CÁI HỐ

CÁI HỐ

Chủ đề: “Chúa Giêsu thường gõ cửa tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta có mở cửa cho Người hay không là tùy ý chúng ta.”

Một trong những người tiền phong vận động chính phủ cải cách hệ thống nhà tù ở Hoa Kỳ là một tội phạm đã hối cải, tên Starr Daily. Câu chuyện ông hoán cải thật lạ lùng nhưng thật tuyệt vời.

Khi Daily bị kết án tù lần thứ ba trong đời, quan toà nói với ông:

“Có phạt thêm nữa thì ông cũng vậy, và tôi không biết phải làm gì khác trong vụ xử ông. Sự bất lực của chúng tôi là sự tuyệt vọng của ông.”

Trong thời gian ở tù, lối sống của Daily thật tệ hại đến nỗi người ta phải giam ông vào một cái “hố” biệt lập. Thông thường một tù nhân chỉ có thể chịu nổi cảnh giam cầm đó hai tuần lễ. Sau đó có bác sĩ đến thăm và ra lệnh đưa về nhà giam bình thường.

Nhưng trường hợp của Daily thì đã hơn hai tuần lễ và vẫn tiếp tục.

Rồi một ngày kia, một sự kiện khác thường xẩy đến. Khi Daily nằm trên sàn lạnh lẽo của cái “hố”, một tư tưởng kỳ lạ nảy ra trong đầu.

Ông thường có một sức mạnh và năng lực đáng kể. Bỗng dưng ông tự hỏi điều gì sẽ xảy ra cho ông nếu ông dùng sức mạnh và năng lực ấy để làm việc thiện hơn là làm điều xấu. Ý tưởng ấy tràn ngập tâm trí ông. Và trong một thời gian thật lâu, ông nằm suy nghĩ về điều đó.

Điều kế tiếp xẩy đến thì thật khó để diễn tả. Daily bắt đầu có những giấc mơ đứt đoạn về Đức Giêsu Kitô, là người mà từ lâu ông cố gạt ra khỏi cuộc đời mình. Dường như ĐứcGiêsu đứng bên cạnh ông và nhìn vào mắt ông, như thể Người đi vào linh hồn ông. Trong suốt cuộc đời, chưa bao giờ Daily cảm được thế nào là tình yêu.

Sau đó, tất cả những người mà Daily đã làm họ đau khổ dường như lướt qua tâm trí ông. Và khi đó, Daily đã tỏ lòng thương mến họ, và dường như vết thương lòng được lành lặn.

Cảm nghiệm đó đã thay đổi hoàn toàn con người Daily. Trước đó, ông là một tội phạm cứng cỏi, đầy căm thù. Sau đó, ông là một con người mới, đầy tình yêu.

Sau cùng, Daily được phóng thích và bắt đầu một sự nghiệp mới để nói chuyện và viết lách hôã trợ việc cải cách nhà tù.

Nhận định về sự hoán cải lạ lùng của ông Daily, ông Peter Marshall, một tuyên uý nổi tiếng của Quốc Hội, nói rằng: “Starr Daily là một bằng chứng sống động tốt nhất mà tôi chưa từng thấy, đó là ‘một tạo vật mới trong Đức Giêsu Kitô’ thì không chỉ là một con người cũ được chắp vá, nhưng là một con người hoàn toàn mới” Catherine Marshall, A Man Called Peter.

Câu chuyện của ông Starr Daily có sự tương đồng kỳ lạ với câu chuyện của ông Giakêu trong bài Phúc Âm hôm nay.

Cả hai đều có đời sống tệ hại. Cả hai đều gặp gỡ Chúa Giêsu. Cả hai đều thay đổi đáng kể nhờ sự gặp gỡ đó. Và cả hai đều đền bù cho quá khứ.

Trong một phương cách sùng tín, ông Daily tuôn đổ tình yêu trên những người mà ông đã tổn thương họ. Ông còn dành trọn cuộc đời để cải cách hệ thống nhà tù.

Ông Giakêu phân phát nửa gia tài cho người nghèo. Và những ai bị ông lường gạt đều được bồi thường gấp bốn. Số tiền bồi thường này nhiều hơn luật buộc gấp đôi. (Xh 22:3)

Chúng ta áp dụng câu chuyện của ông Daily và ông Giakêu vào đời sống như thế nào?

Cả hai câu chuyện đều nhắc nhở chúng ta về một điều mà chúng ta thường quên. Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời chúng ta và thay đổi chúng ta trở nên tốt hơn, cũng như Người đã thay đổi ông Daily và Giakêu.

Nhưng Chúa Giêsu không ép buộc chúng ta, cũng như Người không ép buộc ông Daily và ông Giakêu. Người để chúng ta tự do.

Chúa Giêsu đối xử với chúng ta cũng giống như Người đối xử với một phụ nữ trong Phúc Âm, mà bà bị bệnh hoại huyết (Mc 5:25-34). Hãy nhớ lại câu chuyện này.

Một ngày kia Đức Giêsu đi ngang qua, và bà tự nhủ, “Nếu mình được chạm đến y phục của Ngài, mình sẽ lành mạnh.”

Bà đã đến và chạm vào áo của Chúa Giêsu và được lành mạnh.

Chúa Giêsu cũng thường đi ngang qua đời sống chúng ta. Khi Người đến, chúng ta chỉ cần thi hành như người phụ nữ nói trên. Chúng ta chỉ cần tiến đến và chạm vào áo của Người. Nếu chúng ta làm như vậy, Người sẽ chữa lành chúng ta, cũng như Người đã chữa lành người phụ nữ, cũng như Người đã chữa lành ông Starr Daily, và cũng như Người đã chữa lành ông Giakêu.

Điều này đưa chúng ta đến điểm sau cùng. Khi nào thì chúng ta có thể biết chắc là Chúa Giêsu đi ngang qua cuộc đời chúng ta?

Có nhiều lần Chúa Giêsu đi ngang qua cuộc đời chúng ta, trong một phương cách đặc biệt. Chỉ kể ra đây ba trường hợp đặc biệt.

Thứ nhất, Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta, trong một phương cách đặc biệt, mỗi lần Kinh Thánh được đọc lên và được dẫn giải trong Thánh Lễ. “Đức Giêsu nói với các môn đệ, ‘Ai nghe anh em là nghe Thầy…‘”

Và vì vậy lần đầu tiên Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta, trong một phương cách đặc biệt, là trong Phụng Vụ Lời Chúa ở Thánh Lễ.

Thứ hai, Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta, qua một phương cách đặc biệt, trong Phụng Vụ Thánh Thể. “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ sống trong Ta và Ta sống trong người ấy” Gioan 6:56.

Và vì vậy ngoài sự hiện diện khi lời Chúa trong Kinh Thánh được giảng giải trong Phụng Vụ Lời Chúa, Chúa Giêsu còn hiện diện, trong một phương cách đặc biệt, khi thân thể Người được bẻ ra và ban cho chúng ta trong Phụng Vụ Thánh Thể.

Sau cùng, Chúa Giêsu hiện diện, trong một phương cách đặc biệt, khi chúng ta gặp gỡ những người nghèo hèn. Chúa Giêsu nói bất cứ ai giúp đỡ những người này là giúp đỡ chính Người. (Matthew 25:40).

Và như vậy có ba lần đặc biệt khi chúng ta có thể biết chắc là Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta qua một phương cách đặc biệt.

Đó là khi lời Chúa được mở ra và đọc cho chúng ta nghe, khi thân thể Chúa được bẻ ra và ban cho chúng ta, và khi một phần tử trong gia đình của Chúa bị tan nát và đến với chúng ta xin giúp đỡ.

Khi Chúa Giêsu hiện diện với chúng ta qua một trong ba phương cách đặc biệt này, chúng ta chỉ cần thi hành điều mà ông Starr Daily đã làm, điều mà ông Giakêu đã làm và điều mà người phụ nữ bị bệnh hoại huyết đã làm.

Chúng ta chỉ cần tiến đến, chạm đến Đức Giêsu, và mời Người đi vào cuộc đời chúng ta, cũng như họ đã làm. Và nếu chúng ta thi hành như vậy, Người sẽ đi vào cuộc đời chúng ta, chữa lành cho chúng ta như Người đã chữa lành cho họ.

Hãy kết thúc bài chia sẻ hôm nay với những lời thật tuyệt vời trong sách Khải Huyền. Chúa Giêsu nói với chúng ta qua những lời ấy:

“Hãy lắng nghe! Ta đứng ở ngoài cửa và gõ; nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ đi vào nhà của họ và ăn với họ, và họ sẽ ăn với Ta” (Kh 3:20).

Cha Mark Link, S.J.

Hoán cải đích thực

 Hoán cải đích thực

Gặp gỡ Chúa Giêsu là một biến cố hồng phúc cho con người, nếu người đó không lo sợ hoặc tránh né cuộc gặp gỡ này.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Chúng ta có thể ghi nhận hai thái độ trong cuộc gặp gỡ này.

Trước hết là thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính mà khinh dễ kẻ khác, không muốn cho kẻ khác đến gặp Chúa và nhận lãnh ơn lành của Chúa. Đó là thái độ của những kẻ lẩm bẩm trách Chúa đã niềm nở đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với họ, bởi vì đối với Chúa không có ai xấu xa tội lỗi đến độ không đáng được hưởng lòng nhân từ tha thứ của Chúa. Liệu chúng ta có thái độ của những kẻ tự cho mình là công chính và khinh dễ người khác không?

Thái độ thứ hai là thái độ của ông Giakêu, người thu thuế trưởng và giầu có. Đối với người Do thái, người thu thuế là kẻ tội lỗi công khai: đó là tội phản bội quê hương cộng tác với ngoại bang, và tội gian lận tiền thuế quá mức qui định. Giakêu là người thu thuế trưởng và giầu có, sự giầu có này theo lý luận của người Do thái, chứng tỏ ông có những hành vi bất chính để làm giầu: thu nhiều, nộp ít, và như vậy ông là một người tội lỗi. Đối với người đồng hương với Giakêu, thì tội của ông không thể tha thứ được; nhưng đối với Chúa Giêsu, Đấng đến tìm và cứu những gì đã hư mất, thì đây là dịp để thể hiện tình thương nhân từ của Thiên Chúa.

Nơi con người tội lỗi Giakêu vẫn còn một khát vọng hướng về Chúa: ông muốn nhìn xem Chúa Giêsu đi qua, và đây là yếu tố căn bản để được Chúa thi ân. Từ một khát khao gặp Chúa đến việc ăn năn trở lại không có khoảng cách không vượt qua được, vì Chúa Giêsu có thể vượt qua khoảng cách này một khi con người đã có sẵn thái độ chờ mong Ngài đến. Thái độ của Giakêu có thể khuyến khích chúng ta trở về với Chúa. Ông đã thể hiện sự trở lại của mình bằng một hành động cụ thể thiết thực: phân chia nửa phần tài sản cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.

Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thể hiện một cách cụ thể sự hoán cải của mình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác với ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa.

Radio Veritas Asia

TÌNH THƯƠNG BIẾN ĐỔI

TÌNH THƯƠNG BIẾN ĐỔI

Đi hành hương Đất Thánh, ai cũng muốn đến Giêricô thăm “Cây sung Giakêu” và thưởng thức trái chà là. “Cây sung Giakêu” to lớn khoảng hai người ôm. Cây sung này được trồng lại cách đây hơn 700 năm. Tôi đi dịp tháng 4 nên sung nhiều trái. Các bà thích lắm, hái ăn và tin rằng trái từ “cây sung Giakêu” chữa lành mọi thứ bệnh.

Giêricô trở nên nổi tiếng với câu chuyện ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn cho được Chúa Giêsu đi ngang qua.

Giêricô chính là miến Đất Hứa, khi xưa Môsê từ trên núi Nebô đã được nhìn thấy. Sách Giosuê chương 6 kể lại cuốn đánh chiếm thành Giêricô.

Giêricô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan.

Giêricô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêricô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới.

Chúa Giêsu đi qua Giêricô, tiến về Giêrusalem với đoàn người hành hương đông đảo, chuẩn bị bước vào khổ nạn. Ông Giakêu leo lên cây sung để nhìn cho được Chúa sắp đi ngang qua. Chúa nhìn lên cây sung thấy Giakêu. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương.Trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Ông đáp lại tình thương của Chúa và thể hiện bằng việc đền bù thiệt hại, chia sẻ chân thành cho tha nhân. Tình thương của Chúa đã cảm hóa Giakêu và biến đổi cuộc đời ông.

1. Tình thương biến đổi

Giakêu là một người thu thuế và là một người giàu có. Ông đã từng nghe biết Chúa Giêsu đã chọn ông Lêvi, một nhân viên ngành thuế như ông làm môn đệ (Mt 9,9). Nay ông rất muốn có dịp nhìn thấy con người kỳ lạ này.

Lần kia, biết Người sắp đi ngang Giêricô quê hương ông, Giakêu ra xem, nhưng vì dân chúng quá đông mà ông lại lùn, nên ông leo lên một cây sung để nhìn cho rõ. Ðường đường một người “đứng đầu những người thu thuế”, một công chức có địa vị, nhưng ông vẫn không sợ mất mặt, vẫn trèo lên cây cao.

Chúa ngước mắt lên cây sung, ánh mắt Chúa và ánh mắt Giakêu gặp nhau. Ánh mắt Giakêu bộc bạch tất cả tấm lòng và cuộc đời của mình: một người thu thuế, một người bị vạ tuyệt thông cách ly, một tâm hồn khát khao muốn gặp Chúa, một con chiên lạc đang tìm lối về. Lòng Chúa xao xuyến, thương mến vô vàn, một tâm hồn mà Chúa đang muốn tìm về đây. Chúa nói: “Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ông“. Giakêu cười sung sướng, nhảy xuống đất, chạy mau về nhà, làm tiệc tiếp đãi khách quý. Và đó phải là một bữa tiệc linh đình, có đông bạn bè trong ngành thuế tham dự, giống như ông Lêvi đã làm trước kia (x. Lc 5,29).

Không phải bốc đồng, nhưng từ đáy lòng Giakêu cuộn lên một niềm sám hối mãnh liệt khiến ông cất tiếng thưa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phần nửa tài sản tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn“. Ông Giakêu tự buộc mình làm một việc đền bù rộng rãi phi thường, vượt xa mức đòi hỏi của luật lệ. Ðiều ấy chứng tỏ ông đã thật lòng hoán cải và hơn nữa ông biết mình đã được tha thứ và cứu độ. Chính Chúa Giêsu xác nhận như thế khi Ngưới phán: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này“.

Trước đây Giakêu chỉ nghĩ đến tiền và sống ích kỷ cho riêng mình, không nghĩ đến người khác.Trước đây Giakêu vốn tham lam, bất lương, lòng quảng đại bị chôn vùi qua bao năm tháng. Hôm nay, gặp được Chúa Giêsu, ông đã biết sống trao ban cho người khác, quan tâm đến người nghèo, sống công bằng với mọi người. Lòng quảng đại đó được bộc phát cách rõ ràng: “Tôi xin bố thí phần nữa của cải của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có gian lận gì của ai, tôi xin đền lại gấp bốn”. Quả là mùa xuân về trong tâm hồn Giakêu. Ngập tràn ánh nắng. Ngây ngất niềm vui. Bình minh Ơn Cứu Ðộ chan hoà lòng trí ông, gia đình ông.

2. Tình thương hoán cải

Trong sách (Lv 5, 20-26; Xh 21, 37; Ds 5, 6) đều nói đến khoản luật phải trả lại, đền bù cho người nghèo, cho kẻ bị thiệt hại một số của cải. Ðó là luật trong Cựu Ước. Giakêu trình bày ngay vấn đề, điều đó cho thấy có lẽ ông đã nghiên cứu Thánh Kinh, biết được các luật lệ đó. Tiếng lòng hồi sinh và như vậy ông đã có thao thức thầm kín, có băn khoăn và chờ đợi. Trong cuộc sống dư giả vật chất, bân rộn với công việc làm ăn, ông vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư, để rồi hôm nay có cơ hội ông tìm kiếm Chúa mong làm lại cuộc đời mới.

Thánh Luca đã nói rõ: ông là thủ lãnh của những người thu thuế. Giêricô bấy giờ là hải cảng, thu thuế nơi xuất nhập cảng phồn thịnh phải là một tay có thế lực. Trong nghề nghiệp đó, bạn bè của ông phải là những người thu thuế, các sĩ quan Rôma. Vậy tại sao ông lại vất vả chen lấn với đám đông để mong gặp một người tên là Giêsu, kẻ hoàn toàn khác địa vị xã hội với ông? Là người giàu có, sang trọng, tại sao ông bỏ cả thể hiện sẵn sàng trèo lên cây sung như một đứa trẻ để nhìn cho được Chúa Giêsu đi qua? Hơn nữa, vốn bị dân chúng thù ghét, ông có thể bị nguy hiểm tính mạng khi đối diện với quần chúng giữa đám đông. Như thế ông phải liều, và bỏ ngoài tai mọi phê bình.

Ðộng lực nào thúc đẩy ông đi tìm Chúa Giêsu? Chắc chắn không phải vì sự tò mò, nhưng có lẽ nhờ lời Thánh Kinh đánh động.Tâm hồn mong hoán cải đã thúc bách ông lên đường tìm Chúa ! Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về tình yêu, một ưu tư thao thức tìm kiếm. Hoán cải là từ bỏ. Bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi phải từ bỏ. Hoán cải bởi tình thương bao giờ cũng có kết quả tốt. Giakêu tích cực đi tìm Chúa: “Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung“. Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: “Ông vội vàng tụt xuống“. Ông còn “vui mừng đón rước Ngài về nhà“. Ông nhìn nhận tội lỗi của mình.Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác. Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo. Hoán cải là một hành trình: từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và canh tân đời sống. Giakêu hoán cải đem lại niềm vui cho chính ông và hai nhóm người, đó là nhóm nghèo được ông san sẻ cho phân nửa tài sản, nhóm bị oan ức (nếu có) được giải oan và nhận huê lợi hơn bốn lần thiệt hại. Việc hoán cải của một người mang lại niềm vui cho nhiều người.

Giakêu lùn về thể lý nhưng tâm hồn không thấp chút nào. Giá trị một người hệ tại nơi tâm hồn. Gía trị của một việc làm ở nơi lòng mến. Đối với Chúa Giêsu, giờ đây, Giakêu, đã trở nên cao thượng nhờ ông biết hoán cải và sống có tình người. Chiều cao thân xác Giakêu vẫn thấp nhưng chiều cao tâm hồn bây giờ ngất cao nhờ tình thương chiếu rọi.

3. Tình thương cảm hóa

Chúa Giêsu là bậc Thầy cảm hoá lòng người. Tôn trọng, yêu thương có sức cảm hoá đến kỳ diệu. Ánh mắt, lời nói và thái độ của Chúa Giêsu đem mùa xuân về cho tâm hồn Giakêu. Những gì xưa nay trói buộc ông, làm cho ông say mê kiếm tìm giờ trở nên vô vị. Giakêu trở nên nghèo hơn trước, nhưng ông lại hạnh phúc hơn xưa nhiều lần. Thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người đáng khâm phục. Bởi lẽ, Ông đã gặp được Chúa, được nhận lãnh Ơn Cứu Ðộ của người Mục Tử Nhân Lành đi tìm con chiên lạc.

Kho tàng văn học Thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!”. Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.

 

Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Câu chuyện về ông Giakêu cho thấy, thái độ lên án và tẩy chay thường chỉ khiến người có tội thu mình lại và càng dễ dấn sâu hơn vào con đường sai trái của mình; chỉ có một thái độ tích cực có thể giúp họ hồi tâm hoán cải, đó là cởi mở, cảm thông, kính trọng và tùy hoàn cảnh mà nhắc nhở hay sửa dạy với đầy lòng yêu mến.

Giakêu rất cảm động trước sự trân trọng và yêu thương của Chúa Giêsu.Giakêu quyết tâm trở về con đường ngay chính, trước tiên bằng việc thực thi bác ái và công bằng. Cung cách đối xử chan chứa tình người mới là yếu tố chính yếu đem lại thành công trong công việc tông đồ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu.

Lạy Chúa Giêsu, tình thương của Chúa đã làm nên bao điều kỳ diệu. Xin dạy chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa, sống với người khác bằng tình thương, hy vọng vào lòng tốt của mỗi người và tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trở về

Trở về

Truyện kể: Công tước D’Ossome, phó vương xứ Napoli, nước Ý. Một hôm, ông đi thị sát chiến thuyền Galère được chèo chống bởi một đội tù nhân đông đảo. Khi gặp các tù nhân, ai cũng kêu ca bào chữa rằng họ là những người vô tội. Chỉ có một tù nhân ngồi ở phía góc cúi đầu, chẳng nói chẳng rằng. Công tước bước đến và dịu dàng hỏi han. Anh nói: Thưa ngài, tôi chẳng có gì để bào chữa. Tôi chịu xứng với tội tôi đã phạm. Công tước quay ra nói với mọi người: Anh này là phạm nhân, hắn không xứng đáng ngồi nơi đây chung đụng với những người vô tội. Ta ra lệnh trục xuất ngay hắn ra khỏi chỗ này. Và thế là, chỉ nhờ vào lòng chân thành biết nhận lỗi. Người tù nhân đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ.

Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tốt lành vô cùng. Vì yêu thương, Chúa tạo dựng muôn loài và muôn vật để cùng chung hưởng hạnh phúc. Nhìn ngắm vũ trụ muôn loài thật quá vĩ đại nhưng tình thương của Chúa còn bao la vĩ đại tuyệt vời hơn. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: “Trước nhan thánh, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất.” (Kn 11,22). Thụ tao do Chúa dựng nên đều tuỳ thuộc vào sự an bài của Chúa. Sự hiện hữu của những mầm sống từ loài thực vật nhỏ li ti cho đến những loài vật khổng lồ đều sống dưới sự chở che quan phòng của Thiên Chúa. Mọi loài thọ tạo đều chia sẻ một nguồn sống từ Đấng Tạo Hoá: “Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa.” (Kn 11,26). Mỗi loài thụ tạo đều góp phần làm vinh danh Thiên Chúa từ đời này tới đời kia.

Luật Chúa như kim chỉ nam giúp cho chúng ta tìm ra con đường chính thật. Giống như luật lệ giao thông, trên mọi con đường lớn nhỏ đều có các bảng dẫn lối chỉ đường, vậy mà nhiều người cũng vẫn bị lạc hoặc phạm lỗi. Những ai có bằng lái xe đều phải học biết luật lệ, khi phạm luật thì bị phạt. Chúng ta không thể kêu ca trách móc ai cả. Đời sống đạo cũng thế, có luật Chúa và luật Giáo Hội, chúng ta cố gắng soi mình để sống tốt và sống cho phù hợp với luật dạy. Chúng ta được nhắc nhở canh thức và thức tỉnh lương tâm sống đạo. Sách Khôn Ngoan dậy rằng: “Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kn 12,2). Đừng coi thường những huấn lệnh, giới răn và lời khuyên dạy. Có đôi khi chúng ta đang dìm mình trong vũng lầy mà không nhận ra. Sống trong u mê lầm lạc lại tưởng là đang sống trong hoan lạc.

Phúc Âm kể câu truyện Chúa Giêsu đi ngang qua làng, thấy ông Giakêu trèo lên cây sung để nhìn xem Chúa. Chúa ngước nhìn lên, ông cúi xuống và hai ánh mắt chạm nhau. Trái tim Chúa xót thương và lòng người thổn thức. Chúa đề nghị ghé thăm nhà ông. Giakêu vui mừng đón tiếp Chúa và ông tự xưng thú tội lỗi mình trước mọi người. Ông Giakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đay phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19,8). Ánh mắt nhân từ của Chúa đã cải hoá được một tâm hồn tội lỗi. Với lòng chân thành hối lỗi đền bù, Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng lầy của gian tham tội lỗi.

Chúa Giêsu rong ruổi đi tìm những con chiên bị lạc. Có nhiều con chiên xa lạc chưa biết đường trở về. Chúa đã tìm và đi cứu, “vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy xin Chúa Cha ban thêm các thợ gặt tâm hồn. Cánh đồng lúa chín bao la nhưng thiếu thợ gặt. Còn biết bao nhiêu người đang bị mê lầm trong tội lỗi mà không nhận biết Tin Mừng cứu độ. Đôi khi chính chúng ta quá quen với lối sống ấm êm hưởng thụ và cách sống dung túng, truỵ lạc, chúng ta không muốn từ bỏ con đường cũ và không muốn bước ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp. Buông bỏ tội lỗi thì tiếc xót, vì tội là một cái thú. Chúa thường gởi đến những nhân chứng để đánh động tâm hồn. Chúng ta rất may mắn được lắng nghe lời Chúa chỉ dậy và được Giáo Hội nhắc nhở luôn. Chúng ta cần cầu nguyện xin ơn can đảm để có thái độ dứt khoát với tội lỗi qúa khứ.

Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin rằng xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Mỗi ngày sống, chúng ta phải đối diện với rất nhiều cơn cám dỗ. Cám dỗ về danh, lợi và thú. Có nghĩa là khi còn sống, thân xác luôn đòi hỏi những nhu cầu rất tự nhiên. Chúng ta luôn có cơ hội để chọn lựa thái độ sống tốt. Cái danh cái lợi, ai mà không thích. Tiền bạc và lạc thú, mấy ai từ chối. Những thói đời tham sân si kéo ghì con người chúng ta lại. Người ta thường nói tới cái ‘thú’ ở đời. Lạc thú dẫn chúng ta vào những si mê quay cuồng trong thú vui nhục dục, tham lam danh lợi, tiền bạc, gian lận bài bạc và buông thả cuộc sống.

Tội lỗi cứ bám sát cuộc đời của chúng ta. Nếu chúng ta không dứt khoát khước từ và dũ bỏ, nó sẽ không buông tha chúng ta. Chúng ta cần tự xét, nhận lỗi và sửa lỗi mình mỗi ngày. Cũng giống như ngày hôm qua chúng ta đã ăn no, ngày hôm nay đói, lại muốn ăn. Hôm qua, chúng ta tắm rửa sạch sẽ, mát mẻ, hôm nay lại thấy dơ, nên phải tắm. Sáng thức dậy ra khỏi nhà và đi làm việc. Chiều lại trở về xum họp gia đình. Ai ra đi cũng mong trở về. Kẻ đi lạc, mong tìm được lối ra. Người rơi vào đường lầm, nên tìm đường trở lại. Khi sa ngã phạm tội, cần phải sám hối ăn năn. Tội hôm qua khác tội hôm nay. Cần xưng thú và lãnh ơn tha tội và xin hứa quyết lòng chừa. Mỗi lần phạm tội đều là tội mới trong hoàn cảnh mới. Chúng ta cần tiếp tục sám hối và trở về. Sống mỗi ngày cho trọn vẹn. Mỗi người được mời gọi đổi thay để sống tốt, thánh thiện và hoàn hảo hơn mỗi ngày.

Chúng ta có trí khôn để nhận biết giá trị của không gian và thời gian. Thời gian thuộc về Chúa. Mỗi ngày là một ngày mới hoàn toàn. Những điều chúng ta xem như cũ, cứ lặp đi lặp lại, nhưng không phải thế. Lời khuyên cũ được nhắc lại trong hoàn cảnh mới và với tâm tình mới. Mười năm trước chúng ta đã nghe câu truyện đó, hôm nay chúng ta được nghe lại cùng câu truyện nhưng đã có nhiều đổi thay. Khi xưa, chúng ta còn trẻ, còn hăng say và còn nhiều vấp ngã. Hôm nay, chúng ta trưởng hơn một chút, chững chạc hơn một tí và có thể nhẫn nại hơn. Điều quan trọng là chúng ta có tốt lành thánh thiện hơn không, hay vẫn dậm chân tại chỗ và đôi khi còn bị thụt lùi. Cho nên lời khuyên răn mời gọi đổi đời, trở về và sửa sai vẫn là cần thiết.

Trong thư gửi giáo đoàn Thessalônica, Thánh Phaolô vừa mời gọi và vừa cảnh báo: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư qủa quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.” (2 Thes 2,2). Hãy sống thanh thản trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng, chúng ta không phải bồn chồn lo lắng truyện gì sẽ xảy đến. Đừng để lòng bận vướng những oán thù đã qua. Cố gắng sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ân tình với Chúa và với anh chị em.

Lạy Chúa, thân con mỏi mệt, tâm con yếu đuối, lòng con tội lỗi và hồn con lạc xa Chúa. Con xin thành tâm hối lỗi, xin Chúa thứ tha và đưa dắt con về nẻo chính đường ngay.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Viếng thăm nhau

Viếng thăm nhau

Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II được coi là sứ giả của Thiên Chúa, và là con người của muôn người. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện trên 100 chuyến công du đến 129 quốc gia để gặp gỡ và chung sống với đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ mọi dân tộc trên khắp Năm Châu. Dù tuổi già sức yếu, hai lần té gãy xương, thậm chí cuộc ám sát năm 1981 đã khiến ngài từng ngã qụy vì viên đạn bắn gần vào tim, nhưng tất cả vẫn không làm chùn bước chân của người mục tử đi đến với đoàn chiên và tìm chiên lạc trở về.

Ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm lịch sử, một chuyến viếng thăm đã chinh phục được toàn thể luơng tâm nhân loại. Đó là khi Ngài dừng chân bên bức tường Than Khóc. Tại đây, ngài lập lại lời xin lỗi cho cả một quá khứ hiểu lầm đầy đau thương. Đây quả thực là một cuộc viếng thăm đã san bằng con đường gồ ghề gai góc và mở ra một chân trời mới.

Chân trời của sự tha thứ lẫn nhau.

Chân trời của sự tin tưởng lẫn nhau

Chân trời của những chân lý chung

Chân trời của những trách nhiệm chung

Và chân trời của sự cầu nguyện chung.

Đức thánh Cha Đức Bênêdicto 16 cũng ra đi, để đến với muôn dân. Đặc biệt trong chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tháng 11/2006, ngài đã thực hiện một chuyến viếng thăm đầy mạo hiểm theo cái nhìn người đời, nhưng là bước đi đầy lòng cậy trông và phó thác vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài đã đánh đổ mọi cái nhìn lệch lạc về ngài khi ôm chúc bình an với Đức Thượng phụ Bathôlômêô I, và khi ngài bước vào Đền Thờ Xanh trong sự kính trọng và đầy thiện cảm của anh em Hồi Giáo. Chính chuyến tông du có tính lịch sử này, giới truyền thông trên toàn thế giới cho rằng ngài đã đóng góp: “cho việc xây dựng một thế giới có khả năng nhận ra những chân lý chung trong tình huynh đệ và đối thoại, và không chiều theo đối kháng hay đầu hàng quyền lực sự chết”.

Trong cuộc đời dương thế, Chúa Giê-su luôn đi đến với mọi người. Mỗi bước đi của Ngài luôn để lại dấu ấn đầy yêu thương cho những ai được tiếp xúc với Ngài. Hôm nay, Gia-kêu đã được Chúa viếng thăm. Đây là một hồng phúc dành cho Gia-kêu. Gia Kêu không ngờ mình lại được Thiên Chúa viếng thăm. Những người Do Thái năm xưa càng không ngờ Thầy Giê-su, một vị Thầy đáng kính, một người thánh thiện lại ghé thăm kẻ tội lỗi. Nhưng đây lại là đường lối của Chúa. Chúa đã dùng cách này để mang tình yêu đổi lấy cuộc đời Gia Kêu. Chúa dùng tình yêu để cải hoá người tội lỗi. Chúa đến để tìm kiếm, để cứu chữa những gì đã mất. Chính trong chuyến viếng thăm lịch sử này, Chúa đã đổi đời Gia Kêu để từ đây ông không còn tham lam quyền bính hay tham lam tiền bạc. Gia Kêu đã sám hối và chuộc lại lỗi lầm. Ông đã cho đi những của phù vân. Ông đã biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời mai sau. Ông còn bỏ tiền để đền bù những việc lỗi công bằng bác ái mà ông đã gây ra. Ông đã tìm được sự bình an của tâm hồn sau một lần được Chúa viếng thăm.

Con đường đến với anh em phải là con đường của các môn đệ Thầy Giêsu. Hãy ra khỏi chính mình để đến với anh em. Hãy tìm đến các con chiên lạc mà đưa về ràn. Hãy hội nhập với đời để đem đạo vào đời. Chúa đã đi vào đời để gieo chân lý, niềm tin và hy vọng. Là môn đệ của Chúa cũng cần bước theo dấu chân của Thầy Giêsu. Dấu chân luôn rong ruổi khắp mọi nẻo đường. Dấu chân của người môn đệ đi đến đâu, sẽ để lại cho đời một màu xanh của yêu thương và hạnh phúc bình an. Ưoc mong mỗi người chúng ta hãy can đảm vượt qua những trở ngại từ bản thân, từ môi trường để dấn thân cho Tin mừng của Chúa được đến với muôn người. Hãy xoá mọi thành kiến xấu nơi anh em để có thể hoà hợp với anh em. Hãy xoá bỏ mọi ngăn cách giầu nghèo hay địa vị cao thấp mà sống hoà đồng với anh em. Hãy xoá bỏ mọi hiềm khích hận thù để sống bác ái yêu thương nhau ngõ hầu làm sáng danh Chúa qua những dấu chỉ của tình yêu thương.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã viếng thăm Gia-kêu xin cũng lưu lại nơi cuộc đời chúng con để biến đổi chúng con thành những tín hữu biết sống công bình bác ái và dấn thân hết mình phục vụ tha nhân. Amen.

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

 

Lần đầu tiên từ 20 năm nay, Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh Lễ tại nghĩa trang Verano, Roma

Lần đầu tiên từ 20 năm nay, Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh Lễ tại nghĩa trang Verano, Roma

ROMA. Sau 20 năm bị ngắt quãng, truyền thống cử hành thánh lễ tại nghĩa trang Verano ở Roma đã được ĐTC Phanxicô đã tái lập chiều ngày 1 tháng 11-2013.

Đây là nghĩa trang chính của thành Roma rộng 80 hécta và có từ hơn 20 thế kỷ, với các hang toại đạo thánh Ciriaca. Nơi đây có nhiều ngôi mộ được thực hiện như những tác phẩm nghệ thuật với các tượng đài. Vì thế nghĩa trang này cũng được coi như một bảo tàng viện lộ thiên. Tại đây, nhiều dòng tu và tổ chức của Giáo Hội cũng có những khu mộ chung, như khu mộ của Kinh sĩ đoàn Đền Thờ Thánh Phêrô, nơi Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, nguyên bí thư của ĐGH Gioan Phaolô 2 được an táng; và di hài Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã được an táng tại đây 10 năm, trước khi được di chuyển về nhà thờ hiệu tòa của ngài ở trong thành Roma. Hoặc tại khu mộ của Bộ truyền giáo, cũng có một số LM Việt Nam được an nghỉ, trong đó có Đức Ông Phêrô Trần Văn Hoài thuộc giáo phận Huế.

Hôm qua là lần đầu tiên từ 20 năm nay, một vị Giáo Hoàng lại cử hành thánh lễ tại nghĩa trang này vào chiều ngày lễ Các Thánh. Lần chót Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cử hành thánh lễ tại đây 11 lần, lần chót vào năm 1993. ĐGH Biển Đức 16 không giữ thói quen này, nhưng hồi năm 2008, ngài đã cử hành thánh lễ tại Đền thờ thánh Lorenzo cạnh nghĩa trang, nhân dịp viếng thăm mục vụ tại đây.

Đồng tế với ĐTC Phanxicô có ĐHY Giám quản Roma, Agostino Vallini, Đức TGM Phó Giám quản Filippo Iannone, 6 GM Phụ tá và cha sở giáo xứ thánh Lorenzo ngoại thành, Armando Ambrosi, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu, trong đó có ông thị trưởng thành Roma, Ông Ignazio Marino. Ông đi xe đạp đến nghĩa trang vài phút trước ĐTC.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã bỏ qua bài giảng dọn sẵn và ứng khẩu nói về giai đoạn cuối đời như một cuộc chờ đợi trong hy vọng, vì ơn cứu độ chúng ta đến từ Thiên Chúa và Chúa muốn cứu thoát chúng ta, chứ không phải vì công nghiệp của chúng ta. Ngài nói:

”Chính Chúa cứu chúng ta, chính Ngài mang chúng ta như người cha cầm tay dẫn chúng ta vào cuối đời lên trời cao, nơi có các tiền nhân của chúng ta. Một trong các cụ già – trong sách Khải Huyền – hỏi: ”Họ là ai, những người mặc áo trăng, những người công chính, những người thánh ở trên trời? Đó là những người đến từ đau khổ lớn lao, và họ đã giặt áo trong máu của Chiên Con, làm cho áo trở nên tinh tuyền”. Chúng ta chỉ có thể về Trời nhờ máu Chiên Con, nhờ máu Chúa Kitô. Chính Máu Chúa làm cho chúng ta trở nên công chính, mở cửa trời cho chúng ta. Và sở dĩ hôm nay chúng ta tưởng niệm những anh chị em đã đi trước chúng ta trong cuộc sống và nay đang ở trên Trời, vì họ đã được máu Chúa Kitô thanh tẩy. Và đó chính là niềm hy vọng của chúng ta, niềm hy vọng nhờ máu của Chúa Kitô. Và niềm hy vọng này không làm ta thất vọng. Nếu chún gta tiến bước với Chúa trong cuộc sống, Ngài sẽ không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng.

ĐTC nói thêm rằng: ”Hôm nay là một ngày hy vọng. Anh chị em chúng ta đang ở trước mặt Thiên Chúa. Cả chúng ta cũng sẽ đưcơ ở đó, nhờ ơn thánh của CHúa, nếu chúng ta tiến bước với Chúa Giêsu. Và thánh Tông Đồ kết luận: ”Ai hy vọng nơi Chúa, thì thanh tẩy chính mình”. Cả niềm hy vọng cũng thay tẩy chúng ta!”

Cuối thánh lễ, trước khi ban phép lành, ĐTC tái mời gọi cầu nguyện cho những người tị nạn bị thiệt mạng trong sa mạc và trên biển cả, và cầu cho những người sống sót đang ở trong các trại tiếp cư sớm được đi định cư tại nơi tốt đẹp hơn.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha trưa ngày Lễ Các Thánh

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha trưa ngày Lễ Các Thánh

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa 1 tháng 11-2013, với gần 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu hãy chu toàn ơn gọi nên thánh, và ngài mời gọi cầu nguyện cho những anh chị em bị thiệt mạng ở sa mạc nước Niger bên Phi châu trên đường đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã giải thích những đặc tính của các thánh và nói: ”Ngày nay, các thánh nói gì với chúng ta? Các ngài nói với chúng ta rằng: Hãy tín thác vào Chúa, vì Chúa không làm ta thất vọng! Chúa là người bạn của chúng ta. Không bao giờ đánh lừa chúng ta. Qua chứng tá, các thánh khuyến khích chúng ta đừng sợ đi ngược dòng hoặc sợ bị hiểu lầm, bị chế nhạo khi chúng ta nói về Chúa và về Tin Mừng”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Nên thánh không phải là một đặc ân của vài người, nhưng là ơn gọi của tất cả mọi người. Vì thế, tất cả chúng ta đều được mời gọi tiến bước trên con đường thánh thiện, vài con đường này có một tên, một khuôn mặt, đó là Chúa Giêsu Kitô. Trong Phúc Âm chính Chúa chỉ đường cho chúng ta, đó là con đường các Mối Phúc thật (Xc Mt 5,1-12). Thực vậy, Nước Trời là của những người không đặt an ninh của họ nơi sự vật, nhưng nơi tình thương của Thiên Chúa, không tự coi mình là người công chính, không xét đoán người khác, các thánh là những ngừơi biết chịu đau khổ với người khổ đau, vui mừng với người vui mừng, không bạo hành, nhưng từ bi và là những người xây dựng hòa giải và hòa bình”.

ĐTC cũng nhấn mạnh một khía cạnh khác, đó là ”Các thánh không phải là những siêu nhân, cũng chẳng phải là những người sinh ra đã hoàn hảo. Họ là những người đã sống cuộc sống bình thường, với vui mừng và đau khổ, cơ cực và hy vọng, trước khi đạt tới vinh quang thiên quốc. Một khi được biết tình yêu của Thiên Chúa, các ngài theo Chúa với trọn tâm hồn, vô điều kiện và không giả hình; các ngài hiến mạng sống để phục vụ tha nhân, chịu đựng đau khổ và nghịch cảnh mà không oán ghét và lấy thiện báo ác, phổ biến vui mừng và an bình.. Các thánh không oán ghét.”

Sau kinh truyền tin và phép lành, ĐTC cho biết ngài đến nghĩa trang Verano vào ban chiều để dâng thánh lễ cầu cho những người quá cố. Ngài cũng hiệp ý với tất cả những ngừơi viếng thăm nghĩa trang trong những ngày này và đặc biệt ngài cầu nguyện cho các nạn nhân của bạo lực, nhất là những tín hữu Kitô đã bỏ mình vì bị bách hại. ĐTC không quên những anh chị em chết khát hôm 30-10-2013 ở sa mạc Sahara phía bắc Niger trên đường tìm cách vượt biên đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn”.

Người ta tìm thấy xác của 87 người tị nạn, phần lớn là các trẻ em. Những người này muốn đi qua Algérie bất hợp pháp, nhưng xe vận tải chở họ bị hư. (SD 1-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

BÍ QUYẾT NÊN THÁNH

 BÍ QUYẾT NÊN THÁNH

Năm phụng vụ diễn tả lịch sử cứu độ và tuyệt đỉnh của lịch sử này là cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô. Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất- mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.

Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô  là Đấng Cứu Độ.Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể,đã sinh ra,đã chết,đã sống lại,lên trời ngự  bên hữu Chúa Cha,và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội. Các  ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.Các ngày lễ này có hai cao điểm:

– Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ.Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người: “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ… Người đã làm những điều cao cả”.

– Lễ Các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ: “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.

Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là “một đoàn người đông đảo, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ”. Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ chúng ta.

1. Các Thánh Nam Nữ là ai?

Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa tốt lành.

Các Thánh Nam Nữ là những người đã thực hiện những điều mà Thánh Phanxicô Átsidi dệt thành Kinh Hòa Bình:

Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…

Các Thánh Nam Nữ  đông vô kể: “Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên… Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn” (Kh 7,2-4).

Con số “một trăm bốn mươn bốn ngàn” chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. “Một trăm bốn mươn bốn ngàn” trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad… không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: “Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế” (Kh 7,4).

Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là  cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở  thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Jacob trong nước trời”.

Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân tộc.

2. Bí quyết nên thánh

Thánh Gioan viết: “Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao” (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa: “Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài: “Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa… Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh” (Kh 7,15-17).

Các Thánh “đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”. Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.

Có rất nhiều vị  thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực.

Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa.

Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai.

Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ.

Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác.

Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa.

Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ.

Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người.

Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh.

Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người. (ĐTGM. P. Bùi Văn Đọc).

Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu… Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi “qua đau khổ đến vinh quang”.

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng”.

Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội phong thánh để tôn vinh Thiên Chúa và khuyến khích chúng ta noi theo gương sống của Các Thánh.

3. Ơn gọi lớn nhất của con người là nên thánh

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: "Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: "Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người" (GH 11.3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.

Trong Năm Phụng Vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Giáo hội tôn kính tất cả các vị Thánh, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.

Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha tín hữu thực thi bác ái trong đời sống thường nhật

Đức Thánh Cha tín hữu thực thi bác ái trong đời sống thường nhật

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 31 tháng 10-2013, dành cho 200 thành viên Hội Thánh Phêrô Tông Đồ, ĐTC Phanxicô nhiệt liệt khuyến khích các tín hữu Kitô biểu lộ niềm tin trong đời sống hằng ngày qua các hoạt động bác ái.

Các thành viên Hội Thánh Phêrô Tông Đồ đến trao cho ĐTC số tiền gọi là ”Đồng tiền thánh Phêrô” họ đã quyên góp được trong các giáo xứ ở Roma để tài trợ các hoạt động từ thiện bác ái của ĐTC.

Ngài nhiệt liệt cám ơn họ về nghĩa cử này, đồng thời nhận xét rằng ”Một niềm tin được sống một cách nghiêm túc thường gợi lên lối sống bác ái chân thực. Chúng ta có bao nhiêu chứng tá đơn sơ của những người trở thành tông đồ bác ái trong gia đình, nơi trường học, giáo xứ, nơi làm việc và các cuộc gặp gỡ xã hội, nơi đường phố, và mọi nơi. Họ coi trọng Tin Mừng. Người môn đệ chân thực của Chúa đích thân dấn thân trong một sứ vụ bác ái có chiều kích là nhiều hình thức nghèo khổ của con người”.

ĐTC cũng nhắc nhở rằng: ”Mỗi ngày mỗi người chúng ta được kêu gọi trở thành người an ủi, biến thành dụng cụ khiêm tốn nhưng quảng đại của Chúa Quan Phòng và lòng từ bi thương xót của Chúa, cảm thông và chia sẻ, trở thành tông đồ sự an ủi của Chúa có sức nâng đỡ và trao ban can đảm”.

Thánh lễ tại mộ Đức Gioan Phaolô 2

Trước đó, lúc 7 giờ sáng, ĐTC đã cử hành thánh lễ tại Nhà Nguyện thánh Sebastiano, nơi có mộ của Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Tại đây mỗi sáng thứ năm hàng tuần vẫn có một nhóm tín hữu Ba Lan tham dự thánh lễ. Nhưng hôm qua là một dịp đặc biệt, áp ngày kỷ niệm Đức Gioan Phaolô 2 thụ phong LM ngày 1 tháng 11-1946.

ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ cùng với 120 LM đồng tế, phần lớn là người Ba Lan, trước sự tham dự của đông đảo tín hữu. Trong bài giảng ngài diễn giải về hai bài đọc của ngày lễ. Ngài nhấn mạnh 2 hình ảnh đặc biệt: một là lời thánh Phaolô quả quyết ”Không ai có thể tách biệt tôi khỏi tình yêu Chúa Kitô”. Thánh nhân vẫn trung thành yêu mến Chúa trong những cuộc bách hại, bệnh tật, phản bội, trong tất cả những điều đó, không gì có thể tách rời thánh nhân ra khỏi tình yêu Chúa.. Không có tình yêu đối với Chúa Kitô, không nhìn nhận và nuôi dưỡng mình bằng tình yêu ấy thì không thể là tín hữu Kitô chân thực”.

Hình ảnh thứ hai là Chúa Giêsu khóc khi thấy thành Jerusalem: dân thành này đã không hiểu tình yêu Chúa; Jerusalem đã không để cho mình được Chúa yêu thương, nhưng lại tín thác nơi những thần tượng.

ĐTC mời gọi các tín hữu hãy chọn lựa giữa hai thái độ. Ngài nói: ”Chúng ta hãy nhìn lòng trung thành của thánh Phaolô và sự bất trung của Jerusalem, và ở giữa chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu, nhìn con tim của Ngài đã yêu thương chúng ta dường nào. Chúng ta hãy tự hỏi: ”Tôi giống thánh Phaolô hay là giống Jerusalem? Tình yêu của tôi đối với Thiên Chúa có mạnh như tình yêu của Thánh Phaolô hoặc con tim của tội nguội lạnh như con tim của dân thành Jerusalem?” (SD 31-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha sẽ tấn phong các Hồng Y mới vào ngày 22-2-2014

Đức Thánh Cha sẽ tấn phong các Hồng Y mới vào ngày 22-2-2014

VATICAN. Hôm 31 tháng 10-2013, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, xác nhận tin ĐTC sẽ triệu tập công nghị để tấn phong các Hồng Y mới vào ngày 22-2 năm 2014.

Tin này được giới báo chí nói đến trong những ngày qua. Cha Lombardi cho biết trong dịp họp Hội đồng 8 Hồng y cố vấn từ ngày 1 đến 3-10-2013, và sau đó là cuộc họp Hội đồng của Thượng HĐGM thế giới trong 2 ngày 7 và 8-10, ĐTC đã thông báo cho các tham dự viên ý định của ngài triệu tập một công nghị tấn phong Hồng y mới vào lễ kính Tòa Thánh Phêrô 22-2-2013. ĐTC quyết định thông báo điều này để dễ hoạch định chương trình cho các cuộc họp khác với sự tham dự của các Hồng y từ nhiều nơi trên thế giới.

Cha Lombardi cũng nói rằng người ta có thể đoán trước ĐTC muốn có cuộc họp của Hồng y đoàn trước lễ tấn phong các Hồng y mới, như các vị tiền nhiệm của ngài đã làm. Theo đó, Hội đồng 8 Hồng y cố vấn sẽ nhóm khóa họp thứ 3 trong hai ngày 17 và 18-2 năm tới, và sau công nghị tấn phong Hồng Y mới có cuộc họp của Hội đồng Thượng HĐGM thế giới trong hai ngày 24 và 25-2.

Ngoài ra, Hội đồng 15 Hồng y về vấn đề kinh tế và tổ chức của Tòa Thánh cũng sẽ nhóm vào tháng 2 năm tới, có lẽ là trong tuần lễ trước khi có công nghị tấn phong Hồng y mới.

Vào khoảng giữa tháng 2 năm tới, Hồng y đoàn sẽ còn tối đa là 201 vị, trong số này có 106 Hồng y cử tri. Điều này có nghĩa là nếu ĐTC Phanxicô quyết định giữ nguyên qui luật tối đa là 120 Hồng y cử tri, thì ngài có thể bổ nhiệm khoảng 14 Hồng y mới và có thể có thêm vài vị trên 80 tuổi. (SD 31-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP– Vatican Radio

Phái đoàn Công giáo đến Seoul

Phái đoàn Công giáo đến Seoul

Philippa Hitchen từ Seoul, Hàn Quốc

Phái đoàn Công giáo đến Seoul thumbnail

Đức Tổng giám mục Yeom Soo-jung của tổng giáo phận Seoul tiếp đón phái đoàn

Một phái đoàn Công giáo gồm đông đảo các chuyên gia về đại kết đã tới Seoul, Hàn Quốc cuối tuần qua, chuẩn bị tham dự Đại hội X của Hội đồng các Giáo hội Thế giới được tổ chức ở Busan từ 30-10 tới 8-11.

Trước thềm đại hội, phái đoàn dành hai ngày đi thăm cộng đoàn Công giáo địa phương và gặp gỡ lãnh đạo của các Giáo hội khác cũng như các tôn giáo bạn.

Sau khi được Sứ thần Tòa thánh tại Hàn Quốc là Đức Tổng giám mục Osvaldo Padilla đón tiếp hôm thứ Bảy, phái đoàn tham dự Thánh lễ buổi trưa Chủ nhật tại nhà thờ Chính tòa Myeongdong ở Seoul, gặp gỡ Đức Tổng giám mục Yeom Soo-jung và cầu nguyện trong hầm mộ chứa hài cốt của một số thừa sai người Pháp tiên khởi chịu tử vì đạo tại một trong những nơi bách hại đạo hồi giữa thế kỷ 19.

Sau đó phái đoàn thăm chủng viện Seoul đang đào tạo linh mục cho khoảng 270 chủng sinh, và gặp gỡ Đức Hồng y Cheong Jinsuk, cựu tổng giám mục tổng giáo phận Seoul. Đức Hồng y chia sẻ những câu chuyện trong những năm ngài ở chủng viện từ 1954-1961. Kể lại cảnh đói nghèo tột cùng của người Hàn Quốc tại thời điểm đó, Đức Hồng y giải thích cách thức Giáo hội đã phải tìm cách thích nghi với sự phát triển phi thường ở thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, vốn đã đưa đất nước của ngài trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.

Ngài cũng nói đến quan hệ tốt đẹp mà Giáo hội Công giáo hòa hợp với Giáo hội Tin Lành để có số tín hữu chiếm 18% dân số Hàn Quốc. Ngài tự hào rằng năm 1977 Hàn Quốc đã trở thành quốc gia đầu tiên xuất bản bản dịch đại kết của quyển Kinh thánh bằng ngôn ngữ bản địa.

Sau cùng các chủng sinh dẫn phái đoàn đi thăm thư viện và nhà nguyện nơi lưu giữ hài cốt của linh mục người Hàn đầu tiên Cha Kim Tae-gon, người đã chịu bách hại và chết vì đức tin năm 1846, khi mới được 26 tuổi.

Trích từ UCANEWS VN

 

 

Đức Phanxicô tiếp kiến bà Aung San Suu Kyi

Đức Phanxicô tiếp kiến bà Aung San Suu Kyi

Giacomo Galeazzi cho Vatican Insider/La Stampa

Đức Phanxicô tiếp kiến bà Aung San Suu Kyi thumbnail

Picture Courtesy: Vatican Insider/La Stampa

Cho tới nay và chưa bao giờ thân thiết như thế. Hôm 29-10 Đức Thánh cha Phanxicô tiếp kiến nhà đoạt giải Nobel Hòa bình người Miến Điện bà Aung San Suu Kyi tại thư viện giáo hoàng trong Điện Tông tòa. Trước đó bà đã được vinh danh là công dân danh dự của Rôma trên Đồi Capitoline cổ kính.

Đã có “một cảm xúc tuyệt vời về sự hòa hợp và hài hòa” trong cuộc gặp gỡ của Đức Thánh cha với “nhân vật biểu tượng của thế giới châu Á” này, phát ngôn viên Tòa thánh linh mục Federico Lombardi cho biết.

Cuộc tiếp kiến của Đức Giáo hoàng với nhà lãnh đạo của biểu tượng dân chủ và nhân quyền Miến Điện là một sự kiện lịch sử có thể mang lại – dù không ngay lập tức – những kết quả nghiêm túc về chính trị, tôn giáo và văn hóa. Theo nhà lãnh đạo đối lập Miến Điện, nếu không có thay đổi về hiến pháp, thì các cuộc bầu cử tổng thống ở Miến Điện năm 2015 sẽ không có dân chủ, công bằng hay mang tính đại diện. Năm 2015, Miến Điện sẽ bỏ phiếu bầu quốc hội và việc bầu cử này sẽ canh tân toàn bộ quốc hội vốn khi đó sẽ bầu ra một nguyên thủ quốc gia.

Quốc gia này đã tổ chức các cuộc bầu cử (có phần nào) tự do đầu tiên của mình trong lịch sử mới đây sau nhiều thập niên dưới chế độ độc tài quân sự, bằng cuộc bầu cử bổ sung năm 2012 đã mở đường cho nhà lãnh đạo Liên minh Dân tộc vì dân chủ – người đã bị quản thúc 15 năm trong suốt 22 năm qua bởi chính quyền quân sự – bước vào quốc hội. Bà Aung San Suu Kyi đã tuyên bố bà muốn ra tranh cử chức vụ lãnh đạo cao nhất ở đất nước này.

Nhưng trước hết hiến pháp cần phải được tu chính bởi hiến pháp hiện nay do chính quyền quân sự thông qua hồi năm 2008 bằng cuộc bỏ phiếu khôi hài trong tình hình khẩn cấp do Bão Nargis gây ra và vẫn còn có một điều khoản ngăn cản nhà lãnh đạo không được công nhận này ra tranh cử một cách dân chủ. Điều khoản đó nói rằng các công dân lập gia đình và có con với người nước ngoài không thể được bầu cử.

Theo Asianews, hai con trai của bà mang quốc tịch Anh cũng như cha của họ là Michael Aris qua đời vì bệnh tật năm 1999 là người Anh. “Mọi quốc gia – chứ không chỉ đất nước tôi – đều cần có hòa bình. Hòa bình xuất phát từ con tim và để có được hòa bình, mọi nguồn cơn của lòng thù hận và sợ hãi phải được xóa bỏ” – bà Aung San Suu Kyi nói trong một tuyên bố.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha chào mừng Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô

Đức Thánh Cha chào mừng Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô

VATICAN. ĐTC Phanxicô chào mừng Đại hội kỳ 10 của Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô nhóm tại Hàn Quốc và tái bày tỏ quyết tâm của Giáo Hội Công Giáo cộng tác với Hội đồng này.

3 ngàn vị lãnh đạo các Giáo Hội Kitô không Công Giáo tham dự Đại hội nhóm 7 năm một lần của Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô, khai diễn ngày 30-10-2013 tại Phủ Sơn (Busan), là thành phố lớn thứ hai của Hàn Quốc, sau thủ đô Hán Thành.

Sứ điệp được ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô tuyên đọc trong buổi khai mạc đại hội. Ngài nhắc đến chủ đề Đại Hội lần này là ”Lạy Thiên Chúa của sự sống, xin dẫn chúng con đến công lý và hòa bình” và nhận định rằng ”Chủ đề này trước tiên là một lời khẩn nguyện dâng lên Chúa Ba Ngôi.. Hễ khi nào hồng ân sự sống được quí chuộng, thì công lý và hòa bình trổi vượt, Nước Chúa hiện diện và quyền năng tối thượng của Chúa đang hoạt động.. Vì thế, tôi tin tưởng rằng Đại hội này sẽ giúp củng cố quyết tâm của mọi Kitô hữu gia tăng cầu nguyện và cộng tác trong việc phụng sự Tin Mừng và thiện ích toàn diện của gia đình nhân lại. Thế giới hoàn cầu hóa trong đó chúng ta đang sống đòi chúng ta làm chứng tá chung về phẩm giá Chúa ban cho mỗi người, và thăng tiến hữu hiệu những điều kiện văn hóa, xã hội và luật pháp, giúp mỗi người và các cộng đoàn tăng trưởng trong tự do, và nâng đỡ sứ mạng của gia đình như nền tảng của xã hội, củng cố một nền giáo dục lành mạnh và toàn diện cho giới trẻ, bảo đảm cho mọi người được tự do tôn giáo không bị cản trở”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Trong niềm trung thành với Tin Mừng và đáp lại nhu cầu cấp thiết của thời nay, chúng ta được kêu gọi tìm đến với những người đang ở ngoài rìa các xã hội chúng ta và chứng tỏ tình liên đới đặc biệt với những anh chị em chúng ta dễ bị tổn thương nhất: những người nghèo, người tàn tật, hài nhi chưa sinh ra và bệnh nhân, người di dân và tị nạn, người già và người trẻ thiếu công ăn việc làm”.

Sau cùng ĐTC cho biết ngài cầu nguyện để Đại hội của Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô góp phần mang lại một đà tiến mới cho sức sinh động và quan điểm cho mọi người dấn thân cho chính nghĩa hiệp nhất các tín hữu Kitô, trong niềm trung thành với ý muốn của Chúa cho Giáo Hội của Ngài, cởi mở đối với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Linh.

Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô là một tổ chức qui tụ 345 Giáo Hội thành viên gồm Chính Thống, Tin Lành, Anh giáo và các Giáo Hội Kitô không Công Giáo khác. Giáo Hội Công Giáo không phải là thành viên, nhưng cũng gửi khoảng 25 đại biểu quan sát viên đến dự, trong đó có các chức sắc của Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, Liên HĐGM Á châu và một số tổ chức Công Giáo khác.

Trong 9 ngày nhóm họp, cho đến 8-11 tới đây, Đại hội duyệt lại công việc của Hội đồng đại kết, xác định các chính sách tổng quát, công bố các tuyên ngôn và bầu Ủy ban trung ương của Hội đồng đại kết. (SD 30-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Sự hiệp thông của các thánh

Sự hiệp thông của các thánh

Sự hiệp thông của các thánh nảy sinh từ sự hiệp thông với Thiên Chúa và niềm tin nơi Chúa Kitô. Nó nối kết giữa các tín hữu còn lữ hành trên trần gian này với các tín hữu đang được thanh luyện trong Luyện ngục và các thánh trên Thiên Đàng trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiến kiến chung sáng thứ tư 30 tháng 10-2013 tại quảng trường thánh Phêrô. Đã có hàng chục ngàn tín hữu phải đứng ngoài quảng trường Pio XII và đường Hòa Giải. Trong số hàng trăm đoàn hành hương hiện diện cũng có hai nhóm Việt Nam đến từ Đức và Hoa Kỳ. Đặc biệt có phái đoàn các nhóm tôn giáo Iraq do Đức Hồng Y Jean Louis Tauran, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn hướng dẫn, đang tham sự khóa họp tại Roma.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”sự hiệp thông của các thánh”, là một thực tại rất đẹp của đức tin. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng kiểu nói này diễn tả hai thực tại: sự hiệp thông giữa các điều thánh thiện, và sự hiệp thông giữa các người thánh thiện (s. 948). Ý nghĩa thứ hai này là một trong những sự thật trao ban an ủi nhất trong đức tin của chúng ta, bởi vì nó nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn, nhưng có một sự hiệp thông sự sống giữa tất cả những ai thuộc về Chúa Kitô. Đó là một sự hiệp thông nảy sinh từ lòng tin. Thật thế, từ ”các thánh” quy chiếu về những người tin nơi Chúa Giêsu và được tháp nhập vào Người trong Giáo Hội qua bí tích Rửa Tội. Vì thế các kitô hữu tiên khởi cũng đã được gọi là ”các thánh” (x. Cv 9,13.32.41; Rm 8,27; 1 Cr 6,1).

Phúc âm thánh Gioan chứng thực rằng trước cuộc Khổ Nạn, Đức Giêsu đã cầu xin Thiên Chúa Cha cho sự hiệp thông giữa các môn đệ, với các lời này: ”Để tất cả chúng nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ước gì chúng cũng ở trong chúng ta, để thế giới tin rằng Cha đã sai Con” (Gv 17,21). Đức Thánh Cha giải thích sự hiệp thông trong Giáo Hội như sau:

Giáo hội, trong sự thật sâu thẳm nhất của nó, là hiệp thông với Thiên Chúa, sự hiệp thông của tình yêu với Chúa Kitô và với Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, kéo dài trong sự hiệp thông huynh đệ. Tương quan này giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là ”khuôn mẫu” của sự gắn bó giữa các kitô hữu chúng ta: nếu chúng ta được tháp nhập một cách thân tình vào ”khuôn mẫu” này, vào lò lửa tình yêu nồng cháy là Thiên Chúa Ba Ngôi, thì khi đó chúng ta có thể thực sự trở thành một con tim một linh hồn giữa chúng ta, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa thiêu rụi các ích kỷ, đốt cháy các thành kiến và các chia rẽ bên trong và bên ngoài của chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa cũng thiêu rụi cả các tội lỗi của chúng ta nữa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Nếu có sự đâm rễ trong suối nguồn Tình Yêu là Thiên Chúa, thì khi đó người ta cũng kiểm thực được sự vận hành hỗ tương: từ các anh chị em tới Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Kinh nghiệm của sự hiệp thông huynh đệ dẫn đưa tôi tới sự hiệp thông với Thiên Chúa. Hiệp nhất với nhau dẫn đưa chúng ta tới sự hiệp nhất với Thiên Chúa, dẫn đưa chúng ta tới mối dây này với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Và đây là khía cạnh thứ hai trong sự hiệp thông của các thánh mà tôi muốn nhần mạnh: đức tin của chúng ta cần sự nâng đỡ của những người khác, đặc biệt trong những lúc gặp khó khăn. Nếu chúng ta hiệp nhất, thì đức tin trở thành mạnh mẽ. Thật là đẹp biết bao nâng đỡ nhau trong cuộc mạo hiểm tuyệt vời của đức tin! Tôi nói điều này bởi vì khuynh hướng khép kín trong riêng tư đã ảnh hưởng trên cả lãnh vực tôn giáo nữa, đến độ nhiều khi thật là vất vả xin sự trợ giúp tinh thần của nhưng người chia sẻ linh nghiệm kitô với chúng ta. Ai trong chúng ta lại đã không sống kinh nghiệm bất an, lạc lõng và cả nghi ngờ trên con đường lòng tin? Chúng ta tất cả đều đã sống kinh nghiệm này, cả tôi nữa: nó là phần của con đường đức tin, là phần của cuộc sống. Tất cả những điều này không được khiến cho

chúng ta ngạc nhiên, bởi vì chúng ta là người, bị ghi dấu bởi sự mỏng giòn và các hạn hẹp. Tuy nhiên, trong những lúc khó khăn ấy cần phải tín thác nơi sự trợ giúp của Thiên Chúa, qua lời cầu nguyện con thảo, và đồng thời thật là quan trọng tìm ra lòng can đảm và sự khiêm tốn rộng mở chính mình cho người khác, để xin trợ giúp, để xin người khác giúp chúng ta một tay. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã làm điều này và chúng ta đã thành công ra khỏi vấn đề và tìm thấy Thiên Chúa một lần nữa. Trong sự hiệp thông này hiệp thông có nghĩa là hiệp nhất chung.

Đề cập tới khía cạnh thứ ba trong sự hiệp thông của các thánh Đức Thánh Cha khẳng định rằng sự hiệp thông của các thánh đi xa hơn cuộc sống trần gian này, vượt xa hơn cái chết và kéo dài luôn mãi. Nó là một sự hiệp nhất tinh thần nảy sinh từ bí tích Rửa Tội không bị bẻ gẫy bởi cái chết, nhưng nhờ Chúa Kitô phục sinh, nó được chỉ định tìm thấy sự viên mãn trong cuộc sống vĩnh cửu. Có một mối dây sâu xa và không thể chia lìa giữa những người còn lữ hành trên trần gian này và những người đã vượt qua ngưỡng cửa của cái chết để bước vào nơi vĩnh cửu. Tất cả những người đã được rửa tội trên trần gian này, các linh hồn trong Luyện Ngục và tất cả các thánh đã ở trên Thiên Đàng làm thành một gia đình duy nhất. Sự hiệp thông này giữa đất và trời được thực hiện một cách đặc biệt trong lời cầu nguyện bầu cử.

Anh chị em thân mến, chúng ta có vẻ đẹp này. Đó là một thực tại của chúng ta tất cả, khiến cho chúng ta là anh chị em với nhau. Thực tại này đồng hành với chúng ta trên con đường cuộc sống và khiến cho chúng ta tìm thấy nó một lần nữa trên trời. Chúng ta hãy bước đi trên con đường này với sự tin tưởng và niềm vui. Một kitô hữu phải vui tươi, với niềm vui có biết bao nhiêu anh chị em được rửa tội cùng đi với mình. Được nâng đỡ bởi các anh chị em bước đi trên cùng con đường này để về trời. Và với sự trợ giùp của các anh chị em đang ở trên trời và cầu xin Chúa Giêsu cho chúng ta chúng ta hãy tiến lên trên con đường này trong tươi vui!

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau hiện diện tại quảng trường: các phái đoàn hành hương của nhiều giáo phận Pháp, do các Giám Mục hướng dẫn như tổng giáo phận Paris và Rennes. Các phái đoàn đến từ Philippines, Việt Nam và Đông Timor. Các phái đoàn đến từ Châu Mỹ Latinh như Argentina, El Salvador, Mehicô và Brasil. Đức Thánh Cha đã khuyến khích mọi người để cho tình yêu của Thiên Chúa nung nấu để thay đổi bộ mặt của gia đình, xứ đạo và thế giới.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết rằng thứ sáu tới đây là lễ các Thánh. Ước chi chứng tá của các ngài củng cố nơi người trẻ xác tín Thiên Chúa đồng hành với họ trên đường đời; nâng đỡ các anh chị em đau yếu bằng cách làm vơi nhẹ khổ đau của họ; và trợ giúp các cặp vợ chồng mới cưới trong nỗ lực xây dựng gia đình trên niềm tin nơi Thiên Chúa.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phèp lành tòa thánh Đức Thành Cha ban cho mọi người.

Cũng như mọi lần đã có hàng chục trẻ em được Đức Thánh Cha hôn. Đức Thánh Cha đã xuống xe díp và chào một nhóm hàng trăm trẻ em giúp lễ thuộc mọi chủng tộc khác nhau. Một chú bé đã xin chữ ký của Đức Thánh Cha và vui sướng reo hò sau khi có được chữ ký của ngài. Trước khi Đức Thánh Cha lên tới khán đài đã có một phái đoàn của một thành phố mặc sắc phục thời Trung Cổ rất đẹp với cờ quạt và trống nghiêng mình chào Đức Thánh Cha trông rất ngoạn mục. Trong khi chào tín hữu đứng hai bên khán đài, có một chú bé đã tặng Đức Thánh Cha cái mũ ca lốt trắng. Ngài nhận chiếc mũ mới và lấy chiếc mũ cũ của ngài đội lên đầu chú bé. Đức Thánh Cha cũng đã dừng lại rất lâu để ôm hôn, chúc lành và an ủi các bệnh nhân ngồi trên xe lăn.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Chính sách ngoại giao của Tòa Thánh Vatican trong 50 năm qua

Chính sách ngoại giao của Tòa Thánh Vatican trong 50 năm qua

Phỏng vấn Đức Hồng Y Achille Silvestrini, nguyên Tổng Trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương

Ngày 25 tháng 10-2013 Đức Hồng Y Achille Silvestrini tròn 90 tuổi. Nhân dịp này Đức Hồng Y, nguyên Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, đã dành cho phóng viên Filippo Rizzi của nhật báo Tương Lai, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội Đồng Giám Mục Italia, một bài phỏng vấn liên quan tới Công Đồng Chung Vatican II và đường lối ngoại giao của Tòa Thánh Vatican.

Đức Hồng Y Achille Silvestrini sinh năm 1923, thụ phong linh mục năm 1946. Sau khi đậu tiến sĩ Lưỡng Luật tại đại học Laterano, cha Silvestrini theo học Trường Ngoại Giao Tòa Thánh, và năm 1953 bắt đầu làm việc trong Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, đặc trách các nước vùng Đông Nam Á. Từ năm 1958 Đức Ông Silvestrini là thư ký của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh Domenico Tardini, và Đức Hồng Y Amleto Giovanni Cicongani cho tới năm 1969.

Như là người đặc trách các tương quan với các tổ chức quốc tế, Đức Ông Silvestrini đã là cộng sự viên của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Agostino Casaroli, và trợ giúp người trong việc thực hiện chính sách cởi mở và đối thoại với các nước cộng sản Đông Âu. Đức Ông đã tham dự nhiều hội nghị quốc tế như: hội nghị Helsinki về an ninh và cộng tác Âu châu năm 1975, các cuộc họp chuẩn bị cho hội nghị này tại Genève năm 1973, hội nghị Belgrad để kiểm thực việc áp dụng. Đức Ông cũng đã hướng dẫn phái đoàn Tòa Thánh tham dự phiên họp của Liên Hiệp Quốc về việc sử dụng năng lượng hạt nhân cho các mục đích dân sự năm 1971; hội nghị về thỏa hiệp không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1975.

Năm 1979 Đức Ông Silvestrini được chỉ định làm Thư ký phân bộ liên lạc với các nước của Tòa Thánh và được nâng lên hàng Tổng Giám Mục. Năm 1983 Đức Tổng Giám Mục Silvestrini đại diện Tòa Thánh tham dự Hội nghị an ninh và cộng tác Âu châu lần thứ ba tại Madrid. Ngài cũng là trưởng phái đoàn Tòa Thánh tham dự cuộc họp tái duyệt xét các Thỏa hiệp Laterano với chính phủ Italia năm 1984; cũng như tham dự các cuộc họp liên quan tới việc giải quyết cuộc tranh chấp quần đảo Falklands giữa Anh Quốc và Argentina, và cuộc cách mạng tại Nicaragua. Năm 1988 Đức Gioan Phaolô II vinh thăng Đức Cha Silvestrini làm Hồng Y. Sau đó ngài được chỉ định làm Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông Phương, cho tới khi về hưu năm 1999.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, 50 năm đã trôi qua kể từ khi Đức Gioan XXIII triệu tập Công Đồng Chung Vatican II ngày 11 tháng 10 năm 1962. Đức Hồng Y nghĩ gì về thời điểm này?

Đáp: Tôi tin rằng cần phải tái khởi hành từ Công Đồng Chung Vatican II, từ tất cả những gì chưa trở thành thực tại và cần được thi hành. Cùng với người bạn thân của tôi là Đức cố Hồng Y Carlo Maria Martini, trong các năm qua, biết bao lần chúng tôi thường tự vấn liên quan tới sự cấp thiết phải tìm ra một thứ ngôn ngữ mới để nói với nhân loại ngày nay, một cách đặc biệt với các thế hệ trẻ, và đưa ra các câu trả lời thích đáng cho xã hội tân tiến hiện nay. Thách đố chờ đợi Giáo Hội là ra khỏi các môi trường chật hẹp của các phòng thánh, trong một nghĩa nào đó là ”tự giải trừ giáo sĩ” cả với giáo dân nữa và sống Tin Mừng một cách đích thực. Tôi cho rằng Âu châu không còn có thể ghi dấu các biên giới của giáo hội học nữa. Một thí dụ? Việc bầu Đức Bergoglio làm Giáo Hoàng đã không chỉ có nghĩa của sự mới mẻ: người Kế vị thánh Phêrô đến từ một nước xa xôi. Cung cách là Giám Mục Roma không chỉ gợi ý việc tái phục hồi tính cách hoàn vũ trong sứ mệnh của Giáo Hội Công Giáo, mà cũng mời gọi tất cả mọi kitô hữu canh tân ngôn ngữ loan báo đức tin, như chúng ta đã thấy trong nền thần học cho đến nay. Việc bầu Đức Bergoglio, là người gắn bó với huấn quyền của Đức Gioan Phaolô II và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, có lẽ thúc giục chúng ta lấy lại các đề tài đã từng là trọng tâm của các cuộc thảo luận thời Công Đồng; tái khám phá ra bằng cách tiếp thu các bài học của những ngôn sứ như Lercaro và Dossetti, và vài ưu tiên làm thành căn tính của Giáo Hội, dấu ấn của Cộng Đồng Chung Vatican II như việc lựa chọn bênh vực người nghèo, theo đuổi hòa bình giữa các dân tộc và đối thoại với những người ở xa và những người không tin. Trong nền tảng, đó là việc thời sự hóa Công Đồng, trong các ý hướng của Đức Gioan XXIII. Nó đã và vẫn là một nhiệm vụ còn rộng mở ngày nay: khiến cho Tin Mừng đến với con tim của tất cả mọi người.

Hỏi: Đức Hồng Y có các kỷ niệm đặc biệt nào về các năm giao động thời Công Đồng Chung Vatican II hay không?

Đáp: Đó đã là các năm hoạt động rất mạnh mẽ, cho phép tôi, như là người soạn thảo các công văn của Tòa thánh thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh, học hỏi từ Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh thời đó là Đức Hồng Y Domenico Tardini, không chỉ liên quan tới tầm quan trọng của ngành ngoại giao, mà cả việc lắng nghe các tác nhân đối thoại nữa, trong thái độ dành ưu tiên cho tình bác ái. Tôi cũng không thể quên được việc chấp nhận vĩnh viễn tài liệu về tự do tôn giáo Dignitatis Humanae đã quan trọng thế nào đối với Đức Ông Pietro Pavan. Tôi thường nghĩ tới sự cay đắng và tiếng khóc của cha Pavan, khi người ta báo cho cha biết là tài liệu chắc sẽ không được chấp thuận. Nhưng trái lại ngày 21 tháng 9 năm 1965 tài liệu đã được các Nghị Phụ chấp thuận. Và thế là tiếng khóc của cha bất thình lình biến thành niềm vui.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, có rất ít người biết rằng bài phỏng vấn đầu tiên mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đồng ý cho nhà báo Alberto Cavallari của nhật báo ”Người đưa tin chiều” thực hiện, đã do trung gian của Đức Hồng Y. Đức Hồng Y có thể giải thích cho biết cuộc gặp gỡ này đã xảy ra như thế nào không?

Đáp: Tôi nhớ rằng nhà báo Alberto Cavallari đã được Đức Ông Pasquale Macchi, thư ký của Đức Phaolô VI, giới thiệu với tôi. Hồi đó ông ta đang làm một cuộc tìm hiểu sinh hoạt của nhiều cơ quan trung ương Tòa Thánh, và viết cuốn sách nổi tiếng tựa đề ”Vaticăng thay đổi”. Chính trong bối cảnh ấy đã nảy sinh ra một cuộc nói chuyện giữa ông Cavallari và Đức Phaolô VI, vị Giáo Hoàng vĩ đại người vùng Brescia. Tôi nhớ rằng ông Alfio Russo, Giám đốc nhật báo ”Người đưa tin chiều” đã gửi ông Cavallari tới Roma để theo dõi Công Đồng Chung Vaticăng II, để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra trong Giáo Hội. Tôi tin rằng từ đó đã nảy sinh ra cuộc điều tra của ông ta, đạt tột đỉnh với bài phỏng vấn Đức Phaolô VI, trước khi Đức Phaolô VI viếng thăm Liên Hiệp Quốc và đọc diễn văn tại đây. Đây cũng là cuộc phỏng vấn đầu tiên, mà một vị Giáo Hoàng dành cho giới báo chí kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Và nhà báo Alberto Cavallari đã viết lại một mạch bài phỏng vấn trong một quán giải khát ở đại lộ Hòa Giải. Ông Cavallari sau này đã trở thành bạn thân của tôi.

Hỏi: Trong các năm làm việc Đức Hồng Y đã gặp gỡ nhiều nhân vật quan trọng, từ việc ký các thỏa hiệp quan trọng, nhưng nhất là một cuộc sống như nhân viên ngoại giao của Tòa Thánh và như là một mục tử. Đức Hồng Y có các kỷ niệm nào trong các năm đó, và khi nào thì đã xảy ra sự tan giá băng giữa Liên Bang Xô Viết và Tòa Thánh Vatican?

Đáp: Chính Công Đồng Chung Vaticăng II và thông điệp ”Hòa Bình dưới thế” trong các năm đó đã giúp thay đổi bầu khí với Liên Xô và mở ra các cuộc đối thoại. Dĩ nhiên là một gương mặt đặc sủng và trí thức tinh tế như Agostino Casaroli, Hồng Y tương lai, đã là một trong các kiến trúc sư của cuộc tan giá băng này. Nó đã đươc hướng dẫn bởi chính sách từng bước nhỏ. nhưng cũng được hướng dẫn bởi niềm hy vọng của những điều có thể làm được, như chính sách cởi mở đối với Đông Âu gọi là ”Ostpolitik”. Tôi nghĩ tới sự cẩn trọng của người như chuyến đi năm 1963 từ Vienne sang Buudapest, hay sự cẩn trọng và kiên nhẫn của người trong các hoàn cảnh khó khăn. Nếu chúng ta muốn nhận ra ý nghĩa của nền ngoại giao của Tòa Thánh Vaticăng, thì phải tìm nó trong chính các năm này. Nếu không có chúng, thì đã không có biến cố ngày mùng 6 tháng 10 năm 1978, khi Đức Karol Wojtila được bầu làm Giáo Hoàng lấy tên hiệu là Gioan Phaolô II. Trong đặc sủng của Đức Karol Wojtila, sự hiệp nhất tinh thần của Âu châu được báo trước. Ngài có đức tin và sức mạnh của vị ngôn sứ. Thân thể của người và các cử chỉ của người cùng với các lời nói hiệp nhất một cách bất thình lình điều đã bị gạt bỏ với yêu sách của ý thức hệ. Dĩ nhiên còn có môt kinh nghiệm quan trọng khác nữa trong đời tôi. Đó là khi tôi thuộc phái đoàn Tòa Thánh ký Thỏa hiệp năm 1984, và trong dịp đó tôi đã kinh nghiệm được sự tuyệt tác của ngành ngoại giao, được xây dựng trong các năm trước đó.

Hỏi: Đức Hồng Y có muốn nhắn gửi sứ điệp nào cho các người trẻ và cho Giáo Hội tương lai hay không?

Đáp: Tôi tin rằng, như tôi đã nói, sứ điệp là lấy lại những gì chưa được thực hiện do Công Đồng Chung Vatican II đề ra. Đã có rất nhiều điều bị Đức Phaolô VI bỏ dở. Chúng vẫn còn đó. Nhưng không phải chỉ có thế mà thôi. Một trong các thách đố rộng mở cho nền văn hóa ngày nay, có lẽ có thể là thách đố đem nền thần học vào trong các khả năng của giáo dân để tạo thuận tiện cho một việc nghiên cứu được dưỡng nuôi bởi sự đối chiếu các khác biệt. Thế rồi tôi cũng tin rằng thật là quan trọng biết tiếp nhận các dấu chỉ thời đại và niềm hy vọng, mà ngày nay các Giáo Hội trẻ của Á chậu và châu Mỹ Latinh biết khơi dậy. Có lẽ từ đó cũng có thể tái sinh và tái khẳng định trong đại lục Tây Âu già nua và mệt mỏi của chúng ta tương lai của Kitô giáo. Như tôi đã nói cách đây nhiều năm, khi được một nhà báo hỏi, thật là đẹp nếu một ngày kia Ngày Quốc Tế Giới Trẻ được cử hành bên Trung Quốc. Đây là môt giấc mơ mà chúng ta hy vọng trở thành thực tại.

(Avvenire 25-10-2013)

Linh Tiến Khải

 

Ngày 31 tháng10: Hội tưởng niệm nạn nhân cộng sản trao huy chương tự do cho cha Nguyễn Văn Lý

Ngày 31 tháng10: Hội tưởng niệm nạn nhân cộng sản trao huy chương tự do cho cha Nguyễn Văn Lý

VRNs (27.10.2013) – Washington DC, USA – Thứ Năm 31 tháng 10, 2013 lúc 11 giờ sang, Hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial Foundation) vinh danh và trao huy chương “Truman-Reagan Medal of Freedom” năm 2013 cho Linh Mục Nguyễn Văn Lý. Buổi lễ trao huy chương sẽ được tổ chức tại Hạ Viện Hoa Kỳ (Rayburn Building-Room 2200).

Người cháu lớn nhất của Lm Nguyễn Văn Lý tại Hoa Kỳ là anh Nguyễn Văn Dũng sẽ đại diện Lm Lý để tiếp nhận huy chương.

Đây là một giải thưởng danh giá được mang tên hai vị tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là Truman và Reagan. Trước đây vào năm 2007, một người Việt Nam khác là anh hùng Trần Văn Bá cũng được trao huy chương này.

Cha Tađêô Nguyễn Văn Lý sinh ngày 15 tháng 5 năm 1946, tại làng Ba Bình, Vĩnh Chấp, Vĩnh Linh, Quảng Trị, là một linh mục Công giáo thuộc Tổng giáo phận Huế. Ngài là  một nhân vật bất đồng chính kiến ở Việt Nam, đã nhiều lần bị giới cầm quyền bắt giam. Năm 2007, ngài bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên – Huế xét xử công khai với tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo Khoản 1, Điều 88 – Bộ luật hình sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Năm 1963, ngài được cha Nguyễn Như Tự bảo trợ và giới thiệu vào tu học tại Tiểu Chủng viện Hoàn Thiện (Huế). Năm 1966, ông vào học tại Đại chủng viện Xuân Bích Huế. Tháng 4 năm 1974, ông được Tổng giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền truyền chức Linh mục tại Nhà thờ chính tòa Phủ Cam (Huế). Cha Tađêô Nguyễn Văn Lý gia nhập Hội Thừa Sai do Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền sáng lập với mục đích hoạt động truyền giáo ở những vùng dân cư nghèo khó và được giao việc phụ trách cộng đoàn Thừa Sai tại Gò Vấp, Gia Định. Năm 1975, cha Lý trở về Huế làm thư ký cho Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền.

Tháng 11 năm 1994, cha Lý đã ra “Tuyên ngôn 10 điểm về vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam”. Ngày 26 tháng 2 năm 2001, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế đã ra quyết định quản chế hành chính 2 năm đối với cha Nguyễn Văn Lý tại xã Phú An vì lý do “sử dụng tòa giảng để kích động giáo dân chống phá chính quyền”.

Ngày 19 tháng 10 năm 2001, toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế đã xét xử và tuyên án cha Nguyễn Văn Lý 15 năm tù giam, 5 năm quản chế tại địa phương nơi cư trú về hai tội “phá hoại chính sách đoàn kết” và “không chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc quản chế hành chính” (Điều 87 và 269 Bộ Luật Hình sự). Cha Lý sau đó bị đưa về giam tại Ba Sao (Nam Hà). Ngày 26 tháng 6 năm 2004, cha Lý được trao Giải Shalom khiếm diện tại Đại học Công giáo Eichstätt-Ingolstadt (Đức). Tháng 2 năm 2005, cha Lý được giảm án và được đặc xá. Ngày 8 tháng 4 năm 2006, cha Lý đã thành lập “Khối 8406″, cùng với một số người biên soạn nhiều tài liệu có nội dung chống lại chính quyền và kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử quốc hội vào năm 2007. Ngày 22 tháng 8 năm 2006, cha Lý đã cùng ký tên vào bản công bố của “Khối 8406″ về “Tiến trình dân chủ hoá Việt Nam”.Ngày 8 tháng 9 năm 2006, Linh mục Lý đã công bố “Tuyên Bố nhân dịp đảng Thăng Tiến Việt Nam công bố tự thành lập tại Việt Nam ngày 08 tháng 09 năm 2006″.

Ngay ngày hôm sau, ​Thứ Sáu 1 tháng 11, 2013, ​Cộng đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn cũng tổ chức một dạ tiệc da vũ để quý đồng hương cùng chung vui và hãnh diện với Lm Nguyễn Văn Lý xứng đáng nhận lãnh huy chương cao quý này.

PV. VRNs

Bùng nổ phim lấy chủ đề Kinh Thánh ở Hollywood

Bùng nổ phim lấy chủ đề Kinh Thánh ở Hollywood

Sarah Pulliam Bailey cho Religion News Service

Bùng nổ phim lấy chủ đề Kinh Thánh ở Hollywood thumbnail

Một cảnh trong bộ phim “Son of God” (Ảnh: Lightworkers Media)

Các xưởng phim và nhà làm phim đang tái khám phá một chủ đề cổ điển làm tài liệu nguồn cho các phim theo xu thế chủ đạo sắp tới đó là Kinh Thánh.

Gần 10 năm sau sự thành công của bộ phim bom tấn của Mel Gibson “Cuộc khổ nạn của Đức Kitô”, thu được 611.9 triệu Mỹ kim trên toàn thế giới, các xưởng phim đang dựa vào Kinh Thánh để tìm tài liệu hay.

Các phim sắp tới bao gồm:

* LD Entertainment đang tài trợ tài chính cho bộ phim “Resurrection” (“sự Phục sinh”), loạt sự kiện diễn ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu chết, được điều hành bởi “Hatfields & McCoys” đạo diễn Kevin Reynolds.

* Paramount sẽ phát hành bộ phim “Noah”, phóng tác trị giá 125 triệu Mỹ kim có Russell Crowe đóng vai chính vào năm 2014.

* 20th Century Fox đang thực hiện bộ phim “Exodus”, diễn viên chính Christian Bale đóng vai Môisê.

* Warner Bros có phim lấy đề tài về Môisê mang tựa đề “Gods And Kings”, do Steven Spielberg làm đạo diễn.

* Warner Bros. cũng đang thực hiện một bộ phim về Phôngxiô Philatô, được biết có sự góp mặt của Brad Pitt.

* Sony đang dàn dựng bộ phim “The Redemption of Cain” của Will Smith, bộ phim nói về sự kình địch giữa hai anh em Cain và Abel.

* Lionsgate đang thực hiện bộ phim “Mary Mother of Christ”, “cuốn phim mô tả những sự việc xảy ra trước phim ‘Cuộc khổ nạn của Đức Kitô’” có Ben Kingsley tham gia.

Song song với loạt phim lấy chủ đề Kinh Thánh sắp tới này, các nhà sản xuất đến từ chương trình truyền hình “The Bible” của kênh History thông báo rằng phóng tác phim “Son of God” sẽ được phát hành tại các rạp trên toàn quốc vào tháng Hai với hãng 20th Century Fox.

Cặp đôi Mark Burnett và diễn viên chính trong phim “Touched by an Angel” Roma Downey nói kết hợp Hollywood với Kinh Thánh có thể khó khăn.

“Nó không chỉ là một câu chuyện. Sẽ phải trả giá nếu không đi đúng hướng và không thể tìm được người cố vấn thích hợp”, Burnett, người sản xuất bộ phim “The Voice” và “Survivor”, nói.

Khi trình bày với một nhóm trẻ em, đôi này cho biết họ được nhắc nhớ một câu: “Xin đừng làm cho nó nhàm chán”.

“Có ý định tốt vẫn chưa đủ. Nó phải được trình bày một cách phù hợp với khán giả đương thời”, Downey, người đóng vai Mẹ Chúa Giêsu trong phim bộ này, nói.

Nguồn: Religion News Service

Trích từ UCANEWS VN

Giáo hội Hoa Kỳ kỷ niệm ngày Chúa Nhật của chức Linh mục vào ngày 27 tháng 10

Giáo Hội Hoa Kỳ tổ chức ngày “Chúa nhật dành cho Chức Linh mục” vào ngày 27 tháng 10 để kỷ niệm 10 năm thành lập ngày truyền thống này.

Washington, D.C., (Zenit.org)

Hội đồng Quốc tế Serra Hoa Kỳ sẽ tổ chức lễ kỷ niệm hàng năm dành cho các Linh mục vào Chúa nhật (Priesthood Sunday) cuối tuần này, 27 tháng 10. Vào ngày đó, các giáo xứ Công giáo ở Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ cho các linh mục của họ bằng lời cầu nguyện, dâng Thánh lễ và đối thoại.

Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười được chỉ định như Chúa nhật của chức Linh mục, một ngày lễ kỷ niệm chức linh mục được những người lãnh đạo giáo dân của giáo xứ tổ chức với sự phối hợp của Hội đồng Quốc tế Serra của Hoa Kỳ.

Chúa nhật của chức Linh mục được thành lập vào năm 2003 là một cách giúp các cộng đồng Kitô giáo bày tỏ sự đánh giá cao đối với các linh mục đã phục vụ họ, ngay cả khi các phương tiện truyền thông thường quan tâm đến những mặt tiêu cực của chức Linh mục.

Một ngày lễ kỷ niệm như vậy được thành lập có liên quan đến việc số lượng các linh mục ở Mỹ đang giảm sút đáng kể. Chỉ có khoảng 4.000 linh mục trong tổng số 19.000 giáo xứ ở đất nước này. Hiện nay, nhiều Linh mục phải phục vụ hai hay nhiều giáo xứ.

Giáo dân của mỗi giáo xứ, trường học hoặc các sứ vụ khác được yêu cầu phát huy sáng kiến theo cách riêng biệt của họ để đánh dấu ngày tôn vinh cả chức Linh mục lẫn các Linh mục của họ. Cử hành Phụng vụ đặc biệt, dâng Thánh lễ cầu nguyện cho các linh mục trong ngày Chúa nhật của Chức Linh mục, và khuyến khích mở một cuộc đối thoại giữa các Linh mục và giáo dân.

Sr. Sen Trắng chuyển ngữ

150 ngàn tín hữu tham dự Thánh Lễ Đức Thánh Cha cử hành với các gia đình

150 ngàn tín hữu tham dự Thánh Lễ Đức Thánh Cha cử hành với các gia đình

VATICAN. Sáng chúa nhật 27 tháng 10-2013, 150 ngàn tín hữu đã tham dự Thánh Lễ ĐTC Phanxicô cử hành với các gia đình đến từ 75 nước trên thế giới, kết thúc tốt đẹp cuộc hành hương của cac gia đình tại Roma trong Năm Đức Tin.

Tối thứ bẩy trước đó, 26 tháng 10-2013, các gia đình này đã gặp gỡ với ĐTC, chia sẻ chứng từ và tuyên xưng đức tin, cũng tại quảng trường thánh Phêrô. Trong số các tín hữu có nhiều người thuộc các phong trào Công giáo Tiến hành, canh tân trong Thánh Linh, Con đường tân dự tòng, v.v. Đồng tế với ĐTC có hơn 60 Hồng Y và Giám Mục, cùng với 500 Linh Mục.

Bài giảng Thánh Lễ

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC đã dựa vào các bài đọc để rút ra những bài học thực tế cho đời sống gia đình, đó là gia đình cầu nguyện, gia đình bảo tồn đức tin và gia đình sống niềm vui. Ngài nói:

”Các bài đọc chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về một vài đặc tính cơ bản của gia đình Kitô.

1. Thứ I: gia đình cầu nguyện. Đoạn sách Tin Mừng làm nổi bật hai cách thức cầu nguyện, một cách sai lầm như người biệt phái – và một cách đúng đắn là cách của người thu thuế. Người biệt phái là hiện thân của một thái độ không biểu lộ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì những ơn lành và lòng từ bi của Ngài, nhưng đúng hơn tỏ ra tự mãn. Người biệt phải cảm thấy mình là người công chính, thấy mình hoàn hảo, và hãnh diện đoán xét người khác từ trên bệ cao của mình. Trái lại, người thu thuế không nói nhiều lời. Kinh nguyện của ông là một sự điều độ khiêm tốn, ý thức về sự bất xứng và tình trạng lầm than của mình: người ấy nhìn nhìn nhận mình cần ơn tha thứ và lòng từ bi của Thiên Chúa.

Kinh nguyện của người thu thuế là kinh nguyện của người nghèo, và là kinh nguyện làm hài lòng Thiên Chúa, như bài đọc thứ I đã nói, kinh nguyện ấy ”bay tới mây trời” (Hc 35,20), trong khi kinh nguyện của người biệt phái nặng nề vì những kiêu căng thừa thãi.

Hỡi các gia đình thân mến, dưới ánh sáng Lời Chúa, tôi muốn hỏi anh chị em: thỉnh thoảng anh chị em có cầu nguyện trong gia đình không? Tôi biết một số gia đình có cầu nguyện chung. Nhưng cũng có nhiều người nói với tôi: mà làm sao cầu nguyện chung? Vì dường như kinh nguyện là chuyện cá nhân, vả lại chả bao giờ có lúc thuận thiện, yên tĩnh.. Đúng thế, nhưng vấn đề ở đây là khiêm tốn, nhìn nhận rằng chúng ta cần Thiên Chúa, giống như người biệt phái! và cần có sự đơn sơ! Cùng nhau đọc kinh ”Lạy Cha” quanh bàn ăn, ta có thể làm được. Và cầu nguyện chung với kinh Mân Côi trong gia đình, đó là điều thật đẹp và mang lại bao nhiêu sức mạnh! Và cầu nguyện cho nhau! Chồng cầu cho vợ, vợ cầu cho chồng, cả hai cầu cho con cái, và con cái cầu cho cha mẹ, ông bà. Cầu nguyện cho nhau, đó là cầu nguyện trong gia đình, và điều làm cho gia đình mạnh mẽ chính là lời cầu nguyện.

2. Bài đọc thứ hai gợi cho chúng ta một điểm khác nữa: gia đình gìn giữ đức tin. Thánh Phaolô Tông Đồ, vào cuối đời, đã làm một bản kết toán cơ bản: ”Tôi đã bảo tồn đức tin” (2 Tm 4,7). Nhưng làm sao bảo tồn đức tin? Không phải trong một tủ sắt! Không phải chôn vùi đức tin dưới đất, như người đầy tớ lười biếng. Thánh Phaolô so sánh cuộc sống của ngài với một cuộc trận chiến và một cuộc chạy đua. Ngài đã bảo tồn đức tin vì ngài không phải chỉ thu hẹp vào việc bảo vệ đức tin, nhưng loan báo, chiếu tỏa và đưa đức tin đi xa. Ngài quyết liệt chống lại những người muốn bảo tồn, ”tẩm liệm” đóng khung sứ điệp của Chúa Kitô trong biên cương Palestine. Vì thế, thánh nhân đã thực hiện những chọn lựa can đảm, đi tới những lãnh thổ đố kỵ, để cho mình bị những người xa xăm, những nền văn hóa khác, khiêu khích, ngài đã rao giảng một cách thẳng thắn không sợ hãi. Thánh Phaolô đã bảo tồn đức tin vì, như ngài đã nhận lãnh, đã trao ban, đẩy mình tới những vùng ngoại biên, không bám vào những vị trí tự vệ.
Ở đây chúng ta cũng có thể tự hỏi: chúng ta có thể giữ gìn đức tin như thế nào? Phải chăng chúng ta giữ đức tin cho mình, trong gia đình chúng ta, như một tư sản, hay chúng ta biết chia sẻ đức tin bằng chứng tá, bằng sự tiếp đón, cởi mở đối với tha nhân? Tất cả chúng ta biết rằng các gia đình, nhất là những gia đình trẻ, thường ”chạy”, quá nhiều công việc; nhưng đôi khi anh chị em có nghĩ rằng sự chạy đi vậy có thể cũng là một cuộc chạy đua đức tin? Các gia đình Kitô là những gia đình thừa sai, trong đời sống hằng ngày, làm những công việc hằng ngày, đặt muối và men đức tin trong mọi sự!

3. Một khía cạnh chúng ta rút được từ Lời Chúa, đó là gia đình sống niềm vui. Trong thánh vịnh đáp ca có thành ngữ này: ”Những người nghèo hãy lắng nghe và vui mừng” (33/34,3). Trọn thánh vịnh này là một bài ca chúc tụng Chúa là nguồn mạch vui mừng và an bình. Đâu là lý do để vui mừng? Thưa đó là: Chúa ở gần, Ngài lắng nghe tiếng kêu của những người khiêm hạ và giải thoát họ khỏi sự ác. Thánh Phaolô cũng viết: ”Anh chị em hãy luôn vui tươi.. Chúa đang ở gần!” (Pl 4,4-5). Hôm nay tôi muốn hỏi mỗi người trong anh chị em, như một bài tập cần làm: ở nhà có niềm vui không? Niềm vui trong gia đình bạn như thế nào? Mỗi người hãy tự trả lời!

Hỡi các gia đình thân mến, anh chị em biết rõ điều này: niềm vui chân thực mà ta nếm hưởng trong gia đình không phải là một cái gì hời hợt, không đến từ sự vật, từ những hoàn cảnh thuận tiện.. Niềm vui chân thực đến từ một sự hòa hợp sâu xa giữa con ngừơi, mà mọi người đều cảm thấy trong tâm hồn, nâng đỡ nhau trên con đường đời. Nhưng ở căn cội tâm tình vui mừng sâu xa ấy có sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, có tình thương đón tiếp, của Ngài, tình yêu từ bi, tôn trọng mọi người. Và nhất là một tình yêu kiên nhẫn: kiên nhẫn là một đức tính của Thiên Chúa và Chúa dạy rằng trong gia đình phải có tình yêu kiên nhẫn như thế, mỗi người đối với nhau. Chỉ mình Thiên Chúa biết kiến tạo sự hòa hợp giữa những khác biệt. Nếu thiếu tình thương của Thiên Chúa, thì cả gia đình cũng mất đi sự hòa hợp, và thái độ duy cá nhân chủ nghĩa sẽ trổi vượt, và niềm vui bị tắt lịm. Trái lại, gia đình nào sống niềm vui đức tin thì tự nhiên cũng thông truyền, là muối đất và là ánh sáng thế gian, là men cho xã hội.
Và ĐTC kết luận rằng:

Hỡi các gia đình thân mến, anh chị em hãy luôn sống với niềm tin và với tinh thần đơn sơ, như Thánh Gia Nazareth. Ước gì niềm vui và an bình của Chúa luôn ở cùng anh chị em!

Kinh nguyện dâng lên Thánh Giá Thất

Cuối thánh lễ, Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC..

Tiếp đó, ĐTC tiến đến trước ảnh Thánh Gia và đọc kinh cầu nguyện với Thánh Gia Thất:
Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, hôm nay chúng con muốn nhìn lên Thánh Gia Thất Nazareth với lòng ngưỡng mộ và tín thác; nơi Thánh Gia, chúng con chiêm ngưỡng vẻ đẹp của sự hiệp thông trong tình yêu chân thực; chúng con phó thác cho các Ngài tất cả các gia đình chúng con, để những kỳ công của ân thánh được đổi mới trong họ.

Lạy Thánh Gia Nazareth, là trường dạy Thánh Tin Mừng đầy sức thu hút: xin dạy chúng con noi gương nhân đức của các Ngài nhờ một kỷ luật tinh thần khôn ngoan, xin ban cho chúng con cái nhìn trong sáng biết nhận ra công trình của Chúa Quan Phòng trong những thực tại hằng ngày của cuộc sống.

Lạy Thánh Gia Nazareth, đã trung thành gìn giữ mầu nhiệm cứu độ, xin làm tái sinh nơi chúng con lòng quí mến sự thinh lặng, xin làm cho gia đình chúng con thành Nhà Tiệc Ly cầu nguyện và biến thành những Giáo Hội tại gia nhỏ bé, xin canh tân ước muốn nên thánh, nâng đỡ những vất vả cao thượng của lao công, giáo dục, lắng nghe, cảm thông lẫn nhau và tha thứ.
Lạy Thánh Gia Nazareth, xin khơi dậy trong xã hội chúng con ý thức về tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình, là thiện ích vô giá và không thể thay thế được. Ước gì mỗi gia đình trở thành nhà ở niềm nở tốt lành và an bình cho các trẻ em và người già, cho người bệnh và cô đơn, cho người nghèo túng.

Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse, cùng với các ngài chúng con tín thác cầu nguyện, và hân hoan phó thác nơi các ngài.

Trước khi đọc kinh truyền tin kết thúc, ĐTC còn ngỏ lời chào và cám ơn tất cả các tín hữu hành hương, đặc biệt là các gia đình đến từ bao nhiêu quốc gia!

Ngài cũng chào thăm các GM và tín hữu từ nước Guinea Equatoriale bên Phi châu đến Roma này nhân dịp trao đổi văn kiện phê chuẩn hiệp định với Tòa Thánh. Xin Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội bảo vệ quốc dân yêu quí của anh chị em, và giúp anh chị em tiến triển trên con đường hòa hợp và công lý.

ĐTC mời các tín hữu, qua kinh Truyền Tin, cầu xin Mẹ Maria bảo vệ các gia đình trên toàn thế giới, đặc biệt là các gia đình đang sống trong những hoàn cảnh khó khăn nhiều hơn.

Ngài và các tín hữu 3 lần lập lại lời khẩn nguyện: Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương các gia đình, xin cầu cho chúng con.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha gặp gỡ các gia đình Công Giáo thế giới

Đức Thánh Cha gặp gỡ các gia đình Công Giáo thế giới

VATICAN. Chiều thứ bẩy 26 tháng 10-2013, ĐTC Phanxicô đã gặp gỡ hàng trăm ngàn tín hữu tham gia cuộc hành hương của các gia đình tại Roma nhân dịp Năm Đức Tin.

Cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân tổ chức với chủ đề ”Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin”.
Từ 2 giờ chiều, Quảng trường Thánh Phêrô đã được mở ra để đón tiếp các gia đình với con cháu, từ 75 nước tựu về. Trong 2 tiếng rưỡi đồng hồ tiếp đó, họ đã tham gia buổi sinh hoạt, cầu nguyện, ca hát, và với phần trình bày chứng từ của nhiều gia đình, cả những cặp bị khủng hoảng và tan vỡ, nhưng đã cố gắng vượt thắng những tình trạng đau thương này.

Như trường hợp ông bà Daniele và Sabrina del Brusco ở Roma với hai con 12 và 9 tuổi. Sau 7 năm hôn phối, họ lâm vào trình trạng khủng hoảng. Daniele không muốn ở với Sabrina nữa. Sabrina nhờ bạn bè, cha mẹ, thân nhân giúp đỡ nhưng không thành công. Sau đó, Daniele được mời đi gặp một LM. Ông không muốn đi vì nghĩ rằng LM là người độc thân thì làm sao hiểu được những vấn đề của cuộc sống vợ chồng.

Nhưng rồi Daniele cũng đi gặp vị LM. Cha đã nói về một Thiên Chúa tình thương, một vị Thiên Chúa gần gũi con người, và mời gọi Daniele hãy tín thác vào Chúa, và để cho Chúa hành động. Và dần dần nơi Daniele đã có một sự thay đổi sâu xa. Ông khởi sự với Sabrina một hành trình mới trong đời sống hôn nhân: họ để cho Chúa Giêsu đi vào trung tâm cuộc sống của họ. Họ tái khám phá tình yêu đối với nhau, chấp nhận và tha thứ cho nhau.

Daniele nói: ”Chúng tôi hiểu rằng hôn phối của chúng tôi là một hồng ân vô biên; ơn thánh của bí tích hôn phối canh tân chúng tôi mỗi ngày và đôi vợ chồng không bao giờ lẻ loi, vì Chúa đồng hành với chúng ta”.

Dưới sự hướng dẫn của hoạt náo viên, rất nhiều gia đình đã dùng điện thoại di động gửi một tín hiệu ngắn SMS 1 Euro để trợ giúp các gia đình đang gặp khó khăn ở Siria, qua trung gian của Caritas Italia.

Lúc gần 5 giờ rưỡi, ĐTC Phanxicô từ bên trong Đền thờ Thánh Phêrô, cầm tay một em bé, tiến ra lễ đài ở thềm Đền Thờ giữa tiếng vỗ tay chào mừng của các tín hữu, mọi người vẫy bong bóng mầu hân hoan.. ĐTC đã bắt tay chào thăm các cha mẹ và ông bà đứng gần ngài trên lễ đài. Cạnh lễ đài là bức ảnh Chúa Giêsu được song thân dâng vào Đền Thờ của Chúa và gặp gỡ ông Simeon và bà Anna.

Bé Francesca đã đại diện mọi người chào ĐTC, trước khi Đức TGM Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về gia đình, giới thiệu các thành phần gia đình tham dự cuộc gặp gỡ. Ngài không quên gửi lời chào thăm các gia đình đang gặp khó khăn tại nhiều nơi ở Siria.

Cuộc gặp gỡ tiến hành với những màn diễn xiệc, âm nhạc, chứng tá của các cặp sắp kết hôn, những đôi vợ chồng trẻ, những gia đình đông con. Đặc biệt có chứng từ của một gia đình Siria tị nạn, đã trải qua cảnh đau thương của chiến tranh, gia đình bị phân tán; chứng từ của gia đình ra đi truyền giáo, của các ông bà.

Huấn dụ của Đức Thánh Cha

Trong bài huấn dụ, ĐTC chia sẻ niềm vui và bày tỏ cảm thông với bao nhiêu gia đình gặp khó khăn, nghèo khổ và chiến tranh, và cả những bạn trẻ muốn kết hôn giữa hàng ngàn khó khăn. Ngài đặc biệt diễn giải về đề tài cuộc gặp gỡ ”Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin!”. Làm sao có thể sống niềm vui đức tin ngày nay trong gia đình?

ĐTC nói:
1. Có một câu của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Mathêu, Đấng đến gặp gỡ chúng ta: ”Hỡi tất cả những ai mệt mỏi và bị áp bức, hãy đến cùng Thầy, và Thầy sẽ bổ sức cho các con” (Mt 11,28). Cuộc sống thường vất vả. Làm việc cơ cực; tìm kiếm công ăn việc làm thật vất vả. Nhưng điều đè nặng nhất trong cuộc sống là sự thiếu tình thương. Thật là nặng nề khi không nhận được một nụ cười, không được đón nhận. Một số thinh lặng, nhiều khi trong gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa anh chị em với nhau, cũng thật là nặng nề. Không có tình yêu thương thì vất vả trở nên nặng nề hơn. Tôi nghĩ đến những người già cô độc, những gia đình cơ cực vì không được giúp đỡ để săn sóc những mgười trong gia đình cần được sự chú ý đặc biệt và chăm sóc. Chúa Giêsu nói:”Hãy đến cùng Thầy, hỡi tất cả những ai vất vả và bị đè nén”!

Hỡi các gia đình thân mến, Chúa biết những cơ cực của anh chị em, những gánh nặng trong cuộc sống chúng ta. Nhưng Ngài cũng biết ước muốn sâu xa của chúng ta mong tìm được niềm vui được bồi dưỡng! Anh chị em có nhớ chăng? Chúa Giêsu đã nói: ”Ước gì niềm vui của các con hôm nay được tràn đầy” (Ga 15,11). Ngài đã nói điều đó với các tông đồ và hôm nay Ngài lập lại điều đó với chúng ta. Vì vậy đây là điều đầu tiên mà tối hôm nay tôi muốn chia sẻ với anh chị em, và đó là một câu của Chúa Giêsu: ”Hãy đến cùng Thầy, hỡi các gia đình trên toàn thế giới, và Thầy sẽ bồi dưỡng cho các con, để niềm vui của các con được tràn đầy”.

2. Câu thứ hai tôi rút từ sách nghi thức hôn phối. Người kết hôn trong bí tích, nói: ”Anh (em) hứa trung thành với em (anh) mãi mãi, khi vui mừng cũng như khi đau khổ, khi khỏe mạnh cũng như lúc bệnh tật, yêu thương, tôn trọng em (anh) mọi ngày trong đời em (anh).” Đôi tân hôn, trong lúc đó, không biết đâu sẽ là niềm vui và đau khổ đang chờ đợi họ. Họ ra đi, như Abraham, cùng nhau lên đường. Đó là hôn phối! Ra đi và đồng hành với nhau, tay trong tay, tín thác vào bàn tay to lớn của Chúa.

Với niềm tín thác đó nơi sự trung tín của Thiên Chúa, họ đương đầu với mọi sự, không sợ hãi, họ biết những vấn đề và nguy hiểm của cuộc sống. Nhưng họ không sợ đảm nhận trách nhiệm của mình, trước mặt Chúa và xã hội. Không chạy trốn, không tự cô lập, không từ bỏ sứ mạng thành lập một gia đình và sinh ra những người con trên trần thế. Nhưng hôm nay có người nói, thưa cha, khó quá… Đúng vậy, thật là khó. Vì thế cần có ơn của Bí tích! Các bí tích không phải để trang điểm cho cuộc sống; bí tích hôn phối không phải là một lễ nghi đẹp! Các tín hữu Kitô kết hôn trong bí tích vì họ ý thức mình cần bí tích này! Họ cần bí tích để hiệp nhất với nhau và để chu toàn sứ mạng làm cha làm mẹ. ”Khi vui tươi cũng như đau khổ, khi khỏe mạnh cũng như khi bệnh tật”. Và trong hôn phối, họ cầu nguyện với nhau và với cộng đoàn. Tại sao? Phải chăng vì người ta quen làm như thế? Không phải vậy, họ làm vì họ cần, vì hành trình dài mà họ phải cùng nhau tiến bước, họ cần ơn phù trợ của Chúa Giêsu, để cùng nhau tiến bước trong tin tưởng, để đón nhận nhau mỗi ngày, và tha thứ nhau hằng ngày!

Trong cuộc sống, gia đình cảm nghiệm bao nhiêu lúc tươi đẹp: nghỉ ngơi, ăn chung với nhau, ra công viên hoặc ra đồng quê, viếng thăm ông bà, thăm một người bệnh… Nhưng nếu thiếu tình yêu, thì thiếu niềm vui, thiếu buổi lễ, và Chúa Giêsu luôn ban tình yêu cho chúng ta: chính Ngài là nguồn mạch vô tận, và hiến thân cho chúng ta trong Thánh Thể. Tại đó Chúa ban cho chúng ta Lời Ngài, và Bánh sự sống để niềm vui của chúng ta được tràn đầy.

3. Ở đây trước mặt chúng ta bức ảnh Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh. Đó là một bức ảnh thật đẹp và quan trọng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng bức ảnh và để cho ảnh này giúp đỡ. Như tất cả anh chị em, cả những nhân vật chính trong cảnh tượng của ảnh này cũng có hành trình của mình: Mẹ Maria và Thánh Giuse lên đường lữ hành, tiến về Jerusalem, tuân theo Luật của Chúa; cả cụ già Simeon và nữ ngôn sứ Anna, rất cao tuổi, cũng đến Đền thờ vì được Thánh Linh thúc đẩy. Cảnh tượng cho chúng ta thấy sự gặp gỡ giữa ba thế hệ: Ông Simeon ẵm Chúa Giêsu, nơi Ngài ông nhận ra là Đấng Messia, và bà Anna được mô tả trong cử chỉ chúc tụng Thiên Chúa và loan báo ơn cứu độ cho những ai đang mong đợi sự cứu chuộc Israel. Hai cụ già này tượng trưng niềm tin như ký ức. Mẹ Maria và Thánh Giuse là Gia đình được thánh hóa nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, là sự viên mãn mọi lời hứa. Mỗi gia đình, như thánh gia Nazareth, được tháp nhập vào lịch sử của một dân tộc và không thể hiện hữu mà không có các thế hệ trước đó. Và ĐTC kết luận rằng: ”Hỡi các gia đình thân mến, anh chị em cũng là thành phần của dân Thiên Chúa. Hãy vui mừng tiến bước cùng với dân tộc này. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giêsu và mang Chúa đến cho tất cả mọi người qua chứng tá của anh chị em. Tôi cám ơn anh chị em đã đến đây. Cùng nhau chúng ta đón nhận lời thánh Phêrô, lời này mang cho chúng ta sức mạnh và sẽ mang cho chúng ta sức mạnh trong những lúc khó khăn: ”Lạy Chúa, chúng con biết theo ai bây giờ? Chúa có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68). Với ơn thánh của Chúa Kitô, anh chị em hãy sống niềm vui đức tin! Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Mẹ Maria, Mẹ chúng ta, tháp tùng anh chị em”.

Sau bài huấn dụ của ĐTC, cuộc gặp gỡ với các gia đình được tiếp nối với phần tuyên xưng đức tin và kết thúc với phép lành của ngài.

Sáng chúa nhật hôm nay, 27-10-2013, các gia đình sẽ tham dự thánh lễ với ĐTC cũng tại Quảng trường thánh Phêrô. Hội đồng Tòa Thánh về gia đình cho biết có khoảng 150 ngàn người tham dự thánh lễ này (SD 26-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio