CÁM ƠN

CÁM ƠN

Một trong những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng rất ngắn nhưng đưa đi rất xa, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn, chân tình. Đó là tiếng “cám ơn”. Nhưng trong thực tế, dường như người ta còn quá dè dặt và tiết kiệm tỏ lòng biết ơn nhau và cám ơn nhau.

Bài Tin Mừng Chúa Giêsu lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy. Chúa đã làm phép lạ chữa lành cho cả mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung sướng, thỏa mãn, chỉ có một người nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi người ấy: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?” Chỉ là vì họ quên cám ơn. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố tình quên hoặc vô tình quên như thế.

Có phải chúng ta vẫn thường coi việc người khác làm cho chúng ta hay phục vụ chúng ta như là những chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm? Chẳng hạn khi có người lưu ý một ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của người thừa hành hay người giúp việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: “Họ đã được trả lương để làm việc ấy mà”. Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng phẳng.

Chúng ta nên suy nghĩ tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người được gói ghém trong tiếng “cám ơn”, dù khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết bao nhiêu chuyện mà người ta không thể thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng bằng một nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này: “Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền “puộc boa”, tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.

Chúng ta phải biết cám ơn những người sống chung quanh mình, bắt đầu từ những người gần gũi nhất, đó là những người trong gia đình. Người ta nói: hạnh phúc của mái gia đình tùy thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ ơn nhau. Cuộc sống của chúng ta được dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, thế mà hạnh phúc gia đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều chẳng đáng kể gì đó, là tiếng “cám ơn” bé nhỏ nói cho đúng lúc.

Thực vậy, hạnh phúc thay gia đình nào có những người con biết nói cám ơn người cha người mẹ vẫn tận tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt ngày tảo tần mưu ích cho chúng. Và cũng thật hạnh phúc cho gia đình nào người chồng biết nói cám ơn đối với người vợ và người vợ biết nói cám ơn đối với người chồng. Tiếng cám ơn người chồng nói với người vợ đáng giá hơn tất cả mọi thứ vật chất, vì nó chứng tỏ người chồng lưu ý tới những gì người vợ làm cho mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn người vợ nói với người chồng sẽ động viên cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm, thêm sức mạnh để hăng say với công việc đều đều cực nhọc vất vả hằng ngày.

Sau hết nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn Thiên Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang che chở chúng ta, cái bàn kia, cái giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách đó, cái đèn đang cháy sáng kia, những người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc sống, và hàng trăm hàng ngàn điều khác đang ở trong tầm tay chúng ta… Chính Thiên Chúa ban cho chúng ta những điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc. Vì thế, chúng ta phải luôn dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối với nguyên nhân tối hậu, từ đó phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.

Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123, 124, 125…Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi: “Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”.

Hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ lại quá khứ cuộc đời mình và gia đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa mà rất ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân Ngài không? Đó là một thiếu sót lớn lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ mọi người thực là nhiều: từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ một nụ cười đến một tình thương, từ một lời chào đến những lời an ủi, khích lệ, trao đổi, gặp gỡ… tất cả và bất cứ sự gì chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng đời chúng ta và gia đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn mọi người. Tạ ơn Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày với Chúa, để rồi Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: “Một lần cám ơn là hai lần xin ơn”.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa”. Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với chúng ta, đều là những ân nhân của chúng ta.

Nguồn: Sưu tầm

Đức Thánh Cha tiếp kiến Cộng đoàn Do thái ở Roma

Đức Thánh Cha tiếp kiến Cộng đoàn Do thái ở Roma

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 11 tháng 10-2013 dành cho các đại diện Cộng đoàn Do thái ở Roma, ĐTC tái khẳng định sự gần gũi của Giáo Hội Công Giáo và loại trừ mọi hình thức của trào lưu bài Do thái.

Trong phái đoàn 30 vị lãnh đạo Do thái, có Rabbi trưởng Riccardo Di Segni của thành Roma, các Rabbi khác cùng với các vị lãnh đạo các tổ chức Do thái. Buổi tiếp kiến diễn ra nhân dịp kỷ niệm 70 năm quân Đức Quốc Xã bố ráp khu vực của người Do thái ở Roma ngày 16-10 năm 1943 và bắt 2.091 người đưa họ tới các trại tiêu diệt ở Ba Lan và Đức.

Lên tiếng trong cuộc gặp gỡ, ĐTC nhắc đến 2 ngàn năm quan hệ giữa cộng đoàn Do thái với Công Giáo ở Roma với bao nhiêu thăng trầm, thiếu thông cảm, và nhiều khi có những bất công đích thực. Nhưng từ nhiều thập niên qua, quan hệ thân hữu và huynh đệ đã được phát triển.

ĐTC nói: ”Trong vài ngày nữa, chúng ta sẽ kỷ niệm 70 năm cuộc phát lưu người Do thái ở Roma. Chúng ta sẽ tưởng niệm và cầu nguyện cho bao nhiêu nạn nhân vô tội do sự man rợ do con người gây ra, cho gia đình họ. Đây cũng sẽ là dịp để luôn luôn duy trì sự chú ý tỉnh thức để khỏi tái diễn vì bất kỳ lý do nào những hình thức bất bao dung và bài Do thái ở Roma, cũng như các nơi khác trên thế giới. Trào lưu bài Do thái phải được loại trừ khỏi tâm hồn của đời sống của mỗi người nam nữ!”

ĐTC nói thêm rằng: ”Dịp kỷ niệm này cũng giúp chúng ta nhớ lại trong những giờ phút đen tối, cộng đoàn Kitô tại thành phố này đã biết giơ tay ra giúp người anh em đang gặp khó khăn. Chúng ta biết nhiều dòng tu, đan viện và chính các Vương cung thánh đường Giáo Hoàng, giải thích ý muốn của ĐGH, đã mở cửa đón nhận những anh chị em Do thái, và bao nhiêu tín hữu Kitô thường đã giúp đỡ nhiều ít, theo khả năng của họ”.

Theo ĐTC, ”nhiều tín hữu Kitô tuy không biết là cần phải cập nhật sự hiểu biết của Kitô giáo về Do thái giáo và có lẽ cũng ít biết về cộng đoàn Do thái, nhưng họ đã có can cảm làm điều đúng trong lúc đó, nghĩa là bảo vệ người anh em đang gặp nguy hiểm. Tôi muốn nhấn mạnh khía cạnh đó, vì tuy cần phải đào sâu từ cả hai phía về suy tư thần học qua cuộc đối thoại, nhưng một điều khác cũng đúng, đó là có một cuộc đối thoại trong cuộc sống, đối thoại bằng kinh nghiệm hằng ngày, là điều cũng không kém phần quan trọng. Nói đúng ra, nếu không có một nền văn hóa gặp gỡ đích thực và cụ thể, đưa tới những quan hệ chân chính, không thành kiến và ngờ vực, thì sự dấn thân trong lãnh vực trí thức sẽ chẳng hữu ích bao nhiêu.”

Và ĐTC kết luận rằng ”Tại Roma này tôi hy vọng sẽ góp phần vào sự gần gũi và tình thân hữu, như tôi đã được ơn thực hiện điều đó với cộng đoàn Do thái ở Buenos Aires. Trong số nhiều điều chúng ta có chung với nhau, có chứng tá về chân lý của 10 giới răn, như nền tảng vững chắc và là nguồn mạch sự sống cho xã hội chúng ta, một xã hội đang bị ngỡ ngàng lạc hướng vì chủ thuyết đa nguyên tột độ với những chọn lựa và đường hướng chịu ảnh hưởng của trào lưu duy tương đối, khiến cho người ta không còn những điểm tham chiếu vững chắc nữa” (Xc DGH Biển Đức 16, diễn văn tại Hội đường Do thái Roma 17-1-2010, 5-6). (SD 11-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Chân Phước Angela thành Foligno được ghi vào sổ bộ các thánh

Chân Phước Angela thành Foligno được ghi vào sổ bộ các thánh

VATICAN. Hôm 11 tháng 10-2013, Bộ Phong Thánh đã thông báo quyết định của ĐTC ghi tên nữ chân phước Angela thành Foligno vào sổ bộ các thánh và đồng thời Bộ công bố các sắc lệnh liên quan đến án phong chân phước và hiển thánh.

Thông báo cho biết: ĐTC nới rộng việc tôn kính theo phụng vụ trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ Chân Phước Angela thành Foligno, thuộc dòng Ba Phanxicô tại thế, sinh tại thành Foligno khoảng năm 1248 và qua đời tại đó năm 1309, thọ 61 tuổi, và ghi tên Người vào sổ bộ các thánh. Điều này có nghĩa là chân phước Angela được phong hiển thánh mà không cần phải qua thủ tục thông thường.

Thánh nữ Angela đã được tôn kính ngay từ sau khi qua đời và cho đến nay vẫn được coi như vị thánh do dân tôn phong (vox populi). Ngài sinh trong một gia đình khá giả ở Foligno, trung Italia, không xa Assisi. Sau một cuộc đời tháo thứ, Angela hoán cải. Sau khi chồng con qua đời, Angela gia nhập dòng Ba Phanxicô tại thế và sống thời cầu nguyện khổ hạnh. Thánh nữ được nhiều thị kiến về Chúa Kitô và cuộc khổ nạn của Chúa. Ngài được Đức Clémente XI phong chân phước năm 1701.

Trong lịch sử Giáo Hội, cũng có một số vị được phong chân phước hoặc hiển thánh do sự sùng kính của dân chúng, mà không có sự can thiệp của Giáo Hội. Hồi tháng 10 năm 1982, Đức Gioan Phaolô 2 đã cho phép tôn kính chính thức Fra Angelico, LM họa sĩ nổi tiếng dòng Đa Minh Italia, như chân phước. Sau khi qua đời, cha đã được dân chúng gọi là ”Beato” (Chân phước) rồi.

Bộ Phong thánh công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Nữ Tôi Tớ Chúa Maria Assunta Caterina Marchetti Đồng Sáng lập dòng các nữ tu thừa sai thánh Carlo, sinh tại Italia năm 1871 và qua đời tại Brazil năm 1948, thọ 87 tuổi.

Ngoài ra có 3 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 3 vị Tôi Tớ Chúa: 2 vị người Italia và 1 vị người Canada: Elisabeth Turgeon, sáng lập dòng các nữ tu Thánh Mân Côi de Rimouski (SD 11-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thông Điệp Của Đức Thánh Cha Phanxicô Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2013

Thông Điệp Của Đức Thánh Cha Phanxicô Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2013

Anh chị em thân mến,

Năm nay, chúng ta cử hành Ngày Truyền Giáo Thế Giới trong khi chuẩn bị kết thúc Năm Đức Tin. Đây quả là một cơ hội quan trọng để chúng ta thắt chặt hơn tình bằng hữu giữa chúng ta với Thiên Chúa và hành trình của chúng ta xét như một Giáo Hội truyền giảng Tin Mừng với lòng can đảm. Trong viễn cảnh này, tôi xin chia sẻ một vài suy tư của mình.

1. Đức tin là một tặng phẩm vô cùng quý giá của Thiên Chúa, giúp mở tâm trí chúng ta ra để hiểu biết và yêu mến Ngài. Ngài muốn đi vào trong tương quan với chúng ta để làm cho chúng ta thông dự vào sự sống của riêng Ngài và làm cho cuộc sống của chúng ta thêm ý nghĩa hơn, tốt hơn và tươi đẹp hơn. Thiên Chúa yêu thương chúng ta! Tuy nhiên, đức tin cần phải được đón nhận, nó cần lời đáp trả cá vị của chúng ta, sự can đảm tín thác hoàn toàn cho Chúa, sống tình yêu của Ngài và cảm tạ vì lòng nhân ái vô lượng của Ngài. Đó là một tặng phẩm, không phải dành cho một số ít người nhưng là dành cho tất cả với lòng quảng đại. Mọi người đều phải có thể cảm nghiệm được niềm vui vì được Thiên Chúa yêu thương, niềm vui ơn cứu độ! Đó là một tặng phẩm mà người ta không thể giữ cho riêng mình, nhưng phải được sẻ chia. Nếu chúng ta muốn giữ nó cho riêng mình, chúng ta sẽ trở thành những người Kitô hữu cô lập, cằn cỗi và ốm yếu. Rao giảng Tin Mừng là một phần của việc là môn đệ Đức Kitô và đó là một dấn thân liên lỉ làm sống động trọn vẹn đời sống trong Giáo Hội. “Tầm vươn xa của việc truyền giáo là dấu chỉ rõ ràng cho thấy mức độ trưởng thành của một cộng đoàn giáo hội” (BENEDICT XVI, Verbum Domini, 95). Mỗi cộng đoàn sẽ “trưởng thành” khi nó tuyên xưng đức tin, cử hành đức tin với niềm vui sướng trong phụng vụ, sống đức ái, rao giảng Lời Chúa một cách không ngừng nghỉ, rời bỏ chốn an toàn của mình để mang đức tin ấy đến những “vùng ngoại biên”, đặc biệt là đến với những ai chưa có cơ hội biết Đức Kitô. Sức mạnh của đức tin chúng ta, ở cấp độ cá nhân và cộng đoàn, có thể được đo lường bởi khả năng thông truyền đức tin ấy cho những người khác, khả năng lan tỏa và sống đức tin ấy trong tình bác ái, trong việc làm chứng cho nó trước những ai chúng ta gặp gỡ và những người cùng chia sẻ với chúng ta hành trình cuộc sống.

2. Năm mươi năm sau khi Công Đồng Vatican II bắt đầu, Năm Đức Tin thúc đẩy toàn thể Giáo Hội hướng tới một sự ý thức mới về sự hiện diện của nó trong thế giới đương đại và về sứ mạng của nó giữa muôn dân nước. Tinh thần truyền giáo không chỉ là vấn đề về những vùng lãnh thổ địa lý, nhưng còn về các dân tộc, nền văn hóa và các cá nhân, bởi vì “các ranh giới” của đức tin không chỉ vượt qua các nơi chốn và truyền thống con người, nhưng còn là con tim của mỗi người nam nữ. Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh cách đặc biệt đến việc nhiệm vụ truyền giáo, nhiệm vụ mở rộng các biên giới đức tin, thuộc về những người đã chịu phép rửa và tất cả cộng đoàn Kitô hữu như thế nào; vì “dân Chúa sống trong các cộng đoàn, đặc biệt là trong các giáo phận và giáo xứ, và cách nào đó đức tin trở nên hiển hiện trong họ, việc làm chứng cho Đức Kitô cho mọi dân nước là tùy thuộc vào họ” (Ad Gentes, 37). Vì thế, mỗi cộng đoàn được khuyến khích, và được mời gọi biến lời mời gọi của Đức Giê-su dành cho các Tông Đồ thành của mình, để trở thành “nhân chứng của Người ở Giêrusalem, qua miền Giuđêa và Samaria và đến tận cùng trái đất”(Cv 1:8) và điều này không phải là điều thứ yếu trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, nhưng là điều chính yếu: tất cả chúng ta được mời gọi để bước đi trên mọi nẻo đường thế giới với các anh chị em của chúng ta, tuyên xưng và làm chứng cho đức tin vào Đức Kitô và biến chúng ta thành những sứ giả Tin Mừng. Tôi mời gọi các Giám Mục, Linh Mục, Hội Đồng Mục Vụ, các cá nhân và nhóm có trách nhiệm trong Giáo Hội hãy giữ một vị thế nổi bậc cho chiều kích truyền giáo này trong các chương trình mục vụ và huấn luyện, với một sự hiểu biết rằng dấn thân tông đồ của họ sẽ không hoàn thành trừ phi nó nhắm đến “việc làm chứng cho Đức Kitô trước muôn dân muôn nước.” Việc truyền giáo này không đơn thuần là một chiều kích mang tính chương trình trong đời sống Kitô hữu, nhưng nó còn là một chiều kích mang tính kiểu mẫu, ảnh hưởng đến toàn bộ các phương diện khác trong đời sống Ki-tô hữu.

3. Công việc loan báo tin mừng thường gặp phải những khó khăn, không chỉ bên ngoài, nhưng có khi nằm trong chính cộng đoàn giáo hội. Đôi khi chúng ta thiếu nhiệt thành, niềm vui, cam đảm và hy vọng trong việc rao giảng Thông Điệp của Đức Kitô cho tất cả mọi người và trong việc giúp đỡ con người trong thời đại chúng ta gặp gỡ Ngài. Đôi khi, vẫn còn có tư tưởng cho rằng rao giảng chân lý Tin Mừng là một xâm hại đến tự do. Đức Phaolô VI đã nói rất hùng hồn về điều này: “Sẽ là … một sai lầm khi áp đặt cái gì đó lên lương tâm của người anh chị em. Nhưng mang đến cho lương tâm của họ chân lý của Tin Mừng và ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, với một sự rõ ràng tuyệt đối và sự tôn trọng hoàn toàn chọn lựa tự do của họ… là một bằng chứng cho thấy sự tự do này.” (Evangelii Nuntiandi, 80). Chúng ta phải luôn luôn can đảm và vui mừng khi giúp người ta, với lòng tôn trọng, gặp gỡ Đức Kitô, và khi trở nên sứ giả của Tin Mừng. Đức Giêsu đến giữa chúng ta để cho chúng ta thấy con đường cứu độ và ngài giao phó cho chúng ta sứ mạng chiếu tỏa con đường ấy đến tật cùng thế giới. Thông thường, chúng ta vẫn hay thấy người ta nhấn mạnh và nói nhiều đến bạo lực, dối trá và sai phạm. Trong thời đại này của chúng ta, thật là cấp thiết để loan báo và làm chứng cho sự tốt đẹp của Tin Mừng, và chúng ta làm điều này trong lòng Giáo Hội. Bởi vì, về phương diện này, điều quan trọng là không bao giờ được quên một nguyên lý căn bản dành cho từng người đi rao giảng Tin Mừng: ta không thể rao giảng về Đức Kitô mà không có Giáo Hội. Công cuộc rao giảng Tin Mừng không phải là hành vi riêng lẽ hay mang tính cá nhân tách biệt; đó luôn luôn mang tính giáo hội. Đức Phaolo VI đã viết rằng, “khi một nhà giảng thuyết, giáo lý viên hay Linh Mục vô danh nào rao giảng Tin Mừng, quy tụ thành một cộng đoàn nhỏ với nhau, thông truyền đức tin cho nhau, cử hành một Bí Tích, dù là làm một mình, người ấy vẫn đang thực thi một hành vi mang tính giáo hội.” Người ấy cử hành “không bởi một sứ mạng mà người ấy dấn mình vào hay bởi một sự gợi hứng cá nhân nào, nhưng trong sự liên đới với sứ mạng của Giáo hội và nhân danh giáo hội.” (ibid. 60). Và chính điều này đã thêm sức cho sứ mạng và khiến cho mỗi thừa sai và người đi rao giảng Tin Mừng không bao giờ cảm thấy cô đơn, nhưng là một phần của Thân Thể độc nhất do Thánh Thần thúc đẩy.

4. Trong kỷ nguyên của chúng ta, sự lưu động rộng khắp và sự dễ dàng của việc truyền thông nhờ các phương tiện tân tiến đã nối kết con người, tri thức, kinh nghiệm lại với nhau. Vì lý do công việc, các gia đình phải di chuyển từ châu lục này đến châu lục khác; những trao đổi về chuyên môn và văn hóa, du lịch và các hiện tượng khác cũng đã dẫn đến những phong trào lớn của con người. Điều này đã gây ra những khó khăn, thậm chí cho các cộng đoàn giáo xứ, để biết người nào sống vĩnh cư hay tạm thời trong một khu vực. Ngoài ra, trong những lãnh địa rộng lớn đã một thời theo Công Giáo, số người trở nên xa lạ với đức tin hay thờ ơ với chiều kích tôn giáo hay bị những mê tín khác lôi kéo càng lúc càng gia tăng. Vì thế, rất thường khi một số người đã lãnh bí tích rửa tội có những chọn lựa cho lối sống của mình xa lạc với đức tin, khiến họ cần một “cuộc truyền giảng Tin Mừng mới”. Tất cả những vấn nạn này càng làm sáng tỏ một sự thật là có một bộ phận lớn trong cộng đồng nhân loại chưa nắm bắt được tin mừng của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cũng sống trong một thời đại khủng hoảng vốn đụng chạm đến các chiều kích khác nhau của sự hiện hữu, không chỉ về kinh tế, tài chính, an toàn thực phẩm, hay môi trường, nhưng còn cả những chiều kích liên quan đến ý nghĩa sâu xa của sự sống và những giá trị nền tảng tác động đến nó. Thậm chí, việc con người đồng hiện hữu cũng được đánh dấu bởi những căng thẳng và mâu thuẫn, gây ra những bất an và khó khăn trong việc tìm ra một con đường đúng đắn cho một nền hòa bình vững chắc. Trong hoàn cảnh phức tạp này, nơi mà phạm vi của hiện tại và của tương lai dường như đang trải qua những bóng đêm đe dọa, thật cần thiết biết bao để chúng ta rao giảng một cách can đảm và trong mọi tình huống Tin Mừng của Đức Kitô, một thông điệp của hy vọng, hòa giải, hiệp thông, và một cuộc loan truyền sự gần gũi của Thiên Chúa, lòng thương xót, ơn cứu độ của Người, và một cuộc rao giảng rằng quyền năng của tình yêu Thiên Chúa có thể vượt qua bóng đêm sự dữ và dẫn dắt chúng ta trên đường lành. Anh chị em trong thời đại chúng ta cần một ánh sáng chắc chắn soi chiếu đường đi của họ và ánh sáng ấy chỉ có được nhờ gặp gỡ được Đức Kitô. Chúng ta hãy mang đến cho thế giới, qua chứng tá của chúng ta, với lòng yêu mến, niềm hy vọng mà đức tin mang lại! Tinh thần truyền giáo của Giáo Hội không phải là lôi kéo người theo tôn giáo khác vào tôn giáo của mình, nhưng là chứng từ của một đời sống tỏa chiếu con đường ngập tràn hy vọng và tình yêu. Giáo Hội – tôi nhắc lại lần nữa – không phải là một tổ chức cứu trợ, không phải là một xí nghiệp, hay một tổ chức phi chính phủ, nhưng là một cộng đoàn những người được Thánh Thần gợi hứng, những người đã và đang sống kinh nghiệm tuyệt vời của việc gặp gỡ Đức Giêsu Kitô và muốn chia sẻ cho người khác kinh nghiệm vui mừng thẳm sâu này, là thông điệp cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội đi trên hành trình này.

5. Tôi khuyến khích mỗi người hãy trở thành một người mang tin mừng Đức Kitô và tôi đặc biệt tri ân các nhà truyền giáo, các linh mục sống tinh thần Fidei Donum, các tu sĩ nam nữ và giáo dân – rất đông – những người đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, rời bỏ quê hương của mình để phục vụ Tin Mừng trong những miền đất và văn hóa khác. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng cũng cùng các Giáo Hội trẻ đó đang dấn thân cách quảng đại như thế nào trong việc sai gửi các nhà truyền giáo đến các Giáo Hội đang gặp khó khăn – thường là những Giáo Hội có truyền thống Kitô giáo lâu đời – và vì thế mang luôn cả sự tươi tắn và lòng nhiệt thành của đức tin mà họ đang sống, một đức tin có khả năng làm mới lại đời sống và trao ban hy vọng. Để có thể sống chiều kích phổ quát này, đáp lại lệnh truyền của Đức Giêsu: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28:19) là một sự phong phú cho mỗi Giáo Hội địa phương, mỗi cộng đoàn, và việc gửi các thừa sai ra đi không bao giờ là một điều thua thiệt, nhưng là một mối lợi. Tôi mời gọi hết thảy những ai cảm nghiệm được lời mời gọi này hãy đáp lại tiếng nói của Chúa Thánh Thần cách quảng đại, tùy theo bậc sống của mình, và không ngại tỏ ra hào phóng với Thiên Chúa. Tôi cũng mời gọi các Giám Mục, gia đình công giáo, các cộng đoàn và toàn thể các nhóm Kitô, với sự nhận định cẩn thận và rộng lớn, hãy nâng đỡ các nhà truyền giáo gọi là ad gentes và trợ giúp các Giáo Hội đang cần các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân, hầu có thể thắt chặt hơn cộng đoàn Kitô hữu. Và mối bận tâm này cũng cần phải có trong các Giáo Hội vốn là một phần của cùng một Hội Đồng Giám Mục và một Vùng, bởi vì thật là quan trọng khi những giáo hội giàu ơn gọi giúp đỡ cách rộng lượng hơn những giáo hội thiếu ơn goi.

Đồng thời, tôi cũng xin các nhà truyền giáo, đặc biệt là các linh mục sống theo Fidei Donum và giáo dân, hãy vui sống việc phục vụ quý giá của mình trong các giáo hội mà họ được sai đến và mang niềm vui cũng như kinh nghiệm của họ về những Giáo Hội quê hương của mình, hãy nhớ Phaolo và Banaba ở cuối hành trình truyền giáo thứ nhất của họ đã “tường thuật thế nào những điều Thiên Chúa đã cùng làm với họ và Ngài đã mở cánh cửa đức tin cho các dân ngoại như thế nào” (Cv 14:27). Họ có thể trở thành con đường cho một loại “quay trở lại” của đức tin, mang sự tươi tắn của các Giáo Hội trẻ đến với các Giáo Hội có truyền thống Ki-tô giáo lâu đời, và nhờ đó giúp họ tái khám phá ra sự nhiệt thành và niềm vui của việc san sẻ đức tin trong một cuộc trao đổi làm phong phú cho nhau trên hành trình theo Chúa.

Mối bận tâm dành cho tất cả các giáo hội mà Giám Mục Rôma chia sẻ với anh em Giám Mục của mình tìm thấy một sự diễn tả quan trọng trong hoạt động của Hội Đồng Truyền Giáo Giáo Hoàng (Pontifical Mission Societies), một cơ quan nhằm thúc đẩy và đào sâu ý thức truyền giáo của mỗi người Ki-tô hữu đã được rửa tội, và mỗi cộng đoàn, bằng việc nhắc nhở họ nhớ đến nhu cầu đào luyện việc truyền giáo một cách sâu sắc hơn cho toàn thể Dân Chúa và bằng việc khuyến khích các cộng đoàn Ki-tô hữu đóng góp cho việc lan toàn Tin Mừng trên thế giới.

Cuối cùng, tôi muốn diễn ra một suy nghĩ về các Kitô hữu, những người sinh sống trên khắp mọi miền của thế giới, đang trải nghiệm những khó khăn trong việc tuyên xưng cách công khai niềm tin và trong việc hưởng các năng quyền pháp lý để có thể tuyên xưng đức tin của mình. Họ là những anh chị em của chúng ta, những chứng nhân can trường – thậm chí còn đông hơn các vị tử đạo trong các thế kỷ đầu – họ là những người đang chịu đựng nhiều hình thức bách đạo đương đại với một sự ngoan cường mang tính tông đồ. Một số người đã liều mình quyết giữ lòng trung tín với Tin Mừng của Đức Kitô. Tôi thành thực xác quyết lại lần nữa sự gần gũi của tôi trong lời cầu nguyện đối với các cá nhân, gia đình và cộng đoàn đang phải chịu đựng những bạo lực và thù hằn, và tôi lặp lại với họ những lời an ủi của Đức Giêsu: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16:33)

Đức Biển Đức XVI đã diễn tả niềm hy vọng rằng: “Lời Chúa sẽ lan tỏa nhanh chóng và được tôn vinh khắp nơi” (2 Tx 3:1). Ước gì năm đức tin này không ngừng gia tăng mối tương quan giữa chúng ta với Đức Chúa Giê-su Ki-tô, vì chỉ trong Người, ta mới có được một sự chắc chắn để nhìn về tương lai và một đảm bảo của tình yêu chân thực và kéo dài mãi” (Porta fidei, 15). Đây là mong ước của tôi cho Ngày Truyền Giáo Thế Giới năm nay. Tôi ưu ái ban phép lành cho các nhà truyền giáo và tất cả những ai đồng hành và nâng đỡ công cuộc dấn thân nền tảng này của Giáo Hội trong việc rao giảng Tin Mừng cho khắp mọi người ở tận cùng trái đất. Nhờ đó, chúng ta, xét như những thừa tác viên và nhà truyền giáo của Tin Mừng, cảm nghiệm được “niềm vui dịu ngọt và an ủi của việc loan báo tin mừng” (PAUL VI, Evangelii Nuntiandi, 80)
Từ Vatican, 19.5.2013, Lễ Trọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Phanxicô, Giáo Hoàng

Chuyển ngữ: Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ

LM Lý được giải thưởng ‘Truman-Reagan Medal of Freedom”

LM Lý được giải thưởng 'Truman-Reagan Medal of Freedom”

WASHINGTON DC (NV) .- Sáng hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản trên thế giới vinh danh và trao giải thưởng năm nay cho linh mục Nguyễn Văn Lý hiện đang bị tù tại Việt Nam.

Linh mục Nguyễn Văn Lý bị một Công an CSVN bịt miệng khi ngài lên tiếng đả kích Cộng Sản tại phiên tòa ở Huế ngày 30/3/2007. Tấm hình này được coi như biểu tượng của sự vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. (Hình: AFP/Getty Images)

Theo nguồn tin từ Hoa Thịnh Đốn, Sáng Hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial Foundation) vừa quyết định vinh danh và trao huy chương  “Truman-Reagan Medal of Freedom” năm nay cho linh mục Nguyễn Văn Lý vì đã đấu tranh không ngừng nghỉ cho nhân quyền, tự do tôn giáo, bất chấp tù tội, nguy hiểm bản thân nên đã bị nhà cầm quyền CSVN kết án tù.

Giải thưởng và huy chương “Truman-Reagan Medal of Freedom” dành cho linh mục Nguyễn Văn Lý sẽ được tổ chức trao tặng tại Hoa Thịnh Đốn vào ngày 1/11/2013 tới đây.

Linh mục Nguyễn Văn Lý, 67 tuổi, đã bị nhà cầm quyền Việt Nam bỏ tù 3 lần mà thời gian ở tù tổng cộng đã gần 20 năm, chưa kể các năm tháng bị quản chế. Hiện ông đang bị giam giữ ở nhà tù Ba Sao tỉnh Nam Hà với bản án 8 năm với cáo buộc “Tuyên truyền chống nhà nước”.

Dù đã bị tai biến mạch máu ít nhất 3 lần trong nhà tù, nhiều lúc không thể tự di chuyển đi đứng và gần với cái chết, ông vẫn không được nhà cầm quyền CSVN trả tự do dù có sự vận động mạnh mẽ của các chính phủ và quốc hội các nước Tây phương, đặc biệt là Hoa Kỳ.

Linh mục Lý đã tố cáo nhà cầm quyền CSVN thi hành các chính sách cai trị ngược lại với những cam kết quốc tế về nhân quyền, đòi chế độ trả lại cho nhân dân các quyền tự do căn bản như quyền tự do báo chí, tự do phát biểu, tự do hội họp lập hội, tự do tôn giáo, tuy có ghi trong bản hiến pháp của chế độ nhưng bị hạn chế nghiêm ngặt trong thực tế. 

Linh mục Nguyễn Văn Lý là một trong những người sáng lập Khối 8406, một tổ chức công dân vận động dân chủ hóa đất nước, đòi CSVN bỏ điều 4 hiến pháp dành độc quyền cai trị cho đảng Cộng Sản và đòi bầu cử quốc hội trực tiếp, tự do ứng cử và bầu cử.

 

Tượng nữ thần Dân Chủ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nhắc nhở mọi người về hơn 100 triệu nạn nhân bị Cộng Sản sát hại khắp trên thế giới. (Hình: Wikipedia)


Bất cứ người dân nào đi ra ngoài khuôn khổ của nhà cầm quyền độc tài tại Việt Nam, đều bị bắt bỏ tù dựa trên những điều luật hình sự mơ hồ. Khi còn là quản xứ họ đạo An Truyền gần thành phố Huế, linh mục Lý đã cùng giáo dân treo biểu ngữ “Tự do tôn giáo hay là chết” quanh nhà thờ.

Sáng hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản có cựu tổng thống George W. Bush là chủ tịch danh dự.

Sáng Hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản là một tổ chức vô vị lợi mang tính giáo dục ở Hoa Kỳ. Tổ chức được thành lập theo một đạo luật năm 1993 với mục đích tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân đã bị Cộng Sản sát hại trên thế giới.

Linh mục Nguyễn Văn Lý từng được nhiều vị dân cử tại Hoa kỳ và quốc hội Liên Âu đề cử giải thưởng Nobel Hòa Bình. (TN).

Nguồn: Người Việt

Đức Giáo Hoàng tiếp kiến chung: Giáo Hội là Công Giáo theo nghĩa nào?

Đức Giáo Hoàng tiếp kiến chung: Giáo Hội là Công Giáo theo nghĩa nào?

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 80 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 9-10-2013, ĐTC Phanxicô đã giải thích về đặc tính ”Công Giáo” của Giáo Hội.

Quảng trường Thánh Phêrô như ”một rừng” các ô dù nhiều màu, tràn ra tới nửa đường Hòa Giải. Tuy trời mưa, ĐTC vẫn dành 40 phút đi xe jeep mui trần màu trắng, tiến qua các lối đi ở Quảng trường để chào thăm các tín hữu.

Trong số đông đảo các GM hiện diện cũng có nhiều GM đến từ hai nước Ethiopia và Eritrea bên Phi châu. Trước đó, các vị đã cùng với ĐHY Leoardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, cử hành thánh lễ trước mộ thánh Phêrô Tông Đồ để cầu nguyện cho các thuyền nhân bị thiệt mạng trong vụ vượt biên hôm 3-10 vừa qua gần đảo Lampedusa, cực nam Italia, trong đó có đông đảo người Ethiopie và Eritrea.

Sau phần tôn vinh lời Chúa, ĐTC đã bắt đầu bài giáo lý về đề tài: ”Giáo Hội Công Giáo”, qua đó ngài xác định Giáo Hội là Công Giáo theo nghĩa nào, và ngài cổ võ các tín hữu tăng cường tình hiệp thông và tích cực tham gia vào đời sống của Giáo Hội.

Bài giáo lý của ĐTC

Anh chị em thân mến, chào anh chị em.. Nhưng tôi thấy rằng hôm nay, một ngày trời xấu, anh chị em thật can đảm, tôi khen anh chị em!

”Tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, Công Giáo…”. Hôm nay chúng ta dừng lại để suy tư về đặc tính này của Giáo Hội: đặc tính Công Giáo. Trước tiên, Công Giáo có nghĩa là gì? Thưa nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp ”kathòlón” có nghĩa là ”theo tất cả”, toàn thể. Vậy đặc tính toàn thể này được áp dụng cho Giáo Hội theo nghĩa nào? Theo nghĩa nào chúng ta nói Giáo Hội là Công Giáo? Tôi muốn trình bày trong 3 ý nghĩa cơ bản.

1. Trước hết. Giáo Hội là Công Giáo vì là không gian, là căn nhà trong đó toàn thể đức tin được loan báo cho chúng ta, trong đó ơn cứu độ mà Chúa Kitô mang đến cho chúng ta, được trao tặng cho mọi người, Giáo Hội làm cho chúng ta gặp gỡ lòng từ bi của Thiên Chúa Đấng biến đổi chúng ta vì trong Giáo Hội có Chúa Giêsu Kitô hiện diện, Ngài ban cho Giáo Hội được tuyên xưng đức tin chân thực, được cuộc sống sung mãn nhờ các bí tích, thừa tác vụ thánh chức chân chính. Trong Giáo Hội mỗi người chúng ta tìm được những gì cần thiết để tin, để sống như Kitô hữu, để nên thánh, để tiến bước trong mọi nơi và mọi thời.

Như một ví dụ, chúng ta có thể nói rằng giống như trong đời sống gia đình: trong gia đình mỗi người chúng ta nhận được tất cả những gì giúp chúng ta lớn lên, trưởng thành và sống. Ta không thể tự tăng trưởng một mình, không thể tự mình bước đi, tự cô lập, nhưng tiến bước và tăng trưởng trong một cộng đoàn, trong một gia đình. Trong Giáo Hội chúng ta có thể nghe Lời Chúa, tin chắn rằng sứ điệp mà Chúa ban cho chúng ta, trong Giáo Hội chúng ta có thể gặp Chúa trong các bí tích là những cánh cửa mở rộng qua đó ánh sáng Chúa Kitô chiếu dọi cho chúng ta, những dòng suối từ đó chúng ta kín múc chính sự sống của Thiên Chúa; trong Giáo Hội chúng ta học cách sống tình hiệp thông, tình thương đến từ Thiên Chúa. Hôm nay mỗi người chúng ta có thể tự hỏi: tôi sống thể nào trong Giáo Hội? Khi tôi đi nhà thờ, có giống như tôi đi xem xinê, đi dự một cuộc đấu bóng hay không? Không, không phải vậy! Vậy tôi đi nhà thờ thế nào? Tôi đón nhận thế nào những hồng ân được trao tặng cho tôi, để lớn lên và trưởng thành như Kitô hữu? Tôi có tham dự vào đời sống cộng đoàn hoặc là tôi khép kín trong những vấn đề của tôi, cô lập với người khác? Theo nghĩa đầu tiên này, Giáo Hội là Công Giáo vì là nhà của tất cả mọi người: tất cả đều là con của Giáo Hội và tất cả ở trong nhà này.

2. Ý nghĩa thứ hai: Giáo Hội là Công Giáo vì là phổ quát, và Giáo Hội xuất hiện ở mọi nơi trên thế giới, loan báo Tin Mừng cho mỗi người nam nữ. Giáo Hội không phải là một nhóm những người ưu tú, không phải chỉ liên quan đến vài người. Giáo Hội không bị khép kín, Giáo Hội được gửi tới tất cả mọi người, tới toàn thể nhân loại. Và Giáo Hội duy nhất hiện diện cả trong những phần bé nhỏ nhất của Hội Thánh. Mỗi người có thể nói rằng trong giáo xứ của tôi có Giáo Hội Công Giáo hiện diện, vì giáo xứ của tôi cũng là thành phần của Giáo Hội hoàn vũ, cả giáo xứ này cũng có đầy đủ các hồng ân của Chúa Kitô, đức tin, các bí tích, thừa tác vụ, hiệp thông với ĐGM, Đức Giáo Hoàng và, cởi mở đối với tất cả mọi người, không phân biệt ai. Giáo Hội không phải chỉ ở dưới bóng tháp chuông của chúng ta, nhưng ôm lấy tất cả mọi người, mọi dân tộc tuyên xưng cùng một niềm tin, được nuôi dưỡng bằng cùng bí tích Thánh Thế, được các mục tử phục vụ. Cảm thấy mình được hiệp thông với tất cả các Giáo Hội, với tất cả các cộng đoàn Công Giáo lớn nhỏ trên thế giới! và rồi cảm thấy rằng tất cả mọi người đều ở trong sứ mạng, các cộng đoàn lớn nhỏ, tất cả chúng ta phải mở cửa để ra ngoài loan báo Tin Mừng. Vì thế chúng ta hãy tự hỏi: tôi đang làm gì để thông truyền cho tha nhân niềm vui được gặp gỡ Chúa, niềm vui được thuộc về Giáo Hội? Loan báo và làm chứng đức tin không phải là công việc của vài người, nhưng cũgn liên hệ đến tôi, đến anh chị em, đến mỗi người chúng ta!

3. Tư tưởng thứ ba và sau cùng: Giáo Hội là Công Giáo vì là ”Nhà của sự hòa hợp” trong đó sự hiệp nhất và khác biệt liên kết với nhau để trở thành một sự phong phú. Chúng ta hãy nghĩ đến hình ảnh một bản hợp ca, nghĩa là một sự đồng thuận và hòa hợp, các nhạc khí khác nhau cùng được đánh lên, mỗi nhạc khí giữ nguyên sắc thái riêng của mình và những đặc tính âm thanh riêng, nhưng hòa hợp với nhau về một cái gì chung. Rồi có người nhạc trưởng hướng dẫn. Trong bản hợp ca các sắc thái riêng của mỗi nhạc khí không bị xóa bỏ, đặc tính riêng của mỗi nhạc khí được đề cao giá trị tối đa!

Đó là một hình ảnh thật đẹp nói với chúng ta rằng Giáo Hội giống như một ban đại hợp xướng, trong đó có sự khác biệt: không phải tất cả chúng ta đều giống nhau, và chúng ta không thể giống nhau như vậy. Tất cả chúng ta khác nhau, mỗi người với những phẩm tính riêng, và đây là điều đẹp đẽ của Giáo Hội: mỗi người mang những gì Chúa ban, để làm cho tha nhân được phong phú. Giữa các phần tử của Giáo Hội, có những sắc thái khác nhau giữa các thành phần, nhưng không xung đột với nhau, không đối nghịch nhau; đó là một sự khác biệt để cho mình trở thành một sự hòa hợp nhờ Thánh Linh; chính Chúa là Ca trưởng đích thực, chính Ngài là sự hòa hợp. Và ở đây chúng ta tự hỏi: chúng ta có sống sự hòa hợp trong các cộng đoàn chúng ta hay không hay là chúng ta cãi nhau? Trong giáo xứ của tôi, trong phong trào của tôi, có những vụ nói xấu nhau không? Nếu có như thế thì không có sự hòa hợp, có sự đấu tranh, và như thế không phải là Giáo Hội: Giáo Hội là sự hòa hợp tất cả mọi người. Không bao giờ nói hành nói xấu nhau, không bao giờ cãi nhau. Chúng ta có chấp nhận người khác, chúng nhận có một sự khác biệt chính đáng hoặc chúng ta có xu hướng đồng nhất hóa? Sự đồng nhất hủy hoại sự sống, sự sống của Giáo Hội là sự khác biệt, và khi chúng ta muốn áp đặt sự đồng nhất cho tất cả mọi người, chúng ta giết chết các hồng ân của Chúa Thánh Linh. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Linh là tác giả sự hiệp nhất trong sự khác biệt làm cho chúng ta ngày càng ”Công Giáo” hơn, nghĩa là ở trong Giáo Hội Công Giáo và hoàn vũ!

Chào thăm các đoàn tín hữu

Sau bài giáo lý trên đây, các giám chức tại Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt ý chính bài huấn giáo của ĐTC, cũng như dịch những lời chào của ngài từ tiếng Ý sang các ngôn ngữ chính.

Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt chào thăm các GM thuộc HĐGM miền Bắc Phi và khích lệ các vị hãy củng cố các quan hệ huynh đệ với những người Hồi giáo. Và với tất cả mọi người, ngài nói: 'Anh chị em đừng sợ cầu xin Chúa Thánh Linh, xin Chúa làm cho mỗi ngừơi trở thành một người hiệp thông, luôn sẵn sàng hân hoan loan báo cho mọi người và mọi nơi, Tin Mừng cứu độ!”.

Với các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC chào thăm các bạn hữu của Học Viện Đức và Hungari đến Roma thể tham dự lễ truyền chức LM và phó tế, cũng như các tham dự viên tuần lễ giới thiệu đoàn Vệ Binh Thụy Sĩ.

Ngỏ lời với các tín hữu nói tiếng Arập, ngài nhắc lại biến cố cách đây 1 năm, ngài 10-10 năm 2012, sau cuộc viếng thăm tại Liban và trao Tông Huán ”Giáo Hội tại Trung Đông: hiệp thông và chứng tá”, ĐGH Biển Đức 16 đã du nhập tiếng Arập trong các buổi tiếp kiến chung hằng tuần, như các Nghị Phụ thỉnh cầu, để biểu lộ với tất cả các tín hữu Kitô ở Trung Đông sự gần gũi của Giáo Hội Công Giáo với các con cái Đông Phương. Hôm nay khi nói về câu ”Tôi tin Giáo Hội Công Giáo”, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho hòa bình ở Trung Đông: tại Siria, Irak, Ai Cập, tại Liban và Thánh Địa, nơi vị Vua Hòa Bình, Chúa Giêsu Kitô đã sinh ra. Chúng ta hãy cầu nguyện để ánh sáng Chúa Kitô đi tới tâm hồn mỗi người và mọi nơi, cho đến tận bờ cõi trái đất.

Sau cùng, khi chào các tín hữu nói tiếng Ý, ĐTC chào thăm cách riêng các GM thuộc Giáo Hội Công Giáo theo truyền thống Alessandria ở Ethiopia và Eritrea. Tôi đặc biệt gần gũi các vị trong kinh nguyện và trong đau buồn vì bao nhiêu người con của phần đất này đã bỏ mình trong thảm trạng ở Lampedusa.

ĐTC đã kết thúc buổi tiếp kiến với kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh ban cho mọi người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013

Giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013

Vào trưa Chủ Nhật, ngày 6-10-2013, một buổi lễ vinh danh và trao tặng "Giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013" cho nhà báo J.B. Nguyễn Hữu Vinh và Mục Sư Phạm Ngọc Thạch, tại thành phố Houston, do Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại tổ chức.

Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại thành lập vào năm 1992 tại Rome, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người Công giáo Việt Nam tị nạn Cộng sản tại hải ngoại. Đến năm 2010, phong trào thiết lập Giải Tự Do Tôn Giáo (TDTG) Nguyễn Kim Điền, để hỗ trợ và vinh danh những cá nhân hay tổ chức đã đóng góp tích cực vào việc tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam. Lần đầu tiên, Giải TDTG-Nguyễn Kim Điền vinh danh Tu viện và Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Năm kế tiếp, 2011, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo Nguyễn văn Lía và Linh mục Nguyễn hữu Giải, thuộc Tổng giáo phận Huế, được chọn để trao giải này. Sang đến năm 2012, ông Võ văn Thanh Liêm, cũng là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và Giáo điểm Con Cuông thuộc giáo phận Vinh được vinh danh.

Ông Đỗ Như Điện, đại diện Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại, giải thích rằng những cá nhân và đoàn thể được chọn để trao giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền là những người đã vì tranh đấu cho tự do tôn giáo mà bị nhà nước Việt Nam đối xử không công bằng:

"Những người được chọn là những người đã từng vào tù ra khám. Đã bị hành hạ, hành hạ về thân xác, về gia đình, về thể lực. Tất cả những gì họ (nhà nước) có thể đổ lên đầu những người đó là họ làm. Do đó chúng tôi thấy cần phải vinh danh những người đã can trường để tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo trong nước."

RFA_TDTonGiao2-305.jpg

Năm nay, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại chọn Mục Sư Phạm Ngọc Thạch và blogger J.B. Nguyễn Hữu Vinh để trao giải TDTG-Nguyễn Kim Điền. Trong thông báo gửi báo chí, ban tổ chức cho biết:

Nhà báo JB Nguyễn Hữu Vinh đã kiên cường tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam trên nhiều hình thức, đặc biệt trên mặt truyền thông. Ông đã bị đánh trọng thương trong vụ Cộng sản Việt Nam triệt hạ thánh giá tại Đồng Chiêm và liên tục bị khủng bố, hạch sách, bao vây kinh tế nhưng vẫn hiên ngang xông xáo, không lùi bước.

Mục Sư Phạm Ngọc Thạch đã bị bắt bớ, đánh đập, vào tù, đuổi nhà và đang trở thành kẻ vô gia cư trên chính quê hương Việt Nam, nên ông coi giang sơn đất nước là nhà, và vẫn kiên cường tiếp tục sứ mạng rao giảng sự thật, và tranh đấu cho tự do tôn giáo, nhân quyền cho đồng bào Việt Nam.

Mục sư Phạm Ngọc Thạch và blogger Nguyễn Hữu Vinh không đến được Hoa Kỳ để nhận giải thưởng nhưng đã cử người đại diện nhận thay cho mình.  Trong dịp này, qua điện thoại, Mục Sư Phạm Ngọc Thạch đã phát biểu cảm tưởng cũng như lời cảm ơn ban tổ chức và đồng hương tham dự:

"Khi nhận được tin tôi được chọn là người trúng giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền năm nay, tôi hết sức bỡ ngỡ, sung sướng lẫn hãnh diện nhưng đồng thời lại cảm thấy vô cùng ái ngại khi được Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại đánh giá cao việc đấu tranh cho tự do tôn giáo của tôi. Tôi ái ngại vì nghĩ rằng có nhiều người đấu tranh hơn tôi, xứng đáng lãnh giải này hơn tôi.

Tôi hy vọng tất cả những người đấu tranh can trường đó cũng sẽ được vinh danh trong tương lai. Vì thế, khi lãnh nhận sự vinh danh lẫn giải thưởng ngày hôm nay, tôi muốn nhận lãnh với tư cách đại diện cho tất cả những người đấu tranh cho tự do tôn giáo nói riêng và cho những người đang đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ở trong nước, nói chung, chứ không phải chỉ nhận lãnh cho riêng tôi… Trước khi dứt lời, tôi ước nguyện tất cả chúng ta, dù ở bất cứ đâu, cũng đều đoàn kết đấu tranh không mệt mỏi cho quê hương Việt Nam thoát khỏi chế độ độc tài cộng sản để được thanh bình, tự do và hạnh phúc."

Và ông Phạm Hồng Lam, thay mặt blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, đọc điện thư của nhà báo này, gửi đến từ Việt Nam.

"… Thật khó nói hết được sự xúc động khi tôi được Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại chọn vinh danh trao tặng giải thưởng Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013, cùng với mục sư Phạm Ngọc Thạch. Vinh dự này đối với tôi là một phần thưởng lớn lao. Đây là điều tôi chưa bao giờ nghĩ tới, kể từ khi bắt đầu cất tiếng nói nhỏ bé của mình cho quyền cơ bản nhất của con người, đó là quyền tự do tôn giáo, quyền được làm người có niềm tin, trong một đất nước độc tài, theo chủ nghĩa Cộng sản vô thần. Đây không phải chỉ là vinh dự riêng của cá nhân tôi mà là nguồn cổ vũ, động viên tất cả anh chị em cùng có chung nguyện ước, chung ý chí và hành động, chung một tấm lòng muốn cho đất nước, người dân, được tự do, ấm no hạnh phúc…"

Hiện diện trong buổi vinh danh và trao giải Tự Do Tôn giáo Nguyễn Kim Điền 2013, nha sĩ Chu Văn Cương, chủ tịch Tổ chức Phục Hưng Việt Nam, chia sẻ là ông rất tâm đắc với việc làm của Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại.

"Biết về Phong Trào Giáo Dân, tìm hiểu được cương lĩnh của Phong Trào Giáo dân, chúng tôi rất tâm đắc vì chúng tôi nhận thấy rằng tín đồ của các tôn giáo, nếu chỉ đấu tranh cho tôn giáo mà không nghĩ đến đất nước Việt Nam là một sự thiếu sót rất lớn. Chúng tôi nhận thấy được rằng, ngoài đời sống tâm linh, những sự nghiên cứu về siêu nhân, về đạo … và những công tác thường làm của một tín đồ là công tác từ thiện, bác ái, xã hội …thì Phong trào Giáo dân còn đặt rất nặng về vấn đề chính trị."

Xin mượn lời phát biểu của cư sĩ Nguyễn Anh Dũng trong buổi vinh danh và trao giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013, để kết thúc phóng sự này:

"Đất nước Việt Nam được diễm phúc có được đức cố TGM Nguyễn Kim Điền là một công dân yêu nước. Giáo Hội có một đức TGM, vì phúc âm mang đến quyền lợi cho đồng bào, cho dân tộc Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, phong trào giáo dân đã đi song hành với đất nước, và thực tế là giải nhân quyền. Nhà báo Nguyễn hữu Vinh đã dùng ngòi bút của mình, những ngòi bút mềm trở thành những ngòi bút sắt, viết lên sự thật; sự đau khổ của đất nước, viết lên sự thật; sự tàn ác của cộng sản Việt Nam. Và chúng ta, 90 triệu dân trong và ngoài nước, hãy đồng hành với nhà báo Nguyễn Hữu Vinh, là những cây bút sắt, 90 triệu cây bút, viết lên sự tàn ác của CSVN."

Hiền Vy, thông tín viên RFA

Đức Thánh Cha triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục về mục vụ gia đình

Đức Thánh Cha triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục về mục vụ gia đình

VATICAN. Hôm 8-10-2013, ĐTC Phanxicô tuyên bố triệu tập một Thượng HĐGM khóa ngoại thường lần thứ III, sẽ tiến hành tại Vatican từ ngày 5 đến 19-10-2014.

Chủ đề của khóa họp là: “Những thách đố mục vụ gia đình trong bối cảnh truyền giảng Tin Mừng”.
Cho đến nay đã có 2 Thượng HĐGM thế giới khóa ngoại thường: khóa thứ I hồi năm 1969 về các HĐGM và đoàn thể tính (collegialità) của hàng Giám Mục; khóa thứ II hồi năm 1985 về việc áp dụng Công đồng chung Vatican II, 20 năm sau khi bế mạc Công Đồng.

Ngoài ra đã có 13 Thượng HĐGM thế giới thường kỳ, thông thường 3 năm nhóm một lần. Lần thứ 13 hồi tháng 10 năm 2012 về việc tái truyền giảng Tin Mừng.

Chiều thứ hai 7-10 và sáng 8-10, ĐTC đã đích thân tham dự khóa họp của Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM Thế giới. Từ lâu ngài đã bày tỏ ý muốn cải tổ phương thức tiến hành các Thượng HĐGM.

Trong ý hưởng cải tổ Thượng HĐGM, ĐTC đã thuyên chuyển Đức TGM Nikola Eterovic người Croát làm Sứ thần Tòa Thánh tại Đức, sau 9 năm làm Tổng thư ký Thượng HĐGM, và ngài bổ nhiệm Đức TGM Lorenzo Baldissero, cho đến nay là Tổng thư ký Bộ Giám Mục, làm Tân Tổng thư ký Thượng HĐGM.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, tuyên bố rằng: ”Thật là một điều rất quan trọng việc ấn định một Thượng HĐGM ngoại thường về đề tài mục vụ gia đình. Đây là cách thức ĐTC muốn tiến hành suy tư và hành trình của Cộng đồng Giáo Hội, với sự tham dự trong tinh thần trách nhiệm của hàng GM ở các nơi trên thế giới.
Thật là điều đúng khi Giáo Hội cùng tiến hành trong suy tư và kinh nguyện, cũng như đề ra những đường hướng mục vụ chung trong những điểm quan trọng nhất, như mục vụ gia đình, dưới sự hướng dẫn của ĐGH và các GM. Việc ấn định Thượng HĐGM ngoại thường cho thấy rõ con đường đó. Trong bối cảnh này, đề nghị những giải pháp đặc biệt từ phía những người hoặc cơ quan địa phương có nguy cơ tạo ra sự hỗn động. Tốt hơn nên làm nội bật tầm quan trọng của việc tiến bước trong sự hiệp thông hoàn toàn với cộng đoàn Giáo Hội”.

Cha Lombardi ám chỉ tới tin nói rằng Tổng giáo phận Freiburg bên Đức cho những tín hữu ly dị tái hôn được lãnh nhận các bí tích. Đức TGM Robert Zollitsch, nguyên TGM chính tòa nay là Giám quản Tông tòa tổng giáo phận Freiburg phải thanh minh rằng: ”Không có gì thay đổi, không có gì là mới mẻ”. Tin này từ văn phòng mục vụ địa phương và không mang trách nhiệm nào của Đức GM sở tại.

Hồi năm 2012, 120 LM ở Freiburg đã ký vào một tuyên ngôn bày tỏ bất đồng với kỷ luật hiện hành của Giáo Hội về việc không cho ngừơi ly dị tái hôn được rước lễ. (SD 8-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Hơn 1,000 người thắp nến cầu nguyện cho giáo dân Mỹ Yên tối ngày 5 tháng 10-2013

Hơn 1,000 người thắp nến cầu nguyện cho giáo dân Mỹ Yên tối ngày 5 tháng 10-2013

GARDEN GROVE (NV) – Ðêm thắp nến cầu nguyện cho nạn nhân giáo xứ Mỹ Yên và các nhà tranh đấu tại Việt Nam, diễn ra từ 7 đến 10 giờ tối Thứ Bảy, tại bãi đậu xe trường Bolsa Grande High School, Garden Grove, với cả ngàn người, thuộc mọi lứa tuổi, tham dự.
 

Hội Ðồng Liên Tôn và nhân sĩ cộng đồng giơ cao những ngọn nến hiệp thông với giáo dân Mỹ Yên. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

Sau phần nghi thức chào quốc kỳ Việt, Mỹ và phút mặc niệm, các thành viên Hội Ðồng Liên Tôn Việt Nam và các đại diện giáo dân hiệp thông trong nghi thức cầu nguyện. Các vị lãnh đạo tôn giáo thay phiên cầu nguyện đặc biệt cho các nạn nhân giáo xứ Mỹ Yên và các nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền trong nước đang gặp khó khăn.

Buổi lễ thắp nến được xen lẫn với những màn văn nghệ rực lửa đấu tranh do nhiều ca nghệ sĩ của Trung Tâm Asia thực hiện. Ðiều khiển chương trình là hai MC Việt Dzũng và Minh Phượng của đài Radio Bolsa.

Bài hát “Việt Nam Tôi Ðâu?” của nhạc sĩ Việt Khang, do Mai Thanh Sơn, Trúc Hồ và Ðoàn Phi trình bày, làm nổ tung sân khấu và khiến hàng ngàn cánh tay của người tham dự đưa lên, ngả nghiêng theo tiếng hát da diết và sống dậy với hùng khí của bài nhạc.
 

Các bạn trẻ hưởng ứng bài hát “Việt Nam Tôi Ðâu?” của nhạc sĩ Việt Khang, hiện đang bị giam giữ trong nhà tù ở Việt Nam. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

Phát biểu của Linh Mục Nguyễn Văn Khải, từ Rome sang, một vị linh mục trẻ nổi danh của giáo xứ Thái Hà, lại càng thu hút mọi người hơn nữa, qua cách nói độc đáo và dí dỏm của ông.

“Chúng ta phải mạnh mẽ hơn nữa để phát huy tinh thần mấy chục năm đấu tranh ở hải ngoại. Ðể tố cáo tội ác của cộng sản trước quốc tế, làm cho những kẻ tay sai cộng sản đi theo con đường dữ, chúng ta tố cáo để chúng không ngửng mặt lên được với quốc tế, phải đi cửa hậu. Hèn với giặc, ác với dân như Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang hay gần nhất là Nguyễn Tấn Dũng,” Linh Mục Khải nói, trong khi những tràng pháo tay nổi lên.

Vị linh mục nói thêm: “Ðối với cộng sản, không thể dùng đối thoại mà phải đối đầu vì bản chất của chúng là dối trá. Chúng ta phải dùng 'Lý-Lì-Liều'!”

Các tiếng vỗ tay xen với lời ca ngợi lại nổi lên.

“Chống cộng không phải là giết người mà là giết chủ thuyết và cơ chế giết người. Cộng sản là cơ chế của tội ác, là hiện thân của quỷ dữ,” vị linh mục nói.
 

Từ trái, Mai Thanh Sơn, Trúc Hồ và Ðoàn Phi với nhạc phẩm “Việt Nam Tôi Ðâu?” được tất cả mọi người hưởng ứng nhiệt liệt. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

“Những nhà tranh đấu trong nước nói rằng lúc nào họ cũng sẵn sàng để đi tù vì chỉ vào tù mới gặp người tốt và thử thách là quà tặng của tổ quốc dành cho họ,” Linh Mục Khải lên giọng thu hút đám đông.

Linh mục nói năm 2007 mới có phong trào chống Tàu Cộng, thế mà năm 2013, Hà Nội mỗi Chủ Nhật đều có người xuống đường chống Tàu Cộng.

“Ðiếu Cày Nguyễn Văn Hải, một cựu cán binh Việt Cộng xuống đường, nữ sinh Phương Uyên chưa đầy 20 tuổi, xuống đường là những gì trong nước đang làm,” ông giải thích.
“Hải ngoại chúng ta phải nỗ lực dùng quốc tế vận. Cộng sản sợ các tôn giáo và mọi người hiệp thông, đoàn kết như chúng ta tối hôm nay!” vị linh mục khẳng định.

Sân khấu được dựng trong bãi đậu xe hướng về phía Tây, góc Westminster và Bushard. Phía trước sân khấu là hàng trăm chiếc ghế màu trắng được ban tổ chức thuê để đồng hương ngồi.

“Lúc đầu chỉ định có 500 ghế, nhưng sau đã phải tăng lên 800 ghế vì sự hưởng ứng quá nồng nhiệt của đồng hương,” anh Nguyễn Thiện Thành, một trong những người tổ chức, nói.
Người tham dự đứng phía sau các hàng ghế, hai bên và sau sân khấu cũng rất đông.

Một cặp vợ chồng trẻ thích nhất là mấy câu thơ mà Linh Mục Khải trích và cô vợ che tay cười thú vị.

“Ðánh cho chế độ cộng nô, làm ăn lương thiện cũng vô nhà tù. Tương lai dân tộc tối hù, chỉ vì Việt Cộng cầm cu giặc Tàu!” người chồng đọc lên các lời thơ một cách thích thú.

Qua buổi thắp nến, nhạc sĩ Trúc Hồ, tổng giám đốc đài truyền hình SBTN, nhận xét: “Hy vọng đêm thắp nến hôm nay sẽ cho những người bị cầm tù trong nước, cũng như gia đình họ, không cảm thấy cô đơn, vì những người Việt hải ngoại yêu chuộng tự do sẽ đồng hành với họ cho tới cuối con đường.”

Về mặt tổ chức, ông Nguyễn Mạnh Chí, một người tham gia tổ chức buổi thắp nến, nói: “Buổi thắp nến tối nay do 30 hội đoàn đứng ra tổ chức.”

Ông Ngô Thiện Ðức, một người khác tham gia tổ chức sự kiện này, nói thêm: “Ðặc biệt lần này là các đoàn thể trẻ ngồi lại tổ chức, nên không có ban tổ chức, mà chỉ có ban phối hợp thôi.”

Hôm 5 Tháng Chín, Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh đặt ở Xã Ðoài ra thông báo cho biết: “Tòa Giám Mục Xã Ðoài cực lực lên án việc chính quyền tỉnh Nghệ An dùng bạo lực đàn áp quần chúng nhân dân, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, sức khỏe và tính mạng của người dân, xúc phạm niềm tin tôn giáo.”

“Chúng tôi mạnh mẽ phản đối việc chính quyền không tôn trọng sự thật trong vụ việc ngày 22 Tháng Năm 2013, xuyên tạc và phủ nhận thiện chí đối thoại của Tòa Giám Mục giáo phận Vinh trong việc bênh vực quyền lợi người dân, bảo vệ công lý xã hội…”

Ðồng thời, bản thông cáo của Tòa Giám Mục Xã Ðoài “khẩn thiết kêu gọi mọi tín hữu giáo phận Vinh và những người yêu chuộng hòa bình hiệp thông cầu nguyện cho các nạn nhân của vụ đàn áp này và lên tiếng bênh vực cho công lý.”

Trước đó một ngày, thân nhân của hai ông Ngô Văn Khởi và Nguyễn Văn Hải đến trụ sở xã Nghi Phương chờ đón các ông về nhà theo sự cam kết của ông chủ tịch xã Nguyễn Trọng Tạo mà hạn chót là 4 giờ chiều.

Hai ông, là giáo dân giáo xứ Mỹ Yên, đã bị công an bắt cóc ngày 27 Tháng Sáu, rồi sau mới thông báo cho gia đình họ là “gây rối trật tự công cộng.”

Ðứng trước trụ sở xã Nghi Phương ngày 4 Tháng Chín, ngoài thân nhân, còn có hàng trăm giáo dân đứng ủng hộ tinh thần. Tuy nhiên, không thấy hai ông Khởi và Hải được trả tự do như ông Tạo viết giấy cam kết một ngày trước đó, mà một rừng cảnh sát cơ động, công an, bộ đội trang bị súng ống, lựu đạn cay, lựu đạn khói, dùi cui điện kéo tới.

Vụ đàn áp đã xảy ra, theo bản tin của Giáo Phận Vinh cho biết, giáo dân “đã bị lực lượng công an và bộ đội đánh đập nặng nề và bắt đi nhiều người. Một số giáo dân bị đánh đập trọng thương đã được chuyển về phòng khám đa khoa Tòa Giám Mục Xã Ðoài cấp cứu, một số khác đang được cấp cứu tại bệnh viện 115, thành phố Vinh.”


Liên lạc tác giả: LinhNguyen@nguoi-viet.com

 

Đức Thánh Cha cảnh giác trước cám dỗ ”chạy trốn Thiên Chúa”

Đức Thánh Cha cảnh giác trước cám dỗ ”chạy trốn Thiên Chúa”

VATICAN. ĐTC Phanxicô cảnh giác các tín hữu trước cám dỗ muốn ”trốn chạy khỏi Thiên Chúa”.

Trong bài giảng thánh lễ lúc 7 giờ sáng 7 tháng 10-2013, tại Nhà Trọ Thánh Marta ở Nội Thành Vatican, ĐTC diễn giải về chuyện ông Giona chăm chỉ giữ luật và làm điều thiện, nhưng khi Chúa bảo ông đến giảng cho dân thành Nivive thì ông xuống thuyền chạy trốn. Ngài cũng nhắc đến sự tích người bị cướp đánh trọng thương và bỏ mặc bên vệ đường. Thầy tư tế và thầy Levi đi đang ngang qua đó, tránh sang bên kia đường, trong khi người Samaritano, vốn bị người Do thái coi là người tội lỗi, đã dừng lại cứu giúp người bị thương.

ĐTC khẳng định rằng: ”Sự trốn chạy khỏi Thiên Chúa như thế cũng có thể là thái độ của Kitô hữu, của người Công Giáo, của LM, GM hay Giáo Hoàng. Tất cả chúng ta đều có thể chạy trốn khỏi Thiên Chúa. Đó là một cám dỗ hằng ngày. Đó là thái độ không lắng nghe tiếng Chúa, không nghe đề nghị và lời mời gọi của Chúa trong con tim chúng ta. Có những cách trốn chạy khỏi Thiên Chúa một cách tinh vi hơn như thái độ của thầy tư tế và thầy Levi, viện cớ sợ trễ giờ lễ, để không cứu giúp người bị thương”.

ĐTC đề cao thái độ của người Samaritano nhân lành, ”ông ta không quen với những việc thực hành tôn giáo, với đời sống luân lý, và sai lầm về phương diện thần học, vì người xứ Samaria tin rằng phải thờ lạy Thiên Chúa ở nơi khác, chứ không phải tại nơi Chúa muốn… Nhưng ông đã hiểu Thiên Chúa đang gọi ông và ông không chạy trốn. Ông đến gần người bị thương, băng bó săn sóc vết thương rồi vác lên ngựa, chở đới nhà trọ và săn sóc.”
ĐTC nhận xét rằng vị tư tế và thầy Levi trốn chạy Thiên Chúa vì họ có con tim khép kín. Khi bạn có con tim khép kín, thì không thể nghe tiếng Chúa. .. Trái lại người Samaritano, kẻ tội lỗi, đã có tâm hồn mở rộng, tâm hồn nhân bản.. ông để cho Chúa viết lên cuộc sống: Ông đã thay đổi tất cả tối hôm đó, vì Chúa đã dẫn ông đến gần người bị thương đó nằm bên vệ đường..

”Tôi tự hỏi, và tôi cũng hỏi anh chị em: chúng ta có để cho Thiên Chúa viết lên cuộc sống chúng ta hay chúng ta muốn tự mình viết ra cuộc sống ấy? Chúng ta có ngoan ngoãn đối với Lời Chúa hay không?.. Bạn có khả năng tìm thấy Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày hay không hoặc những ý tưởng của bạn là những điều nâng đỡ bạn, và không để cho sự ngạc nhiên của Chúa nói với bạn?

”3 người đã trốn chạy khỏi Thiên Chúa và một người khác ở trong tình trạng bất hợp lệ, nhưng lại có khả năng lắng nghe, cởi mở tâm hồn và không chạy trốn.. Tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều thấy rằng người Samaritano, kẻ tội lỗi, không chạy trốn khỏi Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta được nghe tiếng Chúa, Đấng nói với chúng ta: Con hãy đi và làm như vậy!” (SD 7-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Kinh Truyền Tin với Đức Giáo Hoàng tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Kinh Truyền Tin với Đức Giáo Hoàng tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Chúa Nhật, ngày 6 tháng 10-2013, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các tín hữu hành hương diễn ra vào lúc 12h (giờ Rôma) tại quảng trường thánh Phero diễn ra trong một bầu khí thật nồng ấm. Chưa đến giờ, nhưng các tín hữu từ khắp nơi đã tụ về quảng trường, để chờ diện kiến và nghe những lời giáo huấn của ngài, cũng như cùng ngài cầu nguyện và nhận phép lành từ ngài.

Đúng 12h, từ cánh cửa sổ, vẫn như thường lệ, ngài lớn tiếng chào các khách hành hương.

“Anh chị em thân mến,
Trước hết, tôi muốn dâng lợi tạ ơn Thiên Chúa vì ngày tôi đã trải qua ở Assisi, mới hôm qua thôi. Các bạn biết là đây là lần đầu tiên tôi đến Assisi và đó là một hồng ân to lớn khi làm chuyến hành hương nhân ngày lễ kính Thánh Phanxicô”. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể người dân Assisi vì dự đón tiếp nồng hậu: cảm ơn tất cả.

Sau đó, ngài bắt đầu với nội dung đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay:

“Hôm nay, đoạn Tin Mừng bắt đầu với câu: “Khi ấy, các tông đồ nói với Chúa Giê su: “Xin hãy gia tăng niềm tin cho chúng con! (Lc 17: 5-6). Tôi nghĩ chúng ta có thể lấy câu này thành lời cầu xin của mình, đặc biệt là trong năm đức tin này. Chúng ta cũng giống như các tong đồ, nói với Chúa Giê su: “Xin hãy gia tăng niềm tin cho chúng con.” Vâng, lạy Chúa, đức tin của chúng con nhỏ bé, đức tin của chúng con yếu ớt, mỏng dòn nhưng con dâng lên Chúa đức tin ấy như nó là, vì Ngài sẽ làm cho nó lớn lên. Chúng ta hãy cùng lặp lại với nhau: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin cho chúng con!

Và Chúa đã trả lời thế nào? Ngài nói: “ Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể bảo cây dâu này ‘hãy nhổ rễ và xuống biển mà nằm’, nó cũng sẽ vâng lời các con (c 6).” Hạt cải rất nhỏ bé, nhưng Đức Giê su nói rằng nếu các con có đức tin nhỏ như thế thôi, nhưng chân thực, thành thực, thì cũng có thể làm những điều không thể đối với con người, những điều không thể nghĩ tới. Và đó là sự thật! Tất cả chúng ta biết rằng những con người đơn sơ, khiêm tốn nhưng có một đức tin mạnh mẽ thì có thể dời núi chuyển non! Hãy nghĩ đến, ví dụ như, những người cha người mẹ, những người phải đối mặt với những khó khăn rất nặng nề hay những bệnh nhân nào đó, có khi đang rất nặng, nhưng vẫn mang đến cho những ai đến thăm sự thanh thản bình an. Những người đó, nhờ đức tin của họ, đã không tự hào về những gì mình làm, nhưng, như Đức Giê-su nói trong đoạn Tin Mừng, họ nói: “Chúng con chỉ là những người tôi tớ. Chúng con chỉ làm những điều phải làm” (Lc 17,10)” Bao nhiêu người trong chúng ta có được đức tin mạnh mẽ như thế, làm được những điều như thế.

Đức Thánh Cha cũng đề cập đến ý hướng của tháng 10, tháng cầu nguyện cho việc truyền giáo và tháng kính Đức Mẹ Mân Côi. Ngài khuyên mọi người hãy cầu nguyện vì chỉ có cầu nguyện, ta mới có thể có được sức mạnh để đối diện với những thử thách, để có đức tin vững mạnh.

“Trong tháng 10 này, tháng dành riêng cách đặc biệt cho việc truyền giáo, chúng ta hãy nhớ đến các nhà truyền giáo, cả nam lẫn nữ, những người để có thể mang Tin Mừng đến cho ngườ khác, họ đã phải vượt qua những khó khăn đủ loại, đã thực sự trao ban sự sống, như thánh Phaolo nói với Timotheo: “con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa. (2 Tm 1:8) Điều này tác động đến tất cả chúng ta rằng: mỗi người trong chúng ta, trong đời sống hằng ngày của chúng ta, có thể làm chứng cho Chúa, với sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh của niềm tin. Đức tin của chúng ta nhỏ bé nhưng mạnh mẽ: với sức mạnh đó chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, là những người Kitô hữu bằng đời sống, bằng chứng ta của chúng ta.

Và làm thế nào để chúng ta có được sức mạnh ấy? Chúng ta có được sức mạnh ấy từ Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện là hơi thở của đức tin: trong một sự gắn kết với lòng tin tưởng, tình yêu, và cả đối thoại vốn là điều không thể thiếu, và lời cầu nguyện là một cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Tháng 10 cũng là tháng Mân Côi, và trong Chúa Nhật đầu tiên này, vẫn có truyền thống đọc kinh cầu Đức Mẹ Pompei, Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh Mân Côi. Chúng ta cũng hiệp ý với nhau trong bầu khí thiêng liêng để cùng cử hành hành vi đức tin này với Mẹ chúng ta, và nhận lãnh từ tay Mẹ tràng hoa Mân Côi: đó là trường cầu nguyện, trường đức tin!”

Sau Kinh Truyền Tin

Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói về việc phong chân phước cho một chủng sinh ở Modena và gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, các nhóm đoàn đã đến đây. Và Ngài ban phép lành cho tất cả.

Anh chị em thân mến,

Hôm qua, ở Modena, có lễ phong chân phước cho Rolando Rivi, một chủng sinh của vùng đất này, Emilia, người đã bị giết vào năm 1945 khi mới 14 tuổi, do người ta đã thù ghét đức tin của anh, cho rằng anh phạm lỗi khi mặc áo dòng trong thời gian người ta có xu hướng bài giáo sĩ. Vị chủng sinh này đã cất cao giọng nói kết án những cuộc tàn sát nhân danh Chúa ngay sau thời chiến. Nhưng đức tin vào Đức Giê su của anh đã vượt qua tinh thần thế gian! Chúng ta cùng tạ ơn Thiên Chúa vì vị tử đạo trẻ tuổi này, một chứng nhân anh dũng cho Tin Mừng. Và có bao nhiêu bạn trẻ 14 tuổi dám noi gương này. Một người trẻ dũng cảm, biết nơi nào cần, nhận thấy được tình yêu Giesu trong con tim và traoban sự sống cho Ngài, một mẫu gương tuyệt vời cho giới trẻ. Tôi muốn gợi nhớ lại cho tất cả các bạn, những người đã mất mạng ở Lampedusa thứ 5 tuần trước, những người nam nữ, trẻ em… Hãy để con tim của chúng ta than khác. Chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng.

Một cách nồng nhiệt, tôi gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, đặc biệt là các gia đình và nhóm giáo xứ. Tôi xin gửi lời chào đến các tín hữu của thành phố Mede, Poggo Rusco, các bạn trẻ ở Zambana và Caserta.

Tôi cũng có một suy nghĩ đặc biệt dành cho cộng đoàn Peruvian ở Roma, đã có cuộc diễu hành ảnh thánh của Senor de los Milagros. Từ đây tôi thấy hình ảnh đó, giữa quảng trường, tôi cũng chào đón các tín hữu từ Chile và nhóm Burgerwache Mengen của Giáo Phận Rottenburg – Stuttgart, Đức.

Tôi xin gửi lời chào đến nhóm các phụ nữ đến từ Gubbio, gọi là “Via Francigena Francescana”; những lãnh đạo của Cộng đoàn Thánh Egidio trong một số nước ở Châu Á. Họ thật tuyệt vời, những người trong cộng đoàn Egidio; những người hiến máu của tổ chức ASFA ở Verona và những người của tổ chức AVIS ở Carpinone; Hội đồng quốc gia AGESCI, nhóm hưu của bệnh viện thánh Anna, ở Como, Học Viện Canossiano ở Brescia và Hiệp Hội Mission Effatà.”

Xin cầu chúc cho mọi người một ngày Chúa Nhật an lành.

Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

Mẹ Mân Côi, Mẹ Hòa Bình

Mẹ Mân Côi, Mẹ Hòa Bình

Ngày 21 tháng 9 vừa qua, Cao ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã long trọng vinh danh Nữ Tu Công Giáo Angelique Namaika và trao tặng cho chị giải thưởng Nansen. Đây là giải thưởng cao quý của Cao ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc để tôn vinh những người làm việc với những người tỵ nạn. Chị Angelique Namaika đã giúp thay đổi cuộc sống của hơn 2,000 phụ nữ và các bé gái đã bị buộc phải rời nhà của họ sau khi bị nhóm Quân đội Kháng chiến của Allah lạm dụng trong những năm dài địa ngục của họ.(x. Vietcatholic 30.9.2013).
 
Ngày 7 tháng 10, Giáo hội suy tôn một phụ nữ diễm phúc nhất trần gian, đó chính là Đức Mẹ Mân Côi. Với tâm tình sùng mộ, mọi tín hữu suy tôn Mẹ Maria là Nữ Vương Ban Sự Bình An. Suốt tháng Mân Côi, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân Côi là lời kinh hòa bình. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh cầu nguyện cho hòa bình thế giới, mỗi người cầu xin bình an cho gia đình cho tâm hồn mình.
 
Lễ Đức Mẹ Mân Côi được ĐGH Piô  V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7 tháng 10-1571. Chiến thắng là nhờ các tín hữu lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến. Một phép lạ của Đức Mẹ trong Tháng Mân Côi. ĐGH Leo XIII  đã thiết lập Tháng Mười là tháng Mân Côi vào ngày 1 tháng 9-1883 và đã công bố con số kỷ lục là 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại Giáo hoàng của ngài.
 
Ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, suy tôn Mẹ là Nữ Vương Ban Sự Bình An với 3 lý do.
 

1. Lý do thứ nhất

Mẹ đã đóng góp cả cuộc  đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Kinh Mân Côi, xét về phương diện mầu nhiệm suy gẫm, là kinh về Chúa Giêsu. Nhưng xét về nội dung thành phần của chuỗi hạt, tức là từng kinh Kính Mừng, thì đó là kinh về Đức Maria. Mẹ kết hợp cuộc đời mình với Chúa Giêsu qua 20 ngắm: Vui, Sáng, Thương, Mừng. Vui là vui với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể; Sáng cũng là sáng với Chúa Giêsu qua mọi nẻo lối rao giảng Tin Mừng; Thương là thương cùng với Chúa Giêsu trên đường Thánh giá; và Mừng còn là mừng cùng với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm phục sinh. Mỗi ngắm như thế là mỗi phần đời khác nhau, nhưng liên kết cả 20 ngắm lại sẽ thấy cuộc đời của Đức Mẹ gắn bó với đời của Chúa Giêsu không rời nửa bước. Con đi đâu thì Mẹ theo đi đó: Con xuống thế làm người chuộc tội nhân loại, thì Mẹ cũng hiệp công với Con của mình từ đêm giáng sinh cho đến chiều tử nạn mà bước đi trên đường giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Con của Mẹ là Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha, thì Mẹ vì sự gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình trong suốt hành trình như thế cũng đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Nếu Eva xưa đã để lại thảm họa, thì với Mẹ Maria cách riêng trong kinh Mân Côi, cách riêng hơn nữa trong lời kinh Ave Maria, nền hòa bình viên mãn của trời đã chính thức mở ra. Vì vậy, Đức Mẹ trong kinh Mân Côi, hay Đức Mẹ Mân Côi cũng chính là Nữ Vương Hòa Bình.
 

2. Lý do thứ hai

Vì Mẹ cũng hỗ trợ con người trong công cuộc xây dựng hòa bình với nhau.

Vào thế kỷ XIII, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150,000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Thế kỷ XVI, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ  và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể  dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân Côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả  vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố  lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá  những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân Côi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít  ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân Côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở  vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về  phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân Côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân Côi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan…

Chuỗi Mân Côi chính là một phương thế hòa bình hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Ở đâu kinh Mân Côi được ưa chuộng, ở đó tước hiệu hòa bình đi liền với danh xưng của Mẹ cũng được mộ mến. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an, cầu cho chúng con”. Xét về cấu trúc của kinh Mân Côi phần sau của mỗi ngắm chúng ta quen đọc “ta hãy xin cho được” ơn này ơn khác, hoặc phần sau của chính kinh Kính Mừng với câu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…”, chúng ta cũng thấy cả một dự phóng, cả một chương trình, cả một lời kinh dâng lên Mẹ Mân Côi mong hòa bình nội tâm, làm tiền đề cho cách cư xử giao hòa của con người với Thiên Chúa cũng như cách đối xử hòa bình giữa con người với nhau. Đằng nào cũng thế, giúp đỡ con người dập tắt chiến tranh năm xưa (lý do của lễ Mân Côi) hay là nâng đỡ con người xây dựng hòa bình hôm nay, Đức Mẹ Mân Côi trong lòng Giáo Hội chính là tượng đài Nữ Vương Hòa Bình.
 

3. Lý do thứ ba

Vì Mẹ còn khuyên tất cả mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra và ban sứ điệp: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau. Chuỗi Mân Côi được đặt như một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp chúng ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Bao giờ cũng thế, trong nghệ thuật công giáo, Đức Mẹ không đứng một mình, luôn luôn có Chúa Giêsu hiện diện, hoặc trong những thế kỷ gần đây tại Lộ Đức, cũng như tại Fatima, Đức Mẹ hiện diện với chuỗi Mân Côi. Nếu có ai hỏi tôi: Đức Mẹ có lần hạt không? Chắc chắn tôi sẽ đưa ra lời khẳng định: Có. Không chỉ vì Đức Mẹ đã lần chuỗi chung với ba trẻ ở Fatima hoặc với cô Bernadette ở Lộ Đức, mà còn ngay trong mầu nhiệm của chuỗi kinh Mân Côi đã có sự hiện diện của Đức Mẹ rồi. Có nghĩa là Mẹ cùng lần hạt với chúng ta và hơn nữa Mẹ kêu gọi chúng ta lần hạt. Cá nhân lần hạt Mân Côi, cá nhân vui sống thảnh thơi an bình; gia đình lần chuỗi Mân Côi, gia đình hạnh phúc một đời an vui.

Giáo hội tôn vinh Đức Mẹ Mân Côi là Nữ Vương Hòa Bình. Chuỗi Mân Côi là  chuỗi kinh của nền hòa bình. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận khuyên nhủ: “Chuỗi Mân Côi là giây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: âu yếm như Bêlem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mầng lúc phục sinh, tông đồ bên thánh Gioan. Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ” (Đường Hy vọng số 922); “Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân Côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán” (Đường Hy vọng số 947).
 
Lạy Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Hòa Bình, xin giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi. Nhờ đó, chúng con có thể cộng tác với Mẹ trong công cuộc xây dựng nền hòa bình thế giới và đem ơn cứu độ cho muôn dân. Amen.

 
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Blogger bị cầm tù: Việt Nam đàn áp những người bất đồng chính kiến

Blogger bị cầm tù: Việt Nam đàn áp những người bất đồng chính kiến

Catherine Barton từ Hà Nội

Các nhóm nhân quyền nói có hàng trăm người bị cầm tù nhưng chính quyền phủ nhận

Blogger bị cầm tù: Việt Nam đàn áp những người bất đồng chính kiến thumbnail

Các nhà hoạt động blogger nói họ bị đối xử giống như những kẻ khủng bố quốc tế, bị bí mật chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị biệt giam, còn gia đình thì không ngừng bị quấy rối.

Trong khi Việt Nam khẳng định nước này không có tù nhân chính trị, và vì vậy sẽ không bình luận về vấn đề này, các nhóm nhân quyền ước tính có hàng trăm nhà hoạt động bị bỏ tù vì lên tiếng chống chế độ Cộng sản độc đảng, trong đó có ít nhất 46 người bị bỏ tù trong năm nay.

Các nhà hoạt động nói trong khi tội phạm bình thường đã gặp những điều kiện khó khăn rồi, các tù nhân lương tâm còn chịu cảnh đối xử đặc biệt tàn nhẫn trong tù.

Các nhà tù có khu dành riêng cho tù nhân chính trị và ở đó “bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra và không một ai biết”, theo Nguyễn Trí Dũng, con trai của blogger nổi tiếng Điếu Cày, người đang thụ án 12 năm tù giam vì tội tuyên truyền chống phá nhà nước.

Giống như nhiều nhà bất đồng chính kiến khác, Điếu Cày có tên thật là Nguyễn Văn Hải từ chối nhận tội.

Hiện nay người thân của anh tin rằng anh đang bị phạt tù vì thái độ công khai kháng cự này.

Từ khi bị giam vào năm 2008 vì tội trốn thuế, Điếu Cày được chuyển tù 10 lần, theo gia đình anh, nhưng gia đình chưa bao giờ được báo trước.

Nhà bất đồng chính kiến bị cầm tù này, trường hợp của anh đã được Tổng thống Mỹ Barack Obama nêu lên, liên tục bị ép ký giấy nhận tội cũng như bị hạn chế lượt khách viếng thăm, người thân của anh kể.

Con trai anh cho biết cũng đã nhiều lần bị chính quyền bắt giam, lúc nào cũng dưới 24 tiếng đồng hồ, làm anh bị gián đoạn việc học hành và bỏ thi.

Dùng những lời buộc tội mập mờ và vu cáo là cách mà chính quyền dùng để cảnh báo các nhà hoạt động cần từ bỏ vận động, các chuyên gia nói.

Một blogger nổi tiếng nữa là luật sư Công giáo Lê Quốc Quân bị xét xử hôm thứ tư vì tội trốn thuế.

“Rõ ràng Lê Quốc Quân bị kết tội là vì anh là một người chỉ trích chính quyền Việt Nam có ảnh hưởng trong công chúng”, tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) đặt trụ sở ở New York nói hôm thứ ba, trong khi kêu gọi trả tự do cho luật sư 41 tuổi này.

Ở trong tù, chính quyền Việt Nam luôn bất khoan dung với các tù nhân không nhận tội, theo một nhà hoạt động bị cầm tù 5 năm trước đây.

“Chính quyền sợ họ sẽ tác động đến các tù nhân khác và gây chuyện”, anh nói.

Tù nhân chính trị và hình sự bị giam riêng và bị đối xử khác nhau”, anh nói với điều kiện giấu tên.

“Tù nhân hình sự trong các nhà tù Việt Nam có thể mua bất cứ thứ gì từ thức ăn đến thuốc lá và cả hêrôin”, anh cho biết, nhưng tù nhân chính trị thường không được phép mua sách hay giấy viết và bị giam trong phòng riêng.

Chính quyền độc tài Việt Nam không cho phép thanh tra độc lập các nhà tù.

Nhưng các chuyên gia nói thời gian biệt giam tùy hứng, một biện pháp được dành cho các tù nhân chính trị, có thể là hình thức tra tấn theo Công ước chống Tra tấn được Việt Nam nói sẽ thông qua trong năm nay.

“Theo các báo cáo chúng tôi nhận được cho thấy đây là việc làm thường gặp và quyết định biệt giam một người nào đó là tùy hứng, dựa theo quyết định của giám thị cai tù”, phó giám đốc khu vực châu Á của HRW Phil Robertson nói.

‘Cô lập các nhà hoạt động’

Các cựu tù nhân chính trị và người thân của họ được phỏng miêu tả cảnh gia đình bị quấy rối dữ dội: từ việc ép bạn bè cắt đứt liên lạc đến từ chối cấp giấy phép kinh doanh dùng để kiếm sống.

Làm như thế là để “cô lập các nhà hoạt động chính trị … và đe dọa gia đình và bạn bè”, nhà hoạt động từng bị giam trước đây nói.

“Họ tìm nhiều cách khác để kiểm soát, thuyết phục hay làm mất uy tín của các nhà hoạt động”, họ nói.

Áp lực dành cho gia đình và bạn bè khiến cho nhiều nhà bất đồng chính kiến rốt cuộc bị tách ly khỏi cuộc sống bình thường ở Việt Nam, và việc này vốn thường làm họ quyết tâm hơn.

“Những người khó khăn là những người sẵn sàng kháng cự và rồi bị khai trừ và lúc đó họ sẽ hành động còn kiên quyết hơn”, Bill Hayton, tác giả cuốn Rising Dragon bị cấm tại Việt Nam, nói.

Phản ứng thái quá của chính quyền phản tác dụng, theo Hương Nguyễn, sinh viên Việt Nam sống lưu vong tại Mỹ.

“Gia đình của các nhà hoạt động biết nhiều về bản chất của chế độ chính trị này”, chị nói và thêm rằng nhiều người thân tự “bất đồng”.

Nguyễn có chồng chưa cưới bị bỏ tù năm 2010, nói lãnh sự quán Việt Nam ở Washington từ chối đổi hộ chiếu cho chị trừ khi chị hứa từ bỏ “các hoạt động phản đối”.

Chị đã từ chối và đã được cấp phép tị nạn chính trị gần đây.

Đấu tranh từ trong tù

Được tổ chức Reporters Without Borders cho là “kẻ thù của internet”, Việt Nam cấm các phương tiện truyền thông tư nhân và tất cả báo chí và kênh truyền hình đều do nhà nước quản lý.

Tuy nhiên, internet và phương tiện truyền thông xã hội đang thay đổi bản chất của cuộc chiến này. Facebook thỉnh thoảng bị chặn nhưng rất phổ biến nơi người dùng Việt Nam.

“Kết nối mạng xã hội và các mạng lưới nhà hoạt động có kinh nghiệm và rộng lớn đang đảm bảo tiếng nói từ các nhà tù được truyền ra ngoài và lan rộng khắp”, Robertson của HRW nói.

Hồi tháng 6, sau khi chính quyền từ chối trả lời đơn kiện và cố tình biệt giam anh trong ba tháng, Điếu Cày liền tuyệt thực.

“Bố tôi đáng cố thắp sáng số phận thực sự của các tù nhân chính trị Việt Nam, vốn đang nằm trong bóng tối”, con trai anh nói.

Hồi tháng 5, nhà hoạt động bị cầm tù Cù Huy Hà Vũ, con trai của một lãnh tụ cách mạng, cũng nhịn ăn trong 25 ngày.

Cuối cùng cả hai người bị cầm tù này cũng chấm dứt tuyệt thực sau khi có được sự nhượng bộ, một chiến thuật được một số người xem là một trong những chiến lược xử lý vấn đề bất đồng chính kiến của các nhà cầm quyền Cộng sản.

“Trung Quốc và Nga thanh trừng tàn nhẫn các đối thủ, giết hại nhiều người, đày ải họ”, nhà hoạt động bị giam trước đây nói.

“Đảng Cộng sản Việt Nam xảo quyệt và ma lanh,  họ không xem giết chết hay giam tù là giải pháp tốt nhất mà là phương kế cuối cùng. Vì thế họ có thể nắm quyền lâu hơn”.

Tin từ AFP – UCANSVIETNAM

Người Công giáo Hà Nội cầu nguyện cho luật sư bị cầm tù

Người Công giáo Hà Nội cầu nguyện cho luật sư bị cầm tù

Những người ủng hộ nói cáo buộc trốn thuế là sai trái và yêu cầu thả luật sư ngay lập tức.

Người Công giáo Hà Nội cầu nguyện cho luật sư bị cầm tù thumbnail

Tối 30 tháng 9 vừa qua, hàng ngàn giáo dân tại Hà Nội tham dự buổi đốt nến cầu nguyện liên đới và ủng hộ luật sư Công giáo Lê Quốc Quân bị cầm tù nhiều tháng nay vì tình nghi tội “trốn thuế”.

Vào ngày 2-10, nhà hoạt động sẽ có mặt tại tòa án trong ngày đầu phiên tòa xét xử ông, vốn ban đầu dự kiến ​​diễn ra vào tháng Bảy và sau đó tòa án đột nhiên hủy bỏ. Ông đã chuẩn bị cho ngày ra tòa bằng nhiều tuần ăn chay cầu nguyện, nhưng đến phút cuối cùng, phiên toàn tạm hoãn vì chủ tọa “bị bệnh”.

Đông đảo giáo dân đến chật kín tại nhà thờ Giáo xứ Thái Hà, giăng cao khẩu hiệu và áp phích kêu gọi chính phủ Việt Nam “thả ngay lập tức” vị luật sư bị cầm tù từ tháng 12 năm ngoái.

Hầu hết người tham dự buổi cầu nguyện là các bạn trẻ sinh viên đại học, cao đẳng hiện đang theo học tại Hà Nội đã thách thức lệnh cấm của giới chức nhà trường để tham dự buổi phản đối ôn hòa.

Cùng những sáng kiến ​​tương tự, các buổi rước nến và cầu nguyện cũng được tổ chức chiều tối tại thành phố Hồ Chí Minh và Vinh. Nhà cầm quyền và truyền thông nhà nước thực hiện các cuộc tấn công nhằm vào các linh mục và giáo dân. Vinh là quê nhà của vị luật sư người Công giáo.

Luật sư Lê Quốc Quân là thành viên Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Nguồn: Asianews.it – UCANSVIETNAM

Đức tin và khiêm nhường

Đức tin và khiêm nhường

Linh mục văn sĩ Marlin Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình v.v…, chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn nữa.

Rồi tác giả Marlin mời chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù, không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không? Hay chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại nhau… Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều khác được.

Quả thật, giữa con người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết khẩn xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” mà chúng ta vừa đọc nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.

Trước đó, Chúa Giêsu vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.

“Lạy Chúa xin thêm đức tin cho chúng con”. Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ, nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.

Lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con”. Chúng con đang sống giữa cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay; lung lay trong đức tin hay lạc mất đức tin.

Bài Phúc âm hôm nay nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Veritas Radio

NẾU BẠN CÓ ĐỨC TIN

NẾU BẠN CÓ ĐỨC TIN

Chủ đề: “Thiên Chúa và quyền năng của Người làm cho mọi sự trở nên có thể đối với ai có lòng tin”.

Hãy thử một trò chơi. Giả như bạn bước vào một cái máy thời gian và đi ngược dòng thời gian để trở về năm 1776.

Giả như bạn mang theo tờ báo mới phát hành hôm nay và khi trở về năm 1776, giả như có vài người cầm lấy tờ báo ấy để đọc. Không biết họ sẽ hiểu được bao nhiêu về tờ báo ấy?

Phần lớn các nhà chuyên môn sẽ cho rằng họ không đủ kiến thức để hiểu tờ báo ấy. Họ sẽ đọc nó như một ngôn ngữ xa lạ. Thử kể ra một vài chữ mà những người thời 1776 không thể hiểu nổi: xe hơi, máy bay, phi hành gia, siêu xa lộ, siêu thị, máy lạnh, thị trường chứng khoán, rađiô, truyền hình, phi thuyền, đi trên mặt trăng, tên lửa tầm xa.

Rồi giả như có người hỏi bạn máy truyền hình là gì. Bạn sẽ nói đó là một phương cách để nhìn thấy những gì thật xa như ở mãi Trung Cộng mà đang thực sự xảy ra ở đó.

Giả như có người hỏi tên lửa tầm xa là gì. Bạn sẽ nói đó là một phương cách phóng đi một viên đạn thật lớn từ Hoa Kỳ và tiêu hủy một thành phố ở bên Nga.

Giả như có người hỏi đi trên mặt trăng là gì. Bạn sẽ nói đó là một người ở dưới đất dùng phi thuyền bay lên mặt trăng và bước đi trên đó.

Bạn nghĩ là họ sẽ nói gì với bạn?

Nếu họ là người có chút khả năng phán đoán, họ sẽ nói bạn điên. Vì bất cứ ai còn chút ý thức đều biết rằng bạn không thể thấy điều gì đó đang xảy ra ở Trung Cộng trong khi bạn còn ngồi ở Nữu Ước.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng một viên đạn lửa bắn đi từ Hoa Kỳ, dù lớn đến đâu đi nữa, cũng không thể tiêu huỷ một thành phố ở Nga.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng bạn không thể bay như chim lên mặt trăng, rồi bước ra ngoài dạo chơi rồi sau đó trở về mặt đất.

Mục đích của trò chơi là để chứng minh rằng những gì mà người của thế kỷ này cho rằng vô nghĩa và không thể được thì lại là điều thực tế và phổ thông đối với người của thế kỷ khác.

Mục đích của trò chơi là để cho thấy điều mà người ở thế kỷ này không bao giờ mơ tưởng tới thì đó lại là điều bình thường đối với người ở thế kỷ khác.

Có một bài học quan trọng ở đây. Nếu chúng ta nhìn về đời sống với một thái độ lạc quan, coi mọi sự đều có thể xảy ra thì có lẽ chúng ta sẽ đạt được điều đó.

Ngược lại, nếu chúng ta cho rằng có những điều không thể thực hiện được thì có lẽ chúng ta cũng thất bại không thể hoàn thành.

Vì người của thế kỷ này không thể phán đoán những gì có thể hay không thể ở thế kỷ khác.

Bây giờ hãy chơi một trò khác.

Giả như có ai đó từ năm 3000 đến địa cầu hôm nay trong một máy thời gian. Giả như người đó có một tờ báo mà trong đó không có những tin tức về các vụ bạo động, không có nghèo đói, không có chiến tranh giữa các quốc gia.

Giả như tờ báo đó chỉ toàn những câu chuyện đầy yêu thương, đầy bình an, đầy tình bạn.

Bạn sẽ nói gì?

Nếu bạn có chút ý thức bạn sẽ nói không thể nào có một thế giới như vậy được. Bạn sẽ nói đó là một thế giới không có thực. Bạn sẽ nói tờ báo ấy đầy những tuyên truyền để gây ấn tượng đối với người của thế kỷ 20.

Tại sao?

Vì bất cứ ai có ý thức đều biết rằng nơi đâu đó loài người là nơi đó có bạo động và hận thù.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng nơi đâu có loài người là nơi đó có kẻ giầu và người nghèo.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng nơi đâu có quốc gia là ở đó có võ lực và chiến tranh.

Có một bài học quan trọng ở đây. Nếu chúng ta nhìn đời sống với một thái độ bi quan, cho rằng hoà bình trên thế giới không thể nào có được, có lẽ chúng ta sẽ thất bại không đạt được điều đó.

Nếu chúng ta nhìn đời sống với thái độ cho rằng, tự trong tâm hồn, con người thì ích kỷ và vô lo, có lẽ chúng ta sẽ không thiết lập được một xã hội vị tha và biết chăm sóc cho nhau.

Nếu chúng ta nhìn đời sống với thái độ rằng các quốc gia vốn đã thù nghịch và hung dữ, có lẽ chúng ta không thể đạt được một nền hòa bình trên thế giới.

Và điều đó đưa chúng ta đến điểm quan trọng nhất.

Hòa bình trên mặt đất là điều có thể. Con người yêu thương nhau là điều có thể. Sự hài hòa giữa các quốc gia là điều có thể.

Và lý do mà những điều này có thể là vì Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta và dạy chúng ta phải sống như thế nào.

Lý do mà những điều ấy có thể được là vì Chúa Giêsu đã nói như vậy.

Đó là điều Chúa muốn nói khi Người dạy chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha “Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Lý do mà những điều ấy có thể được là vì Chúa Giêsu đã chết để những điều đó có thể thực hiện được.

Lý do mà những điều ấy có thể được là vì Chúa Giêsu đã sống lại để những điều đó có thể thực hiện được.

Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài phúc âm hôm nay.

Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể nói cây dâu này, ‘Hãy bật rễ lên và xuống dưới biển mà trồng!’ thì nó sẽ vâng lời các con .”

Tin mừng của phúc âm hôm nay là, qua đức tin, quyền năng của Thiên Chúa tùy thuộc nơi chúng ta.

Kết quả là, không có gì là không có thể-ngay cả một thế giới không có chiến tranh, ngay cả một thế giới không có nghèo đói, ngay cả một thế giới không còn hận thù.

Hãy nhớ rằng điều mà con người của thế kỷ này cho là không thể được thì người của thế kỷ khác lại cho là bình thường.

Đó chỉ là vấn đề quan điểm và đức tin. Đó chỉ là vấn đề tín thác nơi Chúa Giêsu khi Người nói:

Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể nói cây dâu này, ‘Hãy bật rễ lên và xuống dưới biển mà trồng!’ thì nó sẽ vâng lời các con .”

Cha Mark Link, SJ

Bổn phận

Bổn phận

Chúng ta biết rằng đức tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong việc làm. Đức tin sống với cả con người trong niềm tin, suy tưởng, lời nói và hành động. Truyện kể: Một nhà truyền giáo tới Phi châu giảng đạo. Ngài muốn chuyển dịch Phúc Âm Thánh Gioan sang thổ ngữ địa phương. Ngài gặp nhiều khó khăn vì ngôn từ rất giới hạn, khó tìm được những chữ thích hợp ý nghĩa từ tiếng Anh. Thí dụ: chữ ‘to believe”. Không có ngôn từ nào trong thổ ngữ địa phương phỏng dịch chính xác. Ngài đến hỏi một trong những người dân làng xin giúp đỡ. Khi ngài giải thích những khó khăn, ông ta trả lời theo sự hiểu biết của ông ‘to bebieve’ – ‘tin’ nên dịch là ‘to listen with the heart’ – ‘lắng nghe với trái tim’.

Một số người nghĩ rằng họ đang làm ơn cho Chúa khi họ giữ các giới răn và thờ phượng Chúa. Chúng ta phục vụ thờ phượng Thiên Chúa là một đặc ân. Tiên tri Khabacúc than phiền với Chúa về sự bị đối xử bất công. Ông kêu van: “Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao?” (Kb 1,2). Ai cầu xin cũng muốn được nhậm lời. Tiên tri đối diện nhiều khó khăn và chịu nhiều đắng cay, ông cầu xin Chúa mau đáp lời và giải thoát. Ông kêu cầu Chúa và muốn rằng Chúa phải thực hành trá oán cho những bất công ngay. Chúa hứa với ông là sự công chính sẽ được vãn hòa và sửa phạt công minh. Người làm ác sẽ bị oán phạt: “Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín.” (Kb 2,4).

Trong đời sống đạo, đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta một số điều. Chúng ta là những người rất chân thành thực thi các giới răn, tham dự đầy đủ các nghi lễ, tụ nhóm cầu nguyện hằng tuần và chu toàn mọi điều luật dạy. Chúng ta nghĩ rằng Chúa phải ban phần thưởng. Có người tưởng nghĩ rằng Chúa như ông chủ, chúng ta là những người làm công. Làm xong việc là phải trả lương sòng phẳng. Chúng ta thường quan niệm giữ đạo và thực hành đạo để được an tâm và lãnh phần phúc. Thái độ phục vụ Thiên Chúa bị giảm bớt coi như một khế ước trao đổi. Phần thưởng trên nước trời là công lao chúng ta phục vụ dưới thế. Sự phục vụ như thế sẽ mất đi ý nghĩa tinh ròng. Thực ra việc làm của chúng ta chẳng có công lênh gì trước mặt Chúa. Phần thưởng ngày sau hoàn toàn là hồng ân Chúa ban. Chúng ta cũng chỉ là người đầy tớ phục vụ Chúa trong tin yêu.

Có lần nghe có vị đại diện tôn giáo bạn thuyết pháp rằng các tín đồ không nên tin thờ Thượng đế hay chúa bà nào cả, không có thần thánh, không có niềm tin và mọi sự do chính con người phấn đấu và tu luyện mà thành. Không lệ thuộc vào thế giới thần thánh vì mọi quyền lực ở trong tay con người. Vị thuyết pháp đặt vấn đề: Nếu tin có sự hiện diện của Thiên Chúa quyền năng, vậy bây giờ tôi sẽ cầu xin Chúa hãy làm cây xoài sinh ra trái khế. Nếu Chúa không làm được, vậy là không có Thiên Chúa. Cách lý luận nghe cũng lạ lạ. Thách thức Thiên Chúa qua lời cầu nguyện thể theo ý mình. Về vấn đề niềm tin, Chúa Giêsu đi xa hơn: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu .

LM Giuse Trần Việt Hùng

Xin thêm Đức tin cho con

Xin thêm Đức tin cho con

“Thưa Thầy, xin thêm Đức tin cho con”. Lời thưa của các Tông đồ ngày xưa vẫn là lời van xin của con cái Chúa hôm nay. Tin là gì? Một câu hỏi không dễ trả lời. Một bệnh nhân khi bị bệnh, anh ta đến Thầy thuốc và được dặn uống một số thuốc nào đó. Anh về và làm như lời Bác sĩ dặn. Anh hết bệnh. Nhưng không phải do Thầy thuốc mà do nhờ uống thuốc đúng bệnh, đúng liều giúp anh hết bệnh. Người bệnh tin vào Thầy thuốc là người tài giỏi, có kinh nghiệm trong việc chẩn trị bệnh. Tin như thế là có chứng cớ, có cơ sở.

Một người đi lạc vào rừng không tìm được lối ra. Tưởng sẽ mãi ở trong rừng sâu không có ngày về. Bỗng dưng nhìn thấy một túp lều bên suối. Bước vào trong ông thấy có dụng cụ nấu ăn, có chỗ nghỉ ngơi. Mặc dầu không thấy ai, nhưng ông tin chắc túp lều là do có người dựng lên. Có bếp núc, có nơi tạm nghỉ, ông biết rõ có người tới lui dù ông chưa từng thấy họ. Và ông an tâm vì biết rồi đây mình sẽ trở về được nhà, trở về sống với mọi người vì có đồng lọai ở bên, sẽ giúp đỡ ông. Nhưng tin vào Chúa, Đấng mà con người chưa từng gặp trong cuộc sống thì sao?

Các Tông đồ ngày xưa được Chúa gọi theo Người, các ông chứng kiến những phép lạ Chúa làm, từng nghe không biết bao lời Chúa giảng dạy, từng chứng kiến đám đông người đi theo Chúa. Họ đón nhận Lời Người với một niềm tin tuyệt đối như vị sĩ quan đội trưởng, xin Chúa chữa lành cho con mình: “Thưa Thầy! Thầy khỏi đến nhà tôi, vì nhà tôi chẳng đáng Ngài vào. Thầy chỉ cần phán một lời thôi thì con tôi sẽ lành bệnh”, hay như người đàn bà bị băng huyết lâu năm, chỉ mong được chạm vào áo Thầy chắc chắn sẽ khỏi bệnh. Bà được như ý. Lời Chúa đã minh chứng điều ấy: “Lòng tin của bà đã chữa bà”. Còn TôMa, một con người của chủ thuyết duy nghiệm, dù là một Tông đồ, từng thấy Chúa làm được mọi phép lạ. Tin và phục Chúa như một vị Rabbi có tài, có “Công lực”, có “phép thuật?” Nhưng ông không thể tin được Người là “Con Thiên Chúa”, là “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, là “Đấng Cứu độ trần gian”. Nên khi nghe chuyện sau ngày Chúa chịu tử nạn, Người đã sống lại và hiện ra với các bè bạn, ông không tin. Chỉ đến khi chứng kiến Chúa ngay trước mắt và được trò chuyện với Người, ông mới thưa lên lời xác tín : “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”. Chúa đã nhắc ông : “TôMa vì anh đã thấy Thầy nên anh đã tin, nhưng phúc cho ai không thấy mà tin”. Quả thật niềm tin “Thiêng liêng” không dễ dàng.

Lạy Chúa,

Các Tông đồ đã sống bên Chúa, đã được Chúa dạy bảo, chăm sóc mà còn phải thưa “Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Các ông nửa tin, nửa ngờ. Phải đến khi Thánh Thần Chúa xuống, các ông được mở lòng, mở trí mà vững tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô và làm chứng về Người. Phần con, có gì hơn các Ngài? Con đã được ơn gọi đứng vào hàng ngũ dân Chúa, được lời chứng từ các Tông đồ, qua Giáo hội Chúa nơi trần gian. Được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, Bí tích Thêm sức, tức là lãnh nhận Chúa Thánh Thần, được soi trí mở lòng. Con được Chúa ban ơn Đức Tin, là ơn nhưng không. Nhưng con vẫn hèn tin, vẫn sa ngã, vẫn không mạnh dạn sống lòng tin đó trong cuộc đời. Con thật có lỗi

Xin Chúa ban thêm Đức tin cho con. Xin cho con dám mạnh dạn tuyên xưng: “Tôi vẫn mãi tin luôn, tin rằng Ngài yêu thương tôi. Tôi vẫn cứ tin luôn, cho dù gặp bao gian nguy”. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa! AMEN.

FX. Đỗ công Minh

Đức Thánh Cha Phanxicô hành hương tại Assisi

Đức Thánh Cha Phanxicô hành hương tại Assisi

Pope Francis in Assisi

 

ASSISI. Hôm 4 tháng 10-2013, ĐTC Phanxicô đã dành 13 tiếng đồng hồ, từ 7 giờ sáng cho đến 8 giờ tối, để viếng thăm Assisi cách Roma 200 cây số, quê hương vị Thánh ngài đã chọn làm bổn mạng và là vị hướng đạo cho triều đại Giáo Hoàng của ngài.

Đức Phanxicô là vị giáo hoàng thứ 19 đến viếng thăm Assisi nhưng ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên mang tên vị thánh nghèo.

Máy bay trực thăng của không lực Italia chở ĐTC đã đáp xuống sân vận động gần Viện Seraphicum lúc 7 giờ rưỡi sáng và đã được Chủ tịch Thượng viện Italia, Ông Piero Grasso, Đức GM sở tại và ông thị trưởng Assisi cùng với nhiều quan chức đạo đời và đông đảo tín hữu tiếp đón. Tháp tùng ĐTC trong chuyến viếng thăm này đặc biệt có 8 Hồng Y thuộc Hội đồng cố vấn, giúp ngài trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ và cải tổ các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Trong số 8 vị có ĐHY Sean O'Malley, dòng Phanxicô Capuchino TGM giáo phận Boston, Hoa kỳ.

Thăm các trẻ em khuyết tật

Seraphicum là một viện săn sóc các trẻ em khuyết tật do cha Ludovico da Casoria dòng Phanxicô thành lập ngày 17-9-1871 đúng ngày kỷ niệm thánh tổ phụ chịu 5 dấu thánh và hiện có 60 em.
ĐTC đã vào nhà nguyện của Viện để cầu nguyện ít phút trước khi gặp gỡ các em khuyết tật, cũng với những người săn sóc và một số bệnh nhân khác. Ngài thân ái chào thăm mọi người, hôn các em bé bệnh nhân trong bầu khí thật cảm động.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông thị trưởng và bà giám đốc Viện Seraphicum, ĐTC bỏ qua bài diễn văn dọn sẵn, và ứng khẩu nói với mọi người:

”Chúng ta đang ở giữa những vết thương của Chúa Giêsu: những vết thương này đang được lắng nghe, và nhìn nhận.. Chúa Giêsu ẩn trong các trẻ em, các thiếu niên này. Trên bàn thờ chúng ta thờ lại Mình Chúa Giêsu, nơi các em này, chúng ta thấy những vết thương của Chúa.. Các em cần được những người nói mình là Kitô hữu lắng nghe và đón nhận”.

ĐTC nhận xét rằng ”rất tiếc là xã hội bị ô nhiễm vì văn hóa gạt tỏ, trái ngược với văn hóa tiếp đón. Nạn nhân của thứ văn hóa gạt bỏ chính là những người yếu thế, mong mang nhất. Trong bối cảnh đó, ngài kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị và chính quyền đặt những người bị thiệt thòi nơi trung tâm những quan tâm về chính trị và xã hội.
Sau bài huấn dụ, ĐTC còn dừng lại chào thăm từng em khuyết tật và các bác sĩ, y tá, thân nhân và những người săn sóc các em.

Gặp gỡ người nghèo

Liền đó, ngài đến viếng Đền thánh Damiano, trước khi đến tòa GM Assisi để gặp những người nghèo được Caritas trợ giúp. Cuộc gặp gỡ diễn ra tại phòng gọi là ”cởi bỏ”, nơi thánh Phanxicô đã cởi bỏ y phục trả lại cho thân phụ và những gì mình có thể hoàn toàn sống theo lý tưởng thanh bần.

Trong lời chào ĐTC, Đức TGM Sorrentino của giáo phận Assisi nhận xét rằng đây là lần đầu tiên từ 800 năm nay một vị giáo hoàng đến viếng phòng ”cởi bỏ” này.. ”Chúng con cũng xin ĐTC giúp chúng con hiểu làm sao chúng con phải cởi bỏ chính mình để luôn được tự do hầu có thể phục vụ”.

Trong dịp này, ĐTC cũng ứng khẩu và nói “đây là cơ hội để mời gọi Giáo Hội cởi bỏ. Nhưng Giáo Hội là tất cả chúng ta, từ người đầu tiên chịu phép rửa. Tất cả chúng ta đều phải đi theo con đường của Chúa Giêsu, Đấng đã đi trên con đường cởi bỏ, đã trở thành người tôi tớ, người phục vụ, đã muốn hạ mình cho đến thập giá. Nếu chúng ta muốn là Kitô hữu, thì không có con đường nào khác. Nhưng có người nói: Chúng ta không thể làm một Kitô giáo nhân bản hơn, không có thánh giá, không có Chúa Giêsu, không có sự cởi bỏ sao? Nhưng làm như thế, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu của tiệm bánh ngọt, như những chiếc bánh ngọt thật đẹp, nhưng không phải là Kitô hữu đích thực.”

”Nhưng chúng ta phải cởi bỏ cái gì? Thưa ngày nay Giáo Hội phải cởi bỏ một nguy hiểm rất trầm trọng đe dọa mỗi ngừơi trong Giáo Hội, đó là nguy hiểm tinh thần thế gian. Kitô hữu không thể sống với tinh thần của thế gian. Tinh thần này đưa chúng ta đến chỗ háo danh, quyền lực, hà hiếp, kiêu ngạo. Đó là một thứ ngẫu tượng chứ không phải là Thiên Chúa, và tội thờ thần tược là tội nặng nhất! Tất cả chúng ta đều phải cởi bỏ tinh thần thế tục, trái ngược với tinh thần các Mối Phúc, tinh thần của Chúa Giêsu.

Thánh lễ

Giã từ những người nghèo tại tòa GM Assisi, ĐTC đã đến Vương cung thánh đường thánh Phanxicô lúc 10 giờ 20. Tại đây ngài được cha Tổng quyền dòng Phanxicô Viện tu cùng với cha Bề trên thánh tu viện tiếp đón. ĐTC đã chào thăm đông đảo các tu sĩ của dòng trong Thánh đường trên, trước khi đi xuống hầm đền thờ để quì cầu nguyện trước mộ của thánh Phanxicô.

Sau đó, ngài bắt đầu cử hành thánh lễ tại Quảng trước đền thờ, cùng với các HY tháp tùng, tất cả các GM miền Umbria, và hàng trăm linh mục triều và dòng. Trong số các giới chức chính quyền hiện diện, đặc biệt có Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Nicola Letta. Các tín hữu ngồi hết mọi chỗ trong quảng trường trước Đền thờ.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng, ĐTC mời gọi các tín hữu noi gương thánh Phanxicô mặc lấy Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa, tìm an bình đích thực bắt nguồn từ Chúa, và tôn trọng thiên nhiên, nhất là con người. Ngài nói:

”Lạy Cha, là Chúa Trời Đất, con chúc tụng Cha vì Cha đã giấu những điều ấy với những người khôn ngoan và thông thái, và đã tỏ lộ cho những người bé nhỏ” (Mt 11,25)

”An bình và thiện hảo cho tất cả anh chị em! Với lời chào Phanxicô này tôi cám ơn anh chị em đã đến đây, tại Quảng trường này, đầy lịch sử và đức tin, để cùng cầu nguyện.

”Hôm nay, như bao tín hữu hành hương khác, tôi đến đây để chúc tụng Chúa Cha vì tất cả những gì ngài muốn tỏ lộ cho một trong những người bé mọn mà Tin Mừng nói với chúng ta, đó là Phanxicô, con của một thương gia giàu có ở Assisi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đưa Phanxicô đến chỗ cởi bỏ một đời sống thoải mái và phóng túng, để kết hôn với ”Bà Chúa Nghèo” và sống như người con đích thực của Cha ở trên trời. Sự chọn lựa này của Phanxicô, diễn tả một cách quyết liệt sự noi gương Chúa Kitô, mặc lấy Đấng giàu sang đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu nhờ cái nghèo của Ngài (Xc 2 Cr 8,9). Trong trọn cuộc đời của Phanxicô, lòng yêu mến người nghèo và noi gương Chúa Kitô nghèo là hai yếu tố gắn liền với nhau không thể tách rời được, hai mặt của cùng một mề đai.

Thánh Phanxicô chứng tỏ điều gì cho chúng ta ngày nay? Ngài nói với gì chúng ta, không phải bằng lời nói, vốn là điều dễ dàng, nhưng bằng chính cuộc sống?

1. Điều thứ I, điều cơ bản mà thánh Phanxicô chứng tỏ cho chúng ta là: sống như Kitô hữu có nghĩa là có một quan hệ sinh tử với Con người của Chúa Giêsu, là mặc lấy Chúa, là đồng hóa với Chúa.

”Đâu là điểm khởi hành con đường của Thánh Phanxicô hướng về Chúa Kitô? Thưa từ cái nhìn của Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Để cho mình được Chúa ngắm nhìn trong lúc Chúa ban sự sống cho chúng ta và lôi kéo chúng ta về với Ngài. Phanxicô đã trải qua kinh nghiệm này một cách đặc biệt trong ngôi thánh đường Thánh Damiano nhỏ bé, khi cầu nguyện trước tượng Chúa Chịu Đóng Đanh, mà hôm nay tôi được kính viếng. Trong tượng Đóng Đanh ấy, Chúa không xuất hiện như người chết, nhưng như người sống! Máu chảy xuống từ vết thương nơi bàn tay, chân và cạnh sườn Chúa, nhưng máu ấy biểu lộ sự sống. Chúa Giêsu không có đôi mắt khép lại, nhưng mở toang: một cái nhìn nói với con tim. Và Chúa Chịu Đóng Đanh không nói với chúng ta về sự thất bại; trái lại nói với chúng ta về một cái chết cũng là sự sống, sinh ra sự sống, vì nói với chúng ta về tình thương, vì Ngài là Tình Thương của Thiên Chúa nhập thể, và Tình Thương không chết, trái lại, đánh bại sự ác và sự chết. Ai để cho mình được Chúa Giêsu Chịu Đóng Đanh ngắm nhìn thì được tái tạo trở thành một ”thụ tạo mới”. Đây là điểm khởi hành của mọi sự: đó là kinh nghiệm về Ơn Thánh biến đổi, được yêu mến mà không có công trạng gì, dù là ngừơi tội lỗi. Vì thế thánh Phanxicô có thể nói như thánh Phaolô: ”Về phần tôi, tôi không hãnh diện về điều nào khác ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”(Gl 6,14)

Lạy thánh Phanxicô, chúng con hướng về ngài và cầu xin: xin dạy chúng con ở lại trước Thánh Giá Chúa chịu đóng đanh, để cho Chúa nhìn, để Chúa tha thứ và được tình thương Chúa tái tạo.

2. Trong Tin Mừng chúng ta đã nghe những lời này: ”Hỡi tất cả những ai mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng tôi và tôi sẽ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của tôi và học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,28-29)

Đây là điều thứ hai mà thánh Phanxicô làm chứng cho chúng ta: Ai theo Chúa Giêsu, thì nhận được an bình đích thực. Thánh Phanxicô được nhiều người gắn liền với hòa bình, nhưng ít người đi vào chiều sâu. Đâu là hòa bình mà thánh Phanxicô đã lãnh nhận, đã sống và thông truyền cho chúng ta? Thưa đó là hòa bình của Chúa Kitô, được trải qua tình yêu lớn nhất, tình yêu của Thập Giá. Đó là hòa bình mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các môn để khi Ngài hiện ra giữa họ và nói: ”Bình an cho các con!” và Ngài nói điều đó, tỏ cho họ đôi tay bị vết thương và cạnh sườn bị đâm thâu qua (Xc Ga 20,19.20)

An bình theo tinh thần Phanxicô không phải là một tình cảm ủy mị. Xin lưu ý điều này: không hề có thánh Phanxicô như thế! Và hòa bình ấy cũng không phải là một sự hòa hợp phiếm thần với những năng lượng của vũ trụ.. Cả điều này cũng không phải là tinh thần Phanxicô, nhưng là một ý tưởng mà vài người đã tạo ra! Hòa bình của thánh Phanxicô là hòa bình của Chúa Kitô, và thánh nhân tìm được khi mang lấy ách của Chúa, nghĩa là giới răn của Chúa: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con (Xc Ga 13,34; 15,12). Và cái ách này không thể mang với sự kiêu hãnh, tự phụ, kiêu ngạo, nhưng chỉ có thể mang được với sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Lạy Thánh Phanxicô, chúng con hướng về ngài, và cầu xin: Xin dạy chúng con trở nên ”khí cụ hòa bình”, thứ hòa bình có nguồn mạch nơi Thiên Chúa, hòa bình mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta.

3. ”Lạy Đấng Tối Cao, toàn năng, Chúa nhân từ, chúc tụng Chúa.. cùng với tất cả các thụ tạo của Chúa” (FF 1820). Bài ca của thánh Phanxicô bắt đầu với những lời như thế. Lòng yêu mến của thánh nhân đối với toàn thể công trình sáng tạo, sự hòa hợp của công trình này. Vị Thánh thành Assisi chứng tỏ lòng tôn trọng đối với tất cả những gì Thiên Chúa đã tạo dựng và con người được mời gọi giữ gìn và bảo vệ, nhưng nhất là ngài chứng tỏ lòng tôn trọng và yêu mến đối với mỗi người. Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới để nó trở thành nơi tăng trưởng trong hòa hợp và an bình. Hòa hợp và an bình! Thánh Phanxicô là một người hài hòa và an bình. Từ thành phố hòa bình này, tôi lập lại một cách mạnh mẽ và dịu dàng rằng: chúng ta hãy tôn trọng thiên nhiên, chúng ta đừng trở thành những dụng cụ phá hoại! Chúng ta hãy tôn trọng mỗi người: hãy chấm dứt các cuộc xung đột võ trang đang làm trái đất đẫm máu, khí giới hãy im tiếng và oán thù ở mọi nơi hãy nhường chỗ cho tình thương, xúc phạm nhường chỗ cho tha thứ, và bất hòa nhường chỗ cho đoàn kết. Chúng ta hãy nghe tiếng kêu của những người đang khóc lóc, đau khổ và chết vì bao lực, vì khủng bố hoặc chiến tranh, tại Thánh Địa, vốn được thánh Phanxicô rất yêu mến, tại Siria, toàn vùng Trung Đông và trên thế giới.

Lạy thánh Phanxicô chúng con hướng về ngài, và cầu xin: xin thánh nhân cầu xin Thiên Chúa ban ơn này: xin cho thế giới chúng con được hòa hợp và an bình.

Sau cùng, chúng ta không thể quên rằng hôm nay Italia mừng kính thánh Phanxicô bổn mạng. Tôi cũng biểu lộ cử chỉ truyền thống tặng dầu cho đèn chầu, năm nay đến lượt miền Umbria cung cấp. Chúng ta hãy cầu nguyện cho quốc dân Italia, để mỗi người luôn hoạt động cho công ích, để ý đến những gì liên kết hơn là tới những gì gây chia rẽ.

”Tôi lập lại lời kinh của thánh Phanxicô cho Assisi, cho Italia và thế giới: 'Vì vậy lạy Chúa Giêsu Kitô, là Cha từ bi, con cầu xin Chúa đừng nhìn đến sự vô ơn của chúng con, nhưng luôn nhớ lại lòng thương xốt dồi dào Chúa đã chứng tỏ tạoi thành này, để nơi ấy luôn là địa điểm và là nơi ở của những người thực sự biết Cha và tôn vinh danh Chúa được chúc tụng và vinh hiển đến muôn đời. Amen” (Specchio di perfezione, 124, FF 1824).

Cuối thánh lễ, có nghi thức tặng dầu cho đèn được đốt tại mộ thánh Phanxicô bổn mạng Italia. ĐTC đã làm phép dầu này, và Ông thị trưởng thành Assisi đã mang đến đổ vào đèn và thắp lên.

Sau đó, ĐTC đã đến dùng bữa trưa với những người nghèo tại Trung tâm tiếp đón đầu tiên của Caritas, gần Nhà ga xe lửa Đức Mẹ các Thiên Thần.

Lúc 2 giờ 15 phút chiều, ngài tiếp tục cuộc thăm viếng tại Đan viện Carceri nơi sườn núi Subasio. Đan viện này được kiến thiết trên những hang đá nơi thánh Phanxicô đến cầu nguyện. Theo truyền thống thánh nhân đã nói chuyện với chim chóc tại đây.

Gặp gỡ linh mục, tu sĩ và giáo dân dấn thân

Sau đó, ĐTC đến nhà thờ chính tòa thánh Rufino của giáo phận Assisi, để gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và các thành viên Hội đồng mục vụ của giáo phận.

Trong bài huấn dụ nhân dịp này, nhắc nhở mọi người về 3 điểm:

1. Trước tiên là lắng nghe Lời Chúa. Giáo hội là cộng đồng lắng nghe trong tinh thần tin yêu những gì Chúa nói. Kế hoạch mục vụ mà anh chị em đang sống nhấn mạnh đặc biệt về chiều kích cơ bản này… Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có thể cải tiến khía cạnh này: đó là ngày càng trở nên người lắng nghe Lời Chúa, để bớt giầu lời nói của chúng ta đồng thời giầu hơn nhờ Lời Chúa nói. Tôi nghĩ đến linh mục có nhiệm vụ rao giảng. Làm sao LM có thể giảng nếu trước đó không lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, trong con tim của mình? Tôi nghĩ đến các cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên: làm sao họ có thể giáo dục nếu lương tâm họ không được Lời Chúa soi sáng, nếu cách thức suy tư và hành động của họ khôgn được Lời Chúa hướng dẫn? Họ nêu gương nào cho con cái?…

2. Thứ hai là bước đi. Đây là lời tôi thích khi nghĩ đến Kitô hữu và Giáo Hội. Nhưng đối với anh chị em, lời này có một nghĩa đặc biệt: anh chị em đang bước vào Công nghị giáo phận, và công nghị ở đây, Sinodo, có nghĩa là đồng hành với nhau. Đây thực là một kinh nghiệm đẹp nhất mà chúng ta sống: được là thành phần của dân đang tiến bước trong lịch sử, cùng với Chúa, Đấng đi giữa chúng ta.

Tôi cũng nghĩ đến các linh mục. Có gì đẹp hơn đối với chúng ta nếu không phải là đồng hành với dân của chúng ta, khích lệ, nâng đỡ dân, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, tha thứ cho nhau, cùng tiến bước trong sự đoàn kết, không chạy trốn về đằng trước, cũng chẳng nhớ nhung quá khứ.

3. Thứ ba là loan báo cho đến tận những vùng ven bờ, vùng ngoại ô của cuộc sống. Điều quan trọng là ra ngoài, để gặp gỡ tha nhân trong các khu ngoại ô, nhất là những con người, trong những hoàn cảnh khác nhau.

Đây là những khu ”ngoại ô” của anh chị em? Đó là những vùng có nguy cơ ở ngoài lề, không được ánh đèn chiếu vào. Đó là những ngừơi, những thực tại con người bị gạt ra ngoài lề, bị coi rẻ. Đó là những người tuy ở trung tâm, nhưng tinh thần thì xa xăm.

Anh chị em đừng sợ ra ngoại và gặp gỡ những ngừơi ấy, những hoàn cảnh ấy. Đừng để mình bị ngăn chặn vì những thành kiến, thói quen, sự cứng nhắc về não trạng hoặc về mục vụ..

Sau cuộc gặp gỡ tại Nhà thờ chính tòa Assisi, lúc quá 4 giờ chiều, ĐTC đến viếng thăm Vương cung thánh đường thánh nữ Clara, viếng mộ của thánh nữ và cầu nguyện tại Nhà nguyện trước Thánh giá thánh Damiano, chào thăm các nữ Đan sĩ tại đây.

Cuộc viếng thăm của ĐTC được tiếp tục tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ các thiên thần của dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô, cách đó 4 cây số, rồi gặp gỡ 12 ngàn người trẻ miền Umbria vào lúc gần 6 giờ chiều tại quảng trường trước Đền thánh và ngài trả lời các câu hỏi do 4 bạn trẻ nêu lên. Tiếp đến ĐTC viếng Đền thánh Rivotorto trước khi đáp trực thăng trở về Vatican, dự kiến vào lúc 8 giờ tối. Rivotorto là nơi có những căn nhà nhỏ thánh Phanxicô và các bạn đồng hành đầu tiên của ngài cư ngụ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đề cao Thông điệp ”Hòa bình dưới thế”

Đức Thánh Cha đề cao Thông điệp ”Hòa bình dưới thế”

VATICAN. ĐTC Phanxicô đề cao tính chất thời sự của thông điệp ”Hòa bình dưới thế” và nhắc nhở về nghĩa vụ của mỗi người phải góp phần kiến tạo hòa bình.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 3-10-2013, dành cho 300 tham dự viên cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình tổ chức nhân dịp kỷ niệm 50 năm ban hành thông điệp ”Pacem in terris” (Hòa bình dưới thế), của Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan 23.

ĐTC nhắc lại thời điểm tột đỉnh trong chiến tranh lạnh hồi cuối năm 1962: nhân loại bị đe dọa vì hiểm họa xung đột hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Trong bối cảnh đó, Đức Gioan 23 đã tha thiết lên tiếng kêu gọi hòa bình và thức tỉnh lương tâm của mọi người trên thế giới và sau đó, ngày 11-4 năm 1963, ngài đã công bố thông điệp Hòa bình dưới thế. ”Những hạt giống hòa bình do Chân phước Gioan 23 gieo vãi đã mang lại hoa trái. Tuy nhiên, thế giới vẫn đang cần hòa bình và lời nhắc nhở của Thông điệp Hòa bình dưới thế vẫn rất thời sự, mặc dù các bức tường và hàng rào đã sụp độ”.

Trong diễn văn, ĐTC Phanxicô đã nhắc lại những nguyên tắc và ý tưởng nòng cốt của Thông Điệp, theo đó ”không thể có hòa bình và hòa hợp đích thực nếu chúng ta không làm việc cho một xã hội công bằng và liên đới hơn, nếu chúng ta không vượt thắng ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, những lợi lộc phe phái ở mọi cấp độ”.

Thông điệp ”Hòa bình dưới thế” đề cao một hệ luận nền tảng của nguồn gốc con người do Thiên Chúa tạo dựng, đó là giá của nhân vị, phẩm giá của mỗi người, cần phải luôn luôn thăng tiến, tôn trọng và bảo vệ. Và không phải chỉ bảo đảm các dân quyền và chính quyền chủ yếu, nhưng còn phải cung cấp cho mỗi người cơ hội được những phương tiện cốt yếu để sinh đống, lương thực, nước, nhà ở, săn sóc sức khỏe, giáo dục và khả năng thành lập và nuôi dưỡng gia đình”.

Và ĐTC Phanxicô kết luận rằng những nguyên tắc căn bản của Thông điệp Hòa bình dưới thế có thể hướng dẫn hữu hiệu việc nghiên cứu và thảo luận về “những điều mới” mà Hội nghị của quí vị bàn tới: đó là nhu cầu cấp thiết về giáo dục, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông xã hội trên các lương tâm, việc đạt được và sử dụng các tài nguyên của trái đất, việc sử dụng tốt hoặc xấu kết quả của những nghiên cứu sinh học, việc chạy đua võ trang và những biện pháp an ninh quốc gia và cuộc tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới là một triệu chứng trầm trọng cho thấy có sự thiếu tôn trọng con người và sự thật, mà các chính phủ và các công dân mắc phải khi đề ra các quyết định”.

ĐTC cũng nhắc đến thảm trạng hơn 80 thuyền nhân bị thiệt mạng vì đắm tàu gần đảo Lampedusa cực nam Italia, trên đường vượt biên từ Bắc Phi vào Âu Châu. Ngài gọi đó là ”một điều ô nhục, đồng thời mời gọi mọi người cầu nguyện cho những người bị thiệt mạng, cho thân nhân họ và mọi người tị nạn. ĐTC nói: ”Chúng ta hãy hiệp lực để những thảm cảnh như vậy không tái diễn nữa”.

Con tàu chở 500 thuyền nhân bị cháy và đắm gần đảo Lampedusa, nơi ĐTC đã đến viếng thăm người tị nạn ngày 8-7-2013 (SD 3-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio