Tòa Thánh Vatican Sự thăm dò về các vấn đề gia đình bao gồm cả hôn nhân đồng tính

Tòa Thánh Vatican Sự thăm dò về các vấn đề gia đình bao gồm cả hôn nhân đồng tính

VATICAN CITY (Reuters) – Tòa thánh Vatican đang yêu cầu các giám mục và các linh mục trong giáo xứ trên toàn thế giới tại địa phương quan sát về vấn đề hôn nhân đồng tính , ly dị và ngừa thai trước cho cuộc họp của các Giám mục vào năm tới để thảo luận về Giáo Hội Công Giáo La Mã giáo liên quan đến gia đình.

Trong khi đó, đây là việc thực tế phổ biến để gửi ra các bản thăm dò  trước cuộc họp, thượng hội đồng. Các câu hỏi thăm dò thể hiện sự cảm nhận lớn hơn đến các vấn đề từng được coi là điều cấm kỵ , như làm thế nào để bao gồm các con nuôi của các cặp vợ chồng đồng tính trong Giáo Hội.

Việc này cũng cho thấy Đức Thánh Cha Phanxicô đang tiếp cận với giáo xứ địa phương và không chỉ dựa vào hệ thống giai cấp Giáo hội về việc triển khai giáo huấn Công giáo.

Các câu hỏi đã được gửi cho các Giám mục vào ngày 18, theo một lá thư từ Đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri , Tổng thư ký của cuộc họp Thượng Hội Đồng, các giám mục Công giáo trên toàn thế giới.

Các lá thư và khảo sát câu hỏi đã được đăng trên trang web Công giáo của phóng viên quốc gia vào thứ năm, và xác nhận của Tòa Thánh vào thứ Sáu.

" Mối quan tâm đó là chưa từng có cho đến khi một vài năm trước đây đã xuất hiện hôm nay là kết quả của tình huống khác nhau, từ việc chung sống với nhau … liên hệ của những người đồng tính, không bình thường, cho phép nhận con nuôi "

Cuộc thăm dò không báo hiệu bất kỳ sự thay đổi trong học thuyết Giáo hội đối với hôn nhân đồng tính hay ngừa thai, nhưng cho thấy bằng chứng Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn tiếp cận với những người Công giáo bình thường về các vấn đề liên quan đến gia đình hiện đại .

Trong một cuộc phỏng vấn được công bố trong tháng Chín, Đức Thánh Cha nói Giáo Hội phải thoát khỏi nỗi ám ảnh với việc phá thai, ngừa thai và đồng tính luyến ái và trở thành xót thương hơn, hoặc có nguy cơ sụp đổ của toàn bộ đạo đức.

Các câu hỏi cho một mối quan tâm về cách thức tốt hơn để chuẩn bị người trẻ để kết hôn, hiệu quả của phương pháp ngừa thai tự nhiên, và làm thế nào để hỗ trợ các " hành trình đức tin " của ly dị và tái hôn với những người bị loại ra khỏi các bí tích.
Tuy nhiên, chưa đầy hai tuần trước Vatican xác nhận rằng người Công giáo, những người đã tái hôn sau khi ly hôn đang bị ngăn chận không được phép rước lễ.

Cuộc điều tra hỏi những gì " chú ý mục vụ " có thể được trao cho những người đã chọn một sự kết hợp đồng tính, và " trong trường hợp của các đoàn thể của người cùng giới đã thông qua trẻ em, những gì có thể được thực hiện về mục vụ trong ánh sáng của truyền đức tin ? "

Ở Anh, các giám mục đã đăng các khảo sát trực tuyến để bất cứ ai , kể cả giáo dân và cha mẹ Công giáo, có thể vào website. ( http://r.reuters.com/vyh44v )

Các kết quả thăm dò ý kiến ​​sẽ được đưa vào một bài báo làm việc cho một cuộc họp bất thường của Thượng Hội Đồng các giám mục tiếp theo tháng Mười.


( Tường trình của Steve Scherer và Philip Pullella ; Viết bởi Steve Scherer ; Editing by Robin Pomeroy )

Thái Trọng phỏng dịch

Hàng ngàn giáo dân dự lễ cầu hồn

Hàng ngàn giáo dân dự lễ cầu hồn tại Quận Cam

 

Một cụ ông thắp nhang và đặt hoa tưởng nhớ người thân trong khi hàng ngàn tín hữu tham dự thánh lễ cầu hồn tại Nghĩa trang Chúa Chiên Lành trưa thứ Bảy.

HUNTINGTON BEACH, Quận Cam – Hàng năm vào ngày 1 tháng 11, Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ cử hành trọng thể lễ kính Các Thánh Nam Nữ. Sau đó vào ngày mùng 2 Giáo Hội cử hành lễ Cầu Hồn. Đối với tín hữu Công Giáo, đây là hai ngày lễ rất quan trọng vì các thánh nam nữ hay linh hồn các người đã qua đời có thể là ông bà, cha mẹ, con, cháu, thân bằng quyến thuộc hoặc bạn hữu xa gần.

Ngày mùng 1-11, giáo dân đến tham dự thánh lễ để tôn vinh các thánh, học hỏi, noi gương các Ngài mà ăn ở cho phải đạo làm người, làm con cái Thiên Chúa. Ngày mùng 2-11, giáo dân đến nhà thờ hay nghĩa trang tham dự thánh lễ, cầu nguyện cho linh hồn các người đã ra đi được về quê thật trên Trời, nơi những người khi còn sống đã vững lòng tin tưởng và cầu xin.

Vào lúc 12 giờ trưa ngày 02.11.2013 hàng ngàn tín hữu Công giáo đã đến nghĩa trang Chúa Chiên Lành (The Good Sheperd) góc Talbert và Beach Blvd, Huntington Beach để tham dự thánh lễ, viếng các phần mộ tại nghĩa trang. Thánh lễ do Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange tổ chức. Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Orange chủ tế và một số Linh mục đồng tế.

Trong bài giảng, Đức Cha Mai Thanh Lương cũng nhắc đến vai trò của các vị Thánh, làm sao nên thánh? Và khuyên nhủ giáo dân, cuộc sống trên trần gian chỉ là chốn tạm, sau khi chết, Thiên Đàng mới là quê thật, nên khi còn sống phải sống cho xứng đáng, ăn ở thuận hòa, yêu thương và giúp đỡ mọi người như Chúa đã dạy trong 8 mối phúc thật để được vào Thiên Đàng hưởng phúc vĩnh cửu.

Trước khi thánh lễ kết thúc, Đại diện ban tổ chức ngỏ lời cám ơn Đức Giám mục, quý Linh mục, tu sĩ nam nữ cùng toàn thể cộng đồng dân Chúa đã sốt sắng tham dự thánh lễ để cầu nguyện, xin Thiên Chúa cho linh hồn những người thân yêu đã ra đi sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Sau thánh lễ, nhiều người đã đến các phần mộ thắp hương, đọc kinh cầu nguyện cho các người đang an nghỉ tại đây.

Giáo Hội Công Giáo từ rất xa xưa đã chọn tháng 11 hàng năm là Tháng Các Linh Hồn, để nhắc nhở giáo dân nhớ đến những người đã ra đi. Không chỉ trong tháng 11, mỗi ngày khi cử hành Thánh lễ, Linh mục và giáo dân đều cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc và tất cả những linh hồn đã ly trần được hưởng phúc vĩnh cửu trên Thiên quốc. Ngoài thánh lễ hôm nay, vào lúc 10 giờ trưa ngày Chủ Nhật 10 tháng 11.2013 tại nghĩa trang Làng Vĩnh Phúc cũng sẽ có thánh lễ do Hội Việt Nam Tương Tế tổ chức.

Thanh Phong / Viễn Đông

MỖI NĂM CÓ HƠN 3000 TU SĨ RỜI BỎ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

MỖI NĂM CÓ HƠN 3000 TU SĨ RỜI BỎ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

Con số được thư ký của Bộ các dòng tu và hội đời sống tông đồ công bố. Theo cha José Rodriguez Caballo, mỗi năm có hơn 3000 tu sĩ nam nữ rời bỏ đời sống thánh hiến. Con số bình quân này đã được xác lập từ con số người rời bỏ từ năm 2008 đến 2012. Những nghiên cứu của cha được đưa ra trong một ngày nghiên cứu diễn ra ở Rôma ngày 29/10/2013 và nhật báo Osservatore Romano đã đăng trích một số đoạn trong bài phát biểu của ngài.

Cha nhấn mạnh: cuộc khủng hoảng ơn gọi tu trì này phần lớn là do nền văn hóa « zapping » (việc thay đổi các kênh bằng điều khiển từ xa).

Hiện tượng lo ngại

Cha khẳng định : « Nếu điều đó tiếp tục, thì sự sống còn của một số dòng tu có thể có nguy cơ hiểm họa ». Theo ngài, đó là một « hiện tượng lo ngại ». « Những cuộc rời bỏ này chắc chắn là triệu chứng của một cuộc khủng hoảng rộng lớn hơn trong đời sống tu trì và thánh hiến ». Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của Giáo Hội đối diện với những vấn đề ngày và không « nhìn nơi khác ».

Trong số các nguyên nhân của sự rời bỏ này, cha Caballo đặc biệt nhấn mạnh đến sự « vắng mặt đời sống thiêng liêng (cầu nguyện cá nhân, cầu nguyện cộng đoàn, đời sống bí tích), vốn dẫn đến một « cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa ». Cộng đoàn tu trì, ngay cả Giáo Hội, lúc đó không còn ý nghĩa nữa đối với người tu sĩ rời bỏ đời sống tu trì của mình.

Khủng hoảng về quyền bính

Cha thư ký cũng nhấn mạnh đến cuộc khủng hoảng về quyền bính ngay giữa các cộng đoàn, cũng như « những vấn đề liên vị, những hiểu lầm, việc thiếu đối thoại và tương giao đích thực ».

Cha cũng nêu lên các vấn đề tình cảm. « Những vi phạm lời khấn khiết tịnh » này có thể mang nhiều hình thức : hôn nhân, nhưng cả « những hành vi đồng tính lặp đi lặp lại » hay những quan hệ khác phái « ít nhiều đều đặn hơn ».

720,000 tu sĩ trên thế giới

Theo niên giám mới nhất của Tòa Thánh (2012), các dòng tu và hội đời sống tông đồ bao gồm 197.136 nam (giám mục, linh mục, phó tế vĩnh viễn, chủng sinh, nam tu sĩ) và 523,654 nữ dấn thân dứt khoát trong dòng của mình (41,036 trong các đan viện tự trị, 466,306 trong các dòng trung ương tập quyền và 16,312 trong các tu hội đời).

Vả lại, mỗi năm khoảng 650 linh mục địa phận đã rời bỏ thiên chức linh mục từ 2006 đến 2011. Niên giám Tòa Thánh không đề cập gì đến sự rời bỏ của linh mục tu sĩ.

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo La Croix

Đức Thánh Cha dâng lễ cầu hồn cho các Hồng Y và Giám Mục quá cố, trong đó có 4 GM Việt Nam

Đức Thánh Cha dâng lễ cầu hồn cho các Hồng Y và Giám Mục quá cố, trong đó có 4 GM Việt Nam

VATICAN. Lúc 11 giờ rưỡi sáng 4 tháng 11-2013, ĐTC đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho 9 Hồng Y và 136 GM đã qua đời trong vòng 12 tháng qua trong toàn Giáo Hội, trong số này có 4 GM Việt Nam.

Đó là Đức Cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu, nguyên GM Vĩnh Long, qua đời ngày 31 tháng 1 năm nay (2013); Đức Cha Phanxicô Xavie Nguyễn Quang Sách, nguyên GM Đà Nẵng, qua đời ngày 7 tháng 7 năm; Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm SDB, GM Bùi Chu và Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân, GM Vĩnh Long, hai vị qua đời cùng ngày 17 tháng 8 vừa qua.

Trong số 9 HY quá cố, có ĐHY Jozef Glemp, Cố giáo chủ Công Giáo Ba Lan, và ĐHY Simon Pimenta, cố TGM Bombay, Ấn độ.

Đồng tế với ĐTC có khoảng 30 HY trước sự hiện diện 30 GM và hơn một ngàn tín hữu.

Trong bài giảng, ĐTC mời gọi mọi người tín thác nơi tình thương của Thiên Chúa, noi gương thánh Phaolô Tông Đồ, Người đã viết trong thư gửi tín hữu Roma (8,38-39): “Tôi thâm tín rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ thần, hiện tại hay tương lai, quyền lực, chiều cao hay chiều sâu, không thụ tạo nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình thương của Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta”.

”Thánh Tông Đồ liệt kê những quyền lực đối nghịch và huyền bí có thể đe dọa hành trình đức tin. Nhưng Ngài khẳng định một cách chắc chắn rằng cho dù toàn thể cuộc sống của chúng ta bị những đe dọa vây bủa, không bao giờ một điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu mà Chúa Kitô đã đạt được cho chúng ta, bằng cách hiến thân trọn vẹn.”

ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Cả những quyền lực của ma quỉ, đố kỵ với con người, cũng dừng lại trước sự kết hiệp yêu thương sâu đậm giữa Chúa Giêsu và người đón nhận Chúa trong đức tin. Thực tại tình thương trung tín của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta giúp chúng ta tiến bước mỗi ngày trong thanh thản và can đảm, hành trình nhiều khi nhanh nhẹn, nhưng đôi khi cũng chậm chạp và vất vả”.

ĐTC nêu nhận xét: ”chỉ có tội lỗi của con người mới có thể phá vỡ mối liên hệ giữa chúng ta và Thiên Chúa,. nhưng cả trong trường hợp ấy, Thiên Chúa luôn tìm kiếm, chạy theo con người để tái lập với họ một tình hiệp thông kéo dài cả sau cái chết, đó là một sự kết hiệp đạt tới tột đỉnh trong cuộc gặp gỡ chung kết với Chúa Cha. Xác tín này mang lại một ý nghĩa mới mẻ và sung mãn cho đời sống trần thế và mở ra cho chúng ta niềm hy vọng cuộc sống sau cái chết”.

ĐTC cũng nhắc đến lời Sách Khôn Ngoan đọc trong thánh lễ, nói về những người công chính ở trong tay Chúa. Ngài nói: ”Bàn tay là dấu hiệu sự đón tiếp và bảo vệ, là dấu chỉ một tương quan tôn trọng và trung thành: giơ tay ra, bắt tay. Này đây các vị mục tử nhiệt thành đã tận hiến cuộc sống để phụng sự Chúa và anh em, họ đang ở trong tay Chúa. Tất cả những gì của các vị được bảo tồn và không bị hao mòn vì sự chết. Ở trong tay Chúa tất cả những ngày đời của họ được dệt bằng những vui mừng và đau khổ, hy vọng và vất vả, trung thành với Tin Mừng và hăng say đối với phần rỗi tinh thần và vật chất của đoàn chiên đã được ủy thác cho các vị”. (SD 4-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thiên Chúa là Cha luôn đợi chờ con người hoán cải

Thiên Chúa là Cha luôn đợi chờ con người hoán cải

Thiên Chúa là Cha luôn đợi chờ con người hoán cải trở về với Ngài. Hãy để cho Chúa Giêsu gọi tên chúng ta. Hãy lắng nghe tiếng của Ngài nói với chúng ta: ”Ngày hôm nay Ta phải dừng lại tại nhà con”, nghĩa là trong tim con, trong cuộc sống con. Và chúng ta hãy tươi vui tiếp đón Ngài! Ngài có thể giải thoát chúng ta khỏi tính ích kỷ và làm cho đời sống chúng ta trở thành một qùa tặng của tình yêu.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 60,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin tại quảng trường Thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 3 tháng 11-2013. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trang Tin Mừng của thánh Luca Chúa Nhật hộm nay cho thấy Chúa Giêsu vào thành Giêricô trên con đường đi về Giêrusalem. ĐÂy là chặng cuối cùng của một chuyến đi tóm tắt ý nghĩa toàn cuộc sống của Chúa Giêsu, được tận hiến cho việc tìm kiếm và cứu rỗi các con chiên lạc của nhà Israel. Nhưng con đường càng đến gần đích điểm bao nhiêu, thì chung quanh Chúa Giêsu chiếc vòng thù nghịch lại càng thắt chặt bấy nhiêu.

Ấy thế mà tại Giêricô xảy ra một trong các biến cố tươi vui nhất được thánh sử Luca kể lại: đó là sự hoán cải của ông Giakêu. Người này là một con chiên đã bị hư mất, bỊ khinh bỉ và ”dứt phép thông công”, bởi vì ông ta là một người thu thuế, còn hơn thế nữa, là thủ lãnh những người thu thuế trong thành phố, bạn của các người Roma xâm lăng, là một tay trộm cướp và là một kẻ khai thác bóc lột.

Bị ngăn cản tới gần Chúa Giêsu, có lẽ vì tiếng xấu của ông, và cũng vì thân hình thấp bé của mình, ông Giakêu trèo lên một cái cây, để có thể trông thấy vị Thầy đi ngang qua. Tuy nhiên cử chỉ bề ngoài hơi tức cười này diễn tả hành động bên trong của người tìm lên cao hơn đám đông để có một tiếp xúc với Chúa Giêsu. Chính ông Giakêu cũng không biết ý nghĩa sây xa cử chỉ này của mình; ông không biết tại sao mình có cử chỉ ấy nhưng ông làm nó; ông cũng chẳng dám hy vọng là có thể vượt thắng được khoảng cách giữa ông và Chúa Giêsu, nên ông chỉ bằng lòng với việc trông thấy Người đi ngang qua thôi. Nhưng Chúa Giêsu khi tới gần cây đó, gọi tên ông: ”Giakêu, hãy xuống ngay, bởi vì hôm nay tôi phải dừng lại trong nhà ông” (Lc 19,5). Và Đức Thánh Cha giải thích cử chỉ này của Chúa Giêsu như sau:

Con người có thân mình nhỏ thó đó, bị tất cả mọi người khước từ, và cách xa Chúa Giêsu, như mất hút trong đám đông vô danh, nhưng Chúa Giêsu gọi ông, và tên Giakêu trong tiếng thời đó có một ý nghĩa đẹp tràn đầy các ám chỉ. Thật thế Giakêu có nghĩa là ”Thiên Chúa nhớ tới”.

Và Chúa Giêsu đến nhà ông Giakêu, khiến cho tất cả mọi người thành Giêricô chỉ trích, bởi vì thời đó người ta cũng bép xép lắm, và người ta nói: ”Mà làm sao thế? Với biết bao nhiều người tốt lành trong thành phố mà ông ấy lại ở nhà cái tên thu thuế ấy? Phải, bởi vì ông ta đã bị hư mất rồi, và Chúa Giêsu nói: ”Hôm nay ơn cứu rỗi đã đến cho nhà này, bởi vì cả ông ta cũng là con cái tổ phụ Abraham” (Lc 19,9). Từ ngày đó, niềm vui bước vào trong nhà ộng Giakêu, hòa bình, ơn cứu độ và Chúa Giêsu bước vào nhà ông. Tiếp đến Đức Thánh Cha mạnh mẽ khẳng định ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đối với con người:

Không có nghề nghiệp nào, không có điều kiện xã hội nào, không có lỗi lầm hay tội phạm thuộc bất cứ loại nào có thể xóa bỏ khỏi ký ức và con tim của Thiên Chúa một người trong các con cái Ngài. Thiên Chúa luôn nhớ, Ngài không quên bất cứ ai Ngài đã tạo dựng. Ngài là cha, luôn luôn tỉnh thức và yêu thương đợi chờ trông thấy tái sinh nơi con tim của người con ước muốn trở về nhà. Và khi Ngài nhận ra ước muốn đó, cả khi nó chỉ đơn sơ được nhắc, và biết bao lần nó hầu như vô thức, thì ngay lập tức Ngài ở bên cạnh, và với ơn tha thứ của Ngài Ngài khiến cho con đường hoán cải và trở về của ông được nhẹ nhàng hơn. Hôm nay chúng ta hãy nhìn ông Giakêu trên cây, cử chỉ của ông là một cử chỉ nực cười, nhưng là một cử chỉ của ơn cứu rỗi. Và tôi nói với bạn, nếu bạn có một gánh nặng trên lương tâm, nếu bạn xấu hổ vì biết bao nhiêu điều đã phạm, hãy dừng lại một chút, đừng hoảng sợ. Hãy nghĩ tới một người nào đó đang chờ đợi bạn, bởi vì Người không ngừng nhớ tới bạn, và người nào đó là chính là Chúa Cha, là Thiên Chúa, là Đấng chờ đợi bạn. Hãy làm như ông Giakêu, hãy trèo lên cây của sự ước muốn được tha thứ, tôi bảo đảm với bạn rằng bạn sẽ không thất vọng. Chúa Giêsu thương xót, và ngài không bao giờ mệt mỏi tha thứ! Hãy nhớ kỹ điều ấy! Chúa Giêsu là như thế.

Anh chị em thân mến, chúng ta cũng hãy để cho Chúa Giêsu gọi tên chúng ta! Trong sâu thẳm của con tim chúng ta hãy lắng nghe tiếng của Ngài nói với chúng ta: ”Ngày hôm nay Ta phải dừng lại tại nhà con”, nghĩa là trong tim con, trong cuộc sống con. Và chúng ta hãy tươi vui tiếp đón Ngài! Ngài có thể thay đổi chúng ta, biến con tim bằng đá của chúng ta trở thành con tim bằng thịt, Ngài có thể giải thoát chúng ta khỏi tính ích kỷ và làm cho đời sống chúng ta trở thành một qùa tặng của tình yêu. Chúa Giêsu có thể làm đều đó, hãy để Chúa Giêsu nhìn bạn.

Trước khi chào nhiều nhóm tín hữu khác nhau Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ánh mắt yêu thương

Ánh mắt yêu thương

Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung. Ánh mắt ấy có sức mạnh kỳ lạ. Ánh mắt ấy chất chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn biến đổi.

Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Giêricô là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn. Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.

Đó là ánh mắt khiêm nhường. Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên Chúa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hóa phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh mắt khiêm nhường của Chúa.

Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi. Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm Giakêu. Giakêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Giakêu chưa mời thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Giakêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ. Ánh mắt tha thứ mới khoan dung độ lượng và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.

Đó là ánh mắt tin tưởng. Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông. Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.

Đó là ánh mắt yêu thương. Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông, như người mục tử tốt lành đi tìm con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông, như người cha cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông, như người cha sẵn sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông, như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương, trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại. Yêu thương nên chia sẻ chân thành.

Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc đời như ông Giakêu.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1.    Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?

2.    Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?

3.    Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?

4.    Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ: SỰ THÁNH THIỆN DÀNH CHO MỌI NGƯỜI, CÁC THÁNH KHÔNG PHẢI LÀ “SIÊU NHÂN”

ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ: SỰ THÁNH THIỆN DÀNH CHO MỌI NGƯỜI, CÁC THÁNH KHÔNG PHẢI LÀ “SIÊU NHÂN”

Vào ngày lễ Các Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng Các Thánh không phải là “siêu nhân” vốn được “sinh ra đã hoàn hảo”, nhưng là những người bình thường đã theo Chúa “với tất cả tâm hồn của họ”.

Đức Thánh Cha đã nói trước khi đọc Kinh Truyền Tin ở quảng trường thánh Phêrô ngày 1 tháng 11 : “Các ngài cũng giống như chúng ta, các ngài giống như mỗi người chúng ta, các ngài là những người trước khi đạt được vinh quang thiên đàng đã sống một cuộc đời bình thường, với những niềm vui và nỗi buồn, những chiến đấu và niềm hy vọng”.

Mỗi vị thánh thay đổi cuộc đời của mình “khi họ nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, họ theo Ngài với tất cả tâm hồn mình, vô điều kiện và không giả hình.”

Ngài nói: “Họ dành cuộc đời của mình để phục vụ người khác, họ chịu đựng đau khổ và nghịch cảnh mà không thù hận và đáp trả sự dữ với điều tốt lành, trong khi tỏa lan niềm vui và sự bình an”.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Sự thánh thiện thật đẹp! Đó là một đường lối tuyệt vời! Các Thánh gởi đến cho chúng ta một sứ điệp. Họ nói với chúng ta: Hãy trung thành với Chúa, vì Chúa không thất hứa! Ngài không bao giờ thất hứa, và Ngài là một người bạn tốt luôn ở bên cạnh chúng ta.”

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng tất cả mọi người đều có thể làm thánh.

“Làm thánh không phải là một đặc quyền của một ít người… Tất cả chúng ta trong phép Rửa Tội đều thừa hưởng khả năng trở thành những vị thánh. Sự thánh thiện là một ơn gọi dành cho mọi người”.

“Tất cả chúng ta được mời gọi để bước đi trên con đường thánh thiện, và con đường nầy có một cái tên, một khuôn mặt: khuôn mặt của Đức Giêsu Kitô.”

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng lễ Các Thánh “nhắc nhở chúng ta rằng mục đích của cuộc sống chúng ta không phải là cái chết, đó là thiên đàng!”

Ngài nói thêm: “Các thánh, những người bạn của Thiên Chúa, bảo đảm với chúng ta rằng lời hứa nầy không làm thất vọng. Thật vậy, trong cuộc sống trần gian của họ, họ đã sống kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa. Trong những khuôn mặt nhỏ bé nhất và bị khinh miệt nhất của anh em mình, họ đã thấy khuôn mặt của Thiên Chúa, và bây giờ họ được chiêm ngưỡng Ngài diện đối diện trong vẻ tuyệt mỹ rạng ngời của Ngài.”

Ngài nói, Các Thánh cho thấy niềm vui và tình yêu.

“Các Thánh là những người nam và người nữ vốn có niềm vui trong tâm hồn mình và làm tỏa lan nó cho người khác. Không bao giờ thù ghét, nhưng phục vụ người khác, là sự cần thiết lớn lao nhất. Cầu nguyện và sống trong niềm vui: đây là con đường của sự thánh thiện!”

Đức Thánh Cha giải thích, các thánh không “đặt điều kiện” với Chúa. Ngoài ra, họ “không hung bạo nhưng đầy xót thương và tìm cách để trở nên những người kiến tạo hòa giải và hòa bình.”

Ngài nói thêm: “Các Thánh không bao giờ thù ghét. Họ hiểu rõ điều nầy: Tình yêu là của Thiên Chúa, nhưng thù hận đến từ đâu? Hận thù không đến từ Thiên Chúa, mà từ ma quỷ!”

Đức Thánh Cha nói Vương Quốc Nước Trời dành cho những người tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và không đặt sự an toàn của họ vào những thứ vật chất. Nó dành cho những người có sự khiêm tốn và một “tâm hồn đơn sơ”, không xét đoán kẻ khác. Vương Quốc Nước Trời dành cho “những người đau khổ với người đau khổ và vui với người vui.”

Ngài nhận thấy Các Thánh cũng là một nguồn lực kiên cường và hy vọng.

Đức Thánh Cha nói: “Các Thánh khích lệ chúng ta với chứng tá của các ngài để không sợ lội ngược dòng hay sợ bị hiểu lầm và bị chế nhạo khi chúng ta nói về Chúa và về Tin Mừng. Họ cho chúng ta thấy bằng đời sống của họ rằng: người vẫn luôn trung thành với Thiên Chúa và Lời của Ngài thì bây giờ trên trần thế nầy cảm nghiệm được nguồn an ủi của tình yêu Ngài và sau nầy cảm nếm nó ‘gấp trăm lần’ trong cõi đời đời”.

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã lên tiếng cầu nguyện cách đặc biệt cho các nạn nhân của bạo lực, đặc biệt những Kitô hữu đã mất mạng sống vì sự bách hại. Ngài cũng cầu nguyện cho những đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã chết vì đói khát.

XT (theo CNA) – Trích từ Xuân Bích VN

CẤM VÀO NHÀ KẺ CÓ TỘI

CẤM VÀO NHÀ KẺ CÓ TỘI

Tháng Mân Côi vừa hết. Bà con Giáo Dân đọc kinh Mân Côi và Kiệu Đức Mẹ đến từng nhà trong Giáo Họ. Thế là Đức Mẹ đã đến thăm và ở lại nhà con cái Mẹ ít là một đêm. Mỗi gia đình chăm chút từng cánh hoa dâng Mẹ. Ông bà, cha mẹ, con cháu sum họp bên Mẹ, kinh nguyện sốt sắng. Ông Trùm Họ tổng kết tháng Mân Côi rành rành rằng: Xóm 1, 28 gia đình, trừ 2 nhà rối; Xóm 2, 24 gia đình, trừ 3 nhà rối, Xóm 3, 27 gia đình, trừ 2 nhà chống đối cha sở, 1 nhà rối; Xóm 4, 16 gia đình, trừ 3 nhà bỏ đạo, 2 nhà có con làm nghề tội lỗi, 2 nhà không đóng niên liễm 3 năm rồi !

Đêm 15 tháng 10, kiệu Đức Mẹ về đến nhà ông bà N, xóm 1. Chị H, bên cạnh nhà ông bà N, biết mình trong tình trạng “rối không gỡ được” đã 12 năm nay, và biết Đức Mẹ sẽ không được người ta cho phép đến nhà mình, nên chị đã sang nhà ông bà N, cầu khẩn: “Ông bà làm ơn cho con lén khiêng kiệu Đức Mẹ sang nhà con một tí, một tí thôi, rồi con đem trả lại ngay”. Ông N trả lời: “Nếu bên trùm họ mà biết thì chết tui !”

Như thế là Đức Mẹ bị… cấm vào nhà kẻ có tội. Tội nghiệp Đức Mẹ ghê ! Nhưng mà ai đã ban lệnh cấm nầy ?

Thật đáng tiếc ! Cho đến hôm nay mà vẫn còn những lệnh cấm không phù hợp với Tin Mừng tí nào ! Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đả phá cái luật bất nhân này rồi, mà sao đến bây giờ, 2013, chúng ta vẫn còn giữ ?

Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật việc Chúa Giêsu chủ động “vào nhà kẻ có tội”. Và chính ý hướng chủ động của Chúa đã làm cho con người tội lỗi ấy hoàn lương, nên công chính.

          Dakêu, một người thu thuế và đứng đầu những người thu thuế trong vùng, bị xem là tội lỗi công khai và bị xã hội ruồng bỏ. Những tưởng ông ta cũng chẳng màng đến chuyện chấp nhận hay loại trừ tương quan xã hội, bởi vì ông có thiếu thốn điều chi trên đời này đâu. Đứng đầu những người thu thuế thì hẳn nhiên là ông có dư giả bạc tiền, tiện nghi, phương tiện, có tất cả, thì cần gì phải bận tâm đến chuyện chấp nhận hay ruồng bỏ ?!?

Nhưng không, ông vẫn cảm thấy thiếu thốn điều gì đó quan trọng hơn của cải, quyền thế của ông. Chính cái “cảm thấy thiếu” nơi ông đã thôi thúc ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Việc ông vượt qua cản trở về ngoại hình thấp bé bằng cách leo lên cây sung cho thấy quyết tâm của ông là phải nhìn xem cho bằng được. Điều đó đã nói lên việc gặp gỡ Đức Giêsu là cần thiết cách tuyệt đối nơi ông.

Có thể đám dân chúng theo Chúa Giêsu dự đoán là Chúa Giêsu sẽ chẳng màng tới ông Dakêu tội lỗi kia. Nhưng không, điều ngược lại đã xảy ra là: Chúa dừng lại, ngước nhìn lên ông đang đeo trên cành sung, và ân cần nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.

Thánh Luca thuật rằng ông Dakêu “vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người”. Hình ảnh rất sống động diễn tả trọn vẹn niềm vui, niềm hạnh phúc của người tội lỗi, người bị thiên hạ tuyệt giao, loại trừ, xua đuổi, nay được Con Thiên Chúa viếng thăm.

Thế là Chúa Giêsu đã “vào nhà người tội lỗi”. Lệnh “cấm vào nhà người tội lỗi” như một bản luật vẫn còn sắc nét trong tâm khảm của dân chúng, nên họ mới xầm xì: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” Nhưng cách nào đó, Chúa Giêsu đã đả phá công khai, và viết nên một bản luật mới: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”.

Tình thương của Thiên Chúa có sức biến đổi con người từ chỗ bất chính nên công chính, từ chỗ chưa hoàn thiện đến chỗ toàn thiện. Cụ thể nhất là biến đổi con người Dakêu hôm nay: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Như thế, cuộc gặp gỡ trực tiếp rất ít lời trò chuyện mà quí hơn biết bao câu nói, biết bao lời nhắn gửi. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Đúng là gặp gỡ Đức Giêsu, biến đổi cuộc đời mình và đón nhận ơn tái sinh.

Rõ ràng là Chúa Giêsu không giữ luật “cấm vào nhà người tội lỗi”, mà còn, ngược lại, Chúa đến với người tội lỗi để người tội lỗi được cứu rỗi.

Thiết tưởng, Tin Mừng hôm nay gửi đến chúng ta những thông điệp quí giá:

Thông điệp cho người tội lỗi: Hãy cảm thấy thiếu Chúa Giêsu, cảm thấy cần Chúa Giêsu, khát khao, tìm, và gặp Lời Thiên Chúa, gặp Đức Giêsu cho bằng được.

Thông điệp cho những người cho mình là công chính: Đừng khinh bỉ, loại trừ người tội lỗi, nhưng hãy cảm thông nỗi đau của họ, hãy mở lòng đón nhận họ, hãy tạo điều kiện tốt nhất để mở đường cho họ đến với Chúa Giêsu và để Chúa Giêsu đến với họ…

Thông điệp cho các mục tử: Thường xuyên đến thăm con chiên của mình, nhất là những con chiên đau yếu, bệnh tật, nguội lạnh, rối rắm, tội lỗi… Một lần thăm của các mục tử có giá trị biết bao đối với con chiên. Ước gì không có con chiên nào phàn nàn về việc mục tử ở với chiên vài ba năm rồi mà chưa hề thăm một nhà ai cả, huống chi nhà người tội lỗi !

Trở lại với câu chuyện của chị H trên đây, ước gì mọi người hiểu và cảm thông cho chị cũng như cho những người như chị. “Ông bà làm ơn cho con lén khiêng kiệu Đức Mẹ sang nhà con một tí, một tí thôi, rồi con đem trả lại ngay”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khao khát Chúa, biết cần có Chúa, biết tìm và gặp Chúa cho bằng được, để chúng con được ơn biến đổi và tái sinh.

Xin cho chúng con biết cảm thông và xoa dịu nỗi đau của những người khát khao nên công chính. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, 31.10.2013

CÁI HỐ

CÁI HỐ

Chủ đề: “Chúa Giêsu thường gõ cửa tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta có mở cửa cho Người hay không là tùy ý chúng ta.”

Một trong những người tiền phong vận động chính phủ cải cách hệ thống nhà tù ở Hoa Kỳ là một tội phạm đã hối cải, tên Starr Daily. Câu chuyện ông hoán cải thật lạ lùng nhưng thật tuyệt vời.

Khi Daily bị kết án tù lần thứ ba trong đời, quan toà nói với ông:

“Có phạt thêm nữa thì ông cũng vậy, và tôi không biết phải làm gì khác trong vụ xử ông. Sự bất lực của chúng tôi là sự tuyệt vọng của ông.”

Trong thời gian ở tù, lối sống của Daily thật tệ hại đến nỗi người ta phải giam ông vào một cái “hố” biệt lập. Thông thường một tù nhân chỉ có thể chịu nổi cảnh giam cầm đó hai tuần lễ. Sau đó có bác sĩ đến thăm và ra lệnh đưa về nhà giam bình thường.

Nhưng trường hợp của Daily thì đã hơn hai tuần lễ và vẫn tiếp tục.

Rồi một ngày kia, một sự kiện khác thường xẩy đến. Khi Daily nằm trên sàn lạnh lẽo của cái “hố”, một tư tưởng kỳ lạ nảy ra trong đầu.

Ông thường có một sức mạnh và năng lực đáng kể. Bỗng dưng ông tự hỏi điều gì sẽ xảy ra cho ông nếu ông dùng sức mạnh và năng lực ấy để làm việc thiện hơn là làm điều xấu. Ý tưởng ấy tràn ngập tâm trí ông. Và trong một thời gian thật lâu, ông nằm suy nghĩ về điều đó.

Điều kế tiếp xẩy đến thì thật khó để diễn tả. Daily bắt đầu có những giấc mơ đứt đoạn về Đức Giêsu Kitô, là người mà từ lâu ông cố gạt ra khỏi cuộc đời mình. Dường như ĐứcGiêsu đứng bên cạnh ông và nhìn vào mắt ông, như thể Người đi vào linh hồn ông. Trong suốt cuộc đời, chưa bao giờ Daily cảm được thế nào là tình yêu.

Sau đó, tất cả những người mà Daily đã làm họ đau khổ dường như lướt qua tâm trí ông. Và khi đó, Daily đã tỏ lòng thương mến họ, và dường như vết thương lòng được lành lặn.

Cảm nghiệm đó đã thay đổi hoàn toàn con người Daily. Trước đó, ông là một tội phạm cứng cỏi, đầy căm thù. Sau đó, ông là một con người mới, đầy tình yêu.

Sau cùng, Daily được phóng thích và bắt đầu một sự nghiệp mới để nói chuyện và viết lách hôã trợ việc cải cách nhà tù.

Nhận định về sự hoán cải lạ lùng của ông Daily, ông Peter Marshall, một tuyên uý nổi tiếng của Quốc Hội, nói rằng: “Starr Daily là một bằng chứng sống động tốt nhất mà tôi chưa từng thấy, đó là ‘một tạo vật mới trong Đức Giêsu Kitô’ thì không chỉ là một con người cũ được chắp vá, nhưng là một con người hoàn toàn mới” Catherine Marshall, A Man Called Peter.

Câu chuyện của ông Starr Daily có sự tương đồng kỳ lạ với câu chuyện của ông Giakêu trong bài Phúc Âm hôm nay.

Cả hai đều có đời sống tệ hại. Cả hai đều gặp gỡ Chúa Giêsu. Cả hai đều thay đổi đáng kể nhờ sự gặp gỡ đó. Và cả hai đều đền bù cho quá khứ.

Trong một phương cách sùng tín, ông Daily tuôn đổ tình yêu trên những người mà ông đã tổn thương họ. Ông còn dành trọn cuộc đời để cải cách hệ thống nhà tù.

Ông Giakêu phân phát nửa gia tài cho người nghèo. Và những ai bị ông lường gạt đều được bồi thường gấp bốn. Số tiền bồi thường này nhiều hơn luật buộc gấp đôi. (Xh 22:3)

Chúng ta áp dụng câu chuyện của ông Daily và ông Giakêu vào đời sống như thế nào?

Cả hai câu chuyện đều nhắc nhở chúng ta về một điều mà chúng ta thường quên. Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thay đổi chúng ta trở nên tốt hơn, cũng như Người đã thay đổi ông Daily và Giakêu.

Nhưng Chúa Giêsu không ép buộc chúng ta, cũng như Người không ép buộc ông Daily và ông Giakêu. Người để chúng ta tự do.

Chúa Giêsu đối xử với chúng ta cũng giống như Người đối xử với một phụ nữ trong Phúc Âm, mà bà bị bệnh hoại huyết (Mc 5:25-34). Hãy nhớ lại câu chuyện này.

Một ngày kia Đức Giêsu đi ngang qua, và bà tự nhủ, “Nếu mình được chạm đến y phục của Ngài, mình sẽ lành mạnh.”

Bà đã đến và chạm vào áo của Chúa Giêsu và được lành mạnh.

Chúa Giêsu cũng thường đi ngang qua đời sống chúng ta. Khi Người đến, chúng ta chỉ cần thi hành như người phụ nữ nói trên. Chúng ta chỉ cần tiến đến và chạm vào áo của Người. Nếu chúng ta làm như vậy, Người sẽ chữa lành chúng ta, cũng như Người đã chữa lành người phụ nữ, cũng như Người đã chữa lành ông Starr Daily, và cũng như Người đã chữa lành ông Giakêu.

Điều này đưa chúng ta đến điểm sau cùng. Khi nào thì chúng ta có thể biết chắc là Chúa Giêsu đi ngang qua cuộc đời chúng ta?

Có nhiều lần Chúa Giêsu đi ngang qua cuộc đời chúng ta, trong một phương cách đặc biệt. Chỉ kể ra đây ba trường hợp đặc biệt.

Thứ nhất, Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta, trong một phương cách đặc biệt, mỗi lần Kinh Thánh được đọc lên và được dẫn giải trong Thánh Lễ. “Đức Giêsu nói với các môn đệ, ‘Ai nghe anh em là nghe Thầy…‘”

Và vì vậy lần đầu tiên Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta, trong một phương cách đặc biệt, là trong Phụng Vụ Lời Chúa ở Thánh Lễ.

Thứ hai, Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta, qua một phương cách đặc biệt, trong Phụng Vụ Thánh Thể. “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ sống trong Ta và Ta sống trong người ấy” Gioan 6:56.

Và vì vậy ngoài sự hiện diện khi lời Chúa trong Kinh Thánh được giảng giải trong Phụng Vụ Lời Chúa, Chúa Giêsu còn hiện diện, trong một phương cách đặc biệt, khi thân thể Người được bẻ ra và ban cho chúng ta trong Phụng Vụ Thánh Thể.

Sau cùng, Chúa Giêsu hiện diện, trong một phương cách đặc biệt, khi chúng ta gặp gỡ những người nghèo hèn. Chúa Giêsu nói bất cứ ai giúp đỡ những người này là giúp đỡ chính Người. (Matthew 25:40).

Và như vậy có ba lần đặc biệt khi chúng ta có thể biết chắc là Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta qua một phương cách đặc biệt.

Đó là khi lời Chúa được mở ra và đọc cho chúng ta nghe, khi thân thể Chúa được bẻ ra và ban cho chúng ta, và khi một phần tử trong gia đình của Chúa bị tan nát và đến với chúng ta xin giúp đỡ.

Khi Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta qua một trong ba phương cách đặc biệt này, chúng ta chỉ cần thi hành điều mà ông Starr Daily đã làm, điều mà ông Giakêu đã làm và điều mà người phụ nữ bị bệnh hoại huyết đã làm.

Chúng ta chỉ cần tiến đến, chạm đến Đức Giêsu, và mời Người đi vào cuộc đời chúng ta, cũng như họ đã làm. Và nếu chúng ta thi hành như vậy, Người sẽ đi vào cuộc đời chúng ta, chữa lành cho chúng ta như Người đã chữa lành cho họ.

Hãy kết thúc bài chia sẻ hôm nay với những lời thật tuyệt vời trong sách Khải Huyền. Chúa Giêsu nói với chúng ta qua những lời ấy:

“Hãy lắng nghe! Ta đứng ở ngoài cửa và gõ; nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ đi vào nhà của họ và ăn với họ, và họ sẽ ăn với Ta” (Kh 3:20).

Cha Mark Link, S.J.

Hoán cải đích thực

 Hoán cải đích thực

Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.

Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?

Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.

Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.

Radio Veritas Asia

TÌNH THƯƠNG BIẾN ĐỔI

TÌNH THƯƠNG BIẾN ĐỔI

Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Giakêu” to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.

Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.

Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.

Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.

Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.

Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.

1. Tình thương biến đổi

Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.

Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người “đứng đầu những người thu thuế”, một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.

Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông“. Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).

Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn“. Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này“.

Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: “Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn”. Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.

2. Tình thương hoán cải

Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.

Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.

Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa ! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: “Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung“. Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: “Ông vội vàng tụt xuống“. Ông còn “vui mừng đón rước Ngài về nhà“. Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.

Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu, đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.

3. Tình thương cảm hóa

Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.

Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.

 

Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.

Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.

Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trở về

Trở về

Truyện kể: Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý. Một hôm, ông đi thị sát chiến thuyền Galère được chèo chống bởi một đội tù nhân đông đảo. Khi gặp các tù nhân, ai cũng kêu ca bào chữa rằng họ là những người vô tội. Chỉ có một tù nhân ngồi ở phía góc cúi đầu, chẳng nói chẳng rằng. Công tước bước đến và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi chịu xứng với tội tôi đã phạm. Công tước quay ra nói với mọi người: Anh này là phạm nhân, hắn không xứng đáng ngồi nơi đây chung đụng với những người vô tội. Ta ra lệnh trục xuất ngay hắn ra khỏi chỗ này. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành biết nhận lỗi. Người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ.

Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tốt lành vô cùng. Vì yêu thương, Chúa tạo dựng muôn loài và muôn vật để cùng chung hưởng hạnh phúc. Nhìn ngắm vũ trụ muôn loài thật quá vĩ đại nhưng tình thương của Chúa còn bao la vĩ đại tuyệt vời hơn. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Trước nhan thánh, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất.” (Kn 11,22). Thụ tao do Chúa dựng nên đều tuỳ thuộc vào sự an bài của Chúa. Sự hiện hữu của những mầm sống từ loài thực vật nhỏ li ti cho đến những loài vật khổng lồ đều sống dưới sự chở che quan phòng của Thiên Chúa. Mọi loài thọ tạo đều chia sẻ một nguồn sống từ Đấng Tạo Hoá: “Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa.” (Kn 11,26). Mỗi loài thụ tạo đều góp phần làm vinh danh Thiên Chúa từ đời này tới đời kia.

Luật Chúa như kim chỉ nam giúp cho chúng ta tìm ra con đường chính thật. Giống như luật lệ giao thông, trên mọi con đường lớn nhỏ đều có các bảng dẫn lối chỉ đường, vậy mà nhiều người cũng vẫn bị lạc hoặc phạm lỗi. Những ai có bằng lái xe đều phải học biết luật lệ, khi phạm luật thì bị phạt. Chúng ta không thể kêu ca trách móc ai cả. Đời sống đạo cũng thế, có luật Chúa và luật Giáo Hội, chúng ta cố gắng soi mình để sống tốt và sống cho phù hợp với luật dạy. Chúng ta được nhắc nhở canh thức và thức tỉnh lương tâm sống đạo. Sách Khôn Ngoan dậy rằng: “Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kn 12,2). Đừng coi thường những huấn lệnh, giới răn và lời khuyên dạy. Có đôi khi chúng ta đang dìm mình trong vũng lầy mà không nhận ra. Sống trong u mê lầm lạc lại tưởng là đang sống trong hoan lạc.

Phúc Âm kể câu truyện Chúa Giêsu đi ngang qua làng, thấy ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa. Chúa ngước nhìn lên, ông cúi xuống và hai ánh mắt chạm nhau. Trái tim Chúa xót thương và lòng người thổn thức. Chúa đề nghị ghé thăm nhà ông. Giakêu vui mừng đón tiếp Chúa và ông tự xưng thú tội lỗi mình trước mọi người. Ông Giakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đay phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19,8). Ánh mắt nhân từ của Chúa đã cải hoá được một tâm hồn tội lỗi. Với lòng chân thành hối lỗi đền bù, Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng lầy của gian tham tội lỗi.

Chúa Giêsu rong ruổi đi tìm những con chiên bị lạc. Có nhiều con chiên xa lạc chưa biết đường trở về. Chúa đã tìm và đi cứu, “vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xin Chúa Cha ban thêm các thợ gặt tâm hồn. Cánh đồng lúa chín bao la nhưng thiếu thợ gặt. Còn biết bao nhiêu người đang bị mê lầm trong tội lỗi mà không nhận biết Tin Mừng cứu độ. Đôi khi chính chúng ta quá quen với lối sống ấm êm hưởng thụ và cách sống dung túng, truỵ lạc, chúng ta không muốn từ bỏ con đường cũ và không muốn bước ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp. Buông bỏ tội lỗi thì tiếc xót, vì tội là một cái thú. Chúa thường gởi đến những nhân chứng để đánh động tâm hồn. Chúng ta rất may mắn được lắng nghe lời Chúa chỉ dậy và được Giáo Hội nhắc nhở luôn. Chúng ta cần cầu nguyện xin ơn can đảm để có thái độ dứt khoát với tội lỗi qúa khứ.

Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin rằng xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Mỗi ngày sống, chúng ta phải đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Cám dỗ về danh, lợi và thú. Có nghĩa là khi còn sống, thân xác luôn đòi hỏi những nhu cầu rất tự nhiên. Chúng ta luôn có cơ hội để chọn lựa thái độ sống tốt. Cái danh cái lợi, ai mà không thích. Tiền bạc và lạc thú, mấy ai từ chối. Những thói đời tham sân si kéo ghì con người chúng ta lại. Người ta thường nói tới cái ‘thú’ ở đời. Lạc thú dẫn chúng ta vào những si mê quay cuồng trong thú vui nhục dục, tham lam danh lợi, tiền bạc, gian lận bài bạc và buông thả cuộc sống.

Tội lỗi cứ bám sát cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta không dứt khoát khước từ và dũ bỏ, nó sẽ không buông tha chúng ta. Chúng ta cần tự xét, nhận lỗi và sửa lỗi mình mỗi ngày. Cũng giống như ngày hôm qua chúng ta đã ăn no, ngày hôm nay đói, lại muốn ăn. Hôm qua, chúng ta tắm rửa sạch sẽ, mát mẻ, hôm nay lại thấy dơ, nên phải tắm. Sáng thức dậy ra khỏi nhà và đi làm việc. Chiều lại trở về xum họp gia đình. Ai ra đi cũng mong trở về. Kẻ đi lạc, mong tìm được lối ra. Người rơi vào đường lầm, nên tìm đường trở lại. Khi sa ngã phạm tội, cần phải sám hối ăn năn. Tội hôm qua khác tội hôm nay. Cần xưng thú và lãnh ơn tha tội và xin hứa quyết lòng chừa. Mỗi lần phạm tội đều là tội mới trong hoàn cảnh mới. Chúng ta cần tiếp tục sám hối và trở về. Sống mỗi ngày cho trọn vẹn. Mỗi người được mời gọi đổi thay để sống tốt, thánh thiện và hoàn hảo hơn mỗi ngày.

Chúng ta có trí khôn để nhận biết giá trị của không gian và thời gian. Thời gian thuộc về Chúa. Mỗi ngày là một ngày mới hoàn toàn. Những điều chúng ta xem như cũ, cứ lặp đi lặp lại, nhưng không phải thế. Lời khuyên cũ được nhắc lại trong hoàn cảnh mới và với tâm tình mới. Mười năm trước chúng ta đã nghe câu truyện đó, hôm nay chúng ta được nghe lại cùng câu truyện nhưng đã có nhiều đổi thay. Khi xưa, chúng ta còn trẻ, còn hăng say và còn nhiều vấp ngã. Hôm nay, chúng ta trưởng hơn một chút, chững chạc hơn một tí và có thể nhẫn nại hơn. Điều quan trọng là chúng ta có tốt lành thánh thiện hơn không, hay vẫn dậm chân tại chỗ và đôi khi còn bị thụt lùi. Cho nên lời khuyên răn mời gọi đổi đời, trở về và sửa sai vẫn là cần thiết.

Trong thư gửi giáo đoàn Thessalônica, Thánh Phaolô vừa mời gọi và vừa cảnh báo: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư qủa quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.” (2 Thes 2,2). Hãy sống thanh thản trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta không phải bồn chồn lo lắng truyện gì sẽ xảy đến. Đừng để lòng bận vướng những oán thù đã qua. Cố gắng sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ân tình với Chúa và với anh chị em.

Lạy Chúa, thân con mỏi mệt, tâm con yếu đuối, lòng con tội lỗi và hồn con lạc xa Chúa. Con xin thành tâm hối lỗi, xin Chúa thứ tha và đưa dắt con về nẻo chính đường ngay.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Viếng thăm nhau

Viếng thăm nhau

Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II được coi là sứ giả của Thiên Chúa, và là con người của muôn người. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện trên 100 chuyến công du đến 129 quốc gia để gặp gỡ và chung sống với đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ mọi dân tộc trên khắp Năm Châu. Dù tuổi già sức yếu, hai lần té gãy xương, thậm chí cuộc ám sát năm 1981 đã khiến ngài từng ngã qụy vì viên đạn bắn gần vào tim, nhưng tất cả vẫn không làm chùn bước chân của người mục tử đi đến với đoàn chiên và tìm chiên lạc trở về.

Ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm lịch sử, một chuyến viếng thăm đã chinh phục được toàn thể luơng tâm nhân loại. Đó là khi Ngài dừng chân bên bức tường Than Khóc. Tại đây, ngài lập lại lời xin lỗi cho cả một quá khứ hiểu lầm đầy đau thương. Đây quả thực là một cuộc viếng thăm đã san bằng con đường gồ ghề gai góc và mở ra một chân trời mới.

Chân trời của sự tha thứ lẫn nhau.

Chân trời của sự tin tưởng lẫn nhau

Chân trời của những chân lý chung

Chân trời của những trách nhiệm chung

Và chân trời của sự cầu nguyện chung.

Đức thánh Cha Đức Bênêdicto 16 cũng ra đi, để đến với muôn dân. Đặc biệt trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11/2006, ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm đầy mạo hiểm theo cái nhìn người đời, nhưng là bước đi đầy lòng cậy trông và phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài đã đánh đổ mọi cái nhìn lệch lạc về ngài khi ôm chúc bình an với Đức Thượng phụ Bathôlômêô I, và khi ngài bước vào Đền Thờ Xanh trong sự kính trọng và đầy thiện cảm của anh em Hồi Giáo. Chính chuyến tông du có tính lịch sử này, giới truyền thông trên toàn thế giới cho rằng ngài đã đóng góp: “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý chung trong tình huynh đệ và đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết”.

Trong cuộc đời dương thế, Chúa Giê-su luôn đi đến với mọi người. Mỗi bước đi của Ngài luôn để lại dấu ấn đầy yêu thương cho những ai được tiếp xúc với Ngài. Hôm nay, Gia-kêu đã được Chúa viếng thăm. Đây là một hồng phúc dành cho Gia-kêu. Gia Kêu không ngờ mình lại được Thiên Chúa viếng thăm. Những người Do Thái năm xưa càng không ngờ Thầy Giê-su, một vị Thầy đáng kính, một người thánh thiện lại ghé thăm kẻ tội lỗi. Nhưng đây lại là đường lối của Chúa. Chúa đã dùng cách này để mang tình yêu đổi lấy cuộc đời Gia Kêu. Chúa dùng tình yêu để cải hoá người tội lỗi. Chúa đến để tìm kiếm, để cứu chữa những gì đã mất. Chính trong chuyến viếng thăm lịch sử này, Chúa đã đổi đời Gia Kêu để từ đây ông không còn tham lam quyền bính hay tham lam tiền bạc. Gia Kêu đã sám hối và chuộc lại lỗi lầm. Ông đã cho đi những của phù vân. Ông đã biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Ông còn bỏ tiền để đền bù những việc lỗi công bằng bác ái mà ông đã gây ra. Ông đã tìm được sự bình an của tâm hồn sau một lần được Chúa viếng thăm.

Con đường đến với anh em phải là con đường của các môn đệ Thầy Giêsu. Hãy ra khỏi chính mình để đến với anh em. Hãy tìm đến các con chiên lạc mà đưa về ràn. Hãy hội nhập với đời để đem đạo vào đời. Chúa đã đi vào đời để gieo chân lý, niềm tin và hy vọng. Là môn đệ của Chúa cũng cần bước theo dấu chân của Thầy Giêsu. Dấu chân luôn rong ruổi khắp mọi nẻo đường. Dấu chân của người môn đệ đi đến đâu, sẽ để lại cho đời một màu xanh của yêu thương và hạnh phúc bình an. Ưoc mong mỗi người chúng ta hãy can đảm vượt qua những trở ngại từ bản thân, từ môi trường để dấn thân cho Tin mừng của Chúa được đến với muôn người. Hãy xoá mọi thành kiến xấu nơi anh em để có thể hoà hợp với anh em. Hãy xoá bỏ mọi ngăn cách giầu nghèo hay địa vị cao thấp mà sống hoà đồng với anh em. Hãy xoá bỏ mọi hiềm khích hận thù để sống bác ái yêu thương nhau ngõ hầu làm sáng danh Chúa qua những dấu chỉ của tình yêu thương.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã viếng thăm Gia-kêu xin cũng lưu lại nơi cuộc đời chúng con để biến đổi chúng con thành những tín hữu biết sống công bình bác ái và dấn thân hết mình phục vụ tha nhân. Amen.

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

 

Lần đầu tiên từ 20 năm nay, Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh Lễ tại nghĩa trang Verano, Roma

Lần đầu tiên từ 20 năm nay, Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh Lễ tại nghĩa trang Verano, Roma

ROMA. Sau 20 năm bị ngắt quãng, truyền thống cử hành thánh lễ tại nghĩa trang Verano ở Roma đã được ĐTC Phanxicô đã tái lập chiều ngày 1 tháng 11-2013.

Đây là nghĩa trang chính của thành Roma rộng 80 hécta và có từ hơn 20 thế kỷ, với các hang toại đạo thánh Ciriaca. Nơi đây có nhiều ngôi mộ được thực hiện như những tác phẩm nghệ thuật với các tượng đài. Vì thế nghĩa trang này cũng được coi như một bảo tàng viện lộ thiên. Tại đây, nhiều dòng tu và tổ chức của Giáo Hội cũng có những khu mộ chung, như khu mộ của Kinh sĩ đoàn Đền Thờ Thánh Phêrô, nơi Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, nguyên bí thư của ĐGH Gioan Phaolô 2 được an táng; và di hài Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã được an táng tại đây 10 năm, trước khi được di chuyển về nhà thờ hiệu tòa của ngài ở trong thành Roma. Hoặc tại khu mộ của Bộ truyền giáo, cũng có một số LM Việt Nam được an nghỉ, trong đó có Đức Ông Phêrô Trần Văn Hoài thuộc giáo phận Huế.

Hôm qua là lần đầu tiên từ 20 năm nay, một vị Giáo Hoàng lại cử hành thánh lễ tại nghĩa trang này vào chiều ngày lễ Các Thánh. Lần chót Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cử hành thánh lễ tại đây 11 lần, lần chót vào năm 1993. ĐGH Biển Đức 16 không giữ thói quen này, nhưng hồi năm 2008, ngài đã cử hành thánh lễ tại Đền thờ thánh Lorenzo cạnh nghĩa trang, nhân dịp viếng thăm mục vụ tại đây.

Đồng tế với ĐTC Phanxicô có ĐHY Giám quản Roma, Agostino Vallini, Đức TGM Phó Giám quản Filippo Iannone, 6 GM Phụ tá và cha sở giáo xứ thánh Lorenzo ngoại thành, Armando Ambrosi, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu, trong đó có ông thị trưởng thành Roma, Ông Ignazio Marino. Ông đi xe đạp đến nghĩa trang vài phút trước ĐTC.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã bỏ qua bài giảng dọn sẵn và ứng khẩu nói về giai đoạn cuối đời như một cuộc chờ đợi trong hy vọng, vì ơn cứu độ chúng ta đến từ Thiên Chúa và Chúa muốn cứu thoát chúng ta, chứ không phải vì công nghiệp của chúng ta. Ngài nói:

”Chính Chúa cứu chúng ta, chính Ngài mang chúng ta như người cha cầm tay dẫn chúng ta vào cuối đời lên trời cao, nơi có các tiền nhân của chúng ta. Một trong các cụ già – trong sách Khải Huyền – hỏi: ”Họ là ai, những người mặc áo trăng, những người công chính, những người thánh ở trên trời? Đó là những người đến từ đau khổ lớn lao, và họ đã giặt áo trong máu của Chiên Con, làm cho áo trở nên tinh tuyền”. Chúng ta chỉ có thể về Trời nhờ máu Chiên Con, nhờ máu Chúa Kitô. Chính Máu Chúa làm cho chúng ta trở nên công chính, mở cửa trời cho chúng ta. Và sở dĩ hôm nay chúng ta tưởng niệm những anh chị em đã đi trước chúng ta trong cuộc sống và nay đang ở trên Trời, vì họ đã được máu Chúa Kitô thanh tẩy. Và đó chính là niềm hy vọng của chúng ta, niềm hy vọng nhờ máu của Chúa Kitô. Và niềm hy vọng này không làm ta thất vọng. Nếu chún gta tiến bước với Chúa trong cuộc sống, Ngài sẽ không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng.

ĐTC nói thêm rằng: ”Hôm nay là một ngày hy vọng. Anh chị em chúng ta đang ở trước mặt Thiên Chúa. Cả chúng ta cũng sẽ đưcơ ở đó, nhờ ơn thánh của CHúa, nếu chúng ta tiến bước với Chúa Giêsu. Và thánh Tông Đồ kết luận: ”Ai hy vọng nơi Chúa, thì thanh tẩy chính mình”. Cả niềm hy vọng cũng thay tẩy chúng ta!”

Cuối thánh lễ, trước khi ban phép lành, ĐTC tái mời gọi cầu nguyện cho những người tị nạn bị thiệt mạng trong sa mạc và trên biển cả, và cầu cho những người sống sót đang ở trong các trại tiếp cư sớm được đi định cư tại nơi tốt đẹp hơn.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha trưa ngày Lễ Các Thánh

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha trưa ngày Lễ Các Thánh

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa 1 tháng 11-2013, với gần 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu hãy chu toàn ơn gọi nên thánh, và ngài mời gọi cầu nguyện cho những anh chị em bị thiệt mạng ở sa mạc nước Niger bên Phi châu trên đường đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã giải thích những đặc tính của các thánh và nói: ”Ngày nay, các thánh nói gì với chúng ta? Các ngài nói với chúng ta rằng: Hãy tín thác vào Chúa, vì Chúa không làm ta thất vọng! Chúa là người bạn của chúng ta. Không bao giờ đánh lừa chúng ta. Qua chứng tá, các thánh khuyến khích chúng ta đừng sợ đi ngược dòng hoặc sợ bị hiểu lầm, bị chế nhạo khi chúng ta nói về Chúa và về Tin Mừng”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Nên thánh không phải là một đặc ân của vài người, nhưng là ơn gọi của tất cả mọi người. Vì thế, tất cả chúng ta đều được mời gọi tiến bước trên con đường thánh thiện, vài con đường này có một tên, một khuôn mặt, đó là Chúa Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm chính Chúa chỉ đường cho chúng ta, đó là con đường các Mối Phúc thật (Xc Mt 5,1-12). Thực vậy, Nước Trời là của những người không đặt an ninh của họ nơi sự vật, nhưng nơi tình thương của Thiên Chúa, không tự coi mình là người công chính, không xét đoán người khác, các thánh là những ngừơi biết chịu đau khổ với người khổ đau, vui mừng với người vui mừng, không bạo hành, nhưng từ bi và là những người xây dựng hòa giải và hòa bình”.

ĐTC cũng nhấn mạnh một khía cạnh khác, đó là ”Các thánh không phải là những siêu nhân, cũng chẳng phải là những người sinh ra đã hoàn hảo. Họ là những người đã sống cuộc sống bình thường, với vui mừng và đau khổ, cơ cực và hy vọng, trước khi đạt tới vinh quang thiên quốc. Một khi được biết tình yêu của Thiên Chúa, các ngài theo Chúa với trọn tâm hồn, vô điều kiện và không giả hình; các ngài hiến mạng sống để phục vụ tha nhân, chịu đựng đau khổ và nghịch cảnh mà không oán ghét và lấy thiện báo ác, phổ biến vui mừng và an bình.. Các thánh không oán ghét.”

Sau kinh truyền tin và phép lành, ĐTC cho biết ngài đến nghĩa trang Verano vào ban chiều để dâng thánh lễ cầu cho những người quá cố. Ngài cũng hiệp ý với tất cả những ngừơi viếng thăm nghĩa trang trong những ngày này và đặc biệt ngài cầu nguyện cho các nạn nhân của bạo lực, nhất là những tín hữu Kitô đã bỏ mình vì bị bách hại. ĐTC không quên những anh chị em chết khát hôm 30-10-2013 ở sa mạc Sahara phía bắc Niger trên đường tìm cách vượt biên đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn”.

Người ta tìm thấy xác của 87 người tị nạn, phần lớn là các trẻ em. Những người này muốn đi qua Algérie bất hợp pháp, nhưng xe vận tải chở họ bị hư. (SD 1-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

BÍ QUYẾT NÊN THÁNH

 BÍ QUYẾT NÊN THÁNH

Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô. Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất- mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.

Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô  là Đấng Cứu Độ.Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể,đã sinh ra,đã chết,đã sống lại,lên trời ngự  bên hữu Chúa Cha,và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội. Các  ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm:

– Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người: “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ… Người đã làm những điều cao cả”.

– Lễ Các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ: “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.

Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là “một đoàn người đông đảo, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ”. Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta.

1. Các Thánh Nam Nữ là ai?

Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa tốt lành.

Các Thánh Nam Nữ là những người đã thực hiện những điều mà Thánh Phanxicô Átsidi dệt thành Kinh Hòa Bình:

Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Các Thánh Nam Nữ  đông vô kể: “Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên… Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn” (Kh 7,2-4).

Con số “một trăm bốn mươn bốn ngàn” chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. “Một trăm bốn mươn bốn ngàn” trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad… không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: “Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế” (Kh 7,4).

Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là  cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở  thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Jacob trong nước trời”.

Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân tộc.

2. Bí quyết nên thánh

Thánh Gioan viết: “Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao” (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa: “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài: “Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa… Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,15-17).

Các Thánh “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”. Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.

Có rất nhiều vị  thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực.

Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa.

Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai.

Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ.

Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác.

Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa.

Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ.

Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người.

Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh.

Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người. (ĐTGM. P. Bùi Văn Đọc).

Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu… Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi “qua đau khổ đến vinh quang”.

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”.

Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội phong thánh để tôn vinh Thiên Chúa và khuyến khích chúng ta noi theo gương sống của Các Thánh.

3. Ơn gọi lớn nhất của con người là nên thánh

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: "Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người" (GH 11.3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.

Trong Năm Phụng Vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo hội tôn kính tất cả các vị Thánh, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.

Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha tín hữu thực thi bác ái trong đời sống thường nhật

Đức Thánh Cha tín hữu thực thi bác ái trong đời sống thường nhật

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 31 tháng 10-2013, dành cho 200 thành viên Hội Thánh Phêrô Tông Đồ, ĐTC Phanxicô nhiệt liệt khuyến khích các tín hữu Kitô biểu lộ niềm tin trong đời sống hằng ngày qua các hoạt động bác ái.

Các thành viên Hội Thánh Phêrô Tông Đồ đến trao cho ĐTC số tiền gọi là ”Đồng tiền thánh Phêrô” họ đã quyên góp được trong các giáo xứ ở Roma để tài trợ các hoạt động từ thiện bác ái của ĐTC.

Ngài nhiệt liệt cám ơn họ về nghĩa cử này, đồng thời nhận xét rằng ”Một niềm tin được sống một cách nghiêm túc thường gợi lên lối sống bác ái chân thực. Chúng ta có bao nhiêu chứng tá đơn sơ của những người trở thành tông đồ bác ái trong gia đình, nơi trường học, giáo xứ, nơi làm việc và các cuộc gặp gỡ xã hội, nơi đường phố, và mọi nơi. Họ coi trọng Tin Mừng. Người môn đệ chân thực của Chúa đích thân dấn thân trong một sứ vụ bác ái có chiều kích là nhiều hình thức nghèo khổ của con người”.

ĐTC cũng nhắc nhở rằng: ”Mỗi ngày mỗi người chúng ta được kêu gọi trở thành người an ủi, biến thành dụng cụ khiêm tốn nhưng quảng đại của Chúa Quan Phòng và lòng từ bi thương xót của Chúa, cảm thông và chia sẻ, trở thành tông đồ sự an ủi của Chúa có sức nâng đỡ và trao ban can đảm”.

Thánh lễ tại mộ Đức Gioan Phaolô 2

Trước đó, lúc 7 giờ sáng, ĐTC đã cử hành thánh lễ tại Nhà Nguyện thánh Sebastiano, nơi có mộ của Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Tại đây mỗi sáng thứ năm hàng tuần vẫn có một nhóm tín hữu Ba Lan tham dự thánh lễ. Nhưng hôm qua là một dịp đặc biệt, áp ngày kỷ niệm Đức Gioan Phaolô 2 thụ phong LM ngày 1 tháng 11-1946.

ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ cùng với 120 LM đồng tế, phần lớn là người Ba Lan, trước sự tham dự của đông đảo tín hữu. Trong bài giảng ngài diễn giải về hai bài đọc của ngày lễ. Ngài nhấn mạnh 2 hình ảnh đặc biệt: một là lời thánh Phaolô quả quyết ”Không ai có thể tách biệt tôi khỏi tình yêu Chúa Kitô”. Thánh nhân vẫn trung thành yêu mến Chúa trong những cuộc bách hại, bệnh tật, phản bội, trong tất cả những điều đó, không gì có thể tách rời thánh nhân ra khỏi tình yêu Chúa.. Không có tình yêu đối với Chúa Kitô, không nhìn nhận và nuôi dưỡng mình bằng tình yêu ấy thì không thể là tín hữu Kitô chân thực”.

Hình ảnh thứ hai là Chúa Giêsu khóc khi thấy thành Jerusalem: dân thành này đã không hiểu tình yêu Chúa; Jerusalem đã không để cho mình được Chúa yêu thương, nhưng lại tín thác nơi những thần tượng.

ĐTC mời gọi các tín hữu hãy chọn lựa giữa hai thái độ. Ngài nói: ”Chúng ta hãy nhìn lòng trung thành của thánh Phaolô và sự bất trung của Jerusalem, và ở giữa chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu, nhìn con tim của Ngài đã yêu thương chúng ta dường nào. Chúng ta hãy tự hỏi: ”Tôi giống thánh Phaolô hay là giống Jerusalem? Tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa có mạnh như tình yêu của Thánh Phaolô hoặc con tim của tội nguội lạnh như con tim của dân thành Jerusalem?” (SD 31-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha sẽ tấn phong các Hồng Y mới vào ngày 22-2-2014

Đức Thánh Cha sẽ tấn phong các Hồng Y mới vào ngày 22-2-2014

VATICAN. Hôm 31 tháng 10-2013, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, xác nhận tin ĐTC sẽ triệu tập công nghị để tấn phong các Hồng Y mới vào ngày 22-2 năm 2014.

Tin này được giới báo chí nói đến trong những ngày qua. Cha Lombardi cho biết trong dịp họp Hội đồng 8 Hồng y cố vấn từ ngày 1 đến 3-10-2013, và sau đó là cuộc họp Hội đồng của Thượng HĐGM thế giới trong 2 ngày 7 và 8-10, ĐTC đã thông báo cho các tham dự viên ý định của ngài triệu tập một công nghị tấn phong Hồng y mới vào lễ kính Tòa Thánh Phêrô 22-2-2013. ĐTC quyết định thông báo điều này để dễ hoạch định chương trình cho các cuộc họp khác với sự tham dự của các Hồng y từ nhiều nơi trên thế giới.

Cha Lombardi cũng nói rằng người ta có thể đoán trước ĐTC muốn có cuộc họp của Hồng y đoàn trước lễ tấn phong các Hồng y mới, như các vị tiền nhiệm của ngài đã làm. Theo đó, Hội đồng 8 Hồng y cố vấn sẽ nhóm khóa họp thứ 3 trong hai ngày 17 và 18-2 năm tới, và sau công nghị tấn phong Hồng Y mới có cuộc họp của Hội đồng Thượng HĐGM thế giới trong hai ngày 24 và 25-2.

Ngoài ra, Hội đồng 15 Hồng y về vấn đề kinh tế và tổ chức của Tòa Thánh cũng sẽ nhóm vào tháng 2 năm tới, có lẽ là trong tuần lễ trước khi có công nghị tấn phong Hồng y mới.

Vào khoảng giữa tháng 2 năm tới, Hồng y đoàn sẽ còn tối đa là 201 vị, trong số này có 106 Hồng y cử tri. Điều này có nghĩa là nếu ĐTC Phanxicô quyết định giữ nguyên qui luật tối đa là 120 Hồng y cử tri, thì ngài có thể bổ nhiệm khoảng 14 Hồng y mới và có thể có thêm vài vị trên 80 tuổi. (SD 31-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

Phái đoàn Công giáo đến Seoul

Phái đoàn Công giáo đến Seoul

Philippa Hitchen từ Seoul, Hàn Quốc

Phái đoàn Công giáo đến Seoul thumbnail

Đức Tổng giám mục Yeom Soo-jung của tổng giáo phận Seoul tiếp đón phái đoàn

Một phái đoàn Công giáo gồm đông đảo các chuyên gia về đại kết đã tới Seoul, Hàn Quốc cuối tuần qua, chuẩn bị tham dự Đại hội X của Hội đồng các Giáo hội Thế giới được tổ chức ở Busan từ 30-10 tới 8-11.

Trước thềm đại hội, phái đoàn dành hai ngày đi thăm cộng đoàn Công giáo địa phương và gặp gỡ lãnh đạo của các Giáo hội khác cũng như các tôn giáo bạn.

Sau khi được Sứ thần Tòa thánh tại Hàn Quốc là Đức Tổng giám mục Osvaldo Padilla đón tiếp hôm thứ Bảy, phái đoàn tham dự Thánh lễ buổi trưa Chủ nhật tại nhà thờ Chính tòa Myeongdong ở Seoul, gặp gỡ Đức Tổng giám mục Yeom Soo-jung và cầu nguyện trong hầm mộ chứa hài cốt của một số thừa sai người Pháp tiên khởi chịu tử vì đạo tại một trong những nơi bách hại đạo hồi giữa thế kỷ 19.

Sau đó phái đoàn thăm chủng viện Seoul đang đào tạo linh mục cho khoảng 270 chủng sinh, và gặp gỡ Đức Hồng y Cheong Jinsuk, cựu tổng giám mục tổng giáo phận Seoul. Đức Hồng y chia sẻ những câu chuyện trong những năm ngài ở chủng viện từ 1954-1961. Kể lại cảnh đói nghèo tột cùng của người Hàn Quốc tại thời điểm đó, Đức Hồng y giải thích cách thức Giáo hội đã phải tìm cách thích nghi với sự phát triển phi thường ở thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, vốn đã đưa đất nước của ngài trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.

Ngài cũng nói đến quan hệ tốt đẹp mà Giáo hội Công giáo hòa hợp với Giáo hội Tin Lành để có số tín hữu chiếm 18% dân số Hàn Quốc. Ngài tự hào rằng năm 1977 Hàn Quốc đã trở thành quốc gia đầu tiên xuất bản bản dịch đại kết của quyển Kinh thánh bằng ngôn ngữ bản địa.

Sau cùng các chủng sinh dẫn phái đoàn đi thăm thư viện và nhà nguyện nơi lưu giữ hài cốt của linh mục người Hàn đầu tiên Cha Kim Tae-gon, người đã chịu bách hại và chết vì đức tin năm 1846, khi mới được 26 tuổi.

Trích từ UCANEWS VN

 

 

Đức Phanxicô tiếp kiến bà Aung San Suu Kyi

Đức Phanxicô tiếp kiến bà Aung San Suu Kyi

Giacomo Galeazzi cho Vatican Insider/La Stampa

Đức Phanxicô tiếp kiến bà Aung San Suu Kyi thumbnail

Picture Courtesy: Vatican Insider/La Stampa

Cho tới nay và chưa bao giờ thân thiết như thế. Hôm 29-10 Đức Thánh cha Phanxicô tiếp kiến nhà đoạt giải Nobel Hòa bình người Miến Điện bà Aung San Suu Kyi tại thư viện giáo hoàng trong Điện Tông tòa. Trước đó bà đã được vinh danh là công dân danh dự của Rôma trên Đồi Capitoline cổ kính.

Đã có “một cảm xúc tuyệt vời về sự hòa hợp và hài hòa” trong cuộc gặp gỡ của Đức Thánh cha với “nhân vật biểu tượng của thế giới châu Á” này, phát ngôn viên Tòa thánh linh mục Federico Lombardi cho biết.

Cuộc tiếp kiến của Đức Giáo hoàng với nhà lãnh đạo của biểu tượng dân chủ và nhân quyền Miến Điện là một sự kiện lịch sử có thể mang lại – dù không ngay lập tức – những kết quả nghiêm túc về chính trị, tôn giáo và văn hóa. Theo nhà lãnh đạo đối lập Miến Điện, nếu không có thay đổi về hiến pháp, thì các cuộc bầu cử tổng thống ở Miến Điện năm 2015 sẽ không có dân chủ, công bằng hay mang tính đại diện. Năm 2015, Miến Điện sẽ bỏ phiếu bầu quốc hội và việc bầu cử này sẽ canh tân toàn bộ quốc hội vốn khi đó sẽ bầu ra một nguyên thủ quốc gia.

Quốc gia này đã tổ chức các cuộc bầu cử (có phần nào) tự do đầu tiên của mình trong lịch sử mới đây sau nhiều thập niên dưới chế độ độc tài quân sự, bằng cuộc bầu cử bổ sung năm 2012 đã mở đường cho nhà lãnh đạo Liên minh Dân tộc vì dân chủ – người đã bị quản thúc 15 năm trong suốt 22 năm qua bởi chính quyền quân sự – bước vào quốc hội. Bà Aung San Suu Kyi đã tuyên bố bà muốn ra tranh cử chức vụ lãnh đạo cao nhất ở đất nước này.

Nhưng trước hết hiến pháp cần phải được tu chính bởi hiến pháp hiện nay do chính quyền quân sự thông qua hồi năm 2008 bằng cuộc bỏ phiếu khôi hài trong tình hình khẩn cấp do Bão Nargis gây ra và vẫn còn có một điều khoản ngăn cản nhà lãnh đạo không được công nhận này ra tranh cử một cách dân chủ. Điều khoản đó nói rằng các công dân lập gia đình và có con với người nước ngoài không thể được bầu cử.

Theo Asianews, hai con trai của bà mang quốc tịch Anh cũng như cha của họ là Michael Aris qua đời vì bệnh tật năm 1999 là người Anh. “Mọi quốc gia – chứ không chỉ đất nước tôi – đều cần có hòa bình. Hòa bình xuất phát từ con tim và để có được hòa bình, mọi nguồn cơn của lòng thù hận và sợ hãi phải được xóa bỏ” – bà Aung San Suu Kyi nói trong một tuyên bố.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

Trích từ UCANEWS VN