Thấy, Biết rồi Làm Chứng

Thấy, Biết rồi Làm Chứng

Trong cuộc sống, chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.

Gioan cũng thế, trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, hai lần ông khẳng định: “Tôi đã không biết Người” (Ga.1,31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa “biết” Ngài.

Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (Lc.1,36), dù ông đã có một số thông tin về Ngài, và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (Mt.3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.

Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ. Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá ra Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là “Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn”. Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông làm phép rửa. Bây giờ ông mới có thể nói: ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã “biết” sau khi ông đã “thấy”.

Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh luyện. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu. Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Ông vui khi giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ của mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga.3,26). Ông sung sướng khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật lên (Ga.3,30).

Từ cái biết nhờ thấy, Gioan đã trở nên người làm chứng cho Đức Giêsu. Hành trình chứng nhân của Gioan cũng là của bạn và tôi hôm nay: “thấy, biết rồi làm chứng”.

Biết một người là chuyện khó. Biết Đức Giêsu còn khó hơn. Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người Giêsu, Đấng đã là đích điểm giao hòa giữa trời và đất; Đấng là tạo hóa nhưng lại hòa đồng với tạo vật, và cũng là Đấng đã liên kết giữa thần linh thánh thiện và con người tội lỗi.

Để biết Đức Giêsu, ta cần thấy Ngài tỏ mình ra. Nhưng không phải ta sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những việc xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, qua những con người đơn sơ ta vẫn gặp. Ta cần tập nhìn thấy Ngài tiềm ẩn sau lớp vỏ bọc xù xì của thực tế đời thường.

Cần thường xuyên làm mới lại “cái biết” về Đức Giêsu để mối tương quan của ta với Ngài mỗi ngày trở nên thâm trầm hơn, thân mật hơn. Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, là gặp gỡ, là chia sẻ chính cuộc đời của Ngài, là để “ta sống trong Ngài và Ngài sống trong ta”, thì cái biết đó phải là nỗ lực của cả một đời người Kitô.

Và lúc này đây, mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra đôi ba phút ngắn ngủi để đi vào lòng mình; để tìm gặp khuôn mặt Giêsu: Ngài đang ở đâu, ở chỗ nào trong cuộc sống của tôi? Tôi phải làm gì để nhận ra Ngài, bắt gặp Ngài đang sống bên tôi trong cuộc đời tạm bợ này?

Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29). Còn bạn và tôi, chúng ta sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho những người xung quanh ta hôm nay?

Lạy Chúa Giêsu!

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ vô nghĩa.

Xin cho con cảm nhận tình Chúa thật bao la sâu thẳm, để con luôn được sống trong tình yêu thương sâu thẳm bao la ấy.

Xin cho con biết Chúa thật nhân từ và bao dung, để mỗi khi con vấp ngã trên đường đời, con luôn biết chỗi dậy và trở về cùng Chúa.

Giêsu ơi! Xin Ngài hãy đến và cư ngụ trong lòng con luôn mãi, để không còn là con nữa, mà là chính Ngài đang sống trong con. Amen.

Veritas Radio

         Đây Chiên Thiên Chúa

Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”. Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.

Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.

Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu. Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân. Người Do Thái nhớ đến con chiên. Con chiên đã chết cho họ được sống. Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng. Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.

Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.

Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.

Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn. Xóa là đứng ngoài cuộc. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người. Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ. Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.

Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.

Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) “Chiên Thiên Chúa” gợi lên những ý tưởng nào nơi bạn?

2) Là ‘con chiên của Chúa’ bạn phải sống thế nào cho xứng đáng danh hiệu ấy?

3) Thánh Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với tất cả ý nghĩa sâu xa của danh hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, nếu phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người chung quanh, bạn sẽ dùng danh hiệu nào?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

 

Đây Chiên Thiên Chúa…

Đây Chiên Thiên Chúa…

Trong những ngày này, ngang qua Lời Chúa trong các bài Tin Mừng, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta chân dung của thánh Gioan Tẩy Giả, như là chứng nhân của Đức Kitô, Đấng là Sự Sống và Ánh Sáng.

Xin Chúa cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao trở thành chứng nhân của Đức Kitô, bằng cách đón nhận sự sống mỗi ngày của chúng ta từ Ngôi Lời, và sống sự sống của chúng ta như là ánh sáng, thay vì như là bóng tối. Bởi vì Ngôi Lời là Sự Sống và ở nơi Người Sự Sống là Ánh Sáng.

Trả lời cho câu hỏi về căn tính “ông là ai?”, thánh Gioan tuyên bố thẳng thắn, mình không phải là Đấng Kitô. Nhưng điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên, đó là ông cũng không tự cho mình là Elia hay là một ngôn sứ:

Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? ” Ông đáp: “Không”.

Trong khi đó, Đức Giêsu sẽ nói về ông như là vị ngôn sứ lớn nhất và như chính ngôn sứ Elia trở lại: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả… Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Êlia, người phải đến (Mt 11, 11-15 và 17, 10-13). Nhưng về phần thánh Gioan, ngài chỉ tự nhận mình như là tiếng hô hoàn toàn hướng về Đức Chúa: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Xin cho chúng ta có lòng ước ao có được tâm tình khiêm tốn này của thánh Gioan:

Như thánh Gioan đã trở thành điều mà lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Cũng vậy, chúng ta được mời gọi để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi cuộc đời của mình. Xin cho Lời Chúa mà chúng ta đọc, lời nguyện Thánh Vịnh mà chúng ta hát dâng lên Chúa hàng ngày cũng được ứng nghiệm, được thực hiện nơi cuộc đời và trong mỗi ngày sống của chúng ta.

Như thánh Gioan, chúng ta được mời gọi sống sự sống của mình, sống thời gian Chúa ban, sống đời mình và ơn gọi của mình như một lời mời gọi, không phải mời gọi qui về mình, nhưng là qui về Đức Kitô.

Như thánh Gioan, chúng ta cũng tự mình không thể biết Đức Kitô, nhưng đó là ơn huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, thánh nhân nhấn mạnh:

Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”,“Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.

Như thế, sự hiểu biết Đức Kitô của thánh Gioan hoàn toàn là ơn huệ: của chính Thiên Chúa Chúa Cha, vì Người đã thúc đẩy thánh Gioan đi tìm kiếm Đức Kitô; của Chúa Thánh Thần, vì dấu chỉ để nhận biết Đức Kitô, là sự hiện diện của Thần Khí; và cuối cùng là của chính Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa đến tỏ mình ra cho thánh Gioan:

Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.

Cũng vậy, lời chứng của chúng ta về Đức Kitô, cũng hoàn toàn đến từ kinh nghiệm được đích thân gặp gỡ Đức Kitô và giới thiệu Người cho mọi người, như thánh Gioan sẽ giới thiệu Đức Kitô cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.

“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Lời tuyên xưng này chất chứa cả một mầu nhiệm cứu độ và vì thế, trở thành bất hủ, vì được tuyên xưng tới bốn lần trong mỗi Thánh Lễ: sau khi chúng bình an, cộng đoàn phụng vụ đọc hay hát: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…” (3 lần); tiếp đến, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh trên chén (hoặc dĩa) thánh, long trọng công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”.

Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội, nhưng lại mang vào mình mọi tội lỗi của từng người và loài người chúng ta, như Người Tôi Tớ Đau Khổ, để ban cho chúng ta sự vô tội của Ngài.

Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội bị sát tế, để bày tỏ sự tín thác tuyệt đối vào đức công chính và sự sống mạnh hơn sự chết nơi Thiên Chúa, và để trở thành đường đi và sự sống cho chúng ta.

Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên hiền lành, diễn tả khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi.

Như thánh Gioan, xin cho chúng ta cũng khao khát gặp gỡ, hiểu biết và yêu mến Đức Kitô, để có thể nói cho mọi người, ngang qua chính đời sống hằng ngày của chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.

LM Giuse Nguyễn văn Lộc

Chiên Thiên Chúa

Chiên Thiên Chúa

Chúng ta vừa kết thúc Phụng vụ Mùa Giáng Sinh. Những trang trí hoa đèn của mùa Noel đã được tháo gỡ và hạ xuống. Bầu khí khu thánh đường trở lại vẻ lặng lẽ và bình thường trong khí trời tuyết lạnh. Giờ đây chúng ta bắt đầu tiếp tục suy gẫm về sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu. Chúng ta được Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu: “Khi ấy, ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: ‘Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian.’” (Ga 1,29). Khai mở một triều đại mới của Nước Trời. Chúa Giêsu đã hiện diện đồng hành với Dân Người. Chúng ta cần học hiểu về ý nghĩa thần học của con chiên. Chúa Giêsu được ví như cửa chuồng chiên, người chăn chiên tốt lành và chủ chiên. Chủ chiên đi trước và đàn chiên bước theo sau. Trong Cựu Ước hình ảnh quen thuộc của những con chiên tinh tuyền bị hiến tế, con chiên gánh tội, con chiên hiền lành bị xén lông và bị giết để lấy máu chiên đuợc bôi trên cửa, rảy trên dân chúng và thịt chiên nướng làm của ăn.

Tiên tri Isaia đã tiên báo nhiều điều về Đấng sẽ ban ơn cứu độ. Ngài là ánh sáng và nguồn qui tụ mọi con dân về một mối: Người đã phán: “Làm tôi tớ Ta chẳng có là bao, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về; này đây Ta đặt ngươi như ánh sáng các dân tộc để ơn cứu độ của Ta tràn lan khắp địa cầu.” (Is 49,6). Khoảng 600 năm trước Chúa Giêsu, Isaia đã có những thị kiến ngưỡng vọng về một tương lai huy hoàng. Thiên Chúa sẽ quy tụ mọi con cái đang tản mác khắp nơi về một nguồn sống. Ơn cứu độ sẽ lan tràn khắp chốn và vinh quang của Thiên Chúa sẽ được chiếu toả khắp mọi nơi: Chúa đã phán cùng tôi: “Hỡi Israel, ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta được vinh danh nơi ngươi.” (Is 49,3).

Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri sau cùng nối kết giữa Cựu Ước và Tân ước. Chương trình cứu độ được thể hiện qua dòng dõi của một Dân tộc mà Chúa đã chọn. Trải qua thời gian, cho dù dân chúng có ngỗ nghịch, ương ngạnh và từ bỏ Chúa, Thiên Chúa vẫn tín trung giữ lời đã giao ước với các cha ông. Gioan được sai đến như vị tiên hô để chứng dám và giới thiệu cho toàn dân về Đấng Cứu Thế: Và Gioan đã làm chứng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài.” (Ga 1,32). Gioan đã chu toàn sứ mệnh tiền hô và chuẩn bị lòng dân đón Chúa. Ông đã được nhìn xem tận mắt và chứng kiến Đấng đến sau ông và ông không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.

Gioan kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị đường lối của Chúa cho ngay thẳng. Có nhiều người đã chạy đến với Gioan xin lãnh nhận phép rửa sám hối. Một số người thật lòng sám hối ăn năn và sửa đổi đời sống. Cũng có những vị tai mắt trong dân thuộc nhóm Biệt phái và Xađốc chạy đến với Gioan xin nhận phép rửa, nhưng Gioan đã đọc được tâm tư của họ, ông nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3,7). Gioan đã mạnh mẽ rao giảng sự thật giúp mọi người chuẩn bị đón nhận Nước Trời. Ông không vị nể người quyền thế, nhưng dám đối diện thách thức các vị chức sắc trong xã hội và tôn giáo. Gioan đã vạch rõ con đường nội tâm phải sửa đổi cho ngay thẳng và chân thành.

Có một vị giảng thuyết ngoài đường phố đặt một thùng xà phòng ở một góc đường có đông người qua lại. Ông ta can đảm rao giảng về Chúa và sự cần thiết có Chúa trong đời sống, nhưng người qua kẻ lại chỉ đáp lại với thái độ thờ ơ, lãnh đạm. Đột nhiên, ông thay đổi cách thế rao giảng. Kìa có một viên chức trong văn phòng biệt thự đi ra ngoài để ăn trưa, vị giảng thuyết nhìm chằm chằm vào mắt ông và đưa ngón tay chỉ thẳng vào mặt ông và la lớn: Có tội. Rồi ông giữ im lặng vài giây, chọn từ khác ‘nạn nhân’ để cố gắng kéo sự chú ý của vị khách. Ông đưa cánh tay phải lên và chỉ ngay mặt và la to: Tội phạm. Sự đáp trả rất ngoạn mục, khi mới khởi đầu ra rao giảng, sự đáp trả chỉ là một sự khinh rẻ và cười nhạo hay chỉ là vô tư. Tuy nhiên, bây giờ, sự trả lời là một sự khuấy động nội tâm và viên chức văn phòng thực sự bắt đầu cảm thấy có điều lỗi. Có vẻ như là vị giảng thuyết đang đụng chạm tận cửa nhà và hình như người ta nghĩ vị giảng thuyết biết những sự thầm kín của họ.

Tuy thời gian không dài nhưng ông Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành được sứ mệnh của người dọn đường. Ông đã xác tín một điều mà muôn dân đợi trông: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa.” (Ga 1,34). Ngày nay chúng ta có cơ hội học biết về toàn thể lịch sử ơn cứu độ. Chúng ta có một bức tranh diễn tiến qua từng giai đoạn đón chờ của Dân Thánh. Chúng ta học biết một cách rõ ràng hơn về cách thế Thiên Chúa đã dẫn dắt lịch sử. Chúng ta biết rằng dân Dothái thuở xưa đã phải lần bước trong đêm tối của đức tin với niềm hy vọng. Ngày nay có rất nhiều người Dothái vẫn còn trong tâm tình chờ đợi. Những lời tiên báo, những dấu chỉ và sự xuất hiện của Ngôi Lời đã đến cách đây cả hai thiên niên kỷ. Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao nhiều người Dothái trong thời đó đã không nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng xoá tội trần gian? Vì Chúa Giêsu đã ẩn mình xuống thế làm người như chúng ta.

Chiên Thiên Chúa đã xuất hiện và đã làm rất nhiều phép lạ để tỏ bày uy quyền trên mọi thụ tạo. Có rất nhiều người đã được ơn chữa bệnh, được ăn bánh, cá và được nhìn xem những dấu chỉ lạ thường, nhưng họ vẫn không tin. Từ dòng dõi này qua dòng dõi kia, họ vẫn còn trong tâm tình chờ đợi khao khát ơn cứu độ. Thánh Gioan Tẩy Giả đã đọc được những tâm tình của những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Các thượng tế nắm chặt truyền thống và trung thành với Giáo Ước cũ. Nhưng lạ thay, các nhà chiêm tinh ngoại giáo đã nhìn thấy dấu chỉ và tìm đến cung đình để hỏi vua Hêrôđê về Vua của Dân Dothái. Vua Hêrôđê đã tụ họp các thượng tế và kinh sư cẩn thận tìm hiểu lời tiên báo của các ngôn sứ nói về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế: “Phần ngươi, hỡi Belem, miền đất Giuđa, người đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì người là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2,6).

Chúa Giêsu Kitô đã đến và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Trong thời gian ngắn ngủi, Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời do miệng các tiên tri đã phán dạy. Ngài đã hiến thân mình như con chiên hiền lành bị đem đi giết. Chính Ngài đã hiến dâng mình để cứu độ và giải thoát con người khỏi tội lỗi, sự tối tăm và sự dữ. Ngài đã chiến thắng tử thần, đã sống lại từ cõi chết và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Danh thánh của Ngài được truyền rao qua mọi thế hệ. Thư của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi cho giáo đoàn Corintô đã trình bày: “Kính chào Hội Thánh Chúa ở Côrintô, những người được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang kêu cầu thánh danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (1 Cr 1,2). Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian.

Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian xin thương xót chúng con. Chúa Chiên Lành đã yêu thương ẵm vác trên vai những con chiên bị thương tích và đưa dẫn chiên lạc lối trở về. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa đến đồng cỏ xanh tươi, có nguồn suối mát và chúng con sẽ được nghỉ ngơi an bình.

LM. Giuse Trần Việt Hùng

Bí tích Rửa Tội biến tín hữu trở thành chi thể của Giáo Hội Thân Mình của Chúa Kitô, môn đệ và thừa sai

Bí tích Rửa Tội biến tín hữu trở thành chi thể của Giáo Hội Thân Mình của Chúa Kitô, môn đệ và thừa sai

Bí tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Chúa Kitô, làm cho chúng ta trở thành chi thể của Giáo Hội và biến chúng ta trở thành môn đệ và thừa sai loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm, mỗi người theo cương vị của mình.

Đức Thánh Cha đã nói như trên với hơn 40.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 15-1-2014.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bầy đề tài giáo lý hiệu qủa quan trọng của bí tích Rửa Tội: đó là làm cho chúng ta trở thành các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô và Dân Thiên Chúa. Thánh Toma thành Aquino khẳng định rằng ai lãnh nhận bí tích Rửa tội thì được gia nhập vào Chúa Kitô như chính chi thể của Người và được gia nhập cộng đoàn tín hữu (Summa Theologiae, III, q.69, art.5 q.70, art.1). Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ:

Theo học trường của Công Đồng Chung Vaticăng II ngày nay chúng ta nói rằng bí tích Rửa Tội làm cho chúng ta vào trong Dân Chúa, trở thành các chi thể của một dân tộc tiến bước lữ hành trong lịch sử.

Thật thế, như người ta thông truyền sự sống từ thế hệ này sang thế hệ khác, cũng thế từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua giếng rửa tội người ta thông truyền ơn thánh, và với ơn thánh Dân Chúa bước đi trong thời gian, như một dòng sông tưới gội trái đất và phổ biến phước lành của Thiên Chúa trong thế giới. Từ khi Chúa Giêsu nói điều này, mà chúng ta đã nghe từ Phúc Âm, các môn đệ đã ra đi rửa tội, và từ thời đó cho tới nay có một dây xích trong việc thông truyền đức tin qua bí tích Rửa Tội, và mỗi người trong chúng ta là một móc của dây xích đó, một bước luôn tiến tới như một dòng sông tưới gội. Ơn thánh của Thiên Chúa là như thế, và đức tin của chúng ta là như thế, mà chúng ta phải thông truyền cho con cái, thông truyền cho các trẻ em, để khi chúng lớn lên chúng cũng có thể thông truyền cho con cái chúng. Bí tích Rửa Tội là như thế. Tại sao vậy? Bởi vì bí tích Rửa Tội làm cho chúng ta bước vào dân này của Thiên Chúa, là dân thông truyền đức tin. Đây là điều rất quan trọng. Một dân của Thiên Chúa bước đi và thông truyền đức tin.

Nhờ bí tích Rửa Tội chúng ta trở thành môn đệ thừa sai, được mời gọi đem Tin Mừng vào trong thế giới (Evangelium gaudium, 120). Mỗi người trong chúng ta, dù có nhiệm vụ nào trong Giáo Hội và có mức độ đào tạo đức tin ra sao, cũng là chủ thể tích cực của việc rao truyền Tin Mừng… Việc tái truyền giảng Tin Mừng đòi hỏi một phong trào tác nhân mới của từng người đã được rửa tội” (ibid). Dân Chúa là một Dân môn đệ, bởi vì lãnh nhận đức tin, và là thừa sai, bởi vì thông truyền đức tin. Đó là điều mà bí tích Rửa Tội làm nơi chúng ta: nó khiến cho chúng ta nhận được ơn thánh. Và đức tin thông truyền đức tin.

Trong Giáo Hội chúng ta tất cả là các thừa sai, mỗi người trong cương vị của mà Chúa đã trao phó cho. Tất cả mọi người: người nhỏ nhất cũng là thừa sai, và người xem ra lớn hơn là môn đệ. Nhưng mà có người nói rằng: ”Thưa cha, các Giám Mục không phải là các môn đệ, các Giám Mục biết mọi sự; Đức Giáo Hoàng biết mọi sự, ngài không phải là môn đệ”. Nhưng mà cả các Giám Mục và Giáo Hoàng cũng phải là các môn đệ, bởi vì nếu các vị không là môn đệ, thì các vị không làm tốt, không thể là thừa sai được, không thể thông truyền đức tin. Hiểu chưa? Anh chị em đã hiểu điều này chưa? Nó rất quan trọng. Chúng ta tất cả đều là môn đệ và thừa sai.

Có một dây không thể tháo cởi được giữa chiều kích thần bí và chiều kích truyền giáo của ơn gọi kitô, cả hai đều đâm rễ sâu trong bí tích Rửa Tội. ”Khi nhận lãnh đức tin và bí tích Rửa Tội, kitô hữu chúng ta lãnh nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần, là Đấng dẫn đưa tới chỗ tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và gọi Thiên Chúa là ”Abba” Cha. Mọi người nam nữ đã được rửa tội đều được mời gọi sống và thông truyền sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi vì truyền giáo là một lời mời gọi tham dự vào sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa (Tài liệu Aparecida, 157). Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh trên sự hiệp thông này như sau:

Không ai được cứu rỗi một mình. Đây là điều quan trọng. Không ai được cứu rỗi một mình. Chúng ta là cộng đoàn các tín hữu và trong cộng đoàn chúng ta sống kinh nghiệm vẻ đẹp chia sẻ kinh nghiệm của một tình yêu đi trước tất cả chúng ta, nhưng đồng thời xin chúng ta trở thành ”các con kênh” ơn thánh cho nhau, cho dù chúng ta có các hạn hẹp và tội lỗi. Chiều kích cộng đoàn không chỉ là một ”cái khung”, một trang điểm chung quanh, mà là phần toàn vẹn của cuộc sống kitô, của chứng tá và việc loan báo Tin Mừng. Đức tin kitô nảy sinh và sống trong Giáo Hội, và trong bí tích Rửa Tội, các gia đình và các giáo xứ cử hành việc sát nhập vào một chi thể mới vào Chúa Kitô và vào thân mình Người là Giáo Hội (ibid., 175b).

Liên quan tới tầm quan trọng của bí tích Rửa Tội đối với Dân Chúa, cộng đoàn kitô bên Nhật Bản thật nêu gương sáng, khi họ bị bách hại vào đầu thế kỷ XVII. Đã có nhiều vị tử đạo, các giáo sĩ bị trục xuất và hàng ngàn tín hữu bị giết. Không có linh mục nào ở lại bên Nhật Bản: tất cả đều bị trục xuất hết. Khi đó cộng đoàn rút lui vào sự lén lút, bằng cách duy trì đức tin và lời cầu nguyện trong trốn tránh. Khi một trẻ em sinh ra thì cha hay mẹ rửa tội cho chúng. Khi vào khoảng hai thế kỷ rưỡi sau đó – 250 năm sau – các thừa sai trở lại Nhật Bản, hàng ngàn kitô hữu đã ra sống công khai và Giáo Hội đã có thể tái nở hoa. Họ đã sống sót nhờ ơn thánh của bí tích Rửa Tội.

Và đây là điều cao cả đúng không? Dân Chúa thông truyền đức tin, rửa tội cho các con cái của mình và tiến tới. Và họ đã duy trì được một tinh thần cộng đoàn mạnh mẽ, dù trong bí mật, bởi vì bí tích Rửa Tội đã làm cho họ tất cả trở thành một thân mình duy nhất của Chúa Kitô: họ đã bị cô lập và lẩn tránh, nhưng đã luôn luôn là các chi thể của Giáo Hội. Chúng ta có thể học hỏi từ lịch sử ấy.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu hiện diện, đặc biệt các đoàn hành hương đến từ các nước châu Mỹ Latinh như Argentina, Uruguay, Mexico và Brasil. Chào các tín hữu nói tiếng Á rập, Đức Thánh Cha khích lệ họ noi gương các kitô hữu Nhật Bản. Ngài nói: các khó khăn và bách hại, khi được sống với niềm tin tưởng và hy vọng, chúng thanh tẩy và củng cố đức tin. Anh chị em hãy là các chứng nhân của Chúa Kitô và Tin Mừng của Người, hãy là các người con đích thật của Giáo Hội và luôn sẵn sàng trao ban lý lẽ cho niềm hy vọng của anh chị em với tình yêu thương và lòng tôn trọng.

Đức Thánh Cha cũng chào đoàn hành hương giáo phận Civitavecchia Tarquinia do Đức Cha Luigi Marrucci hướng dẫn. Ban nhạc của giáo phận đã liên tục cử hành nhiều bản nhạc vui. Ngài cũng chào tín hữu và đông đảo sinh viên học sinh giáo phận Caserta.

Hôm thứ tư 15-1-2014 Đức Thánh Cha cũng dành nhiều giờ để chào thăm vuốt ve, an ủi hàng trăm bệnh nhân ngồi trên xe lăn. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nói Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã cử hành lễ Chúa Giêsu chịu Phép rửa. Nó là dịp thuận tiện giúp chúng ta suy tư trở lại việc thuộc về Chúa Kitô trong niềm tin nơi Giáo Hội. Ngài khuyên các bạn trẻ hàng ngày biết tái khám phá ra ơn thánh đến từ bí tích Rửa Tội.

Đức Thánh Cha khích lệ các bệnh nhân kín múc nơi bí tích Rửa Tội sự ủi an cho các đau khổ của họ. Và ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biết diễn tả các ơn của bí tích Rửa Tội trong các dấn thân trên con đường cuộc sống gia đình.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Bí tích Rửa Tội vạch ra con đường đức tin và tình bác ái

Bí tích Rửa Tội vạch ra con đường đức tin và tình bác ái

Cuộc sống có mùi vị biết bao, khi chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa tràn ngập, để biết chia sẻ và lo lắng cho nỗi khốn khó và khổ đau của người anh em. Đó là con đường dấn thân của đức tin và tình bác ái, mà bí tích Rửa Tội vạch ra cho từng người trong chúng ta.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin chung trưa Chúa Nhật 12-1-2014, Chúa Nhật lễ Chúa Giêsu chịu Phép rửa.

Ngài đã loan báo danh sách 19 Tân Hồng Y sẽ được vinh thăng trong Công Nghị ngày 22 tháng 2 tới đây. Trong số 19 Tân Hồng Y thuộc 15 nước khác nhau có 8 vị người âu châu gồm 5 vị người Ý, 1 vị Đức, 1 vi Anh quốc và 1 vị Tây Ban Nha; 3 vị thuộc Bắc và Trung Mỹ là Canada, Nicaragua, Haiti và Antille; 3 vị Nam Mỹ thuộc các nước Chile, Brasil và Argentina; 2 vị Phi châu thuộc Côte d'Ivoire và Burkina Faso; và 2 vị Á châu là Nam Hàn và Philippines.

Đứng đầu 4 Tân Hồng Y thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh là Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh. Trong số 3 Hồng không cử tri có Đức Hồng Y Capovilla, nguyên thư ký của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII và là vị cao niên nhất 96 tuổi, trong khi vị trẻ nhất là Đức Tân Hồng Y Langlois 55 tuổi.

Trước đó lúc 9 giờ rưỡi Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ ban bí tích Rửa Tội cho 32 trẻ em trong nhà nguyện Sistina gồm 18 bé gái và 14 bé trai, con của các giáo dân nhân viên Tòa Thánh. Tham dự thánh lễ có cha mẹ và thân nhân của các em.

Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có các Tổng Giám Mục Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Konrad Krajewski, đặc trách các hoạt động từ thiện của Đức Thánh Cha, Giampietro Gloder, Giám Đốc Trường ngoại giao cảu Toà Thánh, Fernando Vergez. Tổng thư ký Phủ Thống Đốc Tòa Thánh.

Sau lời chào đầu lễ Đức Thánh Cha nói: ”Mở đầu buổi cử hành này tôi xin hỏi cha mẹ và các người đỡ đầu các em với các câu hỏi của lễ nghi Rửa Tội. Anh chị em đặt tên cho con là gì?” Các người cha đã từng người nói lên tên con của mình. Tiếp đến Đức Thánh Cha hỏi: ”Anh chị em xin gì nơi Giáo Hội của Thiên Chúa?” Mọi người thưa bí tích Rửa Tội. Đức Thánh Cha nói: ”Các cha mẹ thân mến, khi xin bí tích Rửa Tội cho con cai anh chị em, anh chị em dấn thân giáo dục chúng trong đức tin, để với việc tuân giữ các giới răn chúng học yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, như Chúa Kitô đã dậy chúng ta. Anh chị em có ý thức được trách nhiệm này không?” Các cha mẹ thưa có. Đức Thánh Cha hỏi các cha mẹ đỡ đầu: ”Và anh chị em là các cha mẹ đỡ đầu, anh chị có sẵn sàng giúp các cha mẹ trong nhiệm vụ quan trọng như vậy không?” Các cha mẹ đỡ đau thưa có. Đức Thánh nói: ”Các trẻ em thân mến, với niềm vui lớn Giáo Hội của Thiên Chúa tiếp nhận các con. Nhân danh Ngài cha vẽ dấu thánh giá cho các con. Và sau tôi, các cha mẹ và các cha mẹ đỡ đầu cũng sẽ vẽ dấu của Chúa Kitô Cứu Thế trên con cái anh chị em.”

Các em được cha mẹ và người đỡ đầu bế lên để Đức Thánh Cha vẽ dấu thánh giá trên trán chúng. Đức Thánh Cha nắm tay và vuốt má các em và chúc mừng các cha mẹ.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói: Chúa Giêsu không cần phải lãnh phép rửa, nhưng các thần học gia đầu tiên nói rằng với phép rửa Chúa Giêsu đã thánh hóa tất cả mọi nước để có quyền ban bí tích Rửa Thế rồi trước khi về Trời Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta đi rửa tội khắp thế giới. Và từ ngày đó cho đến nay nó đã là một sợi xích liên tục: người ta rửa tội cho con, cho cháu, cho chắt… Và ngày nay sợi xích ấy vẫn tiếp tục. Các trẻ em này là một móc của dây xích ấy. Anh chị em là những người có con trai hay con gái rửa tội. Dây xích lòng tin ấy sẽ tiếp tục với chúng, khi chúng có con có cháu trong một ít năm nữa. Điều này có nghĩa anh chị em là những người thông truyền đức tin, có nhiệm vụ thông truyền đức tin cho con cái và giáo dục chúng trong đức tin. Đó là gia tài đẹp nhất mà anh chị em sẽ để lại cho chúng. Hãy nghĩ tới điều này. Hãy luôn nghĩ tới việc làm sao thông truyền đức tin cho các em. Hôm nay ca đoan hát, nhưng mà ca đoàn đẹp nhất là ca đoàn các em bé ồn ào. Một vài em sẽ khóc vì không thoải mái, hay vì các em đói. Các bà mẹ hãy cho con ăn. Cứ tự nhiên vì các em là ”tác nhân chính” ở đây.

Sau đó là phần lời nguyện giáo dân cầu cho Đức Thánh Cha và các chủ chăn của dân Chúa. Xin Chúa làm cho việc giảng dậy Tin Mừng của các vị được hiệu qủa trong con tim của những người chưa biết Chúa Giêsu Kitô. Cầu cho các gia đình là các Giáo Hội nhỏ. Xin chúa làm sống lại ơn bí tích hôn nhân và cho các gia đình có khá năng giáo dục con cái. Xin cho các trẻ em hôm nay lãnh bí tích Rửa Tội xin chúa giúp các em bước đi trong cuộc sống mới và làm chứng sự thật cho thế giới. Xin Chúa cho các trẻ em đau khổ vì bị ngược đãi, vì đói khát và bệnh tật. Xn Chúa làm cho có nhiều người cúi xuống trên các em với tình bác aí và niềm hy vọng kiên trì. Cầu cho mọi người hiện diện xin Chúa làm cho họ ý thức được sự hiện diện trung thành của Thiên Chúa là thẩm phán công bằng, là Cha thương xót và là Đấng gin giữ các con cái Ngài với quyền năng vô địch của tình yêu Ngài.

Mọi người đã hát kinh cầu các Thánh xin các ngài bầu cử cho các em. Tiếp đến là nghi thức trừ qủy và xức dầu cho các em. Hai Tổng Giám Mục đã cùng với Đức Thánh Cha xức dầu cho các em. Rồi tới nghi thức Rửa Tội với phần làm phép nước, hứa từ bỏ Satan, tuyên xưng Đức Tin và nghi thức Rửa tội. Đức Thánh Cha đã gọi tên từng em và đổ nước nửa tội cho các em. Tiếp đến là nghi thức xức dầu thánh trên đầu các em, trao áo trắng và nến Phục Sinh là ngọn lửa đức tin mà các cha mẹ và cha mẹ đỡ đầu phải giúp cháy sáng luôn mãi trong cuộc sống các em. Cuối cùng là nghi thức ”Effata” Đức Thánh Cha và hai vị đồng tế dùng ngón cái đụng vào hai tai và môi của từng em một, xin Chúa Giêsu là Đấng đã khiến cho người điếc nghe được người câm nói được làm cho các em mau lắng nghe lời Người, tuyên xưng đức tin của các em và chúc tụng vinh danh Thiên Chúa Cha.

Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã xuất hiện tại cửa sổ dinh Tông Tòa để đọc Kinh Truyền tin với dân chúng. Trong bài huấn dụ ngài nhắc tới lẽ nghi ban bí tích rửa tội cho 32 em bé trước đó và nói: Mỗi trẻ em sinh ra là một ơn của niềm vui và hy vọng, và mỗi trẻ em được rửa tội là một sự kỳ diệu của đức tin và một lễ cho gia đình của Thiên Chúa.

Nhắc tới Phúc Âm kể lại biến cố Trời mở ra, khi Chúa Giêsu nhận phép rửa thống hối từ tay thánh Gioan Tẩy Giả trong nước sông Jordan, Đức Thánh Cha nói điều này ứng nghiệm các lời tiên tri. Thật thế, phụng vụ mùa Vọng khiến cho chúng ta lập đi lập lại lời cầu: ”Phải chi Chúa xé trời mà xuống với chúng con!” (Is 63,19). Nếu trời đóng kín, thì chân trời cuộc sống trần gian của chúng ta tăm tối, không hy vọng. Trái lại, khi cử hành lễ Giáng Sinh, đức tin một lần nữa trao ban cho chúng ta sự chắc chắn trời xé ra khi Chúa Giêsu đến. Và trong ngày Chúa Kitô lãnh phép rửa chúng ta còn chiêm ngưỡng trời mở ra. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Việc biểu lộ của Con Thiên chúa trên trần gian ghi dấu lúc khởi đầu thời gian thương xót, sau khi tội đã đóng kín trời, bằng cách dựng lên hàng rào ngăn cách con người với Đấng Tạo Hóa. Với biến cố Chúa Giêsu giáng sinh trời mở ra! Trong Đức Kitô Thiên Chúa ban cho chúng ta sự bảo đảm của một tình yêu không thể phá hủy. Như vậy, từ khi Ngôi Lời nhập thể làm người có thể thấy trời mở ra. Điều này đã có thể đối với các mục đồng Bếtlêhem, các nhà Đạo Sĩ Phương Đông, thánh Gioan Tẫy Giả, các Tông Đồ của Cháu Giêsu, thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên là người đã kêu lên:”Tôi chiêm ngưỡng trời mở ra!” (Cv 7,56). Và nó cũng có thể đối với từng người trong chúng ta, nếu chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa xâm chiếm chúng ta, tình yêu được Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta lần đầu tiên trong bí tích Rửa Tội.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa thống hối từ Gioan Tẩy Giả, bằng cách liên đới với dân sám hối, Người là Đấng vô tội và không cần hoán cải – Thiên Chúa Cha đã cho nghe tiếng của Người phán từ trời: ”Này là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người” c. 17). Đức Giêsu nhận sự phê chuẩn của Thiên Chúa Cha trên Trời, là Đấng đã gửi Người đến để chia sẻ điều kiện sống và sự nghèo khó của chúng ta. Chia sẻ là phương thế yêu thương đích thật. Chúa Giêsu không xa cách chúng ta, Người coi chúng ta như em và chia sẻ với chúng ta. Và như thế Người khiến cho chúng ta trở thành Con của Thiên Chúa Cha với Người. Đó là mạc khải và là suối nguồn tình yêu đích thật. Xem ra thời đại chúng ta lại không cần đến một bổ túc của sự chia sẻ huynh đệ và tình yêu hay sao? Xem ra tất cả chúng ta lại không cần một bổ túc của tình bác ái hay sao? Không phải tình bác ái bằng lòng với sự trợ giúp tạm thời, không lôi cuốn, không liên lụy, nhưng một tình bác ái chia sẻ, lo lắng cho nỗi khốn khó và khổ đau của người anh em. Cuộc sống có mùi vị biết bao, khi chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa tràn ngập! Chúng ta hãy xin Đức Thánh Trinh Nữ trợ giúp chúng ta với sự bầu cử của Mẹ trong dấn thân theo Chúa Kitô trên con đường đức tin và tình bác ái, là con đường đã được bí tích Rửa Tội vạch ra.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinih Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu hiện diện tại quảng trường đặc biệt các cha mẹ có con được rửa tội sáng hôm qua cũng như các cha mẹ đang chuẩn bị cho con cái họ lãnh bí tích Rửa Tội.


Linh Tiến Khải – vatican Radio

 

Sống trọn ơn gọi làm người

Sống trọn ơn gọi làm người

Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu Châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên khỏi Giáo Hội Công giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào cac bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghĩa chối bỏ mọi cam kết khi chịu Phép Rửa Tội.

Nói chung, thế giới phương tây vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây Phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành Hôn Phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.

Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây Phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đám đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.

Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Giordan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.

Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵn sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người tín hữu Kitô được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.

Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu Thánh Giá trên người, chúng ta làm dấu Thánh Giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo Thánh Giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo Thánh Giá trên người, và ước gì Thánh Giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì Thánh Giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.

Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua Thánh Giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chứng tá, đó là giá trị của Tin Mừng.

Veritas Radio

BÍ TÍCH RỬA TỘI

BÍ TÍCH RỬA TỘI

Vào giữa thập niên 1800 bệnh dịch cùi bùng nổ khắp các đảo Hạ Uy Di.
Vào lúc đó y học vẫn còn trong thời kỳ sơ khai, hậu quả là nhà cầm quyền không cách chi có thể chữa được căn bệnh truyền nhiễm này.

Để ngăn chặn sự lây lan họ phải thi hành một điều dù họ không thích, nhưng phải làm.

Họ thiết lập một trung tâm người cùi trên hòn đảo Molokai xa xôi. Diễn tả về tình trạng do sự kiện này tạo nên, Robert Ellsburg viết:

Người Hạ Uy Di… đau khổ vì căn bệnh này bị bắt đi ra khỏi gia đình và cộng đoàn và gửi tới đảo này…

Có thể nói bệnh nhân bị quăng vào sóng biển và để họ tự bơi vào bờ, tìm chỗ tạm trú trong các hang hoặc căn lều bẩn thỉu và bám víu lấy sự sống mà họ có thể.

Một linh mục trẻ tuổi người Bỉ, Cha Damien, thật bàng hoàng khi biết về số phận của các nạn nhân đáng thương này. Do đó, cha đã tình nguyện đến Molokai để giúp đỡ họ.

Khi đến đảo, người tổ chức họ thành một cộng đồng. Sau đó người dựng một nhà thờ và bắt đầu giúp đỡ họ theo bất cứ phương cách nào có thể.

Khi thi hành điều này, người hoàn toàn đồng hoá với họ.

Người làm việc với họ, đi lại với họ, và ăn uống với họ. Người trở nên giống họ về mọi phương cách – để chia sẻ căn bệnh thảm thương của họ.

Sau năm năm chăm sóc người cùi, Cha Damien cũng bị nhiễm căn bệnh đáng sợ này.

Người tiếp tục chăm sóc họ thêm bốn năm nữa, trước khi căn bệnh này lấy đi sự sống của cha vào năm 1889. Gần một trăm năm sau, vào năm 1995, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho người, chuẩn bị để tuyên xưng là thánh.

Câu chuyện cảm động của Cha Damien thích hợp với ngày lễ hôm nay, lễ Đức Giêsu chịu Thanh Tẩy.

Để thấy sự thích hợp đó, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc nhớ lại điều dân chúng thường hỏi: “Tại sao Đức Giêsu lại xin được thanh tẩy?”

Nói cho cùng, Thánh Phaolô nói, “Phép rửa của Gioan là cho những người xa lánh tội lỗi.” CVTĐ 19:4

Nếu Đức Giêsu không có tội, tại sao Người lại xin chịu phép rửa? Ông Gioan cũng tự hỏi như thế. Khi Đức Giêsu xin được thanh tẩy, ngay lập tức ông Gioan từ chối, nói rằng:

Lẽ ra tôi phải được Ngài thanh tẩy, nhưng Ngài lại đến với tôi.” … Đức Giêsu trả lời ông, “Bây giờ hãy để xảy ra như vậy. Vì chúng ta phải thi hành những gì Thiên Chúa đòi hỏi theo phương cách này.”

Chính tại đây sự thanh tẩy của Đức Giêsu có liên hệ đến câu chuyện của Cha Damien.

Cha Damien đến đảo Molokai không phải vì bị bệnh cùi. Người đến đây chỉ vì muốn giúp đỡ người cùi bằng mọi phương cách có thể.

Và để giúp đỡ họ bằng mọi phương cách có thể, người đã chọn đồng hoá với họ theo mọi phương cách người có thể.

Người ăn uống với họ, làm việc với họ, cầu nguyện với họ, và người chịu đau khổ với họ.

Theo một cách tương tự, Đức Giêsu đến thế gian không bởi vì Người là một tội nhân. Người đến để giúp các tội nhân theo mọi phương cách mà Người có thể.

Và vì thế Người đồng hoá với họ theo mọi phương cách có thể – ngoại trừ tội lỗi. Đức Giêsu sống với họ, cầu nguyện với họ, ăn uống với họ, và ngay cả tự để mình chịu cám dỗ giống như họ.

Do đó, thật tự nhiên khi Đức Giêsu nới rộng sự đồng hoá với con người bằng cách chịu thanh tẩy như họ.

Giống như Cha Damien, Đức Giêsu đồng hoá với loài người đến độ hy sinh mạng sống mình vì họ.

Điều này đưa chúng ta đến với bí tích rửa tội của chính chúng ta. Qua bí tích đó, chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Đức Kitô. Qua đó, chúng ta trở nên các chi thể của thân thể Đức Kitô và chia sẻ sứ vụ cứu chuộc thế gian của Người.

Nói cách khác, qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi hãy sử dụng các khả năng độc đáo Chúa ban để hoạt động với Đức Kitô trong việc cứu chuộc nhân loại.

Và như vậy, bí tích rửa tội là bước đầu tiên trong hành trình lớn lên trong Đức Kitô và học cách sử dụng khả năng của mình để làm việc với Người trong sự cứu độ – cũng như Cha Đamien đã sử dụng tài năng của mình cho mục đích này.

Điều này nêu lên một câu hỏi quan trọng. Chúng ta lớn lên trong Đức Kitô như thế nào? Chúng ta phải chuẩn bị chính minh như thế nào để chia sẻ công việc cứu độ của Người?

Thánh Phaolô trả lời câu hỏi này trong Thư gửi tín hữu Côlótsê:

Vì anh chị em đã chấp nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa, hãy sống hiệp nhất với Người.

Hãy bám rễ sâu vào Người, xây dựng cuộc đời anh chị em trên Người… Vậy, anh chị em hãy mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, và nhẫn nại. Col 2:6-7; 3:12-14

Nói cách khác, chúng ta thi hành điều này bằng cách bắt chước Đức Kitô.

Chúng ta cố gắng đối xử từ bi với người khác, như Đức Kitô đã đối xử với chúng ta.

Chúng ta cố gắng đối xử nhẫn nại với người khác, như Đức Kitô đã đối xử với chúng ta.

Nói tóm, chúng ta cố noi gương Đức Kitô là Người đã ban sức cho chúng ta để giúp thi hành điều này bằng cách chia sẻ chính sự sống thánh thiêng của Người cho chúng ta trong bí tích rửa tội.

Hãy kết thúc với một lời nguyện, xin Chúa Giêsu giúp chúng ta sống bí tích rửa tội của mình, như Người đã sống:

Xin cánh tay Chúa Giêsu hãy nâng con lên khi ngã quỵ.
Xin tiếng nói của Chúa Giêsu hãy dẫn đưa chúng con về nhà khi lạc lối.
Xin máu Chúa Giêsu rửa chúng con sạch khi chúng con hoen ố.
Xin thân thể Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng con khi chúng con đói khát.
Xin thánh tâm Chúa Giêsu giúp chúng con kết hợp với Ngài,
vì tâm hồn của chúng con được dựng nên cho Ngài,
và nó sẽ không an nghỉ cho đến khi an nghỉ trong Ngài.

Cha Mark Link, SJ

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA

Thực tế, thời thơ ấu của Chúa Giêsu đã chấm dứt.Lễ Giáng Sinh và Mùa Giáng Sinh cũng đã lui vào dĩ vãng. Bây giờ là thời rao giảng công khai của Chúa Giêsu. Bởi vì, khi được 30 tuổi, Chúa Giêsu đã rời khỏi Quê hương của mình là Nazareth để đi khắp nơi công bố Nước Trời và kết nạp các môn đệ, các tông đồ.Hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện trước công chúng trong tư thế sẵn sàng khởi đầu sứ vụ Thiên Chúa Cha đã trao cho Ngài…

Các bài đọc ngày lễ hôm nay đều giới thiệu với chúng ta rằng Chúa Giêsu là Người được Thiên Chúa Cha yêu dấu. Bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Isaia cho biết Chúa Giêsu là Người được tuyển chọn, nâng đỡ, an ủi, quý mến. Bài đọc hai, thánh Phêrô làm chứng Thiên Chúa Cha luôn ở với Ngài. Hai bài đọc này, nhằm cho chúng ta hiểu sâu xa hơn về Đức Kitô, Đấng được Thiên Chúa Cha từ trời gọi là “Này là Con Ta yêu dấu, Cha hài lòng về Con”.

Đọc các bài đọc này, chúng ta càng lấy làm bỡ ngỡ, ngạc nhiên về việc Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha ca tụng khen ngợi, thế mà khi khai mạc sứ vụ công khai, Ngài đã xếp hàng cùng với tội nhân để xin ông Gioan Baotixita làm phép rửa cho ở sông Jordan. Như thế phải chăng Chúa Giêsu cũng là tội nhân sao? Thưa không phải bởi vì đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố rằng “Ai trong các ông có thể bắt lỗi tôi vì tội gì?”. Chúa Giêsu là Đấng xóa tội trần gian, Ngài là Đấng đã gánh lấy tội lỗi của thế gian như có lần Gioan Tẩy Giả đã chỉ vào Chúa Giêsu và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Chúa Giêsu xóa tội trần gian bằng cách gánh lấy tội con người, gánh lấy tội trần gian. Ngài đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ. Ngài khai mạc sứ vụ công khai bằng cử chỉ loan báo: “Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chính các môn đệ lúc đó cũng chưa hiểu được ý Chúa. Họ nghĩ rằng theo Thầy Giêsu khi Thầy lên làm Vua thì các môn đệ sẽ được chia chác nhau ngôi vị, chỗ đứng trong nội các của Chúa Giêsu. Do đó, mới có việc hai con của ông Giêbêđê cùng đi với mẹ tỏ ước vọng muốn một người ngồi bên tả, một người ngồi bên hữu trong Vương Quốc của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã cho các Ông hiểu rõ quan điểm và ý hướng của Chúa. Các con có uống được chén của Cha sắp uống không, còn việc ngồi bên hữu hay bên tả là thuộc quyền của Cha… Chén ở đây là chén thống khổ, sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Chén hay cuộc thông khổ không chỉ là nước thanh tẩy trong sông Giorđăng và do bàn tay của Gioan Tẩy Giả mà bằng chính máu của Chúa Giêsu đổ ra trên Thập Giá. Chúa Giêsu làm gương cho nhân loại bằng việc chịu phép rửa thống hối ở sông Giorđăng. Đây là hình bóng của nhân loại được thanh tẩy trong máu của chúa Giêsu đổ ra trên Thập Giá, và sự phục sinh của Ngài và để con người đã được tái sinh sẽ trở thành con của Thiên Chúa. Câu chuyện của Nicôđêmô trong đêm tối tới gặp Chúa Giêsu nói lên điều đó. Con người phải được tái sinh nghĩa là trở nên con người mới, được dìm trong máu của Chúa Giêsu đã đổ ra để cứu chuộc con người và được phục sinh với Ngài…

Đọc lại Tin Mừng chúng ta nhận ra điều này Chúa Giêsu chính là sự sống, do đó, phép rửa hay thanh tẩy không chỉ còn là nghi lễ mà đã trở thành cuộc sống mới cho nhân loại, cho con người, cho mọi người. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, tội lỗi và ma quỷ. Phép rửa không chỉ còn là một nghi thức để gia nhập Giáo Hội, làm con Thiên Chúa một cách máy móc, nhưng phép rửa đã là một cuộc tái sinh, một cuộc sống mới, một sự đẩy lùi tội lỗi trường kỳ ra khỏi thế gian để rồi cuộc sống của người Kito hữu luôn là cuộc sống mới trong sự tái sinh bằng máu, sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu.

Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa chúng ta nhớ tới bí tích rửa tội chúng ta đã lãnh nhận ngày chúng ta được rửa tội. Qua phép rửa chúng ta được trở nên Con của Thiên Chúa và Con của Giáo Hội.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Đức Kitô chịu phép rửa tại sông Gio-đăn và Thánh Thần ngự xuống trên Người, Chúa đã long trọng tuyên bố Ngươi là Con chí ái. Xin cho chúng con là đoàn nghĩa tử được tái sinh bởi nước và Thánh Thần, hằng bền vững thi hành ý Chúa (Lời nguyện Nhập lễ lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả là phép rửa gì?

2. Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa gì?

3. Sự khác biệt giữa phép rửa của Gioan Tẩy Giả và của Chúa Giêsu?

4. Tái sinh theo nghĩa Kinh Thánh?

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

SỨ VỤ MỚI

SỨ VỤ MỚI

Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.

1. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa

Khởi đầu cuộc sống công khai, lúc đã 30 tuổi, tức là đã trưởng thành trọn vẹn như người Á Đông vẫn quan niệm “tam thập nhi lập”, Chúa Giêsu tìm đến sông Giođan để xin Gioan Tẩy Giả cử hành phép rửa cho mình. Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối ? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài ” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy? Đây là động thái gây kinh ngạc cho con người thời nay, vì khó hiểu: Đấng không có tội lại đi nhận phép rửa làm gì? Nhưng người ta cũng sớm hiểu ra rằng: phép rửa của Gioan Tẩy Giả chỉ là nghi thức mang tính tẩy trần, nếu có giá trị thì chỉ theo quy định của lề luật thôi, còn chưa có hiệu quả đích thực tôn giáo. Chính Gioan Tẩy Giả đã minh định: “Tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và trong lửa”. Khi Chúa Giêsu nhận phép rửa này, ngoài việc “nhập thế đến cùng”, khiêm tốn xếp hàng đứng chung với các tội nhân đợi chờ đến phiên, Người còn hữu ý qua động thái có một không hai đó, công khai khởi đầu cuộc sống mới: cuộc rao giảng Tin Mừng cho mọi người.

Tất cả các tiên trưng trong Cựu Ước đều được thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Để “chu toàn thánh ý Thiên Chúa“(Mt 3,15), Chúa Giêsu tự nguyện chịu phép rửa của thánh Gioan, dành cho những người tội lỗi. Cử chỉ này cho thấy Chúa Giêsu đã đi vào mầu nhiệm “tự hạ” (Pl 2,7). Chúa Thánh Thần xưa kia đã bay là là trên mặt nước trong cuộc sáng tạo thứ nhất, nay ngự xuống trên Đức Kitô như khúc nhạc dạo đầu của bản giao hưởng sáng tạo mới, và Chúa Cha giới thiệu Chúa Giêsu là “Con Chí Ái” của Ngài (Mt 3,16-17).

Trong cuộc Vượt Qua, Đức Kitô đã khơi nguồn Bí Tích Rửa Tội cho mọi người. Người nói về cuộc tử nạn sẽ phải chịu tại Giêrusalem như “một Phép Rửa” Người phải lãnh nhận (x. Mc 10,38; Lc 12,50). Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người bị đâm thâu trên thập giá (Ga 19,34) tiên trưng cho Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể là những bí tích ban sự sống mới (x.1Ga 5,6-8); từ giây phút ấy, chúng ta có thể “sinh ra nhờ nước và Thánh Thần” để được vào Nước Thiên Chúa (Ga 3,5).

Bí Tích Rửa Tội là cánh cửa phân chia tách bạch đời sống, một đàng là khép lại quá khứ của bóng tối, tội lỗi, chết chóc, và đàng khác là mở ra tương lai của ánh sáng, thánh ân, sự sống. Bí Tích Rửa Tội cần thiết cho ơn cứu rỗi, nên bí tích này cũng là khởi đầu cho một sự hiện diện mới: từ kẻ ngoại đạo trở thành người đã tòng giáo; từ một lương dân trở nên tín hữu; từ kẻ xa lạ trở thành người nhà của Thiên Chúa. Quả là một hồng ân vô cùng lớn lao cho những ai đón nhận trong lòng tin.

2. Ân Sủng của Bí Tích Rửa Tội

Khi ban Bí Tích Rửa Tội, Thừa tác viên Giáo Hội đổ nước trên đầu thụ nhân và đọc công thức “Cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đơn giản trong cung cách cử hành, nhưng hiệu quả ơn thánh lại phong phú bội phần. Bằng những hình ảnh do Thánh Kinh gợi ý, người ta trở thành thành viên trong Dân Chúa Cha, chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô và viên đá sống động kiến tạo Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Con người mới chính là con cái Thiên Chúa và được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa hằng sống.

Bí Tích Rửa Tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Kitô hữu, là cửa ngõ dẫn vào đời sống thần linh và mọi bí tích khác. Nhờ bí tích này chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và tái sinh làm con cái Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, được gia nhập và tham dự sứ mạng của Hội Thánh (GLCG 1213).

Bí Tích Rửa Tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí Tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hoá, nhờ ơn công chính hoá giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận bí tích Rửa tội thuộc về Đức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được của Đức Kitô (GLCG 263).

Như vậy, có hai hiệu quả chính yếu của Bí Tích Rửa Tội là thanh luyện tội lỗi và tái sinh trong Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,38; Gl 3,5).

a. Được tha thứ tội lỗi

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, mọi tội lỗi đều được tha : nguyên tội, mọi tội riêng cũng như mọi hình phạt do tội (x. DS 1316). Những người đã được tái sinh sẽ được vào Nước Thiên Chúa và không còn gì ngăn cản họ, dù là tội Ađam, tội riêng của họ, những hậu quả của tội, kể cả hậu quả trầm trọng nhất là xa lìa Thiên Chúa.

Tuy nhiên, người đã được rửa tội còn phải chịu một số hậu quả tạm thời của tội như : đau khổ, bệnh tật, chết chóc hay những bất toàn trong cuộc sống như tính tình yếu đuối… và một sự hướng chiều về tội mà Truyền Thống quen gọi là vật dục hay nói bóng bẩy là “cái nôi của tội”. “Thiên Chúa để vật dục lại cho chúng ta chiến đấu. Vật dục không có khả năng làm hại những ai không đồng tình mà còn can đảm chống lại nó nhờ ân sủng của Đức Kitô. Hơn nữa, “không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ” (2 Tm 2,5) (x. CĐ Trentô: DS 1515).

b. “Trở nên thụ tạo mới”

Bí Tích Rửa Tội không chỉ rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x.1Cr 6,15; 12,27) và đồng thừa tự với Người (Rm 8,17), thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x.1Cr 6,19).

Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người được rửa tội ơn thánh hóa, ơn công chính hóa để người đó :

– Có khả năng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Người nhờ các nhân đức đối thần.

– Có thể sống và hành động dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân.

– Ngày càng hoàn thiện hơn nhờ các nhân đức luân lý.

Toàn bộ đời sống siêu nhiên của người Kitô hữu đều bắt nguồn từ Bí Tích Rửa Tội.

Bí Tích Rửa Tội làm cho chúng ta thành chi thể trong Thân Thể Chúa Kitô, “bởi thế, chúng ta là phần thân thể của nhau” (Ep 4,25). Bí Tích Rửa Tội tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh. Dân Thiên Chúa của Giao Ước Mới phát sinh từ giếng rửa tội. Dân này vượt trên mọi ranh giới tự nhiên hay nhân trần, quốc gia, văn hóa, chủng tộc và giới tính. “Tất cả chúng ta đều đã chịu Phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12,13).

Những người đã được rửa tội trở nên “những viên đá sống động… để xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần, xây dựng hàng tư tế thánh” (1 Pr 2,5). Nhờ Bí Tích Rửa Tội ,họ tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, vào sứ mạng ngôn sứ và vương đế của Người: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng dịu huyền” (2 Pr 2,9).

Bí Tích Rửa Tội cho các tín hữu tham dự vào chức tư tế cộng đồng của Dân Chúa.Người đã được rửa tội trở thành phần tử của Hội Thánh, họ “không còn thuộc về mình, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta” (1Cr 6,19). Do đó, họ được mời gọi để phục tùng nhau (x.Ep 5,21;1Cr 16,15-16) và phục vụ nhau (x.Ga 13,12-15) trong tình hiệp thông của Hội Thánh. Họ được mời gọi vâng lời và phục tùng các vị lãnh đạo của Hội Thánh (x.Dt 13,17) với lòng kính trọng và quý mến (x.1Tx 5,12-13). Bí Tích Rửa Tội đã trao cho người lãnh nhận những trách nhiệm và bổn phận, đồng thời cũng cho họ được hưởng những quyền lợi trong lòng Hội Thánh: được lãnh nhận các bí tích, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được Hội Thánh nâng đỡ bằng các trợ giúp thiêng liêng. (x.LG 37).

3. Đón nhận một sứ vụ mới

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân – Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mở ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Chúa Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với cuộc sống công khai, chính thức rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân chúng. Lời Người nói là Lời chân lý khai quang tâm hồn, dẫn người người về đường ngay nẻo chính Nước Trời, và việc Người làm là việc giải thoát đem lại ơn cứu rỗi, đưa toàn thể nhân loại vào trong tình nghĩa thiết ngàn đời với Thiên Chúa tình thương. Chúa Giêsu khai mở kỷ nguyên cứu rỗi.

Thánh Phaolô gọi Bí Tích Rửa Tội là tắm trong Chúa Thánh Thần, để được tái sinh và đổi mới (x. Tt 3,5). Được tái sinh làm con Thiên Chúa, những người đã được rửa tội có bổn phận tuyên xưng trước mặt mọi người đức tin mà họ nhận lãnh từ Thiên Chúa qua Hội Thánh (x.LG 10), tham dự vào hoạt động tông đồ và truyền giáo của Dân Thiên Chúa (x.LG 17; AG 7,23).

Thánh Giúttinô gọi Bí Tích Rửa Tội là ơn soi sáng, vì những người được đạo lý giáo huấn thì tâm trí được soi sáng. Người chịu phép rửa, vì đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người” (Ga 1,9), nên sau khi “đã được soi sáng” (Dt 10,32), họ trở thành “con cái sự sáng” (1 Tx 5,5) và là “ánh sáng” (Ep 5,8).

“Bí Tích Rửa Tội là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa…Chúng ta gọi là hồng ân, ân sủng, xức dầu, soi sáng, mặc lấy sự bất tử, tắm để tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất. Là hồng ân, vì được ban cho những người trắng tay. Là ân sủng, vì được ban cho cả những người có lỗi. Dìm xuống,vì tội lỗi bị nhận chìm trong nước. Xức dầu, vì có tính cách linh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu). Soi sáng, vì đó là ánh sáng chói lọi. Mặc, vì che đi nỗi tủi nhục của chúng ta. Tắm, vì làm cho chúng ta sạch. Ấn tín, vì gìn giữ chúng ta và là dấu chỉ về quyền tối cao của Thiên Chúa” (Thánh Ghêg-riô Nadien, Bài giảng 40,3-4).

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, trong tư cách là “Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô”, chúng ta được nhắc nhớ về sứ mạng phải làm triển nở sự sống của Chúa Kitô nơi mình và nơi những người lân cận bằng lòng tin và bằng tình yêu chân thành và trung tín.

Trong tư cách “Kitô hữu hướng về Chúa Kitô”, chúng ta cũng được hun đúc để luôn biết sống bằng niềm hy vọng và bằng lời kinh phó thác, nhất là trong lúc gặp thử thách gian truân.

Trong tư cách “Kitô hữu tìm về Chúa Kitô”, chúng ta còn biết sẵn sàng thanh tẩy đời sống qua việc sám hối hòa giải để đón nhận lòng thương xót của Chúa một cách dồi dào hơn.

Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất thì ngắm, Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Theo gương Mẹ Maria, chúng ta xin được sống gắn bó với Chúa Giêsu mật thiết hơn, để xứng đáng là những người con yêu dấu của Thiên Chúa.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Phép rửa

Phép rửa

Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa khởi đầu mùa Phụng vụ của Chúa Nhật I Thường Niên. Chúa Giêsu bắt đầu khai mạc sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cứu độ. Thánh Gioan Tẩy Giả đã tiến dẫn Chúa Giêsu cho đại chúng. Các biến cố lớn nhỏ đều có vai trò quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ. Tiên tri Isaia đã tiên báo về Ngài: Đây là lời Chúa phán: “Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người. Người sẽ xét xử chư dân.” (Is 42,1).

Tất cả mọi sự đều qui về Chúa Giêsu Kitô là nguồn ơn cứu độ. Toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước là sự thể hiện một giao ước giữa Thiên Chúa và loài người. Thiên Chúa trung thành giữ lời đã hứa với các tổ phụ của chúng ta. Cho dù lòng con người có đổi thay, phản bội hay chối từ. Thiên Chúa vẫn giữ trọn lời đã hứa: “Ta là Chúa, Ta đã gọi con trong công lý, đã cầm lấy tay con, đã gìn giữ con, đã đặt con thành giao ước của dân, và nên ánh sáng của chư dân.” (Is 42,6).

Chúa Giêsu đã giáng thế làm người. Qua thời gian năm tháng, Chúa Giêsu đã được sinh ra tại Belem, rồi tránh xa kẻ lùng bắt nên trốn sang nước Ai Cập và âm thầm trở về làng quê Nazareth sống cuộc đời dân dã lao động. Khi tới tuổi trưởng thành, tam thập như lập, Chúa Giêsu công khai xuất hiện rao giảng tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu đã đến với Gioan Tẩy Giả để lãnh nhận phép rửa sám hối. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống tận đáy lòng sông để rồi từ đó, Chúa cất nhắc mọi người lên cùng Chúa: Chúa Giêsu chịu phép rửa, rồi bước lên khỏi nước. “Này đây các tầng trời mở ra, và Người thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống như một bồ câu và đậu trên Người.” (Mt 3,16). Thánh Matthêu ghi lại sự kiện: “Và ngay lúc ấy, có tiếng từ trời phán: “Này là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta.” (Mt 3,17).

Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta cùng nhau ôn lại giáo lý về Bí tích Rửa Tội. Bí tích Rửa Tội còn được gọi là Bí tích Thánh Tẩy. Bí tích làm cho ta được sinh vào đời sống mới trong Chúa Kitô. Theo ý muốn của Chúa, Bí tích Thánh Tẩy cần thiết để được ơn cứu độ. Hoa trái của Bí tích là tha tội nguyên tổ và mọi tội riêng đã phạm để sinh vào đời sống mới. Nhờ đó, con người trở thành dưỡng tử của Chúa Cha, làm chi thể của Chúa Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí tích Rửa Tội được gia nhập vào Hội Thánh Chúa Kitô và được tham dự vào chức Tư Tế của Người (x. GLCG, số 1279). Bí tích Rửa Tội in vào linh hồn dấu ấn thiêng thiêng không thể xoá nhoà. Mỗi người chỉ lãnh nhận Bí tích Rửa Tội một lần trong đời. Nghi thức Rửa Tội gồm có: bày tỏ sự đồng ý của ứng viên, Phụng vụ Lời Chúa, kinh cầu các Thánh, lời nguyện trừ tà và xức dầu dự tòng (OS), làm phép nước, hứa từ bỏ tà thần và tuyên xưng đức tin, nghi lễ rửa tội, xức dầu thánh (SC), trao áo trắng, trao nến sáng, cầu nguyện và phép lành.

Từ rất xa xưa, Hội Thánh đã có truyền thống ban Bí tích Rửa Tội cho các trẻ sơ sinh. Các trẻ sơ sinh được thanh tẩy trong đức tin của Hội Thánh và gia nhập đời sống Kitô giáo đạt tới tự do đích thực. Thừa tác viên của Bí tích Rửa Tội là các giám mục, linh mục, thầy sáu và trong trường hợp khẩn cấp, mọi tín hữu đều có quyền và có bổn phận rửa tội. Ngay cả người không trong đạo Công giáo cũng có quyền, nếu được cắt đặt trong trường hợp khẩn cấp (thí dụ: các y tá ở bệnh viện), miễn là làm theo đúng nghi thức và ý của Giáo Hội. Bình thường, Bí tích Rửa Tội được cử hành trong nhà thờ hay nhà nguyện của giáo xứ. Sau khi cử hành Bí tích Rửa Tội, cần phải ghi vào sổ bộ một cách rõ ràng tên của thừa tác viên, cha mẹ đỡ đầu và các nhân chứng.

Bí tích Rửa Tội cần thiết cho được rỗi linh hồn, nhưng chúng ta nhận biết lòng thương xót của Chúa mở rộng cho mọi người, dù chưa lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, họ cũng có thể được phần với Chúa, thí dụ: Kẻ trộm bị đóng đinh cùng Chúa Giêsu, anh ta thưa: Ông Giêsu ơi, khi vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi. Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.” (Lc 23,42-43). Hoặc câu truyện ông Giakêu, Chúa Giêsu nói: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham.” (Lc 19,9). Vậy những người không lãnh nhận Bí tích Rửa Tội cũng có thể được ơn cứu độ là những người chết vì đức tin, tất cả những người tuy không biết Hội Thánh nhưng do ân sủng thúc đẩy mà chân thành tìm kiếm Chúa và nỗ lực chu toàn thánh ý Người (x. GLCG, số 1281).

Một vài cách thực hành mục vụ, ai cũng có thể rửa tội cho các thai nhi hay các trẻ em trong những trường hợp khẩn cấp. Những người lớn tuổi muốn được rửa tội để gia nhập đạo thánh Chúa cần có thời gian chuẩn bị học hỏi và tuyên xưng đức tin. Các ứng viên phải bày tỏ ý muốn được rửa tội, được hướng dẫn về sự thật của niềm tin và những bó buộc của đời sống Kitô hữu. Họ phải trải qua thời kỳ thanh luyện, chứng tỏ sự đổi mới và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và Hội Thánh. Trong trường hợp nguy tử, những người này có thể lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, nếu họ có một sự hiểu biết về những nguyên lý sự thật của đức tin, bày tỏ ý muốn được lãnh nhận Bí tích và hứa tuân giữ các giới luật và điều răn của đạo Công giáo (x. GLCG, số 865).

Với các thừa tác viên ngoại thường: Xin đừng rửa tội cho một người đã trưởng thành, trừ khi họ thật sự yêu cầu hay thỉnh nguyện (request) được rửa tội. Đừng rửa tội cho một người lớn trong khi họ bị hôn mê (unconscious). Đừng rửa tội cho một người mà họ đã được rửa tội trong một Hội Thánh khác. Nếu chúng ta chỉ là thừa tác viên (giáo dân), cần nhớ rằng không nên rửa tội cho một người đã trưởng thành, nếu có các linh mục và phó tế có thể sẵn sàng hiện diện. Nếu các linh mục và phó tế chối từ rửa tội cho một người, thừa tác viên cũng đừng tự ý rửa tội cho họ. Nếu linh mục và phó tế chỉ dẫn rằng không nên rửa tội cho họ vì không cần thiết, các thừa tác viên giáo dân không nên rửa tội. Nghi lễ của Bí tích Rửa Tội là lấy nước lã đổ trên đầu kẻ lãnh Bí tích Rửa Tội, vừa đổ vừa đọc rằng: (Tên)… cha (tôi) rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Trong trường hợp khẩn cấp, sau khi rửa tội tại nhà thương, các thừa tác viên phải bá cáo đầy đủ chi tiết cho văn phòng để ghi vào sổ lưu và bá cáo cho giáo xứ thuộc quyền để ghi tên vào Sổ bộ rửa tội.

Bí tích Rửa Tội do Chúa Giêsu đã lập để sinh ta lại làm con Chúa và con Hội Thánh. Chính Chúa Kitô là Đấng ban phát mọi ân sủng cứu độ. Sách Tông đồ Công vụ đã tuyên xưng: “Thiên Chúa đã sai Lời Người đến cùng con cái Israel, loan tin bình an, nhờ Chúa Giêsu Kitô là Chúa muôn loài.” (Cv 10,36). Chúng ta không dựa vào danh nào khác ngoài Danh Chúa Giêsu Kitô. Ngài là trưởng tử của mọi loài có uy quyền trên tất cả vạn vật: “Chúa Giêsu thành Nazareth. Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10,38). Chúa Giêsu là nguồn ban sự sống và là sự sống lại. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được sinh lại bởi nước và Chúa Thánh Thần. Chúng ta cùng được thông dự vào sự sống đời đời với Đức Kitô.

Lạy Chúa, Chúa đã bước xuống dòng sông Giođan để thánh hóa nguồn nước trong lành. Chúa đã lập Bí tích Thanh Tẩy để tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi vết nhơ tội khiên. Xin cho chúng con biết gìn giữ tâm hồn tinh sạch như chiếc áo trắng tinh tuyền của ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Chúng con sẽ cùng được chung hưởng hạnh phúc với Chúa trong cõi sống trường sinh.

LM. Giuse Trần Việt Hùng

Tổng tu nghị Dòng Đạo Binh Chúa Kitô

Tổng tu nghị Dòng Đạo Binh Chúa Kitô

WHĐ (10.01.2014) – Ngày thứ Năm 09-01-2014 tại Roma, Đức hồng y Velasio De Paolis, Đặc sứ của Đức Thánh Cha cho Dòng Đạo Binh Chúa Kitô đã cử hành Thánh lễ khai mạc Tổng tu nghị ngoại lệ của Dòng này. Trước đó các linh mục trong kinh sĩ đoàn đã tham dự tuần tĩnh tâm chín ngày để cầu nguyện cho Tổng tu nghị. Sau ba năm rưỡi cải tổ kể từ khi được Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI bổ nhiệm làm Đặc sứ giáo hoàng để quản trị Dòng Đạo Binh Chúa Kitô, Đức hồng y De Paolis đã triệu tập Tổng tu nghị để bầu ban lãnh đạo mới và phê chuẩn bản hiến pháp mới của Dòng.

Trong bài giảng Thánh lễ, Đức hồng y nói đây không phải là một công việc kỹ thuật và Tu nghị phải giúp mỗi người kiểm điểm đời sống, cam kết canh tân đời sống thiêng liêng của cá nhân và cộng đoàn.

Hiến pháp mới vì thế không được giới hạn vào một bộ luật và các kỷ luật nhưng phải diễn tả một ơn gọi, một lý tưởng và một tầm nhìn chung, một con đường nên thánh chung.

Sau đó, ngài nhắc lại rằng nhiệm vụ trước hết của các người lãnh đạo mới là bảo vệ và phát triển đặc sủng của Dòng, họ phải hướng dẫn Dòng trong tinh thần Phúc Âm và trung thành với lề luật của Giáo hội. Hiến pháp mới dành sự quan tâm đặc biệt đến Tu nghị này, nhưng vẫn không quên quá khứ đau thương.

Tiếp theo, Đức hồng y De Paolis nói về việc chuẩn bị Tu nghị đổi mới, mời gọi các tu sĩ đặt hy vọng nơi Chúa, Đấng đã gìn giữ ơn gọi của họ và đã chuẩn bị họ cho một một triển vọng mới. Nhắc lại sự nâng đỡ của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI và của Đức giáo hoàng Phanxicô hiện nay trong giai đoạn đen tối của Hội Dòng, Đức hồng y bày tỏ sự tin tưởng vào tinh thần đổi mới và trung thành với Chúa của các chiến binh Chúa Kitô: “Anh em đã đau khổ nhiều, đã nếm trải nỗi tủi hổ bị tố cáo, bị nghi ngờ, bị công luận phán xét, cả trong lòng Giáo hội. Anh em đã biết đón nhận thử thách với lòng yêu mến ơn gọi, yêu mến Giáo hội và cộng đoàn. Thử thách ấy thanh tẩy anh em và củng cố anh em vì anh em đã cảm nghiệm ân sủng và tình yêu của Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em dự phần vào mầu nhiệm thập giá và cứu chuộc. Anh em đã chia sẻ nỗi đau khổ của các nạn nhân của một số thành viên của Đạo binh và đã chỉ chọn con đường Phúc Âm để chuộc lại điều ác. Anh em đã không trốn chạy, không loại bỏ và không lên án người khác. Anh em đã đi theo con đường tham gia và liên đới, đó là con đường tình yêu đi vào tội lỗi và đau khổ để cứu chuộc chúng từ bên trong”.

(VIS, 09-01-2014)

 Minh Đức

Trích từ HĐGMVN

Đức Thánh Cha cho duyệt lại qui luật về tương quan giữa các Giám Mục và dòng tu

Đức Thánh Cha cho duyệt lại qui luật về tương quan giữa các Giám Mục và dòng tu

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã truyền duyệt lại qui luật về tương quan giữa các dòng tu và giám mục địa phương để thăng tiến sự quí chuộng hơn đối với đoàn sủng của mỗi dòng.

Các qui luật vừa nói ở trong văn kiện tựa đề ”Mutuae relationes”, (Những quan hệ hỗ tương), do Bộ các dòng tu ban hành ngày 14-5-1978. Văn kiện khẳng định rằng các dòng tu là thành phần của Giáo Hội địa phương, tuy các dòng có tổ chức nội bộ riêng và có quyền tự trị, nhưng không bao giờ được coi là độc lập với Giáo Hội địa phương.

ĐTC thông báo quyết định trên đây trong cuộc gặp gỡ 120 Bề trên Tổng quyền các dòng nam ngày 29-11 năm 2013, và văn bản cuộc nói chuyện này đã được tạp chí ”La Civiltà Cattolica” (Văn Minh Công Giáo), đăng tải ngày 3-1-2014 ở Roma. Ngài nói với các Bề trên rằng: ”Văn kiện 'tương quan hỗ tương' hồi đó là hữu ích, nhưng nay đã lỗi thời rồi. Các đoàn sủng của các dòng tu khác nhau cần được tôn trọng và thăng tiến, vì các dòng là những thực tại cần thiết trong các giáo phận”.

Trước khi được bầu làm Giáo Hoàng hồi tháng 3 năm 2013, ĐTC Phanxicô là TGM giáo phận Buenos Aires, và trước đó ngài là Giám tỉnh dòng Tên tại Argentina. Ngài nói với các Bề trên trong cuộc gặp gỡ rằng: ”Do kinh nghiệm, tôi biết những vấn đề có thể nảy sinh giữa một Giám Mục và các cộng đồng dòng tu. Ví dụ, nếu một hôm, một dòng quyết định rút khỏi công việc vì thiếu nhân sự, GM thường cảm thấy mình bất ngờ ”bị một củ khoai nóng trong tay!”. Tôi cũng biết rằng các GM không luôn luôn biết rõ những đoàn sủng và công việc của các tu sĩ. Các GM chúng tôi cần hiểu rằng những người thánh hiến không phải là những công chức, nhưng là những món quà làm cho giáo phận được phong phú”.

ĐTC cũng nhận định rằng: ”Sự can dự của các cộng đoàn dòng tu trong giáo phận là điều quan trọng. Cần phải duy trì sự đối thoại giữa GM và các tu sĩ, để các GM đừng coi các tu sĩ như những dụng cụ hữu ích chỉ vì các GM thiếu hiểu biết về các đoàn sủng của các tu sĩ”.

Trong cuộc gặp gỡ ngày 29-11-2013, ĐTC cũng yêu cầu các Bề trên Tổng quyền các dòng nam hãy hoàn thành văn kiện đang được soạn thảo về các tu huynh không linh mục. Ngài nhìn nhận có cuộc khủng hoảng ơn gọi nơi các tu huynh, nhưng xác tín rằng các tu huynh vẫn có một vai trò trong đời sống tu trì.

Bài báo dài 15 trang của cha Antonio Spadaro, Chủ nhiệm báo ”Văn Minh Công Giáo”, đã trưng dẫn rất nhiều nhận định của ĐTC Phanxicô tại cuộc gặp gỡ dài 3 tiếng đồng hồ về các vấn đề khác nhau, trong đó ngài không muốn đọc một bài diễn văn dọn sẵn, nhưng muốn đó là một cuộc nói chuyện thẳng thắn và tự do, ngài trả lời các câu hỏi do các Bề trên nêu lên.

ĐTC nhìn nhận các dòng tu tăng trưởng tại Á Phi, nhưng ngài cũng nói đến những thách đố đối với công việc loan báo Tin Mừng tại các đại lúc đó, kể cả việc thích ứng đúng đắn giáo huấn Công Giáo vào các nền văn hóa địa phương; ngài cảnh giác chống những toan tính bóc lột các xã hội nghèo như một nguồn cung cấp ơn gọi.

ĐGH cho biết: các GM Philippines đã than phiền về một số dòng tu đang thực hiện một thứ ”buôn tập sinh” tại đất nước của các vị. Ngài nói: ”Chúng ta cần cảnh giác trước những tình trạng như vậy”.

Về vấn đề đào tạo, ĐTC nói rằng ”các vị giám tập và giám học phải tỏ ra nhạy cảm đối với các nhu cầu của tập sinh và tu sinh, khuyến khích họ đối thoại chân thành và thẳng thắn với các vị đào tạo. Huấn luyện là một nghệ thuật chứ không phải là một công việc của công an, cảnh sát. Chúng ta phải huấn luyện tâm hồn của họ, chẳng vậy chúng ta sẽ tạo nên những quái vật nhỏ và những quái vật này sẽ nhào nặn dân Chúa. Điều này làm cho tôi thực sự nổi da gà! Chỉ cần nghĩ đến những tu sĩ có tâm hồn ”chua như giấm”: họ không được tạo nên để phục vụ dân. Xét cho cùng, chúng ta không được đào tạo những nhân viên hành chánh, giám đốc, nhưng đào tạo các linh mục, tu huynh, những người đồng hành”.

ĐTC Phanxicô không quên ca ngợi những cố gắng của ĐGH Biển Đức 16 trong việc ngăn chặn nạn giáo sĩ, tu sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chọn lọc các ứng viên vào đời sống tu trì, để loại bỏ những người với những lầm lỗi không thể chữa trị được. Ngài nói: ”Tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, nhưng không phải tất cả chúng ta đều là những người ung thối hư hỏng. Người tội lỗi được chấp nhận, nhưng không thể chấp nhận những người ung thối, hư hỏng”. (CNS 3-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

VỊ TỔNG THỐNG NHẢY MÚA

VỊ TỔNG THỐNG NHẢY MÚA

Một ngày nóng bức tháng bảy năm 1969 trên boong tàu một chiếc hàng không mẫu hạm ở Thái Bình Dương, các thuỷ thủ đang đưa ống dòm tìm kiếm trong vùng bầu trời phía trên chíêc mẫu hạm. Bỗng nhiên họ kêu lên. Có ba chiếc dù màu cam và trắng nở xoè ra trên bầu trời xanh thẳm, đong đưa phía dưới là vật giống như một trái banh. Ðó chính là đầu chiếc phi thuyền Apollo 11. Vài phút sau, chiếc phi thuyền đâm sâu vào dòng nước ấm áp của Thái Bình Dương. Nước biển tung toé lên đánh dấu sự kết thúc thành công của chuyến du hành mang ba người lên mặt trăng.

Khi các phi hành gia mỉm cười trồi lên từ chiếc phi thuyền nhỏ, Tổng Thống Nixon nhảy tung tăng trên boong chiếc mẫu hạm. Ông đã bay nửa vòng trái đất đến đây để chứng kiến giây phút làm nên lịch sử này. Tổng thống nói rằng vệt nước tung toé của chiếc phi thuyền đã đánh dấu sự kết thúc tuần lễ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại kể từ cuộc tạo dựng.

Trong những tháng đầy phấn khích sau đó, ba phi hành gia đã thực hiện chuyến du lịch thiện chí vòng quanh thế giới. Họ đã thăm viếng 23 quốc gia trong vòng 45 ngày. Phi hành gia Ed Aldrin nói rằng: “Một trong những thời gian phấn khích nhất” của chuyến đi là cuộc thăm viếng Vatican. Các phi hành gia đặc bịêt xúc động khi nhận được những quà tặng khác thường của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI. Ed Aldrin viết trong quyển sách của mình tựa đề: Return to Earth (trở lại trái đất) như sau:

Ðức Thánh Cha mở lớp vải gói ba bức tượng ba nhà đạo sĩ làm bằng sứ tuyệt đẹp. Ngài nói rằng ba vị đạo sĩ đã đến được với Chúa Giêsu Hài Ðồng là nhờ nhìn lên những vì sao, còn chúng tôi đã đạt đến đích của mình cũng là nhờ nhìn xem các vị sao như vậy”.

Khi chiêm ngắm các bức tượng bằng sứ tượng trưng cho ba nhà thông thái, ba phi hành gia liền nghĩ ngay đến câu chuyện họ đọc được trong bài Phúc âm hôm nay. Và chắc chắn, giống như chúng ta, họ cũng suy nghĩ về ý nghĩa sâu xa hơn ẩn giấu trong câu chuyện này.

Dĩ nhiên tất cả các học sinh đều biết được ý nghĩa câu chuyện này rồi. Ðây là việc Chúa Giêsu tự biểu lộ mình ra cho dân ngoại. Cho thế giới ngoài Do Thái Giáo. Chính vì thế, chúng ta gọi lễ này là lễ “Hiển Linh” (Epiphany). Từ ngữ Hiển Linh có nghĩa là “Thiên Chúa biểu lộ ra”.

Bởi vì Hiển Linh mừng kính việc Chúa Giêsu tự biểu lộ mình cho thế giới dân ngoại, nên một số quốc gia mừng lễ này còn trọng thể hơn lễ Giáng Sinh. Thực thế, Lễ Hiển Linh là lễ Giáng Sinh dành cho dân ngoại.

Ba nhà thông thái hay ba chiêm tinh gia từ phương Ðông đến ấy đã nhìn Chúa Giêsu thế nào? Họ nghĩ gì về Hài Nhi được hạ sinh trong trường hợp đặc biệt như thế?

Thánh Mathêu hình như cũng mang trong tâm trí câu hỏi khi ngài liệt kê những tặng vật mà các vị thông thái này dâng lên Chúa Giêsu. Thánh Matthêu viết: “Khi bước vào nhà và nhìn thấy hài nhi cùng Ðức Maria Mẹ Ngài, họ liền quỳ gối xuống tôn thờ Hài Nhi đoạn mang các tặng vật ra gồm vàng, nhũ hương và mộc dược dâng lên Ngài”.

Người xưa thường coi vàng là vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng là tặng vật lý tưởng cho một vị vua. Vì thế các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật vàng tượng trưng cho vương quyền của Chúa Giêsu. Về vương quyền của Chúa Giêsu, Thánh Phaolô có viết trong thư gởi tín hữu Ephêsô như sau: “Chúa Cha đã Phục Sinh Ðức Kitô từ cõi chết và đặt Ðức Kitô bên hữu Ngài trên Thiên Quốc. Ðức Kitô cai trị trên vạn vật… Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới chân Ðức Kitô”. (Ep 1: 20- 22)

Từ đó, chúng ta đề cập đến tặng vật thứ hai là nhũ hương. Người xưa thường dùng nhũ hương trong việc thờ phụng. Hương và khói bay lên trời biểu tượng những lời ca tụng và cầu nguyện dâng lên các thần linh. Các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật nhũ hương tượng trưng cho thiên tính của Ðức Giêsu. Khi nói về thiên tính Chúa Giêsu; thư gởi tín hữu Do Thái đã diễn tả như sau: “Chúa Giêsu phản chiếu sự chói lọi vinh quang của Thiên Chúa và là hình bóng bản thể của Thiên Chúa. Ngài lấy lời quyền phép của mình để nâng đỡ vạn vật” (Dt 1:3)

Ðiều này dẫn chúng ta đến tặng vật cuối cùng là mộc dược. Người xưa thường dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi an táng. Hãy nhớ lại các phụ nữ đã từng đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì chết là thân phận của con người, nên các Kitô hữu thường cắt nghĩa mộc dược tượng trưng cho nhân tính Chúa Giêsu. Bàn về nhân tính Chúa Giêsu, Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: “Chúa Giêsu dù luôn mang bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trở nên… như một con người… Ngài hạ mình vâng phục đến nỗi chịu chết chết trên Thập Giá” (Pl 2: 6-8)

Hơn mười lăm thế kỷ trước, Thánh Peter Chrysologus đã nói về lễ hôm nay như sau: “Ngày hôm nay, các vị đạo sĩ đã ngạc nhiên sâu sa trước điều họ chiêm ngắm: đó là trời ở trên đất, đất ở trong trời, con người trong Thượng Ðế, Thượng Ðế trong con người, Ðấng mà cả vũ trụ không thể chứa nổi giờ đang đựơc bó gọn trong một thân xác bé xíu. Khi ngắm nhìn họ đã tin và không hề thắc mắc, vì những tặng vật đầy tính tượng trưng của họ đã làm chứng điều ấy. Nhũ hương để tặng Thiên Chúa, vàng để tặng Vua và mộc dược để tặng cho một người sẽ phải chết.

Nói một cách thực tế, tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hiện đang có mặt trong giáo đường nay?

Nó có nghĩa như sau:

Chúng ta phải tiếp tục những gì Chúa Giêsu đã khởi sự khi Ngài còn ở dương thế. Nếu mọi dân tộc nhận biết được sứ điệp của Chúa Giêsu thì đó là nhờ chính nổ lực của chúng ta. Chúng ta phải chia sẻ với họ “tin mừng” là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã mang lấy nhục thể và đã sống giữa chúng ta. Chúng ta phải chia xẻ cho họ “tin mừng” là Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử, không chỉ cho riêng dân Do Thái mà là cho tất cả mọi người. Chúng ta phải chia xẻ với họ “tin mừng” là Chúa Giêsu đã đến khánh thành vương quốc Thiên Chúa. Ngài đến để thiết lập nên một trật tự thế giới mới. Một trật tự trong đó sẽ không còn khổ đau phiền muộn, một trật tự trong đó kẻ túng thiếu sẽ tìm được bạn bè thân thương thay vì chỉ tìm thấy những kẻ xa lạ trong đêm tối.

Ðó là “Tin Mừng” mà chúng ta phải mang đến cho thế gian… Ðó là sứ điệp thực tế của Lễ Hiển Linh. Ðó là sứ điệp mời gọi mỗi Kitô hữu chúng ta dấn thân vào hành động.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời do một Kitô hữu vô danh viết ra để tóm tắt sứ điệp thực tế của Lễ Hiển Linh bằng một hình ảnh tuyệt đẹp như sau:

Khi khúc hát các vị thiên sứ lặng yên,
khi sao trời lịm tắt,
Khi vua chúa, hoàng tử trở về nhà,
Khi mục đồng cùng bầy gia súc về đến chuồng,
thì việc Gíang Sinh bắt đầu khởi sự:
là cho kẻ đói ăn
Thả kẻ tù tội
Dựng xây các dân tộc
Mang hoà bình đến giữa mọi người
và reo ca bằng tâm hồn mình
“.

Cha Mark Link S.J.

NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG

NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG

Trên YouTube, có gần 2 tỉ lượt vào xem ca khúc “Gangnam Style” của ca sỹ Psy, người Hàn Quốc. Với điệu nhảy phi ngựa và giai điệu vui nhộn, Psy trở nên nổi tiếng khắp nơi trên thế giới.Tên thật của anh ta là Park Jae-Sang (Psy), anh được yêu mến với tư cách là rapper đa tính cách với nhiều video và lối diễn độc đáo. Nhờ ca khúc “Gangnam Style” mà Psy được bộ văn hóa Hàn Quốc trao tặng huân chương Okgwan vì anh đã đưa văn hóa Hàn giới thiệu đến với bạn bè quốc tế. Psy trở thành ngôi sao âm nhạc thế giới và là thần tượng của giới trẻ.

Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực. Ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá… đủ các loại sao!

Cách đây hơn 2000 năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2). Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.

Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia.

Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Ðó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Vua phái các vị ấy đi và dặn: “xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cùng đến bái lạy Người”. Họ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.

Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.

Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.

Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.

Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” (Mt 8,11).

Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.

Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.

Hôm nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi : “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15).

Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Gioan giải thích : “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” (1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.

Thời nay, Mẹ Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh: “Các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa.

Ngôi sao Đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc,11,28), Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành (x.Verbum Domini, số 124).

Chính Chúa Giêsu là ngôi sao mai dẫn chúng ta đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Người Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

Giáo hội 2014: Những sự kiện có thể thấy

Giáo hội 2014: Những sự kiện có thể thấy

Sẽ là năm có nhiều biến cố trong lịch sử Giáo hội?

Một năm sau sự kiện lịch sử Đức Giáo hoàng Bênêdictô XVI từ chức và hàng loạt sáng kiến do Đức Phanxicô thực hiện, thật khó tưởng tượng, năm 2014 tại Vatican có thể tràn ngập các biến cố. Dĩ nhiên, những câu chuyện lớn nhất dường như đến từ những vấn đề gây ngạc nhiên, nhưng lúc này, có những tiến triển hiện ra lờ mờ qua những tin tức về Vatican trong năm tới.

– Tân Hồng y: Theo kế hoạch, Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ phong chức các tân Hồng y vào ngày 22-2. Thời điểm đó, có 106 thành viên Hồng y đoàn dưới 80 tuổi và đủ điều kiện tham dự bỏ phiếu mật tuyển viện bầu chọn giáo hoàng mới. Theo quy định được Đức Giáo hoàng Phaolô VI ban hành, Hồng y đoàn không vượt quá 120 thành viên, tuy nhiên các vị giáo hoàng kế vị đôi khi tăng số lượng vượt quá con số đó. Đức Giáo hoàng Phanxicô có thể sẽ phong chức ít nhất thêm 14 tân Hồng y.

Việc bầu chọn vị Giáo Hoàng châu Mỹ Latin đầu tiên đã khơi lên nhiều mong đợi từ sự đa dạng địa lý rộng lớn của các ứng viên Hồng y, vì thế việc đề cử mới có thể sẽ có nhiều ứng viên đến từ các vùng chưa có nhiều vị đại diện, đặc biệt là châu Mỹ Latin và châu Phi.

– Cải tổ Vatican: Hội đồng tám Hồng y mà Đức Giáo hoàng Phanxicô thành lập nhằm cố vấn cho ngài trong việc quản trị giáo hội hoàn vũ và cải cách bộ máy hành chính Vatican đã cùng ngài hai lần hội đàm tại Vatican và sẽ tiếp tục trong tháng Hai. Hội đồng đang thực hiện việc cải tổ Giáo triều Rôma lần đầu tiên, cơ quan hành chính trung ương của Vatican từ năm 1988.

Mặc dầu hội đồng chưa thông báo chính thức thời hạn công việc, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã thiết lập một kỷ lục hành động nhanh chóng; trong tháng 12, ngài đã phê duyệt ý tưởng cho một ủy ban quốc tế về lạm dụng tình dục trẻ em chỉ trong một ngày sau khi hội đồng đề xuất. Người ta sẽ không ngạc nhiên nếu hội đồng gởi cho ngài dự thảo tái cơ cấu giáo triều trước cuối năm 2014.

– Phong thánh cho hai giáo hoàng: Lễ phong thánh cho Chân phước Gioan XXIII và Chân phước Gioan Phaolô II, dự kiến ​​vào ngày 27- 4, chắc chắn sẽ thu hút một đám đông to lớn hơn 1 triệu người tham dự lễ phong chân phước vào hồi tháng Năm 2011.

Bằng cách công bố sự thánh thiện của hai vị giáo hoàng cùng một ngày, Đức Giáo hoàng Phanxicô có lẽ muốn nhấn mạnh tính nền tảng kế thừa giữa hai vị giáo hoàng được rộng rãi biết đến là một tự do và một bảo thủ, đặc biệt là sự thúc đẩy canh tân Công đồng Vatican II. Chân phước Gioan khai mạc công đồng năm 1962 và chân phước Gioan Phaolô tham dự bốn phiên công đồng trong tư cách giám mục. Lễ phong thánh này là dịp cho Đức Giáo hoàng Phanxicô trình bày chi tiết sự hiểu biết về công đồng Vatican II và di sản của công đồng cho giáo hội.

– Công du đến Đất Thánh: Vatican vẫn chưa công bố thời gian và lịch trình chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng đến Đất Thánh nhưng không phủ nhận các báo cáo gần đây rằng sẽ diễn ra vào cuối tháng Năm và kéo dài trong ba ngày, với các điểm dừng Israel, Jordan và Palestine. Đức Giáo hoàng Phanxicô cho biết chuyến thăm Đất Thánh sẽ bao gồm cuộc gặp gỡ với Đức Giáo chủ Bartholomew Constantinople, người đứng đầu các giám mục Chính thống giáo.

Đây là chuyến công du thứ hai ngoài nước Ý của Đức Giáo hoàng Phanxicô, sau chuyến thăm Brazil hồi tháng Bảy năm 2013, chuyến công tác đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của ngài. Các điểm đến sẽ ấn định phù hợp cho vị Giáo Hoàng có quan hệ đặc biệt ấm nồng với người Do Thái và ưu tiên hòa bình Trung Đông trong lịch trình địa chính trị của ngài. Trong khi chuyến viếng thăm ba ngày của Đức Giáo Hoàng sẽ ngắn bất thường đối với một điểm đến nổi bật như vậy, thì điều đó hoàn toàn thích hợp cho Đức Giáo hoàng Phanxicô, vốn có một chương trình nghị sự cải cách nặng nề tại nhà và sự tinh nhạy của các phương tiện truyền thông giúp ngài tiếp cận thế giới mà không cần rời Vatican.

– Ly dị và tái hôn của người Công giáo: Một phiên họp bất thường của Thượng Hội đồng Giám mục sẽ gặp nhau tại Vatican trong hai tuần vào tháng Mười để thảo luận về “những thách thức mục vụ của gia đình trong bối cảnh truyền giáo.”

Nguồn: Catholic News Service

Trích từ UCANEWS VN

Mọi người đều có bổn phận xây dựng một thế giới hòa bình công bằng và liên đới hơn

Mọi người đều có bổn phận xây dựng một thế giới hòa bình công bằng và liên đới hơn

Mẹ Maria đồng hành với chúng ta trên con đường lòng tin và liên tục củng cố đức tin ơn gọi và sứ mệnh kitô của chúng ta. Là con cai Chúa và anh chị em với nhau trong gia đình nhân loại, mọi người đều có bổn phận hoạt động để xây dựng một thế giới hòa bình, công bằng, huynh đệ và liên đới hơn.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong bài giảng thánh lễ và bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin chung với 140,000 tín hữu tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật mùng 1 tháng Giêng đầu năm dương lịch 2014.

Lúc 10 giờ sáng thứ tư hôm qua, mùng 1 tháng giêng đầu năm dương lịch 2014 cũng là Ngày hòa bình thế giới lần thứ 47, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa trong đền thờ Thánh Phêrô. Cùng đồng tế thánh lễ có hàng chục Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám Mục, và hàng trăm linh mục, trong đó có 70 vị giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa. Tham dự thánh lễ có hàng trăm linh mục tu sĩ nam nữ, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh và gần 10,000 tín hữu. Đứng hai bên Đức Thánh Cha là Đức Hồng Y Peter Turkson, Chủ tịch Hồi Đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa Bình, và Đức Tổng Giám Mục Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.

Thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Latinh. Hai bài Sách Thánh đã được tuyên đọc bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý và Phúc Âm đã được hát bằng tiếng Latinh. Phần thánh ca đã do ca đoàn Sistina của Tòa Thánh và ca đoàn hỗn hợp gồm 370 ca viên đảm trách.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói:

Bài đọc thứ nhất tái đề nghị với chúng ta lời chúc lành cổ xưa mà Thiên Chúa đã gợi ý cho ông Môshê để ông dậy cho ông Aharon và con cái ông: ”Xin Chúa chúc lành cho anh em và gìn giữ anh em. Xin Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em. Xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em” (Ds 6,24-26). Thật là ý nghĩa, khi nghe lại các lời chúc lành này vào đầu năm mới: chúng sẽ đồng hành với lộ trình của thời gian mở ra trước mặt chúng ta. Chúng là các lời của sức mạnh, lòng can đảm và niềm hy vọng. Không phải một niềm hy vọng hão huyền, dựa trên các lời hứa của con người; cũng không phải một niềm hy vọng ngây thơ tưởng tượng ra một tương lai tốt đẹp hơn. Niềm hy vọng này có lý do của nó chính trong phúc lành của Thiên Chúa, một phúc lành chừa đựng lời cầu chúc lớn nhất, lời cầu chúc của Giáo Hội gửi đến từng người trong chúng ta, tràn đầy tất cả sự chở che yêu thương của Chúa và sự trợ giúp quan phòng của Ngài.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói: Lời cầu chúc chứa đựng trong phúc lành này đã đựơc thực hiện một cách tràn đầy nơi một phu nữ là Đức Maria, như là người đã được chỉ định trở thành Mẹ của Thiên Chúa, và đã được thực hiện nơi Mẹ trước mọi thụ tạo.

Mẹ Thiên Chúa! Đây là tước hiệu chình và nòng cốt của Đức Mẹ. Đây là một phẩm tính, một vai trò, mà đức tin của dân kitô đã luôn luôn nhận thức được trong lòng sùng mộ dịu hiền và tinh tuyền đối với người mẹ thiên quốc. Chúng ta nhớ lại thời điểm lớn lao trong lịch sử Giáo Hội xưa kia là Công Đồng Chung Ệphêxô, trong đó chức là Mẹ Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ đã được định nghĩa một cách uy quyền. Chân lý về chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria tìm thấy sự vang vọng tại Roma, nơi ít lâu sau đó đã được xây Vương cung thánh đường Đức Bà Cả, là đền thánh đầu tiên tại Roma và trong toàn Tây Phương, nơi tôn kính ảnh Mẹ Thiên Chúa Theotokos – với tước hiệu ”Sự cứu rỗi của dân Roma”. Người ta kể rằng trong Công Đồng dân chúng thành Êphêxô tụ họp hai bên cửa vương cung thánh đường nơi các Giám Mục đang nhóm họp và kêu lên: ”Mẹ Thiên Chúa!”. Khi xin định nghĩa một cách chính thức tước hiệu này của Đức Mẹ, tín hữu chứng minh cho thấy họ nhìn nhận chức làm Mẹ Thiên Chúa của Người. Đó là thái độ tự phát và chân thành của con cái nhận biết rõ Mẹ mình, bởi vì họ yêu Mẹ với tình yêu hiền dịu vô biên.

Mẹ Maria đã luôn luôn hiện diện trong con tim, trong lòng mộ mến và nhất là trên con đường đức tin của dân kitô. ”Giáo Hội bước đi trong thời gian… và trên con đường này Giáo Hội tiến bước theo lộ trình Đức Trinh Nữ Maria đã đi” (Gioan Phaolô II, Redemtoris Mater, 2). Lộ trình lòng tin của chúng ta giống lộ trình của Đức Maria, vì thế chúng ta cảm thấy Mẹ đặc biệt gần gũi với chúng ta!. Đức Thánh Cha giải thích thêm con đường đức tin của Mẹ Maria như sau:

Liên quan tới đức tin, là cột trụ của cuộc sống kitô, Mẹ Thiên Chúa đã chia sẻ điều kiện của chúng ta, Mẹ đã phải bước đi trên cùng các nẻo đường chúng ta đi, đôi khi khó khăn và tăm tối, Mẹ đã phải tiến tới trong ”cuộc hành hương đức tin” (LG, 58).

Con đường đức tin của chúng ta được gắn liền với Đức Maria một cách không thể hủy bỏ được, kể từ khi Chúa Giêsu hấp hối thập giá đã ban Người cho chúng ta làm Mẹ khi nói: ”Này là Mẹ con” (Ga 19,27). Các lời này có giá trị của một di chúc và ban cho thế giới một Bà Mẹ. Từ khi đó Mẹ Thiên Chúa cũng trở thành Mẹ chúng ta! Trong giờ phút, trong đó đức tin của các môn đệ bị nghiêng ngả bởi biết bao khó khăn và bất ổn, Chúa Giêsu đã tín thác các vị cho Đấng là người đầu tiên đã tin, và niềm tin của Người đã không bao giớ suy giảm. Và ”người đàn bà” trở thành Mẹ chúng ta trong lúc Người mất Con Thiên Chúa. Trái tim của Mẹ nở rộng để có chỗ cho tất cả mọi người, tốt cũng như xấu, và Mẹ yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu thương họ. Mẹ là Người đàn bà mà trong đám cưới làng Cana vùng Galilea đã trao ban sự cộng tác đức tin để biểu lộ các việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong thế giới; trên núi Sọ Người giữ cho ngọn lửa đức tin nơi sự phục sinh của Con được cháy sáng, và Người thông truyền nó cho người khác với tình mẫu tử. Như thế Đức Maria trở thành suối nguồn hy vọng và niềm vui đích thật!.

Mẹ Đấng Cứu Thế đi trước chúng ta và liên tục củng cố chúng ta trong đức tin, trong ơn gọi và sứ mệnh. Với gương mẫu sự khiêm nhường và sẵn sàng của Mẹ đối với ý muốn của Thiên Chúa, Mẹ trợ giúp chúng ta diễn tả đức tin của chúng ta thành lời loan báo Tin Mừng tươi vui và vô biên giới. Như thế sứ mệnh của chúng ta sẽ phong phú, bởi vì được nhào nặn theo chức làm mẹ của Đức Maria. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ lộ trình đức tin của chúng ta, các ước mong trong con tim chúng ta, các nhu cầu của chúng ta và các nhu cầu của toàn thế giới, đặc biệt nỗi đói khát công lý và hòa bình, và chúng ta hãy cùng nhau tất cả khẩn nài Mẹ: lậy Mẹ Thiên Chúa!

Các lời nguyện giáo dân đã được đọc trong các thứ tiếng Ý, Hoa, Tây Ban Nha, A rập và Bồ Đào Nha. Xin Chúa Giêsu Con Thiên Chúa quy tụ mọi con cái Thiên Chúa tản mát khắp nơi về trong sự hiệp thông đích thật của Tin Mừng và các Bí tích; Xin Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình chiến thắng mọi chia rẽ, thù hận, báo oán, và xin cho mọi dân tộc được sống kinh nghiệm hòa bình; Xin Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng trinh nữ Maria, chúc lành cho tất cả mọi phụ nữ và bà mẹ được mời gọi sinh con, giữ gìn và thăng tiến sự sống; Xin Chúa Giêsu đã xuất hiện ở chân trời của nhân loại khi tới thời viên mãn, giáo dục mọi người biết hoạt động trong lịch sử, nhưng luôn hướng tới cuộc sống vĩnh cửu; Xin Chúa Giêsu Con Thiên Chúa làm người giúp mọi tín hữu đã được rủa tội ý thức và tươi vui sống điều kiện là con Thiên Chúa và được tái sinh trong Ơn thánh.

Trong phần dâng lễ vật có ba em bé thuộc nhóm các trẻ em Đức và Áo trong mùa Giáng Sinh đi hát thánh ca quyên tiền giúp các trẻ em nghèo trên thế giới.

Lúc 12 giờ trưa Đức Thánh Cha đã xuất hiện tại cửa sổ dinh Tông Tòa để đọc kinh Truyền Tin với 140,000 tín hữu tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô, trong đó có hàng trăm nhóm tham dự cuộc tuần hành cho hòa bình do cộng đoàn thánh Egidio, các hiệp hội và phong trào kitô và hòa bình tổ chức ngày mùng 1 tháng Giêng hàng năm. Năm nay cuộc tuần hành cho hòa bình đã được tổ chức trong 700 thành phố trên toàn thế giới.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã chúc mọi người được hòa bình và mọi điều thiện hảo trong năm mới 2014, Ngài nói: Lời chúc này của Giáo Hội đựa trên biến cố chính của lịch sử: Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người chết và sống lại. Nó có một đích điểm là Nước Của Thiên Chúa, nước của hòa bình, công lý và tự do trong tình yêu. Nó có một sức mạnh là Chúa Thánh Thần làm cho nó hướng tới đích điểm ấy.

Nhắc tới đề tài sứ điệp hòa bình năm nay là ”Tình huynh đệ, nền tảng và con đường của hòa bình” Đức Thánh Cha khẳng định rằng: nền tảng của hòa bình là xác tín chúng ta tất cả đều là con của một Thiên Chúa Cha duy nhất trên trời, là thành phần của cùng một gia đình nhân loại và cùng chia sẻ một số phận. Từ đây phát xuất ra trách nhiệm của từng người phải hoạt động để thế giới trở thành một cộng đoàn anh em tôn trong nhau, chấp nhận nhau trong các khác biệt và lo lắng cho nhau. Chúng ta cũng được mời gọi tính sổ về các bạo lực và bất công hiện có trong biết bao nhơiêu phần đất của thế giới này, và không thể thờ ơ bất động trước các bất công ấy: mọi người đều phải dấn thân xây dựng một xã hội thật sự công bằng và liên đới hơn. Hộm qua tôi có nhận được một bức thư của một người, cỏ thể là của một người trong anh chị em ở đây, kể lại một thảm cảnh gia đình. Sau đó liệt kê ra một chuỗi các chuyện buồn thương: chiến tranh, bạo lực, thù hận, tàn phá, giết chóc thương đau và đặt cậu hỏi: Chuyện gì đang xảy ra trong trái tim con người? Chuyện gì đang xảy ra trong con tim của nhân loại? Đã đến lúc phải dừng lại. Tôi cũng xin lấy lại lời của người ấy: phải, đã đến lúc chúng ta phải dừng lại. Rồi Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:

Từ mọi góc của trái đất ngày hôm nay các tín hữu dâng lên lời cầu xin Chúa ơn hòa bình và khả năng đem nó tới mọi môi trường sống. Trong ngày đầu năm này xin Chúa giúp chúng ta, cùng với tất cả mọi người, cương quyết hơn bước đi trên các con đường của công lý và hòa bình. Xin Chúa Thánh Thần hoạt động trong các con tim, đánh tan các khép kín, các cứng cỏi và ban cho chúng ta biết trở thành hiền dịu trước sự yếu đuối của Hài Nhi Giêsu. Thật thế, hòa bình đòi có sức mạnh của sự hiền dịu, sức mạnh không bạo lực của sự thật và tình yêu thương. Chúng ta hãy đặt để trong tay Mẹ Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế, các niềm hy vọng của chúng ta với tình con thảo. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ, là Đấng trải dài tình mẫu tử trên tất cả mọi người, tiếng kêu gào hòa bình của các dân tộc bị áp bức bởi chiến tranh và bạo lực, để lòng can đảm đối thoại và hòa giải thắng vượt các cám dỗ báo thù, độc tài và gian tham hối lộ. Chúng ta xin Mẹ cho Tin Mừng của tình huynh đệ được Giáo Hội loan báo và lám chứng có thể nói với mọi lương tâm, và triệt hạ các bức tường ngăn cản các người thù nghịch nhận nhau là anh em.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành đầu năm cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã cám ơn Tổng Thống Italia ông Napolitano về các lời cầu chúc trong sứ điệp cuối năm. Ngài xin Chúa tuôn đổ phúc lành trên tổng thống và toàn dân Italia, để với phần đóng góp có trách nhiệm và liên tđới của mọi người đất nước Italia có thể nhìn tương lai với sự tin tưởng và niềm hy vọng. Ngài cũng cám ơn tất cả các sáng kiến dấn thân cho hòa bình tại khắp nơi trên thé giới trong ngày Hòa Bình thế giới, đặc biệt là cuộc tuần hành toàn quốc tại Campobasso do Hội Đồng Giám Muc Italia cùng phát động chiều ngày 31 tháng 12 cùng với tổ chức Caritas và Hòa Bình Chúa Kitô; cũng như các cuộc biểu tình ”Hòa bình trong mọi vùng đất” do cộng đoàn thánh Egidio tổ chức tại Roma và nhiều nơi khác trên thế giới. Đức Thánh Cha cũng cám ơn các gia đình thuộc phong trào ”Tình yêu gia đình” đã tổ chức buổi canh thức cầu nguyện cuối năm tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài cũng không quên chào tất cả mọi du khách hành hương hiện diện tại quảng trường, và đặc biệt cám ơn các ”Ca viên của Ngôi Sao” Sternsinger, tức các trẻ em Đức và Áo đi hát thánh ca trong mùa Giáng sinh để quyên tiền giúp các trẻ em nghèo. Sau cùng ngài cầu chúc mọi người một năm mới an bình trong ơn thánh Chúa và sự che chở hiền mẫu của Mẹ Maria.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều Lễ Mẹ Thiên Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều Lễ Mẹ Thiên Chúa

VATICAN. Chiều 31-12-2013, ĐTC Phanxicô đã chủ sự kinh chiều I lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và kinh Te Deum, Tạ Ơn Thiên Chúa, nhân dịp cuối năm dương lịch. Ngài mời gọi mỗi người dân thành Roma cộng tác để thành này trở nên tốt đẹp hơn trong năm mới.

Hiện diện tại Đền thờ Thánh Phêrô trong buổi hát kinh bắt đầu lúc 5 giờ chiều còn có 30 HY, đặc biệt là ĐHY Agostino Vallini, Giám Quản Roma, 7 GM phụ tá và 40 GM khác, đông đảo các cha sở và khoảng 9 ngàn tín hữu cùng với Ông Đô Trưởng và chính quyền miền Lazio và thành phố Roma.

Đảm nhận phần thánh ca trong buổi hát kinh có nhiều ca đoàn, tổng cộng 360 ca viên, cùng với ca đoàn Sistian của tòa Thánh do Đức Ông Massimo Palombella điều khiển.

Trong bài giảng, ĐTC mời gọi mọi người hãy xét mình xem mình đã sử dụng thế nào thời gian Chúa ban: ”Phải chăng chúng ta đã dùng thời gian đó chủ yếu cho bản thân, cho những tư lợi hay cũng sử dụng nó cho tha nhân, cho Thiên Chúa? Bao nhiêu thời gian chúng ta đã dành để 'ở với Chúa', trong kinh nguyện, trong thinh lặng?”
”Năm nay, chúng ta có góp phần, trong sự 'nhỏ bé' của mình để làm cho thành Roma này có thể sống được, có trật tự và hiếu khách không?”

ĐTC cũng nhận xét về thành Roma với bao nhiêu vẻ đẹp có một không hai, là gia sản tinh thần và văn hóa đặc biệt, nhưng tại đây vẫn có bao nhiêu người phải chịu lầm than về vật chất và tinh thần, những người nghèo khổ, bất hạnh, đau khổ đang gọi hỏi lương tâm không những của nhà cầm quyền, nhưng của mỗi công dân nữa. Tại Roma có lẽ chúng ta cảm thấy mạnh mẽ hơn sự đối nghịch giữa môi trường hoành tráng, và đầy vẻ đẹp nghệ thuật, và tình trạng xã hội khó khăn mà nhiều người phải chịu. Roma là thành phố đầy du khách nhưng cũng đầy người tị nạn; Roma đầy những người làm việc, nhưng cũng có những người không tìm được công ăn việc làm, hoặc phải làm những việc với đồng lương kém, nhiều khi không xứng đáng; tất cả đều có quyền được đối xử với thái độ đón tiếp và công bằng, vì mỗi người đều có phẩm giá con người”.

Từ những nhận định trên đây, ĐTC kêu gọi mỗi người cộng tác để Roma trở nên tốt đẹp hơn trong năm tới: ”Roma sẽ tốt đẹp hơn nếu tất cả chúng ta quan tâm và quảng đại đối với những người gặp khó khăn, nếu chúng ta biết cộng tác trong tinh thần xây dựng và liên đới, cho công ích của mọi người. Roma trong năm mới sẽ tốt đẹp hơn nếu chúng ta không phải là những người chỉ nhìn nó từ xa, nhìn cuộc sống của thành này từ bao lơn, mà không dấn thân vào bao nhiêu vấn đề của con người tại đây.. Trong viễn tượng này Giáo hội tại Roma cảm thấy dấn thân đóng góp phần của mình cho cuộc sống và tương lai thành này, linh hoạt nó bằng men Tin Mừng, trở thành dấu chỉ và dụng cụ lòng từ bi của Thiên Chúa”.

Cuối kinh chiều, có nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và hát kinh Te Deum tạ ơn Thiên Chúa. Sau đó, ĐTC đã ra quảng trường thánh Phêrô viếng thăm và cầu nguyện hang đá lớn tại đây.

Ngoài ra tối 31-12-2013, có buổi canh thức tại Quảng trường thánh Phêrô để cầu nguyện cho sự hiệp nhất và hòa bình trong các gia đình và giữa các dân nước. Đây là lần thứ 11, Phong trào tình yêu gia đình tổ chức và cổ võ buổi canh thức thuộc loại này. Đức Cha Matteo Zuppi, GM phụ tá Roma, đã khai mạc buổi cầu nguyện này từ lúc 23 giờ 15 phút (SD 31-12-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Biết xin phép, cám ơn và xin lỗi là các thái độ sống đem lại an bình và niềm vui trong cuộc sống gia đình

Biết xin phép, cám ơn và xin lỗi là các thái độ sống đem lại an bình và niềm vui trong cuộc sống gia đình

Muốn có an bình và niềm vui trong gia đình, chúng ta hãy biết sống ba từ chìa khóa sau đây: xin phép, cám ơn và xin lỗi. Khi trong một gia đình người ta không xâm lần nhau, nhưng biết xin phép. Khi trong một gia đình người ta không ích kỷ, nhưng tập nói tiếng cám ơn. Khi trong một gia đình một người nhận ra mình đã làm điều xấu và biết xin lỗi, thì trong gia đình ấy có an bình và niềm vui.

Kính thưa qúy vị thưa các bạn, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khàch hành hương trong buổi đọc kinh Truyền Tin chung trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường Thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức thánh Cha nói phụng vụ Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Giáng Sinh mời gọi chúng ta cử hành lễ Thánh Gia Nagiarét. Thật thế, mọi hang đá đều cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Đức Mẹ và Thánh Giuse trong hang đá Bếtlêhem. Thiên Chúa đã muốn sinh ra trong một gia đình nhân loại, đã muốn có một người mẹ và một người cha. Phúc Âm hôm nay giới thiệu với chúng ta Thánh Gia trên đường đầy ải đau đớn kiếm tìm nơi trú ẩn bên Ai Cập. Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đã sống kinh nghiệm điều kiện thê thảm của những người tị nạn, ghi dấu bởi sự sơ hãi, bất an và các khó khăn (x. Mt 2,13-15.19-23). Áp dụng vào thảm cảnh của người di cư tị nạn ngày nay Đức Thánh Cha nói:

Rất tiếc ngày nay có hàng triệu gia đình có thể nhận ra mình trong thực tại buồn thương này. Hầu như mỗi ngày đài truyền hình và báo chí đưa tin các người di cư trốn chay đói khát, chiến tranh, và các hiểm nguy trầm trọng khác để tìm an ninh và một cuộc sống xứng đáng hơn cho mình và cho gia đình mình.

Trong các vùng đất xa xôi, cả khi tìm thấy công ăn việc làm, các người tị nạn và di cư không luôn luôn gặp được sự tiếp đón đích thật, lòng tôn trong và việc đánh gia cao các giá trị họ đem theo. Các chờ mong hợp pháp của họ thường gặp các tình trạng phức tạp và các khó khăn xem ra không thể vượt thắng được. Tuy nhiên, trong khi gắn chặt cái nhìn vào Thánh Gia Nagiarét phải bó buộc tị nạn, chúng ta nghĩ tới thảm cảnh của các người di cư ti nạn, nạn nhân của khước từ và khai thác bóc lột. Nhưng chúng ta cũng nghĩ tới ”những người bị đầy ải” trong chính các gia đình: chẳng hạn các người già cả, đôi khi bị đối xử như là những sự hiện diện kềnh càng ngăn cản. Rất nhiều lần tôi nghĩ rằng có một dấu chỉ giúp nhận biết một gia đính ra sao, đó là nhìn xem trong đó các trẻ em và người già được đối xử như thế nào.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói Chúa Giêsu đã muốn thuộc về một gia đình đã sống kinh nghiệm càc khó khằn này, để không ai cảm thấy bị loại bỏ khỏi sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa. Rồi Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa cuộc trốn chạy sang Ai Cập của Thánh Gia như sau:

Việc chay trốn sang Ai Cập vì các đe dọa của vua Hếrốt cho thấy Thiên Chúa ở nơi đâu con người gặp nguy hiểm, ở nơi đâu con người khổ đau, ở nơi đâu con người trốn chạy, ở nơi đâu nó sống kinh nghiệm sự khước từ và bỏ rơi. Nhưng Thiên Chúa cũng hiện diện ở nơi đâu con người mơ ước, hy vọng trở về quệ hương trong tự do, dự phóng và lựa chọn cho sự sống và phẩm giá của mình và của nhưng người trong gia đình mình.

Hôm nay cái nhìn của chúng ta trên Thánh Gia cũng được lôi kéo bởi sự đơn sơ của cuộc sống tại Nagiarét. Đó là một thí dụ ích lợi cho các gia đình của chúng ta, giúp chúng luôn ngày càng trở thành cộng đoàn hiệp thông của tình yêu và sự hòa giải, trong đó người ta sống kinh nghiệm sự hiền dịu, tương trợ lẫn nhau, tha thứ cho nhau.

Muốn có an bình và niềm vui trong gia đình, chúng ta hãy biết sống ba từ chìa khóa sau đây: xin phép, cám ơn và xin lỗi. Khi trong một gia đình người ta không xâm lần nhau, nhưng biết xin phép. Khi trong một gia đình người ta khô sống ng ích kỷ, nhưng tập nói tiếng cám ơn. Khi trong một gia đình một người nhận ra mình đã làm điều xấu và biết xin lỗi, thì trong gia đình ấy có an bình và niềm vui.

Tôi cũng muốn khích lệ các gia đình ý thức được tầm quan trọng của mình trong Giáo Hội và trong xã hội. Thật thế, lời loan báo Tin Mừng trước hết đi qua các gia đình, rồi tới với các môi trường khác nhau của cuộc sống thường ngày.

Chúng ta hãy sốt sắng khẩn nài Mẹ Maria Rất Thánh, Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta, hướng dẫn từng gia đình trên thế giới, để nó có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa đã giao phó với phẩm giá và sự thanh thản.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã nhắc cho mọi người biết Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới sắp tới sẽ thảo luận về đề tài Gia đình, và giai đoạn chuẩn bị đã bắt đầu rồi. Vì thế Đức Thánh Cha nói: hôm nay lễ Thánh Gia tôi muốn phó thác cho Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse công việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục này, bằng cách cầu xin cho các gia đình trên toàn thế giới. Tôi xin mời anh chị em hiệp nhất với tôi trong tinh thần trong lời cầu mà tôi đọc bây giờ:

”Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse, Nơi các Ngài chúng con chiêm ngưỡng ánh quang của tình yêu đích thật, chúng con hướng lên các Ngài với lòng tin tưởng.

Hỡi Thánh Gia Nagiarét, xin cũng hãy làm cho các gia đình chúng con trở thành nơi hiệp thông và nhà tiệc ly cầu nguyện, các trường đích thật của Phúc Âm và các Giáo Hội tại gia nhỏ.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, xin đừng bao giờ để xảy ra kinh nghiệm bạo lực, khép kín và chia rẽ trong các gia đình nữa: xin cho bất cứ ai đã bị thương tích hay gương mù gương xấu mau biết đến hòa giải và chữa lành.

Lạy Thánh Gia Nagiarét, ước chi Thượng Hội Đồng tới đây của các Giám có thể tái lập nơi tất cả mọi người ý thức về tính cách thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình và vẻ đẹp của nó trong chương trình của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Cha Thánh Giuse, xin hãy lắng nghe và nhận lời khẩn nài của chúng con. Amen.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đặc biệt gửi lời chào tới các tín hữu theo dõi buổi đọc Kinh Truyền Tin trên kênh truyền hình nối với Nagiarét, trong Vương cung thánh đường Truyền Tin, nơi có sự hiện diện của Đức Tổng Giám Mục Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục; với vương cung thánh đường Thánh Gia bên Barcelona Tây Ban Nha, nơi có sự hiện diện của Đức Hồng Y Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về gia đình; với Vương cung thánh đường Nhà Thánh của Đức Mẹ tại Loreto. Ngài cũng gửi lời chào tín hữu các nơi cử hành lễ các Gia đình như bên Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Ngoài ra ngài cũng chào các bạn trẻ thuộc nhiều giáo phận Italia, cách riêng các thành viên phong trào Tổ Ấm từ nhều nước trên thế giới hành hương Roma.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio