LỜI CẢNH BÁO

 LỜI CẢNH BÁO

“Này đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ sắp giáng xuống trên các ngươi. Các ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết. Các ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không kháng cự lại các ngươi” (Gc 5,1-6).

Phát biểu trong giờ chia sẻ Lời Chúa, các anh gia trưởng bàn bạc:

– “Thư Thánh Giacôbê hôm nay có câu mở đầu nghe rợn cả người! Chắc mình không dám ước mơ giàu có đâu. Xin Chúa cho hằng ngày dùng đủ là mừng rồi”.

– “Anh em mình ở đây có ai giàu có gì đâu. Nhưng tôi thì nghĩ mình không nên nói vậy. Đâu phải ai giàu có cũng gặp tai họa đâu. Tai hoạ nhãn tiền thấy toàn người nghèo. Chị Ba Ốm làm nghề hái dừa, nuôi chồng bệnh hoạn và 3 đứa con nhỏ, mới té từ trên cây dừa 13 mét, tiêu cột sống cỏ, tiêu cột sống lưng, nát bét cái xương chậu, BV. Chợ Rẫy trả về rồi! Nằm một chỗ.

– “Không phải vậy. Chỉ có con mắt đức tin mới nhìn ra cái tai hoạ đời này là hồng phúc cho đời sau. Tôi không nghĩ rằng tai hoạ là sự trừng phạt của Thiên Chúa. Nhưng là sự thanh luyện đức tin chúng ta”.

– “Đúng rồi, Thánh Giacôbê cảnh cáo những ông lớn không biết thương dân chỉ lo tận hưởng khoái lạc, cảnh cáo những người giàu có toa rập với quyền lực sát hại người công chính”.

– “Như vậy thì đoạn thư này không dính dáng gì tới chúng ta sao?”

– “Có chứ, chính chúng ta, những gia trưởng, những người làm cha mẹ trong gia đình bao lâu chưa sống công chính, chưa làm gương sáng cho con cái về đời sống đạo đức, thì bấy lâu chúng ta cũng còn phải được cảnh cáo về một “cơn thịnh nộ trong ngày sau hết”.

Dừng lại phần chia sẻ, anh trưởng nhóm mời mọi người nghe Đoạn Tin Mừng. Đoạn Tin Mừng đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề (x. Mc 9, 37-42.44.46-47)

Phần thưởng dành cho người biết sống tinh thần bác ái vì Chúa

“Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Chúa Giêsu không nói chuyện  giàu nghèo, nhưng Chúa hứa chắc cho ai vì Chúa Giêsu mà sống đời công chính. Đời sống công chính ấy là đời sống chan hoà yêu thương nhau, bắt đầu từ sự quan tâm đến nhau, thao thức trăn trở cùng nhau, và cuối cùng là chia sẻ cho nhau chính sự sống của mình để người khác được sống. Thánh Giacôbê cảnh cáo những người giàu có không biết sẻ chia, nhưng lại ích kỷ để tân hưởng khoái lạc riêng cho mình. Họ sẽ bị trả lẽ trước mặt Thiên Chúa trong ngày sau hết.

Phần phạt dành cho những người làm gương xấu

Có ai nói trẻ nhỏ làm gương xấu cho người lớn đâu. Khi nói đến làm gương xấu, ắt phải hiểu ngày “người lớn làm gương xấu cho trẻ nhỏ”. Và phần phạt cho kẻ làm gương xấu nghe mới rợn người làm sao: “Kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn”. Liên kết từ ý tưởng phần thưởng Chúa hứa ban, thì thiết tưởng, một gương xấu tối tệ nhất và cũng là thứ tội lỗi tồi tệ nhất mà Chúa muốn nói đến là đời sống ích kỷ, hẹp hòi, không quan tâm đến ai, đời sống vô cảm trước nỗi bất hạnh của con người. Tất cả các thứ tội trong bảy mối tội đầu đều chống lại đường lối yêu thương của Thiên Chúa, chống lại lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa. Kiêu ngạo vì tôn vinh mình, không khiêm nhường nổi để tôn vinh người. Hà tiện vì chỉ lo cho mình, không rộng rãi để bận tâm tới ai. Mê dâm dục cũng chỉ vì tìm khoái lạc cho mình. Mê ăn uống vì chỉ vì quá chú trọng tới mình mà quên đi niềm vui kiêng bớt, chia sẻ. Ganh tị, ghen ghét, vì không muốn ai hơn mình. Làm biếng việc Thờ Phượng Đức Chúa Trời, bởi vì tưởng cuộc sống mình là muôn thuở!

Như thế, bao lâu con người còn chỉ bận tâm lo lắng cho mình mà không nghĩ đến ai, thì có thể xem như là đã gây một gương xấu kinh khủng không? Thiết nghĩ là như vậy.

Chiến đấu quyết liệt với dịp tội, để tránh gây gương xấu

Mỗi lần tôi nghĩ đến “cái tôi” của tôi, là một lần đứng trước một dịp tội. Tôi càng làm ông lớn trong nhà, trong xã hội, trong Giáo Hội, thì “cái tôi” của tôi càng to. Cái tôi càng to, càng khó dứt bỏ. Tôi không thể đổ thừa cho tay tôi, cho chân tôi, không thể đổ thừa lỗ tai, con mắt hay một phần thân thể của tôi làm tôi sinh tội. Nhưng chắc chắn tội đã sinh ra từ sự đồng thuận của lòng tôi, vì tôi chỉ nghĩ đến tôi.

Chúa Giêsu thật có lý khi bảo: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt…”. Vì quả thật, tay chân hay phần thân thể tôi chỉ là dịp tội, mà nếu tôi có thể làm chủ được nó, thì hẳn nó phải nghe lệnh của tôi mà làm điều công chính. Ngược lại, nếu tôi không làm chủ được nó, hẳn nó sẽ sai khiến tôi, và hẳn nhiên là sẽ sai khiến tôi làm điều bất chính.

Lạy Chúa, Chúa đã phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”.

Xin cho chúng con kết hiệp mật thiết với Chúa, nên bạn hữu chí thiết của Chúa, để tư tưởng trong lòng con là tư tưởng của Chúa, mắt nhìn của chúng con là mắt nhìn của Chúa…, thân thể của chúng con là thân thể của Chúa, cuộc sống con là hoạ ảnh của Tình Yêu Chúa trong hành trình Đức Tin của chúng con giữa cuộc đời. Amen.

PM Cao Huy Hoàng

TẤM GƯƠNG

 TẤM GƯƠNG

Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn (Mc 9, 42).
 
Nhìn thấy người con trai chạc 7-8 tuổi chân bước khệnh khạng, hai tay thì múa may, quay cuồng, người cha lớn tiếng quát:
 
– Con học cái thói đi đứng đó ở đâu vậy? Quay sang người vợ, người cha nói tiếp:
– Sao em không để ý dạy con. Cứ đà này, lớn lên nó trở thành thói quen thì sao? Người vợ lặng thinh! Bỗng cậu con trai lên tiếng:
– Ba ơi! Con bắt chước ba đó, vì con thấy chiều nào ba cũng về nhà với kiểu đi đó, trông rất oai, mẹ thì xếp re! Người cha bỗng giật mình, vì mỗi buổi chiều, sau khi chén chú, chén anh với bạn bè, anh đi về nhà với dáng điệu của một người no men rượu!!!
 
Với một xã hội suy đồi về đạo đức như  hiện nay, thì những gương mù, gương xấu, những cái gây nên cớ vấp phạm cho bản thân và cho người khác ngày càng có chiều hướng gia tăng và biến tướng, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống nhân bản của giới trẻ, ấu nhi từ môi trường đời thường cho đến nhà đạo. Tất cả đều khởi đi từ con người cho tới những công nghệ giải trí, thiết bị hỗ trợ cho công việc, học tập, giải trí như báo chí, phim ảnh, truyền hình, internet, điện thoại di động….
 
Những cái cớ vấp phạm ngoài đời:
– Hiện tượng chè chén say sưa, cờ bạc, số đề, cá độ bóng đá, đá gà, nghiện và mua bán ma tý, mại dâm… lan tràn từ thị thành cho tới thôn quê, từ những tụ điểm cao cấp cho tới môi trường học đường, hè phố…
– Nạn phá thai, quảng bá việc phá thai, thiết lập những cơ sở phá thai chính quy cũng như lén lút tràn lan.
– Cách ăn mặc “thiếu vải” của giới nữ trẻ tuổi nhan nhản ngoài đường phố và ngay cả những nơi thờ tự.
– Nạn quay cóp, học thế, mua bán bằng cấp… biến tướng và lan tràn.
– Tình trạng đua xe, cướp của, giết người ngày càng táo tợn và tinh vi.
 
Trong nhà đạo thì:
 
– Thờ ơ, biếng nhác tham dự thánh lễ Chúa nhật, lễ kính, lễ trọng, lơ là thực hiện giờ kinh sớm tối trong gia đình.
– Cách ăn mặc thiếu tôn trọng, trang nghiêm khi đi tham dự thánh lễ và các giờ đạo đức.
– Sử dụng điện thoại di động một cách vô tư khi tham dự thánh lễ, các giờ đạo đức học giáo lý, hội họp…
– Nói chuyện riêng, cãi vã nhau trong và sau khi tham dự các nghi thức phung tự..
– Hiện tượng bè phái, tranh dành chức quyền trong hội đoàn, cộng đoàn.
– Tham dự thánh lễ dưới gốc cây, ngoài đường phố…
 
Với bản tính luôn yếu đuối, mỏng dòn của ta khi mang lấy kiếp nhân sinh thì những cái cớ gây vấp phạm trên dễ lôi kéo ta vào quỹ đạo của nó, quỹ đạo mà satan luôn mời gọi ta bằng những lời hoa mỹ, những dễ dãi…. Người cha trong câu chuyện trên, là một điển hình. Sau những lời tâng bốc của bè bạn đại loại: “kỳ này tăng đô zữ nghen, nào là không ai chơi đẹp như ông…!”, sau những cú chạm ly và những tiếng hò zô..zô..zô, những tiếng cười sảng khoái. Để rồi sau những cuộc vui đó, khi trở về nhà anh lại trở thành tấm gương, thành cái cớ vấp phạm cho chính con đẻ của mình qua hình thức bắt chước từ giọng nói, dáng đi….
 
Lời Chúa trong phụng vụ thánh lễ hôm nay qua môi miệng của Đức Giêsu: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9, 42), như một lời cảnh báo, lời nhắc nhở và như những mũi tên xoáy vào tim ta, làm ta phải giật mình nhìn lại đời sống của mình từ mái ấm gia đình, cho đến môi trường xã hội, Giáo hội. Đặc biệt khi ta mang trong mình danh hiệu Kitô hữu, đang mang trong đời sống trọng trách loan báo Tin Mừng, vì trong từng ngày sống ta đã từng gây nên cớ vấp phạm cho anh em mình bằng lời nói, hành động.
 
Giữa một xã hội đầy những cớ làm ta vấp ngã từ đời lẫn đạo, thì Lời Chúa hôm nay cũng chỉ cho ta những phương cách để tránh khỏi mắc sai lầm: “Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi, thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn còn đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục….Nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi, thà mất một chân mà được vào cõi sống, con hơn đủ cả hai chân mà phải xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà còn một con mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9, 43-47).
 
Đọc qua những lời răn dạy của Đức Giêsu, một ý nghĩ chợt lóe lên trong tâm trí: “Có lẽ trên Thiên Đàng rất nhiều người bị cụt tay, cụt chân và mù một mắt chăng?”, vì có một lần người thủ lãnh gọi Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành….Đức Giêsu phán với ông: Sao ông nói tôi là nhân lành? Không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lc 18, 18-19). Nếu hiểu, cách nghĩ và giải thích Lời Chúa theo mặt chữ như thế, chắc không ai dám đọc Lời Chúa và nhất là không ai dám bước theo Chúa, theo đạo Công Giáo! 
 
Ngạn ngữ có câu: “Nhân vô  thập toàn”. Vì thế, đã là con người, ai mà không vấp ngã. Vấp ngã vì ngoại cảnh, vấp ngã vì tính tự kiêu, tự đại; vấp ngã vì tính ích kỷ, lười biếng; vấp ngã vì tính tham lam, đam mê…Từ vấp ngã ta trở thành cái cớ, trở thành người nên gương mù, gương xấu cho chính mình và cho nhau.
 
Hôm nay và ngay thời đại này, Đức Giêsu dùng ngôn ngữ một cách mạnh mẽ, dứt khoát trước là để nhắc nhở ta ý thức hơn nữa về căn tính Kitô hữu của mình, nhắc nhở ta hãy tránh xa những điều gây nên dịp tội cho ta, kế đến là giúp và bảo vệ ta khỏi những cái cớ làm ta vấp ngã. Qua sự vấp ngã ta thực hiện những điều trái ngược với Tin Mừng và trở nên cớ vấp ngã cho anh em mình
 
Để tránh xa dịp tội, tránh xa những điều làm ta vấp ngã và trở thành cớ vấp ngã cho anh em không phải là dễ! Ngay trong kinh “Lạy Cha” có câu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, lời kinh chính Đức Giêsu truyền dạy. Ấy thế mà nhiều người lấy lời kinh “Lạy Cha” ra bỡn cợt khi đọc: “Xin cứ để chúng con sa chước cám dỗ!!!”. Sự bỡn cợt lời kinh “Lạy Cha” nói lên cái yếu đuối của con người nhân loại trước những cám dỗ của thời đại hôm nay, thời đại mà người ta quảng bá, tôn sùng chủ nghĩa “hưởng thụ”, chủ nghĩa “thành công”.
 
Lời cảnh báo của thánh Giacôbê  qua thư ngài gửi cho những người giàu có, hưởng thụ  thời Giáo Hội sơ khai, cũng là lời cảnh tỉnh ta giữa thời đại hôm nay: “Này đây, hỡi các người giàu có, các người hãy than khóc kêu la về những tai họa ắp đổ xuống trên đầu các người….. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thỏa mãn trong ngày sát hại” (Gc 5,1- 5).
 
Sau khi lãnh nhận bí tích Rửa Tôi, ta được Thiên Chúa ban tặng cho ta, cuộc sống của ta ánh sáng của Ngài. Ánh sáng đó tựa như tấm gương phản chiếu tình yêu và sự thánh thiện tuyệt hảo của Thiên Chúa ngang qua Đức Kitô. Ước mong của Đức Kitô là ta hãy gìn giữ tấm gương đó và ngày càng làm cho tấm gương sáng hơn, ngõ hầu đưa ánh sáng của Ngài lan tỏa tới để cho mọi người, mọi nơi. Khó đấy! Như những con cá lội ngược dòng khi ta gìn giữ tấm gương, khi ta lắng nghe, tuân giữ và thực hành lời dạy bảo, nhắc nhở và mời gọi của Đức Giêsu. Còn đó lời động viên của Đức Giêsu: “Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được” (Mt 19, 26). Đức Giêsu còn nhấn mạnh: “Không có Thầy, anh em không thể làm được gì” (Ga 15, 5).
 
Vì thế, để giúp ta tránh xa những cớ làm ta vấp ngã và biến ta thành cớ vấp ngã cho anh em mình. Thiết tưởng chỉ có một điều duy nhất, đó là ta năng đến với Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể, tiếp cận sức mạnh và ơn soi sáng từ Lời của Ngài nơi Kinh Thánh và ta cũng không thể nào quên tấm gương và sự trợ giúp của Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. “Kẻ đến với Ta, Ta không loại ra ngoài” (Ga 6, 37). Đây là lời hứa của Đức Giêsu, Ngài vẫn luôn chờ đợi ta trong nhà tạm nơi các ngơi thánh đưòng để tăng sức mạnh, thánh hóa và giúp ta sống như lòng Ngài ước mong.
 
Lạy Chúa Giêsu! Xin thương xót con vì trong cuộc sông con đã nhiều lần vấp ngã và nên gương xấu cho anh em con. Xin Chúa tha thứ và thánh hóa con để con sống xứng đáng là con Chúa hơn. Amen.

Antôn Lương văn Liêm

Đề tài Ngày Thế Giới Truyền Thông xã hội 2013

Đề tài Ngày Thế Giới Truyền Thông xã hội 2013

VATICAN. ĐTC đã chọn đề tài cho Ngày Thế Giới truyền thông xã hội thứ 47 vào năm tới, 2013, là: ”Các mạng xã hội: những cánh cửa chân lý và đức tin; không gian mới cho việc truyền giảng Tin Mừng”.

Ngày Thế Giới truyền thông xã hội được cử hành hàng năm vào chúa nhật thứ 3 của tháng năm. Năm tới sẽ là ngày 12-5.

Đề tài này được Phòng báo chí Tòa Thánh công bố hôm 29 tháng 9-2012, kèm theo giải thích, theo đó một trong những thách đố ý nghĩa nhất đối với công cuộc truyền giảng Tin Mừng ngày nay là thách đố nảy sinh từ môi trường kỹ thuật số. Qua đề tài được chọn cho Ngày Thế Giới truyền thông xã hội năm tới, ĐTC muốn lưu ý về vấn đề này trong khuôn khổ Năm Đức Tin.

Các yếu tố để suy tư thật là nhiều và quan trọng: thời đại ngày nay kỹ thuật có xu hướng trở thành mạng liên kết nhiều kinh nghiệm của con người như những liên hệ và kiến thức, ta cần phải tự hỏi: Kỹ thuật ấy có thể giúp con người gặp gỡ Chúa Kitô trong đức tin hay không? Nếu chỉ thích ứng hời hợt ngôn ngữ mà thôi thì không đủ, nhưng cần phải có thể trình bày Tin Mừng như câu trả lời cho câu hỏi ngàn đời của con người về ý nghĩa và về đức tin. Vấn đề ở đây không phải chỉ là dùng Internet như một phương tiện để rao giảng Tin Mừng nhưng là truyền giảng Tin Mừng với ý thức rằng sự sống con người ngày nay cũng được biểu lộ trong môi trường kỹ thuật số”.

Đặc biệt cần để ý đến sự phát triển và thịnh hành mạnh mẽ của các mạng xã hội, chúng tạo cơ hội để nhấn mạnh một kiểu đối thoại và đối tác trong việc truyền thông và trong quan hệ. (SD 29-9-2012)

G.Trần Đức Anh OP

Bắt đầu xét xử Paolo Gabriele, người cựu hầu cận của Đức Giáo Hoàng

Bắt đầu xét xử Paolo Gabriele, người cựu hầu cận của Đức Giáo Hoàng

VATICAN. Lúc 9 giờ rưỡi sáng 29 tháng 9-2012, tòa án tại Vatican bắt đầu xét xử người cựu hầu cận của ĐTC, Paolo Gabriele, bị cáo về tội ăn trộm các tài liệu mật của Tòa Thánh.

Cùng bị xét xử còn có một người đồng lõa là ông Claudio Sciarpelletti một cựu chuyên gia tin học tại Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Thẩm phán đoàn gồm ba vị, trong đó chủ tịch là Giáo Sư Giuseppe Dalla Torre di Sanguinetto, cũng là Viện trưởng Đại học Lumba ở Roma và Phó thủ lãnh Hội hiệp sĩ Thánh Mộ Jerusalem. Hai bị can đều có luật sư biện hộ. Bị can Sciarpelletti không có mặt, nhưng được luật sư Gianluca Benedetti đại diện. Thân nhân của Ông Gabriele không tham dự phiên xử.

Có 10 chỗ được dành cho các ký giả, trong đó có 6 chỗ nhất định được dành cho Báo Quan Sát Viên Roma, Đài Vatican, các hãng thông tấn AP của Mỹ, Reuter của Anh, AFP của Pháp và Ansa của Italia. 4 chỗ còn lại được chỉ định theo thể thức bốc thăm.

Sau phiên xử đầu tiên kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ, các ký giả có mặt tại phòng xử đến phòng báo chí Tòa Thánh để thuật lại cho hàng trăm đồng nghiệp tại đây về những gì đã xảy ra.

Các nhân chứng đã được gọi trong đó có Đức ông Georg Gaenswein, bí thư thứ I của ĐTC, nhưng ngài không trình diện được vì còn phải ở với ĐTC ở Castel Gandolfo. Các quan tòa cũng quyết định vụ xử Ông Claudio Sciarpelletti được tách rời khỏi vụ xử Gabriele. Phiên tòa tới đây được ấn định vào ngày thứ tư, 2 tháng 10-2012, trong đó bị can và 8 nhân chứng sẽ được hỏi. Ngoài Đức Ông Gaenswein còn có chị Cristina Cernetti, thuộc tu hội ”Memores” giúp việc trong dinh Giáo Hoàng, cũng như 8 hiến binh Vatican. Sau 50 phút, các vị thẩm phán rút vào phòng để thảo luận riêng trong hơn 1 tiếng đồng hồ. Đến giữa trưa, họ tái xuất hiện và cứu xét thêm 10 phút nữa.
Các quan sát viên mô tả ông Gabriele, 46 tuổi, nét mặt xanh xao và căng thẳng. Tuy nhiên, bầu không khí trong phòng xử không căng thẳng.

Chánh án Dalla Torre hy vọng rằng vụ xử này có thể kết thúc sau 4 phiên tòa tới đây.

Hôm 27 tháng 9-2012, Ông Giovanni Giacobbe, Chưởng tín, tức là Ủy viên công tố của tòa án tại Vatican đã mở cuộc họp báo về việc tiến hành vụ xét xử này, một biến cố rất họa hiếm.

Nếu bị can Gabriele bị xác nhận tội trạng, ông có thể bị kết án từ 1 đến 4 năm tù và sẽ thi hành bản án trong một nhà tù ở Italia. Và nếu Ông Sciarpelletti bị xác nhận tội thì có thể bị phạt tới 1 năm tù.

Ông Giacobbe cho biết lời thú nhận của ông Gabriele về việc đã lấy trộm tài liệu và trao cho ký giả để phổ biến, không phải là một bằng chứng tuyệt đối, và 3 thẩm phán không thể chỉ dựa trên các lời thú tội ấy.

ĐTC có quyền ân xá cho bị can bị xác nhận tội trạng, ngài cũng có quyền chấm dứt vụ xử trước khi bắt đầu, nhưng sau khi vụ xử bắt đầu, ngài không thể can thiệp. (SD 29-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Thánh Gioan Thành Avila

Thánh Gioan Thành Avila

Chúa Nhật 7 tháng 10 tới đây, trong khuôn khổ Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, ĐTC sẽ tôn phong hai vị thánh tiến sĩ mới của Giáo Hội: đó là thánh Gioan Avila người Tây ban nha, và thánh nữ Ildegarda di Bingen, người Đức. Sau đây chúng tôi xin gửi đến quý vị vài nét nổi bật trong cuộc sống và linh đạo của thánh Gioan Avila. Ngài sẽ là vị Tiến sĩ thứ 34 của Giáo hội. ĐTC Biển Đức XVI bày tỏ hy vọng rằng "lời nói và gương sáng của vị mục tử xuất sắc này sẽ soi sáng cho tất cả các linh mục, và cho những người mong đến ngày truyền chức linh mục của họ".

Thánh Gioan thành Avila sinh ra ở Campo, Ciudad Real, năm 1500, trong một gia đình khá giả, và Ngài được giáo dục trong đức tin Kitô giáo. Sau khi hoàn tất chương trình luật tại đại học Salamanca trong vòng 4 năm, ngài dự tính sẽ sống một cuộc đời ẩn dật. Tuy nhiên, nghe theo khuyên của một Tu sĩ Dòng Phanxicô, chàng thanh niên này tiếp tục đăng ký vào trường đại học Alcala để học triết học và thần học. Một trong những giáo sư của ngài là thần học gia nổi tiếng Dòng Đa Minh, Domingo de Soto. Trong thời gian học, thân phụ và thân mẫu của ngài đã được Chúa gọi về, và cả hai được mai táng trong một giáo xứ trong địa phương, nơi sau này ngài đã dâng thánh lễ mở tay vào năm 1526. Trong thánh lễ này, thánh nhân đã bán tất cả tài sản của gia đình và phân phát cho người nghèo.

Sau khi chịu chức linh mục, ngài đi đến Seville để chuẩn bị đi truyền giáo ở Châu Mỹ. Trong lúc chờ khởi hành, vị tân linh mục này dấn thân vào việc dạy giáo lý và rao giảng. Quá ấn tượng về ngài, Cha Fernando Contreras đã thúc giục vị tổng Giám mục Seville giữ Gioan lại Tây Ban Nha. Vâng phục đấng bản quyền, Gioan Avila đã bắt đầu dấn thân vào sứ mạng ở miền Nam Tây Ban Nha.

Thành công đến dường như ngay lập tức, nhiều người đã đến và nghe ngài giảng. Nhưng không may, chính sự thành công này dẫn đến những mối ghen tương và hiểu lầm, và Gioan Avila đã bị kết án lạc giáo vào năm 1531. Ngài đã bị tuyên án bởi toà án Truy tà và phải ở tù một năm. Có thể đối với nhiều người đó là một tai hoạ, còn đối với thánh nhân thì đó là một ân phúc của Thiên Chúa. Ngài nói rằng chính thời gian ở trong tù, ngài đã học được nhiều hơn tất cả những gì mà ngài đã học được trước đây. Trong tù, ngài đã viết tác phẩm Audi, filia, một tác phẩm giúp hướng dẫn về đời sống thiêng liêng, Tác phẩm này được viết cho một người phụ nữ trẻ tuổi đang sống đời thánh hiến dưới sự hướng dẫn của ngài. Cũng chính trong tù, Gioan đã nghiên cứu về thư Phaolo và sau này, một linh mục thánh thiện đã nghe ngài giảng đã thốt lên: “Tôi đã nghe Phaolô giải thích về Phaolô.” Sau khi được thả và được minh oan, ngài dấn thân vào sứ mạng rao giảng ở Cordoba vào năm 1535. Ngài là người đã ảnh hưởng nhiều đến các vị thánh như Gioan Thiên Chúa, Phanxico Borgia… Ngài thường được gọi là “thầy dạy”, một tước hiệu mang ý nghĩa học thuật, nhưng với Gioan Avila, khi sử dụng tước hiệu này, người ta thường nhấn mạnh đến chiều kích ơn gọi linh mục, nghĩa là thầy dạy, người dẫn dắt và hướng dẫn các linh hồn.

Gioan Avila mất vào ngày 10 tháng 5 năm 1569, hợp với mong ước của ngài, thánh nhân đã được chôn cất trong nhà thờ Dòng tên tại Montilla. Ngài được phong chân phước vào ngày 15-9-1894 và được tôn phong làm bổn mạng các linh mục giáo phận tại Tây Ban Nha vào ngày 2-7-1946 và được ĐTC Phaolo VI phong thánh vào 31-5-1970.

Là một linh mục giáo phận, nhưng Gioan Avila lại có một đời sống thánh thiện trỗi vượt, mang âm hưởng của một vị ẩn sĩ. Đối với thánh nhân, cầu nguyện là chiều kích quan trọng nhất trong đời sống của mình. Cầu nguyện là một sự đáp trả chính yếu của niềm tin. Chúng ta nhận ra điều này qua nhiều lá thư ngài viết. Khi nhận được những lá thư liên quan đến những vấn đề về thiêng liêng, ngài không vội trả lời ngay không phải vì quá bận rộn hay vì một sự bất cẩn nào đó, đúng hơn ngài cần thời gian để cầu nguyện. Chỉ sau khi đã cầu nguyện và suy xét cẩn thận, ngài mới viết thư trả lời và thường kèm theo đó là một lời xin lỗi vì sự chậm trễ của mình. Đời sống cầu nguyện của ngài không tách khỏi đời sống thường ngày, cầu nguyện luôn dẫn đến hành động và biến đổi.

Là một linh mục giáo phận nhưng thánh nhân lại hết sức yêu mến và sống triệt để tinh thần của 3 lời khuyên phúc âm. Chính sự ôm ấp và yêu mến đời sống nghèo khó, khiết tịnh và vâng phục cho phép thánh nhân giúp đỡ và có mối tương giao với nhiều tu sĩ. Chính vì việc trở nên giống Đức ki-tô đã giúp trổ sinh hoa trái nơi những người mà ngài phục vụ. Đời sống của ngài không gì khác là một sự phản ánh tình yêu thương và khao khát dành cho Đức ki-tô bị đóng đinh. Ngài ôm ấp các lời khuyên phúc âm trong một thời đại mà hầu hết các linh mục giáo phận đang làm điều ngược lại.

Thật vậy, theo truyền thống ở TBN, trong thời đại của ngài, một vị tân linh mục sẽ mở một bữa tiệc, mời bạn bè và những người thân của mình đến tham dự. Thay vì làm theo truyền thống, Gioan đã đi ra các đường phố, chọn lấy 12 người nghèo, rửa chân cho họ và xem họ như những vị khách quý. Tình yêu của ngài đối với đời sống nghèo cũng được thể hiện trong đời sống thường ngày. Ngài thường từ chối ở lại các khách sạn hay những nơi ở sang trọng. Thánh nhân nhận thấy nghèo khó là một điều rất cần thiết đối với đời sống linh mục. Đức khiết tịnh được ngài gìn giữ một cách chắc chắn ngang qua tình yêu mạnh mẽ dành cho Thiên Chúa. Tuy nhiên, thánh nhân cũng không bao giờ thiếu đi sự thận trọng cần thiết. Ngài chưa bao giờ gặp gỡ một phụ nữ ở một nơi riêng tư. Đời sống của ngài cũng được ghi dấu mạnh mẽ về sự vâng phục. Ngài đã vâng phục vị linh mục dòng Phanxico để trở nên một người phục vụ Chúa thay vì trở nên một ẩn sĩ như ước muốn ban đầu. Sau khi chịu chức, dù khao khát truyền giáo, nhưng ngài dã vâng phục giám mục để ở lại TBN, nơi có nhiều điều để làm. Thái độ đáp trả không một chút đắn đo thể hiện một sự quy phục mạnh mẽ mà Ngài dành cho Thiên Chúa, một sự tin tưởng tuyệt đối với Chúa Quan Phòng. Như vậy, chính việc giữ đời sống khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục mà đời sống của Gioan Avila được gắn chặt với thập giá của Chúa Kitô. Chính sự thánh hiến liên lỉ này đã gìn giữ đức tin của ngài và làm cho nó trổ sinh hoa trái.

Thánh Gioan Avila cũng được nhắc đến như là một người có những đóng góp quan trọng trong việc đổi mới đời sống của các linh mục. Thánh nhân đã liên kết chức vụ tư tế với bí tích Thánh Thể và xem sự thánh thiện như là một phẩm chất trỗi vượt của một vị linh muc, người đóng vai trò là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Ngang qua chức vụ tư tế, “bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô, Chúa chúng ta.” Ngài khẳng định rằng không có một sức mạnh nào trên thế gian có thể mạnh hơn sức mạnh của các linh mục, vì “họ có sức mạnh của chính Thiên Chúa”. Vì các linh mục phải là người có phẩm giá trổi vượt như là vị trung gian giữa Thiên Chúa và con người nên ngài phải trở nên thánh thiện. Đức Ki-tô là trung gian duy nhất và là Vị Thượng Tế Tối Cao, nhưng các linh mục cũng được chia sẻ chức vụ này trong Đức Ki-tô và trên bàn thờ, Linh mục là đại diện của Đức Ki-tô khi ngài dâng chính mình lên Chúa Cha. Vì thế, linh mục phải là người kết hợp thân mật với Thiên Chúa và phải trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Ngoài ra, chức vụ tư tế cũng là món quà Thiên Chúa trao ban cho Giáo Hội, và không ai có thể lãnh chức vụ này ngoại trừ những người được Thiên Chúa kêu gọi, được Giáo hội phê chuẩn ngang qua vị Giám mục bản quyền.

Thánh Gioan Avila cũng là một người có lòng nhiệt thành và có những đóng góp lớn lao trong việc cải cách Giáo hội. Ngài cho rằng để có thể cải cách Giáo hội, mỗi người phải hoán cải đời sống của mình. Mỗi người trong chức vụ của mình phải hoán cải đời sống không ngừng. Các Giám mục nên đưa những đề tài thảo luận vào đời sống thực tiễn. Thánh nhân mời gọi các Giám mục xem xét đời sống của chính mình và những thái độ nền tảng của họ khi thực thi nhiệm vụ và thái độ mà họ có đối với các linh mục. Họ phải đảm bảo rằng thái độ của họ phải xứng hợp với thái độ của Đức Ki-tô, Đấng mà họ là đại diện. Để có thể thực thi điều đó, các Giám mục phải đồng hành với các linh mục và lấy tình yêu phụ tử mà đối xử với các ngài. Ngài mời gọi các giám mục hãy trở thành những người tôi tớ trong khi đối xử với các linh mục, chứ không như những ông chủ với những người tôi tớ. Nếu các GM khởi đi từ thái độ này, con đường phía trước sẽ trở nên sáng lạng và đó chính là con đường của Đức Ki-tô, Đấng là lớn nhất nhưng đã tự ý trở nên rốt hết.

Để thực hiện một sự đổi mới nới hàng giáo phẩm, thánh Gioan Avila cho rằng các giám mục cần thực thi hai điều: thứ nhất, không chấp nhận những người không phù hợp vào ơn gọi linh mục và thứ hai, phải đổi mới chương trình huấn luyện quá nghèo nàn dành cho các ứng viên linh mục.

Thật vậy, nguyên nhân chính làm hủy hoại hàng giáo phẩm chính là việc một số người ước muốn chọn lựa ơn gọi này vì những tham vọng hết sức trần thế. Do đó, trước hết, thánh nhân đề nghị các linh mục phải cẩn trọng trong việc tuyển lựa các ứng viên. Thánh nhân nhấn mạnh rằng các ứng viên không phù hợp không thể được nhận dưới bất kỳ điều kiện nào.

Phẩm chất qua trọng nhất của ứng sinh phải là khả năng trí thức và thiêng liêng. Thánh nhân nói rằng các ứng sinh phải có khả năng để đạt được những kết quả tốt nhất trong việc học, nhưng điều đó cũng không bỏ qua khía cạnh đồng hành cá nhân, nghĩa là tùy theo khả năng của từng người mà giúp họ dấn thân trọn vẹn vào việc đào luyện tri thức. Khả năng tri thức rất quan trọng nhưng khả năng về thiêng liêng còn quan trọng hơn. Kế đến, thánh nhân đề nghị các giám mục cần phải thiết lập các chương trình huấn luyện và giáo dục chặt chẽ. Chương tình huấn luyện dành cho các linh mục theo khuôn mẫu của ngài đã ảnh hưởng sâu sắc đến quyết định của Công đồng Trento về đào tạo các linh mục. Chương trình này có ba thành tố chính: Đời sống cộng đoàn, huấn luyện sâu xa thần học và các giáo thuyết, và việc học chuyên môn. Nhiều điểm mà Gioan Avila đã đề nghị trong công đồng Trentô và những bài viết khác của ngài về chức vụ tư tế đã trở nên một phần quan trọng trong đời sống của Giáo hội. Chúng ta mang ơn ngài vì những những đóng góp của ngài cho Công Đồng Trentô, nhưng rõ ràng những tiếng nói của ngài vẫn còn âm vang trong Giáo Hội khi Giáo Hội đang thực hiện một tiến trình đổi mới trong chức vụ tư tế hậu công đồng Vaticano II.

Nhiều người nghĩ rằng việc đọc về hạnh các thánh giống như đọc những câu chuyện cổ tích hay thần thoại vì nó không thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Với họ, những điều mà các vị thánh làm quá phi thường và vượt sức con người. Chỉ có những người được đặc ân mới có thể sống như vậy. Nếu nghĩ như vậy thì sẽ không đúng với trường hợp của thánh Gioan Avila. Thánh Gioan Avila không được phong Tiến Sĩ Hội Thánh vì những việc thực hành đạo đức của ngài như việc đánh tội, ăn chay lâu ngày…Ngài chỉ là một linh mục, sống và thi hành sứ mạng của mình với một tình yêu lớn lao dành cho Đức Ki-tô và cho con người. Đời sống của ngài được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện và tình yêu dành cho Đức Ki-tô. Chính tình yêu này đã làm sống động toàn bộ đời sống của Ngài: cầu nguyện, giảng dạy, hướng dẫn thiêng liêng, và sống những gì mình giảng dạy. Chính tình yêu dành cho Đức Ki-tô và con người đã thúc đẩy ngài dấn thân vào sứ mạng cải cách hàng giáo sĩ. Chân phước Gioan Phaolo II đã nói về thánh nhân rằng: “Thánh Gioan Avila đã làm việc một cách can đảm để các linh mục có thể đáp lại với những dự án đổi mới đầy tham vọng của thời đại với một đời sống nội tâm sâu xa, một nền tảng huấn luyện trí thức vững chắc và một sự trung tín không bao giờ cạn đối với Giáo hội và một khao khát liên lỉ mang Đức Ki-tô đến cho người khác. Trong thời đại mà giáo hội đang bị suy sụp bởi Phong trào cải cách thì Gioan Avila đã dấn thân phục vụ Giáo hội không biết mệt mỏi.”

Augustine Nguyễn Minh Triệu S.J

Tài liệu:

1. La Figura Del Maestro San Giovanni D'avila
2. The Eminent Doctrine of St. John of Avila: A Most Dynamic Priesthood

3. Saint John of Avila and the Reform of the Priesthood

Đức Thánh Cha kêu gọi các bác sĩ chống lạm dụng y khoa trong thể thao

Đức Thánh Cha kêu gọi các bác sĩ chống lạm dụng y khoa trong thể thao

CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 khích lệ các bác sĩ thể thao không những phục vụ các vận động viên về phương diện chuyên môn, nhưng còn góp phần thăng tiến luân lý, tinh thần và văn hóa trong ngành thể thao.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 27 tháng 9-2012, dành cho 120 bác sĩ, đến từ 117 nước 5 châu, tham dự Hội nghị quốc tế lần thứ 32 về y khoa thể thao (FIMS), nhóm lần đầu tiên tại Roma trong những ngày này.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhìn nhận tầm quan trọng và sự thu hút của các cuộc tranh tài thể thao, đồng thời ngài nhắc đến sự thành công, danh tiếng, huy chương và sự theo đuổi tiền bạc đôi khi trở thành động lực chủ yếu, hoặc độc nhất, của các cuộc tranh tài thể thao. Nhiều khi thái độ muốn thắng giải với bất kỳ giá nào đã thay thế tinh thần đích thực của thể thao và đưa tới những lạm dụng hoặc sự dụng sai trái các phương tiện mà y khoa tân thời mang lại”.

ĐTC nói: “Trong tư cách là các bác sĩ thể thao, các bạn cũng ý thức về cám dỗ đó và tôi biết các bạn cũng thảo luận về vấn đề quan trọng này trong Hội nghị này”.

ĐTC cũng nhắc đến lời thánh Phaolô Tông đồ trong thư thứ I Corintô (9,25) trong đó Người nhắn nhủ các tín hữu hãy tập luyện trong đời sống thiêng liêng. Thánh nhân nói: ”mỗi vận động viên tập luyện tự chế trong mọi sự. Họ làm như thế để nhận được một vòng hoa chiến thắng mau qua, còn chúng ta nhận được vòng hoa không hư nát”. Các bạn thân mến, đó là lý do tại sao tôi khuyến khích các bạn tiếp tục nhớ đến phẩm giá của những người mà các bạn phục vụ qua hoạt động y khoa của các bạn. Như thế, các bạn sẽ trở thành những người không những chữa lành thể lý và giúp đạt những thành quả tuyệt hảo về thể thao, nhưng còn giúp phục hồi về luân lý, tinh thần và văn hóa nữa” (SD 27-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP– Vietvatican

Tòa Thánh tham gia Hiệp Ước LHQ chống các tội phạm chống các nhà ngoại giao

Tòa Thánh tham gia Hiệp Ước LHQ chống các tội phạm chống các nhà ngoại giao

NEW YORK. Tòa Thánh tham gia hiệp ước của LHQ về việc phòng ngừa và trừng phạt những tội ác chống lại các nhà ngoại giao.

Văn kiện tham gia của Tòa Thánh đã được Đức TGM Ngoại trưởng Dominique Mamberti nạp nơi ông Tổng thư ký LHQ chiều ngày 26 tháng 9-2012.

Trong thông cáo hôm 27 tháng 9-2012, Phòng báo chí Tòa Thánh giải thích rằng khi thực hiện cử chỉ trên đây, Tòa Thánh tuyên bố muốn góp phần thêm một cách cụ thể vào sự dấn thân của thế giới trong việc phòng ngừa và chống lại các tội phạm chống lại các nhà ngoại giao. Ngoài ra Văn kiện tham gia của Tòa Thánh nhắc nhớ rằng việc thăng tiến các giá trị huynh đệ, công lý và hòa bình giữa con người và các dân tộc là điều được Tòa Thánh đặc biệt quan tâm. Sự tham gia này cũng khẳng định sự chú ý của Tòa Thánh đối với các văn kiện quốc tế về sự cộng tác tư pháp trong vấn đề chống tội ác, như Hiệp ước này là một thí dụ.

Vì thế quyết định tham gia này không những biểu lộ ước muốn của Tòa Thánh cộng tác vào việc bảo vệ thích hợp các nhân viên ngoại giao, trước tiên là các nhân viên của mình và các nhà ngoại giao được ủy nhiệm nơi Tòa Thánh, nhung còn trợ giúp cộng đồng quốc tế duy trì ở mức độ cao sự cảnh giác chống lại những nguy cơ khủng bố.

Sau cùng, đây là một sáng kiến trong khuôn khổ và theo chiều hướng của tiến trình đã được khởi sự từ lâu để thích ứng hệ thống luật pháp của Vatican với các tiêu chuẩn cao nhất của quốc tế nhắm chống lại tệ nạn trầm trọng là các tội ác chống lại các nhà ngoại giao. (SD 27-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha đề cao phụng vụ như trường dạy cầu nguyện

Đức Thánh Cha đề cao phụng vụ như trường dạy cầu nguyện

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 20 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư, 26 tháng 9-2012, ĐTC Biển Đức 16 đề cao phụng vụ như trường dạy cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa.

Đây là buổi tiếp kiến đầu tiên tại Quảng trường thánh Phêrô từ đầu mùa hè đến nay. Trong bài huấn dụ, ĐTC đã diễn giải về đề tài ”Phụng vụ, trường dạy cầu nguyện: chính Chúa dạy chúng ta cầu nguyện”. Ngài nói:

”Trong những tháng qua, chúng ta đã thực hiện một hành trình dưới ánh sáng Lời Chúa, để học cầu nguyện ngày càng chân thực hơn, bằng cách nhìn đến một số nhân vật chính của Cựu Ước, các thánh Vịnh, các thư thánh Phaolô và Sách Khải Huyền, nhưng nhất là nhìn kinh nghiệm có một không hai và cơ bản của Chúa Giêsu, trong tương quan của Người với Chúa Cha trên trời. Thực vậy, chỉ trong Chúa Kitô, con người mới có thể kết hiệp với Thiên Chúa một cách sâu xa và thân mật như một người con đối với người cha yêu thương, chỉ trong Chúa Kitô chúng ta mới có thể ngỏ lời với Thiên Chúa trong tất cả sự chân thực, gọi Ngài một cách thân mật là là ”Abbà! Ba ơi!”. Cũng như các Tông Đồ, chúng ta đã lập lại trong những tuần qua và hôm nay chúng ta còn thưa với Chúa Giêsu: ”Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1).

Ngoài ra, để học cách sống quan hệ bản thân với Thiên Chúa một cách khẩn trương hơn, chúng ta đã học cách cầu khẩn Chúa Thánh Linh, là hồng ân đầu tiên mà Chúa Phục Sinh ban cho các tín hữu, vì chính Người ”đến nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho thích hợp” như thánh Phaolô đã nói (Rm 8,26) và chúng ta biết thánh nhân có lý.

Nhưng đến đây, sau một loạt dài các bài giáo lý về việc cầu nguyện trong Kinh Thánh, chúng ta có thể tự hỏi: Làm sao tôi có thể để cho Chúa Thánh Linh huấn luyện và có thể bước vào không khí quyển của Thiên Chúa, cầu nguyện với Thiên Chúa? Đâu là trường học trong đó Người dạy tôi cầu nguyện và đến trợ giúp sự khó khăn vất vả của tôi trong việc ngỏ lời với Thiên Chúa một cách đúng đắn? Trường đầu tiên để học cầu nguyện chúng ta đã trải qua trong những tuần này chính là Lời Chúa, là Kinh Thánh, Kinh Thánh trong cuộc đối thoại trường kỳ giữa Thiên Chúa và con người, một cuộc đối thoại từ từ trong đó Thiên Chúa ngày càng tỏ ra gần hơn. Chúng ta có thể ngày càng biết rõ tôn nhan, tiếng nói, bản chất của Chúa và con người học cách chấp nhận biết Thiên Chúa, nói với Thiên Chúa. Vì thế, trong những tuần này, khi đọc Kinh Thánh, chúng ta đã tìm hiểu từ Kinh Thánh, từ cuộc đối thoại trường kỳ ấy, xem làm sao để tiếp xúc với Thiên Chúa.

Còn một ”môi trường” quí giá khác, một nguồn mạch quí giá khác để tăng trưởng trong việc cầu nguyện, một nguồn nước hằng sống có liên hệ mật thiết với nguồn Kinh Thánh. Tôi muốn nói đó là phụng vụ, là môi trường ưu tiên trong đó Thiên Chúa nói với mỗi người chúng ta, ở đây và trong lúc này, và Ngài chờ đợi câu trả lời của chúng ta.

Phụng vụ là gì?

”Nhưng phụng vụ là gì? Nếu chúng ta mở Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, – vốn là một trợ giúp luôn quí giá và không thể thiếu được mà chúng ta có thể đọc thấy rằng nguyên thủy, từ ”phụng vụ” có nghĩa là ”việc phục vụ của dân và mưu ích cho dân” (n.1069). Khi thần học Kitô giáo lấy lại danh từ này từ thế giới Hy Lạp, chắc chắn là người ta nghĩ đến Dân Mới của Thiên Chúa, được khai sinh bởi Chúa Kitô Đấng đã giang rộng hai tay trên Thánh Giá để nối kết con người trong an bình của Thiên Chúa duy nhất. ”Phục vụ cho dân”, một dân tộc không tự hiện hữu, nhưng được hình thành nhờ Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. Thực vậy, Dân Chúa không hiện hữu do những liên hệ máu mủ, lãnh thổ, quốc gia, nhưng luôn phát sinh từ hoạt động của Con Thiên Chúa và từ sự hiệp thông với Chúa Cha mà Chúa Kitô mang lại cho chúng ta.

Ngoài ra, Sách Giáo Lý chỉ rõ rằng ”Trong truyền thống Kitô giáo, từ ”phụng vụ” có nghĩa là Dân Thiên Chúa tham dự vào công trình của Thiên Chúa”, vì Dân Chúa chỉ hiện hữu như là Dân của Chúa nhờ hoạt động của Thiên Chúa. Điều ấy chính sự phát triển của Công đồng chung Vatican 2 đã nhắc nhở chúng ta. Công đồng bắt đầu cách đây hơn kém 50 năm với việc thảo luận lược đồ về phụng vụ thánh. Sau đó Lược đồ này được long trong chấp thuận ngày 4-12-1963 như Văn kiện đầu tiên của Công đồng. Có lẽ một số người cho rằng sự kiện văn kiện về phụng vụ là kết quả đầu tiên của Công đồng là một điều tình cờ. Trong bao nhiêu dự án, văn kiện về phụng vụ dường như là văn bản ít gây tranh luận nhất, và chính vì thế, văn kiện này có thể là một sự tập luyện để học phương pháp làm việc của Công Đồng. Nhưng chắc chắn là, một điều thoạt đầu có vẻ là một sự tình cờ, đã tỏ ra là một sự chọn lựa đúng đắn nhất, kể cả khi xét về phẩm trật các đề tài và nghĩa vụ quan trọng nhất của Giáo Hội. Thực vậy, khi bắt đầu bằng đề tài ”phụng vụ”, Công đồng làm nổi bật một cách rõ ràng quyền tối thượng của Thiên Chúa, chỗ đứng ưu tiên tuyệt đối của ngài. Thiên Chúa đứng trước mọi sự: đó là điều mà chọn lựa của Công đồng muốn nói với chúng ta khi khởi hành từ phụng vụ. Nơi nào cái nhìn về Thiên Chúa không còn có tính chất quan trọng quyết định nữa, thì mọi sự khác sẽ mất hướng đi. Tiêu chuẩn cơ bản đối với phụng vụ là qui hướng về Thiên Chúa, để có thể tham gia vào chính công trình của Chúa.
”Nhưng chúng ta có thể tự hỏi: Đâu là công trình của Thiên Chúa mà chúng ta được mời gọi tham gia? Hiến Chế của Công đồng về phụng vụ thánh mang lại cho chúng ta 2 câu trả lời. Thực vậy, ở đoạn số 5 Công đồng dạy rằng công trình của Thiên Chúa là những hoạt động của Ngài trong lịch sử mang lại cho chúng ta ơn cứu độ, với tột đỉnh ở trong Cái Chết và Sự Sống lại của Chúa Giêsu Kitô; nhưng ở đoạn số 7, Hiến Chế này định nghĩa việc cử hành phụng vụ như ”công trình hoạt động của Chúa Kitô”. Trong thực tế, hai ý nghĩa này liên kết mật thiết với nhau. Nếu chúng ta tự hỏi ai cứu cuộc thế giới và con người, thì câu trả lời duy nhất là: Đức Giêsu thành Nazareth, là Chúa và là Đức Kitô, chịu đóng đanh và sống lại. Và Mầu Nhiệm Sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô mang lại ơn cứu độ cho tôi được hiện thực hóa ở đâu? Thưa là ở trong hoạt động của Chúa Kitô qua Giáo Hội, trong phụng vụ, đặc biệt là trong Bí Tích Thánh Thể, làm cho hy tế của Con Thiên Chúa Đấng cứu chuộc chúng ta, được hiện diện; trong Bí tích Hòa giải, trong đó con người đi từ cái chết vì tội lỗi đến sự sống mới; và trong các hành vi bí tích khác thánh hóa chúng ta (Xc .O 5). Như thế, Mầu Nhiệm Vượt Qua với Cái Chết và Sự Sống lại của Chúa Kitô chính là trung tâm thần học phụng vụ của Công đồng.

Chúng ta hãy tiến thêm một bước và tự hỏi: sự hiện tại hóa Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô có thể diễn ra thế nào? Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, đã viết như sau nhân dịp kỷ niệm 25 năm Hiến Chế Thánh Công Đồng (Sacrosanctum Concilium): ”Để hiện tại hóa Mầu Nhiệm Vượt Qua, Chúa Kitô luôn hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Vì thế, Phụng vụ là nơi ưu tiên để các tín hữu Kitô gặp gỡ Thiên Chúa và với Đấng mà Ngài sai đến, là Chúa Giêsu Kitô (Xc Ga 17,3)” (Vecesimus quintus annus, n.7). Theo cùng chiều hướng ấy chúng ta đọc trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo: ”Mỗi việc cử hành bí tích là một cuộc gặp gỡ của con cái Thiên Chúa với Chúa Cha, trong Chúa Kitô và Chúa Thánh Linh, và cuộc găp gỡ ấy được diễn tả như một cuộc đối thoại, qua những hành động và lời nói” (n. 1153). Vì thế điều kiện đầu tiên để cử hành phụng vụ tốt đẹp là làm sao để việc cử hành này là cầu nguyện và đối thoại với Thiên Chúa, nhất là lắng nghe và đáp lại”.
ĐTC đặc biệt nhắc đến lời mời gọi của vị chủ tế trong thánh lễ trước kinh Tiền Tụng: ”Sursum corda”, chúng ta hãy nâng tâm hồn lên khỏi những mớ tơ vò của những bận tâm của chúng ta, những mong ước, lo lắng, sự chia trí của chúng ta. Con tim chúng ta, chính thẳm sâu tâm hồn chúng ta phải mở rộng ngoan ngoãn đối với Lời Chúa và mặc niệm trong kinh nguyện của Giáo Hội, để được qui hướng về Thiên Chúa nhờ chính những lời được nghe và nói. Cái nhìn của tâm hồn phải hướng về Chúa, Đấng đang ở giữa chúng ta: đó là thái độ cơ bản phải có.

Khi chúng ta sống phụng vụ với thái độ căn bản như thế, tâm hồn chúng ta như được đưa khỏi sức hút của trọng lực lôi chúng ta xuống, để nâng tâm hồn lên cao, lên cùng sự thật và tình thương, hướng về Thiên Chúa.
Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, chúng ta chỉ cử hành và sống phụng vụ một cách tốt đẹp nếu chúng ta ở trong thái độ cầu nguyện, nếu chúng ta không muốn làm cái gì đó, tỏ cho người ta thấy chúng ta, hành động mà thôi, nhưng chúng ta muốn hướng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa và ở trong tư thế cầu nguyện, kết hiệp với Mầu Nhiệm Chúa Kitô và cuộc đối thoại của Chúa Con với Chúa Cha. Chính Chúa dạy chúng ta cầu nguyện, như thánh Phaolô đã quả quyết (Rm 8,26). Chính Chúa ban cho chúng ta những lời thích hợp để hướng về Chúa, những lời mà chúng ta gặp trong sách Thánh Vịnh, trong những đại kinh nguyện của Phụng vụ và trong việc cử hành thánh lễ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa bản cho chúng ta ngày càng ý thức hơn điều này: Phụng vụ chính là hoạt động của Thiên Chúa và con người; kinh nguyện trào dâng từ Thánh Linh và từ chún gta, hoàn toàn hướng về Chúa Cha, trong niềm kết hiệp với Con Thiên Chúa làm người (Xc Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, n.2564)
Sau bài giáo lý trên đây, như thường lệ tên của các phái đoàn đã được giới thiệu lên ĐTC, bắt đầu là các nhóm nói tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha và các thứ tiếng khác.

Khi nói bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm 110 nữ tu dòng thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm và các nữ tu dòng Cát Minh Thừa Sai đang nhóm tổng tu nghị. Ngài khích lệ các chị tiếp tục theo đuổi sứ mạng rao giảng Tin Mừng trong niềm trung thành với đoàn sủng của các vị sáng lập dòng.

G. Trần Đức Anh OP

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử

 

Sinh nhật thứ 100 của thi sĩ Công giáo Hàn Mạc Tử gắn kết các nhà thơ Công giáo trên toàn quốc và mở ra tương lai hứa hẹn cho nền thơ văn Công giáo Việt Nam.

Khoảng 60 tham dự viên, phần lớn là các nhà thơ đến từ 12 giáo phận trong nước và nước ngoài, đã tham dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh thi sĩ Hàn Mạc Tử 22/9/1912-22/9/2012 tại Chủng viện Quy Nhơn ở thành phố Quy Nhơn hôm 21-22/9.

Sự kiện này do Câu lạc bộ Sáng tác thơ văn Công giáo đồng xanh thơ Quy Nhơn tổ chức.

“Sự kiện này là cơ hội cho các nhà thơ Công giáo Việt Nam gặp gỡ, giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm sáng tác thơ ca Công giáo với nhau.

Đây là lần đầu tiên các nhà thơ quy tụ lại với nhau vì rất nhiều người chưa một lần gặp nhau” – linh mục Gioan Phêrô Võ Tá Khánh, trưởng ban tổ chức, cho biết.

Ngoài việc hàn huyên tâm sự, ngâm thơ và hát những bài hát được phổ nhạc từ thơ của Hàn Mạc Tử, các tham dự viên còn hành hương về lại những căn nhà, lối xóm mà cố thi sĩ tài hoa đã sống và qua đời ở đất Quy Nhơn như nhà số 20 Khải Định nay là đường Lê Lợi, xóm Tấn, xóm Động, xóm Bàu, Ghềnh Ráng và trại phong Quy Hòa.

Cụ Trương Hồ, 82 tuổi, kể lại những kỷ niệm hồi nhỏ cụ nhìn thấy cố thi sĩ trong thời gian cố thi sĩ lánh bệnh tại nhà bà con ở xóm Bàu, Gò Bồi. Cụ và bọn trẻ ngày ấy bỏ đọc kinh tối để kéo nhau đi xem “ông phung” vì tò mò, sau này lớn lên cụ hiểu căn bệnh này là gì và đã xin lỗi cố thi sĩ và người thân về sự dại dột của tuổi thơ.

Trong đoàn có chị Nguyễn Hoàn Mỹ Lộc là ái nữ của tác giả Nguyễn Bá Tín, gọi nhà thơ Hàn Mạc Tử bằng bác, và chị Hoàng Kim Mỹ Phượng gọi nhà thơ bằng ông, là cháu ngoại người chị thứ ba của Hàn Mạc Tử là bà Như Nghĩa.

Đoàn hành hương cũng ghé thăm Gò Thị, mộ Thánh Anrê Kim Thông, nhà lưu niệm nhà thơ Xuân Diệu, đền Vĩnh Thạnh kính Thánh giám mục Stêphanô Thể và đài kỷ niệm Nước Mặn, cái nôi của chữ Quốc ngữ.

Cha Khánh cho biết Ban mục vụ văn hóa và truyền thông giáo phận Quy Nhơn đã phát động Giải viết văn đường trường mừng kỷ niệm 400 năm Tin Mừng được rao giảng tại Quy Nhơn (1618-2018).

Cuộc thi, nhằm đào tạo cho Giáo hội những cây bút văn xuôi, giới hạn vào hai thể loại truyện ngắn và kịch bản.

Mừng 100 năm ngày sinh của Hàn Mạc Tử, Cha Khánh cũng phát hành bộ sưu tập Có Một Vườn Thơ Đạo (bốn tập), tập hợp những bài thơ của 140 tác giả Công giáo và của Hàn Mạc Tử.

Hiện nay chỉ còn 106 tác giả còn sống.

Ngài nói bộ sưu tập được giới thiệu rộng rãi cho mọi người, nhất là người ngoài Công giáo và những ai quan tâm đến thơ ca Việt Nam như là cách chuyển tải các giá trị Tin Mừng cho họ qua thơ ca.

Ngài dự định sẽ tiếp tục sưu tập thơ ca của những tác giả Công giáo khác trong thời gian tới để phát hành nhằm gìn giữ kho tàng thơ ca Công giáo Việt Nam.

Tiểu sử Hàn Mạc Tử:

Hàn Mạc Tử tên thật Phanxicô Assisi Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 tại giáo xứ Tam Tòa, tỉnh Quảng Bình.

Ông học tiểu học ở Quảng Ngãi 1924-1926 trước khi vào Quy Nhơn cùng mẹ, ông học trung học ở Huế năm 1928-1930 và lãnh Bí tích thêm sức tại nhà thờ Quy Nhơn (nay là tòa giám mục Quy Nhơn) năm 1933.

Sau khi vào Sài Gòn làm báo năm 1934, ông in tập Gái Quê năm 1936 và về Quy Nhơn chữa bệnh. Ông hoàn thành tập Thơ Điên năm 1938, và năm sau, sáng tác Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội.

Ông qua đời ngày 11-11-1940 tại Quy Hòa.

UCANVIETNAM

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 23-9-2012

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: Chúa nhật 23 tháng 9-2012

CASTEL GANDOLFO. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với hàng ngàn tín hữu hành hương trưa chúa nhật 23 tháng 9-2012 tại Castel Gandolfo, ĐTC Biển Đức 16 đã kêu gọi các tín hữu luôn chống lại sự kiêu ngạo và thanh tẩy, trở về cùng Thiên Chúa.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài giải thích về bài Tin Mừng chúa nhật thứ 25 thường niên năm B và đặt đoạn này trong bối cảnh các đoạn Tin Mừng theo thánh Marco qua đó, trong cuộc hành trình cuối cùng lên thành Jerusalem, Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của ngài, và nhắn nhủ các môn đệ hãy có thái độ khiêm tốn, loại bỏ thái độ kiêu ngạo lo tìm chỗ nhất.. ĐTC nói:

Anh chị em thân mến,
Trong hành trình của chúng ta với Tin Mừng theo thánh Marco, chúa nhật tuần trước chúng ta đã đi vào phần hai, tức là hành trình cuối cùng của Chúa Giêsu hướng về thành Jerusalem và tiến đến tột đỉnh sứ mạng của Ngài. Sau khi thánh Phêrô, nhân danh các môn đệ khác, tuyên xưng niềm tin nơi Chúa, nhìn nhận Ngài là Đức Kitô (Xc Mc 8,29), Chúa Giêsu bắt đầu nói công khai về những gì sau cùng sẽ xảy ra cho Ngài. Thánh sử Tin Mừng lần lượt thuật lại 3 lời tiên báo về cái chết và sự sống lại của Chúa ở chương 8,9 và 10: qua những lời đó, Chúa Giêsu loan báo ngày càng rõ ràng vận mệnh đang chờ đợi Ngài và sự cần thiết nội tại của những điều ấy. Đoạn Tin Mừng chúa nhật hôm nay chứa đựng lời loan báo thứ hai. Chúa Giêsu nói: ”Con Người – một kiểu nói Ngài dùng để chỉ chính Ngài – sẽ bị giao nộp trong tay loài người và họ sẽ giết Người; nhưng một khi bị giết, Người sẽ sống lại sau 3 ngày” (Mc 9,31). Nhưng các môn đệ ”không hiểu những lời ấy và họ sợ không dám hỏi Ngài” (v.32).

Thực vậy, khi đọc phần trình thuật này của thánh Marco, người ta thấy rõ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ có một sự cách biệt nội tâm sâu xa; có thể nói là cả hai ở những tần số khác nhau, vì thế các bài diễn văn của Thầy không được các môn đệ hiểu hoặc chỉ được hiểu một cách hời hợt. Thánh Phêrô Tông Đồ, ngay sau khi biểu lộ niềm tin nơi Chúa Giêsu, đã dám trách cứ Chúa vì Người đã loan báo sẽ bị phủ nhận và giết chết. Sau lời loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn, các môn đệ bắt đầu thảo luận xem ai là người lớn nhất trong số họ (Xc Mc 9,34) và sau lần loan báo thứ ba, Giacôbê và Gioan đã xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả và bên hữu Ngài, khi Ngài ở trong vinh quang (Xc Mc 10,35-40). Nhưng cũng có những dấu hiệu khác cho thấy sự xa cách này: chẳng hạn, các môn đệ không chữa lành được một cậu bé bị bệnh động kinh, sau đó Chúa chữa cậu bé bằng sức mạnh của lời cầu nguyện (Xc Mc 9,14-29); hoặc khi các trẻ em được giới thiệu với Chúa Giêsu, các môn đệ đã khiển trách các em, trái lại Chúa Giêsu thịnh nộ, cho các em được ở lại, và khẳng định rằng chỉ có ai giống như các trẻ em, thì mới được vào Nước Thiên Chúa (Xc Mc 10,13-16).

ĐTC đặt câu hỏi: ”Tất cả những điều ấy nói gì với chúng ta? Những sự kiện ấy nhắc nhớ cho chúng ta rằng tiêu chuẩn hành động của Thiên Chúa luôn khác với tiêu chuẩn của chúng ta, như chính Thiên Chúa đã biểu lộ qua miệng ngôn sứ Isaia: ”Tư tưởng của Ta không phải như tư tưởng của các ngươi, con đường của các ngươi không phải là con đường của Ta” (Is 55,8). Vì thế, việc theo Chúa luôn đòi con người phải có sự hoán cải sâu xa, một sự thay đổi lối suy nghĩ và sống, đòi phải mở rộng con tim lắng nghe để được soi sáng và biến đổi trong nội tâm. Một điểm then chốt trong đó Thiên Chúa và con người khác biệt nhau, chính là sự kiêu ngạo: nơi Thiên Chúa không có sự kiêu ngạo, vì Ngài là sự sung mãn trọn vẹn và tất cả đều hướng và sự yêu thương và ban sự sống; trái lại nơi con người chúng ta, kiêu ngạo ăn rễ sâu và vì thế chúng ta phải luôn cảnh giác và thanh tẩy. Tuy là bé nhỏ, nhưng chúng ta lại khao khát được coi là cao cả, được chiếm chỗ nhất, trong khi Thiên Chúa không do dự hạ mình xuống, trở nên người rốt cùng.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Chúng ta hãy tín thác cầu khẩn Mẹ Maria, Mẹ là Đấng hoàn toàn sống hợp với Thiên Chúa, xin Mẹ dạy chúng ta trung thành theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương và khiêm tốn.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, bằng tiếng Ý, ĐTC nhắc đến lễ phong chân phước cho cha Louis Brisson tại thành phố Troyes bên Pháp hôm thứ bẩy 22-9 vừa qua. Ngài nói: ”Cha Brisson sống vào thế kỷ 19, sáng lập hai dòng các nữ tu và nam tu Hiến sinh thánh Phanxicô đệ Salê. Tôi vui mừng hiệp ý cảm tạ Chúa với cộng đoàn giáo phận Troyes và tất cả các con cái thiêng liêng, nam và nữ, của vị Tân Chân Phước”.

Và như thường lệ ĐTC đã chào thăm các tín hữu hành hương bằng các thứ tiếng và đưa ra những lời nhắn nhủ ngắn. Bằng tiếng Pháp, ngài nói: ”Các tín hữu hành hương nói tiếng Pháp quí mến, tôi chân thành cám ơn anh chị em đã tháp tùng bằng lời cầu nguyện sự thành công tốt đẹp của Tông du của tôi tại Liban, và mở rộng đến toàn vùng Trung Đông. Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho các tín hữu Kitô ở Trung Đông, cho hòa bình và cuộc đối thoại thanh thản giữa các tôn giáo. Hôm qua, tôi đã hiệp ý trong tinh thần với niềm vui của các tín hữu giáo phận Troyes, tập họp để tham dự lễ phong chân phước cho cha Louis Brisson, vị sáng lập dòng các hiến sinh, nam và nữ, của thánh Phanxicô đệ Salê. Ước gì tấm gương của vị chân phước mới soi sáng cuộc sống của anh chị em! Người đã nói: ”Tôi cần Thiên Chúa, đó là một sự đói khát dày vò tôi”. Giống như cha Brisson, anh chị em hãy học đói khát Thiên Chúa và không ngừng chạy đến cùng Chúa với niềm tín thác”.

ĐTC vui mừng chào đón các nữ tu từ nhiều quốc gia đến Học viện thừa sai Mẹ Giáo Hội (Mater Ecclesiae) ở Castel Gandolfo để theo học, trong đó có một số nữ tu Việt Nam. Ngài cầu chúc cho các chị được một năm huấn luyện và đời sống cộng đoàn trong thanh thản và được nhiều thành quả.

ĐTC cũng thân ái chào thăm các thành viên Liên đoàn toàn quốc các nông dân trực canh ở Italia, gọi là Coldiretti. Ngài nói: ”Các bạn thân mến, tôi đánh giá cao sự dấn thân của các bạn trong việc bảo tồn thiên nhiên và cám ơn anh chị em vì các món quà.”
Các nông dân này đã mang tặng ĐTC một số nông phẩm được sản xuất hợp với môi sinh, như khoai tím, cà tím, táo xám, cà chua, nho, v.v.

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Giám Mục Kevin Vann thay thế ĐGM Tod D. Brown cai quản giáo phận Orange, nam California.

Giám Mục Kevin Vann thay thế ĐGM Tod D. Brown cai quản giáo phận Orange, nam California.

Orange 22/09/2012.-Tin từ Tòa Thánh Vatican hôm nay cho biết ĐTC Bênêđictô XVI đã nhận đơn xin từ nhiệm của Đức Giám Mục Tod Brown, 75 tuổi, của giáo phận Orange, nam California và bổ nhiệm ĐGM Kevin Vann đang cai quản giáo phận Forth Worth, Texas về thay thế Giám Mục Tod Brown. Đây là vị Giám Mục thứ hai tại tiểu bang Texas được Đức Thánh Cha bổ nhiệm về cai quản giáo phận nam California

ĐGM Kevin Vann năm nay 61 tuổi từng cai quản giáo phận Forth Worth từ năm 2005.Ngài sinh tại Springfield, Illinois năm 1951, thụ phong Linh Mục năm 1981, đậu Tiến Sĩ Giáo Luật năm 1985 tại Viện Đại Học St Thomas ở Roma. Ngài từng giữ các chức vụ: Phó Xứ, Chánh Xứ, thành viên tòa án của giáo phận Springfield

Người Công Giáo cũng như không Công Giáo vùng bắc Texas rất cảm phục nhân cách của ĐGM Vann

Ngày 10 tháng 12 năm 2012, ĐGM Vann sẽ chính thức nhận chức Giám Mục cai quản giáo phận Orange. Dân số của toàn giáo phận Orange là 3.2 triệu người trong đó 41% tức 1.3 triệu là người Công Giáo

Tưởng cũng nên nói thêm, giáo phận Orange có số giáo dân Việt Nam đông nhất tại Hoa Kỳ.

VietCatholic

(Xin xem thơ từ Tòa Giám Mục Fort Worth, TexasLetter from Diocese of Fort Worth )

 

 

TUẦN TIN CÔNG GIÁO Từ 09-17 đến 09-23-2012

TUẦN TIN CÔNG GIÁO Từ 09-17 đến 09-23-2012

Trích từ Xuân Bích VN

CÁC CHUYÊN GIA BÁC BỎ « CHỨNG CỨ » MỚI RẰNG CHÚA GIÊSU ĐÃ KẾT HÔN.

GM Williamson sẽ bị khai trừ khỏi SSPX?

-Chính phủ Pháp dự tính « bình đẳng » đối với hôn nhân đồng tính.

Giới chức Châu Âu nhắm thu thuế trên các bất động sản của Giáo Hội.

-Những thách đố của Phi Châu dưới ánh sáng học thuyết xã hội của Giáo Hội.

Bổ nhiệm mới.

Xét xử vụ án Vatileaks.

Giám mục phụ tá Berchier trao thư uỷ nhiệm cho 06 phụ tá lễ an táng.

TGP ở Anh cho phép việc an táng cho giáo dân cầm đầu..

Giáo sĩ Hồi giáo mạo phạm Kinh Thánh.

Thường gặp sự thờ ơ hơn là thù nghịch với đức tin.

Giới hạn phân tích DNA không ngừng lùi xa.

Thành lập các “uỷ ban nhân dân” có vũ trang về phía các Kitô hữu.

Phim tài liệu về Công Đồng Vatican II.

Đa thê, loạn luân có thể theo sau việc hợp pháp hoá hôn nhân đồng tính.

Thượng phụ thứ ba của Phi Châu xuất hiện hoàn toàn bất ngờ.

Tăng số lượng Thánh Lễ theo Hình thức đặc biệt.

Phép lạ Thánh Januarius lập lại: Máu hoá lỏng.

Thượng phụ Bartholomaios I và TGM Rowan Williams đến Roma.

Thượng hội đồng sẽ xem xét khi nào các Kitô hữu có thể cùng rao giảng chung.

Quốc hội Hoa Kỳ gia hạn chương trình [cấp] chiếu khán cho những nhà hoạt động tôn giáo người nước ngoài.

  (  Xem chi tiết . . . TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 09-17 đến 09-23-2012 )

 

 

NGƯỜI LÀM LỚN

NGƯỜI LÀM LỚN

Trong xã hội loài người, ít ai chọn cái cực khổ, bần hàn, thấp kém. Người ta lo tranh giành cái sung sướng, lợi lộc, vinh hoa. Ai lại thèm khát chức quyền là vì mưu cầu lợi ích quốc gia ? Ai lại ra công tìm cho mình một chiếc ghế ông lớn vì mong muốn làm cho đất nước giàu mạnh ? Ai lại dùng đủ mọi xảo thuật gian tà tranh giành một địa vị quan trọng vì nghĩ đến chuyện ấm no hạnh phúc của toàn dân ?

Con số những người lãnh đạo đất nước giữ được lòng công chính may ra đếm được trên đầu ngón tay. Bởi vì, quyền lực và tài sản công của đất nước luôn cám dỗ đức công chính của người lãnh đạo. Điều đó càng hiển nhiên hơn trong những xã hội không muốn biết đến Thiên Chúa và Đức Công Chính của Người. Đức Công Chính của Thiên Chúa vẫn còn réo gọi trong lương tâm họ, nhưng họ không muốn nghe theo, vì nghe theo Đức Công Chính thì đành bỏ mất cơ hội kiếm chác – bất hợp pháp cách nào cũng làm cho thành hợp pháp !

Chuyện này không phải mới hôm nay, mà đã từ ngàn xa xưa trước, không chỉ ở đất nước này, mà là khắp nơi. Bất kỳ ai làm người cũng đều bị Satan cám dỗ thèm khát quyền lực, thèm khát bả vinh hoa phú quí. Nếu không chiến thắng nổi cơn cám dỗ ấy, có nghĩa là phải quy phục Satan, biến thành kẻ gian ác và làm theo lệnh của nó: chống lại, bức bách, hãm hại người công chính. Bởi vậy, sách Khôn Ngoan viết rằng: “Những kẻ gian ác nói: “Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật” (Kn 2, 12 ).

Từ xưa đến nay, chuyện thanh trừng nhau giành chỗ ông lớn ngay trong một đảng phái chính trị không phải là hiếm hoi, nhưng lại là chuyện thường ngày như chuyện xử nhau của bọn giang hồ, dao búa, hoặc của những kẻ vô học, hoặc của những tên có chữ mà không có nghĩa ! Chuyện hãm hại nhau trên thương trường cũng nhan nhãn đến mức giết người không gớm tay. Tất cả đều bắt nguồn từ tham vọng bảo vệ và phát triển cái vốn liếng bất lương mà ma quỷ đã ban cho. Chuyện thanh trừng nhau bỗng rộ lên từ bí mật đến công khai vào những lúc tranh sáng tranh tối, lúc một mất một còn của một chính thể. Thật đáng quí, đáng kính nể những người có lương tâm ngay thẳng, có tiếng nói thật thà, có ước nguyện đả phá cái bất công và xây dựng sự công chính ngay trong những guồng máy gian tà. Họ bị trù dập, cách chức hoặc bi hãm hại, bị ám sát vì lẽ công chính. Họ là người công chính, chung số phận với Chúa Giê-su như sách khôn khoan đã nói: “Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó” (Kn 2, 19 – 20).

Từ chuyện làm lớn trong xã hội, đến chuyện làm lớn trong làng xóm, trong gia đình cũng không khác là bao. Ai làm ông thôn, ông xóm, ai có tiền hơn, giàu có hơn, là có quyền thế hơn, “miệng có gang có thép” hơn, được nể nả hơn và có thể xem người khác chẳng ra gì. Vợ chồng tranh nhau quyền làm chủ gia đình. Ai làm ra kinh tế thì mặc nhiên có quyền bính hơn, coi thường lấn lướt người kia. Cả con cái, đến lúc ổn định cuộc sống rồi, khấm khá rồi, nên ông kia, nên bà nọ rồi, nhìn cha mẹ già như một gánh nặng, một món nợ đời. Ai phục vụ ai ?

Có vẻ như người ta đang đánh mất dần ý nghĩa “Phục Vụ” nhau, mất dần “Đức Công Chính” trong cuộc sống hôm nay, từ trong gia đình đến xã hội, thậm chí cả trong các sinh hoạt của Giáo Hội !

Chúa Giêsu đến trong xã hội loài người để tái lập một nền Công Chính của Nước Thiên Chúa bằng việc Thiên Chúa nêu gương phục vụ cho con người, để con người biết phục vụ nhau cách trân trọng nhất.

Trong trang Tin Mừng hôm nay, các môn đệ, những người gần gũi nhất với Chúa Giêsu cũng không hiểu ý định yêu thương, khiêm tốn phục vụ, sống vì hạnh phúc tha nhân của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Những tưởng, theo ông Giêsu tài phép này chắc chắn cũng sẽ tìm được một chỗ đứng, một vị trí trên hàng chóp đỉnh quyền lực và danh vọng của đất nước Do Thái. Bởi vậy mới có chuyện họ tranh luận với nhau xem ai cao trọng hơn ai, ai làm lớn hơn ai, ai sẽ vào bộ chính trị, ai giữ bộ tài chính, ai nắm ngoại thương… Nhưng không ngờ Chúa Giêsu cảnh tỉnh họ hãy bỏ ngay cái ý tưởng ám muội của loài người ấy đi, vì đối với Thiên Chúa thì: “Ai muốn làm lớn nhất, hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35).

Chúa Giêsu đã dạy như thế và đã sống trọn cuộc đời như thế. Người đời, dùng chân lý này làm chiêu bài lừa bịp với khẩu hiệu rằng: “Lãnh đạo là đầy tớ nhân dân”, “Cán bộ là đầy tớ nhân dân”. Nói như thế, nhưng chẳng bao giờ làm như thế. Ai đầy tớ ai ? Ai phục vụ ai ?

Còn chúng ta thì sao ?

“Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” hẳn phải là kim chỉ nam cho tất cả mọi tín hữu trong đời sống Đức Tin và đời sống Giáo Hội, là kim chỉ nam cho mọi thành phần trong Giáo Hội. Trong chuyến viếng thăm Liban ngày 16-9-2012 vừa qua, Đức Thánh Cha Bênêdictô 16 nói: “Một đòi hỏi khẩn thiết đối với Giáo Hội là phục vụ và, đối với các tín hữu Kitô, là phải trở thành những người phục vụ đích thực theo hình ảnh Chúa Giêsu. Phục vụ là một yếu tố nền tảng trong căn tính các môn đệ của Chúa Kitô (Xc Ga 13,15-17)

Những con người bị cho là cùng đinh, thấp bé nhất dưới cái nhìn xã hội không thể cũng bị xem là cùng đinh thấp bé nhất dưới cái nhìn của Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa Kitô nhìn loài người, nhìn vạn vật với con mắt Chúa Kitô. Bao lâu trong Giáo Hội chúng ta, kẻ bề trên bề dưới, nhìn nhau với con mắt xác thịt loài người, con mắt cao, con mắt thấp, thì bấy lâu, chưa thực sự là Giáo Hội Chúa Kitô. Tiếng nói của Dân Chúa chưa hẳn là tiếng nói của những người đại diện Dân Chúa, nếu những người đại diện ấy chưa muốn lắng nghe, chưa ghi nhận tiếng nói của những kẻ cùng đinh, thấp bé nhất, ít học nhất trong Giáo Hội để quan tâm đáp ứng.

Là Tín Hữu Chúa Giêsu, là môn đệ Chúa Giêsu hẳn phải là người chung số phận với Chúa Giêsu: số phận của người công chính, số phận của những đầy tớ phục vụ anh em, số phận những người nhẫn nai chịu nhục mạ, chịu kết án, chịu đóng đinh và chịu chết vì sự Công Chính của Nước Thiên Chúa. Như vậy, số phận của Kitô hữu đã đành rành: được sinh ra, sống yêu thương phục vụ mọi người, làm chứng cho Đức Công Chính của Thiên Chúa, cùng chết với Đức Kitô, cùng sống lại với Người.

Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần gìn giữ chúng ta đừng bị vướng vào bẫy của Satan, để rồi tranh nhau cao thấp mà quên việc chính của chúng ta ở đời là phục vụ cách trân trọng nhất. Đừng vì muốn làm ông lớn mà “ganh tị và cãi vã, sinh ra hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”, nhưng hãy làm người phục vụ như Chúa Giêsu đã yêu thương khiêm tốn phục vụ. Thánh Giacôbê nói, đó là “sự khôn ngoan từ Trời xuống, trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình” (Gc 3, 16 – 4, 3).

Lạy Chúa, xin cho Lời Ngài thức tỉnh những ai đang tranh giành quyền lực biết theo gương Ngài mà phục vụ nhân loại các chân thành. Xin cho mọi người trong Giáo Hội biết phục vụ nhau cách trân trọng nhất, nhất là đối với những người thấp bé cùng đinh. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến các dân biểu Dân Chủ Kitô

Đức Thánh Cha tiếp kiến các dân biểu Dân Chủ Kitô

CASTEL GANDOLFO. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22 tháng 9-2012 dành cho 110 tham dự viên khóa họp của Ban Chấp Hành phong trào Dân Chủ Kitô quốc tế, ĐTC tái kêu gọi bảo về gia đình và bênh vực sự sống con người.

Trong số những người hiện diện, có nhiều vị Đại biểu quốc hội đến từ các nước năm châu. Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến nhiều lập trường mà ngài gọi là ”ồn ào, nhắm mang lại những câu trả lời vội vã, hời hợt, ngắn hạn cho các nhu cầu căn bản và sâu xa của con người”. Tình trạng này làm cho người ta nghĩ đến lời cảnh giác của thánh Phaolô về thời đại mà ”người ta không còn chịu được đạo lý lành mạnh nữa.. và tự coi mình là thầy dạy, theo sở thích hay thay đổi của mình, từ chối lắng nghe chân lý, để đi lạc theo những huyền thoại” (2 Tm 4,3).

Trong bối cảnh xã hội như thế, ĐTC kêu gọi thực hiện sự phân định cần thiết, trong những lãnh vực sinh tử của con người: ”sự tôn trọng sự sống trong mọi giai đoạn, từ lúc mới thụ thai cho đến lúc chấm dứt tự nhiên – với những hệ luận là từ chối phá thai, làm cho chết êm dịu và chọn giống người tốt. Các nghĩa vụ này liên hệ tới nghĩa vụ phải tôn trọng hôn nhân, như một sự kết hiệp bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, như nền tảng của cộng đoàn đời sống gia đình. Chính trong gia đình, dựa trên hôn nhân và cởi mở đối với sự sống mà con người cảm nghiệm được sự chia sẻ, sự tôn trọng và yêu thương nhưng không, đồng thời nhận được tình liên đới cần thiết, từ lúc còn là hài nhi cho đến khi bệnh tật, và tuổi già”.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng: ”Một sự tiến bộ đích thực của xã hội loài người không thể tách rời khỏi những chính sách bảo vệ và thăng tiến hôn nhân và cộng đoàn nảy sinh từ đó; những chính sách mà không những các quốc gia nhưng cả cộng đồng quốc tế có nhiệm vụ đề ra, để đảo ngược xu hướng ngày càng làm cho cá nhân bị cô lập, là nguồn mạch đau khổ và khô cằn cho cá nhân và chính cộng đoàn”.

ĐTC nhắc nhở rằng trách nhiệm như vừa nói trên đây đặc biệt là của những người nắm giữ vai trò đại diện. Được đức tin linh hoạt, họ có khả năng thông truyền cho các thế hệ tương lai những lý do để sống và hy vọng (GS 31).
Đầu buổi tiếp kiến, Ông Pier Ferdinando Casini, Đại biểu quốc hội Italia, thuộc Đảng UDC, Liên minh Phe Trung, cựu Chủ tịch Hạ viện Italia, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC. (SD 22-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Bổ nhiệm 45 chuyên viên và 49 dự thính viên Thượng HĐGM

Bổ nhiệm 45 chuyên viên và 49 dự thính viên Thượng HĐGM

VATICAN. Hôm 22 tháng 9-2012, với sự chấp thuận của ĐTC Biển Đức 16, Đức TGM Nikola Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã bổ nhiệm 45 chuyên viên và 49 dự thính viên tham dự Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 sẽ tiến hành tại Roma từ ngày 7 đến 28-10 tới đây về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”.

Các chuyên viên gồm các LM, nữ tu và giáo dân, hầu hết là các giáo sư đến từ năm châu trong đó có 2 người Á châu (Philippines và Hong Kong), có nhiệm vụ trợ giúp ĐHY Tổng tường trình viên và Đức TGM Tổng thư ký đặc biệt của Công nghị Giám Mục này.

Các dự thính viên, gồm LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân, có quyền phát biểu nhưng không có quyền bỏ phiếu trong Thượng HĐGM. Trong số các vị có Ông Carl Anderson, người Mỹ, thủ lãnh Hội Hiệp sĩ Colombo, nhiều Bề trên Tổng quyền các dòng tu như dòng các Sư huynh La San, dòng nữ tu thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta, dòng Nữ Tỳ Thánh Tâm Chúa Giêsu, dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, chị Maria Voce, Chủ tịch Phong trào Focolare, Tổ Ấm, v.v.. Có 6 vị người Á châu là Ấn độ (2), Nhật bản, Đại Hàn , Siria (2) (SD 22-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha hỗ trợ các Giám Mục bênh vực gia đình

Đức Thánh Cha hỗ trợ các Giám Mục bênh vực gia đình

CASTEL GANDOLFO. Trong buổi tiếp kiến 32 GM Pháp sáng 21 tháng 9-2012, ĐTC bênh vực sự sống và gia đình đang bị đe dọa trong xã hội.

Chính phủ thuộc đảng xã hội tại Pháp hiện nay đang xúc tiến việc ban hành luật công nhận hôn nhân đồng phái và một số hình thức làm cho chết êm dịu. Nhiều người phê bình lập trường chống đối của Giáo Hội Công Giáo trong lãnh vực này là ”lạc hậu”.

Ngỏ lời với các GM Pháp thuộc đoàn thứ I trong số 3 đoàn lần lượt về Roma hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, ĐTC nhận xét rằng ”gia đình, vốn là nền tảng đời sống xã hội, đang bị đe dọa tại nhiều nơi, do một quan niệm thiếu sót về bản tính con người. Bảo vệ sự sống và gia đình trong xã hội không có gì là lạc hậu, nhưng đúng hơn, việc làm ấy có tính chất ngôn sứ vì nó có nghĩa là thăng tiến các giá trị giúp phát huy trọn vẹn con người, vốn được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa (Xc St 1,26). Đó thực là một thách đố chúng ta cần phải đương đầu.”

Trong bài huấn dụ, ĐTC đặc biệt khích lệ các GM Pháp tiếp tục quan tâm đến đời sống tâm linh của các linh mục, đặc biệt giữa lúc các LM đang phải gánh thêm nhiều công việc mục vụ. Ngài nói: ”Đời sống thiêng liên của LM chính là nền tảng đời sống tông đồ của các vị và từ đó, bảo đảm cho sứ vụ của linh mục được phong phú.. Anh em hãy quan tâm cung cấp cho các linh mục những phương thế các vị cần có để nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và trí thức, cũng như tìm được sự nâng đỡ từ đời sống huynh đệ. Tôi chào mừng những sáng kiến anh em đã đề ra theo chiều hướng đó, như một sự kéo dài Năm Linh Mục, được đặt dưới sự bảo trợ của thánh Cha Sở họ Ars”.

Giáo Hội Công Giáo tại Pháp đang điều chỉnh lại các cơ cấu tổ chức. Về vấn đề này, ĐTC nhắc nhở rằng ”Việc giải quyết các vấn đề mục vụ giáo phận không thể chỉ giới hạn vào những vấn đề tổ chức, dù chúng quan trọng thế nào đi nữa. Có một nguy cơ là nhấn mạnh vào việc tìm kiếm hiệu năng bằng cách ”bàn giấy hóa việc mục vụ”, chú tâm tới các cơ cấu, việc tổ chức và các chương trình, do đó có thể có thái độ ”tự tham chiếu”, chỉ phục vụ cho các thành phần của các cơ cấu ấy mà thôi. Khi ấy các cơ cấu đó sẽ có ít ảnh hưởng trên đời sống của các tín hữu ít thực hành đạo.

ĐTC nói: ”Công việc rao giảng Tin Mừng đòi phải khởi hành từ cuộc gặp gỡ với Chúa, trong một cuộc đối thoại qua kinh nguyện, rồi tập trung vào việc làm chứng tá để giúp những người đồng thời nhận ra và tái khám phá những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa”.

ĐTC tỏ ra rất vui mừng vì việc Chầu Mình Thánh Chúa dành cho các tín hữu đang được đề ra tại Pháp. Ngài nói ”Tôi vui mừng sâu xa về điều này và khích lệ anh em làm sao để Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể trở thành nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô (Xc LG 11).

HĐGM Pháp bắt đầu về Roma hành hương, viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh từ ngày 20-9-2012: nhóm thứ I thuộc vùng Tây Pháp. Hai nhóm kế tiếp sẽ về Roma ngày 12-11 và 3-12-2012, mỗi nhóm qui tụ các Giám mục thuộc 5 giáo tỉnh. (SD 21-9-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Cuốn sách thứ ba của Đức Thánh Cha sẽ xuất bản trước Giáng Sinh

Cuốn sách thứ ba của Đức Thánh Cha sẽ xuất bản trước Giáng Sinh

VATICAN. Cuốn thứ 3 và là cuốn cuối cùng trong bộ sách của ĐTC Biển Đức 16 về Đức Giêsu Thành Nazareth sẽ được xuất bản trước lễ Giáng Sinh tới đây.

Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết hôm 21-9-2012, Nhà Xuất Bản Vatican và Nhà Xuất Bản Rizzoli của Italia đã ký hợp đồng về việc xuất bản cuốn sách của ĐTC Biển Đức 16 về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.

Nhà Xuất bản Vatican ủy thác cho nhà xuất bản Rizzoli việc bán tác quyền tác phẩm này trên toàn thế giới.

Tại Italia, cuốn thứ 3 này sẽ được bán tại tất cả các hiệu sách trước lễ Giáng Sinh và mang tên hai nhà xuất bản Vatican và Rizzoli.

Cùng với ấn bản tiếng Ý, Ấn bản tiếng Đức sẽ được nhà Herder xuất bản, đây là nhà xuất đã từng ấn hành từ trước đến nay các sách của ĐHY Joseph Ratzinger.

Ấn bản các tiếng khác đang được tiến hành. Tựa đề chung kết cuốn sách thứ 3 trong bộ sách của ĐTC chưa được công bố.

Cuốn thứ I Bộ sách 3 cuốn của ĐTC: Đức Giêsu thành Nazareth: từ lúc chịu phép rửa tại sông Giordan đến biến cố hiển dung” được ấn hành vào năm 2007; cuốn thứ hai hồi năm 2011 với tựa đề ”Đức Giêsu thành Nazareth. Từ lúc vào thành Jerusalem cho đến khi sống lại” (SD 21-9-2012).


G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 Giám Mục mới

Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 Giám Mục mới

CASTEL GANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 khích lệ các GM giúp các tín hữu đào sâu đức tin và nêu gương nên thánh cho mọi thành phần dân Chúa.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 20 tháng 9-2012, dành cho 120 GM thụ phong trong khoảng 12 tháng gần đây, đang tham dự khóa bồi dưỡng do Bộ Giám Mục và Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương tổ chức tại Roma.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến Năm Đức Tin sắp bắt đầu, nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 và 20 năm công bố Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. Ngài nói:

”Tôi khuyến khích anh em hãy dấn thân để nội dung nòng cốt của đức tin được trình bày một cách có hệ thống và mạch lạc cho tất cả mọi người theo lứa tuổi và bậc sống khác nhau của họ, để họ có thể trả lời cho những vấn nạn mà thế giới kỹ thuật và hoàn cầu hóa ngày nay đang nêu lên. Những lời sau đây của Vị Tôi Tớ Chúa, ĐGH Phaolô 6, vẫn luôn có tính chất thời sự. Người nói: “Cần phải rao giảng Tin Mừng cho văn hóa và các nền văn hóa của con người, không phải như để trang trí, như lớp sơn bên ngoài, nhưng phải rao giảng một cách sinh động, sâu xa, đến tận gốc rễ, luôn luôn đi từ con người và luôn trở về những quan hệ của con người với nhau và với Thiên Chúa” (Evangelii nuntiandi, 20).

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Đức tin đòi phải có những chứng nhân đáng tin cậy, những người tín thác nơi Chúa và phó thác cho Chúa để trở nên 'dấu chỉ sinh động sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong thế giới' (Porta fidei, 15). GM là chứng nhân đầu tiên về đức tin, tháp tùng hành trình của các tín hữu, bằng cách nêu gương sống trong sự phó thác tin tưởng nơi Thiên Chúa. Vì thế, để trở thành bậc thầy có uy tín và là sứ giả của đức tin, Giám Mục phải sống trước mặt Chúa, như là người của Thiên Chúa. Thực vậy, ta không thể phục vụ con người, nếu trước đó ta không phải là những người phục vụ Thiên Chúa”.

Sau cùng ĐTC nhắn nhủ các GM rằng: ”Sự dấn thân nên thánh của anh em đòi anh em mỗi ngày phải hấp thụ Lời Chúa trong kinh nguyện và nuôi sống mình bằng Thánh Thể, để kín múc từ hai bàn tiệc này nhựa sống cho sứ vụ. Ước gì đức bác ái thúc đẩy anh em gần gũi với các linh mục của anh em, với tình phụ tử, biết nâng đỡ, khích lệ và tha thứ. Các linh mục là những cộng tác viên đầu tiên và quí giá của anh em trong việc đưa Chúa đến cho con người và đưa con người đến cùng Thiên Chúa”.

ĐTC không quên nhắc nhở các GM gần gũi và nâng đỡ ngươi nghèo khổ, giúp đỡ các gia đình, người trẻ, chăm sóc các chủng sinh, để họ được huấn luyện về mặt nhân bản, tu đức, thần học và mục vụ, làm choi các cộng đoàn có được những mục tử trưởng thành và vui tươi, những người hướng đạo chắc chắn trong đức tin” (SD 20-9-2012).

G. Trần Đức Anh OP

Ngoại trưởng Tòa Thánh chống lan tràn võ khí hạt nhân

Ngoại trưởng Tòa Thánh chống lan tràn võ khí hạt nhân

VIENNE. Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức TGM Dominique Mamberti, phê bình các cường quốc nguyên tử dành những số tiền khổng lồ để tân trang kho võ khí hạt nhân.

Đức TGM Mamberti bày tỏ lập trường trên đây trong bài tham luận hôm 17 tháng 9-2012 tại Đại Hội lần thứ 56 của cơ quan quốc tế về năng lượng hạt nhân, gọi tắt là Iaea (International Atomic Energy Agency) nhóm tại Vienne, thủ đô Áo, từ ngày 17 đến 21 tháng 9-2012.

Đức TGM khẳng định rằng: ”Không thể coi là đủ về mặt luân lý việc giảm bớt kho dự trữ võ khí hạt nhân thừa thãi đồng thời lại tân trang kho võ khí hạt nhân, bằng cách đầu tư những ngân khoản khổng lồ để đảm bảo việc sản xuất các võ khí ấy trong tương lai và duy trì chúng. Vì thế, Tòa Thánh coi Hiệp ước không làm lan tràn võ khí hạt nhân NPT (Non-Proliferation treaty) như một hòn đá góc trong chương trình hoàn vũ chống lại sự lan tràn võ khí hạt nhân, và Tòa Thánh sẽ tiếp tục đóng góp phần của mình cho việc chuẩn bị một môi trường thuận lợi giúp Hội nghị kỳ 9 cứu xét Hiệp ước không làm lan tràn võ khí hạt nhân, dự kiến vào năm 2015 tới đây, mang lại những thành quả quan trọng và khả quan, không những để củng cố Hiệp ước này, nhưng còn làm cho nó trở thành một dụng cụ hữu hiệu hơn trong việc đáp ứng những thách đố mới liên tục nảy sinh ở chân trời hạt nhân”.

Nhắc đến việc dùng hạt nhân vào việc xạ trị (terapia radioattiva) chống ung thư, hữu hiệu tại nhiều nước công nghệ cao, Đức TGM Mamberti nhận xét rằng hơn một nửa số bệnh nhân ung thư tại các nước đang trên đường phát triển không được áp dụng phương pháp trị liệu này vì thiếu dụng cụ thích hợp và chuyên viên được huấn luyện. Tòa Thánh khuyến khích nỗ lực của tổ chức Aiea và các cơ quan đối tác khác trong việc hoạch định và phổ biến các chương trình kiểm soát ung thư, và giúp đỡ các nước thành viên trong việc bài trừ ung thư bằng phương pháp xạ trị (SD 20-9-2012).


G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Danh sách các nghị phụ tham dự Công nghị tháng 10-2012

Danh sách các nghị phụ tham dự Công nghị tháng 10-2012

CatholicCulture (18-09-2012) – ĐTC. Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm thêm 36 Hồng y và Giám mục tham dự tổng công nghị 13 sẽ tổ chức tại Rôma vào tháng 10-2012 để thảo luận về công cuộc “tân Phúc Âm hóa”. Các vị được mời sẽ tham dự với các Giám mục khác đã được các HĐGM bổ nhiệm để thảo luận tại Công nghị, khai mạc ngày 07-10 và kết thúc ngày 28-10.

ĐTC. Bênêđictô XVI đã bổ nhiệm 12 Hồng y, 01 Giáo phụ, 11 Tổng Giám mục, và 08 Giám mục làm Nghị phụ. Ngài cũng bổ nhiệm 04 Linh mục là Bề trên uy tín của các Dòng tu. Đức TGM. José Gomez của Los Angeles là người Mỹ duy nhất trong danh sách các nghị phụ lần này. Danh sách các nghị phụ gồm:

  1. ĐHY. Josip Bozanic of Zagreb, Croatia;
  2. ĐHY. Peter Erdo của Budapest, Chủ tịch HĐGM Hungary;
  3. ĐHY. Oswald Gracias của Bombay, Tổng thư ký Liên HĐGM Á châu;
  4. ĐHY. Joachim Meisner của Cologne;
  5. ĐHY. George Pell của Sydney;
  6. ĐHY. Polycarp Pengo của Dar-es-Salaam, Chủ tịch Hội nghị HĐGM Phi châu và Madagascar;
  7. ĐHY. Vinko Puljic của Sarajevo;
  8. ĐHY. Christoph Schonborn của Vienna;
  9. ĐHY. Lluis Martinez Sistach của Barcelona;
  10. ĐHY. Angelo Sodano, Hiệu trưởng Đại học Hồng y;
  11. ĐHY. Agostino Vallini, Tổng đại diện TGP Rôma;
  12. ĐHY. Andre Vingt-Trois của Paris, Pháp quốc;
  13. Giáo phụ Francesco Moraglia của Venice;
  14. ĐTGM.  Hector Ruben Aguer của La Plata, Argentina;
  15. ĐTGM.  Antonio Arregui Yarza của Guayaquil, Ecuador, Chủ tịch HĐGM Ecuador.
  16. ĐTGM.  Carlos Aguiar Retes của Tlalnepantla, Chủ tịch HĐGM Mỹ châu Latin;
  17. ĐTGM.  John Atcherley Dew của Wellington, New Zealand, Chủ tịch Liên HĐGM Oceania;
  18. ĐTGM. Jose Horacio Gomez của Los Angeles;
  19. ĐTGM.  Bernard Longley của Birmingham, Anh quốc;
  20. ĐTGM.  John Olorunfemi Onaiyekan của Abuja, Nigeria;
  21. ĐTGM.  Jose Octavio Ruiz Arenas, Thư ký Hội đồng Giáo hoàng về Tân Phúc Âm hóa;
  22. ĐTGM.  Ricardo Antonio Tobon Restrepo của Medellin, Colombia;
  23. ĐTGM.  Filippo Santoro của Taranto, Ý quốc;
  24. ĐTGM. Luis Antonio Tagle của Manila, Philippines;
  25. ĐGM. Benedito Beni dos Santos của Lorena, Brazil;
  26. ĐGM. Enrico Dal Covolo S.D.B., Hiệu trưởng Đại học Giáo hoàng Lateran ở Rôma;
  27. ĐGM. Javier Echevarria Rodriguez, Trưởng Hội Opus Dei;
  28. ĐGM. Menghisteab Tesfamariam, Trưởng Asmara, Eritrea;
  29. ĐGM. Luigi Negri của San Marino-Montefeltro, Ý quốc;
  30. ĐGM. Dominique Rey của Frejus-Toulon, France;
  31. ĐGM. Santiago Jaime Silva Retamales, Giám mục phụ tá GP Valparaiso, Chile, kiêm Tổng thư ký HĐGM Mỹ châu Latin;
  32. ĐGM. Alberto Francisco Sanguinetti Montero của Canelones, Uruguay;
  33. LM. Julian Carron, Trưởng Huynh đoàn Liên lạc và Giải phóng (Communion and Liberation);
  34. LM .Jose Panthaplamthottiyil, Bề trên tổng quyền Dòng Kín Đức Mẹ Vô Nhiễm;
  35. LM. Renato Salvatore, Bề trên tổng quyền Dòng Camillians;
  36. LM. Heinrich Walter, Bề trên tổng quyền Dòng các Cha Schoenstatt.

        TRẦM THIÊN THU