họ hay không?

Đáp: Cần phải minh giải một cách rất rõ ràng cho mọi người liên hệ biết rằng ngày nay kết qủa nhận thấy trên các thuốc được bào chế dựa trên chất THC, là một trong các hoạt chất của Cannabis, chỉ là một hiệu qủa triệu chứng trên các co giật và các đau đớn bắp thịt, và vì thế chúng không chữa bệnh.

Hỏi: Chúng không tạo ra các phản ứng phụ hay sao thưa ông?

Đáp: Còn hơn thế nữa là đàng khác. Có rất nhiều phản ứng phụ trong lãnh vực tâm thần. Ngoài sự kiện này điều không thể chấp nhận được bởi y khoa tân tiến ngày nay đó là mỗi bệnh nhân có thể tự sản xuất ”thuốc” tại nhà, mà không có sự kiểm soát nào liên quan tới loại cây họ trồng và phần trăm của nguyên tắc tác động, phẩm chất của các sản phẩm được dùng cho con người và đặc biệt được dùng như là thuốc, số lượng tự dùng chỉ do bệnh nhân tự quyết định cho chính mình. Đó là chưa kể tới tình trạng tùy thuộc nó.

Hỏi: Như vậy có nghĩa là có rất nhiều nguy hiểm, thế mà lại không có hiển nhiên khoa học nào hay sao, thưa ông?

Đáp: Có một nghiên cứu hàng dọc trên 500 bệnh nhân được thực hiện bởi Trường thuốc Plymouth bên Anh quốc, và đã được trình bầy trong các tháng qua tại Brighton. Các kết qủa cho thấy không có bằng chứng nào yểm trợ cho luận thuyết cho rằng cây Cannabis tác động trên việc chặn đứng tiến trình của bệnh, xem ra thì chất THC chỉ làm giảm đau đớn và giảm các co thắt cơ bắp, nhưng nó không chữa lành bệnh xơ cứng. Cuộc nghiên cứu nói trên liên quan tới nhiều người Anh bị bệnh đa xơ cứng, và những bệnh nhân này đã dùng các viên thuốc chứa chất THC trong thời gian 3 năm. Các kết qủa cho thấy các bệnh nhân dã dùng thuốc THC không tiến triển tốt hơn trong việc trị bệnh đa xơ cứng, so sánh với các bệnh nhân đã dùng các viên thuốc loại placebo, là loại thuốc không có tác dụng, vô hại, mà hiệu qủa chỉ là do sự gợi ý tâm lý của người bệnh.

Hỏi: Thế mà tại sao các người yểm trợ cây Cannabis lại cứ kiên trì cho rằng nó giúp chữa trị?

Đáp: Có vài tổ chức hướng tới chỗ hợp thức hóa, đôi khi không đúng đắn, các sản phẩm khoa học đem lại các kết qủa tích cực trong việc thử nghiệm các loại thuốc với mục đích là giúp gây nhận thức và thăng tiến ý niệm vô hại của việc dùng cây Cannabis và các khả năng dược của nó để chữa các bệnh rất trầm trọng. Mặc dù đồng ý với việc đào sâu các khía cạnh trị liệu này với các nghiên cứu khoa học và các cuộc tìm tòi có kiểm soát, việc trồng cây Cannabis tại nhà và việc dùng nó trong việc tự trị liệu các bệnh khác nhau là điều không thể chấp nhận được. Cũng không thể chấp nhận việc miêu tả cậy Cannabis như là một chất tích cực, hữu ích và đem lại sức khỏe, cả đối với việc dùng nó như là tự ý và giải trí, mà quên đi các tai hại nó gây ra cho cơ thể con người, đặc biệt là cho não bộ của người trẻ.

(Avvenire 1.2-2-2013)

Linh Tiến Khải – VR

Thiên Chúa Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người

 Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người

Thiên Chúa Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người Nhưng rất thường khi con người không chọn sự sống, không chọn Tin Mừng sự sống, mà để cho mình bị hướng dẫn bới các ý thức hệ và luân lý ngăn cản sự sống, không dung tha sự sống, bởi vì chúng bị chỉ huy bởi sự ích kỷ, lợi nhuận, bổng lộc, quyền bính, thú vui, chứ không phải bởi tình yêu thương, việc kiếm tìm thiện ích của người khác.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với gần 100,000 tín hữu tham dự thánh lễ Ngày Sự Sồng, đo ngài cử hành sáng Chúa Nhật 16-6-2013, nhân Ngày Tin Mừng Sự Sống trong Năm Đức Tin, tại quảng trường thánh Phêrô.

Tham dự thánh lễ có phái đoàn của Phong trào thăng tiến sự sống đền từ nhiều nước trên thế giới, cũng như hàng ngàn thành viên Hiệp hội Môtô đến từ khắp nơi trên thế giới, nhân đại hội kỷ niệm 110 năm hiên diện của loại môtô Harley-Davidson, diễn ra tại Roma trong các ngày 13-16-6. Hiệp hội đã tặng Đức Thánh Cha hai chiếc mô tô kiểu rất đẹp. Vào dịp cuối tuần 30,000 thành viên Hiệp hội cũng đã diễn hành qua các đại lộ chính của Roma. Từ lúc lúc 6 giờ sáng Chúa Nhật các thành viên đã tụ tập về quảng trường và để xe dọc đại lộ Hòa Giải trước quảng trường thánh Phêrô và trên tất cả mọi đường phố chung quanh quảng trường. Hiếm có dịp thấy hàng ngàn chiếc môtô cũ mới đủ loại như vây.

Lúc trước 10 giờ xe díp đã chở Đức Thánh Cha đi qua các lối giữa quảng trường để ngài chào tín hữu.

Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Zygmunt Zimowski, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Y tế, vài Giám Mục và 200 Linh Mục. Đoàn giúp lễ gồm 15 thầy thuộc Đại chủng viện truyền giáo dòng Máu Cực Thánh Chúa. Các bài sách Thánh đã được đọc bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Phúc Âm đã được công bố bằng tiếng Ý. Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ là Ca đoàn Sistina và ca đoàn Mater Ecclesiae.

Giảng trong thánh lễ cử hành ngày Tin Mừng Sự sống Đức Thánh Cha giải thích mục đích như sau:

Với việc cử hành này, trong Năm Đức Tin, chúng ta muốn cám ơn Chúa về ơn sự sống, trong tất cả mọi biểu lộ của nó, đồng thời chúng ta muốn loan báo Tin Mừng Sự Sống. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã quảng diễn các bài đọc Chúa Nhật thường niên thứ XI năm C trong ba điểm suy tư: Thứ nhất Thánh Kinh mặc khải cho biết Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa là Sự Sống và suối nguồn sự sống; thứ hai Chúa Giêsu Kitô trao ban sự sống và Chúa Thánh Thần duy trì chúng ta trong sự sống. Và thứ ba đi theo con đường của Thiên Chúa dẫn đưa tới sự sống, trong khi đi theo các thần tượng dẫn đưa tới cái chết.

Bài đọc thứ nhất trích tư sách Samuel II kể lại chuyện vua Đavít phạm tội ngoại tình với vợ của Uria người Híttít, một binh sĩ trong quân đội của hoàng gia. Để lấp liếm tội lỗi vua ra lênh đặt Uria ở hàng tiền tuyến cho ông bị giết chết. Thánh Kinh cho chúng ta thấy thảm cảnh nhân loại trong tất cả cái thực tế của nó: sự lành sự dữ, các đam mê, tội lỗi và các hậu qủa của nó. Khi con người muốn tự khẳng định chính mình, khép kín trong sự ích kỷ và tự đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa, thì kết cục là nó gieo rắc cái chết. Tội ngoại tình của vua Đavít là một thí dụ. Ích kỷ dẫn đưa tới dối trá, qua đó người ta tự lừa dối chính mình và lừa dối tha nhân. Nhưng không thể lừa được Thiên Chúa, và chúng ta đã nghe lời ngôn sứ Nathan nói với nhà vua: ”Hoàng thượng đã làm điều ác trước mặt Thiên Chúa (2 Sm 12,9). Nhà vua bị đặt trước các việc làm gây chết chóc của mình; thật thế điều vua đã làm là công việc của chết chóc chứ không phải của sự sống. Vua hiểu ra và xin lỗi: ”Tôi đã phạm tội chống lại Chúa”; và Thiên Chúa nhân từ muốn sự sống và luôn tha thứ cho chúng ta, Người tha thứ và tái ban sự sống cho vua. Ngôn sứ nói: Chúa đã cất tội của hoàng thượng: hoàng thượng sẽ không chết”.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói chúng ta thường coi Thiên Chúa như là một vị thẩm phán nghiêm khắc, như là một người hạn chế sự tự do sống của chúng ta. Nhưng toàn Thánh Kinh nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng trao ban sự sống và chỉ cho chúng ta con đường sự sống toàn vẹn. Sách Sáng Thế nói rằng Thiên Chúa nhào nặn nên con người với bụi đất, rồi thổi một hơi thở sự sống vào mũi nó và con người trở thành một sinh linh (St 2,7). Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống; nhờ hơi thở của Người mà con người có sự sống, và hơi thở của Thiên Chúa đỡ nâng con đường cuộc sống trần gian của nó. Khi kệu gọi ông Môshê Thiên Chúa tự giới thiếu với ông như là Thiên Chúa của Abraham, Igiaác và Giacóp, như là Thiên Chúa của kẻ sống. Và khi gửi Moshê tới với Pharaô để giải phóng dân Người, Thiên Chúa vén mở cho ông tện gọi của Người: ”Ta là Đấng tự hữu”, Thiên Chúa Đấng làm cho mình hiện diện trong lịch sử, Người giải thoát khỏi cảnh nộ lệ, khỏi cái chết và đem sự sống đến cho dân, bởi vì Người là Đấng Hằng Sống. Mười Điều Răn là một con đường mà Thiên Chúa chỉ cho chúng ta để có một cuộc sống thật sự tự do, một sự sống tràn đầy. Chúng không phải là một bài ca nói ”không”: ngươi không được làm cai này, không được làm cái nọ…, mà là bài ca nói ”có” với Thiên Chúa, với Tình Yêu, với sự sống. Các bạn thân mến, cuộc sống của chúng ta chỉ tràn đầy trong Thiên Chúa. Chỉ có Người là Đấng Hằng Sống!

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha giải thích thái độ của Chúa Giêsu đến đùng bữa tại nhà một người Pharisêu, và để cho một phu nữ tội lỗi đến gần gậy vấp phạm cho mọi người hiện diện. Người lại còn tha tội cho bà và nói: ”Các tội của chị đã được tha vì chị đã yêu nhiều. Trái lại, ai yêu ít thì được tha ít” (Lc 7,47). Đức Thánh Cha quảng diễn điểm này như sau:

Chúa Giêsu là sự nhập thể của Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng đem sự sống đến, trước biết bao nhiêu công việc của sự chết, tội lỗi, ích kỷ, sự khép kín trong chính mình. Chúa Giêsu tiếp đón, yêu thương, nâng dậy, khích lệ, tha thứ và trao ban trở lại sức mạnh để bước đi, Người tái trao ban sự sống. Trong toàn Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu, với các cử chỉ và lời nói của Người, Người đem sự sống của Thiên Chúa đến và biến đổi con người. Đó là kinh nghiệm của người đàn bà đã xức dầu thơm nơi chân Chúa. Chị cảm thấy được hiểu, được yêu mến và đáp trả với một cử chỉ yêu thương, để cho lòng xót thương của Thiên Chúa đụng chạm tới mình và được ơn tha thứ để bắt đầu một cuộc sống mới. Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống thương xót. Anh chi em có đồng ý vậy không? Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống là Đấng thương xót! Nào tất cả hãy cùng nói: ” Thiên Chơúa Đấng Hằng Sống thương xót. Xin lặp lại một lần nữa: Thiên Chúa Đấng Hằng Sống thương xót!.

Đó cũng đã là kinh nghiệm của thánh Phaolô như kể trong bài đọc thứ hai. Thánh nhân nói: ” Cuộc sống này mà tôi sống trong thân xác, tôi sống trong niềm tin nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Cuộc sống đó chính là cuộc sống của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần, ơn của Chúa Kitô phục sinh, dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống như là con cái của Thiên Chúa, như là con cái trong Người Con. Nhưng chúng ta có để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn không?

Kitô hữu là một người tinh thần, điều này không có nghĩa là họ sống ”trên mây trên gió”, sống ngoài thực tại như thể là một bóng ma, không! Kitô hữu là một người suy tư và hành xử trong cuộc sống thường ngày theo Thiên Chúa, là một người để cho cuộc đời mình được linh hoạt và dưỡng nuôi bởi Chúa Thánh Thần để nó đầy tràn, như là con cái thật. Ai để cho Chúa Thánh Thần hướng đẫn là người thực tế, biết đo lường và lượng định gía trị thực tại, và cũng là người phong phú: cuộc sống của họ sinh ra sự sống chung quanh họ.

Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng Thương Xót. Chúa Giêsu đem sự sống của Thiên Chúa đến cho chúng ta, Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào sự sống đó và duy trì chúng ta trong tương quan sinh động là con cái Thiên Chúa. Nhưng con người không muốn thế. Đức Thánh Cha nhận xét như sau:

Nhưng rất thường khi, chúng ta biết điều này do kinh nhghiệm, con người không chọn lựa sự sống, không chọn lựa Tin Mừng sự sống, mà để cho mình bị hướng dẫn bởi các ý thức hệ và luận lý ngăn cản sự sống, không dung tha sự sống, bởi vì chúng bị chỉ huy bởi sự ích kỷ, lợi nhuận, bổng lộc, quyền bính, thú vui, chứ không phải bởi tình yêu thương và việc kiếm tìm thiện ích của người khác. Đó là ảo tưởng thường xuyên muốn xây dựng kinh thành của con người mà không có Thiên Chúa, không có sự sống và tình yêu của Thiên chúa, một tháp Babel mới; đó là nghĩ rằng việc khước từ Thiên Chúa, Sứ Điệp của Chúa Kitô và Tin Nừng sự sống, đem đến sự tự do và việc hiện thực tràn đầy con người. Hậu qủa là các thần tượng mau qua của con người thay thế Thiên Chúa, chúng cống hiến sự say choáng của một lúc tự do, nhưng sau cùng chúng đem tới các nô lệ mới và cái chết. Sự khôn ngoan của tác giả thánh vịnh nói: ”Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19,9). Chúng ta hãy luôn nhớ điều đó: Chúa là Đấng Hằng Sống, Người thương xót. Chúa là Đấng Hằng Sống, Người thương xót.

Anh chị em thân mến chúng ta hãy nhìn lên Thiên Chúa như Thiên Chúa của sự sống, chúng ta hãy nhìn vào lề luật của Người, vào sứ điệp Tin Mừng như con đường của sư tự do và sự sống. Thiên Chúa Hằng Sống giải phóng chúng ta! Chúng ta hãy nói có với tình yêu chứ không với với ích kỷ, chúng ta hãy nói có với sự sống chứ không với cái chết, chúng ta hãy nói có với sự tự do chứ không với nô lệ của biết bao nhiêu thần tượng thời đại. Tắt một lời, chúng ta hãy nói vâng với Thiên Chúa là tình yêu, sự sống và tự do, và không bao giờ gây thất vọng (x. 1 Ga 4,8). Chỉ có niềm tin nơi Thiên Chúa Hằng Sống cứu rỗi chúng ta.
Lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng: Hoa, Tây Ban Nha, Nga, Đức và Đại Hàn. Trong phần hiệp lễ 150 Linh Muc đã giúp Đức Thánh Cha phân phát Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Vào cuối thánh lễ Đức Hồng Y Zimowski đã thay mặt mọi người đặc biệt là các thánh viên Phong trao Bảo vệ sự sống cám ơn Đức Thánh Cha.

Trước khi đọc kinh truyền tin và ban phép lành cuối lễ Đức Thánh Cha đã mời gọi mọi người hướng về Đức Mẹ và phó thác cho sự chở che hiền mầu của Mẹ mọi sự sống, cách riêng sự sống yếu duối, vô phương tự vệ và bị đe dọa nhất.

Ngài cũng nhắc rằng thứ bảy vừa qua Giáo Hội tại Carpi Italia đã có một tân chân phước: đó là Odoardo Focherini, nhà báo cha của 7 người con, và là người đã cứu nhiều người Do thái, nhưng bị bắt và chết trong trại tập trung Đức quốc xã tại Hersbruck năm 1944 lúc với 37 tuổi, bị thù ghét vì đức tin. Đức Thánh Cha cảm tạ Chúa vì chứng nhân Tin Mừng Sự Sống này.

Ngài cũng cám ơn tất cả mọi tín hữu, đặc biệt các gia đình đã trực tiếp hoạt động bảo vệ sự sống con người, cũng như các thành viên liên hiệp mô tô Harley Davidson và Hội Môtô của cảnh sát Italia.

Rồi ngài đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio