Cuộc họp báo giới thiệu Tông huấn ”Eveangelii Gaudium” Niềm Vui Phúc Âm

Cuộc họp báo giới thiệu Tông huấn ”Eveangelii Gaudium” Niềm Vui Phúc Âm

Lúc 11 giờ rưỡi sáng thứ ba 26-11-2013 tại Phòng báo chí Tòa Thánh đã có buổi họp báo giới thiệu Tông huấn ”Evangelii Gaudium – Niềm Vui Phúc Âm” của Đức Thánh Cha Phanxicô. Chủ tọa cuộc họp báo có Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh thăng tiến việc tái truyền giảng Tin Mừng, Đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, và Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền Thông Xã Hội.

Tông huấn của Đức Thánh Cha khai triển đề tài loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay bắt đầu với câu: ”Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập con tim và toàn cuộc sống của những người gặp gỡ Đức Giêsu”. Tông huấn là kết quả các đóng góp của các Nghị Phụ tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục về việc tái truyền giảng Tin Mừng diễn ra tại Vaticăng trong các ngày từ mùng 7 tới 28 tháng 10 năm 2012. Vào cuối thánh lễ kết thúc Năm Đức Tin sáng Chúa Nhật vừa qua Đức Thánh Cha đã trao CD Tông Huấn cho 38 người thuộc 18 quốc gia đại diện cho mọi thành phần dân Chúa năm châu.

Tông thư của Đức Thánh Cha nêu bật năm điểm sau đây: thứ nhất là việc tái truyền giảng Tin Mừng với niềm vui; thứ hai, canh tân óc sáng tạo trong việc loan báo Tin Mừng; thứ ba, Giáo Hội phải là một Giáo Hội rộng mở, tiếp đón và thương xót; thứ bốn Giáo Hội phải đối thoại và vặp gỡ; và thứ năm Giáo Hội phải là tiếng nói ngôn sứ.

Ngỏ lời với các nhà báo Đức Tổng Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Truyền Thông Xã Hội, nêu bật một số điểm của Tông Huấn liên quan tới truyền thông. Trước hết tài liệu có giọng văn nói chuyện, với ngôn từ thanh thản và thân tình, như mọi người đã nhận thấy trong các tháng qua trong triều đại của Đức Thánh Cha Phanxicô. Thứ hai là vai trò của truyền thông trong công tác tái truyền giảng Tin Mừng. Đức Thánh Cha muốn chỉ cho thấy con đường của Giáo Hội trong các năm tới. Ngài rất ý thức được những gì đang xảy ra trên thế giới trong các lãnh vực sức khỏe, giáo dục và truyền thông, các tiến bộ, thành công và các kỹ thuật tân tiến (s. 52).

Thật thế, thế giới ngày nay tràn ngập các thông tin thuộc đủ loại có ảnh hưởng trên các vấn đề luân lý, vì thế cần phải giáo dục suy tư với óc phê bình giúp trưởng thành trong các giá trị (s. 64). Các cơ may truyền thông lớn hơn này cũng phải trở thành các khả thể gặp gỡ giữa tất cả mọi người với nhau. Vì thế cần khám phá ra và thông truyền sự thần bí vủa việc chung sống, hòa trộn với nhau và gặp gỡ nhau (s. 87). Đức Thánh Cha ý thức rằng các nền văn hóa mới và các dữ kiện địa lý cống hiến cho kitô hữu các định hướng mới cho cuộc sống, thường khi trái nghịch với Tin Mừng của Chúa Giêsu (s. 73). Nền văn hóa truyền thông và vài môi trường trí thức đôi khi thông truyền một sự mất tin tưởng và một loại vỡ mộng nào đó đối với sứ điệp của Giáo Hội (s. 79).

Nói tiếp trong cuộc họp báo Đức Tổng Giám Mục Celli cho biết Đức Thánh Cha dành một phần rộng rãi cho kiểu thông truyền sứ điệp Tin Mừng. Việc thông tin nhanh chóng ngày nay đôi khi khiến cho các phương tiện truyền thông tuyển lựa các nội dung khác nhau theo sở thích và quan điểm riêng. Do đó có nguy cơ khiến cho sứ điệp què quặt và bị giảm thiểu vào những khía cạnh phụ thuộc. Và vài vấn đề trong giáo huấn luân lý của Giáo Hội bị đặt ngoài bối cảnh trao ban ý nghĩa cho chúng, hay bị đồng hóa với các khía cạnh phụ thuộc không diễn tả trọng tâm đích thật sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô. Vì thế Đức Thánh Cha nhấn mạnh việc loan báo phải tập trung nơi điểm nòng cốt, liên quan tới những gì là hay đẹp hơn, lớn lao hơn, hấp dẫn hơn, đồng thời cũng cần thiết hơn của Tin Mừng (s. 34).

Đức Thánh Cha cũng dành nhiều chỗ cho đề tài ngôn ngữ của việc loan báo Tin Mừng, là một thách đố lớn đối với Giáo Hội ngày nay. Sự thật là chúng ta sẽ không bao giờ có thể khiến cho các giáo huấn của Giáo Hội trở thành cái gì đễ hiểu và được mọi người ưa chuộng. Đức tin luôn duy trì một khía cạnh của thập giá, một cái gì mờ tối, nhưng không lấy đi sự cương quyết gắn bó với nó” (s. 42). Nhưng cần phải liên tục chú ý tìm diễn tả các sự thật ngàn đời trong một ngôn ngữ cho phép nhận ra sự mới mẻ thường hằng của nó (s. 41)…. Ngoài ra cần có con tim truyền giáo, luôn luôn rộng mở, không khép kín trong các chắc chắn của mình hay lựa chọn thái độ tự vệ cứng nhắc (s. 45). Đức Thánh Cha cũng chú ý tới bài giảng, phải biết nói gì, ra sao và khai triển cụ thể thế nào. Ngài khuyến khích việc dùng các hình ảnh trong bài giảng, làm thế nào để nó chứa dựng ”một ý tưởng, một tâm tình và một hình ảnh.” Và phải dùng một thứ ngôn ngữ đơn sơ, rõ ràng, tích cực và dễ hiểu đối với người nghe, để thông truyền các chân lý của Chúa và đến với con tim của họ (s. 158). Cần can đảm tìm ra các dấu chỉ mới, các biểu tượng mới, một thịt xác mới, các hình thức khác nhau của vẻ đẹp trong các môi trường văn hóa khác nhau để thông truyền Lời Chúa (s. 167).

Trong bài giới thiệu của mình Đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, nêu bật rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã sử dụng các đề nghị của các Nghị Phụ, nhưng soạn thảo chúng một cách cá nhân. Ngài nhấn mạnh niềm vui của Tin Mừng và lập lại từ này đến 59 lần, và trích các đề nghị của các Nghị Phụ 27 lần. Tông huấn được khai triển trong khung giáo thuyết với các trích dẫn kinh thánh, huấn quyền và các giáo phụ, chẳng hạn như thánh Ireneo, thánh Ambrogio và thánh Agostino, cũng như các thần học gia thời Trung Cổ như chân phước Isacco della Stella, thánh Toma Aguino, Toma thành Kempis. Trong số các thần học gia tân thời có chân phước John Henry Newman, Henri de Lubac, Romano Guardini và các văn hào khác, trong đó có George Bernanos.

Tông huấn cũng quy chiếu các Tông huấn như: Evangelii nuntiandi của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI; các Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục như Christifideles laici; Familiaris consortio; Pastores dabo vobis; Ecclesia in Africa, in Asia, in Oceania, in America, in Medio Oriente, in Europa; Verbum Domini. Thêm vào đó cũng có các tài liệu của Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh như các tài liệu Puebla và Aparecida, cũng như tài liệu của khóa họp thứ XVI của các Thượng Phụ công giáo Trung Đông và các Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pháp, Brasil, Philipines và Congo.

Tiếp đến Đức Cha Baldisseri nhấn mạnh vài đề tài trong Tông huấn. Chẳng hạn như đề tài ”tính cách thượng hội đồng giám mục”. Trong viễn tượng Giáo Hội ra khỏi chính mình và tiến tới với người anh em (s.179) Đức Thánh Cha đề nghị một ”mục vụ hoán cải” 360 độ, khởi đầu từ giáo xứ (s. 28), các cộng đoàn cơ bản, các phong trào và hiệp hội (s. 29), các Giáo Hội địa phương (s. 30) cho tới chức giáo hoàng (s. 32), đặc biệt là thực thi một cách giám mục đoàn quyền tối thượng của Phêrô. Vì thế cả chức giáo hoàng và các cơ cấu trung ương của Giáo Hội hoàn vũ cũng cần lắng nghe lời kêu gọi hoán cải mục vụ (s. 12).

Đề cập tới Công Đồng Chung Vaticăng II, tương tự như các Giáo Hội Thượng Phụ Cổ xưa, Đức Thánh Cha cầu mong các Hội Đồng Giám Mục có thể phát triển phần đóng góp đa diện và phong phú để tình mến giám mục đoàn tìm ra các áp dụng cụ thể (LG 22; EG 32).

Trên bình diện đại kết, nhờ sự hiện diện tại Thượng Hôi Đồng Giám Mục của Đức Thượng Phụ Costantinopoli và của Đức Tổng Giám Mục Canterbury (s. 245) tính cách thượng hội đồng giám mục được diễn tả trong cách thế đặc biệt, bởi vì qua sự đối thoại với các anh em chính thống, tín hữu công giáo có khả thể học được cái gì hơn liên quan tới ý nghĩa của tinh thần giám mục đoàn và liên quan tới kinh nghiệm của tính cách thượng hội đồng giám mục (s. 246).

Tiếp tục bài giới thiệu Tông huấn Đức Tổng Giám Mục Baldisseri nói có một yếu tố ý nghĩa khác: đó là sự kiện Tông huấn là tài liệu có tính cách đại đồng, nhưng tiếp nhận các kích thích mục vụ đến từ các Giáo Hội địa phương khác nhau trên thế giới. Điều này cho thấy tính cách Giám mục đoàn được thực thi. Trong chiều hướng này Đức Thánh Cha khích lệ Giáo Hội ra đi truyền giáo tại những vùng ngoại biên, qua việc hoán cải mục vụ. Ngài dựa trên kinh nghiệm mục vụ đã có tại tổng giáo phận Buenos aires, và việc soạn thảo tài liệu Aparecida của Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh (s. 25). Đức Thánh Cha đã dành một phần rộng rãi để nói về lòng đạo đức bình dân, mà bên chậu Mỹ Latinh và vùng quần đảo Caraibi các Giám Mục gọi là ”nền tu đức bình dân” hay ”nền thần bí bình dân”. Đây là môt ”nền tu đức đích thật nhập thể trong nền văn hóa của những người đơn sơ” (s. 124).

Lấy hứng từ định nghĩa của thánh Thomas Aquino, theo đó ”Ơn thánh giả thiết bản chất tự nhiên”, và dựa trên tài liệu Puebla, Đức Thánh Cha sáng chế ra câu nói: ”Ơn thánh giả thiết nền văn hóa, và ơn của Thiên Chúa nhập thể vào nền văn hóa của người tiếp nhận nó” (s. 115). Việc đánh giá cao các nền văn hóa khác nhau sẵn sàng đón nhận Tin Mừng và thông tin nó với các phong phú của chúng, dẫn đưa Đức Thánh Cha tới chỗ tái lượng định yêu sách tuyệt đối của một nền văn hóa. Vì thế không nhất thiết phải áp đặt một hình thức văn hóa xác định, cùng với đề nghị tin mừng, cho dù nó có xinh đẹp và cổ xưa tới đâu đi nữa (s. 117). Liên quan tới việc này, các Giám Mục Đại dương châu đã xin rằng tại đây Giáo Hội ”phát triển một sự hiểu biết và giới thiệu sự thật của Chúa Kitô, khởi hành từ các truyền thống và các nền văn hóa của vùng này” (s. 118).

Liên quan tới việc đối thoại giữa các tôn giáo được đặt để trong thái độ cởi mở trong sự thật và tình yêu thương, Đức Thánh Cha trình bầy nó trước hết như là một sự hoán cải trong cuộc sống con người, hay một cách đơn sơ, như các Giám Mục Ấn Độ đề nghị ”một thái độ rộng mở đối với họ, chia sẻ các vui buồn khổ đau của họ” (s. 250). Đối với Hồi giáo ”cần có sư đào tạo thích hợp của các người đối thoại, để họ không chỉ có khả năng nhận biết các giá trị của người khác, mà cũng hiểu biết các lo âu nằm bên dưới các đòi hỏi của họ, và đem ra ánh sáng các xác tín chung… Trước các vụ do khuynh hướng cực đoan bạo lực gây ra khiến cho chúng ta lo lắng, lòng thương mến đối với các tín hữu đích thật của Hồi giáo phải dẫn đưa chúng ta tới chỗ tránh việc tổng quát hóa, vì như các Thượng phụ công giáo vùng Trung Đông dậy, ”chúng ta biết rằng Hồi giáo đích thật và kinh Koran vô tội đối với mọi bạo lực” (s. 253).

Tiếp đến còn có chiều kích xã hội của việc tái truyền giảng Tin Mừng khiến cho Giáo Hội chú ý tới những người nghèo, những người bị khai trừ, những người bị áp bức (s. 176). Cần phải hội nhập họ vào xã hội. Giáo Hội phải lắng nghe tiếng gào thét đòi công lý và phẩm giá của họ (s. 186). Cần phải chú ý tới các lý do gây ra thảm cảnh này, và phải thay đổi các cơ cấu thối nát, nặng nề và vô hiệu (s. 189). Ngoài ra cũng cần phải lắng nghe tiếng kêu của nhiều dân tộc đòi quyền của họ được có các quốc gia.

Sau cùng là tương quan giữa công ích và nền hòa bình. Việc loan báo hòa bình không phải là loan báo một nền hòa bình được thương thuyết, nhưng là xác tín rằng sự hiệp nhất của Thần Khí làm hài hòa tất cả mọi khác biệt (230), bởi vì Thần Khí chính là sự hài hòa.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

 

Công tác mục vụ của Giáo Hội Công Giáo đối với người di cư, dân nghèo, người già và các trẻ em còn trong lòng mẹ

Công tác mục vụ của Giáo Hội Công Giáo đối với người di cư, dân nghèo, người già và các trẻ em còn trong lòng mẹ

Phỏng vấn Đức Cha Joseph Kurtz, Tân chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ

Trong khóa họp mùa thu vừa qua các Giám Mục Hoa Kỳ đã bầu Đức Cha Joseph Kurtz, 67 tuổi, Tổng Giám Mục Louisville, làm Tân Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục, thay thế Đức Hồng Y Timothy Dolan. Đức Cha Kurtz đã là Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hôn nhân, và là thành viên Ủy ban trung ương sinh học công giáo toàn quốc.

Đức Cha Kurtz sinh năm 1946, thụ phong linh mục năm 1972, làm cha phó, rồi cha sở nhiều giáo xứ giáo phận Allentown trong 27 năm trời. Cha cũng đã là giám đốc Caritas giáo phận này trong 10 năm. Năm 1999 Đức Gioan Phaolô II đã chỉ định cha Kurtz làm Giám Mục giáo phận Knoxville, bang Tennessee, và sau đó làm Tổng Giám Mục Louisville bang Kentucky, là giáo phận có 200.000 tín hữu. Đức Cha nổi tiếng với các giáo huấn về gia đình và năm 2011 ngài đã thu thập vào một loạt ”12 nhân đức hôn nhân”, mỗi tháng một nhân đức. Đức Cha cũng hoạt động trong lãnh vực truyền thông xã hội và hiện diện trên Twitter.

Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ hiện có 78.2 triệu tín hữu, tương đương với 25% tổng số dân, với 19 Hồng Y, 450 Giám Mục, 40,271 Linh Mục trông coi 17,644 giáo xứ thuộc 195 tổng giáo phận và giáo phận.

Trong đại hội mùa thu nhóm tại Baltimore những ngày vừa qua các Giám Mục Hoa Kỳ đã yêu cầu chính quyền của tổng thống Obama tôn trọng các quyền của các tín hữu, đặc biệt là phẩm giá con người và quyền tự do tôn giáo. Các vị nhất quyết bảo vệ sự sống của các trẻ em còn trong lòng mẹ chống lại mọi hình thức làm tổn thương quyền sống của các em, của người già, người di cư, và nhất là bênh vực và trợ giúp người nghèo. Trong tài liệu chung kết công bố sau bốn ngày nhóm họp tại Baltimore các Giám Mục Hoa Kỳ nêu bật lập trường chống lại mọi xen mình của chính quyền vào công việc của Giáo Hội.

Điểm nóng được nhắc tới là luật cải cách y tế do chính quyền của tổng thống Obama đưa ra, bắt buộc các cơ sở của Giáo Hội, bao gồm các đại học trường học, nhà thương, phải trả chi phí y tế cho các nhân viên của mình gồm cả việc phá thai, ngừa thai và làm tuyệt đường sinh sản. Nhiều giáo phận và tổ chức của Giáo Hội đã kiện chính quyền vi phạm tự do tôn giáo, không tôn trọng tự do của Giáo Hội, và không cho các tổ chức tôn giáo khả năng chống lại vì lý do lương tâm. Cho tới nay chính quyền cho phép các cơ quan công giáo quyền không bảo đảm bảo hiểm một cách trực tiếp cho các công nhân của mình, nhưng phải trả một bảo hiểm làm điều đó.

Trong thông cáo các Giám Mục cho biết bởi vì chính quyền từ chối bổn phận tôn trọng các quyền của tín hữu, vì thế các Giám Mục nhất quyết từ chối gánh nặng này và sẽ gia tăng các nỗ lực đối với Quốc hội, đặc biệt với các sáng kiến pháp lý như đã làm để bảo vệ tự do tôn giáo, cho phép làm chứng cho Tin Mừng trong việc phục vụ công ích. Các Giám Mục cũng đưa ra chương trình nhằm giảm các bất công và các xa cách giữa thiểu số người giầu và người nghèo, khiến cho nạn nghèo túng ngày càng trầm trọng hơn. Ngoài ra, các vị còn tha thiết yêu cầu Quốc Hội mau chóng thông qua luật cải tổ di cư. Đức Hồng Y Timothy Dolan, Chủ tịch mãn nhiệm của Hội Đồng Giám Muc Hoa Kỳ, nói: ”Đây là một thời gian ngoại thường thuận lợi trong cuộc sống của Giáo Hội. Chúng ta đang chứng kiến các thành công trong việc truyền giảng Tin Mừng, và một triều đại Giáo Hoàng hữu hiệu một cách không tưởng tượng được trong việc đánh động trái tim con người. Chúng ta phải tận dụng thời điểm này để giới thiệu một sứ điệp mạnh mẽ và hiệp nhất trên tất cả mọi đề tài của mục vụ bảo vệ sự sống”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới quy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Tân Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Kurtz, theo Đức Cha đâu là dấn thân chính của Giáo Hội Hoa Kỳ trong các năm tới đây?

Đáp: Lời Đức Thánh Cha nhắn nhủ thật rõ ràng: trước hết chúng tôi phải là các mục tử. Vì thế chúng tôi phải tự hỏi phải làm thế nào để có thể sưởi ấm con tim và chữa lành các vết thương. Theo tôi, câu trả lời là phải gần gũi dân chúng chừng nào có thể bằng cách lắng nghe họ. Vì thế tôi tin rằng mục vụ gia đình sẽ là điều nền tảng trong các năm tới. Phần quan trọng nhất và đào tạo nhất trong cuộc sống của tôi đã là các năm sống đời chủ chăn trong một giáo xứ, gần gũi các gia đình. Chỉ kinh nghiệm đó mới chuẩn bị cho các chức vụ cao hơn trong Giáo Hội.

Hỏi: Chính Đức Cha đã săn sóc một người trong gia đình trong nhiều năm trời, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng thế. Đó là anh George, anh sinh ra với hội chứng down và sau khi mẹ chúng tôi qua đời anh ấy đã sống với tôi mười hai năm cho tới khi anh lìa thế. Tôi đã học được từ anh rất nhiều điều.

Hỏi: Đức Cha thấy Giáo Hội ngày nay phải đương đầu với các thách đố nào?

Đáp: Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa của sự thờ ơ. Làm sao chúng ta có thể từ một nền văn hóa quy về chính mình, ích kỷ, bước sang một nền văn hóa nhìn ra ngoài và hướng về các người cần được giúp đỡ? Thách đố đối với các Giám Mục chúng tôi đó là làm gương với sự tiếp đón, qua việc phục vụ những người không có tiếng nói và dễ bị tổn thương như các người di cư, người nghèo, trẻ em chưa sinh ra, người già, và bảo vệ phẩm giá con người trong mọi hoàn cảnh. Bên trong Giáo Hội cần phải có sự hiệp nhất của sứ điệp. Và Đức Thánh Cha đã nhắc nhở cho chúng tôi biết rằng các tín hữu đòi hỏi chúng tôi hiệp nhất trong sứ mệnh phục vụ.

Hỏi: Đức Cha đã gặp Đức Thánh Cha Phanxicô mới đây. Đức Cha có cảm tưởng gì?

Đáp: Tôi có cảm tưởng ngài là một người biết lắng nghe và muốn học hỏi nơi tất cả mọi người, muốn biết Giáo Hội di chuyển thế nào trong thế giới, Giáo Hội đang làm gì cho những người cần được giúp đỡ. Ngài đã nói tiếng Anh, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha với tôi, như thể là để cho tôi hiểu rằng sứ điệp của ngài toàn diện.

Hỏi: Đức Cha có nói ngoại ngữ nào không?

Đáp: Tôi hiểu một chút tiếng Ý và tôi biết Tiếng Tây Ban Nha trên bình diện phụng vụ. Tôi có thể giảng bằng tiếng Tậy Ban Nha, nếu ngắn. Và giảng ngắn như thế thì thường không khiến giáo dân khó chịu.

Hỏi: Đức Cha có ý đưa ra những bước đi để cải tiến các tương quan giữa các Giám Mục Hoa Kỳ với chính quyền của tổng thống Obama hay không, sau các căng thẳng do việc chính quyền bắt buộc các tổ chức của Giáo Hội phải trả chi phí y tế cho các nhân viên của mình, kể cả thuốc ngừa thai?

Đáp: Đức tin làm giầu cho cuộc sống công cộng, Vì thế chúng tôi mạnh mẽ ước muốn có một tương quan lành mạnh với chính quyền, với Quốc hội và với các thẩm phán. Chúng tôi luôn luôn tìm các phương thế để đào sâu sự cộng tác này và rộng mở cho đối thoại, để cùng nhau làm việc trong bối cảnh của một sự tự do tôn giáo vững mạnh. Các cố gắng của chúng tôi lên tiếng nhân danh những người cần được trợ giúp đặt để chúng tôi trong tư thế mưu cầu ích lợi cho quốc gia và cùng hành động với chính quyền, trong một thế giới thừa nhận đức tin góp phần làm cho đất nước lớn lên như thế nào. Có nhiều cơ may cộng tác trên bình diện quốc gia, như thế chúng sẽ được phối hợp một cách trực tiếp bởi các Hội Đồng Giám Mục của các tiểu bang.

Hỏi: Thưa Đức Cha, từ nhiều năm nay các Giám Mục Hoa Kỳ đã gây áp lực trên Quốc hội để Quốc hội chấp nhận một cuộc cải tổ về di cư, cho phép giải quyết vấn đề của hàng triệu người di cư lén lút hiện sống tại Hoa Kỳ. Nhưng luật này đã khống cất cánh được. Đức Cha có thấy trước các sáng kiến khác liên quan tới vấn đề này hay không?

Đáp: Điều này tùy thuộc nơi những gì xảy ra trên bình diện chính trị. Di cư là một khía cạnh chìa khóa của việc bảo vệ phẩm giá con người. Chúng tôi đang ở điểm, trong đó người ta nhận thức rằng việc cải tổ có thể xảy ra. Chúng tôi hy vọng chúng tôi sẽ là các trục thu hút của việc này.

Hỏi: Thưa Đức Cha Kurtz, có nhiều nhà kinh tế đồng ý thừa nhận rằng nghèo túng tại Hoa Kỳ là do sự xa cách cơ may ngày càng gia tăng giữa người giầu có và lớp công nhân. Đức Cha có tin rằng Hội Đồng Giám Mục sẽ đỡ đầu cho các sáng kiến giúp can thiệp vào tận gốc rễ các lý do gây ra nạn nghèo túng hay không?

Đáp: Về điểm này thì chúng tôi hoàn toàn liên đới với Đức Thánh Cha. Chúng ta phải là một Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo. Giáo Hội Hoa Kỳ đã là đầu máy của vô số các sáng kiến thay đổi xã hội. Chúng tôi muốn làm việc để nâng người dân lên khỏi cảnh nghèo túng cùng với gia đình họ. Tôi đã học hỏi rất nhiều khi làm việc cho Caritas giáo phận. Tôi đã cải tiến khả năng lắng nghe của mình. Tôi nghĩ rằng nó sẽ ích lợi cho tôi trong vai trò mới.

(Avvenire 18-11-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Khi có Chúa Kitô là trung tâm, cả những lúc tối tăm nhất trong cuộc đời cũng được soi sáng

Khi có Chúa Kitô là trung tâm, cả những lúc tối tăm nhất trong cuộc đời cũng được soi sáng

Khi có Chúa Kitô ở trung tâm cuộc sống, chúng ta có thể quy chiếu về Người các niềm vui và niềm hy vọng, các nỗi buồn và lo lắng trong cuộc đời chúng ta. Cả những lúc đen tối nhất cuộc sống cũng được soi sáng và Người ban cho chúng ta niềm hy vọng, như xảy ra đối với người trộm lành trong Phúc âm hôm nay.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách tham dự thánh lễ bế mạc Năm Đức Tin tại quảng trường Thánh Phêrô sáng Chúa Nhật lễ Chúa Kitô Vua 24-11-2013.

Thánh lễ đã bắt đầu lúc 10 giờ rưỡi sáng. Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có khoảng 80 Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục và 1,200 linh mục. Đảm trách phần thánh ca có ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, ca đoàn của Giáo Hoàng Học Viện Thánh Nhạc và ca đoàn Mater Ecclesiae cũng như Dàn nhạc hòa tấu của tỉnh Bari nam Italia.

Trong khi chờ đơi Dàn nhạc đã trình tấu và các ca đoàn đã hát thánh ca chuẩn bị tinh thần cho tín hữu. Hàng trăm người thiện nguyện đã đi quyên tiền trợ giúp các nạn nhân bão lụt Hayan bên Philippinnes. Từ 15 năm qua đây là lần đầu tiên có việc quyên tiền trong thánh lễ tại quảng trường Thánh Phêrô. Số tiền này sẽ được Đức Thánh Cha chuyển tới các nạn nhân trong những ngày tới.

Lúc 9 giờ 45 hòm đựng xương Thánh Phêrô đã được rước ra và để trên đế cao phía bên trái bàn thờ. Hòm xương thánh bằng đồng dài 30 cm rộng 10 cm có 8 mảnh xương, mỗi mảnh dài 2-3 cm. Trên hòm thánh tích có viết hàng chữ: ”Từ các xương tìm thấy trong lòng đất của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô được coi là của Tông Đồ Phêrộ Diễm Phúc”. Thánh tích này đã được trao tặng Đức Giáo Hoàng Phaolô VI năm 1971, và từ đó được giữ trong Nhà nguyện riêng của Đức Giáo Hoàng trong Dinh Tông Tòa. Trong các năm qua Thánh tích được trưng bầy trong nhà nguyện này mỗi ngày 29 tháng 6.

Hôm Chúa Nhật 24 tháng 11-2013 là lần đầu tiên Thánh tích được trưng bầy tại quảng trường Thánh Phêrô cho tín hữu tôn kính. Theo hai bút tích ”Sự lên trời của Isaia” và ”Sách Khải huyền của Phêrô” Tông Đồ Phêrô đã chịu tử đạo dưới thời hoàng đế Neron năm 64, và được chôn cất trong nghĩa trang bên cạnh hý trường Neron và Caligula. Bút tích đầu tiên nhắc tới mộ của Thánh Phêrô thuộc hai thế kỷ thứ II-III là của Giám Mục Eusebio, sử gia của Giáo Hội. Đức Cha Eusebio kể lai lời của một linh mục Roma tên là Gaio nói về phần mộ, mà cha định nghĩa là ”chiến tích” của Phêrô tại Vaticăng.

Vào đầu thế kỷ thứ IV hoàng đế Costantino đã cho lấp nghĩa trang này để xây đền thờ thánh Phêrô, nhưng trên dấu tích mộ của thánh nhân. Chỉ vào năm 1939 dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio XII mới có các cuộc đào bới khảo cổ. Tuy nhiên, việc điều hành thiếu sót đã không đưa tới các kết qủa mong muốn, mà chỉ cung cấp một số dữ kiện, mà sau này nhà nữ khảo cổ Margherita Guarducci đã dùng để dựng lại khung cảnh lịch sử của các biến cố.

Thật ra, bên dưới bàn thờ Tuyên Xưng Đức Tin trong Đền Thờ Thánh Phêrô hiện nay có một loạt các bàn thờ có lẽ được dựng để kính thánh Phêrô giữa các năm 321-326. Đền thờ do hoàng đế Costantino cho xây cất bao trùm một bức tường thuộc hậu bán thế kỷ thứ III, một phần mộ gọi là ”chiến tích của Gaio” tựa vào một bức tường trát vữa mầu đỏ và một mộ nhỏ trên mặt đất gọi là ”terragna” ở bên trong phần mộ nói trên.

Năm 1952 bà Guarducci đọc ra tên của thánh Phêrô bằng tiếng Hy lạp mà tín hữu vạch trên tường. Thế rồi tháng 9 năm 1953 bà Guarducci tìm ra một chiếc hộp bị bỏ quên trong một nơi ẩm thấp. Bà giao cho các khoa học gia khảo xét trong đó có ông Venerando Correnti chuyên viên nhân chủng học. Kết luận đó là xương của một người đàn ông khoảng 60-70 tuổi bọc trong một mảnh vải điều có thêu chỉ vàng. Và các vết đất thuộc loại đất của mộ chôn sát đất ”terragna”. Đó là bằng chứng trong mộ có xương của thánh Phêrô trước khi được hoàng đế Costantino chuyển rời. Trong các chữ vạch trên tường có các chữ Hy lạp ”Phêrô ở trong này”. Ngày 26 tháng 6 năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI chính thức loan báo tin này trong buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư, khi nói: ”Các điều tra rất kiên nhẫn và cẩn thận đã được thực thi với kết qủa mà chúng tôi, được củng cố bởi phán quyết của các chuyên viên có giá trị và thận trọng, chúng tôi tin là tích cực: cả các thánh tích của Thánh Phêrô cũng đã được nhận diện một cách, mà chúng ta có thể coi là thuyết phục”.

Trong thánh lễ, các bài Sách Thánh đã được đọc trong các thứ tiếng Anh, Tây Ban Nha và Ý. Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha bầy tỏ lòng biết ơn Đức Biển Đức XVI đã tuyên bố Năm Đức Tin cống hiến cho toàn Giáo Hội cơ may tái khám phá ra vẻ đẹp của lộ trình đức tin, bắt đầu với bí tích Rửa Tội biến chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và anh em với nhau trong Giáo Hội. Đức Thánh Cha cũng chào mừng các Thượng Phụ, Tổng Giám Mục Trưởng của các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, và qua các vị tín hữu các cộng đoàn của các vị hằng nêu gương trung thành với giá trả đắt đỏ cho lòng trung kiên ấy. Qua các vị Đức Thánh Cha cũng gửi lời chào thân ái tới tất cả mọi kitô hữu bên Thánh Địa, Siria và toàn vùng Đông Phương và cầu mong tất cả được ơn hòa bình và hòa hợp.

Tiếp đến ngài đã quảng diễn ý nghĩa các bài đọc nói về Chúa Kitô trung tâm của thụ tạo, của dân Chúa và của lịch sử. Thánh Phaolô trình bày Chúa Kitô như là Trưởng tử của mọi thụ tạo: trong Người, nhờ Người và cho Người mà mọi sự được tạo dựng. Ngài là Chúa của sự tạo dựng, Chúa của sự hòa giải. Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Hình ảnh này giúp chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu là trung tâm của việc tạo dựng, và vì thế thái độ đòi hỏi nơi tín hữu, nếu họ muốn là tín hữu, là thái độ nhận biết và tiếp đón tính cách trung tâm ấy của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Khi đó các tư tư tưởng các việc làm các lời nói của chúng ta sẽ là các tư tưởng kitô, các tư tưởng, việc làm và lời nói của Chúa Kitô. Trái lại, khi đánh mất đi trung tâm ấy vì thay thế nó với cái gì khác, thì chỉ phát sinh ra các thiệt hại cho môi trường chung quanh và cho chính con người.

Ngoài việc là trung tâm của thụ tạo, và của sự hòa giải, Chúa Kitô là trung tâm của dân Thiên Chúa. Chính hôm nay Người ở đây, giữa chúng ta. Bây giờ và ở đây trong Lời Người và sẽ ở đây trên bàn thờ, sống động, hiện diện giữa chúng ta là dân của Người. Đó là điều được chỉ cho chúng ta thấy trong bài đọc thứ nhất trích từ sách Samuel II, kể lại ngày dân Israel đến tìm Đavít và xức dầu tấn phong ông là vua trên Israel (x.2 Sm 5,1-3). Qua việc tìm kiếm gương mặt lý tưởng của nhà vua, các người ấy đã kiếm tìm chính Thiên Chúa: một vì Thiên Chúa đến gần con người, chấp nhận đồng hành với con người và trở thành anh của họ.

Chúa Kitô dòng dõi vua Đavít chính là ”người anh”, chung quanh Người dân được thành lập, là Đấng săn sóc dân Người, săn sóc tất cả chúng ta với giá cuộc sống Người. Nơi Người chúng ta là một, một dân duy nhất: hiệp nhất với Người chúng ta chia sẻ một con đường, một số phận duy nhất. Nơi Người chúng ta có căn tính như là dân Thiên Chúa.

Và sau cùng Chúa Kitô là trung tâm của lịch sử nhân loại và cũng là trung tâm lịch sử của mỗi một người. Chúng ta có thể quy chiếu về Người các niềm vui và niềm hy vọng, các nỗi buồn và lo lắng trong cuộc đời chúng ta. Khi Chúa Giêsu ở trung tâm, cả những lúc đen tối nhất cuộc sống cũng được soi sáng và Người ban cho chúng ta niềm hy vọng, như xảy ra đối với người trộm lành trong Phúc âm hôm nay.

Trong khi tất cả các người khác hướng tới Chúa Giêsu với sự khinh rẻ, họ nói: ”Nều ông là Đức Kitô, Vua Cứu Thế, thì hãy tự xuống khỏi thập giá đi”, thì ông này, là người đã sai lạc trong cuộc sống, hối hận bám chặt lấy Đức Giêsu chịu đóng định và nài xin: ”Xin nhớ đến tôi, khi Ngài vào Nước của Ngài” (Lc 23,42). Và Chúa Giêsu hứa với ông: ”Hôm nay con sẽ ở trên thiên đàng cùng Ta” (c.43). Chúa Giêsu chỉ nói lên lới tha thứ chứ không kết án; và khi con người tìm ra can đảm xin ơn tha thứ ấy, Chúa không bao giờ bỏ rơi một lời xin như vậy.

Hôm nay, tất cả chúng ta có thể nghĩ tới lịch sử của mình, con đường của mình. Mỗi người trong chúng ta có lịch sử của mình: mỗi người trong chúng ta, cả khi có các sai lầm, tội lỗi, các lúc sung sướng và tối tăm. Trong ngày này, thật là ích lợi, khi nghĩ tới lịch sử của chúng ta và nhìn lên Chúa Giêsu, và từ tận đáy lòng, mỗi người trong chúng ta hãy lập lại với Người biết bao lần, nhưng với con tim thinh lặng, rằng: ”Lạy Chúa, xin nhớ tới con, bây giờ Chúa đang ở trong Nước Chúa. Lậy Chúa Giêsu, xin nhớ tới con vì con muốn sống tốt lành, con muốn trở thành người tốt lành, nhưng con không có sức mạnh, con không thể, con là kẻ tội lỗi. Nhưng lậy Chúa Giêsu, xin nhớ tới con. Chúa có thể nhớ tới con, bởi vì Chúa ở trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa”. Thật đẹp biết bao! Hôm nay tất cả chúng ta hãy làm điều đó, mỗi người trong con tim mình, lập lại thật nhiều lần: ”Lạy Chúa, xin nhớ tới con, Chúa là trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa!”

Lời Chúa Giêsu hứa với ông trộm lành trao ban cho chúng ta môt niềm hy vọng rất lớn: nó nói với chúng ta rằng ơn thánh Chúa luôn luôn phong phú hơn lời cầu xin. Chúa luôn ban cho chúng ta nhiều hơn điều chúng ta xin Người: bạn xin Chúa nhớ tới bạn, và Ngài đem bạn vào trong Nước Ngài! Chúa Giêsu chính là trung tâm các ước mong, niềm vui và ơn cứu độ của chúng ta.

Lời nguyện giáo dân đã đựơc đọc trong các thứ tiếng: A rập, Pháp, Tầu, Bồ Đào Nha và Philippines, xin Chúa Kitô Vua giữ gìn tín hữu trong đức tin đức cậy và đức mến; xin Ngài chúc lành, nâng đỡ và khiến cho công việc của Đức Thánh Cha, các Giám Mục, linh mục, phó tế và các người loan báo Tin Mừng được hữu hiệu; xin Ngài chiến thắng thù hận giữa các dân tộc, rộng mở con tim cho sự tha thứ và ban tràn đầy an bình cho tất cả mọi người; xin Ngài giải thoát các người tội lỗi, các người không tin và các người nghi ngờ khỏi quyền lực của tối tăm, soi sáng tâm trí họ, hoán cải và thanh tẩy con tim họ với lòng xót thương của Ngài; xin Chúa an ủi, làm vơi nhẹ khổ đau và ban niềm vui cho các gia đình, những người nghèo túng và sống trong cô đơn không có tình thương.

Hàng trăm Linh Mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa. Sau lời nguyện cuối lễ Đức Thánh Cha đã trao biểu tượng CD Tông huấn ”Evangelii Gaudium Niềm vui Phúc Âm” cho 36 người thuộc 18 nước, đại diện cho mọi thành phần dân Chúa trên năm châu. Trong số đó có một tân Giám Mục người Lettonia, một tân linh mục Tanzania, và một tân phó tế Australia. Ngoài ra cũng có các tu sĩ nam nữ, các người mới lãnh bí tich Thêm Sức, một chủng sinh, một nữ tập sinh, một gia đình, các giáo lý viên và một người mù.

Trước khi đọc Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã cám ơn tín hữu và du khách hành hương, các gia đình, các nhóm giáo xứ, hiệp hội và phong trào, đến từ nhiều nước, các tham dự viên đại hội toàn quốc Italia lòng Thương Xót Chúa, cộng đoàn tín hữu Ukraine nhân kỷ niệm 80 năm diệt chủng vì nạn đói do chế độ liên xô gây ra khiến cho hàng triệu người chết. Đức Thánh Cha cũng bầy tỏ lòng biết ơn các thừa sai đã loan báo Tin Mừng đó đây trên thế giới, trong đó có chân phước Junipéro Serra, thừa sai dòng Phanxicô, người Tây Ban Nha nhân kỷ niệm 300 năm ngày chân phước sinh ra. Ngài đặc biệt nồng nhiệt cám ơn Đức Tổng Giám Mục Fisichella và các cộng sự viên của Ủy ban Năm Đức Tin đã hoạt động tích cực trong năm qua.

Thánh lễ đã kết thúc với kinh Truyền Tin và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người. Ngài xin mọi người cầu nguyện đặc biệt cho biết bao nhiêu kitô hữu đang bị bách hại vì đức tin trên thế giới.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

LIỀU LĨNH CHỌN THIÊN CHÚA VÀ HOÀN TOÀN TÍN THÁC NƠI NGƯỜI TRONG CÁC HOÀN CẢNH TỘT CÙNG

TOÀN TÍN THÁC NƠI NGƯỜI TRONG CÁC HOÀN CẢNH TỘT CÙNG

VATICAN: Liều lĩnh chọn Thiên Chúa và hoàn toàn tín thác nơi Người trong các hoàn cảnh tột cùng. Các kitô hữu được mời gọi có các lựa chọn định đoạt như các vị tử đạo mọi thời dậy và nêu gương.

Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ cử hành tại nhà nguyện thánh Martha sáng 25-11-2013. Giải thích thái độ tín thác nơi Chúa của các người trẻ do thái bị bắt làm nô lệ dưới thời vua Nabuchodonosor, và thái độ quảng đại của người đàn bà góa dâng cúng hết những gì mình có như kể trong Tin Mừng, Đức Thánh Cha nói: Họ quảng đại liều lĩnh lựa chọn Thiên Chúa mà không nghĩ tới lợi riêng. Họ tín thác nơi Thiên Chúa không phải vì cuồng tín, nhưng vì Thiên Chúa là tất cả, và Người luôn luôn trung thành. Đây là một lựa chọn có giá trị trong các việc nhỏ cũng như việc lớn.

Trong lịch sử Giáo Hội cũng vậy, chúng ta thấy các người nam nữ già trẻ lựa chọn như thế. Khi nghe cuộc đời các vị tử đạo, khi đọc trên báo chí các cuộc bách hại chống lại các kitô hữu ngày nay chúng ta hãy nghĩ tới các anh chị em sống trong các hoàn cảnh tột cùng này, và họ đã lựa chọn Chúa. Họ nêu gương sáng cho chúng ta và khích lệ chúng ta ném vào kho tàng của Giáo Hội tất cả những gì chúng ta có để sống. Chúa đã giúp các người trẻ do thái ra khỏi các khó khăn, và bà góa nghèo cũng được Chúa giúp. Chúa Giêsu ca ngợi bà, đó là chiến thắng. Thật là tốt nếu chúng ta nghĩ tới các anh chị em trong lịch sử và ngày nay làm các lựa chọn định đoạt như thế.

Chúng ta cũng hãy nghĩ tới biết bao nhiêu người mẹ người cha hàng ngày làm các lựa chọn định đoạt đó để cùng gia đình và con cái tiến tới. Đây là một kho tàng trong Giáo Hội. Họ cống hiến chứng tá cho chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm tiến tới trong cuộc sống kitô, trong các hoàn cảnh bình thường mọi ngày và trong các hoàn cảnh tột cùng (SD 25-11-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

24-11: THÁNH ANRÊ DŨNG-LẠC VÀ CÁC BẠN TỬ-ĐẠO VIỆT-NAM (CHỦNG SINH PHAOLÔ BỘT VÀ CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ-YÊN)

24-11: THÁNH ANRÊ DŨNG-LẠC VÀ CÁC BẠN TỬ-ĐẠO VIỆT-NAM (CHỦNG SINH PHAOLÔ BỘT VÀ CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ-YÊN)

… Tài liệu về cuộc đời, nhân đức và cái chết vinh quang của Chủng Sinh Phaolô Bột (1841-1858) phần lớn trích từ tác phẩm của Linh Mục Gustave Monteuuis: ”Anh hùng trong thống hối. Phaolô Bột, thiếu niên tử đạo Đàng Ngoài”. Tác phẩm trúng giải Hàn Lâm Viện Pháp và được hai nhà xuất bản Thánh-Phaolô ở thủ đô Paris (nước Pháp) và Hội Thánh-Charles ở Grammont (vương quốc Bỉ) đồng phát hành năm 1905.

Cha Gustave Monteuuis viết lời tựa:

”Tiểu sử vị tử đạo Phaolô Bột lần lượt tỏ lộ cho chúng ta thấy: trước tiên, nỗi đau đớn và những dày vò của một thiếu niên trong phút chốc bị sa ngã vì yếu đuối; tiếp đến, lòng nhiệt thành thánh thiện và tình yêu anh dũng của người môn đệ quảng đại, khóc lóc thảm thiết về lỗi lầm của mình và sau cùng, lòng cương quyết dùng chính máu đào xóa tẩy điều sỉ nhục xúc phạm đến Vị Thầy Chí Thánh dấu yêu.

”Hoàn cảnh sống và lộ trình Chủng Sinh Phaolô Bột trải qua thật đáng chú ý. Chúng ta cảm thông nỗi đau đớn và lòng thống hối, đồng thời nồng nhiệt tán thưởng cuộc hoán cải và cái chết vinh quang của Chủng Sinh Phaolô Bột. Một thi sĩ viết:
Không bao giờ lỗi bổn phận là điều đẹp nhất,
Nhưng thống hối trở về với bổn phận còn đẹp hơn.

”Nói thế, chúng ta không chối bỏ vẻ đẹp nguyên tuyền của lòng thanh sạch vô tội. Nhưng chúng ta cũng không thể không ca tụng cố gắng của một tâm hồn, sau khi nhận ra lầm lỗi, đã quyết định thoát khỏi vực sâu tội lỗi và vươn cao trên đường thánh thiện bằng trọn tình yêu thống hối của mình.

1. CUỘC ĐỜI THƠ TRẺ

Phaolô Bột chào đời năm 1841 tại thôn Kẻ-Lựa thuộc giáo xứ Sơn-Miêng. Kẻ-Lựa nay thuộc giáo xứ Canh-Hoạch. Sơn-Miêng ngày nay là Sơn-Lãng thuộc xã Hoa-Sơn, huyện Ứng-Hòa tỉnh Hà Tây, Tổng Giáo Phận Hà Nội. Trước kia Sơn-Miêng thuộc huyện Thanh-Oai, cách tỉnh Hà Nội 35 cây số về hướng Nam. Vào thời kỳ đó, Sơn-Miêng là một trong những giáo xứ rộng lớn nhất của giáo đoàn Đông Đàng Ngoài.

Phaolô Bột được diễm phúc là đồng hương với thánh Phanxicô Nguyễn Cần (1803-1837), Thầy Giảng. Thầy Giảng Phanxicô Nguyễn Cần tử vì đạo ngày 20-11-1837, dưới thời vua Minh Mạng. 150 năm sau, Chúa Nhật 19-6-1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (1978-2005) tôn phong Thầy Giảng Phanxicô Nguyễn Cần lên hàng hiển thánh cùng với 116 vị Tử Đạo Việt Nam.

Khi bản án châu phê từ Kinh Đô ra tới Hà Nội, quan tổng trấn khuyên Thầy Cần nhắm mắt bước đại qua Thánh Giá. Thầy Cần nói:
– Mắt thì nhắm được chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm!

Tại pháp trường, viên quan cố thuyết phục lần chót:
– Anh có thể cứu mạng mình. Anh không trộm cướp, cũng không làm loạn. Bản án của anh còn có thể rút lại, chỉ cần anh bước một bước qua Thập Tự.

Thầy Giảng Phanxicô Nguyễn Cần trả lời:
– Tôi trung không thờ hai chủ, xin quan cứ án mà thi hành!

Thi hài vị tử vì đạo Cần được an táng tại Châu-Sơn, sau cải táng về nhà thờ xứ Sơn-Miêng.

Thời thơ ấu, khi theo mẹ đến nhà thờ Sơn-Miêng, cậu bé Phaolô Bột thường có dịp kính viếng di hài thánh Phanxicô Cần. Hẳn đây là một trong những lý do nuôi dưỡng ơn gọi sau này. Vào thời kỳ ấy, Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam trải qua cuộc bách hại dữ dội. 5 Linh Mục Thừa Sai người Pháp bị bắt và bị kết án tử hình.

Về phía Phaolô Bột, cậu bé không nếm hưởng nhiều niềm vui gia đình. Em trai Bột đột ngột qua đời lúc chưa tròn một tuổi. Sau đó đến lượt thân phụ – ông Phêrô Bính – từ trần năm 1845, khi Bột mới lên 4. Phaolô Bột trở thành quí tử duy nhất sống với mẹ góa, bà Maria Mận.

Từ khi chồng qua đời, bà Mận một mình tần tảo nuôi con. Bà hết lòng yêu thương và giáo dục con nên người. Bà là người mẹ Công Giáo đạo đức, giống như bao bà mẹ gương mẫu khác. Sơn-Miêng lúc ấy nổi tiếng về nghề chằm nón. Bà Maria Mận học nghề và không bao lâu có thể tự tay chằm những chiếc nón lá xinh xắn. Cậu bé Phaolô Bột ngoan ngoãn giúp mẹ. Khi đến tuổi có thể tự di chuyển, chính Phaolô Bột mang nón mẹ làm ra chợ Sơn-Miêng bán. Nét kháu khỉnh, khuôn mặt trong sáng và tính tình dễ thương của cậu thiếu niên bán nón lôi kéo sự chú ý của khách hàng. Nhiều người đến mua nón của cậu. Thế là mỗi buổi chiều, Phaolô Bột hân hoan mang về cho mẹ cái túi đầy tiền. Bà Maria Mận cũng vui mừng không kém. Nhờ tiền bán nón, hai mẹ con có thể sống hàng ngày dùng đủ và nhất là, bà có ít tài chánh dưỡng dục con thành tín hữu Công Giáo tốt.

Phaolô Bột là niềm vui và là niềm an ủi rộng lớn nhất của bà Maria Mận trong cảnh góa bụa. Tuy nhiên, bà không đơn độc trong việc giáo dục con. Em gái bà cũng hết lòng yêu thương cháu. Nhờ sự chăm sóc của Mẹ và Dì, cậu Phaolô Bột tuy mới 10 tuổi, đã trổi vượt nhóm trẻ trong làng về nét ngây thơ và lòng đạo đức.

Phaolô Bột cảm thấy lớn lên trong tâm hồn xuân trẻ và trong trắng của mình ước muốn học hỏi và tiến xa trên đường thánh thiện. Cậu muốn trở thành môn đệ đích thật của Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cậu bày tỏ cùng mẹ tất cả ước vọng. Bà Maria Mận cảm động khi thấy con trai duy nhất có những ý tưởng cao đẹp. Bà biết THIÊN CHÚA Nhân Lành đã gieo vào lòng con hạt giống ơn gọi. Bà không so đo tính toán. Bà không ngần ngại chần chờ. Bà nhất định dâng cho Chúa kho tàng đáng giá nhất: Phaolô Bột, quí tử của bà.

Dịp may đến. Năm 1850, Linh Mục Khương, Cha Sở Sơn-Miêng đến xứ Kẻ-Lựa ban các Bí Tích cho giáo dân trong xứ. Năm 1850 cũng là Năm Thánh do Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX (1846-1878) công bố cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Giáo Đoàn Đàng Ngoài tại Việt Nam hiệp ý với Đức Thánh Cha, cử hành Năm Thánh với lòng sốt sắng đặc biệt. Cảm thấy ơn thánh Chúa tràn ngập tâm hồn, Phaolô Bột nài nỉ mẹ đưa đến gặp Cha Khương, xin Cha nhận cậu vào Nhà Đức Chúa Trời với hy vọng ngày kia trở thành Thầy Giảng và Linh Mục.

Dĩ nhiên bà Maria Mận không từ chối lời con xin. Bà mau mắn đưa con đến gặp Cha Sở. Sau khi lắng nghe lời tỏ bày của cả hai mẹ con, Cha Khương ngần ngại không chấp nhận lời thỉnh cầu. Phaolô Bột đành theo mẹ trở về, chuyên cần giúp mẹ việc nhà và đem nón mẹ chằm ra chợ bán.

Hai năm sau, 1852, Cha Khương có dịp trở lại Kẻ-Lựa. Phaolô Bột nài nỉ mẹ đưa đến gặp Cha, lập lại lời xin. Lần này Cha Khương động lòng thương xót. Cha chấp nhận cậu vào Nhà Đức Chúa Trời. Phaolô Bột được nhận với tư cách là chú giúp trường xứ Sơn-Miêng. Phaolô Bột để tâm ngay vào việc học và bắt đầu thực thi các nhân đức. Trong số các bạn đồng sinh, Phaolô Bột nổi bật về tính tình hiền dịu, khả ái và vui tươi. Ngoài ra, thân hình cao ráo trắng trẻo cũng khiến Phaolô Bột dễ dàng thu hút cảm tình của những người sống chung quanh. Tuy nhiên, Phaolô Bột không chú ý đến các chi tiết này, cũng không tỏ ra tự mãn kiêu căng. Trái lại, cậu chỉ chuyên chăm học hành và thực thi nhân đức.

Trong ba năm học tập tại nhà xứ Sơn-Miêng, Phaolô Bột không bao giờ xin phép về Kẻ-Lựa thăm mẹ. Phần bà Maria Mận, mỗi lần có dịp ra Sơn-Miêng, bà đều ghé thăm con trai. Chi phí học tập thường rất cao, bà Maria Mận không thể một mình gánh hết. May mắn thay, một phụ nữ đạo đức khá giả thuộc xứ Phúc-Lâm tên Marta Lịch nhận phần giúp đỡ. Để tỏ lòng biết ơn mẹ nuôi, thỉnh thoảng chú Bột đến thăm bà Marta Lịch. Tuy nhiên, mặc dù bà Marta Lịch nài nỉ, Phaolô Bột chỉ nhận những gì tối thiểu cần thiết. Chú lễ phép thưa với mẹ nuôi:
– Xin mẹ cầu cho con được ơn trung tín đến hơi thở cuối cùng trong Nhà Đức Chúa Trời.

Thời gian Phaolô Bột học tập tại nhà xứ Sơn-Miêng cũng là thời kỳ Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam bị bách hại dữ dội. Ngày 1-5-1851, Cha thánh Augustin Schoeffler Đông (1822-1851), thuộc Hội Linh Mục Thừa Sai Paris, bị hành quyết vì Đạo tại Sơn-Tây. Cùng ngày tháng đó một năm sau, 1852, Cha thánh Jean-Louis Bonnard Hương (1824-1852) cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris, bị giết vì Đức Tin tại Nam-Định. Tất cả những chứng nhân anh dũng ấy ghi khắc vào con tim thơ trẻ của các chú giúp nhà xứ Sơn-Miêng lòng nhiệt thành khát khao ơn được dùng chính mạng sống tuyên xưng Đức Tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ con người.

Ba năm học hoàn tất, năm 1855 Phaolô Bột được Cha Sở Sơn-Miêng giao phó cho các Linh Mục thuộc Chủng Viện Vĩnh-Trị. Từ nay Phaolô Bột chính thức trở thành chủng sinh.

II. CUỘC SỐNG NƠI CHỦNG VIỆN VĨNH-TRỊ

Năm 1848, vua Tự Đức (1830-1883) lên ngôi, tiếp tục các cuộc bách hại chống lại Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là các Linh Mục người Pháp thuộc Hội Thừa Sai Paris.

Năm 1855 Phaolô Bột gia nhập chủng viện Vĩnh-Trị.

Vĩnh-Trị nằm trên bờ sông Nam-Định cách không xa Ninh-Bình bao nhiêu. Trong vòng 100 năm liền, Vĩnh-Trị là cứ điểm truyền giáo của địa phận Đông Đàng Ngoài. Hồi ấy, toàn thể dân cư Vĩnh-Trị đều là tín hữu Công Giáo. Nơi đây còn có chỗ cư trú của Đức Cha Retord Liêu (1840-1858), Đại Diện Tông Tòa. Và bên cạnh ngôi nhà của Đức Cha Liêu là chủng viện. Trong một xứ truyền giáo vào thời kỳ Giáo Hội bị bách hại, chủng viện Vĩnh-Trị lúc ấy là một cơ sở thô sơ. Nhưng chương trình huấn luyện không sơ sài. Các chủng sinh học La-ngữ, chữ Tàu, chữ Nho, tiếng Việt, sử học và bình ca. Ngoài ra, kể từ khi Cha thánh Phêrô-Phanxicô Néron Bắc (1818-1860), Linh Mục thuộc Hội Thừa Sai Paris, được chỉ định làm Bề Trên chủng viện Vĩnh-Trị, các chủng sinh có thêm chương trình học về toán pháp như hình học, đại số, số học và thiên văn, vv ..

Chủng sinh Phaolô Bột được diễm phúc thụ huấn với các tôn sư nổi bật về các khoa học đời cũng như đạo. Nhưng nhất là, các vị nêu cao gương sáng cho các môn sinh và cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam lòng trung thành cho đến chết.

Đây là thời kỳ Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (1793-1857) được chỉ định làm Giám Đốc chủng viện Vĩnh-Trị, kiêm giáo sư La-ngữ lớp chủng sinh lớn nhất sắp ra trường. Khi Giáo Hội Công Giáo Việt Nam được một thời gian tạm bằng an, Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh lo tổ chức đời sống thiêng liêng cho các chủng sinh. Ngài dạy cho họ biết học hỏi Lời Chúa trong Phúc-Âm, trong Thánh-Kinh, sùng kính Đức Mẹ MARIA bằng việc lần hạt Mân Côi, ăn chay các ngày trước lễ Đức Mẹ, mang Áo Đức Mẹ trên mình, thương mến các Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục và cầu nguyện cho các Linh Hồn. Nhất là rút kinh nghiệm bản thân trong thời kỳ chịu bách hại và lao tù, Cha thánh Tịnh nhấn mạnh với chủng sinh lòng tôn thờ Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Ngài dựng tượng Thánh Giá ở giữa con đường chính xuyên qua chủng viện và 4 tượng Thánh Giá khác ở 4 góc giáo xứ Vĩnh-Trị. Ngài làm phép long trọng các tượng Thánh Giá và mỗi ngày thứ sáu, Cha thánh Tịnh thường đưa một số chủng sinh tới đó đọc kinh. Tượng Thánh Giá thứ sáu được dựng trong Trại Phong Cùi gần Vĩnh-Trị. Hôm đó chính ngài vác cây Thánh Giá trên vai, theo sau là toàn thể chủng viện. Tất cả mọi người hát bài Vexilla Regis – Cờ Vua Chiến Thắng. Bên chân tượng Thánh Giá này, Cha thánh Tịnh xây một nhà nguyện nhỏ và năm nào cũng thế, ngài đến đây bốn lần để dâng Thánh Lễ.

Một thời gian ngắn sau khi Phaolô Bột gia nhập chủng viện, ngày 18-9-1855, vua Tự Đức ban hành sắc chỉ cấm đạo nghiêm ngặt. Tất cả các Linh Mục đều bị kết án tử hình. Các quan viên Công Giáo có thời hạn 1 tháng để chối Đạo. Binh lính và tín hữu thường được triển hạn 6 tháng. Dĩ nhiên các Thầy Giảng Nhà Đức Chúa Trời và các chủng sinh cũng bị kết án nặng nề, sau các Linh Mục.

Cùng thời gian này có Thầy giảng Augustino Điểm làm giáo sư chủng viện Vĩnh-Trị. Thầy có người em trai Marcô Hào là chủng sinh. Cả hai anh em đều được diễm phúc đổ máu làm chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Thầy Augustino Điểm chịu chết vì Đạo năm 1860 tại Nam Định. Năm kế tiếp, ngày 1-1-1861, chủng sinh Marcô Hào nối gót bào huynh tuyên xưng Đức Tin cũng tại Nam Định, hưởng dương 19 tuổi.

Chi tiết trên đây cho thấy chủng sinh Phaolô Bột trải qua thời kỳ thụ huấn và thực tập nhân đức trong một bầu khí bất an, phập phồng lo sợ vì cơn bắt Đạo nỗi lên khắp nơi, từ Nam chí Bắc. Mặc dầu thế, trong năm 1856, Đức Cha Retord Liêu vẫn quyết định tổ chức tuần tĩnh tâm cho giáo hữu Vĩnh-Trị. Dĩ nhiên các chủng sinh chủng viện Vĩnh-Trị là những thành phần đầu tiên tham dự tích cực vào tuần tĩnh tâm này. Đức Cha Liêu được sự hỗ trợ đắc lực của hàng giáo sĩ trong giáo phận. Mỗi ngày có 4 bài giảng, không kể những bài đọc Sách Thánh và bài suy niệm. Tín hữu tham dự đông đảo nên phải lập đến 14 tòa giải tội. Tuần tĩnh tâm được kết thúc với lễ truyền chức Linh Mục.

Quả là biến cố linh thiêng và trọng đại trong thời kỳ bách hại. Đây là biến cố phi thường đưa các tân Linh Mục cũng như tín hữu vào đời sống hầm trú nơi các hang toại đạo. Chủng sinh Phaolô Bột cảm thấy lòng dâng lên những tâm tình quảng đại cao đẹp. Cậu ước ao được bước theo các bậc thầy và đàn anh trên con đường tông đồ và tử đạo.

Và chuyện phải đến đã đến. Ngày 27-2-1857 quan phủ Nghĩa Hưng đem quân vây kín làng Vĩnh-Trị, nơi có nhà Đức Cha và chủng viện. Đức Cha Retord Liêu và hai Linh Mục thừa sai người Pháp là Cha Charbonnier và Cha thánh Jean-Théophane Vénard Ven (1829-1861) kịp thời trốn thoát. Nhưng vị Giám Đốc chủng viện, Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh bị bắt cùng với hai ông Chánh-Phó Xã-Ủy làng Vĩnh-Trị và chủng sinh Lương. Cả bốn vị bị giải ra tỉnh Nam Định. Sau 38 ngày bị giam cầm, Cha Tịnh bị kết án tử vì cương quyết không chối bỏ đạo thánh Chúa. Cha nói với quan tổng đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng:
– Tôi xin chân thành cám ơn quan, vẫn luôn có lòng tốt tìm cách cứu tôi. Thân xác tôi ở trong tay quan, xin làm khổ nó tùy ý, tôi rất vui lòng, không oán than gì. Nó chết đi nhưng mai ngày sẽ sống lại vinh quang. Còn linh hồn tôi là của THIÊN CHÚA, không có gì làm tôi hy sinh nó được, không ai có thể lay chuyển lòng tin tưởng của tôi. Đạo THIÊN CHÚA là chính Đạo, là Đạo thật, tôi yêu mến và giữ Đạo ấy từ thưở bé, và dù có chết tôi cũng chẳng bỏ được.

Lời khẳng khái phát sinh từ quyết định can đảm và sáng suốt. Ngày 6-4-1857 tại pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định, Cha Phaolô Lê Bảo Tịnh nói lời từ biệt cuối cùng gởi tới mọi người:
– Anh em ở lại bình an, chịu khó giữ Đạo và can đản bền vững, đừng sợ chết!

Vài ngày sau khi Cha thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh bị giết, ba vị đồng tù với ngài bị phân tán mỗi người một nơi. Ông Chánh Xã-ủy Vĩnh-Trị bị lưu đày ở Thái-Nguyên, ông Phó Xã-ủy ở Lạng-Sơn và chủng sinh Lương ở Cao-Bằng. Cả ba vị đều trung thành với Đức Tin Công Giáo cho đến hơi thở cuối cùng. Riêng chủng sinh Lương, chú đã viết thư gởi đến quí Bề Trên và các chủng sinh cùng trường. Thư kể lại cuộc sống lưu đày như sau:

”Người dân hai tỉnh Cao-Bằng và Lạng-Sơn không toàn tòng là người Việt nhưng có thêm các sắc dân thiểu số và người Tàu. Ngôn ngữ bất đồng khiến cho việc giao thiệp trở nên khó khăn. Tại Lạng-Sơn hiện có 6 tân tòng bị lưu đày. Họ có thể an ủi và khích lệ lẫn nhau. Cha Sở tìm cách viếng thăm và ban các bí tích cho họ. Nhưng không mấy dễ dàng. Thường ngài chỉ có thể gặp các tân tòng một hay hai lần trong năm. Trong khi đó, tại Cao-Bằng này, con hoàn toàn cô thế cô thân. Con là người duy nhất được biết Đạo thánh Chúa, Đạo chân thật. Vì thế, con không rõ đến khi nào con mới được diễm phúc gặp một Linh Mục để xưng tội. Với sức khoẻ yếu kém cộng thêm khí hậu độc địa, con có thể chết bất kỳ lúc nào, chết mà không nhận được sự trợ giúp thiêng liêng nào. Do đó, con khẩn khoản xin mọi người thương cầu cho phần rỗi linh hồn con, hầu con được can đảm thực thi thánh ý THIÊN CHÚA đến cùng.

”Ngày con mới đặt chân đến đây, quan Án tỉnh Cao-Bằng truyền con đạp chân lên Thánh Giá. Thấy con cương quyết từ chối, quan nổi giận buông lời nguyền rủa. Con thưa với quan:
– Nếu trước đây vua đòi đầu cháu, hẳn cháu đã sẵn sàng dâng đầu đến một trăm lần, chẳng thà chối bỏ Đạo Chúa. Giờ đây, cháu đã chịu xét xử, bị tuyên án và cháu đã chấp nhận bản án lưu đày, đến một miền khỉ ho cò gáy, sau khi băng rừng lội suối đi qua một chặng đường dài gian lao khốn khó, làm sao quan có thể nghĩ là cháu sẽ chối bỏ Đạo Chúa, để trong phút chốc, mất hết mọi công phúc mà cháu cố gắng thu đạt, khi bằng lòng chịu đau khổ vì Đạo?..

”Một lần khác, cũng vị quan Án ấy gọi con đến nhà quan. Sau một hồi khuyên con bỏ Đạo không hiệu quả, quan nói với con: ”Đạo Vua Trời Đất là Đạo gì và đâu là những lý do khiến chú gắn bó đến độ không bỏ Đạo được?” Con liền trình bày cho quan nghe một số giáo lý Đạo Công Giáo. Con cũng dùng nhiều lý lẽ minh chứng Đạo Công Giáo là Đạo thật. Quan Án tỏ ra lắng nghe lời con nói. Sau khi thỏa mãn tính tò mò, quan Án cho con về và nói: ”Nếu quả thật như thế, chú hãy ra về bằng an”. Kể từ ngày ấy, quan Án tỉnh Cao-Bằng để con yên, không hạch hỏi cũng không truyền con phải bỏ Đạo nữa”.

Ký tên: Lương, người bị lưu đày vì Đức Tin.

Lá thư của chủng sinh Lương là một khích lệ lớn lao cho các bạn đồng trường tại Vĩnh-Trị. Lá thư cũng mang lại nhiệt huyết trung thành cho những môn đệ Đức Chúa GIÊSU KITÔ, đặc biệt trong thời kỳ cấm cách.

Trong lúc đó, chủng viện Vĩnh-Trị phải đóng cửa. Các chủng sinh phải phân tán từng nhóm ra các giáo xứ. Chú Phaolô Bột và một nhóm chủng sinh đồng lớp di tản về xứ Kẻ-Báng, cũng thuộc tỉnh Nam Định.

III. BỊ BẮT VÀ CHỐI ĐẠO

Ngày 21-5-1857, nhằm lễ Đức Chúa GIÊSU Thăng Thiên, Đức Cha thánh Giuse Diaz Sanjurjo An (1818-1857), Giám Mục thừa sai người Tây Ban Nha, Đại Diện Tông Tòa Trung Đàng Ngoài, bị bắt tại Bùi Chu và bị giải về Nam Định. Hồi ấy, ông Nguyễn Đình Hưng, Tổng Đốc Nam Định, vô cùng ghét Đạo Công Giáo. Ông cho dùng đủ mọi cực hình để làm khổ các tù nhân Công Giáo, vô phúc rơi vào tay ông. Gông cùm ngăn cản nghỉ ngơi ngày đêm, xiềng xích ăn mòn xương thịt, roi mây hằn lên những lằn đau, nhức buốt tận tim gan, kềm nung để lại những vết thương khó lành, và quì gối trên những tấm phản có đinh sắt nhọn, đau đớn vô cùng. Đó là những cực hình khủng khiếp mà lòng độc ác con người có thể nghĩ ra.

Năm 1857 báo hiệu nhiều tang thương thử thách cho Giáo Đoàn Đàng Ngoài. Tổng Đốc Nam Định biết rõ Kẻ-Báng là nơi trú ẩn của nhiều vị Linh Mục thừa sai và chủng sinh. Đêm 22 rạng ngày 23-1-1858, tổng đốc Nam Định sai quan tướng mang 700 binh lính về vây làng Kẻ-Báng. Cuộc tấn công chuẩn bị chu đáo đến nỗi dân làng không mảy may hay biết gì. Dầu vậy, một số Linh Mục và chủng sinh cũng may mắn thoát được, ngoại trừ chủng sinh Phaolô Bột, 17 tuổi và ba bạn đồng lớp: Gioan Pháp, Phaolô Tuấn và Hương. 4 chủng sinh bị bắt cùng với 17 bô lão, trong đó có ông Trùm xứ đạo Kẻ-Báng. Ngày hôm sau, tất cả bị giải về Nam Định và bị tống ngục. Nhờ được giam chung, các tù nhân vì Đức Tin đã an ủi khích lệ lẫn nhau hãy cương quyết trung thành với Đạo Công Giáo cho đến chết.

Ngày 25-1-1858, Tổng Đốc Nam Định Nguyễn Đình Hưng truyền mang Phaolô Bột cùng ba bạn chủng sinh và các vị bô lão Kẻ-Báng ra công đường. Ông truyền đặt Cây Thánh Giá dưới đất. Tất cả các tín hữu Công Giáo đoán biết thử thách nào sẽ diễn ra. Vừa xuất hiện, ông tổng đốc nói ngay:
– Hãy đạp lên Thánh Giá rồi tôi sẽ trả tự do cho mọi người.

Lệnh truyền ngầm hiểu rằng:
– Nếu bất tuân, sẽ bị lưu đày hoặc kết án tử hình.

Ông trùm Kẻ-Báng, trong tư cách là niên trưởng, trả lời thay cho tất cả:
– Thưa quan, tôi được hân hạnh trình với quan rằng, chúng tôi là tín hữu Công Giáo nên chúng tôi không đạp chân lên Thánh Giá.

Vừa nghe câu trả lời khẳng khái dõng dạc của ông trùm, quan tổng đốc nỗi giận đùng đùng. Ông truyền cho lính đánh đòn tức khắc các chiến sĩ Đức Tin.

Các người lính liền bắt các tù nhân nằm sấp mặt xuống đất, trói hai tay hai chân các tù nhân vào trụ và dùng roi mây thẳng tay đánh túi bụi vào thân mình các tù nhân. Thật là cực hình khủng khiếp. Bởi lẽ quan tổng đốc truyền cứ mỗi tù nhân bị hai người lính đánh đòn hai bên. Các roi đòn làm máu chảy thấm áo rồi nhuộm đỏ đất. Nhưng quan tổng đốc vẫn chưa nguôi giận. Ông còn truyền phải nung các kềm sắt và dí lên người các tù nhân.

Và quan tổng đốc đã thành công. Các cực hình đau đớn đến nỗi các cụ già yếu sức phải đầu hàng. Các bô lão Kẻ-Báng chấp nhận bước qua Thánh Giá để đánh đổi tự do, trở về đoàn tụ với gia đình. Nhìn các bô lão lần lượt bước qua Thánh Giá, 4 chủng sinh: Bột, Pháp, Hương và Tuấn cảm thấy lòng đau nhói. Các chú cay đắng tự nhủ:
– Làm sao các vị bô lão lại có thể phản bội Đức Chúa GIÊSU KITÔ, công khai chối bỏ Kitô Giáo là Đạo chân thật?

May mắn thay, ông trùm Kẻ-Báng, sau khi bước qua Thánh Giá đã hối hận tức khắc. Ông đền bù ngay tội lỗi tày trời vừa mới phạm và nhất là gương mù gương xấu ông gây ra cho các chủng sinh non trẻ. Ông quay trở lại nói với quan tổng đốc:
– Đức Tin nằm sâu trong lòng chúng tôi, và lòng chúng tôi không hề chối Đạo.

Vừa nghe, ông tổng đốc lên cơn thịnh nộ. Ông quát lớn:
– Người này chỉ chối Đạo bề ngoài, nhưng thật ra trong lòng vẫn trung tín với Đạo!

Ông kết án lưu đày ông trùm Kẻ-Báng lên Lạng Sơn. Nơi đây ngày 20-10-1858, ông trùm trút hơi thở cuối cùng, lòng vẫn một mực kiên trung với Đức Tin KITÔ. Ông được mọi người kính trọng tưởng nhớ như một vị anh hùng tử đạo.

Thành công với 16 bô lão Kẻ-Báng, bây giờ quan tổng đốc Nam Định dồn mọi chiến thuật tàn nhẫn tấn công 4 chủng sinh: Bột, Pháp, Hương và Tuấn. Quan biết rõ không dễ dầu gì lay chuyển Đức Tin của các thiếu niên, với tư cách là chủng sinh Nhà Đức Chúa Trời. Các lý hình cũng biết rõ như vậy. Và sự thật là như thế. Mặc bao lời đe dọa cũng như ngon ngọt dỗ dành, cả 4 chủng sinh đều đứng vững, cương quyết không bước chân qua Thánh Giá. Sau cùng, để đạt mục đích, các binh lính nghĩ ra diệu kế. Họ dùng vũ lực khiêng các chủng sinh ngang qua Thánh Giá, như thế, họ có thể rêu rao rằng, các thiếu niên Nhà Đức Chúa Trời đã nhát đảm công khai chối bỏ Đạo thánh!

Họ bắt đầu thi hành thủ đoạn với Gioan Pháp, chủng sinh nhỏ tuổi nhất. Năm ấy Gioan Pháp 14 tuổi và là bào đệ của Cha Triêm, giáo sư chủng viện Vĩnh-Trị. Mặc dầu đã kiệt lực và đau đớn vì trận đòn chí tử vừa chịu, chú Gioan Pháp vẫn giữ nguyên chí khí anh hùng ban đầu. Chú cương quyết và sáng suốt kháng cự. Khi bị quân lính lôi qua Thánh Giá, Gioan Pháp dùng trọn sức còn lại, uống cong mình và giữ cho đôi chân không hề chạm đến Thánh Giá. Tức giận và xấu hổ trước sức kháng cự vừa anh dũng vừa khéo léo của một thiếu niên, quan tổng đốc ra lệnh cho lý hình hãy dùng kềm nung nóng, kẹp vào người Gioan Pháp. Chú chủng sinh đau đớn ngất lịm đi. Nhưng khi vừa tỉnh lại, chú không ngừng lập đi lập lại:
– Thưa quan, điều quan vừa làm, quan chịu trách nhiệm. Phần con, con nhất định không chấp nhận đạp chân lên Thánh Giá.

Nếu chủng sinh Gioan Pháp cương quyết không tuân lệnh quan tổng đốc, đối lại, quan tổng đốc cũng đâu dễ dàng buông tha một thiếu niên 14 tuổi, dám cả gan bất tuân lệnh quan! Ông truyền lý hình đưa Pháp đến quì trên tấn ván có đầy đầu đinh nhọn. Thật là hình phạt khủng khiếp! Dầu vậy, Gioan Pháp vẫn trước sau như một. Cứ sau một hình khổ mới, chú Pháp lại cương quyết khẳng định:
– Con sẽ không bao giờ đạp chân lên Thánh Giá!

Thất bại trước sức kháng cự anh hùng của một học sinh Nhà Đức Chúa Trời, quan tổng đốc Nam Định tuyên bố kết án lưu đày chủng sinh Gioan Pháp lên Lạng Sơn, cùng với ông trùm Kẻ-Báng. Tại Lạng Sơn, Chúa Nhân Lành đã để cho Gioan Pháp được niềm an ủi lớn lao: đó là được trút hơi thở cuối cùng trong tay bào huynh: Linh Mục Triêm.

Gương anh dũng trung thành với Đạo Công Giáo của chủng sinh Gioan Pháp hẳn có sức mạnh vô biên củng cố Đức Tin của các bạn đi sau: Phaolô Bột, Phaolô Tuấn và Hương. Tất cả đã cùng trải qua các hình khổ dữ dằn như: bị cột tay chân vào trụ, bị đánh đòn bằng roi mây, bị kềm nung đỏ kẹp vào da thịt, vv.. Tổng đốc Nam Định hẳn cũng chờ đợi sức kháng cự tương tự nơi ba thiếu niên kia. Tuy nhiên, ông khéo léo bố trí để đưa các chủng sinh vào tròng. Ông truyền binh lính khiêng cả ba chú Bột, Tuấn và Hương qua Thánh Giá. Và hỡi ôi, lần này ông tổng đốc đã thành công! Cả ba chủng sinh một phần bị lừa dối, một phần quá yếu nhược và một phần có lẽ bị kinh hãi khi chứng kiến hình khổ dữ dằn của Gioan Pháp, nên cả ba đã để yên cho lý hình khiêng qua Thánh Giá mà không hề kháng cự!

Cử chỉ đó ngầm minh chứng rằng: cả ba chủng sinh đã đồng ý công khai chối bỏ Đạo thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ! Và ông tổng đốc Nam Định chỉ chờ đợi có thế! Ông hoan hỉ truyền ghi tên tức khắc ba thiếu niên vào danh sách các tín hữu Công Giáo đã đạp chân lên Thánh Giá, nghĩa là đã chối bỏ Đạo. Rồi ông trả tự do ngay cho ba chủng sinh. Hương lên đường về quê quán. Còn Phaolô Bột và Phaolô Tuấn lủi thủi trở lại Kẻ-Báng, nơi có Thầy giảng Augustino Điểm cùng với một số chủng sinh Vĩnh Trị đang trú ẩn ..

IV. THỐNG HỐI VÀ CƯƠNG QUYẾT DÙNG CHÍNH MẠNG SỐNG GỘT RỬA TỘI PHẢN ĐẠO

Ai có thể nói cho hết, diễn tả cho cùng nỗi lòng của hai thiếu niên, từ đây mang danh bội giáo, phản Đạo và chối Chúa??? Chính lúc này, Phaolô Bột hiểu thấm thía ý nghĩa cay đắng thế nào là bội giáo. Chú đau đớn nhủ thầm:
– Con đã bất trung cùng Thầy Chí Thánh con, Thầy Nhân Lành con! Sao con lại hèn nhát đến độ không dám kháng cự khi quân lính khiêng con qua Thánh Giá? Sao con không có được chí khí anh hùng của Gioan Pháp, một mực bày tỏ lòng trung tín với Đạo thánh?

Vì hết lòng ăn năn thống hối như thế, nên Phaolô Bột không ngừng nói với Phaolô Tuấn:
– Bạn à, chúng ta đã yếu đuối phạm tội chối Chúa, chúng ta phải tìm ngay một Linh Mục để xưng thú tội lỗi.

Ý tưởng đầu tiên của hai chủng sinh thất trận là tìm về với Thầy giảng Augustino Điểm, giáo sư chủng viện Vĩnh-Trị đang coi sóc một nhóm chủng sinh trú ẩn tại Kẻ-Báng. Với thân mình bầm dập rách nát và áo quần tả tơi vì roi đòn, hai chủng sinh trông thật đáng thương. Hai chú hy vọng sẽ được mọi người thông cảm, đặc biệt là Cha Sở và Thầy giảng Điểm, giang rộng cánh tay như người Cha nhân từ, tiếp đón hai đứa con hoang trở về. Hai chú sẽ sụp lạy và thưa với Cha và với Thầy giảng rằng:
– Ôi lạy Cha, lạy thầy, chúng con đã phạm tội với Trời và với hai ngài. Chúng con không xứng đáng được nhận vào sổ những thiếu niên con Nhà Đức Chúa Trời. Nhưng ít ra xin nhận chúng con vào số những người làm công trong nhà và cho phép chúng con được giúp việc cùng ăn chay hãm mình để đền bù tội lỗi chúng con đã phạm!

Khi Phaolô Bột và Phaolô Tuấn về đến Kẻ-Báng thì mọi người đã rõ đầu đuôi ngọn nguồn, không cần đợi hai chú kể lể dài dòng. Hẳn Cha Sở và thầy giảng thông cảm thảm trạng của hai thiếu niên, trong giây phút yếu đuối, đã trở thành kẻ bội giáo! Nhưng trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, cần có những chứng nhân anh dũng, nêu cao gương sáng cho mọi tín hữu, đặc biệt các chủng sinh. Bởi vì, vào bất cứ lúc nào, quan quân cũng có thể bất ngờ xuất hiện để truy bắt các tín hữu Công Giáo. Vì lý do đó, Cha Sở Kẻ-Báng đành từ chối, không tái chấp nhận hai chú Phaolô Bột và Phaolô Tuấn vào số các chủng sinh Vĩnh-Trị. Cửa chủng viện khép kín trước hai kẻ bội giáo!

Phaolô Bột vô cùng đau đớn trước quyết định này. Tia hy vọng cuối cùng vừa bị dập tắt. Cùng với lời từ chối của Bề Trên, Phaolô Bột như nghe rõ tiếng kết án của chính lương tâm:
– Ngươi đã phản bội Thầy Chí Thánh. Ngươi là một tên bội giáo!

Mặc dầu thất bại ê chề, Phaolô Bột không tuyệt vọng. Chú quay trở lại nơi đã chứng kiến ơn gọi nẩy sinh thưở ban đầu. Đó là nhà xứ Sơn-Miêng, có Cha Sở Khương. Chính Cha đã tập luyện và giới thiệu chú vào chủng viện Vĩnh-Trị. Hẳn Cha còn nhớ hình ảnh bà Maria Mận, người mẹ hiền đức, và nhớ rõ những tháng ngày ngây thơ trong trắng của mình, Cha sẽ cảm thông và tha thứ cho tội phản giáo của mình. Nhưng chú đã lầm to. Vì sợ gây ảnh hưởng xấu nơi các thiếu niên khác, Cha Khương nghiêm khắc khiển trách:
– Con sống bao lâu tùy ý, nhưng đối với Cha, xem như thể con đã chết!

Nói xong, Cha cho chú Bột ít tiền đi đường và cấm Phaolô Bột không được lưu lại nhà xứ.

Bị xua đuổi tại hai nơi dấu yêu nhất của cuộc đời chủng sinh, khơi lên niềm đau khôn tả trong tâm hồn chú Phaolô Bột. Chú cay đắng dằn vặt với ý tưởng:
– Tại sao mình lại phản bội THIÊN CHÚA, Đấng đầy tình thương và an bình? Tại sao mình lại yếu đuối, lại dại dột phản bội Ngài?

Chính từ niềm đau khôn lường này, bắt đầu nẩy sinh nơi Phaolô Bột ước muốn đền bù tội lỗi, xóa bỏ gương xấu bội giáo, phản THIÊN CHÚA của mình.

Phaolô Bột nói với Gioan Pháp:
– Chúng ta hãy dốc lòng trở lại Nam-Định tái tuyên xưng Đức Tin!

Rồi thấy bạn do dự, Phaolô Bột khẳng khái nói:
– Chết hay sống, tôi đều trở lại Nam Định để rút lại hành vi phản giáo của tôi trước mặt các quan.

Khi nghe bạn nói thế, Gioan Pháp quá kinh hãi nên tự ý tách rời bạn, trở về quê Yên-Khoái.

Còn lại một mình, Phaolô Bột không dám trở về ngay với mẹ. Chú biết rõ người mẹ hiền đức sẽ phản ứng ra sao, trước tội chối Đạo tày trời của con trai. Thêm vào đó, chú còn nhen nhúm chút hy vọng tìm được một vị Linh Mục biết thương cảm, nhận chú vào lại Nhà Đức Chúa Trời. Do đó, Phaolô Bột lần lượt đến gõ cửa nhiều chủng viện và nhà xứ khác nhau, nhưng ở đâu chú cũng bị xua đuổi cách phũ phàng. Chỉ lúc này đây, chú mới nghĩ đến mái ấm gia đình, nơi có người mẹ góa thân yêu sống. Chú hy vọng tấm lòng mẫu tử bao la của mẹ sẽ rộng tay đón tiếp đứa con hoang trở về.

Dĩ nhiên tin dữ Phaolô Bột chối Đạo đã đến tai bà Maria Mận. Vì thế, vừa khi Phaolô Bột bước vào nhà, bà Maria không dằn được nỗi đau đớn, bà lớn tiếng trách móc:
– Không bao giờ tao tiếp nhận một kẻ phản Đạo, dù kẻ đó là con tao .. Con ơi, nếu con chết, mẹ được diễm phúc khóc con như khóc một vị Tử Đạo. Nhưng hỡi ôi, ngày hôm nay mẹ khóc, không phải vì sung sướng, nhưng là vì xấu hổ đau đớn vì đã trót sinh ra một kẻ phản Đạo .. Chẳng thà bỏ thân vì Đức Tin tại Nam-Định còn hơn vác xác về đây sau khi đã phản bội THIÊN CHÚA, gây ô nhục cho Đạo của mẹ và của dòng họ nhà ta!

Chúa Nhân Lành đã để cho người mẹ hiền đức có những lời cứng rắn ấy, hầu các bậc sinh thành cũng như các nhà giáo dục, đều có cùng một ngôn ngữ như nhau. Điều này nhắc nhở mỗi tín hữu phải trở về với nghĩa vụ tuyên xưng Đức Tin, cho dẫu phải hy sinh cả tính mạng.

Phản ứng đầu tiên của một người mẹ Công Giáo gương mẫu là như thế, nhưng sau đó, bà Maria Mận đã sẵn sàng tiếp rước con, cho con ở chung cùng nhà và giúp đỡ bà trong những công việc thường ngày. Rồi chỉ một thời gian ngắn, bà hiểu rõ nỗi lòng đau đớn của con, cương quyết đền bù tội lỗi đã phản nghịch cùng THIÊN CHÚA.

Vài ngày sau khi trở lại quê Kẻ-Lựa, Phaolô Bột đến Phúc-Lâm thăm mẹ nuôi là bà Martha Lịch. Bà Lịch chưa nghe tin buồn về việc chú đã bội giáo. Vì thế Phaolô Bột tỏ ra vô cùng lúng túng khi tỏ lộ cho mẹ nuôi biết sự thật. Sau này chính bà Martha Lịch kể lại cuộc gặp gỡ như sau.

Hôm ấy là một ngày mùa đông. Trời lạnh như cắt. Ngồi trong bếp nhìn ra tôi trông thấy một người ăn mặc tơi tả, tay chống gậy, lưng khòm, đang đi thẳng vào cửa chính. Tôi đoán là một người hành khất đến xin của bố thí. Khi tới gần, tôi mới vỡ lẽ: người hành khất không ai khác là Phaolô Bột, con nuôi của tôi. Tôi vội vàng mời con vào nhà và trải chiếu đẹp mời con ngồi. Nhưng Phaolô Bột không ngớt từ chối, vừa khóc vừa nói:

– Con phạm một tội tày trời khiến con vô cùng xấu hổ. Con là kẻ khốn cùng nhất trong các tội nhân. Con không xứng đáng ngồi trên chiếu đẹp.

Tôi vội bảo người giúp việc dọn cơm cho chú dùng. Nhưng Phaolô Bột lại xua tay từ chối:
– Không! Không! Xin mẹ chỉ cho con chút cơm thừa ăn với muối hột. Bởi vì con là kẻ tội lỗi nhất trong số những người tội lỗi!

Nói xong, Phaolô Bột lại khóc như mưa.

Tôi vẫn ngỡ ngàng, không hiểu lý do nào đưa con nuôi tôi đến tình trạng thảm thương như thế này? Tôi phải nài nỉ lắm, Phaolô Bột mới kể đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe, từ lúc bị bắt tại Kẻ-Báng, bị đưa ra Nam-Định và bị hành hung như thế nào. Phaolô Bột cho tôi xem những vết thương nưng mủ, những lằn roi bầm đen, những dấu thịt rửa vì bị kềm sắt nung đỏ kẹp vào. Sau cùng, Phaolô Bột kể cho tôi nghe chú bước qua Thánh Giá như thế nào. Nghe đến đây, tôi hỏi con có kêu xin Chúa trợ giúp trong lúc bị hành hung không, Phaolô Bột trả lời:
– Thưa mẹ có. Con dùng hết sức lực nghiến chặt răng và tự đáy lòng, con kêu danh Thầy Chí Thánh.

Tôi lại hỏi:
– Thế thì tại sao con lại không kiên vững đến cùng?

Phaolô Bột giải thích:
– Con đâu có muốn chối Chúa! Chính những người lính lôi con qua Thánh Giá!

Phaolô Bột ở lại với tôi một đêm hai ngày, nhưng dành trọn ngày thứ hai cầu nguyện nơi nhà thờ xứ đạo .. Không những chỉ khóc lóc ăn năn, Phaolô Bột còn hãm mình phạt xác, cam chịu mọi sỉ nhục để đền bù tội lỗi.

Rồi một ngày, Cha Triêm, lúc bấy giờ đang ẩn trốn, được thông báo có một người trẻ tuổi tìm gặp Cha. Vừa trông thấy Cha, người thiếu niên òa lên khóc nức nở:
– Con muốn xin gặp Đức Giám Mục, bởi vì con đã hèn nhát đạp qua Thánh Giá, chối bỏ Đạo thánh!

Cha Triêm đau thắt lòng. Qua những lời nói đứt quãng, chen lẫn tiếng khóc ức nghẹn, Cha đoán được rằng, đây là Phaolô Bột, bạn của Gioan Pháp, bào đệ của Cha. Cả hai đã ra đấu trường, nhưng Pháp đã chiến thắng còn Bột thì bại trận. Cha Triêm nói:
– Con thật tội nghiệp, từ đó đến nay con đã làm gì?

Phaolô Bột lần lượt kể lại cho Cha Triêm nghe. Kể xong, chú nài nỉ xin Cha dẫn đến gặp Đức Cha để xin ơn tha thứ và để chuộc lại lỗi lầm. Nhưng Cha Triêm giải thích rằng, trong thời buổi khó khăn, chỉ cần xưng tội với bất cứ Linh Mục nào cũng được.

Vài tuần sau, Cha Triêm nhận được thư Phaolô Bột bày tỏ ước muốn, nếu được phép, chú sẽ trở lại Nam Định, gặp quan lớn để tuyên xưng Đức Tin. Cha Triêm trả lời tức khắc và nói rằng, nếu chú muốn, thì đây là một hành động can đảm, đáng khuyến khích, vì chắc chắn nó làm đẹp lòng Chúa và vinh danh Giáo Hội. Nhận được thư, Phaolô Bột liền giã biệt mẹ hiền:
– Thưa mẹ, con đã hèn nhát chối bỏ Đạo Chúa và hành động phản Đạo này đã làm mẹ rất đau lòng. Con xin mẹ tha lỗi cho con, như con đã xin Chúa tha tội. Con đã đền tội, nhưng hôm nay con muốn chuộc lại lỗi lầm, bằng cách trở lại tỉnh, đến trước quan lớn để rút lại hành động mà quan lớn đã đánh lừa con làm. Con chào mẹ và xin mẹ cho phép con đi.

Thưa xong, Phaolô Bột cúi mình sát đất, xá mẹ bốn lần. Người mẹ anh dũng cất tiếng nói:
– Con ạ, con hãy ra đi bằng an và làm những gì con vừa nói. Đã từ lâu, mẹ dâng con cho Chúa để con trở thành Linh Mục của Ngài. Con đã thuộc về Chúa. Nguyện xin THIÊN CHÚA che chở con luôn mãi.

Ngày hôm sau tại Nam Định, tổng đốc Nguyễn Đình Hưng vừa ra ngồi tòa xử, người ta bỗng trông thấy một thiếu niên vội vã đến trước mặt quan lớn và nói:
– Thưa quan, con là chủng sinh Bột. Cách đây mấy tháng, con đã phản Đạo vì quan đã lừa dối con, bằng cách cho lính khiêng con qua hình Thánh Giá, nhưng con không chấp nhận hành động này nữa nên con không muốn giữ nó. Hôm nay con đến đây để công khai phủ nhận nó trước mặt quan lớn và tuyên xưng Đức Tin của con ..

Bị quấy rối bất ngờ, quan nỗi giận truyền đuổi chú Bột ra khỏi tòa, nhưng chú khăng khăng trở lại trước mặt quan lớn và lập lại những lời vừa nói. Nổi giận, quan truyền đánh đòn chú Bột. Trong cơn đau đớn, chú luôn miệng la lớn:
– Hành động phản Đạo không phải của con, nó là của quan lớn nên hôm nay con đem trả lại quan lớn.

Cuối cùng, tức giận vì không thể nào làm cho chú Bột im tiếng, quan truyền ném Phaolô Bột cho voi chà.. Khi vị tử đạo trẻ tuổi bị cột cứng hai tay hai chân và bị đặt nằm dài dưới đất trong chuồng voi, các con voi khổng lồ tiến lại từ từ. Thông thường, chúng rất hung hăng dữ tợn, nhưng trước mặt Phaolô Bột, đàn voi xem chừng như kính trọng chú, không dám tiến lại gần. Chúng đứng im nhìn chú. Trong khi đó, Phaolô Bột luôn thầm thĩ nguyện xin THIÊN CHÚA trợ giúp, hoặc lập lại câu nói:
– Hành động phản Đạo không phải của con, nó là của quan lớn nên hôm nay con đem trả lại quan lớn.

Sau cùng, không thể nhẫn nhục chờ đợi thêm được nữa, người ta đã xông vào thúc mạnh đàn voi. Một con trong đàn, tiến lại gần, giơ cái cẳng khổng lồ đạp mạnh trên ngực Phaolô Bột. Một lời kinh, một tiếng kêu sau cùng.

Xương gãy, máu trào ra. Phaolô Bột trút hơi thở cuối cùng. Hôm ấy là ngày 14-9-1858, lễ Tôn Vinh Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ.

Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam hãnh diện ghi thêm vào danh sách tử đạo – PHAOLÔ BỘT – Chủng Sinh thống hối và chuộc tội bằng cái chết anh hùng, để nêu gương cho hậu thế.

(”L'héroisme dans le Repentir. PAUL BỘT: Jeune Martyr Tonkinois”, par l'Abbé Gustave Monteuuis, Librairie Saint-Paul, Paris, 1905).

… Cách đây 25 năm, Chúa Nhật 19-6-1988, trong bối cảnh Năm Thánh Mẫu, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) đã long trọng nâng 117 Anh Hùng Tử Đạo Việt-Nam lên hàng hiển thánh. Thánh Lễ diễn ra tại quảng trường Thánh Phêrô. Cũng trong dịp này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ấn định Lễ Kính hàng năm của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ngày 24-11. 24-11 cũng là ngày ghi dấu thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Đúng vậy. Ngày 24-11-1960 Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1963) ban sắc lệnh thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Các giáo phận hiệu-tòa trở thành chính-tòa với 3 Tòa Tổng Giám Mục ở Hà Nội, Huế và Sài-Gòn.

Tổng Giám Mục tiên khởi của Hà NộiĐức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê (1898-1978) của Huế Đức Cha Phêrô Martinô Ngô Đình Thục (1897-1984) và của Sài GònĐức Cha Phaolô Nguyễn Văn Bình (1910-1995). Cùng lúc, Đức Thánh Cha Gioan XXIII cũng thành lập 3 giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên.

Trong sách nhỏ – phân phát vào dịp Lễ Phong Thánh 19-6-1988 – ghi như sau:

LỄ TRỌNG
Do Đức Thánh Cha GIOAN PHAOLÔ II
chủ sự để tôn phong lên bậc Hiển-Thánh
Các Chân Phước
ANRÊ DŨNG-LẠC, Linh-mục
TÔMA THIỆN và EMMANUELE PHỤNG,
Giáo-dân
GIRÔLAMÔ HERMOSILLA
và VALENTINÔ BERRIÔ-OCHOA,
hai Giám-mục OP
và 6 Giám-mục khác
TÊÔPHAN VÉNARD,
Linh-mục Hội Thừa-sai Paris

và 105 Bạn Tử-Đạo Việt-Nam

Quảng-trường Thánh Phêrô, Vaticanô
19-6-1988

GIÁO HỘI VIỆT-NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI

Công cuộc rao giảng Tin Mừng, khởi sự vào đầu thế kỷ thứ 16 tại hai địa phận đầu tiên ở miền Bắc (Đàng Ngoài) và miền Nam (Đàng Trong) được thiết lập vào năm 1659, qua các thế kỷ, đã biểu lộ sức phát triển lạ lùng, nhờ đó ngày nay có được 26 địa phận (10 ở miền Bắc và 15 ở miền Nam). Hàng Giáo Phẩm đã được thành lập (ngày 24 tháng 11 năm 1960), và trong toàn lãnh thổ Việt-Nam hiện nay có tới 6 triệu người Công Giáo.

Kết quả này có được là nhờ hạt giống đức tin, ngay từ những năm đầu tiên, đã hòa trộn với máu đào lai láng của các vị tử đạo đổ xuống trên mảnh đất Việt-Nam, của các giáo sĩ ngoại quốc, giáo sĩ bản xứ và của giáo dân Việt-Nam. Tất cả đã cùng chấp nhận những lao nhọc do việc tông đồ, đồng thời đã cùng sát cánh đương đầu với cái chết để làm chứng cho chân lý Phúc Âm. Lịch sử Giáo hội Việt-Nam đã ghi nhận 53 sắc lệnh do các Chúa Trịnh và Nguyễn, hay do các Vua hạ bút ký, trong hơn hai thế kỷ, và suốt 261 năm (1625-1886), ra chỉ thị chống lại người Kitô giáo bằng những cuộc bách hại gắt gao cứ mỗi lần thêm dữ dội. Có tới khoảng 130.000 người đã ngã gục khắp nơi trong lãnh thổ Việt-Nam.

Người ta có thể nói rằng trong các thế kỷ trước đây những vị chết vì Đức tin này đã bị chôn vùi một cách lặng lẻ như là cùng nằm trong một ”Ngôi mộ của chiến sĩ vô danh”; tuy nhiên niềm thương nhớ các Ngài vẫn còn sống động trong lòng người Việt-Nam.

Từ đầu thế kỷ 20, có 117 vị trong số các anh hùng trên đây, là những người được coi là đã chịu đựng các thử thách lớn lao hơn, đã được chọn và được Tòa Thánh tôn lên bậc Chân Phước:

– Năm 1900 thời Đức Giáo Hoàng Lêô XIII: 64 vị
– Năm 1906 thời thánh Giáo Hoàng Piô X: 8 vị
– Năm 1909 thời thánh Giáo Hoàng Piô X: 20 vị
– Năm 1951 thời Đức Giáo Hoàng Piô XII: 25 vị

Các vị này được xếp theo các quốc gia như sau:

* 11 vị người Tây-Ban-Nha: tất cả thuộc dòng thánh Đaminh. Gồm 6 Giám Mục và 5 Linh Mục.
* 10 vị người Pháp: tất cả thuộc Hội Thừa Sai Paris. Gồm 2 Giám Mục và 8 Linh Mục.
* 96 vị là người Việt-Nam: Gồm 36 Linh Mục (trong số đó có 11 Linh Mục dòng thánh Đaminh), và 59 tín hữu (trong đó có một chủng sinh, 16 thầy giảng và một phụ nữ).

Các vị này là ”những người đến từ cơn thử thách lớn lao: họ đã giặt áo của họ và giủ sạch trong trắng trong máu Con Chiên” (Khải Huyền 7,13-14). Cuộc tử đạo của các Ngài được xếp theo niên biểu sau đây:
– 2 vị tử đạo dưới thời Chúa Trịnh-Doanh (1740-1767)
– 2 vị tử đạo dưới thời Chúa Trịnh-Sâm (1767-1782)
– 2 vị tử đạo dưới thời Vua Cảnh-Thịnh (1792-1802)
– 58 vị tử đạo dưới thời Vua Minh-Mạng (1820-1840)
– 3 vị tử đạo dưới thời vua Thiệu-Trị (1840-1847)
– 50 vị tử đạo dưới thời Vua Tự-Đức (1847-1883).

Tại pháp trường án lệnh của nhà vua đặt bên mỗi vị, có ghi rõ hình thức mỗi bản án như sau:

* 75 vị bị xử chém đầu;
* 22 vị bị xử bằng thừng thắt cổ;
* 6 vị bị thiêu sống;
* 5 vị bị phân thây từng mảnh;
* 9 vị bị tra tấn và chết rũ tù.

KINH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lạy Chúa là CHA Chí Nhân,
chúng con hân hoan ghi nhớ các ân huệ
Chúa đã ban cho dân tộc Việt Nam.

Nhờ lời rao giảng của Giáo Hội
Cha Ông chúng con đã đón nhận Tin Mừng cứu rỗi.
Các Ngài đã vững tin vào Chúa,
là Đấng tạo thành trời đất,
và Chúa Kitô Đấng Cứu Thế được sai đến trần gian.

Trong cơn gian lao thử thách,
Chúa đã ban cho Các Ngài sức mạnh của Thánh Linh
để Các Ngài can đảm tuyên xưng Đức Tin,
và hiên ngang hy sinh mạng sống,
để làm vinh quang Thập Giá Chúa Kitô.

Các Thánh Tử Đạo là ân huệ
Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam.
Vì thế chúng con dâng lời cảm tạ và ca tụng Chúa,
hợp với cuộc hy sinh tử đạo
của các tiền nhân anh dũng chúng con.

Xin dâng lên Chúa lời cảm tạ,
để biểu lộ tình con thảo với Chúa là CHA,
bằng chứng từ đức tin sống động của chúng con.

Vì công nghiệp của Các Thánh Tử Đạo
xin ban cho dân Việt Nam chúng con,
được an vui và thịnh vượng,
cho mọi người đón nhận Tin Mừng cứu rỗi,
và bước theo con đường chân lý.

Xin cho Giáo Hội Việt Nam,
được sống trong hòa thuận và hiệp nhất,
luôn thông hảo trọn vẹn với Đấng kế vị Thánh Phêrô,
và hăng say lo việc tông đồ,
nhiệt thành rao giảng Đức Kitô cho mọi người.

Xin cho chúng con
được trung thành với Chúa ở trần gian
để ngày sau về hưởng vinh quang bất diệt
cùng Các Thánh Tử Đạo chúng con ở trên trời. Amen.

(Domenica 19 Giugno 1988 – Piazza San Pietro, Anno Mariano, Tipografia Poliglotta Vaticana, trang 106-110).

CHÂN PHÚC ANRÊ PHÚ YÊN: HÃY LẤY TÌNH YÊU ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH YÊU

Chúa Nhật 5-3-2000, trong khung cảnh Đại Năm Thánh 2000, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Thầy Giảng Anrê Phú Yên lên hàng Á Thánh. Trong tập sách nhỏ về nghi thức tôn phong chân phước được phân phát dịp này có phần Việt ngữ sơ lược tiểu sử vị Tôi Tớ Chúa tử vì đạo như sau.

THẦY GIẢNG ANRÊ,
VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM

Thầy Giảng Anrê, gốc tỉnh RanRan (Phú Yên), là con út của một phụ nữ tên thánh là Gioanna. Tuy góa bụa nhưng bà đã giáo dục con cái với tất cả lòng tận tụy và khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng tư chất rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện. Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Đắc Lộ, vị Linh Mục thừa sai dòng Tên nổi tiếng, đã nhận cậu Anrê vào số các môn sinh của ngài. Anrê chăm chỉ học chữ Nho và chẳng bao lâu trổi vượt các bạn đồng môn.

Anrê được lãnh nhận bí tích Rửa Tội cùng với mẹ ba năm trước khi bà qua đời, tức là năm 1641, khi Anrê được 15 tuổi. Anrê sinh năm 1625 hay 1626, không rõ ngày tháng, và lúc chịu chết năm 1644, Thầy trạc độ 19 hay 20 tuổi.

Một năm sau khi chịu phép Rửa Tội, tức năm 1642, Anrê được cha Đắc Lộ nhận vào nhóm cộng sự viên thân tín của ngài, và sau một năm huấn luyện thêm về tôn giáo và văn hóa, Anrê được gia nhập Hội Thầy Giảng gọi là ”Nhà Đức Chúa Trời” mà Cha Đắc Lộ đã khôn ngoan thành lập: các thành viên Nhà Đức Chúa Trời cam kết, bằng lời hứa chính thức và công khai, suốt đời phụng sự Giáo Hội trong việc giúp các linh mục và truyền bá Tin Mừng.

Lòng hăng say của Thầy Anrê sống trọn điều quyết tâm khi chịu phép Rửa đã chuẩn bị cho Thầy can đảm đương đầu với cuộc tử đạo và ngoan ngoãn đón nhận ơn tử đạo Thiên Chúa rộng ban cho Thầy.

Trước cuối tháng 7 năm 1644, quan Nghè Bộ trở lại tỉnh nơi Thầy Giảng Anrê sinh sống. Quan mang theo sắc lệnh của chúa Nguyễn cấm truyền bá Đạo Kitô trong nước: vì thế quan quyết định hành động trước tiên chống lại các thầy giảng.

Cha Đắc Lộ không hề hay biết ý định này của quan, nên tới thăm quan vì xã giao, nhưng ngay sau đó cha được biết chúa Nguyễn rất giận dữ khi thấy vì cha mà có đông người dân bản xứ theo Đạo Kitô. Vì thế cha phải bỏ xứ Đàng Trong để trở về Macao và không được phép dạy giáo lý cho dân nữa. Còn các tín hữu theo đạo thì bị trừng phạt rất nặng nề.

Rời dinh quan Nghè Bộ, cha Đắc Lộ đi thẳng xuống nhà tù nơi giam giữ một Ông Trùm, cũng tên Anrê, đã 73 tuổi, mới bị bắt hai ngày trước đó. Trong khi ấy, quan ra lệnh cho lính tới nhà cha lùng bắt một thầy giảng khác tên là Ignatio. Nhưng thầy Ignatio đã đi làm việc tông đồ. Lính chỉ tìm thấy Thầy Giảng Anrê. Để khỏi trở về dinh quan Bộ tay không, lính đánh đập Thầy Anrê, trói Thầy lại, rồi giải xuống thuyền đem về dinh quan trấn thủ. Chiều ngày 25 tháng 7 năm 1644, Thầy được dẫn tới trước mặt quan. Lính thưa với quan rằng họ không tìm thấy thầy Ignatio, nhưng đã bắt được một ”thầy giảng khác giống như vậy, vì suốt cuộc hành trình, anh ta luôn nói về Đạo Kitô và khuyến khích họ theo Đạo”.

Nghe vậy quan tìm mọi cách làm cho Thầy Anrê ”từ bỏ cái đạo điên rồ đó và bỏ lòng tin”.

”Nhưng thanh niên can trường ấy trả lời quan rằng mình là Kitô hữu, và rất sẵn sàng chịu mọi khổ hình chứ không từ bỏ Đạo mình tuyên xưng: vậy xin quan cứ tùy ý chuẩn bị các hình cụ, chàng vui lòng đón nhận, với xác tín rằng, vì đức tin, càng chịu khổ đau chừng nào thì càng chết vinh quang chừng ấy”.

Tức giận vì sự bất khuất của Thầy Anrê không hề sợ hãi trước những lời đe dọa, quan truyền đóng gông và giải Thầy vào ngục, cùng nơi giam giữ Ông Trùm Anrê.

Cha Đắc Lộ và một vài thương gia Bồ Đào Nha tới thăm hai thầy: Thầy Giảng Anrê thanh thản và vui mừng vì được chịu khổ đau vì Chúa Kitô đến độ những người đến thăm Thầy bịn rịn không rời Thầy được, và nước mắt tràn bờ mi, họ xin Thầy nhớ đến họ trong lời cầu nguyện. Thấy vậy, Thầy tự nhạo cười mình và xin họ cầu nguyện cho Thầy, để Chúa ban cho Thầy ơn trung thành với Chúa cho đến chết, ”dâng hiến mạng sống trong tình yêu trọn vẹn, hầu đáp trả tình yêu thương vô biên của Chúa, Đấng đã hiến mạng sống vì loài người .. Những lời Thầy luôn lập lại cho đến khi trút hơi thở cuối cùng là: Chúng ta hãy lấy tình yêu để đáp lại Tình Yêu của Chúa chúng ta, hãy lấy mạng sống đáp lại mạng sống”.

Sáng hôm sau, 26 tháng 7 năm 1644, hai tín hữu Kitô cùng tên Anrê, Ông Trùm Anrê 73 tuổi và Thầy Giảng Anrê, cổ mang gông, bị dẫn qua các đường phố đông người qua lại nhất trong thành, băng qua chợ Kẻ Chàm, đến dinh quan trấn thủ để bị tra hỏi công khai. Quan trấn triệu tập một vài quan khác, lôi kéo họ về phía mình và tuyên án tử cho Thầy Giảng Anrê, rồi ra lệnh dẫn Thầy về ngục thất. Còn Ông Trùm Anrê thì được tha vì lý do tuổi tác, nhờ lời xin của cha Đắc Lộ và các thương gia Bồ Đào Nha.

Vào khoảng 5 giờ chiều, một viên chỉ huy cùng với 30 người lính vào nhà tù, nơi vị Tôi Tớ Chúa bị giam giữ, và ra lệnh cho Thầy phải đi theo tới nơi hành quyết. Thầy Anrê cảm tạ Chúa vì giờ hiến tế đã tới, và sau khi chào mọi người hiện diện trong tù, Thầy nhanh nhẹn bước đi. Quân lính vây chặt chung quanh và dẫn Thầy Anrê đi qua các đường phố ở Kẻ Chàm, tới một cánh đồng ngoài thành. Cha Đắc Lộ, nhiều Kitô hữu Bồ Đào Nha và Việt Nam cũng như nhiều người lương đã đi theo và chứng kiến cuộc xử tử vị Tôi Tớ Chúa.

Theo thói quen tại đây, cha Đắc Lộ xin và được phép trải một tấm chiếu dưới người Thầy Anrê để hứng lấy máu Thầy, nhưng Thầy không muốn nhận điều ấy. Thầy muốn máu mình rơi xuống đất, như trường hợp Máu Cực Trọng Chúa Kitô đã đổ ra. Trong khi đó, Thầy Anrê nhắn nhủ các Kitô hữu hiện diện hãy luôn kiên vững trong Đức Tin, đừng buồn phiền vì cái chết của Thầy, và hãy giúp lời cầu cho Thầy được trung thành tới cùng.

Cuộc hành quyết Thầy Giảng Anrê được thi hành bằng mấy nhát lao đâm thấu cạnh sườn bên trái, và sau cùng khi một người lính sắp dùng đao chém đầu, Thầy lớn tiếng kêu lên ”GIÊSU”.

Cho tới hơi thở cuối cùng, Thầy Giảng Anrê đã chứng tỏ lòng kiên trung trong việc chấp nhận dâng hiến tế cuộc sống vì lòng tin yêu Chúa Kitô.

LỜI NGUYỆN LỄ KÍNH CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN

Lạy Chúa là THIÊN CHÚA chúng con,
để đáp lại ơn thánh Chúa, Chân Phước tử đạo Anrê,
người thanh niên trung thành cho tới chết,
đã dâng hiến tình yêu đáp lại Tình Yêu Đức Chúa KITÔ.
Nhờ lời chuyển cầu của Người, xin cho tình yêu
đối với Đức Chúa GIÊSU KITÔ và với tha nhân
luôn được kiện toàn nơi mỗi người chúng con.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức GIÊSU KITÔ,
Chúa chúng con. Amen.

(BEATIFICAZIONE, Piazza San Pietro, 5 Marzo 2000, Ufficio delle Celebrazioni Liturgiche del Sommo Pontefice, trang 83-86).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chúa Kitô Vua Tình Yêu

Chúa Kitô Vua Tình Yêu

Giáo hội Kitô giáo luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.

Lễ Chúa Kitô Vua chỉ mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi. Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố thể hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trong vinh quang. “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Ta”. Đó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các Tông Đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù hợp hơn cả. Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?

Năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với Ngài. Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử. Kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích tột cùng là Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang. Trong viễn cảnh này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Ngài đã nhập thể làm người trong một lịch sử dân tộc, cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người, và kể từ giây phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan rộng, cho đến mức thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất cả về cùng Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu Kitô là Vua không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà hơn nữa vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động. Nhưng trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm đoạt bằng sức mạnh bạo lực. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chúa Giêsu Kitô là vua khi Người bị treo lên thập giá. Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: “Đây là Vua dân Do Thái”. Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa Giêsu Kitô là Vua. Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời: hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.

Truyện cổ tích Ai-len có kể lại một nhà vua không có con nối dòng. Muốn đi tìm hoàng tử để truyền ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất. Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em xung quanh, nhưng những bằng chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua. Cuối cùng, có một chàng thanh niên đến trình diện với một bộ đồ cũ rách. Chàng thanh niên này được nhận. Chàng không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:

Số là vì nhà vua đã cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của mình. Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua. Tình yêu nằm trong con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.

Quí vị và các bạn thân mến,

Chúa Giêsu đã chứng tỏ tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá. Ngài đáng làm vua nêu gương cho chúng ta sống theo Ngài. Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.

Đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa. Anh ta đã khám phá ra tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình. Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này. “Lạy Chúa, khi nào về Nước Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng”.

Chúa Giêsu đã mạc khải vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy sinh chính mình. Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin nhận Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.

Xưa cũng như nay, luôn có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của Chúa Kitô: Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để trả thù, để thống trị, để hưởng lợi. Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng thập giá để bêu xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ Thiên Chúa dùng để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự. Chúa Giêsu Kitô là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp nơi tình yêu thương đó.

Lạy Chúa Kitô Vua, trước sự xấu xa và ngoan cố của con người. Xin cho chúng con được can đảm bước vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi qua. Amen.

Veritas  Radio Asia

Vương quốc Đức Kitô

Vương quốc Đức Kitô

Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.

Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa Giêsu đã cho biết: “Nước tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô.

Đó là Vương quốc của lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai. Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa Cha: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời.

Đó là Vương quốc của sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ trói buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người khỏi ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do. Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối đầu” (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn” (Mt 4,3). “Nếu Ông là Đức Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do, Người đã đi vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con người.

Đó là Vương quốc của tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.

Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.

Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.

Lạy Chúa Giêsu là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đã bao giờ bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng, lạc thú chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?

2) Hình ảnh về Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong bạn tâm tình nào?

3) Tuần này bạn sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh?

ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt

VỊ VUA TRÊN THẬP GIÁ

VỊ VUA TRÊN THẬP GIÁ

Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: “ Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Người trộm bên hữu đã nhận ra vị vua tình yêu, nên anh đã xin với Ngài nhớ đến anh khi vào vương quốc của Ngài.Anh đã tuyên xưng vị vua tình yêu chiến thắng.Tình yêu đã chiến thắng mọi trở ngại: từ những lời thách thức của những người đòi một vị vua uy quyền đến cái chết khổ đau. Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết : “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã giao hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).

Trong tất cả những gì đã viết về Chúa Kitô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gioan ở lời tựa sách Tin Mừng: “Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận” (Ga 1,11). Bêlem không có chỗ cho Ngài sinh hạ, Nadarét không có chỗ cho Ngài sinh sống, Giêrusalem không có chỗ cho Ngài chết.

Bốn mươi ngày sau khi Ngài sinh hạ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ Maria : “Ngài sẽ là dấu gợi lên chống đối”(Lc 2,34). Đó là một kiểu nói khác chứng thực điều Thánh Gioan đã nói. Chưa được hai tuổi, Ngài đã bị binh lính Hêrôđê lùng sục để sát hại. Suốt những năm tháng rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị kết án loại trừ và bị đóng đinh khổ giá.

Chúa Giêsu Kitô đã chọn Thập giá làm phương thế thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự hận thù ghen ghét của thế gian; thanh đứng tượng trưng cho tình yêu và sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết; giữa vui và buồn; cười và khóc; hận thù và thứ tha; ghen ghét và yêu thương; giữa ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa. Đặt thanh sự sống và tình yêu lên thanh sự chết và oán thù là cách duy nhất để làm nên một thập giá.

Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Vì vậy Giáo hội đã chọn bài Tin Mừng Đức Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá giữa hai người trộm cướp cho ngày lễ hôm nay.

Nói đến vua, chúng ta thường nghĩ đến con người uy quyền, đầu đội vương miện, mình mặc cẩm bào, ngồi trên ngai vàng xét xử trăm họ.Ngày nay, người ta còn nói đến vua xe hơi, vua bóng đá, vua dầu lửa, vua vi tính… Đó là những thần tượng giàu có, sang trọng của con người thời đại. Chúa Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, vương quyền của Ngài không theo kiểu chính trị. Chúa Giêsu là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.

Bài Tin Mừng đưa chúng ta về với Chúa Giêsu trên Thập giá.Vị Vua bị lăng nhục, các thủ lãnh thế gian cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng tranh thủ nhục mạ. Những lời chế diễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt. Chẳng lúc nào Chúa làm Vua rõ ràng bằng lúc này. Tấm bảng trên Thập giá ghi bằng tiếng Hípri, Latinh và Hylạp chữ INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua dân Do Thái.

Nhưng kiểu làm Vua của Ngài thật khác thường : không có vương miện mà chỉ có vòng gai, không có cẩm bào mà chỉ có trần trụi nhơ nhuốc, không có câu tán tụng mà chỉ có lời nhạo báng khinh chê. Bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc rất ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Satan buổi đầu: “Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình.Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40). Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới lãnh đạo đến những người chưa tin.Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được một thành công rực rỡ. Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi Thập giá. Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con của Chúa Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi Thập giá, như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.

Đức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.

Mừng Lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, người Kitô hữu muốn khước từ những thần tượng trần thế, muốn để Ngài làm vua của lòng mình.Người Kitô hữu muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực của cuộc sống: văn chương, khoa học nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội …để xây đắp hoà bình và tình thương cho trần thế.

Vương quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.

Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố : “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.

Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II : “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.

Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành : “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.

Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? “Xin nhớ đến con”, chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống mình.

Lạy Chúa Giêsu, Vua Tình yêu, Chúa đã yêu thế giới đến nỗi đã ban chính sự sống mình, xin Chúa chiếm trọn con người chúng con từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, để chúng con không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương quyền của Chúa, là vương quyền của sự sống và chân lý, của ân sủng và thánh thiện, của công lý và hoà bình. Amen.


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta qua các linh mục

Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta qua các linh mục

Chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ cho chúng ta; qua chức thừa tác của linh mục Thiên Chúa lại ôm chúng ta trong vòng tay, tái sinh chúng ta và cho phép chúng ta đứng dậy và tiếp tục lộ trình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 20-11-2013 tại quảng trường thánh Phêrô, trong đó có rất nhiều người trẻ. Họ không ngớt reo hò và réo gọi Đức Thánh Cha. Khi Đức Thánh Cha quay qua một bên hơi lâu một chút, thì tín hữu phía bên kia lại réo gọi. Cũng như mọi lần đã có hàng chục trẻ em được các cận vệ bế đưa lên cho Đức Thánh Cha hôn và xoa đầu các em. Đức Thánh Cha đã chào thăm, hôn, vuốt ve an ủi hàng trăm bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi ngồi trên xe lăn.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha tiếp tục khai triển đề tài tha tội, nhưng liên quan tới ”quyền trao chìa khóa”, là biểu tượng kinh thánh Chúa Kitô đã ban cho các Tông Đồ.

Điều cần nhớ trước tiên đó là Chúa Thánh Thần là Tác Nhân của ơn tha tội. Người là nhân vật chính! Trong lần hiện ra đầu tiên với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly, Chúa Giêsu phục sinh đã thổi hơi trên các ông và nói: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần; các con tha tội cho ai thì người đó sẽ được tha, các con không tha tội cho ai, thì tội sẽ không được tha” (Ga 20,22-23). Đức Thánh Cha giải thích quyền này như sau:

Chúa Giêsu được biến hình trong thân xác Người, từ nay là người mới, cống hiến các ơn phục sinh, hoa trái cái chết và sự phục sinh của Người: và các ơn này là gì? Là hòa bình, niềm vui, ơn tha tội, sứ mệnh truyền giáo và nhất là ơn Thánh Thần, Đấng là suối nguồn của tất cả những điều đó. Tất cả các ơn này đến từ Chúa Thánh Thần. Hơi thở của Chúa Giêsu, được đi kèm bởi các lời, qua đó Người thông truyền Thần Khí, ám chỉ việc thông truyền sự sống, sự sống mới được tái sinh bởi ơn tha tội.

Nhưng trước khi làm cử chỉ thở hơi và trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu cho thấy các vết thương trên tay và cạnh sườn Người: các vết thương ấy diễn tả giá của ơn cứu chuộc chúng ta. Chúa Thánh Thần đem đến cho chúng ta ơn tha tội của Thiên Chúa, qua các vết thương của Chúa Giêsu. Các vết thương này mà Người đã muốn duy trì.

Cả trong lúc này nữa, trên trời, Ngài cho Thiên Chúa Cha trông thấy các vết thương qua đó Ngài đã cứu chuộc chúng ta. Và nhờ sức mạnh của các vết thương ấy các tội lỗi của chúng ta được tha thứ. Như vậy Chúa Giêsu đã trao ban sự sống của Người cho sự bình an và niềm vui của chúng ta, cho ơn thánh trong linh hồn, cho ơn tha tội của chúng ta. Và thật là rất đẹp khi nhìn Chúa Giêsu như vậy.

Yếu tố thứ hai là Chúa Giêsu cho các Tông Đồ quyền tha tội. Nhưng mà điều này xảy ra làm sao? Bởi vì thật hơi khó hiểu: làm thế nào một người có thể tha tội. Chúa Giêsu ban quyền. Giáo Hội là nơi gìn giữ quyền chìa khóa tha tội, có thể mở và đóng, tha tội. Thiên Chúa tha tội cho mọi người trong lòng thương xót cao cả của Ngài, nhưng chính Ngài đã muốn rằng những kẻ thuộc về Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài, nhận ơn tha tội qua các thừa tác viên của Cộng đoàn. Qua chức thừa tác tông đồ, lòng xót thương của Thiên Chúa đến với tôi, các tội lỗi của tôi được tha, và niềm vui được ban cho tôi.

Trong cách thế đó Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống sự hòa giải cả trong chiều kích giáo hội, cộng đoàn nữa. Và điều này thật là đẹp! Giáo Hội là thánh nhưng đồng thời cần sám hối, đồng hành với con đường hoán cải của chúng ta trong suốt cuộc sống. Giáo Hội không phải là chủ của quyền tha tội, nhưng dùng chức thừa tác của lòng thương xót và vui mừng vì tất cả những lần có thể cống hiến ơn này của Thiên Chúa.

Rồi Đức Thánh Cha đề cập tới lý do khiến cho nhiều người không hiểu chiều kích giáo hội của ơn tha tội và nói:

Có lẽ biết bao nhiêu người ngày nay không hiểu chiều kích giáo hội của ơn tha tội, bởi vì chủ thuyết cá nhân, khuynh hướng chủ quan luôn thống trị, và kitô hữu chúng ta cũng cảm thấy điều đó. Dĩ nhiên Thiên Chúa tha thứ cho mọi kẻ có tội thống hối một cách cá nhân, nhưng kitô hữu được gắn liền với Chúa Kitô, và Chúa Kitô hiệp nhất với Giáo Hội. Đối với kitô hữu chúng ta, có một ơn hơn nữa và cũng có một dấn thân hơn nữa: một cách khiêm tốn nó đi qua chức thừa tác của Giáo Hội. Chúng ta phải đánh giá cao nó! Nó là một ơn và cũng là sự chữa trị, một che chở và cũng là an ninh mà Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi. Tôi tới với người anh em linh mục và nói: ”Thưa Cha, con đã làm điều này…” ”Nhưng tôi tha tội cho bạn: chính Thiên Chúa tha tội, và tôi xác tín trong lúc đó rằng Thiên Chúa đã tha cho tôi.” Đây là điều thật đẹp! Đó là có được sự chắc chắn mà chúng ta luôn luôn nói: ”Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Ngài tha thứ không mệt mỏi!”

Chúng ta phải không mệt mỏi đến xin tha thứ. ”Nhưng thưa Cha, con xấu hổ đi nói tội của con…” Nhưng coi đây, các bà mẹ của chúng ta, các phụ nữ nói rằng đỏ mặt một lần thì tốt hơn là vàng mặt một ngàn lần”. Bạn đỏ mặt một lần, Người tha tội cho bạn, và hãy tiến lên.

Điểm thứ ba, linh mục là dụng cụ của ơn tha tội. Sự tha thứ của Thiên Chúa được ban cho chúng ta trong Giáo Hội, nó được ban cho chúng ta qua chức thừa tác của một người anh em là linh mục; cả linh mục cũng là một người cần đến lòng thương xót như chúng ta, và thực sự trở thành dụng cụ của lòng thương xót, bằng cách trao ban cho chúng ta tình yêu vô hạn của Thiên Chúa.

Cả các linh mục cũng phải xưng tội, cả các Giám Mục nữa: tất cả chúng ta đều là kẻ có tội. Cả Giáo Hoàng cũng xưng tội hai tuần một lần, bởi vì Giáo Hoàng cũng là tội nhân! Và Cha giải tội nghe những điều tôi nói và khuyên nhủ tôi và tha thứ cho tôi, bởi vì chúng ta tất cả đều cần sự tha thứ này.

Đôi khi xảy ra là chúng ta nghe có người cho rằng họ xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa… Đúng, như tôi đã nói, Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe bạn, nhưng trong bí tích Hòa Giải Ngài gửi một người anh em đem ơn tha tội đến cho bạn, nhân danh Giáo Hội.

Đức Thánh Cha nêu bật các thái độ mà linh mục giải tội phải có như sau:

Sự phục vụ mà linh mục cống hiến như thừa tác viên, từ phía Thiên Chúa để tha tội rất tế nhị. Đó là một phục vụ rất tế nhị, và nó đòi hỏi vị linh mục phải có sự bình an trong tim; không xử tệ với các tín hữu, nhưng khiêm tốn, nhân từ, và thương xót; biết gieo vãi hy vọng trong các con tim và nhất là ý thức rằng người anh chị em đến với bí tích Hòa Giải tìm ơn tha thứ, và họ làm điều đó như biết bao người đã tới gần Chúa Giêsu để Ngài chữa lành họ. Vị linh mục không có năng khiếu tinh thần này, thì tốt hơn là không nên ban bí tích này, cho tới khi nào linh mục ấy sửa mình. Các tín hữu có bổn phận? Không, họ có quyền! Chúng ta có quyền, tất cả mọi tín hữu có quyền tìm thấy nơi các linh mục các người phục vụ ơn tha tội của Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến, như là chi thể của Giáo Hội – tôi xin hỏi – chúng ta có ý thức được vẻ đẹp của ơn mà chính Thiên Chúa cống hiến cho chúng ta hay không? Chúng ta có cảm thấy niềm vui của sự chữa lành này, của sự chú ý hiền mẫu mà Giáo Hội có đối với chúng ta hay không? Chúng ta có biết đánh giá cao sự chú ý đó với lòng đơn sơ hay không? Chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ cho chúng ta; qua chức thừa tác của linh mục Thiên Chúa lại ôm chúng ta trong vòng tay, tái sinh chúng ta và cho phép chúng ta đứng dậy và tiếp tục lộ trình.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau và cầu chúc mọi người có những ngày hành hương Roma tươi vui, bổ ích, giúp trung thành đi theo Chúa.

Ngỏ lời với nhóm các linh mục tuyên úy Ba Lan đặc trách mục vụ cho các người di cư Ba Lan đó đây trên thế giới, Đức Thánh Cha khích lệ các vị nhiệt thành đáp ứng các nhu cầu của họ và phát triển cuộc sống thiêng liêng cho họ. Vì di cư, bởi bất cứ lý do gì, cũng bao gồm các lo âu, vấn đề và nguy hiểm, vì người di cư bị bẻ gẫy với các nguồn gốc lịch sử văn hóa và cả gia đình nữa. Do đó, các linh mục tuyên úy phải giúp họ duy trì đức tin và là chứng nhân trong các xã hội họ sinh sống.

Chào các bạn trẻ người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết tháng 11 là tháng kính các đẳng linh hồn. Ngài khuyên mọi người cầu nguyện nhiều cho những người thân yêu và ân nhân đã qua đời, cách trợ giúp tinh thần tốt nhất là xin lễ cầu nguyện cho họ, đặc biệt là những người bị quên lãng nhất.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cảnh giác chống tiên tri giả và kêu gọi cầu nguyện cho các Kitô hữu bị bách hại

Đức Thánh Cha cảnh giác chống tiên tri giả và kêu gọi cầu nguyện cho các Kitô hữu bị bách hại

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 17 tháng 11-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC cảnh giác các tín hữu đối với các tiên tri giả và kêu gọi cầu nguyện cho các Kitô hữu bị bách hại.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã diễn giải bài Tin Mừng chúa nhật thứ 33 thường niên năm C hôm qua về ngày tận thế, với lời Chúa cảnh giác chống lại những tiên tri giả và hãy sống trong tỉnh thức và hy vọng. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay (Lc 21,5-19) chứa đựng phần thứ nhất bài giảng của Chúa Giêsu về thời sau hết. Chúa Giêsu nói bài này ở Jerusalem, gần Đền Thờ; và dịp để ngài nói chính là sự kiện dân chúng lúc ấy đang nói về đền thờ và ca ngợi vẻ đẹp của Đền này. Đền thờ bấy giờ thật là đẹp. Bấy giờ Chúa Giêsu nói: ”Sẽ đến ngày Đền thờ mà anh chị em đang thấy sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào” (Lc 21,6). Dĩ nhiên họ hỏi ngài: ”Khi nào thì điều ấy xảy ra? Đâu là những dấu hiệu? Nhưng Chúa Giêsu chuyển sự chú ý của họ đối với những khía cạnh cụ thể – bao giờ xảy ra? sẽ như thế nào?- sang những vấn đề đích thực. Có hai vấn đề. Thứ nhất: là đừng để mình bị những tiên tri giả đánh lừa, và đừng để mình bị tê liệt vì sợ hãi. Thứ hai: sống thời gian chờ đợi như thời gian làm chứng và kiên trì. Và chúng ta đang ở trong thời gian chờ đợi, chờ đợi Chúa đến.

Diễn văn này của Chúa Giêsu luôn có tính chất thời sự, kể cả đối với chúng ta là những người đang sống trong thế kỷ 21. Chúa lập lại với chúng ta: ”Các con hãy coi chừng, đừng để mình bị đánh lừa. Thực thế, nhiều người sẽ đến mạo danh Thầy” (v.8). Đó là một lời mời gọi phân định, đây là nhân đức Kitô giáo hiểu đâu là tinh thần của Chúa và đâu là thần dữ. Đúng vậy, ngày nay cũng có những kẻ cứu thế giả, toan tính thay thế Chúa Giêsu: thủ lãnh của thế gian này, các đạo sĩ giả, cả những tên phù thủy, những nhân vật muốn thu hút về mình tâm trí của người khác, nhất là của những người trẻ. Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta: ”Các con đừng đi theo chúng!”.

Và Chúa cũng giúp chúng ta đừng sợ hãi: đứng trước chiến tranh, cách mạng, và cả những thiên tai, dịch tễ, Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi thái độ cam chịu số phận, khỏi những quan niệm sai trái về tận thế.

Khía cạnh thứ hai gọi hỏi chúng ta trong tư cách là Kitô hữu và như là Giáo Hội, đó là Chúa Giêsu loan báo trước những thử thách đau thương và bách hại mà các môn đệ của ngài sẽ phải chịu vì Ngài. Nhưng Ngài trấn an: 'Dù một sợi tóc trên đầu các con không rơi xuống' (v.18). Chúa nhắc nhở rằng chúng ta hoàn toàn ở trong tay Thiên Chúa! Những nghịch cảnh chúng ta gặp vì đức tin và vì lòng gắn bó của chúng ta với Tin Mừng là những cơ hội để làm chứng tá; chúng không được làm cho chúng ta xa Chúa, nhưng thúc đẩy chúng ta càng phó thác hơn cho Chúa, cho sức mạnh của Thánh Linh và ơn thánh của Ngài.

Trong lúc này đây, tôi nghĩ, và tất cả chúng ta cùng nghĩ tới bao nhiêu anh chị em Kitô hữu chúng ta đang chịu đau khổ vì bị bách hại đức tin. Và có bao nhiêu người bị như vậy. Có lẽ nhiều hơn cả những thế kỷ đầu tiên. Chúa Giêsu đang ở với họ. Cả chúng ta cũng liên kết với họ bằng lời cầu nguyện và lòng quí mến. Cả chúng ta cũng ngưỡng mộ lòng can đảm và chứng tá của họ. Họ là anh chị em chúng ta, đang chịu đau khổ tại bao nhiêu nơi trên thế giới vì trung thành với Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta thành tâm chào thăm họ với lòng quí mến.

Sau cùng Chúa Giêsu nói lên một lời hứa là bảo đảm chiến thắng: ”Với lòng kiên trì, các con sẽ cứu được mạng sống mình” (v. 19) Biết bao nhiêu hy vọng trong những lời này! Đó là một lời kêu gọi hy vọng và kiên nhẫn, biết chờ đợi những thành quả chắc chắn của ơn cứu độ, tín thác nơi ý nghĩa sâu xa của cuộc sống và lịch sử: những thử thách và khó khăn là điều thuộc về một kế hoạch rộng lớn hơn; Chúa là chủ tể lịch sử, ngài hướng dẫn mọi sự đến chỗ viên mãn. Dầu có những xáo trộn và tai ương làm chao đảo thế giới, nhưng kế hoạch từ nhân và thương xót của Thiên Chúa sẽ viên mãn! Và đây là niềm hy vọng của chúng ta: tiến bước như thế trên con đường này, trong ý định của Thiên Chúa sẽ được hoàn thành. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.

Sứ điệp này của Chúa Giêsu làm cho chúng ta suy tư về hiện tại của chúng ta và mang cho chúng ta sức mạnh đương đầu với hiện tại trong can đảm và hy vọng, được Mẹ Maria tháp tùng, Mẹ luôn đồng hành với chúng ta.

Chào thăm

Sau phép lành, ĐTC chào thăm các tất cả các gia đình, các hiệp hội và các nhóm đến đây từ Roma, Italia, và bao nhiêu khác trên thế giới như Tây Ban Nha, Pháp, Phần Lan, Hòa Lan. Ngài nói: Tôi đặc biệt chào thăm các tín hữu đến từ Vercelli, Salerno, Lizznello, v.v.

Ngài cũng nhắc đến cộng đoàn người Eritrea Phi châu ở Roma đang mừng lễ thánh Micae và chân thành chào thăm họ.

ĐTC nói rằng hôm nay là ngày tưởng niệm các nạn nhân lưu thông. Tôi cầu nguyện cho họ và khuyến khích theo đuổi quyết tâm phòng ngừa vì sự thận trọng và tôn trọng các luật lệ lưu thông là hình thức đầu tiên bảo vệ bản thân và tha nhân.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến và khuyến khích một sáng kiến do Đức TGM Konrad Krajewski, Chánh sở từ thiện của ngài đề ra, gọi là sáng kiến thuốc tinh thần. Ngài nói: có lẽ có người nghĩ DGH làm dược sĩ hay sao? Đây là thứ thuốc đặc biệt để cụ thể hóa thành quả Năm Đức Tin sắp chấm dứt. Đây là một thứ thuốc gồm 59 hạt liên kết thành một chuỗi. Một thứ thuốc tinh thần gọi là ”Từ Bi”. Có một hộp nhỏ trong đó có chuỗi 59 hạt, Trong hộp này có chứa đựng thứ thuốc ấy và một số người thiện nguyện sẽ phát cho anh chị em khi rời quảng trường này. Anh chị em hãy dùng thuốc đó. Đó là một chuỗi mân côi, anh chị em có thể dùng để cầu nguyện kể cả xâu chuỗi Lòng Thương Xót Chúa, một trợ lực tinh thần cho tâm hồn và để phổ biến khắp nơi tình thương, sự tha thứ và tình huynh đệ. Anh chị em đừng quên dùng thuốc này, vì nó mưu ích cho anh chị em. Nó có ích cho con tim, cho tâm hồn và trọn cuộc sống của anh chị em.

Hộp thuốc có in bằng 4 thứ tiếng cách sử dụng thuốc tinh thần: hãy mang lòng từ bi vào tâm hồn, và cảm thấy sự thanh thản trong con tim. Hiệu năng của thuốc này được bảo đảm nhờ lời Chúa giêsu. Hãy sử dụng thuốc này khi muốn cho các tội nhân hoán cải, khi cảm thấy cần được trợ lực, khi thấy thiếu sức mạnh để chống lại cơn cám dỗ, khi không thể tha thứ được cho một người, khi muốn lòng từ bi Chúa cho một ngừơi sắp chết và khi muốn thờ lạy Chúa vì tất cả những ơn lành đã lãnh nhận.

20 ngàn hộp thuốc tinh thần đã được phân phát cho mọi người

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐAU KHỔ

ĐAU KHỔ

Chủ đề: “Sự đau khổ sẽ khiến bạn trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn”

Chúa Giêsu nói, “Hãy đứng vững, và anh chị em sẽ cứu được chính mình” Luca 21:19

Cha Anton Luli là một linh mục dòng Tên. Ngài bị Cộng Sản bắt ngay trước ngày Giáng Sinh 1947. Ngài viết trong nhật ký:

Vào đêm Giáng Sinh… họ dùng dây treo tôi lơ lửng trên không… có nhón gót thì mới chạm được mặt đất.

[Sau khi bị treo ba giờ đồng hồ] Tôi cảm thấy thân thể… như lìa xa tôi. Cái lạnh từ từ len vào mọi chi thể và… tim tôi như ngừng đập… Tôi kêu lên tuyệt vọng…

Những người tra tấn bước vào… kéo tôi xuống, và họ đá tôi túi bụi. Đêm hôm đó… tôi mới cảm nghiệm được ý nghĩa thực sự của… Thập Giá.

Nhưng cùng với sự đau khổ tôi chịu… tôi cảm thấy sự hiện diện đầy an ủi của Chúa Giêsu ở trong lòng… Vào những lúc ấy, sự hỗ trợ của Người là một điều mà tôi chỉ có thể gọi là “phi thường” thật vui sướng thật an ủi mà Chúa Giêsu đã đem cho tôi.

Điều mà Cha Luli không thấy trong đêm Giáng Sinh kinh hoàng ấy là ngài bị kết án tù 40 năm. Trong thời gian ấy, mười bẩy năm ngài bị giam riêng trong ngục tối. Ngài kết thúc nhật ký bằng những lời sau:

Họ thả tôi trong dịp ân xá năm 1989. Lúc ấy tôi đã 79 tuổi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy oán giận những người đã cướp đi cuộc đời tôi.

Sau khi được phóng thích, tình cờ tôi gặp lại một trong những người đã tra tấn tôi trên đường phố: tôi cảm thấy thương hại anh ta… và tôi đến ôm lấy anh.

Có hàng ngàn linh mục từng bị bách hại vì… Đức Kitô… nhưng không ai có thể cướp đi tình yêu của chúng tôi dành cho Chúa Giêsu trong tâm hồn.

Câu chuyện lạ thường của Cha Luli đưa chúng ta về bài Phúc Âm hôm nay. Trong đó, Chúa Giêsu nói về sự phá hủy Đền Thờ và ngày tận thế.

Khi các môn đệ hỏi Người khi nào những sự kiện ấy sẽ xảy đến, Chúa Giêsu nói họ phải thấy ba dấu hiệu.

Trước hết, các ngôn sứ giả mạo sẽ xuất hiện. Chúa Giêsu nói: “Nhiều người, tự xưng là phát ngôn viên của Thầy, sẽ đến và tuyên bố… ‘Đã đến lúc!’ Nhưng đừng theo họ.” Luca 21:8

Thứ hai, các điều kinh hoàng sẽ xảy ra trên mặt đất và trên trời.

Thứ ba, và sau cùng, Chúa Giêsu nói:

Trước khi những điều ấy xảy ra… anh chị em sẽ bị… bách hại… bị giam tù… [và] bị đưa ra trước vua quan vì Thầy. Đây sẽ là cơ hội cho anh chị em loan báo Tin Mừng… Hãy đứng vững [qua mọi điều ấy] và anh chị em sẽ cứu được chính mình.” Luke 21:12-13, 19

Và điều đó đưa chúng ta trở về với câu chuyện của Cha Luli. Ngài đã kinh qua những thử thách, bách hại, và tù đầy vì Chúa Giêsu.

Và ngài đã dùng những điều ấy như một cơ hội để loan báo Tin Mừng. Cũng như Chúa Giêsu, ngài đã tha thứ cho những người bách hại ngài. Và như Chúa Giêsu, ngài đã đứng vững cho đến cùng.

Một trong những kết quả ấy là câu chuyện đời ngài khuyến khích và phấn khởi chúng ta hãy đáp ứng với các thử thách và đau khổ như ngài đã thi hành.

Có lẽ chúng ta không còn sống để chịu những thử thách và đau khổ của ngày tận thế. Nhưng chắc chắn một lúc nào đó mọi người sẽ phải trải qua những thử thách và đau khổ trong cuộc đời.

Điều này khiến câu chuyện của Cha Luli thích hợp với các bài đọc hôm nay. Câu chuyện ấy đảm bảo rằng nếu chúng ta chấp nhận những thử thách và đau khổ của chúng ta, những gian nan ấy có thể trở nên nguồn ơn sủng lớn lao cho chúng ta, như đã xảy ra cho Cha Luli.

Tỉ như, một kết quả của những đau khổ và thử thách là Cha Luli đã cảm được sự hiện diện đầy trợ giúp của Thiên Chúa mà chưa bao giờ ngài cảm được-và rất ít người có được.

Điều đó đưa chúng ta đến một điểm quan trọng. Mọi thử thách và đau khổ sẽ khiến chúng ta trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn, tùy theo phương cách mà chúng ta chấp nhận.

Câu chuyện thật sau đây sẽ cho chúng ta thấy điều này.

Vào một ngày kia khi học lớp bẩy, John Erickson nhìn lên bảng và không thấy gì hết. Em sững sờ. Sau đó em lại thấy được nhưng không rõ như trước.

Ít lâu sau, cơn ác mộng được sáng tỏ. Em biết là có thể em sẽ bị mù. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ban phúc cho em để có được một người em sinh đôi. Cha mẹ em mua chiếc xe đạp hai chỗ ngồi, và hai em có thể đi bất cứ đâu. John ngồi đằng sau; em kia ngồi đằng trước.

Khi đến tuổi trung học, John cũng đi học chung với em mình-thay vì học trường dành cho người khiếm thị.

Để rút ngắn câu chuyện, John làm trưởng lớp. Em bơi lội, trượt tuyết, và làm đủ mọi chuyện y như các trẻ em khác.

Sau khi xong trung học, John lên đại học và tốt nghiệp MBA ở trường Northwestern University. Ngày nay em là phó chủ tịch ngành đầu tư chứng khoán của một ngân hàng lớn nhất Chicago. Em cũng lấy vợ và rất yêu thương gia đình.

Ngày nay, hiển nhiên là em bị mù, nhưng em rất biết ơn Thiên Chúa về những phúc lành. Một trong những phúc lành lớn lao nhất, em cảm thấy là “sự thách đố” Người ban cho em đó là sự tương giao cá biệt với Chúa Giêsu.

John cho biết vào năm 23 tuổi, em tham dự nhóm học hỏi Kinh Thánh. Một ngày kia, bỗng dưng em nhận ra Chúa Giêsu ở với em-và luôn luôn hiện diện trong một phương cách đặc biệt. Sau đó, em không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa. Và vì thế các bài đọc ngày hôm nay đảm bảo chúng ta rằng nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì trong những lúc thử thách và đau khổ-như Cha Luli và John đã trải qua-chúng ta sẽ chiến thắng, như họ.

Đây là tin mừng trong các bài đọc hôm nay.

Đây là tin mừng mà chúng ta cử mừng trong phụng vụ này.

Đây là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đem về nhà hôm nay.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Chúa Giêsu. Những lời này tóm lược lý do tại sao chúng ta sẽ kết thúc cách vinh quang nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì khi bị thử thách và đau khổ. Chúa Giêsu nói:

Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như một cành không thể tự nó sinh hoa trái trừ khi dính liền với thân, các con cũng vậy nếu các con không ở trong Thầy.

“Thầy là thân cây, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy trong họ thì sẽ sinh nhiều hoa trái.” John 15:4-5

Cha Mark Link

Sẵn sàng

Sẵn sàng

Chuyện kể: Người đàn bà Hồi giáo đến hỏi nhà truyền giáo: Ông đã làm gì con của tôi? – Con gái của bà mới chết ở tuổi 16. Ông trả lời: Tôi đâu có làm gì. Bà nói: Nhất định có. Con tôi chết mà miệng vẫn mỉm cười. Ở đây không ai chết như thế cả. À, con gái của bà vừa nhập đạo được mấy tháng. Cô không sợ chết mà thay vào đó là niềm hy vọng được tái sinh trong niềm vui vĩnh cửu.

Tuần áp cuối của Năm Phụng vụ, Giáo Hội cho chúng ta cơ hội suy tư một chút về ngày chung cục. Chúng ta biết rằng mọi sự trên thế gian này đang thay đổi và qua đi từng ngày. Bước vào Mùa Thu, nhìn cảnh chiều buồn lá rụng, chúng ta có cơ hội nghĩ đến thân phận ngắn ngủi của con người. Mỗi giây phút đều có sinh và có tử. Sự chết qua đi và sự sống tiếp nối làm thành một chuỗi đời sống. Mỗi loài sinh vật có đời sống dài hay ngắn tuỳ theo sự an bài sắp đặt của Thượng Đế từ khởi nguyên. Chúng ta biết có loài sống rất lâu cả hàng trăm năm và có loài chỉ hiện hữu trong vòng ít giờ như cuộc sống ngắn ngủi của con thiêu thân sống đó chết đó. Thời gian thấm thoát thoi đưa như cánh hoa sáng nở tối tàn. Chúng ta biết rằng sống lâu dài hay ngắn ngủi ở đời thì không quan trọng cho bằng mỗi người hãy chu toàn kiếp sống của mình cho ý nghĩa tròn đầy.

Tiên tri Malakia gióng tiếng mời gọi dân chúng đặt niềm tin vào Chúa các đạo binh. Tiên tri loan báo ngày sẽ đến, tất cả những kẻ kiêu căng và người làm ác sẽ bị thiêu đốt và tiêu diệt tận gốc rễ. Những lời cảnh tỉnh của Malakia có thể áp dụng cho mọi thời và mọi người. Chúng ta không nên chờ đợi đến ngày kết cùng của cuộc đời mới cải đổi tâm hồn. Mỗi ngày sống là một cơ hội tốt để chúng ta gieo những hạt giống tốt và làm việc lành phúc đức. Ở hiền sẽ gặp lành. Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi những kẻ kính sợ Chúa. Thiên Chúa sẽ được cứu sống họ: “Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh.” (Mal 3,20a). Niềm hy vọng giải thoát cho những ai biết đặt niềm tin kính vào Thiên Chúa.

Nói về cánh chung, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã loan báo về sự tàn phá của thành thánh Giêrusalem. Chiến tranh, loạn lạc, động đất và thiên tai đều là những dấu chỉ bên ngoài để mọi người nhận biết. Dù thành quách được xây dựng một cách kiên cố vững bền, với thời gian năm tháng và chiến tranh, mọi sự sẽ bị hủy phá. Chúa Giêsu phán: “Những gì anh em chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc 21,6). Nhiều người trầm trồ khen ngợi đền thánh vĩ đại và hoành tráng; thế nhưng sẽ không có gì tồn tại mãi với thời gian. Bản chất của vật chất là thay đổi và hư nát. Chúa loan báo về ngày cùng của thành Giêrusalem, cũng sẽ có ngày cùng của thế giới và của mỗi cá nhân.

Chúa Giêsu mạc khải về sự quan phòng của Thiên Chúa cho hết mọi loài. Con người là thụ tạo ưu tuyển, Thiên Chúa yêu thương chăm sóc cẩn thận: “Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu.” (Lc 21,18). Vận mạng con người ở trong tay Chúa. Sự phát triển của đời sống con người lệ thuộc trong thời gian và không gian. Chúng ta không thể cắt bớt hay kéo dài thời gian. Chúa Giêsu tỏ bày rõ ràng cho những người theo Chúa về những khổ đau, thánh giá và thăng trầm phải đối diện vì danh Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Lc 21,17). Chúa Giêsu đã cảnh báo cho các môn đệ những tai ương sẽ xảy đến nhưng phải kiên trì trong đức tin và đức cậy sẽ giúp họ đi đến cùng đường: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” (Lc 21,19).

Chúng ta biết cuộc sống con người có muôn hình vạn trạng. Lòng mong ước sống đời chẳng ai giống ai. Có người thì cho rằng sống thì sướng, chết là khổ. Có người lại nói chết là sướng, sống là khổ nên chán đời. Mỗi ngày sống là một quà tặng. Nếu chúng ta sống vui vẻ, khoẻ mạnh và an lạc thì cuộc sống rất hạnh phúc. Ngược lại, nếu chúng ta cứ than thân trách phận thì sống khổ càng khổ thêm. Đừng xem cuộc sống là gánh nặng. Sống sướng hay khổ tuỳ thuộc rất nhiều vào thái độ sống của chúng ta. Không phải sống trong giàu sang nhung lụa là sướng và cũng không phải nghèo là khổ. Cái khổ tâm đến từ trí lòng ta. Khi chúng ta chỉ cậy dựa và bám víu vào những giá trị trần đời, vật chất sẽ đảo lộn đời chúng ta.

Trên dương trần, sinh tử là luật tự nhiên của muôn loài. Hằng ngày, nhiều khi chứng kiến hay nghe biết những tai nạn chết chóc trên khắp thế giới, chúng ta cũng chẳng mấy quan tâm. Nghĩ rằng sự chết là của ai đó. Cho tới khi một người thân hay bạn bè trong gia đình qua đời, chúng ta mới cảm nhận được sự mất mát và thương nhớ. Người quá cố càng thân thì càng thương, càng nhớ và càng khổ đau. Là người, ai cũng phải chết. Đôi khi chúng ta không dám hoặc không muốn nghĩ đến ngày cùng của cuộc đời mình. Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta cũng sẽ phải ra đi vĩnh viễn. Vậy hãy sẵn sàng và vui sống với những gì chúng ta đang có.

Chuyện kể: Người kia rất tham việc, không dám lãng phí một phút nào. Trong cửa hiệu, ông dự định nơi ông sẽ đi dạo. Trong lúc đi dạo, ông dự định nơi ông sẽ đi ăn. Trong khi dùng món ăn chính, ông dự tính sẽ ăn món tráng miệng, rồi ông nhìn bảng danh mục để chọn xe buýt về nhà. Ông chẳng bao giờ chú ý đến những gì ông đang làm. Ông luôn chuẩn bị cho những sự việc kế tiếp. Một ngày kia, ông phải đối đầu với cái chết. Khi sắp chết, ông kinh ngạc về cuộc đời trống rỗng và vô nghĩa của mình. Vì ông chẳng bao giờ sống với hiện tại.

Theo truyền thống, người Việt Nam chúng ta rất tôn kính hình ảnh người thân đã quá cố. Sau khi người thân qua đời, gia đình cần tấm hình lập bàn thờ để mọi người cầu nguyện, tưởng niệm và nhang đèn cúng bái. Một việc rất đơn giản nhưng nhiều khi chúng ta đã bỏ qua hoặc quên sót. Có rất nhiều trường hợp, người thân chết mà chẳng có tấm hình nào để lại. Một ông cụ kia sống dài 80 tuổi, tuy có rất nhiều hình chụp chung với con cháu, nhưng tìm một tấm hình chân dung riêng thật khó. Không hiểu sao? Có thể khi còn sống đã không nghĩ đến, không có cơ hội chụp riêng hoặc sợ chết nên không dám chụp. Chúng ta đã chuẩn bị nhiều thứ sẵn sàng nhưng một tấm hình chân dung lại chẳng có. Chúng ta muốn hình ảnh nào sẽ lưu lại cho hậu thế? Chúng ta muốn có hình ảnh khuôn mặt tươi cười vui vẻ hay nhăn nhó sầu thương? Điều này chúng ta không thể chối từ.

Thánh Phaolô khuyên dạy các anh chị em trong giáo đoàn một bài học rất cụ thể: “Thật vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!” (2 Thess 3,10). Chúa ban cho mỗi người một khả năng, tài trí và số vốn riêng để sinh lợi cho mình và cho xã hội. Chúng ta không nên dựa dẫm vào người khác một cách bất công. Thời nào cũng có những người ăn không ngồi rồi và gây gổ nhiều truyện. Những thói tục xấu đó vẫn tồn tại cho tới ngày hôm nay. Lời khuyên của Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta nên tránh những cách sống tiêu cực này. Ngài nói: “Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào.” (2 Thess 3,11). Dẫm chân lên nhau và xen vào nhiều chuyện là những thói tục xấu. Mỗi người nên chu toàn những trách nhiệm và bổn phận mình để cuộc sống thêm ý nghĩa và tích cực hơn.

Lạy Chúa, tới hôm nay chúng con cũng chưa chuẩn bị được gì cho hành trang đời đời. Chúng con cứ khất lần và nghĩ rằng thời gian còn nhiều. Xin cho chúng con can đảm nhìn vào thực tại sống để sẵn sàng chuẩn bị tốt cho những ngày sắp tới.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm chính thức Tổng thống Cộng hòa Italia

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm chính thức Tổng thống Cộng hòa Italia

VATICAN. Sáng ngày 14 tháng 11-2013, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm chính thức tổng thống Giorgio Napolitano tại điện Quirinale, đáp lễ cuộc viếng thăm chính thức của Tổng thống tại Vatican hồi tháng 6 năm nay.

Điện Quirinale là dinh của Đức Giáo Hoàng trong 300 năm trời, cho đến ngày 20 tháng năm 1870, khi quân Italia chiếm nước Tòa Thánh và thống nhất bán đảo Italia.

ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 6 đến viếng thăm tại điện Quirinale và đây là lần thứ 3 ngài gặp Tổng thống Giorgio Napolitano. Ông năm nay đã 88 tuổi và đã mãn 7 năm làm tổng thống. Nhưng hồi tháng 4 năm nay, trước tình thế nguy kịch của đất nước, theo lời khẩn khoản của các đảng phái chính trị, ông đã nhận lời làm nhiệm kỳ hai.

Tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm sáng hôm qua có 11 người, đứng đầu là Đức TGM Angelo Becciu, Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, vì Đức TGM Quốc vụ khanh Pietro Parolin còn dưỡng bệnh cho đến thứ bẩy 16-11-2013. Ngoài ra có Đức TGM Ngoại trưởng Tòa Thánh Dominique Mamberti, ĐHY Chủ tịch Phủ Thống đốc Vatican, ĐHY Chủ tịch HĐGM Italia và ĐHY Giám quản Roma.

Đến điện Quirinale vào lúc gần 11 giờ, ĐTC đã được Tổng thống chào đón nồng nhiệt, trước đoàn quân danh dự, với quốc thiều Vatican và Italia được trổi lên. Tiếp đó, ĐTC và Tổng thống đã hội kiến riêng trong thư phòng, trong khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Nicola Letta, và một số vị Bộ trưởng trao đổi với phái đoàn Tòa Thánh do Đức TGM Becciu hướng dẫn.

Tiếp đến là nghi thức trao đổi tặng vật, và ĐTC chào thăm các vị Chủ tịch Thượng Viện, Hạ Viện và tòa bảo hiến của Italia, trước khi viếng nhà nguyện Đức Mẹ Truyền Tin.

Sau đó vào lúc quá 12 giờ trưa, tại sảnh đường Đại Lễ, trước sự hiện diện đông đảo của các quan chức chính quyền và phái đoàn Tòa Thánh, Tổng thống Napolitano đã đọc diễn văn chính thức chào mừng ĐTC.

Ông tái bày tỏ tâm tình gần gũi và quí mến, đồng thời nhận xét rằng ”Quan niệm của Ngài về Giáo Hội và đức tin đã được chuyển đến tất cả mọi người, dù là tín hữu hay không có tín ngưỡng, qua những lời đơn sơ và mạnh mẽ của Ngài. Điều gây ấn tượng mạnh nơi chúng tôi là sự vắng bóng mọi thái độ giáo điều..”

Tổng thống nói đến những khăn, bầu không khí căng thẳng giữa các lực lượng chính trị khác nhau, và ông nhận xét rằng nhiều lời của ĐGH có thể soi sáng cho xã hội Italia trong bối cảnh này, đặc biệt là tinh thần đối thoại. Cũng vậy đối với tệ nạn tham ô hối lộ.

Diễn văn ca Đức Thánh Cha

Trong diễn văn chính thức, ĐTC chân thành cám ơn Tổng Thống cũng như quốc dân Italia, ngài nhắc lại những quan hệ và sự cộng tốt đẹp giữa Italia và Tòa Thánh, đồng thời ngài kêu gọi bênh vực gia đình. ĐTC nói:

Thưa tổng thống!

Với lòng biết ơn sâu xa, hôm nay tôi đáp lễ cuộc viếng thăm nồng nhiệt mà tổng thống đã dành cho tôi ngày 8 tháng 6 năm nay tại Vatican. Tôi cám ơn Tổng thống vì những lời chào mừng, nói lên tâm tình của nhân dân Italia.
Theo thói quen định chế về quan hệ giữa Italia và Tòa Thánh, cuộc viếng thăm này của tôi khẳng định tình trạng rất tốt đẹp trong quan hệ với nhau, và hơn nữa việc làm này cũng muốn diễn tả một dấu hiệu thân hữu. Thực vậy trong 8 tháng đầu tiên của tôi trong sứ vụ Phêrô, tôi đã cảm nghiệm được từ phía Tổng Thống bao nhiêu cử chỉ quan tâm. Những cử chỉ đó tiếp nối nhiều cử chỉ mà Tổng Thống đã dần dần biểu lộ trong nhiệm kỳ 7 năm đầu tiên đối với vị tiền nhiệm của tôi là Đức Biển Đức 16. Trong lúc này đây tôi muốn nghĩ đến Ngài với lòng quí mến, nhớ lại cuộc viếng thăm của Người tại điện Quirinale, dinh mà trong dịp đó Người gọi là ”căn nhà biểu tượng của tất cả mọi người dân Italia” (diễn văn 4-10-2008).

Khi đến viếng thăm Tổng Thống tại nơi này, với bao nhiêu biểu tượng và lịch sử, trong tinh thần, tôi muốn gõ cửa nhà của mỗi người dân tại đất nước này, nơi có căn cội gia đình trần thế của tôi, và trao tặng cho mọi người lời có sức chữa lành và luôn luôn mới mẻ của Phúc Âm.

Khi nghĩ lại thời điểm nổi bật trong quan hệ giữa Nhà Nước Italia và Tòa Thánh, tôi muốn nhắc đến việc đưa các Hiệp định Laterano và thỏa ước duyệt lại Hiệp định ấy vào trong Hiến pháp của Cộng hòa Italia. Trong vài tuần nữa là kỷ niệm 30 năm Thỏa Ước này. Ở đây chúng ta có một khuôn khổ vững chắc để tham chiếu về pháp lý, hầu có một sự phát triển trong sáng các quan hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước tại Italia, khuôn khổ này phản ánh và hỗ trợ sự cộng tác thường nhất để phục vụ con người, nhắm mưu công ích, trong sự phân biệt các vai trò và lãnh vực hoạt động của mỗi bên.

”Có bao nhiêu vấn đề mà chúng ta cùng quan tâm và những câu trả lời có thể là giống nhau. Thời điểm hiện nay mang đậm ảnh hưởng cuộc khủng khoảng kinh tế, đòi nhiều nỗ lực cơ cực để vượt qua, và trong số những hậu quả đau thương của cuộc khủng hoảng ấy, có tình trạng không có đủ công ăn việc làm. Cần gia tăng nỗ lực để thoa dịu những hậu quả của nó và để đón nhận cũng như củng cố mọi dấu phục hồi.

Nghĩa vụ đầu tiên của Giáo Hội là làm chứng về lòng từ bi của Thiên Chúa và khích lệ những câu trả lời liên đới để mở ra một tương lai hy vọng; vì nơi nào hy vọng gia tăng thì cũng có nhiều nghị lực được tăng trưởng và sự dấn thân để kiến tạo một trật tự xã hội và dân sự nhân bản hơn, công bằng hơn, và nảy sinh những tiềm năng mới để phát triển dài hạn và lành mạnh.

Những cuộc viếng thăm mục vụ đầu tiên mà tôi được thực hiện tại Italia vẫn còn gây ấn tượng mạnh trong tâm trí tôi. Trước tiên tại đảo Lampedusa, tôi đã gặp gỡ gần kề sự đau khổ của những người vì chiến tranh hoặc vì lầm than, phải xuất cư trong những điều kiện nhiều khi tuyệt vọng; và tại đảo đó tôi đã gặp chứng tá đáng ca ngợi của bao nhiêu người đang xả thân trong việc đón tiếp. Rồi tôi nhớ đến cuộc viếng thăm tại Cagliari, để cầu nguyện trước Ảnh Đức Mẹ Bonaria; và cuộc viếng thăm tại Assisi, để tôn kính vị Thánh bổn mạng của Italia, mà tôi đã chọn tên thánh nhân. Ở những nơi ấy tôi cũng đụng chạm được một cách cụ thể những vết thương ngày nay đang đè nặng trên bao nhiêu người.

Nơi trung tâm của những hy vọng và khó khăn xã hội, có gia đình. Với một xác tín được đổi mới, Giáo Hội tiếp tục cổ võ sự dấn thân của tất cả mọi người, cá nhân cũng như các tổ chức, để nâng đỡ gia đình, là nơi đầu tiên trong đó con người được thành hình và lớn lên, trong đó ta học các giá trị và gương mẫu làm cho các giá trị đó đáng tín nhiệm. Gia đình cần sự ổn định và tính chất có thể nhận diện được của các quan hệ hỗ tương, để triển khai hoàn toàn nghĩa vụ không thể thay thế được và chu toàn sứ mạng. Trong khi gia đình dành các năng lực của mình để phục vụ Giáo Hội, gia đình yêu cầu được quí chuộng, đánh giá cao, và bảo vệ.
Và ĐTC kết luận rằng:

Thưa Tổng thống, trong hoàn cảnh này, tôi muốn bày tỏ mong ước, được hỗ trợ bằng lời cầu nguyện: ước gì Italia, kín múc từ gia sản phong phú của mình với các giá trị dân sự và tinh thần, biết tái tìm được sự sáng tạo và hòa hợp cần thiết cho sự phát triển hài hòa, thăng tiến công ích và phẩm giá của mỗi người, và đóng góp phần của mình cho hòa bình và công lý trong bối cảnh quốc tế.

Sau cùng, tôi cũng đặc biệt liên kết với lòng quí chuộng và yêu mến mà nhân dân Italia dành cho Tổng thống, và tái cầu chúc tổng thống những điều tốt đẹp nhất để chu toàn nghĩa vụ cao cả của Tổng Thống. Xin Thiên Chúa bảo vệ Italia và tất cả mọi người dân nước này.

Gặp các nhân viên và gia đình

Sau khi trao đổi diễn văn, ĐTC được Tổng thống hướng dẫn đến thăm Nhà Nguyện Paolina trong Điện Quirinale, rồi gặp gỡ 200 người gồm các nhân viên, gia đình và con cái của họ.

Đây là lần đầu tiên trong một cuộc viếng thăm của vị Giáo Hoàng tại dinh Quirinale có một cuộc gặp gỡ như vậy. Trong dịp này ĐTC nhắn nhủ các nhân viên tại Phủ Tổng Thống rằng:

”Qua công việc của anh chị em, nhiều khi âm thầm nhưng quí giá, anh chị em tiếp xúc với những biến cố thông thường và ngoại thường, đánh dấu hành trình của một quốc gia. Một số người trong anh chị em có cơ hội tiếp cận những vấn đề xã hội, gia đình và con người, mà các công dân tin tưởng gửi đến Tổng Thống. Tôi cầu chúc anh chị em luôn có một tinh thần hiếu khách, và cảm thông đối với tất cả mọi người. Rất cần có những người dấn thân với khả năng chuyên môn và với tinh thần nhân đạo, cảm thông, với sự quan tâm liên đới đặc biệt với những người yếu thế nhất. Tôi khuyến khích anh chị em đừng nản chí trong những khó khăn, và luôn sẵn sàng nâng đỡ tha nhân”.

Cuộc viếng thăm của ĐTC tại dinh tổng thống Italia kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ. Sau nghi thức tiễn biệt, Ngài đã trở về Vatican lúc gần 1 giờ trưa.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Bề trên tổng quyền dòng Camêlô bị bắt vì tội bắt cóc

Bề trên tổng quyền dòng Camêlô bị bắt vì tội bắt cóc

November 13, 2013 

Cindy Wooden cho Catholic Herald

Bề trên tổng quyền dòng Camêlô bị bắt vì tội bắt cóc thumbnail

Cảnh sát Ý vừa bắt giữ bề trên tổng quyền dòng Camêlô vì nghi ngờ bắt cóc sau khi người ta cho rằng ngài cố gắng ngăn chặn hai linh mục cùng dòng phản đối việc bầu cử ngài tham dự tổng tu nghị của dòng.

Linh mục Renato Salvatore, người được tái cử tại một tu nghị hồi tháng Năm, và năm người đàn ông khác bị cảnh sát Ý bắt giữ tuần này.

“Rất ngạc nhiên và đau đớn khi chúng tôi biết tin bề trên tổng quyền của mình đã bị cảnh sát bắt giữ để làm rõ những nghi vấn liên quan những sự việc được gắn cho ngài” – linh mục Paolo Guarise, tổng đại diện dòng, nói trong thông cáo.

“Chúng tôi đang sống giây phút này trong cầu nguyện và chắc chắn rằng sự việc có thể sẽ được làm sáng tỏ”, cha Guarise cho biết.

Theo tin tức báo chí Ý, cha Salvatore bị cáo buộc đã sắp xếp cho những người mạo danh là thành viên của cảnh sát câu lưu và thẩm vấn hai linh mục cùng dòng nhằm ngăn cản họ tham dự tổng tu nghị và bỏ phiếu chống lại việc ngài tái cử.

Cảnh sát cho rằng cha Salvatore đang làm việc với một chuyên gia tài chính người Ý – người này đã bị điều tra nhiều lần nhưng chưa bị kết tội giao dịch tài chính mờ ám – để bảo vệ các hợp đồng tại một bệnh viện của dòng gần Naples.

Nguồn: Catholic Herald

UCANEWS Vietnam

Đức Hồng Y Dolan bên vực thành tích giám mục Hoa Kỳ về các vấn đề nghèo đói

Đức Hồng Y Dolan bên vực thành tích giám mục Hoa Kỳ về các vấn đề nghèo đói

BALTIMORE – New York Đức Hồng Y Timothy Dolan đã đồng ý vào thứ hai với cuộc gọi Đức Thánh Cha Phanxicô cho một mối quan tâm cao đối với người nghèo, nhưng đã tranh luận về ý tưởng mà các giám mục Hoa Kỳ đã không quan tâm nhiều đến vấn đề này.

"Đó là một kiên trì, kiên trì liên tục của các cuộc họp của hàng giám mục của chúng tôi từ khi thành lập vào năm 1917, " Đó là lời của Dolan, Chủ tịch mãn nhiệm của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo, và cuộc họp trong tuần này để chọn nhà lãnh đạo mới cho giáo hội Hoa Kỳ .

Nhưng ĐHY Dolan nói với phóng viên ông đã đồng ý rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang yêu cầu các nhà lãnh đạo thậm chí còn "mạnh mẽ" hơn về vấn đề này.

Hội nghị các Giám mục, coi quản 69 triệu người Công giáo Hoa Kỳ hay khoảng một phần tư dân số, đã bị chỉ trích bởi một số nhóm Công giáo tự do cho là ít quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội như nghèo đói hơn so với tấn công vấn đề hôn nhân đồng tính, phá thai và ngừa thai .

Các việc làm của giám mục là dưới xem xét kỷ lưỡng liên quan tới người nghèo trên thế giới được đưa ra bởi Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trong một cuộc phỏng vấn được công bố trong tháng chín, ĐTC Phanxicô nói rằng Giáo Hội không thể chỉ tập trung vào các vấn đề liên quan đến phá thai, hôn nhân đồng tính và ngừa thai, và phải trở thành đáng thương hơn hoặc có nguy cơ suy sụp " như một ngôi nhà giấy ."

Ông cũng nói rằng Giáo Hội đã "tự khóa chính mình  từ trong những việc nhỏ, trong những luật nhỏ nhen hẹp hòi " và không nên quá nghiêng về một phía để bị chỉ trích .

Trong bài phát biểu Đức Tổng Giám Mục Carlo Viganò vào ngày thứ Hai 11-11-2013, đại sứ của Vatican tại Hoa Kỳ, ĐTC Phanxicô muốn giám mục phải hòa điệu với dân chúng, " giám mục  mục vụ ", và không giám mục nào giảng dạy hoặc theo một thuyết tư tưởng đặc biệt (Ideology). "

Đức Thánh Cha cũng đã kêu gọi các giám mục để duy trì một lối sống " đặc trưng bởi sự đơn giản và sự thánh thiện " sống những gì họ rao giảng, (Lời chủa ĐTGM Carlo Vigano nói).

Trong cuộc họp, Đức Tổng Giám Mục  về hưu Joseph Fiorenza Galveston-Houston hỏi hội nghị " Hãy ghi nhận lại cũng như đang cố gắng để đạt được thành quả những gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa ra trước cho chúng ta, là nhà thờ cho người nghèo và của người nghèo . "

Đức Giám mục Robert Lynch tại St Petersburg, Florida, cho biết sự chú ý của hội nghị đã tập trung trong những năm gần đây về các vấn đề  phiên dịch thánh lễ và  tự do tôn giáo, chẳng hạn như yêu cầu các bệnh viện và trường học Công giáo thực hiện bảo hiểm cung cấp các biện pháp ngừa thai, trong đó nghiêm cấm giáo lý nhà thờ.

Hội nghị Giám mục sẽ bầu ra một Chủ tịch và phó chủ tịch cho nhiệm kỳ ba năm vào thứ ba. Theo tin hành lang thì Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz của Louisville, Kentucky, có nhiều triển vọng cho chức chủ tịch kế tiếp. ĐTGM Kurtz được xem như là một người bảo thủ đáng tin cậy, được nhiều người ưa thích và có nhiều ảnh hưởng.

Trong số các ứng cử viên phó chủ tịch là Đức Tổng Giám Mục Jose Gomez của giáo phận Los Angeles, Ngài là một người gốc Mexico rất thẳng thắn về vấn đề cải cách cho người di cư .

( Báo cáo của Mary Wisniewski ; Editing by Lisa Shumaker )

Thái Trọng phỏng dịch

Gặp Gỡ Đức Giáo Hoàng

Gặp Gỡ Đức Giáo Hoàng

VATICAN. Vào lúc 12h00, ngày 10 tháng 11, hàng người đã quy tụ tại quảng trường thánh Phêrô để gặp gỡ Đức Thánh Cha và nghe ngài giáo huấn.

Đức Thánh Cha đã dựa vào nội dung đoạn Tin Mừng CN 32TN để ban huấn từ. Ngài nói:

“Bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu tranh luận với những người phái Sa Đốc, những người chối bỏ việc phục sinh. Đây chính là vấn đề mà dựa vào đó họ chất vấn Đức Giêsu, đặt người vào thế khó giải quyết để chế nhạo niềm tin vào việc người chết sẽ sống lại. Họ bắt đầu bằng một tình huống tưởng tượng ra: "Một người phụ nữ có bảy đời chồng, lần lượt chết" và họ hỏi Đức Giêsu: "Người này sẽ là vợ của ai trong ngày kẻ chết sống lại?" Đức Giêsu, luôn hiền lành và kiên nhẫn, trước hết trả lời rằng cuộc sống sau cái chết không dựng vợ gả chồng như cuộc sống đời này. Cuộc sống vĩnh cửu là một cuộc sống khác, thuộc về một chiều kích khác nơi mà, giữa những điều khác, con người không còn lấy vợ lấy chồng nữa,vốn là điều gắn liền với ta ở cuộc sống tại thế này. Đức Giêsu còn nói thêm rằng những người sống lại sẽ giống như các thiên thần và sống ở một tình trạng khác mà bây giờ không thể trải nghiệm và tưởng tượng ra được. Đức Giêsu đã giải thích như thế.”

Sau đó, Đức Thánh Cha nói về mối dây hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa “Người là Chúa của ta”

“…Đức Giêsu tìm thấy bằng chứng về sự phục sinh trong trình thuật Môsê và bụi gai bốc cháy (x.Xh 3,1-6), Thiên Chúa tự mặc khải mình là Thiên Chúa của Abraham, Ixaac và Giacop. Danh xưng của Thiên Chúa có mối ràng buộc với tên của những người nam nữ mà Người dính dáng đến và mối gắn kết này mạnh hơn cả sự chết. Từ đó, Giêsu khẳng định với những người thuộc phái Sa Đốc rằng: "Thiên Chúa không là Thiên Chúa của người chết nhưng là của người sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống" (x. Lc 20,38) Và mối dây quyết định này, sự kết hiệp nền tảng này chính là Giêsu: chính là Sự Hiệp Thông, là Sự Sống và là Sự Phục Sinh, vì với tình yêu hiến tế, Ngài đã chiến thắng sự chết. Trong Giêsu, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, Người ban nó cho tất cả mọi người và tất cả những lời cảm tạ dâng lên Người đều chứa đựng một niềm hy vọng về một cuộc sống mới chân thực hơn cuộc sống này. Sự sống mà Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta không là một sự tô điểm cho thực tại này, nhưng nó vượt qua sức tưởng tượng của chúng ta, vì Thiên Chúa luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên bởi tình yêu và lòng thương xót của Người.”

Đức Thánh Cha cũng giải thích thêm về quan niệm của chúng ta về cái chết. Không phải cái chết đón đầu chúng ta, nhưng là một sự sống mới, vĩnh cửu trong Thiên Chúa

“… Không phải từ cuộc sống này mà ta suy luận đến cuộc sống vĩnh cửu, nhưng là cuộc sống vĩnh cửu soi sáng và ban cho chúng ta niềm hy vọng nơi cuộc sống tại thế này. Nếu chúng ta chỉ nhìn bằng cặp mắt con người, chúng ta cũng sẽ nói rằng hành trình của con người đi từ sự sống đến cái chết. Đức Giêsu đã đảo ngược cái nhìn này và nói rằng cuộc hành trình của chúng ta là đi từ cái chết đến sự sống: một sự sống viên mãn! Vì thế, cái chết nằm ở sau, chứ không phải ở trước chúng ta. Phía trước chúng ta là một vị Thiên Chúa của kẻ sống, là một sự chiến thắng chung cuộc tội lỗi và cái chết, là khởi đầu của một kỷ nguyên mới của niềm vui và ánh sáng không bao giờ tàn. Nhưng ngay từ bây giờ, trên trái đất này, trong lời cầu nguyện, bí tích, tình huynh đệ, chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giêsu và tình yêu của Người, và như thế chúng ta có thể nếm trước một chút gì đó sự sống phục sinh. Kinh nghiệm mà chúng ta đã có về tình yêu và lòng trung tín của Người sẽ bừng sáng lên như ngọn lửa trong con tim chúng ta và làm cho đức tin của chúng ta lớn lên hơn nữa trong sự phục sinh. Thực ra, nếu Thiên Chúa là Đấng trung tín và yêu thương, thì Người không thể giới hạn sự trung tín và yêu thương ấy trong thời gian được”

Sau kinh truyền tin, Đức Thánh Cha nhắc đến việc tôn phong chân phước của chị Maria Teresa Bonzel ở Đức. Ngài cho biết, chính Thánh Thể là nguồn mạch đã ban cho chị sức mạnh thiêng liêng để chị có thể dấn thân không mệt mỏi, phục vụ người những người yếu thế.
Ngài cũng bày tỏ sự gần gũi của mình đến nhân dân Philipin và đất nước này. Do ảnh hưởng của cơn bão, nhiều người đã chết và những tổn thất nghiêm trọng khác đi kèm theo. Ngài kêu gọi mọi người cùng cầu nguyện cho họ và giúp đỡ họ cách thiết thực.

Ngài cũng nói về biến cố 75 năm kỷ niệm sự kiện "Đêm thủy tinh" diễn ra vào tối 9 và 10 tháng 11 năm 1938, một cuộc bạo hành chống lại người Do Thái, các hội đường, tư gia, cửa hàng, đánh dấu một thảm kịch của cuộc thảm sát có tên là Holocaust. Ngài mời gọi mọi người cùng nâng đỡ và liên đới với các anh em Do Thái và cầu nguyện cùng Thiên Chúa giúp chúng ta biết nhìn về ký ức trong quá khứ với một sự tỉnh thức chống lại mọi hình thức ghen ghét và bất bao dung

Ngày hôm nay, ở Ý cũng là ngày lễ tạ ơn. Đức Thánh Cha bày tỏ sự hiệp thông với các Giám Mục với thế giới nông nghiệp, đặc biệt là với những người trẻ đã chọn việc lao tác trên đất đai. Ngài khuyến khích họ hãy cố gắng để không còn ai bị đói khát nữa.

Ngài cũng gửi lời chào đến các khách hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới, các gia đình, giáo xứ, hiệp hội khác.

Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ

CHẾT ĐỂ ĐƯỢC SỐNG LẠI

CHẾT ĐỂ ĐƯỢC SỐNG LẠI

Xác tín có đời sau

 Câu chuyện của người Mẹ và 7 bảy anh em trong sách 2 Macabe 7, 1-2.9-14  đã gửi đến cho chúng ta những xác tín về sự sống lại, về đời sau. Niềm xác tín ấy được soi sáng bởi Thánh Linh và cũng chính niềm xác tín quan trọng ấy đã giữ họ trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa, qua truyền dạy của Moise: Không ăn thịt heo. Không phải họ không quí trọng thân xác, nhưng họ được linh hứng cho biết thân xác nầy được Chúa ban cho và dù có mất  đi dưới tay người phàm họ cũng sẽ lấy lại được. Họ “sẵn sàng thà chết hơn là vi phạm luật của cha ông” (c.2). Họ xác tín “Vua Vũ Trụ sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (c.9). Đối với họ , sự sống và tất cả những gì thuộc về sự sống ở đời nầy đều là của Chúa ban, và dù có mất đi, họ vẫn đặt hy vọng nhờ Thiên Chúa họ sẽ lấy lại được (c.11). Họ thà chết trong khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại (c.14).

Điểm ưu việt của đoạn sách nầy là : niềm xác tín Phục sinh vào thời kỳ Tin Mừng và Tin Mừng Phục sinh chưa xuất hiện.  Một cõi sống ở đời sau có thể nói là còn mơ hồ trong tâm tưởng loài người, thì bảy anh em đã tuyên tín về sự sống lại trước mặt vua chúa quan quyền thế gian. Dấu ấn mạc khải do Thánh Linh thật rõ nét và sống động đến nỗi người đời sau, những người đã tiếp nhận ánh sáng Tin mừng Chúa Giêsu và Tin Mừng Phục Sinh của Ngài, phải ngẫm nghĩ mà tự hổ thẹn về cách đón nhận và cách tuyên xưng niềm tin của mình.

 Đức tin không lý luận

 Không chỉ các người thuộc nhóm Sađốc, thời Chúa Giêsu, mà cả loài người, cả chúng ta nữa, cho đến hôm nay vẫn thích dùng cái lý trí nhỏ bé của mình mà suy luận về những mầu nhiệm cao siêu thuộc về Thiên Chúa, trong đó có Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô và sự sống lại của thân xác chúng ta. Từ cái suy luận duy lý trí nảy sinh những ảo tưởng về một thực tại thuộc phạm vi Đức Tin. “ Vậy, trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy anh em đều lấy nàng làm vợ”.(Lc 20,33).  Một suy luận hoàn toàn con người thì còn gì là mầu nhiệm.

Câu tuyên tín “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại” bắt đầu bằng hai từ “Tôi tin”, cho thấy rằng lý trí của tôi không nhất thiết phải tham gia gì thêm nữa. Không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là sự hy sinh của lý trí một cách chính đáng, để niềm tin của tôi không bị chao đảo lung lay hay thay đổi, vì với lòng khiêm tốn, tôi biết lý trí của tôi không thể làm điều vượt qua khả năng của lý trí.

Cơn cám dỗ về  đức tin là một cơn cám dỗ nguy hiểm nhất, do bởi thần kiêu ngạo dữ tợn nhất, luôn thúc bách lý trí ta lý luận không phải để chấp thuận, mà tìm mọi cách để từ chối, phản bác.

Nhóm Sađốc đã bị sập bẫy của Satan khi dùng những lý luận để bảo thủ cho mình cái chủ trương không có sự sống lại, không có đời sau. Những lý luận chỉ dựa trên những gì có thể thấy được, có thể sờ đụng, có thể trải nghiệm thực tiễn. Họ hiểu sự sống lại và đoàn viên trong Nước Thiên Chúa như là một thế giới  khác với thế giới hôm nay, nhưng giống y như thế giới hôm nay về mọi sinh hoạt con người.

Chúa Giêsu nói: “Con cái đời nầy cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết  thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,34-36)

Tôi nghĩ lời giải thích của Chúa Giêsu là một định tín. Chỉ có Đức Tin mới thấu đạt được, chứ không dễ chấp nhận theo lý luận con người. Không thể lấy một thực tại hữu hình, mà so sánh mới một thực tại vô hình; không thể lấy một sự đã trải nghiệm thực tiến đem so sánh với sự chưa trải nghiệm, mà sự chưa trải nghiệm ấy lại thuộc về tương lai của mỗi người, của nhân loại.

 Con đường dẫn đến cái chết để phục sinh

 Người tín hữu hôm nay có một ưu thế hơn anh em nhà Macabê vì nền tảng  niềm tin “xác loài người sẽ sống lại” được đặt vào “sự phục sinh của Chúa Giêsu”.

Chính vì tôi tin Chúa Giêsu Phục Sinh mà tôi cũng tin tôi sẽ được sống lại với người. Tôi không  nhất thiết phải dùng lý trí con người, suy luận, tưởng tượng hay hình dung sự sống lại ấy thế nào, sinh hoạt như thế nào. Tôi chỉ cần biết một điều là  để được Phục sinh với Chúa Giêsu, để sống lại như Ngài, tôi phải đi theo con đường của Ngài: “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”. Vì nếu không đi theo con đường của Ngài, tôi sẽ lao vào “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh”.

Vậy con đường của Chúa Giêsu  là con đường khiêm hạ, con đường từ bỏ, con đường yêu thương phục vụ cho đến chết. Có thể tôi chưa thấy một người bằng xương bằng thịt phục sinh trở về để tôi hỏi người ấy về sinh hoạt của thế giới bên kia, nhưng tôi có thể thấy chung quanh tôi có những người sống trọn vẹn cho Thiên Chúa theo đường hướng của Chúa Giêsu khi họ từ bỏ tất cả cho vinh danh Chúa. Họ có thể chia sẻ cho tôi  những cảm nghiệm về sự sống đời sau mà họ đang có ngay ở đời nầy. Vâng chính họ đang sống trước mầu nhiệm phục sinh ngay ở dương gian nầy khi họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và theo ý định của Ngài qua việc kết hiệp với Chúa Giêsu và đi theo con đường Chúa Giêsu đã vạch ra, “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.

Lời Chúa hôm nay cho tôi thêm một cơ hội xác tín điều tôi vẫn tuyên xưng: “tôi tin xác loài người sẽ sống lại”, “ tôi tin một cuộc sống đời đời” và còn là cơ hội nhắc nhớ tôi không những phải hy sinh cái lý trí nhỏ bé của mình mà còn phải biết tránh “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh”  để đi vào con đường của Chúa Giêsu, con đường từ bỏ, hy sinh, yêu thương, phục vụ… “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.

Lạy Chúa, xin cho con yêu mến và tín thác hoàn toàn vào Chúa, xin cho con khát khao sống sự sống của Chúa, để không còn phải thắc mắc nào khác hơn là con luôn tự hỏi: “ Tôi có từ bỏ mọi sự để hoàn toàn thuộc về Chúa khi còn ở dương gian này hay chưa?”.

PM.Cao Huy Hoàng

TRẺ SINH ĐÔI

TRẺ SINH ĐÔI

“Chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách nhằm đảm bảo niềm vui vĩnh cửu ở đời sau.”

Có một bà mẹ mang thai đôi. Một đứa là gái, đứa kia là trai. Nhiều ngày tháng trôi qua, và chúng lớn dần. Khi càng lớn, chúng càng vui mừng ca hát: “Có được sự sống thật là vĩ đại!”

Cùng nhau chúng thám hiểm lòng mẹ. Khi chúng tìm thấy chiếc nhau của bà mẹ, chúng la lên vui sướng: “Mẹ thương chúng ta biết là chừng nào đến nỗi chia sẻ sự sống cho chúng ta!”

Không bao lâu, hai đứa ngày càng thay đổi đáng kể. Đứa con trai hỏi, “Thế nghĩa là gì?”

“Có nghĩa cuộc sống của chúng ta trong lòng mẹ sẽ chấm dứt,” đứa con gái trả lời.

“Nhưng mình không muốn rời lòng mẹ,” đứa con trai nói. “Mình muốn ở đây mãi.”

Đứa con gái trả lời, “Mình đâu có lựa chọn được. Nhưng mà biết đâu có đời sống sau khi sinh.”

“Làm sao được?” đứa con trai hỏi. “Chúng ta sẽ bị tách khỏi cái nhau của mẹ mình thì làm sao sống nổi? Hơn nữa, trong bụng mẹ có những chứng cớ rõ ràng là có những đứa sống trước mình, và chưa có đứa nào trở lại đây cho mình biết là có sự sống sau khi sinh. Không được đâu, đến đây là chấm dứt.”

Và rồi đứa con trai thấy tuyệt vọng, suy nghĩ. “Nếu đời sống trong bụng mẹ chấm dứt bằng cái chết, thì mục đích của đời sống đó là gì? Ý nghĩa của nó là gì? Có lẽ mình không có mẹ. Có lẽ mình chỉ bịa ra người mẹ để cảm thấy an tâm.”

“Nhưng chúng ta phải có một người mẹ,” đứa con gái nói. “Vì làm thế nào mà chúng ta vào đây được? Làm thế nào chúng ta sống được?”

Và rồi những ngày cuối cùng trong bụng mẹ đầy những thắc mắc và lo sợ.

Sau cùng, giây phút chào đời đã đến. Khi hai đứa mở mắt nhìn, chúng đã khóc vì sung sướng. Những gì chúng thấy còn hơn cả mơ ước.

Dĩ nhiên, câu chuyện trên chỉ là một ngụ ngôn. Nó so sánh đời sống ở thế giới này với đời sống trong lòng mẹ.

Cũng như hai đứa trẻ song sinh tự hỏi về đời sống sau khi sinh giống như thế nào thì chúng ta cũng tự hỏi về đời sống sau khi chết và thế giới ấy giống như gì.

Và cũng như đời sống sau khi sinh vượt quá những mơ ước của hai đứa song sinh thì đời sống sau khi chết cũng vượt quá ước mơ của chúng ta. Theo lời Thánh Phaolô:

Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người” (1 Corinthians 2:9)

Chuyện ngụ ngôn của hai đứa song sinh thích hợp với các bài đọc hôm nay. Vì cả Phúc Âm và bài đọc một đều rõ ràng đối phó với sự sống sau khi chết.

Và vì thế, có lẽ thật thích hợp cho chúng ta để suy nghĩ về đề tài đó.

Một cách cụ thể, chúng ta có thể suy nghĩ về câu hỏi rất thực tế: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau?

Câu hỏi này được đề cập đến trong một cuốn sách của Doris Lee McCoy có tựa đề là Megatraits: Twelve Traits of Successful People. (Vô Số Đặc Điểm: 12 Đặc Điểm của Người Thành Công).

Một trong những người mà cô McCoy phỏng vấn khi thực hiện cuốn sách là ông Peter Coors, chủ tịch ngành bia của công ty Adolph Coors.

Ông Adolph Coors từ nước Đức vào Mỹ dưới dạng hành khách đi tầu lậu vé. Ông đến Hoa Kỳ mà không có giấy thông hành, không một đồng xu, không có gì cả.

Từ một khởi đầu không ai dám nghĩ đến, ông đã sáng lập một trong những công ty thành công và giầu có nhất Hoa Kỳ.

Peter Coors là chắt của Adolph Coors. Khi cô McCoy hỏi ông Peter nghĩ gì về sự thành công, ông trả lời như sau:

“Sự thành công đối với tôi thật căn bản. Thứ nhất, khi cuộc đời tôi chấm dứt, sự thành công sẽ là đứng trước mặt Thiên Chúa, và cảm thấy rằng dù tôi có những lầm lỗi, tôi luôn luôn coi Thiên Chúa như tâm điểm của đời tôi.

“Thứ hai, sự thành công đối với tôi là có được một gia đình tốt đẹp và một hôn nhân tốt đẹp. Đó là một phần rất quan trọng của đời tôi.

“Thứ ba, sự thành công đối với tôi là, sau thời gian làm việc với công ty chấm dứt, tôi có thể nói rằng tôi đã giúp đỡ, không chỉ công ty, nhưng còn các nhân viên nữa.”

Ba nhận xét của ông Peter Coors bao gồm câu trả lời cho thắc mắc của chúng ta: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau?

Thứ nhất, chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách mà sau khi chết, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đoan chắc rằng Thiên Chúa luôn luôn ở tâm điểm của đời sống chúng ta.

Thứ hai, chúng ta phải sống theo một phương cách mà, sau việc yêu mến Thiên Chúa, việc yêu mến gia đình chiếm địa vị ưu tiên trong đời sống.

Sau cùng, chúng ta phải sống ơn gọi của mình theo một phương cách không những tích cực góp phần cho ngành nghề và lãnh vực hoạt động nhưng còn cho những người mà chúng ta cùng làm việc.

Nếu chúng ta có thể thi hành như vậy, quả thật cuộc đời chúng ta đã sống theo một phương cách được cam đoan bởi lời hứa của Thánh Phaolô:

“Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người”

Chúng ta hãy kết thúc với một bài thơ. Bài thơ này là một kết luận thực tế, thích hợp với những gì chúng ta vừa nói. Bài thơ mang tên “Dẫu Vậy.”

Con người thì vô lý, sai lầm, và ích kỷ,
Dẫu vậy hãy cố yêu thương họ!

Nếu bạn làm điều tốt, đời sẽ lên án bạn là vì nhiều ẩn ý.
Dẫu vậy hãy làm tốt cho họ!

Nếu bạn thành công, bạn sẽ có thêm những người giả dối và kẻ thù ghét bạn.
Dẫu vậy hãy thành công!

Những điều tốt bạn làm sẽ rơi vào quên lãng.
Dẫu vậy hãy làm tốt!

Sự thành thật và thẳng thắn khiến bạn dễ bị tổn thương.
Dẫu vậy hãy thành thật và thẳng thắn!

Những người vĩ đại với các tư tưởng vĩ đại có thể bị hạ nhục bởi những người ti tiện.
Dẫu vậy hãy nghĩ đến điều vĩ đại!

Những gì bạn bỏ công xây dựng cả năm có thể bị tiêu hủy sau một đêm.
Dẫu vậy hãy xây dựng!

Người ta thực sự cần được giúp đỡ nhưng họ có thể tấn công bạn nếu bạn giúp đỡ họ.
Dẫu vậy hãy giúp đỡ họ!

Bạn hết sức xây dựng thế giới và chỉ nhận được những đắng cay.
Dẫu vậy hãy hết sức trao ban cho thế giới
!

Cha Mark Link, S.J.

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI CHO TRẺ EM ĐƯỢC RỬA TỘI CÀNG SỚM CÀNG TỐT

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI CHO TRẺ EM ĐƯỢC RỬA TỘI CÀNG SỚM CÀNG TỐT

“Các Bí tích không phải là những nghi thức, chúng là sức mạnh của Đức Kitô.” Đức Phanxicô huấn dụ về những điểm chính yếu của đức tin và sự thực hành trong các Giáo hội Châu Âu

Trong buổi tiếp kiến chung hôm Thứ tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về sức mạnh của các Bí tích, trong khi nhấn mạnh và giải thích một số điểm để thổi sức sống mới vào trong những bản văn được chuẩn bị sẵn. Ngài nói các Bí tích không phải là những nghi thức; chúng là sức mạnh của Đức Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở trong các Bí tích. Khi chúng ta dâng Thánh lễ, chính Chúa Giêsu sống động ở đó trong phép Thánh Thể. Ngài đem chúng ta lại với nhau như một cộng đoàn, để tôn thờ Chúa Cha.

Sau đó đức Bergoglio nhấn mạnh rằng “mọi cuộc gặp gỡ với Đức Kitô trong các Bí tích ban ơn cứu độ cho chúng ta, mời gọi chúng ta “ra đi” và thông truyền cho người khác một ơn cứu độ mà chúng ta có thể nhìn thấy, có thể đụng chạm, gặp gỡ, đón nhận, và điều đó thật sự đáng tin cậy vì nó là tình yêu.” ” Theo cách nầy, các bí tích đưa dẫn chúng ta thành những nhà truyên giáo, và sự dấn thân tông đồ thúc đẩy chúng ta đem tin Mừng đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, ngay cả nơi chống đối nhất, là hoa trái đích thực của một đời sống bí tích chuyên chăm, nó như là sự dự phần vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng muốn trao tặng ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người.”

Đức Thánh Cha đã nói trong một nhận xét ứng khẩu rằng: “Và như thế có được sự hiệp thông là điều rất quan trọng. Quan trọng là trẻ em cần được rửa tội sớm, quan trọng là chúng được xác nhận là thành viên. Tại sao, vì đây là sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong chúng ta, Ngài giúp đỡ chúng ta. Quan trọng là, khi chúng ta cảm nhận rằng chúng ta đã phạm tội, chúng ta đến với Bí tích Giao hòa. ‘Không, thưa Cha, con sợ lắm, bởi vì linh mục sẽ la mắng con!’ Không, vị linh mục sẽ không la mắng bạn. Bạn có biết bạn sẽ gặp ai trong Bí tích Giao hòa không? Chúa Giêsu, Chúa Giêsu tha thứ cho bạn. Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn ở đó, và đây là một bí tích. Nó làm nên toàn thể Giáo Hội.”

Do đó Đức Phanxicô nhấn mạnh vào sự quan trọng của việc rửa tội trẻ em từ sớm và của việc có sự hiệp thông. Đức Bergoglio nhắc lại rằng Giáo Hội cần phải “tạo điều kiện” cho đức tin của người ta chứ không phải ra qui định cho nó. Đức Thánh Cha đã làm một ví dụ bằng việc rửa tội một số người trong các chuyến hành hương của ngài và những ngày lễ các thánh. Ngài luôn ban phép Rửa tội sau các bài giáo lý ngắn gọn.

Trong một cuốn sách phỏng vấn với Francesca Ambrogetti và Sergio Rubin, vị TGM của Buenos Aires hồi đó đã nói: “Có một ngày tôi đã rửa tội cho bảy em bé của cùng một người mẹ, một góa phụ nghèo vốn là một người trông coi việc nhà và đã có con với hai người đàn ông khác nhau. Tôi đã gặp bà năm vừa qua tại Lễ Thánh Cayetano. Bà ấy nói với tôi: Thưa Cha, con đã phạm một tội thật lớn, con có 7 đứa con nhưng con chưa bao giờ rửa tội cho một đứa nào cả. Đó là vì bà ấy không có tiền để trả cho những người đỡ đầu, họ vốn ở xa, để đến dự phép rửa tội, hoặc để chi tiền cho những lễ mừng sau đó, vì bà ta phải làm việc liên tục… Tôi đề nghị gặp gỡ để nói về chuyện nầy. Chúng tôi đã nói chuyện qua điện thoại, bà ấy đến gặp tôi, bà nói không bao giờ có thể tìm được tất cả những người đỡ đầu và qui tụ họ lại với nhau..Cuối cùng tôi nói với bà ấy: chỉ cần hai người đỡ đầu đại diện cho những người khác. Tất cả bọn họ đã đến đây và sau một bài giáo lý ngắn tôi đã rửa tội đám trẻ trong nhà nguyện của tòa Tổng Giám Mục. Sau nghi lễ có một ít giải khát, ít Coca và ít mì sandwich. Bà ấy nói với tôi: Thưa Cha, con không thể tưởng tượng được, Cha làm cho con cảm thấy quan trọng… Tôi đã trả lời: thưa bà không phải là tôi, đó là Chúa Giêsu, Đấng làm cho bà nên quan trọng.”

“Sau một bài giáo lý ngắn…” Điều nầy gợi nhớ đến tiến trình khai tâm Kitô giáo trong các Giáo hội Âu châu. Ban bí tích cho trẻ em, thường là một cơ hội tuyệt vời để nhắc nhở các bậc cha mẹ về sứ điệp của Tin Mừng. Có thể hiểu được rằng các khóa học có một khoảng thời gian nhất định. Trong khi các gia đình trì hoãn về phép rửa tội, các giáo phận đang gia tăng trì hoãn sự hiệp thông và xác nhận. Bằng cách làm như thế họ có nguy cơ làm cho phép bí tích có vẻ như là điểm kết thúc, mục tiêu cuối cùng của con đường chuẩn bị nầy. Và rằng nó tùy thuộc vào sự chuẩn bị của người nhận lãnh bí tích. Dĩ nhiên sự chuẩn bị là cần thiết. Nhưng điều quan trọng là đừng làm mất đi điểm nhấn trên “sức mạnh” của bí tích, như Đức Thánh Cha đã thể hiện. Hiệu quả của bí tích không tùy thuộc hoàn toàn vào chiều dài của gian đoạn chuẩn bị của ứng viên.

XT (theo Vatican Insider) – Trích từ Xuân Bích VN

Không có tình yêu tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội

Không có tình yêu tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội

Không có tình yêu, tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội, bởi vì ở đâu không có tình yêu thương, thì có sự trống rỗng, một sự trống rỗng được lấp đầy bởi sự ích kỷ. Sống sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp thông bác ái có nghĩa là không tìm lợi lộc cho riêng mình, mà chia sẻ các khổ đau và các vui mừng của các anh chị em khác (x. 1 Cr 12,26), sẵn sàng mang các gánh nặng của những người yếu đuối và nghèo nàn hơn và biến chúng trở thành các niềm vui và khổ đau của chính mình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung với ngài tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 6-11-2013.

Trong buổi tiếp kiến, đã có hàng trăm người tàn tật trong đó có rất đông các trẻ em. Đức Thánh Cha đã dành ra hơn một giờ đồng hồ để chào thăm, hôn, vuốt ve và an ủi họ. Cũng có một phái đoàn trong sắc phục thời trung cổ rất đẹp với trống và cờ giàn hàng chào danh dự rước Đức Thánh Cha lên khán đài.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển khía cạnh thứ hai của sự hiệp thông trong Giáo Hội: đó là sự hiệp thông với các điều thánh thiện, nghĩa là các thiện ích thiêng liêng. Hai khía cạnh gắn liền nhau, thật vậy sự hiệp thông giữa các kitô hữu lớn lên nhờ việc tham dự vào các thiện ích thiêng liêng. Một cách đặc biệt, Đức Thánh Cha nói, chúng ta duyệt xét các Bí Tích, các đặc sủng và tình bác ái (x. GLGHCG ss. 949-953). Chúng ta lớn lên trong sự hiệp nhất, trong sự hiệp thông với các Bí tích, với các đặc sủng mà mỗi người có bởi vì Chúa Thánh Thần đã ban chúng cho họ với tình bác ái.

Trước hết là sự hiệp thông với các Bí Tích. Đức Thánh Cha giải thích như sau:

Các Bí Tích diễn tả và thực hiện một sự hiệp thông hữu hiệu và sâu xa giữa chúng ta, bởi vì trong các Bí Tích chúng ta gặp Chúa Kitô Cứu Thế, và qua Người, gặp gỡ các anh em khác trong đức tin. Các Bí tích không phải là các vẻ bề ngoài, không phải là các nghi thức. Các Bi Tích là sức mạnh của Chúa Kitô, có Chúa Giêsu Kitô trong các Bí Tích. Khi chúng ta cử hành Thánh Lễ, trong Bí Tích Thánh Thể có Chúa Giêsu sống động, chính Ngài sống động quy tụ chúng ta, làm cho chúng ta trở thành cộng đoàn, làm cho chúng ta thờ phượng Thiên Chúa Cha.

Mỗi người trong chúng ta, qua các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, được tháp nhập vào Chúa Kitô và hiệp nhất với toàn cộng đoàn các tín hữu. Vì thế nếu một đàng Giáo Hội ”làm ra” các Bí Tích, đàng khác chính các Bí Tích ”làm ra” Giáo Hội, xây dựng Giáo Hội, bằng cách sinh ra các con cái mới, kết hiệp họ với dân thánh của Thiên Chúa, bằng cách củng cố sự tùy thuộc của họ.

Mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong các Bí tích trao ban cho chúng ta ơn cứu rỗi, mời gọi chúng ta ”ra đi”, và thông truyền cho người khác một sự cứu rỗi mà chúng ta đã có thể trông thấy, sờ mó được, gặp gỡ, tiếp đón; và nó thật là đáng tin cậy, bởi vì là tình yêu. Trong cách thế đó, các Bí Tích thúc đẩy chúng ta trở thành thừa sai, và dấn thân tông đồ đem Tin Mừng vào trong mọi môi trường, cả những môi trường thù nghịch nhất, làm thành hoa trái đích thật nhất của một cuộc sống kiên trì lãnh nhận các Bí Tích, trong việc tham dự vào sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, là Đấng muốn ban tặng ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ơn thánh của các Bí Tích dưỡng nuôi trong chúng ta một đức tin mạnh mẽ và tươi vui, một đức tin biết kinh ngạc trước các ”sự kỳ diệu” của Thiên Chúa và biết chống trả lại các ngẫu tượng của thế giới.
Khía cạnh thứ hai là sự hiệp thông của các đặc sủng. Đức Thánh Cha nói:

Chúa Thánh Thần phân phát cho các tín hữu nhiều quà tặng và ơn thánh thiêng liêng. Sự phong phú ”tuyệt vời” này trong các ơn của Chúa Thánh Thần có mục đích xây dựng Giáo Hội. ”Đặc sủng” là một từ hơi khó. Các đặc sủng là các món qùa mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta: người thì được món qùa là như vậy, hay có tài khéo này hoặc khả năng khác… Nhưng chúng là các món qùa, mà Người ban cho chúng ta không để bị cất dấu đi: Người ban cho chúng ta để chia sẻ với các ngươi khác.

Chúng không được ban cho lợi ích của người nhận chúng, nhưng cho lợi ích của dân Chúa. Trái lại, nếu một ơn, một trong các món qùa này dùng để tự khẳng định chính mình, thì cần phải nghi ngờ rằng đây là một đặc sủng đích thực hay được sống một cách trung thành. Thật ra, các đặc sủng là các ơn thánh đặc biệt, các gợi hứng và các thúc đẩy nội tâm, nảy sinh trong lương tâm và trong kinh nghiệm của các người nhất định, được mời gọi dùng các ơn đó để phục vụ cộng đoàn. Một cách đặc biệt các ơn thiêng liêng này là để mưu ích cho sự thánh thiện của Giáo hội và sứ mệnh của Giáo Hội. Tất cả đều được mời gọi tôn trọng các đặc sủng ấy nơi chúng ta và nơi người khác, tiếp nhận chúng như các khích lệ ích lợi cho sự hiện diện và công việc phong phú của Giáo Hội. Thánh Phaolô đã cảnh cáo: ”Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1 Tx 5,19). Đừng dập tắt Thần Khí, Đấng ban cho chúng ta các món qùa đó, các tài khéo, các nhân đức, các điều xinh đẹp biết bao khiến cho Giáo Hội lớn lên.

Rồi Đức Thánh Cha nêu lên vài câu hỏi như sau: Đâu là thái độ của chúng ta trước các ơn này của Chúa Thánh Thần? Chúng ta có ý thức được rằng Thần Khí Chúa tự do ban chúng như Người muốn không? Chúng ta có coi các đặc sủng ấy như là một sự trợ giúp thiêng liêng, qua đó Chúa nâng đỡ đức tin của chúng ta, củng cố nó và cũng củng cố sứ mệnh của chúng ta trong thế giới hay không?

Khía cạnh thứ ba của sự hiệp thông với các điều thánh thiện, nghĩa là sự hiệp thông của tình bác ái. Sự hiệp nhất giữa chúng ta làm ra tình bác ái là tình yêu. Khi trông thấy các kitô hữu tiên khởi, các người ngoại giáo nói: ”Mà những người này yêu nhau biết chừng nào! Họ không ghét nhau, không bép xép người này chống người kia. Thật là tốt đẹp! Tình bác ái đó là tình yêu của Thiên Chúa mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta trong con tim.

Các đặc sủng quan trọng trong cuộc sống của cộng đoàn kitô, nhưng chúng luôn luôn là các phương thế giúp lớn lên trong tình bác ái, trong tình yêu, mà thánh Phaolô đặt lên trên tất cả mọi đặc sủng (x. 1 Cr 13,1-13). Thật vậy, không có tình yêu thì cả các ơn ngoại thường nhất cũng là hư vô. Nhưng người này chữa lành dân chúng, có đặc tính này, có nhân đức này chữa lành dân chúng. Nhưng ông ta có tình yêu trong con tim không? Có tình bác ái không? Nếu có thì tiến lên, nhưng nếu không, thì không phục vụ Giáo Hội. Không có tình yêu, tất cả mọi ơn không lợi gì cho Giáo Hội, bởi vì ở đâu không có tình yêu thương, thì có sự trống rỗng, một sự trống rỗng được lấp đầy bởi sự ích kỷ. Và tôi xin hỏi anh chị em nhé: nếu tất cả chúng ta đều ích kỷ, chỉ ích kỷ, thì có thể sống trong hòa bình được không? Có thể sống trong hòa bình không, nếu mọi người chúng ta là một người ích kỷ? Có thể hay không có thể? Người ta trả lời là không. Không thể được. Vì thế, cần có tình yêu để hiệp nhất chúng ta, cần có tình bác aí. Cử chỉ bé nhỏ nhất của tình yêu thương có các hiệu qủa tốt cho mọi người. Và Đức Thánh Cha khẳng định như sau:

Vì vậy sống sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp thông bác ái có nghĩa là không tìm lợi lộc cho riêng mình, mà chia sẻ các khổ đau và các vui mừng của các anh chị em khác (x. 1 Cr 12,26), sẵn sàng mang các gánh nặng của những người yếu đuối và nghèo nàn hơn. Tình liên đới huynh đệ này không phải là một hình ảnh hùng biện, một kiểu nói, nhưng là phần toàn vẹn của sự hiệp thông giữa các tín hữu kitô. Nếu chúng ta sống nó, chúng ta sẽ là dấu chỉ trong thế giới, chúng ta là ”bí tích” tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta là bí tích tình yêu cho nhau và cho tất cả mọi người! Đây không chỉ là tình bác ái, cái bác ái tiền lẻ mà chúng ta có thể cống hiến cho nhau, nhưng là cái gì sâu xa hơn: đó là một sự hiệp thông khiến cho chúng ta có khả năng bước vào niềm vui và khổ đau của người khác để biến chúng trở thành niềm vui và khổ đau của chúng ta một cách chân thành.

Đức Thánh Cha nói thêm: Thường khi chúng ta quá khô khan, thờ ơ, xa cách và thay vì thông truyền tình huynh đệ, chúng ta thông truyền sự khó chịu, chúng ta thông truyền sự lạnh lùng, chúng ta thông truyền sự ích kỷ. Và với sự khó chịu, với sự lạnh lùng, với sự ích kỷ có thể làm cho các giáo đoàn lớn lên không? Có thể làm cho toàn Giáo Hội lớn lên không? Không. với sự khó chịu, với sự lạnh lùng với sự ích kỷ Giáo Hội không lớn lên: nó chỉ lớn lên với tình yêu thương, với tình yêu thương đến từ Chúa Thánh Thần. Chúa mời gọi chúng ta rộng mở cho sự hiệp thông với Người trong các Bí Tích và trong tình bác ái, để sống một cách xứng đáng với ơn gọi kitô của chúng ta.

Và bây giờ tôi xin cho phép mình xin anh chị em một cử chỉ bác ái. Anh chị em yên tâm, sẽ không có việc quyên tiền đâu. Một cử chỉ bác ái. Trước khi đến quảng trường tôi đã đi thăm một bé gái một tuổi rưỡi bị bệnh rất nặng. Cha mẹ em cầu nguyện và xin Chúa ban sức khỏe cho bé gái xinh đó. Bé tên là Noemi. Bé cười, thật tội nghiệp. Chúng ta hãy làm một cử chỉ bác ái. Chúng ta không biết em, nhưng em là một bé gái đã được rửa tội, là một người trong chúng ta, một kitô hữu. Chúng ta hãy làm một cử chỉ bác ái đối với em, và trong thinh lặng trước hết chúng ta xin Chúa giúp em trong lúc này và ban cho em sức khỏe. Trong thinh lặng, một chút, rồi chúng ta đọc Kinh Kính Mừng. Và bây giờ tất cả chúng ta cầu xin Đức Mẹ cho sức khỏe của Noemi.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cùng mọi người đọc kinh Kính Mừng. Rồi ngài nói: xin cám ơn anh chị em vì cử chỉ bác ái này.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio