Đức Thánh Cha tuyên bố bổ nhiệm 6 Hồng Y mới

Đức Thánh Cha tuyên bố bổ nhiệm 6 Hồng Y mới

VATICAN. Sáng 24 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 tuyên bố sẽ triệu tập Công nghị vào ngày 24 tháng 11-2012 tới đây để tấn phong 6 Hồng Y mới.

Đó là các vị:
1. Đức TGM James Michael Harvey, người Mỹ, 63 tuổi (1949), Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, sẽ được ĐTC bổ nhiệm làm Giám Quản Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

2. Đức Thượng Phụ Béchara Boutros Rai, 72 tuổi (1940) Thượng Phụ giáo chủ Công Giáo Maronite (Liban)

3. Đức Thượng Phụ Baselios Cleemis Thottunkal, 53 tuổi (1959), TGM Trưởng Trivandrum, Giáo Chủ Công Giáo Siro-Malankara (Ấn Độ)

4. Đức Cha John Olorunfemi Onaiyekan, 68 tuổi (1944), TGM giáo phận Abuja, thủ đô Nigeria

5. Đức Cha Rubén Salazar Gómez, 70 tuổi (1942), TGM giáo phận Bogotà, thủ đô Colombia

6. Đức Cha Luis Antonio Tagle, 55 tuổi (1957), TGM giáo phận Manila, thủ đô Philippines.

Ngỏ lời với hàng chục ngàn tín hữu hành hương vào cuối buổi tiếp kiến chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói thông báo danh tánh các vị trên đây và nói rằng:

”Các Hồng Y có nhiệm vụ giúp người Kế Nhiệm thánh Phêrô trong việc thi hành Sứ Vụ củng cố các anh chị em trong đức tin và là nguyên lý cũng như nền tảng sự hiệp nhất và tình hiệp thông của Giáo Hội”.

”Các tân Hồng Y – như anh chị em đã nghe – đang thi hành sứ vụ phục vụ Tòa Thánh hoặc là Cha và là Chủ Chăn của các Giáo hội địa phương ở các nơi trên thế giới.

”Tôi mời gọi tất cả anh chị em hãy cầu nguyện cho các tiến chức, xin Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, để các vị luôn biết can đảm yêu mến và tận tụy đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Chúa”.

Đây là lần thứ hai trong năm 2012, ĐTC triệu tập Công nghị để bổ nhiệm các Hồng Y mới. Lần đầu vào ngày 18-2-2012, ngài tấn phong 22 hồng y mới trong đó có 10 vị thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh.
ĐTC vẫn tôn trọng qui luật giữa nguyên số Hồng Y cử tri (dưới 80 tuổi) là 120 vị.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

 

Hoãn lại chuyến đi của Phái đoàn Tòa Thánh tại Siria

Hoãn lại chuyến đi của Phái đoàn Tòa Thánh tại Siria

VATICAN. ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, thông báo chuyến đi của Phái đoàn Tòa Thánh và các nghị phụ tại Siria được hoãn lại đến sau Thượng HĐGM hiện nay.

Lên tiếng sáng ngày 23 tháng 10-2012 trong phiên khoáng đại thứ 19 của Thượng HĐGM, ĐHY Bertone nói:
”Thứ ba 16 tháng 10 vừa qua, trước công nghị GM này, tôi đã thông báo quyết định của ĐTC gửi một phái đoàn đến Damasco để bày tỏ tình liên đới của Ngài và của Thượng HĐGM cũng như của toàn thể Giáo Hội với dân chúng tại Siria từ lâu đang phải sống trong tình trạng đau khổ bi thảm, đồng thời bày tỏ sự gần gũi tinh thần của chúng ta với anh chị em tín hữu Kitô tại Siria, cũng như khích lệ những người đang dấn thân tìm kiếm một giải pháp tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả mọi người.

”Sáng kiến này đã có tiếng vang lớn, không những tại Roma này hoặc tại Siria, nhưng cả trên cấp độ quốc tế, và nhận được sự hưởng ứng tích cực.

”Trước tiên tôi muốn thông báo cho anh chị em rằng tiếp theo đó, vấn đề tiếp tục được nghiên cứu và chuẩn bị cho cuộc viếng thăm, mặc dù có những biến cố bi thảm xảy ra trong những ngày qua.

”Như đã biết, có một ước muốn nồng nhiệt biểu lộ sự gần gũi của Tòa Thánh và Giáo Hội hoàn vũ qua một Phái đoàn đến Damasco trong thời gian và theo thể thức đã được loan báo trước, sau khi đã được xác định dưới ánh sáng những cuộc tiếp xúc và chuẩn bị đang được thực hiện. Xét vì tình trạng trầm trọng, nên cuộc viếng thăm sẽ được hoãn lại, có lẽ là sau khi Thượng HĐGM kết thúc, như thế sẽ có vài thay đổi trong thành phần của Phái đoàn, cũng vì công việc của các nghị phụ.

”Số tiền do các nghị phụ đóng góp cùng với số tiền do Tòa Thánh tặng sẽ được gửi tới Siria, sau Thượng HĐGM này, như một cử chỉ huynh đệ liên đới với toàn thể dân chúng tại Siria.

”Sự dấn thân cầu nguyện vẫn được tiếp tục, lời cầu nguyện luôn được Chúa lắng nghe và tôi mời gọi quí vị hiệp với chúng tôi trong niềm tín thác được đổi mới.

Danh sách thống nhất các đề nghị

Trong phiên họp, trước sự hiện diện của ĐTC và dưới quyền chủ tọa của ĐHY Laurent Monsengwo, TGM Kinshasa Congo, ĐHY Donald Wuerl, Tổng tường trình viên, và vị Tổng thư ký đặc biệt là Đức TGM Pierre-Marie Carré, TGM Montpellier, đã trình bày danh sách duy nhất các đề nghị đã được đúc kết trong ngày hôm trước. Danh sách đó được phát cho các nghị phụ để nghiên cứu riêng và chuẩn bị những gì cần tu chính. Các vị có thể trình bày trong các phiên họp nhóm.

Tiếp đến, các vị tiến hành việc bầu cử vòng hai để chọn 12 thành viên của Hội đồng hậu Thượng HĐGM hiện nay vì vòng đầu không có nghị phụ nào hội đủ đa số tuyệt đối để đắc cử. Cùng với 3 vị sẽ được ĐTC bổ nhiệm, Hội đồng này có nhiệm vụ tiếp nối công việc sau đó của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, trợ giúp ĐTC soạn thảo Tông Huấn, cũng như chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 14 trong tương lai.

Sau công việc trên đây, các nghị phụ lại họp trong 12 nhóm nhỏ cho đến trưa và cả ban chiều để chuẩn bị sửa chữa các đề nghị.

Các đề nghị này sẽ được bỏ phiếu chung kết trong phiên khoáng đại thứ 22 sáng thứ bẩy, 27 tháng 10 tới đây, để sau đó đệ lên ĐTC, ngài sẽ dựa vào đó để soạn Tông Huấn hậu Thượng HĐGM này. (SD 23-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sinh hoạt Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13: 22-10-2012

Sinh hoạt Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13: ngày 22-10-2012

VATICAN. Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 ”bước vào giai đoạn” thầm lặng nhất: suy tư, soạn thảo để đưa ra những đề nghị cụ thể.

Trọn ngày 22 tháng 10-2012, gần 260 nghị phụ Thượng HĐGM thứ 13 không nhóm họp, nhưng các vị tường trình viên của 12 nhóm nghị phụ đã họp cả sáng lẫn chiều với Đức TGM Eterovic Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, và Đức Cha Pierre-Marie Carré, TGM giáo phận Monpellier, Tổng thư ký đặc biệt của Thượng HĐGM này, để đúc kết các đề nghị do các nhóm đề ra thành một danh sách duy nhất, hầu đệ trình toàn thể các nghị phụ trong phiên khoáng đại thứ 19 vào sáng thứ ba 23 tháng 10-2012.

Trong khi đó, Phái đoàn Tòa Thánh gồm 7 vị do ĐHY Laurent Monsenwo, TGM Kinshasa, Chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM và trong đó có Đức cha Nguyễn Năng, đang chuẩn bị lên đường sang thăm Siri. Tuy nhiên, tình hình địa phương trở nên căng thẳng hơn với các cuộc khủng bố tại các khu vực Kitô giáo, nên cho đến hôm 22 tháng 10, người ta chưa biết ngày lên đường của Phái đoàn.

Vài bài phát biểu

Sau đây chúng tôi xin gửi đến quí vị ý kiến của một số tham dự viên Thượng HĐGM hiện, được giới báo chí đặc biệt chú ý.

 

  • Anh Tommaso Spinelli 23 tuổi, là người trẻ nhất tại Thượng HĐGM hiện nay. Anh thuộc Văn phòng giáo lý của giáo phận Roma và chuyên dạy giáo lý cho người trẻ dự tòng. Anh cầu mong có những linh mục vững chắc và can đảm.

Trong bài tham luận, anh Spinelli nói với các nghị phụ: ”Công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng cần có chất lượng: cần việc huấn giáo có bề dầy, biết nói một cái gì nghiêm túc đối với cuộc sống chúng ta, và nhất là cần những chứng tá cuộc sống Kitô có bề dầy, chứng tỏ bằng sự kiện sự vững chắc. Nhất là vì ngày nay các gia đình bị chia rẽ và thường từ bỏ vai trò giáo dục của mình, nên cần có những linh mục chứng tỏ cho người trẻ sự trung thành với ơn gọi và khả năng chọn lựa một cách sống khác, đẹp đẽ hơn so với những gì xã hội đề nghị. Nhưng điều làm con lo âu là những nhân vật có bề dầy như thế đang trở thành thiểu số. LM không còn tin tưởng nơi tầm quan trọng của sứ vụ mình thực hiện, đánh mất đoàn sủng và văn hóa. Con thấy các linh mục chiều theo tư tưởng thịnh hành thời nay. Và điều đó con cũng thấy trong các buổi cử hành phụng vụ, qua đó người ta tìm những gì là độc đáo, khiến phụng vụ trở thành vô nghĩa. Thưa các LM, con xin các cha tìm lại can đảm là chính mình, là LM đích thực, và nơi nào mà các cha đề nghị cho người trẻ chân lý đức tin không chút sợ hãi, thì người trẻ chúng con sẽ theo các cha. Những lời của thánh Phêrô cũng là những lời của người trẻ chúng con: ”Lạy Chúa chúng con biết theo ai bây giờ? Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Và chúng con khao khát vô biên những gì là vĩnh cửu, là chân thực. Vì thế, con đề nghị:

Thứ I: tăng cường việc đào tạo linh mục, không những về linh đạo nhưng cả về văn hóa nữa. Quá nhiều khi chúng con thấy những linh mục đã đánh mất vai trò là những thầy dậy văn hóa đã từng làm cho các vị trở thành quan trọng cho toàn thể xã hội. Ngày nay, nếu chúng ta muốn được tin cậy và hữu ích, thì chúng ta cần có những dụng cụ văn hóa tốt.

Thứ II là tái khám phá sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo trong đặc tính Công đồng của sách này: đặc biệt là phần thứ nhất của mỗi thiên, trong đó các văn kiện Công đồng soi sáng các đề tài truyền thống. Thực vậy, sách giáo lý đã khôn ngoan đặt trước phần giải thích kinh Tin Kính một phần được gợi hứng từ Hiến Chế Dei Verbum (Lời Chúa), trong đó có giải thích cái nhìn duy nhân vị về mạc khải, … Phần thứ I của mỗi thiên của sách Giáo Lý là điều cơ bản vì con người ngày nay cảm thấy đức tin như một cái gì có liên hệ gần gũi với họ và có khả năng mang lại câu trả lời cho những vấn nạn sâu xa nhát của họ.

Thứ III, là phụng vụ: quá nhiều khi phụng vụ bị lơ là và làm mất tính chất thánh thiêng. Cần đặt phụng vụ ở trung tâm của cộng đồng giáo xứ cũng như địa phương.
 

  • Tu Huynh Alvaro Antonio Rodriguez Echeverría, người Costa Rica, Bề trên Tổng quyền dòng Sư Huynh các trường Công Giáo, trong bài phát biểu, đã đặc biết đề cao tầm quan trọng của giới trẻ. Thầy nói:

”Bản thân con, con nghĩ rằng các thế hệ trẻ, không phân biệt đại lục hoặc những khác biệt văn hóa, phải là lãnh vực hoạt động ưu tiên của công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, không những như những người thụ động lãnh nhận, trái lại như những tác nhân tích cực, như lời Đức Gioan Phaolô 2 quả quyết rằng người trẻ là những tông đồ tốt nhất cho giới trẻ. Sự hiện diện của người trẻ và một lời của họ trong Thượng HĐGM này có lẽ giúp chúng ta có một cái nhìn sáng suốt hơn về tương lai.

Về phần chúng ta, điều quan trọng là biết thế giới người trẻ và nỗ lực hội nhập văn hóa nơi họ. Biết những nhu cầu, lo âu, băn khoăn, khát mong và hy vọng của họ, trao tặng họ Phúc Âm luôn luôn là Tin Mừng. Điều quan trọng là khởi hành từ cuộc sống, vì người trẻ không quan tâm tới sứ điệp Kitô nếu sứ điệp này được trình bày cho lý trí họ như một ý thức hệ, được áp đặt từ bên ngoài một cách độc đoán, hoặc khởi hành từ những nguyên tắc tách rời khỏi đời sống thực tế. Vì thế, vai trò chính yếu của chúng ta là giúp mỗi người trẻ cảm thấy được yêu mến, quí chuộng, được chúc phúc và cảm thấy mình là quan trọng và cần thiết cho tha nhân.

Việc tái truyền giảng Tin Mừng cho người trẻ của chúng ta và cho những người tháp tùng họ phải là một lời kêu gọi trở về với Tin Mừng và khám phá rằng nòng cốt đức tin của chúng ta là một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô dẫn tới một cộng đoàn các môn đệ. Sứ mạng của chúng ta đối với người trẻ là trở thành những người đồng hành với họ trong cuộc tìm kiếm, là những nhà hướng đạo khiêm tốn giúp khá phá một con và mang lại một ý nghĩa cho cuộc sống. Thay vì là những thầy dậy từ trên cao hoặc là những người phán xét và lên án từ bên ngoài,chúng ta được kêu gọi trở thành anh chị tháp tùng từ bên trong. Người trẻ là một tin vui cho thế giới, nhưng chúng ta phải tự hỏi làm thế nào để Tin Mừng của Chúa Giêsu là tin vui đối với họ. Trong một thời đại như ngày nay trong đó người trẻ đang tìm một cái gì hơn nữa và cởi mở đối với linh đạo, chún gta phải giáo dục họ gặp gỡ Thiên Chúa trong thẳm sâu tâm hồn họ, có sức làm đầy sự trống rỗng trong cuộc sống và giúp họ như Chúa Giêsu đã làm, nhìn thực tại và cảm động trước thực tại đó và dấn thân trong một hoạt động biến đổi.
 

  • ĐHY Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động, trong bài tham luận tại Thượng HĐGM, đã nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của hiện tượng di dân như một cơ hội đầy ý nghĩa đối với công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, vì môi trường này có những người nam nữ, già trẻ, trải qua những kinh nghiệm mạnh mẽ về cuộc sống, với những dự phóng, tình trạng bất an và đau khổ, làm nổi bật những vấn nạn cấp thiết nhất về đời sốgn của họ và họ cảm thấy cần phải mang lại một ý nghĩa cho cuộc sống thường nhật của họ. Đứng trước những vấn nạn sâu xa, đức tin được coi như câu trả lời giải thích được những vấn nạn ấy, soi sáng và làm cho chúng được tràn đầy ý nghĩa, và Chúa Kitô xuất hiện như chìa khóa tuyệt hải để đọc cuộc sống con người.

ĐHY Vegliò cho biết Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của hiện tượng di dận, và toàn thể lãnh vực lưu động của con người. Lãnh vực này mang lại cho Giáo Hội những cơ hội mới để rao giảng Tin Mừng. Đối với những người không biết Chúa Kitô và định cư tại những nước có truyền thống Kitô giáo, có một thách đố được đề ra đó là làm sao trình bày cho những người di dân huấn giáo Kitô. Đàng khác, những người di dân đã được rao giảng Tin Mừng tại quốc gia nguyên quán họ có nhu cầu cần được tháp tùng về mục vụ, giúp họ duy trì đức tin kiên vững, trong khi họ cũng có thể trở thành những người rao giảng Tin Mừng.

Hiện tượng di dân cũng đặt vấn đề cho cả các cộng đoàn tiếp cư, bó buộc họ không những phải xét lại những đề nghị rao giảng Tin Mừng, nhưng còn thử thách chính niềm tin của các phần tử của mình, đặc biệt là trong lúc phải loan báo đức tin cho tha nhân.

Do quan hệ không thể tách rời giữa lòng mến Chúa và yêu người, sự hiện diện của những người lưu động cũng đòi Giáo Hội phải có một câu trả lời liên đới, câu trả lời này đồng thời cũng có đặc tính rao giảng Tin Mừng, vì đức bác ái ”là loan báo và làm chứng về đức tin” (ĐTC Biển Đức 16, Caritas in veritate, n.15). Lãnh vực đau khổ và liên đới chính là một môi trường để đối thoại với thế giới và làm chứng tá về đức tin, nơi mà đức bác ái là dụng cụ cơ bản để tái truyền giảng Tin Mừng.

Thách đố chính là làm sao biết dung hợp và liên kết hai khía cạnh không thể tách rời, đó là sự rao giảng Tin Mừng một cách minh nhiên và thăng tiến con người, tránh thu hẹp hoạt động của chúng ta vào một trong hai, hoặc chỉ hài lòng với việc làm chứng tá âm thầm hoặc chỉ rao giảng Tin Mừng một cách hiểu ngậm.

Thực vậy nơi những nhân viên mục vụ thuộc lãnh vực này, càng ngày người ta càng ý thức rằng mối quan tâm về xã hội và việc loan báo Tin Mừng đích thị đều thuộc về sứ vụ được ủy thác cho họ.

Trong bối cảnh sự di động của con người, cả các cuộc hành hương cũng là một cánh đồng thuận lợi cho việc tái truyền giảng Tin Mừng. Trong những thập niên gần đây chúng ta đã ý thức về khả thể này, đi từ việc thực hành những việc sùng mộ đến một nền mục vụ hành hương, khám phá thấy rằng cuộc hành hương trở thành một cơ hội để canh tân đức tin và cũng có thể là dịp truyền giảng Tin Mừng lần đầu tiên. Theo nghĩa đó, tôi nhấn mạnh 5 ý tưởng có thể được đào sâu: trước tiên cần sử dụng khả năng thu hút đến hành hương tại Đền thánh; tiếp đến chúng ta cần chăm sóc việc mục vụ đón tiếp, đáp những theo những câu hỏi nảy sinh từ tâm hồn người hành hương, để ý điều này là đề nghị của chúng ta phải trung thành với đặc tính Kitô của cuộc hành hương, không thu hẹp, và sau cùng là giúp tín hữu hành hương khám phá rằng hành trình của họ có một mục đích rõ ràng.

Vì tất cả những điều đó, hiện tượng di động hiện nay của con người chắc chắn là một cơ hội Chúa ban để loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

 

Ý Nghĩa Của Tin Mừng (Evangelium) – Bài Suy Niệm Của Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16

Ý Nghĩa Của Tin Mừng (Evangelium) – Bài Suy Niệm Của Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16

Trong dịp khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới lần thứ 13, Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã chia sẻ một bài Suy niệm với các tham dự viên tham dự hội nghị. Với một tri thức uyên thâm về nhiều lĩnh vực, Đức Biển Đức 16 đã phân tích rất sâu sắc ý nghĩa của từ ngữ Tin Mừng (Evangelium), và ngang qua việc suy niệm về Tụng ca "Nunc, Sancte, nobis Spiritus," Ngài đã làm nổi bật bản chất của sứ mạng truyền giáo, đó là công trình của Thiên Chúa, được Thiên Chúa khởi sự và chỉ có Ngài mới có thể làm cho nó nên trọn; nhưng đồng thời Ngài cũng mời gọi sự cộng tác của con người. Con người cộng tác trước hết ngang qua lời tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng được cắm rễ sâu trong tận con tim và được tuyên xưng ra ngoài môi miệng và kế đến là để Thánh Linh thắp lên ngọn lửa đức ái trong trái tim mình để có thể làm bùng cháy ngọn lửa nơi tha nhân. Sau đây là bản dịch nguyên văn của bài suy niệm này.

Thưa anh chị em,
Hôm nay, trong bài suy niệm của mình tôi sẽ đề cập đến từ ngữ Tin Mừng "Evangelium" "euangelisasthai" (cf. Lk 4:18). Trong Thượng Hội Đồng này, chúng ta muốn hiểu rõ hơn điều Thiên Chúa muốn nói với chúng ta và điều gì chúng ta có thể và sẽ phải làm. Bài suy niệm của tôi chia làm hai phần: trước hết là việc phản tỉnh về ý nghĩa của những từ ngữ này; sau đó, tôi sẽ nỗ lực để giải thích bài Tụng ca "Nunc, Sancte, nobis Spiritus," trong trang thứ 5 của cuốn Sách Nguyện.

Từ ngữ “Tin Mừng” (Evangelium, euangelisasthai) có một lịch sử rất xa xưa. Từ này xuất hiện trong tác phẩm của Homer: đó là lời loan tin chiến thắng, tin tốt lành, tin vui, tin hạnh phúc. Về sau, từ ngữ “Tin Mừng” này xuất hiện trong Isaia Đệ Nhị (cf Is 40,9), như một tiếng nói loan truyền niềm vui từ Thiên Chúa; tiếng nói ấy cho thấy rằng Thiên Chúa đã không lãng quên con người, rằng Thiên Chúa có vẻ như đã rút lui khỏi lịch sử nhưng thật ra Ngài vẫn có đó và vẫn luôn hiện diện. Thiên Chúa vẫn đầy sức mạnh, Ngài trao ban niềm vui và mở toang cánh cửa lưu đày. Sau đêm dài của thời lưu đày, ánh sáng của Ngài lại xuất hiện để giúp cho dân Ngài có thể trở về để làm mới lại lịch sử của những điều tốt lành, lịch sử của tình yêu. Như vậy, trong bối cảnh của Tin Mừng Hóa, ta thấy sự xuất hiện của ba từ ngữ: dikaiosyne, eirene, soteria (công chính, hòa bình và cứu độ). Tại Nazaret Đức Giê-su đã sử dụng lời của Isaia, khi Ngài nói về “Tin Mừng” mà Ngài mang đến lúc này cho những người bị loại trừ, bị giam cầm, bị áp bức và những người nghèo khổ.

Tuy nhiên, để hiểu được ý nghĩa của từ “Tin Mừng” trong Tân Ước, ngoài những ý nghĩa mà sách Isaia Đệ Nhị đã mở ra, cũng cần để ý đến cách sử dụng từ này trong Đế Quốc Roma, khởi đi từ Hoàng đế Augusto. Thời ấy, thuật ngữ “Tin Mừng” được dùng để chỉ về một lời hay một sứ điệp của Hoàng Đế. Vì thế, đây là sứ điệp mang lại sự tốt lành: là một sự đổi mới thế giới, là tin cứu độ. Hơn nữa, vì là sứ điệp của Hoàng Đế nên nó có sức mạnh và quyền lực, nó là sứ điệp cứu độ, canh tân và chữa lành. Các sách Tân Ước đã thu nhận nghĩa này. Thánh Luca đã minh nhiên so sánh Hoàng Đế Augusto với Hài Nhi được sinh ra ở Belem: “Tin Mừng” chính là lời của Hoàng Đế, một vị Vua đích thực của thế giới. Vị Vua đích thực này đã tỏ mình ra và đã nói với chúng ta. Và sự kiện này tự nó là một ơn cứu độ. Thật vậy, đau khổ lớn nhất của con người thời ấy cũng như con người ngày nay đó là nỗi nghi vấn: Đằng sau cái vẻ thinh lặng của vũ trụ, đằng sau những đám mây mù của lịch sử, liệu có một Thiên Chúa hay chăng? Và nếu có, vị Thiên Chúa này có biết chúng ta, có liên quan gì đến chúng ta không? Vị Thiên Chúa này có phải là một Đấng tốt lành không? Và những điều tốt lành có chút ảnh hưởng gì trong thế giới này chăng?… Đấy là những chất vấn thường gặp, cả ở ngày xưa cũng như ngày nay. Nhiều người tự hỏi: phải chăng Thiên Chúa chỉ là một giả thiết? Ngài có phải là một thực tại không? Tại sao chúng ta không nghe thấy Ngài? “Tin Mừng” có nghĩa là: Thiên Chúa đã phá vỡ sự thinh lặng, Thiên Chúa đã nói và có Thiên Chúa. Sự kiện này tự bản chất đã là ơn cứu độ: Thiên Chúa biết chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã đi vào lịch sử nhân loại. Đức Giê-su là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Thiên Chúa ở với chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy tình yêu thương của Ngài, Ngài cũng đã chịu đau khổ với chúng ta cho đến chết và đã sống lại. Đây chính là Tin Mừng. Thiên Chúa đã nói, Ngài không còn là một Đấng vô danh, nhưng đã tỏ mình ra, và đây chính là ơn cứu độ.

Giờ đây, câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: Thiên Chúa đã nói, đã phá vỡ sự thinh lặng và đã tỏ mình ra, nhưng làm sao chúng ta có thể truyền đạt điều này cho con người trong thế giới ngày nay để nó trở thành hồng ân cứu độ? Tự nó, việc Thiên Chúa nói với con người đã là cứu độ, là sự cứu chuộc. Nhưng làm sao con người biết được? Với tôi, điều này dường như là một câu hỏi nhưng đồng thời cũng là một đòi hỏi, một lệnh truyền cho chúng ta: chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời bằng cách suy niệm bài Tụng ca "Nunc, Sancte, nobis Spiritus". Câu đầu tiên nói rằng: "Dignàre promptus ingeri nostro refusus, péctori", nghĩa là: chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong chúng ta và với chúng ta. Nói cách khác, chúng ta không làm nên Giáo Hội, chúng ta chỉ có thể công bố điều Chúa Thánh Thần đã thực hiện. Giáo Hội không khởi đi từ những việc làm của chúng ta, nhưng với “việc làm” và “lời nói” của Thiên Chúa. Cũng vậy, không phải sau vài cuộc hội họp rồi các Tông Đồ tuyên bố: bây giờ chúng tôi muốn lập nên Giáo hội, dưới dạng thức của một quốc hội lập hiến, rồi cùng nhau viết ra hiến chương. Không, các ngài đã cầu nguyện, và trong cầu nguyện các ngài chờ đợi, vì biết rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể sáng tạo ra Giáo hội và Thiên Chúa là tác nhân đệ nhất. Nếu Thiên Chúa không hành động, những điều chúng ta làm chỉ là của chúng ta và không bao giờ nên trọn. Chỉ có Thiên Chúa làm chứng rằng chính Ngài đã nói và Ngài tiếp tục cất lời. Lễ Hiện Xuống là điều kiện khai sinh Giáo hội: chỉ bởi vì Thiên Chúa đã hành động trước, các Tông đồ mới có thể hành động cùng với Ngài, và cùng với sự hiện diện của Ngài thực hiện những gì Ngài thực hiện. Thiên Chúa đã nói, và việc “đã nói” này chính là sự hoàn thiện cho Đức tin, nhưng nó cũng luôn ở thì hiện tại. Sự hoàn thiện của Thiên Chúa không chỉ là quá khứ, vì dù nó là quá khứ đích thực nhưng cũng mang nơi mình hiện tại và tương lai. Thiên Chúa đã nói, nghĩa là Ngài còn tiếp tục nói. Như khi xưa, chính nhờ vào sáng kiến của Thiên Chúa mà Giáo hội khai sinh và Tin Mừng có thể được biết đến, thì ngày nay, chỉ Thiên Chúa mới có thể khởi sự và chúng ta chỉ có thể cộng tác. Khởi đầu phải luôn đến từ Thiên Chúa. Vì thế, khi chúng ta bắt đầu những công việc quan trọng mỗi ngày bằng việc cầu nguyện, đấy không chỉ là một công thức đơn thuần, nhưng là điều chính đáng hợp với thực tế. Chỉ khi nào Thiên Chúa khởi sự, thì hành trình của chúng ta mới trở nên khả thi, sự cộng tác của chúng ta – và luôn chỉ là sự cộng tác – không hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của chúng ta. Do đó, thật quan trọng khi nhận biết rằng, lời đầu tiên, sáng kiến đích thực, và những hoạt động đúng nghĩa chỉ đến từ Thiên Chúa. Phần chúng ta, chỉ ngang qua việc tháp mình vào trong sáng kiến của Thiên Chúa và chỉ bằng việc nài xin ân sủng của Ngài, chúng ta mới có thể trở nên những nhà rao giảng Tin Mừng với Ngài và trong Ngài. Thiên Chúa luôn khởi sự, chỉ có Ngài mới có thể làm nên lễ Hiện Xuống và làm khai sinh Giáo Hội. Chỉ có Ngài mới có thể vén mở thực tại về chính mình cho chúng ta, hiện hữu với chúng ta. Dẫu vậy, vị Thiên Chúa này cũng muốn chúng ta tham dự vào hoạt động của Ngài, để các hoạt động đó trở nên những hoạt động mang tính thần nhân tương hợp, nghĩa là được làm bởi Thiên Chúa nhưng có sự dự phần của chúng ta và hiện hữu của chúng ta.

Vì thế, sứ mạng Tân Phúc Âm Hóa của chúng ta phải luôn là một sự cộng tác với Thiên Chúa, ở lại cùng với Thiên Chúa, đặt nền tảng trên việc cầu nguyện và sự hiện diện đích thực của Ngài.

Giờ đây, hoạt động của chúng ta, nối tiếp những gì mà Thiên Chúa đã khởi sự, có thể được diễn tả trong câu thứ hai của bài Tụng ca: "Os, lingua, mens, sensus, vigor, confessionem personent, flammescat igne caritas, accendat ardor proximos". Ở đây, trong câu thứ hai, chúng ta thấy hai danh từ xác định, “tuyên xưng” (confessio) trong câu thứ nhất và “đức ái” (caristas) trong câu thứ hai. “Tuyên xưng” và “đức ái” là hai cách thế mà trong đó Thiên Chúa lôi cuốn chúng ta, làm cho chúng ta hành động với Ngài, trong Ngài, cho con người và cho những thụ tạo của Ngài. Những động từ được thêm vào: trước hết là động từ “personent”, và sau đó là “caritas”, được diễn giải bằng những từ ngữ như ngọn lửa, sự nhiệt thành, thắp lên, bùng cháy.

Trước hết chúng ta cùng xem xét cụm từ “confessio personent”. Niềm tin có một nội dung: Thiên Chúa thông truyền chính mình Ngài, nhưng chủ từ “Tôi” (I) của Thiên Chúa được thực sự mạc khải trong hình ảnh Đức Giê-su và được giải thích trong việc “tuyên xưng”, vén mở cho chúng biết về việc sinh hạ nhờ sự thụ thai đồng trinh của Ngài, về cuộc khổ nạn, về Thập giá và Phục Sinh. Thiên Chúa mạc khải chính mình một cách trọn vẹn nơi Người Con: Đức Giê-su là Ngôi Lời, là nội dung đích thực được diễn tả trong lời “tuyên xưng”. Như vậy, bước đầu tiên là chúng ta phải đi vào trong lời “tuyên xưng”, và để cho lời “tuyên xưng” thấm nhuần một cách cá vị trong chúng ta và qua chúng ta.

Ở đây chúng ta cần phải xem xét một điểm nhỏ trên khía cạnh triết học. “Confessio” thời Tiền Kitô Giáo Latinh không phải là “confessio” nhưng là “proffessio”: đây là một sự trình bày tích cực về thực tại. Thực vậy, từ ngữ confessio đề cập đến một tình huống diễn ra trong toà án. Trong một phiên toà thường có một ai đó mở lòng mình ra và tuyên thệ. Nói cách khác trong bối cảnh Kitô giáo latinh, từ “confession” thay thế từ “professio”, mang yếu tố chứng tá để làm chứng cho đức tin trong những thời điểm thù nghịch, làm chứng thậm chí trong những trạng huống đau khổ và nguy hiểm đến tính mạng. Việc tuyên xưng đức tin của các Kitô hữu hàm chứa một cách thiết yếu sự sẵn sàng chịu khổ đau. Với tôi điều này rất quan trọng. Trong bản chất của lời “tuyên xưng” trong Kinh Tin Kính của chúng ta luôn hàm chưa một thái độ sẵn sàng trước đau khổ, và thậm chí là từ bỏ mạng sống mình. Chính thái độ này giúp cho việc tuyên xưng trở nên khả tín hơn bao giờ hết. Việc “tuyên xưng” không phải là một điều gì có thể từ bỏ dễ dàng, nhưng hàm chứa cả việc từ bỏ mạng sống mình và chấp nhận đau khổ. Đây đích thực là một sự minh xác của đức tin. Việc “tuyên xưng” cũng không chỉ là một từ ngữ được nói ra, nhưng nó vượt qua cả sự đau khổ và cái chết. Để sống lời “tuyên xưng” ấy, dù có phải chịu đau khổ hay chịu chết thì cũng đáng. Người nào làm việc “tuyên xưng” như thế sẽ minh chứng rằng quả thật những gì mà người ấy tuyên xưng còn có giá trị hơn cả sự sống: lời tuyên xưng ấy chính là sự sống, là một kho báu, một viên ngọc quý vô giá. Chính trong chiều kích chứng nhân của từ “tuyên xưng” mà chúng ta tìm thấy chân lý: chân lý là minh chứng cho chính mình, rằng có phải chịu đau khổ vì chân lý ấy thì cũng xứng đáng, rằng chân lý ấy mạnh hơn cả cái chết. Lời tuyên xưng ấy minh chứng rằng điều tôi nắm giữ trong tay mình chính là chân lý, chân lý mà tôi hằng chắc chắn, rằng tôi đảm nhận sự sống của mình bởi vì tôi tìm thấy sự sống trong lời tuyên xưng ấy.

Bây giờ chúng ta hãy xét xem lời “tuyên xưng” này phải thấm nhuần vào nơi nào: "Os, lingua, mens, sensus, vigor". Từ thư của thánh Phaolo gửi tín hữu Roma, chúng ta biết rằng lời tuyên xưng đức tin nằm trong trái tim và trên môi miệng. Lời tuyên xưng phải nằm sâu thẳm trong trái tim ta, nhưng cũng được tuyên xưng công khai; niềm tin được cưu mang trong trái tim cần phải được công bố. Niềm tin chưa vào giờ chỉ là điều của con tim, nhưng còn phải được thông truyền và cần phải được tuyên xưng trước mắt toàn thế giới. Vì thế, chúng ta phải học để được bước sâu vào trong tâm điểm của lời tuyên xưng, để nhờ đó, con tim của chúng ta sẽ được định hình. Từ trong con tim này, cùng với một lịch sử lâu dài của Giáo hội, chúng ta sẽ tìm thấy lời tuyên xưng và sự khích lệ của lời tuyên xưng ấy. Lời này soi dẫn cho hiện tại của chúng ta, và chúng ta thấy rằng lời tuyên xưng của chúng ta chỉ là một.

Mens”: sự tuyên xưng không chỉ là điều thuộc trái tim và miệng lưỡi, mà con thuộc về lý trí. Sự tuyên xưng cần phải được đón nhận và suy tư bằng lý trí, để nhờ đó, đụng chạm đến người khác. Như thế, sự tuyên xưng cũng luôn hàm nghĩa rằng suy tưởng của tôi cũng đã thực sự được bám rễ trong lời tuyên xưng này.

Sensus”: không là điều hoàn toàn trừu tượng và duy lý, lời tuyên xưng phải được thấm nhuần trong các giác quan của cuộc đời chúng ta. Thánh Bernard of Clairvaux với cho chúng ta rằng: trong mạc khải và trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã ban cho các giác quan của chúng ta khả năng chiêm ngắm, đụng chạm, và cảm nến mạc khải. Thiên Chúa không còn chỉ là một thực tại thiêng liêng, nhưng Ngài đã đi vào thế giới của các giác quan, và như thế, các giác quan của chúng ta phải được lấp đầy bởi sự cảm nếm này, bởi vẻ đẹp của Lời Thiên Chúa, một thực tại chân thực.

Vigor”: là sức mạnh sống động của sự hiện hữu chúng ta và cũng là sức mạnh hợp lý của một thực tại. Với toàn bộ sức sống cũng như sức mạnh của mình, chúng ta phải được thấm nhuần bởi việc tuyên xưng. Việc tuyên xưng này phải được cá vị hóa (personare). Giai điệu của Thiên Chúa phải tấu khúc dạo đầu cho trọn vẹn cuộc hiện hữu của chúng ta.

Như thế, có thể nói rằng lời “tuyên xưng” là phần thứ nhất của Tin Mừng hóa, và “đức ái” là yếu tố thứ 2. Lời tuyên xưng không phải là một khái niệm trừu tượng nhưng là đức ái, là tình yêu. Chính trong cách thế này mà lời tuyên xưng thực sự là sự phản chiếu của chân lý thần linh, một chân lý không thể tách rời tình yêu. Bằng những từ rất mạnh, bản tụng ca miêu tả tình yêu này: ấy là sức mạnh, là ngọn lửa, làm bùng cháy những ngọn lửa khác. Có một khao khát cháy bỏng của chúng ta cần phải lớn lên nhờ niềm tin, và phải được chuyển thành ngọn lửa của đức ái. Đức Giê-su nói với chúng ta: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong lửa ấy đã bùng lên”(Lc 12,49). Giáo phụ Origen đã thông chuyển cho chúng ta lời ấy của Đức Giê-su: “Bất cứ ai gần tôi, là gần ngọn lửa”. Người Ki-tô hữu không được phép là kẻ thơ ơ lãnh đạm. Sách Khải Huyền nói với chúng ta rằng điều nguy hiểm nhất đối với người Kitô hữu không phải là việc nói không, nhưng là việc đồng ý một cách lãnh đạm. Chính sự lãnh đạm hủy hoại Ki-tô giáo. Đức tin phải trở nên như một ngọn lửa tình yêu trong chúng ta, một ngọn lửa thực sự làm bùng cháy trọn vẹn cuộc đời chúng ta, trở nên một khao khát lớn lao trong chúng ta, và như thế nó cũng làm bùng cháy ngọn lửa nơi tha nhân. Đây là cách thế của việc Tin Mừng Hoá: "Accéndat ardor proximos": chân lý phải trở nên đức ái trong tôi, và đức ái này sẽ trở nên ngọn lửa làm bùng cháy nơi tha nhân. Chỉ ngang qua việc thắp lên nơi anh chị em mình ngọn lửa của đức ái mà công cuộc Tin Mừng hoá và sự hiện diện của Tin Mừng mới thực sự được lớn lên. Khi đó Tin Mừng không còn là một từ ngữ đơn thuần, nhưng là một thực tại đã được sống.

Thánh Luca tường thuật với chúng ta rằng vào ngày lễ Hiện Xuống, vào ngày khai sinh của Giáo hội, Chúa Thánh Thần là ngọn lửa biến đổi thế giới, ngọn lửa dưới hình thức lưỡi lửa. Nghĩa là dù đây là một ngọn lửa nhưng đồng thời cũng là một thực tại hữu lý và thánh thiêng, và con người có thể hiểu được. Ngọn lửa này được nối kết với tư tưởng, với “mens”. Chính ngọn lửa lý tính này (sobria ebretas) làm nên đặc tính của Kitô giáo.

Chúng ta biết rằng lửa hiện diện ngay từ buổi bình minh của văn hoá nhân loại; lửa chính là ánh sáng, là hơi ấm và là sức mạnh để biến đổi. Văn minh nhân loại khởi đi từ việc con người tìm được phương pháp để tạo ra lửa. Với một ngọn lửa con người có thể huỷ diệt, nhưng cũng có thể biến đổi và canh tân. Ngọn lửa của Thiên Chúa là ngọn lửa làm biến đổi, ngọn lửa của khao khát, ngọn lửa dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa; đồng thời đấy cũng là ngọn lửa huỷ hoại nhiều điều trong chúng ta. Trên tất cả, ngọn lửa này làm biến đổi, canh tân và sáng tạo nên những sự mới mẻ trong con người, biến con người nên ánh sáng trong Thiên Chúa.
Cuối cùng chúng ta hãy cầu nguyện để lời “tuyên xưng” được bám rễ sâu xa trong tâm hồn chúng ta và trở nên một ngọn lửa làm bùng cháy nơi tha nhân. Nhờ đó, ngọn lửa của sự hiện diện của Thiên Chúa và sự mới mẻ của việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta trở nên thự sự hữu hình và trở nên nguồn sức mạnh cho hiện tại lẫn tương lai của chúng ta.

Chuyển Ngữ và Giới thiệu: Nguyễn Minh Triệu SJ  (Vietvatican)

Đức Thánh Cha tôn phong 7 hiển thánh

Đức Thánh Cha tôn phong 7 hiển thánh

VATICAN. Sáng chúa nhật 21 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã tôn phong 7 vị chân phước lên bậc hiển thánh, trước sự hiện diện của gần 90 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô.

Từ 9 giờ sáng, trong khi chờ đợi buổi lễ bắt đầu, ca đoàn hát thánh ca, rồi cộng đoàn đọc kinh Mân Côi, xen lẫn những bài hát do ca đoàn gồm 200 ca viên đảm trách.

Bên trái bàn thờ trên thềm Đền thờ Thánh Phêrô được dành cho các phái đoàn chính phủ và các nhà ngoại giao và nhiều tín hữu khác; bên phải dành cho 50 HY và đông đảo các nghị phụ và giáo sĩ, tu sĩ. Trên mặt tiền đền thờ có treo chân dung khổng lồ của 7 vị thánh mới.

Khác với những lần phong thánh trước đây, lần này theo quyết định của ĐTC, lễ nghi phong thánh được cử hành trước khi thánh lễ bắt đầu. Đúng 9 giờ 20 chuông Đền thờ được đánh lên rồi 50 vị đồng tế gồm 6 HY, 18 GM và 26 LM có liên hệ đặc biệt với 7 tiến chức hiển thánh, cùng với ĐTC đi rước từ bên trong Đền thờ ra lễ đài, trong khi ca đoàn hát kinh cầu các thánh.

Sau khi ĐTC hôn và xông hương bàn thờ, rồi an tọa trên toà của ngài, ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với 7 vị thỉnh nguyện viên tiến lên trước ĐTC thực hiện nghi thức 3 lần thỉnh cầu ngài ghi tên 7 vị chân phước vào sổ bộ các thánh.

Đáp lại lời thỉnh cầu thứ I, ĐTC mời gọi các tín hữu hiệp với ngài qua lời nguyện khẩn cầu ơn phù trợ của Chúa, của Mẹ Maria và các thánh cho việc làm hệ trọng chúng ta sắp thực hiện.

Rồi ĐHY Amato lại thỉnh cầu ĐTC lần thứ hai. Ngài đáp lại bằng lời mời gọi toàn thể cộng đoàn cầu xin ơn Chúa Thánh Thần phù trợ. Sau bài thánh ca Veni Creator, ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong thánh lại xin ĐTC lần thứ ba và đáp lại, lần ngày ngài long trọng đọc công thức:

Đ tôn vinh Chúa Ba Ngôi, đ tuyên dương đc tin Công Giáo và tăng cường đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Kitô, của hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi đã cầu nguyện lâu và suy nghĩ chín chắn, với ơn phù trợ của Chúa, sau khi lắng nghe ý kiến của nhiều anh em trong hàng GM, Chúng Tôi tuyên bố và xác đnh các chân phước: Jacques Berthieu, Phêrô Calungsod, Giovanni Battista Piamarta, Maria Carmen Sallés y Barangueras, Marianne Cope, Kateri Takakwitha và Anna Schaeffer là thánh và ghi tên các vị vào sổ bộ các thánh và truyền phải sốt sắng tôn kính các vị trong toàn thể Giáo Hội”.

 

Cộng đoàn tung hô Amen ba lần, trước khi thánh tích của các vị được rước lên đặt cạnh bàn thờ và được xông hương tôn kính, rồi ca đoàn và mọi người hát kinh Te Deum, tạ ơn Thiên Chúa:
ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong thánh tiến lên ngỏ lời cám ơn ĐTC và thánh lễ được chính thức bắt đầu với bài ca nhập lễ, và diễn tiến như trong các thánh lễ chúa nhật.

 

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Giảng sau bài Tin Mừng về sự tích hai anh em ông Gioan và Giacôbê xin Chúa Giêsu cho ngồi bên hữu và bên tả Người khi Người được vinh quang, ĐTC nhấn mạnh lời Chúa Giêsu:
”Con người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Xc Mc 10,45). Những lời này trở thành chương trình sống của 7 vị Chân Phước mà hôm nay Giáo Hội long trọng ghi tên vào hàng ngũ vinh hiển của các thánh. Các ngài đã anh dũng dâng mạng sống mình, tận hiến cho Thiên Chúa và quảng đại phục vụ anh chị em đồng loại. Các vị là con cái của Giáo Hội, đã chọn con đường phục vụ noi gương Chúa. Sự thánh thiện trong Giáo Hội luôn có nguồn mạch từ mầu nhiệm cứu chuộc, được ngôn sứ Isaia báo trước trong bài đọc thứ I: Vị Tôi Tớ Chúa là người Công Chính ”làm cho nhiều người nên công chính, Người mang lấy tội lỗi của họ” (Is 53, 11), Đó chính là Chúa Giêsu Kitô, chịu đanh, sống lại và đang sống trong vinh quang. Lễ phong thánh hôm nay là lời khẳng định hùng hồn về thực tại cứu độ huyền nhiệm ấy. Sự kiên trì của 7 môn đệ Chúa Kitô trong việc tuyên xưng đức tin, sự trở nên đồng hình dạng của các Vị với Con Người ngày hôm nay đang chiếu tỏa rạng ngời trong toàn Giáo Hội.

Đến đây, ĐTC lần lượt tóm lượt tiểu sử và sứ điệp nổi bật của 7 vị thánh mới:

1. Trước tiên là cha Jacques Berthieu, sinh năm 1838 tại Pháp, sớm được Chúa Kitô chinh phục. Trong khi làm việc mục vụ giáo xứ, cha nồng nhiệt mong ước cứu vớt các linh hồn. Trở thành tu sĩ dòng Tên, cha muốn rong ruổi trên thế giới để làm vinh danh Chúa. Là mục tử không biết mệt mỏi tại đảo Santa Maria rồi tại Madagascar, cha tranh đấu chống lại bất công, nâng đỡ người nghèo và bệnh nhân. Người dân Madagascar coi cha như một LM đến từ trời, họ nói: Cha là ”cha mẹ của chúng con!”. Cha trở nên mọi sự cho mọi người, kín múc trong kinh nguyện và trong lòng yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu sức mạnh nhân bản và linh mục để đạt tới cuộc tử đạo vào năm 1896. Khi trút hơi thở cuối cùng, cha nói: ”Tôi thà chết còn hơn từ bỏ đức tin của tôi”. Các bạn thân mến, ước gì cuộc sống của nhà truyền giáo này khích lệ và nêu gương cho các linh mục, để các vị trở thành những người của Thiên Chúa như thánh Berthieu! Ước gì tấm gương của thánh nhân trợ giúp các tín hữu Kitô đang bị bách hại ngày nay vì đức tin! Ước chi sự chuyển cầu của thánh nhân trong Năm Đức Tin này mang lại thành quả cho Madagascar và Phi châu! Xin Chúa chúc lành cho dân tộc Madagascar!

2. Pedro Calungsod sinh khoảng năm 1654, tại vùng Visayas bên Philippines. Tình yêu của thánh nhân đối với Chúa Kitô thúc đẩy Người trở thành giáo lý viên cùng với các thừa sai dòng Tên tại nơi ấy. Năm 1668, cùng với các giáo lý viên trẻ khác, Pedro tháp tùng cha Diego Luis de San Vitores tới quần đảo Marianas để rao giảng Tin Mừng cho dân tộc Chamorro. Cuộc sống tại đó rất vất vả cam go và các thừa sai bị bách hại vì ghen tương và vu khống. Nhưng Pedro đã chứng tỏ niềm tin và đức ái sâu xa, và tiếp tục dạy giáo lý cho nhiều tân tòng, làm chứng về Chúa Kitô qua cuộc sống khiết tịnh và tận tụy đối với Tin Mừng. Thánh nhân nồng nhiệt mong ước đưa các linh hồn về cùng Chúa Kitô, và điều này càng làm cho Người kiên quyết trong việc chấp nhận tử đạo. Pedro Calungsod qua đời ngày 2-4-1672. Các chứng nhân kể lại rằng Pedro tuy có thể thoát thân nhưng đã quyết định ở lại cạnh cha Diego. Vị linh mục đã ban phép xá giải cho Pedro trước khi bị giết. Ước gì tấm gương và chứng tá can đảm của thánh Pedro Calungsod gợi hứng cho các dân tộc yêu quí tại Philippines mạnh mẽ rao giảng Nước Chúa và đưa nhiều linh hồn về cùng Chúa.

3. Giovanni Battista Piamarta, linh mục giáo phận Brescia là đại tông đồ bác ái và của giới trẻ. Cha cảm thấy đạo Công Giáo cần phải hiện diện về văn hóa và xã hội trong thế giới tân tiến, vì thế cha tận tụy nâng cao đời sống Kitô, luân lý và nghề nghiệp cho các thế hệ trẻ với tấm gương rạng ngời của cha về tình người và lòng từ nhân. Được linh hoạt nhờ niềm tín thác không lay chuyển nơi Chúa Quan Phòng và với tinh thần hy sinh sâu xa, cha đương đầu với những khó khăn và vất vả để thành lập nhiều tổ chức tông đồ, trong đó có Học viện Artigianelli, nhà xuất bản Queriniana, Dòng nam Thánh Gia Nazareth, và dòng các nữ tỳ khiêm hạ của Chúa. Bí quyết cuộc sống khẩn trương và cần cù của cha chính là những giờ cầu nguyện lâu giờ. Khi bị tràn ngập công việc, cha gia tăng thời gian gặp gỡ, tâm sự với Chúa. Cha thích dừng lại trước Mình Thánh Chúa, suy niệm về cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Chúa Kitô, để kín mục sức mạnh tinh thần và tái ra đi chinh phục tâm hồn tha nhân, đặc biệt là những người trẻ, để đưa họ trở lại nguồn sống với những sáng kiến mục vụ luôn mới mẻ”.

4. ”Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu Chúa: chúng con hy vọng nơi Chúa”. Với những lời này, phụng vụ mời chúng ta hãy nhận thánh ca này dâng lên Thiên Chúa Tạo Hóa và Quan phòng như của chúng ta, chấp nhận dự phóng của Chúa dành cho đời sống chúng ta. Thánh nữ Maria del Carmelo Sallés y Barangueras, đã làm như vậy. Người là nữ tu, sinh trưởng tại Vic bên Tây Ban Nha năm 1848. Khi thấy hy vọng của mình được thành tựu sau nhiều thăng trầm khi chiêm ngắm sự phát triển của Dòng các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm chuyên về giáo dục, mà Mẹ đã thành lập năm 1892, Mẹ đã có thể hát lên cùng với Mẹ Thiên Chúa: ”Từ đời này đến đời kia, lượng từ bi của Chúa trải dài trên những người kính sợ Chúa”. Công trình giáo dục của Mẹ, được phó thác cho Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm, tiếp tục mang lại những hoa trái dồi dào nơi giới trẻ nhờ sự dấn thân quảng đại của các con cái của Mẹ, những người như Mẹ đã phó thác trong tay Chúa là Đấng có thể làm mọi sự.

5. Giờ đây chúng ta hãy hướng nhìn về thánh nữ Marianne Cope, sinh năm 1838 tại Heppenheim bên Đức. Khi mới được 1 tuổi, Marianne được đưa sang Hoa Kỳ và năm 1862 gia nhập dòng Ba Phanxicô tại viện ở Syracure New York. Sau đó với tư cách là Bề trên (tổng quyền) của dòng, Mẹ Marianna tự nguyện đón nhận ơn gọi chăm sóc những người cùi trong quần đảo Hawaii, sau khi nhiều người khác khước từ. Cùng với 6 chị em, Mẹ đến đó để điều khiển một nhà thương ở đảo Oahu, rồi sau đó lập nhà thương ở Malulani trên đảo Maui, mở một nhà cho các thiếu nữ con của những người cùi. 5 năm sau, Mẹ nhận lời mời mở một nhà cho các phụ nữ và thiếu nữ tại chính đảo Molokai, can đảm đích thân đến đó và chấm dứt liên lạc với thế giới bên ngoài. Tại đó Mẹ chăm sóc cha Damien, vốn nổi tiếng vì hạt động anh dũng nơi những người cùi, chăm sóc cha cho đến chết và tiếp nối cha nơi những người cùi nam giới. Khi còn có thể làm chút ít cho những người đau khổ vì căn bệnh kinh khủng này, Mẹ Marianne Cope chúng tỏ tình yêu, lòng can đảm và hăng say cao cả nhất. Mẹ là mẫu gương sáng ngời và mạnh mẽ về truyền thống Công Giáo tốt đẹp nhất trong việc săn sóc những chị em và theo tinh thần của thánh Phanxicô yêu quí.

6. Kateri Tekakwitha sinh năm 1656 tại nơi nay thuộc bang New York, thân phụ là người bộ lạc Mohak và mẹ mà tín hữu Công Giáo thuộc bộ lạc Algonchina, người đã thông truyền cho Kateri cảm thức về Thiên Chúa hăng sống. Kateri được rửa tội năm 20 tuổi, và tránh các cuộc bách hại, tị nạn đến cứ điểm truyền giáo thánh Phanxicô Xavie gần Montréal. Tại đó, Kateri làm việc, trung thành với truyền thống của dân tộc mình, và cũng từ bỏ những xác tín tôn giáo của bộ tộc, cho đến khi qua đời lúc 24 tuổi. Với cuộc sống đơn sơ, Kateri trung thành với tình yêu Chúa Giêsu, kinh nguyện và thánh lễ h;ăng ngày. Ước mong lớn nhất của Kateri là được biết Chúa và làm những gì đẹp lòng Chúa.


Kateri mang lại cho chúng ta ấn tượng mạnh về hoạt động của ơn thánh trong cuộc sống của thánh nữ, – vốn không được những nâng đỡ từ bên ngoài,- và về lòng can đảm trong ơn gọi rất đặc biệt trong nền văn hóa của thánh nữ. Nơi Kateri, đức tin và văn hóa làm cho nhau được phong phú. Ước gì tấm gương của thánh nữ giúp chúng ta sống tại nơi chúng ta đang sở, mà không từ bỏ thực chất của chúng ta, yêu mến Chúa Giêsu! Lạy Thánh Nữ Kateri, bổn mạng của Canada và là vị thánh đầu tiên thuộc thổ dân bắc Mỹ, chúng con phó thác cho thánh nữ sự canh tân đức tin của các thổ dân trên toàn Bắc Mỹ! Xin Chúa chúc lành cho các thổ dân!
7. Anna Schaeffer người làng Mindelstetten, khi còn trẻ đã muốn gia nhập một dòng thừa sai. Vốn xuất thân từ gia đình khiêm hạ, Anna làm công trong một gia đình với ý định kiếm đủ tiền hồi môn để được đón nhận vào một tu viện. Trong công việc ấy, Anna bị tai nạn, bị phỏng nặng ở hai chân không thể lành được, khiến cô bị liệt giường suốt đời. Và thế là chiếc giường đau khổ trở thành căn phòng tu viện đối với Anna, và đau khổ trở thành hoạt động truyền giáo của thánh nữ. Thoạt đầu Anna than thân trách phận, nhưng rồi Anna tiến đến mức biết giải thích tình trạng của mình như tiếng gọi yêu thương của Đấng Chịu Đóng Đanh, mời gọi Anna bước theo Ngài. Được an ủi hằng ngày nhờ việc rước lễ, Anna trở thành một dụng cụ không biết mệt mỏi chuyển cầu bằng kinh nguyện và phản ánh tình thương của Thiên Chúa cho nhiều người đến xin Anna lời khuyên bảo. Ước gì hoạt động tông đồ bằng lời cầu nguyện và bằng đau khổ, hy sinh và đền tạ của thánh nữ là tấm gương rạng ngời cho các tín hữu tại quê hương, và ước gì lời chuyển cầu của thánh nữ củng cố phong trong Công Giáo Hospice, gồm những trung tâm săn sóc chống đau cho các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời, trong công tác phục vụ tốt lành.

Và ĐTC kết luận rằng:
”Anh chị em thân mến, các vị thánh mới, tuy có nguồn gốc, ngôn ngữ, quốc tịch và hoàn cảnh xã hội khác nhau, nhưng đều liên kết với toàn thể Dân Chúa trong mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc. Cùng với các ngài, cả chúng ta nơi đây, hiệp với các nghị phụ Thượng HĐGM đến từ các nơi trên thế giới, liên kết với những lời của Thánh Vịnh tung hô Chúa là ”ơn phù trợ và là khiên thuẫn của chúng ta”, và chúng ta cầu xin Chúa: ”Lạy Chúa, ước gì tình thương Chúa đổ trên chúng con, như chúng con hy vọng nơi Chúa' (Tv 32,20-22). Ước gì chứng tá của các vị thánh mới, cuộc sống các ngài quảng đại dâng hiến vì tình thương Chúa Kitô, nói với toàn thể Giáo Hội ngày nay, và lời chuyển cầu của các ngài củng cố và nâng đỡ Giáo Hội, trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.

Trong phần rước lễ, 280 linh mục và phó tế đã tản ra các nơi ở quảng trường để mang Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. Và chính ĐTC đã cho hàng chục tín hữu rước lễ.

Cuối thánh lễ, vào lúc 11 giờ 40, ĐTC chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin. Trong lời nhắn nhủ trước khi đọc kinh, ngài mời gọi các tín hữu hướng về Mẹ Maria, Nữ Vương các thánh, và đặc biệt nghĩ đến Lộ Đức, bị lụt vì mưa lũ làm nước sông Gave dâng cao, ngập cả Hang Đá Đức Mẹ hiện ra. ĐTC nói: ”Đặc biệt hôm nay, chúng ta hãy phó thác cho sự bảo vệ từ mẫu của Mẹ Maria các thừa sai nam nữ, các LM, tu sĩ và giáo dân, đang gieo hãi hạt giống tốt lành của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Thượng HĐGM, trong những tuần lễ này đang đương đầu với thách đố tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin.

Bằng nhiều thứ tiếng, ĐTC cũng chào thăm các phái đoàn chính quyền và các tín hữu đến tham dự lễ phong thánh. Sau kinh truyền tin, ĐTC đã ban phép lành cho các tín hữu như mọi khi.

Các phái đoàn
Sau thánh lễ, tại nhà nguyện Đức Mẹ Sầu Bi trong đền thờ thánh Phêrô, các phái đoàn chính phủ đã được ĐTC đặc biệt chào thăm:

Phái đoàn Philippines gồm 7 người do Phó Tổng thống Jejomar Binay hướng dẫn; phái đoàn Tây Ban Nha gồm 22 người do Bộ trưởng nội vụ Jorge Fernandez Díaz làm trưởng đoàn; Phái đoàn Pháp có 22 người do Bộ trưởng nội vụ Manuel Valls; phái đoàn Canada gồm 10 người do chủ tịch Hạ viện liên bang Ông Andrew Sheer; phái đoàn Italia có 10 người do bộ trưởng y tế Renato Balduzzi, phái đoàn Đức có 6 người cho Chủ tịch nghị viện bang Bavaria bà Barbara Stam hướng dẫn; phái đoàn Hoa Kỳ gồm 5 người do Đại sứ Miguel Diaz cạnh Tòa Thánh đại diện, và phái đoàn Madagascar có 6 người do bà Annick Rajaona, trưởng Văn phòng ngoại giao, cầm đầu.

Trong gần 8 năm làm Giáo Hoàng, ĐTC Biển Đức 16 đích thân tôn phong 43 vị hiển thánh, kể cả 7 vị sáng 21 tháng 10-2012, và ngoài ra có hơn 600 vị chân phước được tôn phong, do Tông Thư của ngài, và thường là một vị Hồng Y, nhất là ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong thánh, chủ sự các lễ phong chân phước. Đa số các vị chân phước được tôn phong trong thời gian qua là các vị tử đạo trong thời nội chiến tại Tây Ban Nha từ 1936 đến 1939.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO

GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO

Suy niệm nhân ngày Truyền Giáo 2012

Lệnh Chúa Giêsu truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" ( Mt 28, 19 – 20 ).

Kinh Tân Phúc Âm Hóa có đoạn:

“Xin đổ Thần Trí của Cha, nhờ đó con được tăng thêm sức mạnh để ra đi và làm chứng nhân cho Tin Mừng mọi ngày trong đời sống của con, bằng lời nói và việc làm.

Trong những lúc hoang mang, xin nhắc con:

Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm ?

Nếu không phải là lúc này, thì khi nào Phúc Âm sẽ được loan truyền ?

Nếu không phải là chân lý Phúc Âm, thì điều gì con sẽ công bố ?”

“Nếu không là con, thì ai sẽ rao truyền Phúc Âm”. Lời kinh mời gọi mỗi chúng ta khẳng định lại sứ vụ truyền giáo mà mỗi Kitô Hữu Công Giáo đã được nhận lãnh ngay trong Bí Tích Thánh Tẩy và phải thi hành sứ vụ ấy như một bổn phận.

Như thế là: không phải ai khác, nhưng chính tôi là người truyền giáo. Không phải lúc nào khác nhưng ngay bây giờ là lúc phải truyền giáo. Không điều kiện nào khác, nhưng chính trong điều kiện này là điều kiện mà tôi phải truyền giáo.

Thiết tưởng cần xóa ngay đi não trạng xưa cũ của một thời mà Giáo Dân và cả các Giáo Sĩ cũng xem việc truyền giáo là chuyện dành riêng của Giáo sĩ mà thôi, và Giáo Dân tự xem hoặc bị xem quá thấp kém, quá tầm thường, có khi là quá tội lỗi nữa, biết gì mà truyền giáo !?! Đúng là một não trạng tệ hại vô cùng !

Và còn tệ hơn nữa khi có Giáo Dân nào đó nhiệt thành quá một chút là có thể bị Giáo Sĩ kết án ngay là “phá hoại” Giáo Hội. Người phá hoại Giáo Hội là người sống không đúng ơn gọi của mình. Người sống đúng ơn gọi của mình không thể kể họ vào loại phá hoại được. Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của tất cả mọi người Kitô hữu Công Giáo, không phân biệt Giáo Sĩ hay Giáo Dân.

Trong điều kiện hết sức khó khăn của những Giáo Dân sống trong thời đại con người ta chỉ lo cơm áo gạo tiền, tôi đã thấy những gương chứng nhân Đức Tin thật đáng kể. Họ là những người Công Giáo tốt từ lúc ăn gạo chợ uống nước sông đến ngày có cơ ngơi vững chãi.

Có người truyền giáo bằng xe hơi vì họ đã có được chiếc xe 7 chỗ hẳn hoi, và họ gọi đó là chiếc xe “7 Hồng Ân”. Mừng cho họ là họ có ý thức tạ ơn và đã dùng xe hơi cho việc truyền giáo. Lại có anh hội viên Legio có xe đạp, truyền giáo bằng xe đạp. Mừng cho anh, tạ ơn Chúa với anh vì anh không chần chừ, không chờ đợi ước mong có xe hơi mới truyền giáo được. Có người có nhà cao cửa rộng họ sử dụng cái giàu có của họ cho việc truyền giáo, còn chị Lòng Chúa Thương Xót, chỉ có mỗi căn nhà lá, trống trước trống sau, làm chỗ học Giáo Lý cho đôi ba người dân tộc. Cảnh thiên đường đẹp quá !

Nhìn lại, những lần Đại Hội Loan Báo Tin Mừng với việc học hỏi các Văn Kiện lớn lao về Truyền Giáo, thành phần được mời tham dự toàn là những  người có chức, có quyền, có bằng cấp, có ăn có học, được coi là bậc vị vọng, hoặc ít ra cũng là những người đang có chức vụ trong Giáo Hội. Có ai lại đi mời bà bán cháo lòng, bán bánh canh, bán đậu hủ, bán vé số, người xa quê, kẻ làm thuê, người khuyết tật, kẻ hành khất, hạng nghèo hèn trong xã hội… tham dự đâu ? Có phải vì họ là cấp thấp bé trong Giáo Hội thì biết gì mà loan báo Tin Mừng chăng ? Thiết tưởng, bao lâu người Giáo Dân còn bị đánh giá là thành phần thấp bé hèn mọn dưới con mắt của Giáo Hội Địa Phương, thì bấy lâu, Giáo Hội tiếp tục phạm phải một sai lầm đáng kể.

Này nhé, tưởng là họ đi Lễ họ không chú ý nghe giảng sao ? Không phải thế đâu! Họ đã lắng nghe, nghe rất rõ, nghe rất kỹ đấy. Lại tội nghiệp cho người cố gắng lắng nghe mà nghe không được, bởi Nhà Thờ thì to đùng, xây dựng đủ thứ hạng mục công trình, sắm sửa đủ thứ xa xỉ mà âm thanh lại chẳng nghe được gì, đúng là chỉ để… xem lễ chứ có nghe được gì đâu ? Đáng tiếc mà cũng đáng trách !

Đừng lầm tưởng, hãy biết những Giáo Dân thấp bé kia, không chỉ nghe mà còn muốn nghe thật kỹ, thật rõ, và còn hơn thế nữa, nghe và đối chiếu điều người đã giảng với điều người đã sống. Cuối cùng, may quá, cách thể hiện đạo đức nhất của họ là làm theo những điều đã nghe, chứ không làm theo những điều đã thấy.

Tôi tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và hoạt động cách mạnh mẽ nhất, hữu hiệu nhất, ấn tượng nhất trong chính những con người thấp bé ấy. Nhờ ơn Thánh Thần, họ được sức mạnh can trường trong đau thương, họ được niềm vui sống công chính ngay trong “cái túi” của số phận, họ được vinh dự làm chứng cho một Đạo Công Giáo luôn có niềm tin mãnh liệt vào hạnh phúc đời sau, họ được diễm phúc có một hoàn cảnh thấp bé mà sứ vụ truyền giáo thì ngược lại, không nhỏ bé chút nào. Họ sống Tin Mừng cách thiết thực nhất ngay trong điều kiện kém cỏi và hoàn cảnh khó khăn của chính họ. Thật đáng quí công cuộc truyền giáo không tên tuổi, không ai quan tâm của những Giáo Dân mạt hạng, kém trình độ, nghèo khổ, thấp hèn !

Cộng tác vào công cuộc truyền giáo của Chúa Giêsu ngày ấy, nào có phải là những thầy Kinh Sư và thầy Thông Luật đâu, chỉ toàn là những người đánh cá nhiều phần là mù chữ, là mấy tên thu thuế được xếp vào phường tội lỗi, là chị kia năm đời chồng đi kín nước, là cô kia làm nghề buôn son bán phấn, là người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang cần phải lãnh án ném đá cho đến chết, là tên trộm bị trói trên giá ngay bên hữu Chúa, là một người Samari nhân hậu, là người đàn bà bị băng huyết kinh niên, là chú què được nhảy như nai, là cậu mù được sáng mắt, là anh phung cùi được sạch…

Thời nay không còn là thời điểm truyền giáo của những Giáo Dân mạt hạng ấy sao ? Hẳn không phải là thời buổi truyền giáo của những thầy Thông Luật mà lại chẳng giữ luật đấy chứ ?

Hãy đến “xem nơi Người ở, và ở lại với Người”, những con người thấp bé nhất trong xã hội, trong Giáo Hội, họ đang sống rất anh hùng giữa những đau thương của cuộc đời xoàng thường nhất trong thiên hạ, nhưng lại là những chứng nhân sống động nhất của Tin Mừng.

Để kết, xin mượn truyện rất ngắn của tác giả Ba Chuông có tựa đề “Truyền Giáo” tôi vừa mới đọc được trên baicamoi.com:

“Xóm trên, Cậu Út ở với cha mẹ già, đi làm thuê về, xe tông, gãy chân, gãy sườn. Có mấy người hàng xóm đến thăm.

Chị Tám bán bánh canh xóm dưới cũng lên thăm. Thấy chạnh lòng, chị rút tờ hai trăm ngàn dúi vào tay vợ cậu Út. Có người nhìn thấy. Người ấy không ai khác là bà Tư, chủ nợ của chị Tám. Bà Tư không phải người Công Giáo.

Chị Tám bán bánh canh, mượn đầu heo nấu cháo, vay bà Tư 3 triệu, hằng tháng trả lãi 7 phân.Cuối tháng, chị Tám đến bà Tư trả tiền lãi. Bà Tư lấy một nửa, cho lại chị một nửa. Còn khen: “Tui không ngờ chị lại có lòng thương người như vậy. Ít thấy được người Công Giáo như chị. Biết sẻ chia lúc hoạn nạn mới là người Công Giáo tốt”.

Lạy Chúa, xin cho mọi việc chúng con làm đều vì danh Cha cả sáng. Amen.”

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì đã và đang có những giáo dân thấp bé nhất nhiệt thành sống đức tin giữa hoàn cảnh bi thương nhất trong cuộc đời. Xin cho mỗi ngày một nhiều hơn những giáo dân biết tạ ơn Chúa vì ơn gọi truyền giáo và kiên trung sống đời sống Công Giáo công chính theo Tin Mừng, cho danh Chúa được cả sáng.

Amen.

PM Cao Huy Hoàng

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-15 đến 10-21-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-15 đến 10-21-2012

Trích từ Xuân Bích VN

 

Ngày càng thêm chứng cứ sách giấy cói “Vợ Chúa Giêsu” là giả mạo.

-Toà án Ấn Độ : việc cầu nguyện trong các nhà ở là tự do, không cần có phép.

-Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin cho biết sẽ không còn đàm phán với SSPX

-Bổ nhiệm mới.

Người đứng đầu các HĐGM chào mừng Giải Nobel cho Liên Minh Châu Âu.

Thêm một thiếu niên Pakistan đối mặt cáo  buộc [tội] báng bổ.

Kitô hữu nên học hỏi tín đồ Hồi giáo về ước ao truyền bá đức tin.

Hai linh mục song sinh được “thuyền nhân người Việt” truyền cảm hứng.

-Rahner và Ratzinger bị phái Lefèbvre quy là “dị giáo” trong thời kỳ CĐ Vatican II.

Vị trí của học thuyết xã hội Giáo Hội.

Đức Thánh Cha tiếp các bậc kỳ cựu của Công Đồng.

Sẽ sớm phong chân phước cho Đức Thánh Cha Phaolô VI.

Video về sự tăng trưởng của Hồi giáo làm bùng lên tranh luận tại Thượng Hội Đồng.

-Chứng cứ bác bỏ những đồn đoán rằng Đức Gioan-Phaolô I bị giết.

Hội Kinh Thánh Mỹ dự tính triển lãm Kinh Thánh lớn chưa từng có ở Vatican.

Linh mục ăn chơi bỏ trốn với 1 triệu Euros và người đàn bà đã kết hôn.

Giám Mục Trung Quốc thách thức những người tham dự Thượng Hội Đồng.

Đức thánh Cha tin tưởng rằng Châu Âu sẽ tìm lại được đức tin.

Hướng tới một ngày Phục Sinh chung cho Công Giáo và Chính Thống.

– Đức Thánh Cha cử phái đoàn gồm 7 vị giáo phẩm đến Damas.

Roma yêu cầu người đứng đầu Đạo Binh Chúa Kitô từ chức.

Quá nhiều tín hữu Công giáo không biết những khái niệm căn bản đức tin.

(Xin xem chi tiết . . . TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-15 đến 10-21-2012 )

Đức Thánh Cha trao giải thưởng Ratzinger

Đức Thánh Cha trao giải thưởng Ratzinger

VATICAN. Sáng 20 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã trao giải thưởng Ratzinger cho hai học giả nổi bật về các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy.

Đó là LM Brian E. Daley, 72 tuổi, dòng tên người Mỹ, chuyên gia về giáo phụ học và làm giáo sư tại đại học Notre Dame, của dòng Thánh Giá, bang Indiana Hoa Kỳ. Tiếp đến là ông Rémi Brague, người Pháp, giáo sư triết học các tôn giáo Âu Châu tại đại học Ludwig Maximilian ở Munich bên Đức. Kèm theo mỗi giải thưởng có ngân phiếu 50 ngàn Euro.

Việc chọn người trúng giải do một Ủy ban giám khảo do ĐHY Camillo Ruini làm chủ tịch. Ngài nguyên giám quản giáo phận Roma và Chủ tịch HĐGM Italia.

Lên tiếng trước khi trao giải thưởng, trước sự hiện diện của 400 người tại phòng Clementina trong dinh Tông Tòa, ĐTC đề cao sự nghiệp nghiên cứu của hai học giả, đặc biệt là việc phục vụ quí giá của hai vị trong ngành giáo dục. Ngài nói:

”Cha Daley, khi nghiên cứu tường tận các giáo phụ, đã theo một trường tốt nhất để biết và yêu mến Giáo Hội duy nhất và không bị phân chia, mặc dù có nhiều truyền thống khác nhau; vì thế cha cũng thi hành một dịch vụ trách nhiệm trong tương quan với các Giáo Hội Chính Thống. Còn giáo sư Brague là một đại học giả về triết học các tôn giáo, đặc biệt là Do thái giáo và Hồi giáo thời Trung Cổ.”

ĐTC cũng khích lệ Ngân Quỹ Ratzinger, ngoài việc trao tặng giải thưởng, còn cung cấp học bổng cho các sinh viên đang dọn tiến sĩ thần học cũng như tổ chức các hội nghị nghiên cứu cấp đại học, như hội nghị đã tổ chức năm nay tại Ba Lan, và hội nghị trong 3 tuần lễ tới đây tại Rio de Janeiro, Brazil. Quỹ này có số vốn là 3 triệu Euro do tác quyền từ các sách của ĐHY Ratzinger.

ĐTC nhận xét rằng ”Những nhân vật như cha Daley và Giáo sư Brague thật là gương mẫu trong việc thông truyền một kiến thức biết liên kết khoa học với sự khôn ngoan, nghiên cứu khoa học nghiêm túc và lòng say mê đối với con người, để có thể khám phá ”nghệ thuật sống”. Đó chính là những người, nhờ đức tin được soi sáng và sống thực, họ làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi và đáng tin cậy nơi con người ngày nay, là điều mà chúng ta đang cần; họ là những người luôn ngắm nhìn Thiên Chúa và kín múc từ nguồn mạch ấy tình nhân đạo đích thực để giúp đỡ những người Chúa đặt trên con đường chúng ta, để họ hiểu rằng Chúa Kitô chính là con đường sự sống; các nhân vật ấy là những người có trí tuệ được ánh sáng của Thiên Chúa soi sáng để có thể nói với tâm trí của tha nhân”.

Trong số các tác phẩm của Cha Daley có cuốn ”Niềm hy vọng của Giáo Hội sơ khai”, hoặc cuốn ”Những bài giảng của các giáo phụ về sự an nghỉ của Đức Mẹ”, và mộ tcuốn trong bộ sách về ”Các Giáo Phụ thời Giáo Hội sơ khai”.
Giáo sư Émile Brague có gia đình với 4 người con. Ông giảng dạy tại Đại học Sorbonne ở Paris trong 20 năm trời, trước khi chuyển qua đại học ở Mumich từ năm 2002. Trong số các tác phẩm của ông, có cuốn ”Sự khôn ngoan của thế giới”, cuốn ”Luật của Chúa”, và cuốn ”Về Thiên Chúa của các tín hữu kitô”. (CNS 19-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sinh hoạt Thượng HĐGM thế giới XIII: 19-10-2012

Sinh hoạt Thượng HĐGM thế giới XIII: 19-10-2012

VATICAN. Sáng 19 tháng 10-2012, Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 đã nhóm phiên khoáng đại thứ 17, trước sự hiện diện của ĐTC và 253 nghị phụ, để nghe các đại diện của 12 nhóm tường trình về kết quả các cuộc thảo luận trong hai phiên họp nhóm sáng và chiều thứ năm 18 tháng 10-2012.

Theo các bài tường trình, các nhóm nhỏ đã theo các phương pháp khác nhau trong các cuộc thảo luận, nhưng tất cả đều nhắm một mục tiêu là mang lại hy vọng cho một thế giới đang bị khủng hoảng, trong một thế giới tân tiến, nhưng đồng thời lại vắng bóng và nhớ nhung Thiên Chúa. Vậy Giáo Hội phải làm gì? Trước tiên cần xét mình xem: nếu nói về tái truyền giảng Tin Mừng, phải chăng vì các tín hữu Kitô đã đánh mất một cái gì đó, một cái gì mà Giáo Hội không biết cống hiến? Đàng khác, để rao giảng Tin Mừng, thì trước tiên phải là người được đón nhận Tin Mừng. Từ đó, các nhóm nghị phụ mạnh mẽ kêu gọi trở về với bí tích thống hối.

Một điểm được lưu ý nhiều, đó là đối thoại đại kết và liên tôn: đối thoại đại kết làm cho việc rao giảng Tin Mừng đáng tin cậy, đối thoại liên tôn, nhất là dự trên ý thức sâu xa về Kinh Thánh và các chứng tá cuộc sống sẽ giúp phổ biến Lời Chúa ngay tại các nước Hồi giáo.

Ngoài ra, chúng ta không thể không biết tới cuộc khủng sâu đậm của gia đình: gia đình là nòng cốt của việc rao giảng Tin Mừng, cần phải được nâng đỡ, khích lệ các bậc cha mẹ như những người đầu tiên giảng dạy giáo lý cho con cái. Các GM cũng tái khẳng định tầm quan trọng của bí tích hôn phối.

Trong viễn tượng này, cần dành chỗ đừng cho cả các ông bà; có các nghị phụ đề nghị thiết lập thừa tác vụ 'đọc sách' (lectorato) Kinh Thánh. Tuy nhiên, đề nghị thiết lập thừa tác vụ giáo lý viên vẫn còn gây tranh luận, mặc dù nhiều nghị phụ đề cao vai trò của các giáo lý viên, -cũng như tất cả các giáo dân – trong việc tái truyền giảng tin Mừng.

Một điểm đặc biệt liên quan đến các chính trị gia Công giáo cũng được nói đến: các GM nói họ phải sống hợp với đức tin, và không thể có thái độ thỏa hiệp, trái lại cần để cho lương tâm ngay thẳng và những giá trị không thể thương lượng hướng dẫn. Trong bối cảnh đó, các nghị phụ đề nghị tái đẩy mạnh các hoạt động công lý và hòa bình, theo giáo huấn xã hội của Hội Thánh, và để sự ưu tiên dành cho người nghèo làm cho việc rao giảng Tin Mừng đáng được tin cậy, cũng như kiến tạo những ốc đảo thực sự trong đó con người gặp gỡ Thiên Chúa.

Các nhóm nghị phụ cũng đã thảo luận về các vấn đề khác như: các phương tiện truyền thông, duyệt lại việc huấn giáo và thực hành các bí tích khai tâm, suy tư về hiện tượng hoàn cầu hóa, các giáo xứ và các cộng đoàn nhỏ…
Cuối phiên họp ban sáng, Đức TGM Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới, thông báo một tài khoản được mở tại ngân hàng Vatican (IOR) để các nghị phụ đóng góp cho việc cứu trợ các nạn nhân và Giáo hội tại Siria.

– Ban chiều, từ lúc 4 giờ rưỡi, các nghị phụ và dự thính viên lại họp trong các nhóm nhỏ để đưa ra các đề nghị cụ thể. Các vị phải hoàn tất công việc này để trao danh sách các đề nghị cho Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM vào lúc 7 giờ tối.

Trong phiên họp khoáng đại thứ 18 vào sáng thứ bẩy 20 tháng 10-2012, Công nghị GM sẽ nghe trình bày dự thảo Sứ điệp của Thượng HĐGM gửi cộng đồng dân Chúa, và thảo luận để sửa chữa văn kiện này.

Ngoài ra, các vị cũng tiến hành việc bầu các thành viên Hội đồng của Thượng HĐGM 13 gồm 15 thành viên, trong đó có 12 vị do các nghị phụ bầu lên và 3 vị do ĐTC bổ nhiệm.

Trong khi đó, báo chí vẫn tiếp tục nhắc đến các bài phát biểu của các dự thính viên được trình bày trong những ngày qua.

– Chẳng hạn, lần đầu tiên một đôi vợ chồng được lên tiếng phát biểu tại Công nghị GM thế giới hiện nay, đó là Ông Bà Marc và Florence de Leyritz, người Pháp, là những người đã giới thiệu và cổ võ Hiệp Hội Alpha ở Pháp. Ông Bà đã học được phương pháp này từ một giáo xứ Anh giáo ở Anh quốc cách đây 10 năm.

Tiến trình Alpha là một dụng cụ đại kết dành cho các giáo xứ và các văn phòng tuyên úy, gồm có 10 bữa ăn mở rộng cho mọi người. Tiến trình này do giáo dân linh hoạt, giúp gợi lên ý nghĩa cuộc sống và tôn giáo qua những câu chuyện và tiếp xúc thường nhân. Cho đến nay đã có 140 ngàn người ở Pháp tham dự tiến trình này.

Trong bài phát biểu tại Thượng HĐGM, ông bà Marc và Florence de Leyritz đề cao tầm quan trọng của việc huấn luyện các LM và GM về những thẩm quyền mới trong lãnh vực mục vụ. Họ nói:

”Chúng con đã sáng nghĩ ra những chương trình huấn luyện giúp các LM và GM về việc điều khiển mục vụ trong viễn tượng những nhu cầu mới về thẩm quyền có liên hệ tới việc tái truyền giảng Tin Mừng. .. Chúng con xác tín rằng ta không thể quan niệm Giáo Hội khác với một cộng đoàn đang học nghề, trong đó cần họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, để tăng trưởng trong đức tin, để được đào luyện như những môn đệ, và thi hành việc cai quản mục vụ theo tinh thần hoàn toàn hợp Tin Mừng'.

Theo ông bà Leyritz, cí có những vì mục tử biết phối hợp 3 tiến trình lớn của công cuộc truyền giảng Tin Mừng, đó là hoán cải, huấn luyện các môn đệ và ra đi truyền giáo. Cần giúp các vị phát huy khả năng điều hành việc mục vụ với phương pháp tiếp cận có tổ chức và có hệ thống, đồng thời giúp các vị nhìn nhận tiềm năng truyền giáo của giáo dân”.

– Một giáo dân khác lên tiếng tại Thượng HĐGM là ông Michel Roy, Tổng thư ký tổ chức Caritas quốc tế. Ông mong muốn Giáo Hội nhìn nhận tính chất rao giảng Tin Mừng của rất nhiều hoạt động được thực thi để phục vụ bác ái.

Ông Roy nói: ”Bác ái phải là một yếu tố cơ cấu trong chính bản chất của Giáo Hội, nếu Giáo Hội muốn thực sự là người rao giảng Tin Mừng”. Theo Ông Thượng HĐGM này đẩy mạnh được công trình tái truyền giảng Tin Mừng nếu mang lại cho các tổ chức Caritas những đường hướng tích cực về việc quan tâm săn sóc cần dành cho việc huấn luyện và linh đạo trong các hoạt động từ thiện bác ái.

Lập trường của ông Michel Roy cũng phản ánh điều mà ĐHY Robert Sarah, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, trong bài phát biểu hôm 12-10 trước đó. ĐHY nói: ”Sứ vụ bác ái bao quát của Giáo Hội biểu lộ cho thế giới thấy sức mạnh không thể cưỡng lại và sức sinh động mạnh mẽ của sứ điệp Chúa Kitô.. Hoạt động mục vụ bác ái của chúng ta là một phương thế lớn lao để rao giảng Tin Mừng, đối với những người cung cấp cũng như những người nhận lãnh những việc phục vụ của chúng ta” (Apic 18-10-2012).

G. Trần Đức Anh OP
 



Thánh Kateri Tekakwitha – Bông huệ của dân Mohawk

Thánh Kateri Tekakwitha – Bông huệ của dân Mohawk

1656-1680

Tìm Chúa

Ngày 21.10.2012 tới đây tại Rôma, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ tuyên thánh cho một thiếu nữ 24 tuổi người da đỏ ở Bắc Mỹ, hoa trái của hoạt động truyền giáo của các thừa sai và tử đạo Dòng Tên.

Tiểu sử của chị được hai cha Dòng Tên người Pháp là Pierre CholenecClaude Chauchetière, phụ trách giáo điểm Kahnawake, soạn thảo ngay sau khi chị qua đời. Chị sinh năm 1656 tại làng Ossernenon, ngày nay là Auriesville, trong thung lũng Mohawk, tiểu bang New York, Hoa Kỳ.

Thung lũng Mohawk (đỏ) Miền bắc tiểu bang New York của Hoa Kỳ, phía đông hồ Ontario, gần biên giới Canada

Vào thời của chị, hầu hết các dân tộc bản địa ở khu vực Băc Mỹ còn bán khai. Chẳng hạn họ giết và ăn thịt người. Cha chị là Kenneronkwa, một thủ lãnh Mohawk, thuộc sắc dân Iroquois, thù nghịch với sắc dân Algonquin sống trên lãnh thổ Canada ngày nay, và rất ghét đạo. Mẹ chị là Tagaskouita thuộc sắc dân Algonquin, theo đạo Công Giáo, sinh trưởng và được học với các thừa sai Dòng Tên ở vùng Trois-Rivieres, trên đất Canada hiện nay. Trong một trận tấn công của dân Mohawk, bà bị bắt đem về làng Ossernenon cùng với một số người khác. Tại đây, bà kết hôn với viên thủ lãnh ngoại giáo. Hai người sinh được một con gái và một con trai. Lúc còn rất nhỏ, chị được mẹ kể chuyện về Chúa Giêsu và dạy đọc kinh. Năm chị 4 tuổi, một cơn dịch giết chết nhiều người trong vùng, trong đó có cha mẹ và em trai của chị. Bản thân chị bị rỗ mặt và mắt rất kém. Mồ côi, chị được cậu và hai dì nuôi dưỡng, theo thói quen mẫu hệ của dân Mohawk.

Sau trận dịch, cậu chị thay cha làm thủ lãnh, đưa dân làng đến định cư ở Caughnawaga, cách làng cũ gần 10 km, hiện nay là Fonda. Như các thiếu nữ Mohawk khác, chị được học may vá thêu thùa, kể cả làm dây thắt lưng bằng da thú. Chị học dệt chiếu, đan giỏ và hộp bằng sậy hay cói.  Chị thông thạo chế biến thức ăn từ thú săn được hay từ nông sản. Chị cũng tham gia trồng tỉa hay nhổ cỏ theo thời vụ. Tóm lại, chị được dạy để trở nên một phụ nữ đảm đang trong gia đình. Có một điều hơi khác thường: người ta thấy cô bé Tekakwitha thường hay vào rừng một mình, không biết tại sao. Chị không quên những gì mẹ đã dạy: chị thích ở một mình để nhớ lại những điều mẹ kể và đọc các kinh mẹ dạy. Năm 13 tuổi, theo thói quen trong làng, chị được thúc giục lấy chồng, nhưng chị không chịu. Đây là điều lạ thường đối với các cô gái Mohawk.

Thời ấy dân Mohawk vừa thù nghịch với dân Algonquin vừa thù nghịch với người Pháp ở Canada. Tuy nhiên, họ suy yếu sau nhiều cuộc chiến và nhiều trận dịch. Năm 1673, cha Lamberville đến dựng một nhà nguyện ở đó, vừa để giúp những người đã có đạo vừa để truyền giáo cho những người chưa theo đạo. Cậu của chị vốn ghét đạo nhưng phải chấp nhận vì sợ người Pháp. Chị đến nhà nguyện đọc kinh, dự lễ và học giáo lý. Lễ Phục Sinh năm 1674, chị được rửa tội với thánh danh Kateri, tức là thánh nữ Catarina.

Sau khi gia nhập Hội Thánh, chị bị chống đối mạnh mẽ từ gia đình đến dân làng. Hằng ngày chị bị trẻ em chế diễu và nhiều khi bị ném đá. Vì chị dành ngày Chúa nhật để đi lễ và học giáo lý, không làm việc, nên gia đình không cho ăn. Chị bị đe dọa nếu không bỏ đạo sẽ bị đánh và giết. Vừa để tránh những hoạt động thù nghịch, vừa muốn hoàn toàn dâng mình cho Chúa, theo lời khuyên của cha phụ trách giáo điểm, 6 tháng sau ngày được rửa tội, chị cùng với mấy người quen trốn nhà, đi bộ hơn 2 tháng, vượt rừng vượt suối, băng qua hơn 320km đến giáo điểm Thánh Phanxicô Xavier Sault Saint-Louis theo cách gọi của người Pháp, hay Kahnawake theo cách gọi của thổ dân, ngay cạnh thành phố Montreal. Giáo điểm này được các thừa sai Dòng Tên thành lập để truyền giáo cho dân Algonquin. Vào lúc thánh Kateri Tekakwitha đến, đời sống đạo ở giáo điểm đã khá ổn định. Chị đến ở nhà dài của bà Anastasia Tegonhatsiongo, một người bạn thân của mẹ chị, bên bờ sông SaintLaurent. Cùng ở với bà Anastasia có một vài thiếu nữ khác: họ sống với nhau như một cộng đoàn nữ tu, nhưng không có tổ chức chi hết.

Thuộc trọn về Chúa

Kahnawake (đỏ) ở phía nam sông Saint-Laurent, phía đông hồ Saint-Louis bên kia sông là Montreal, thành phố đông dân thứ nhì ở Canada hiện nay

Kahnawake, ngay lập tức đời sống của chị được mọi người khen ngợi. Chị chăm chỉ đến nhà thờ đọc kinh dự lễ, nhiều khi ở một mình trước Chúa Giêsu Thánh Thể lâu giờ. Chị siêng năng lần hạt Mân Côi và lúc nào cũng đeo tràng hạt ở cổ. Chị hiền lành, ít nói, chăm làm, hay giúp đỡ người khác. Lễ Giáng Sinh năm 1677, chị được rước lễ lần đầu.

Khẩu hiệu của chị Kateri là: “Ai sẽ cho tôi biết điều gì đẹp lòng Chúa nhất để tôi thực hiện?” Ngoài các việc đạo đức, chị thường xuyên thăm viếng và giúp đỡ những người già cả và đau yếu trong làng. Chị cũng chỉ bảo các em bé về giáo lý và cầu nguyện theo như chị hiểu. Một thú vui của chị là trồng những cây Thánh Giá bằng gỗ trong rừng để nhắc nhở mình cũng như mọi người về việc cầu nguyện.

Cả ở Kahnawake, áp lực về hôn nhân vẫn còn. Ngày 25.3.1679, sau khi hỏi ý kiến cha phụ trách, chị tuyên khấn trọn đời sống khiết tịnh. Đây là điều chưa từng có trong các thổ dân địa phương. Chị muốn thuộc riêng và thuộc trọn về Chúa Giêsu. Cha Cholenec thuật lại lời chị: “ Con đã suy nghĩ kỹ rồi. Con đã quyết định từ lâu rồi. Con muốn hiến thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu, con của Mẹ Maria. Con chọn Người làm chồng, và chỉ mình Người cưới con làm vợ thôi.”  Các cha đề nghị với các phụ nữ đạo đức một vài việc hãm mình nhỏ, không ngờ họ đi xa hơn nhiều. Do lòng đạo đức và quan niệm riêng, bà Anastasia hướng dẫn chị cũng như những người khác làm nhiều việc khổ chế để đền tội cho dân tộc mình và cầu nguyện cho dân tộc mình theo đạo.

Trong số những người bạn cùng sống ở nhà dài với chị có Maria Têrêxa Tegaiaguenta. Hai người gặp nhau lần đầu vào mùa xuân năm 1678. Vì lòng đạo đức, cả hai cùng bắt đầu bí mật đánh tội. Cha Cholenec sau này cho biết là mỗi lần họ dùng dây tua đánh tội từ 1000 đến 1200 cái. Chị Kateri đã thực hành như vậy hằng ngày cho đến chết. Một chị khác tên là Maria Skarichions cho biết về đời sống và hoạt động của các nữ tu. Họ quyết định cùng nhau xin cha phụ trách cho lập một dòng nữ. Các cha Dòng Tên cho là chưa thích hợp nên ngăn cản. Khi chị Maria Têrêxa rời nhóm, chị Kateri trở thành “thủ lãnh” của nhóm. Chị thường khuyên: (1) Hãy can đảm, bất chấp những lời nói của những người không có đạo; (2) Vững tin là chúng ta sống đẹp lòng Chúa và tôi sẽ giúp chị khi tôi lên với Chúa; (3) Đừng bao giờ bỏ việc khổ chế.

Làng Kahnawake hiện nay

Tượng thánh Kateri Tekakwitha ở đền Thánh Anna tại Baupré, Canada

Vì thường xuyên hãm mình và khổ chế, sức khỏe của chị Kateri suy giảm nhanh chóng. Đến Tuần Thánh năm 1680, chị kiệt sức. Cha Cholenec thuật lại buổi chiều thứ tư Tuần Thánh:

“3 giờ chiều, chuông nhà nguyện đổ để tập họp cộng đoàn, vì nhiều người muốn có mặt khi chị tắt thở. Chị thấy mọi người hiện diện đông đủ. Mọi người quỳ gối cầu nguyện. Sau nửa giờ ngắn ngủi, chị nói những lời cuối cùng: ‘Iesos! Wari!’ (Giêsu! Maria!) Rồi chị hơi nhép miệng bên phải. Chị ra đi như thể nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ và một lúc lâu chúng tôi chưa biết chị còn sống hay đã chết. Ít phút trước 4 giờ, khuôn mặt chị biến đổi trở nên rất xinh đẹp, tươi cười và rạng rỡ… Chị đã từ giã dân làng để lại hương thơm đức hạnh và thánh thiện. Mấy tiếng sau, trong lễ đưa chân, tôi nhắc mọi người về kho báu Chúa đã tặng cộng đoàn… Chị Kateri đã chết như chị đã sống, nghĩa là một vị thánh. Ai cũng tiên đoán một người đã sống như vậy thì sẽ chết thế nào, vì chị đầy ơn Chúa Thánh Thần…”

 Trên mộ chị Kateri, các cha phụ trách cho ghi dòng chữ: “Bông hoa xinh đẹp nhất xưa nay nở giữa dân da đỏ”. Cha Chauchetiere cho xây một nhà nguyện gần mộ chị. Từ năm 1684, khách hành hương bắt đầu đến cầu nguyện với chị.

Một cô gái da đỏ bán khai sống ở Bắc Mỹ vào thế kỷ 17 có một sứ điệp gửi cho chúng ta sống trong thế kỷ 21? Dường như giữa ngài với chúng ta không có một liên hệ nào. Tuy nhiên, trong một thế giới tục hóa, giữa bao nhiêu tiến bộ khoa học và ký thuật vẫn đầy mâu thuẫn này, hình như khuôn mặt đơn sơ và thánh thiện của ngài vẫn có thể thu hút và gợi hứng cho những người đang đi tìm một cuộc sống có ý nghĩa, xây dựng một thế giới công bình và hòa bình.

Tượng thánh Kateri Tekakwitha ở

Vương Cung Thánh Đường Chính Tòa giáo phận Santa Fe, Mêhicô

***

GM. Cosma Hoàng văn Đạt (SJ)

Nguồn: Dongten.net

 

 

NĂM ĐỨCTIN: THỰC TRẠNG TỘI LỖI CẦN LƯU Ý VÀ TRÁNH ĐỂ SỐNG ĐỨC TIN VỮNG VÀNG.

NĂM ĐỨCTIN: THỰC TRẠNG TỘI LỖI CẦN LƯU Ý VÀ TRÁNH ĐỂ SỐNG ĐỨC TIN VỮNG VÀNG.

Năm Đức Tin đã khai mạc ngày 11 tháng 10 vừa qua tại Rôma nhắm mục đích kêu gọi mọi tín hữu trong Giáo hội nhìn lại đời sống đức tin của mình để canh tân và đào sâu thêm nữa hầu  thêm yêu mến Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người,  đã mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho chúng ta và nhất là đã hy sinh chịu chết trên thập giá để  đền tội cho nhân loại và cho chúng ta hy vọng được cứu rỗi  để hưởng hạnh phúc vinh cửu với Chúa trên  Nước Trời  mai sau.

Nhưng muốn sống đức tin cách hữu hiệu và chân thật ,  không ai có thể  coi nhẹ một trở ngại lớn lao, đó là tội lỗi, một nguy cơ không những đe dọa cách nặng nề  đức tin có Chúa mà còn có thể   làm mất hy vọng được cứu rỗi nữa.

Thật vậy,  tội là một thực tế ( reality) không ai có thể chối cãi hay phủ nhận được trong đời sống cá nhân, gia đình , xã hội và trong cộng đồng thế giới;  nhất là trong thời buổi hiện nay,  khi các nhóm Hồi Giáo quá khích chủ trương bạo động , “thánh chiến=jihad”  để đánh phá  và giết hại những ai họ cho là thù nghịch của họ..Đây là một tội  lớn mang mầu sắc tôn giáo vì người ta đã nhân danh tôn giáo để tiêu diệt người khác. Và chắc chắn điều này không phù hợp với mục đích của bất cứ vị sáng lập tôn giáo nào, vì không tôn giáo nào có thể chấp nhận hay khuyến khích tín đồ của mình giết hại người khác để độc tôn tín ngưỡng của mình.

Mặt khác, các chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa tương đối ( relativism) và chủ nghĩa tôn thờ khoái lạc ( hedonism) và tiền bạc vật chất cũng góp phần không nhỏ gây ra tội lỗi cho con người ở khắp mọi nơi.

Nhưng trước hết, cần biết vì đâu  tội lỗi có mặt trong trần gian như một thách đố lớn lao cho những ai có niềm tin Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương, nhưng rất công bình và thánh thiện.

Thánh Kinh đã cho ta biết nguồn gốc của tội như sau :

Vì một người duy nhất ( Adam) mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới hết mọi người bởi vì mọi người đã phạm tội.” ( Rm 5 : 12)

Tội xâm nhập trần gian và lan tràn đến hết mọi người với nhiều hình thức và mức độ khác nhau.Tội là điều trực tiếp  xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành,công minh, chính trực  nên Người không thể dung tha cho bất cứ loại tội nào mà con người có thể phạm vì cố ý hay vì yếu đuối.Tùy theo mức lỗi phạm mà tội mang lại hậu quả nặng hay nhẹ cho người có tội.

Trước tiên,  Thiên Chúa  đã nói rõ cho Adam và Eva biết về hậu quả của tội  như sau, nếu họ ăn trái cấm: 

“ Ngày nào ngươi ăn,  chắc chắn người sẽ phải chết.” ( St 2: 17)

Cái chết mà Thiên Chúa nói trên đây là cái chết về mặt linh hồn, chứ không phải chết ngay về thể xác.Cho nên con Rắn đã nói với bà Eva như sau : “chẳng chết chóc gì đâu.” ( Sđd  3: 4).

Rắn Satan nói thể để phỉnh gạt Eva vì biết là Thiên Chúa không phạt nhãn tiền bằng cái chết về thể lý cho ai từ xưa đến nay. Bằng cớ là có biết bao kẻ gian ác, độc tài tàn bạo,  vô tâm vô đạo đã giết hại không biết bao nhiêu người  chỉ vì  muốn củng cố địa vị cá nhân hay bảo vệ  các thể chế độc tài, độc đảng , độc tôn  gây đau khổ và chết chóc cho biết bao triệu người dân lành từ Đông sang Tây chẳng may rơi vào ách thống trị độc ác  của chúng..Nhưng chúng vẫn sống phây phây, làm giầu và hưởng thụ ,cha truyền con nối với chế độ tàn bạo  không biết đến bao giờ mới xụp đổ.

Mặt khác, những kẻ có tâm địa độc dữ , với lòng tham vô đáy, và say mê những vui thú vô luân vô  đạo cũng vẫn sống nhởn nhơ trong giầu sang nhờ gian manh, bất công và lường gạt, trong khi người lành lương thiện lại nghèo khó và đau khổ, vì xã hội bất công, dung dưỡng cho kẻ có nhiều tiền bạc và lắm mưu kế gian xảo lèo lái.

Như thế  không phải vì Thiên Chúa bất lực, hay không nhìn thấy những tội ác của họ.Thiên Chúa biết nhưng vẫn làm ngơ cho chúng sống để hy vọng chúng hoán cải để được tha thứ, vì  Người gớm ghét tội lỗi nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết sám hối, xin tha.. Ngược lại , nếu chúng cứ ngoan cố tiếp tục con đường gian ác thì Thiên Chúa sẽ đối xử với chúng như chủ ruộng kia đã  làm ngơ cho cỏ lùng mọc xen lẵn với cây lúa tốt.. Và đợi  đến mùa gặt, chủ sẽ bảo thợ gặt : “ hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho ta.” ( Mt 13:20)

Dụ ngôn trên cũng áp dụng thích đáng cho người tín hữu Chúa Kitô đang sống đức tin trên trần gian này, giữa bao kẻ  gian ác đang phạm biết bao tội  nghich cùng Thiên Chúa và gây đau khổ cho  bao  người khác.Kẻ gian ác cứ sống trong tội ác của chúng như có lùng mọc xen với cây lúa. Và chắc chắn đến mùa gặt, tức ngày Phán Xét, chúng sẽ bị quăng vào nơi “tối tăm , khóc lóc và nghiến răng”.(Lc 13: 28)

Thật vậy, do hậu quả của tội nguyên tổ, bản chất thiện hảo ban đầu của con người đã bị thương tổn nặng nề đến nỗi dù đã được tái sinh qua Phép Rửa, và trở thành tạo vật mới, con người vẫn không lấy lại được bản chất thiện hảo ban đầu ( Original Innnocence) đã mất đi sau khi nguyên Tổ loài người đã phạm tội. Vì thế, con người ngày nay  vẫn hoàn toàn  yếu đuối và dễ nghiêng chiều về sự xấu, sự tội bao lâu còn sống trên trần gian và trong thân xác có ngày phải chết này.

Mặt khác, ma quỷ ví như “ sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắc xé” ( 1Pr 5 : 8) luôn rình rập quanh  ta để cám dỗ , lôi kéo ta vào đường tội lỗi dẫn đến hư mất đời đời. Cho nên “ anh  em phải đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh  em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ  như thế” ( Sđ d 5: 9) đúng theo lời  khuyên dạy của Thánh Phêrô cách nay đã  trên 2000 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị thực hành trong hoàn cảnh sống của con người ngày nay..

Ngoài ma quỷ là kẻ thù chính ra,  thế gian hay môi trường sống của mỗi người chúng ta là kẻ thù thứ  hai  cộng tác  đắc lực với ma quỷ  để  xúi dục  ta phạm tội vì gương xấu đầy rẫy ở khắp nơi. Nào phim ảnh sách báo  dâm ô,đồi trụy,  bạo động,  nào sòng bạc lớn nhỏ và nơi ăn chơi sa đọa công khai quảng cáo trên truyền thông để lôi cuốn con người  thuộc mọi lớp tuổi tìm đến để thỏa mãn dục vọng và lòng ham mê tiền của, bắt chấp  mọi hậu quả tai hại cho linh hồn, nếu ta tin con người có hồn và xác, có sự thưởng phạt sau khi chết.

Thánh Phaolô đã nói đến các giống tội do xác thịt yếu đuối gây ra và hậu quả của tội  như sau:

Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là : dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp , chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã thường bảo : 

Những kẻ làm những điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” ( Gl  5 :19-21).

Như thế, người ta phạm tội vì bản chất yếu đuối, vì ma quỷ tinh quái  cám dỗ và vì gương xấu của người khác.

Chúa Giêsu đã nghiêm khắc cảnh cáo về các dịp tội và gương xấu như sau :

“ Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã. Nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho  người ta vấp ngã. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi  cho nó hơn là để  nó làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn này phải vấp ngã.” ( Lc 17: 1-2)

Như vậy, muốn tránh tội, ta phải ý thức đây đủ về  những nguy cơ  đưa đến phạm tội để từ đó quyết tâm xa tránh với ơn Chúa nâng đỡ để đứng vững , vì “ không có Thầy anh  em sẽ chẳng làm gì được.” ( Ga  15: 5).Nghĩa là nếu không có ơn Chúa giúp sức thì ta không thể  đứng vững trước mọi cám dỗ  nặng nề của ma quỷ, gương xấu đầy rẫy của thế gian và những khuynh hướng xấu còn tồn tại trong ta.

 Cứ nhìn quanh ta thì đủ biết  tội lỗi đang thống trị con người và thế giới như thế nào.

Tại sao người ta đang  làm những sự dữ như giết người, cướp của, ăn gian nói dối, cờ bạc, dâm ô phóng đãng, hiềm thù ,nghen ghét, bỏ vạ cáo gian, thay chồng đổi vợ, chiến tranh, khủng bố ?

Câu trả lời đúng nhất là vì người ta không có niềm tin nào, hay có mà không có can đảm sống niềm tin ấy cách sống động và cụ thể để đẩy lui bống tối của sự dữ, sự tội đang lan tràn ở khắp nơi.

Trước thực trạng trên đây, là người có đức tin vào Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, mọi tín hữu chúng ta đều được mong đợi  sống đức tin của mình cách cụ thể là phải xa tránh mọi sự xấu, sự tội , vì chỉ có tội lỗi mới làm ngăn cách con người với Thiên Chúa là tình thương nhưng gớm ghét mọi thứ tội lỗi.Nói khác đi, sống đức tin Kitô Giáo đòi hỏi chúng ta phải ý thức sâu xa về nguy cơ của tội lỗi đến từ ma quỷ, từ thế gian  và từ  bản chất yêu đuối của chính  mình.

Trong thời đại văn minh vật chất và điện toán hiện nay, rất nhiều người đã mất hết ý thức về tội. Chủ nghĩa tương đối( relativism) đã  góp phần không nhỏ vào việc lừa dối rất nhiều  người  tin  là không có giá trị nào tuyết đối về luân lý, đạo đức cả.. Vì thế người ta đã mặc sức làm những sự dữ , thí dụ,  làm luật để bảo vệ cho súc vật như chó, mèo, chim,  rùa ngoài biển. Nhưng lại hợp thức hóa việc phá thai khiến hàng năm ở Mỹ có trên một triệu thai nhi bị giết ngay trong lòng mẹ mà luật pháp quốc gia chính thức cho phép khiến không ai gặp khó khăn nào với luật pháp khi trực tiếp hay gián tiếp ra tay giết hại một hài nhi tức một nhân mạng.! Ngoài ra, người ta cũng đang tìm cách định nghĩa lại hôn nhân, vốn là một định chế bắt nguồn từ Thiên Chúa khi Người tạo dựng con người có nam có nữ và truyền cho họ sứ mệnh “ Hãy sinh sôi nẩy nở cho thật nhiều, cho đầy mặt đất và thông trị mặt đất.”   “ ( St 1 :28)

Vậy mà bây giờ người ta đang hợp thức hóa những cặp hôn nhân đồng tính ( same sex marriage).,để công khai nhìn nhận việc sống chung của những cặp nam nữ bệnh hoạn tâm sinh lý này.Chúng ta cảm thông hoàn cảnh của họ nhưng không thể tán thành việc cho họ kết hôn để đạp đổ truyền thồng hôn nhân giữa một người nam và một người nữ như Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu.

Mặt khác trên bình diện quốc tế, cộng đồng thế giới  vẫn làm ngơ cho các chế độ tàn ác của Assad ở  Syria, của Bắc Hàn, của Cuba… và nhiều nơi khác nữa đã  giết hại hàng triệu  người dân vô tội,  vì dám chống lại chế độ cai trị tàn ác của kẻ cầm quyền… Đây là một tội ác chống lại con người của các kẻ độc tài độc đảng mà các nước có  thể  lực lớn trên thế giới  phải chịu trách nhiệm  vì đã không dám hành động thích đáng để bảo vệ cho quyền sống của  con người .

Trước thực  trạng tội lỗi của cá nhân , xã hội và cộng đồng quốc tế, người tín hữu Chúa Kitô thuộc mọi thành phần trong Giáo Hội  hơn bao giờ hết phải sống niềm tin của mình cách cụ thể và thuyết phục để làm nhân chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian để “hy sinh mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.”(Mt 20: 28)

Nói rõ hơn, nếu người tín hữu mà cũng ăn gian nói dối, cũng lường gạt, bóc lột người  khác để trục lợi, cũng lui tới những sòng bạc lớn nhỏ, cũng đi du hí ở những nơi tội lỗi, cũng nhẩy nhót cuồng loạn mất nết, cũng cấu kết hay làm tay sai cho những thế lực, hay chế độ phi nhân  bóc lột đàn áp người dân vô tội,  thì chắc chắn đã chà đạp lên hay chối bỏ niềm tin của mình và cùng lớn tiếng  hô to với những kẻ vô thần , vô luân vô đạo  là KHÔNG CÓ THIÊN CHÚA, KHÔNG CÓ SỰ SÔNG ĐỜI SAU để mặc sức ngụp lặn  ở hiện tại  trong  vũng bùn nhơ của tội lỗi vì  đam mê của cải, chuộng hư danh và tôn thờ  mọi thú vui vô luân vô đạo, là bộ mặt rõ nét  nhất của “văn hóa sự chết” đang lộng hành ở khắp nơi trên thế giới ngày nay.

Quan trọng hơn nữa, nếu người tín hữu  không quyết tâm từ bỏ mọi giống tội và nương nhờ ơn Chúa phù giúp  để  đứng vững trong đức tin  thì không ai  có thể  đạt được mức hoàn hảo để được cứu rỗi. Sở dĩ  thế  là vì con người còn có tự do để chọn lựa giữa sự tốt và sự xấu, giữa ánh sáng và bóng đêm bao lâu còn sống trên trần gian này. Và Thiên Chúa luôn  tôn trọng sự tự do đó của con người.Nghĩa là nếu con người chọn con đường gian tà vì mê đắm sắc dục, để lui tới những nơi ăn chơi sa đọa, thay chồng đổi vợ, hoặc vì đam  mê  tiền của  để trộm cướp, bóc lột người khác thì Thiên Chúa sẽ không ngăn cản và con người sẽ phải hoàn toàn chiu trách nhiệm về chọn lựa của mình. Đó là lý do thưởng phạt của Thiên Chúa dành cho những kẻ chối bỏ Người bằng tư tưởng và hành động, hay yêu mến và quyết tâm thi hành ý muốn của Người để được vào Nước Trời   như Chúa Giêsu đã nói rõ với các môn đệ xưa như sau:

“ Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa ! lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu, Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy,  Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” ( Mt 7 : 21)

Thi hành ý muốn của Cha trên trời có nghĩa là phải cương quyết từ bỏ mọi tội lỗi, mọi sự dữ  và “ hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì  Tôi nói cho anh  em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”  ( Lc 13: 24)

Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói trên đây, chính là cửa công chính để tránh  đi vào con đường của  kẻ gian ác, giết người , cướp của,  bóc lột, dâm đãng  và bất công với người  khác. Cửa hẹp cũng là  cửa  bác ái để  mở lòng  cảm thương anh chị em nghèo khó, bệnh tật, cô thân cô thế,.Sau nữa, cửa hẹp cũng là cửa  trong sạch để không đi vào con đường dẫn  đến những nơi xú uế vì cờ bạc vui chơi  dâm ô  khốn nạn. Người tín hữu Chúa Kitô  mà đi vào những con đường nói trên thì chắc chắn sẽ không gặp được Chúa là  cội nguồn của mọi giầu sang ,phú quý và hoan lạc.;  mà ngược lại , chắc chắn sẽ rơi xuống hố diệt vong vì phải vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa là cùng đích của niềm tin và hy vọng của người có đức tin  chân chính.

Tóm lại , Năm Đức Tin mời goi và nhắc nhở mọi tín hữu  sống đức tin cách chân thật và sống động  để minh chứng mình thực sự  tin  Chúa Kitô, Đấng đã cứu chuộc nhân loại qua khổ hình thập giá để cho chúng ta  hy vọng được gặp Thiên Chúa là Cha  và được sống hạnh phúc đời đời với Người trên Thiên Quốc, sau khi chấm dứt hành trình con người trên trần thế này.

Nói khác đi, chúng ta phải thể hiện đức tin của mình cách cụ thể  trước mặt  người đời để làm nhân chứng cho Chúa Kitô  với  mục đích mời gọi thêm nhiều người nữa nhận biết và tin Chúa để cùng được  cứu độ, vì Thiên Chúa , “ Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. ( 1Tm 2:4)

Nhưng- cần nhấn mạnh thêm một lần nữa-  muốn sống đức tin cách hữu hiệu, vững vàng  đẹp lòng Chúa và có sức thuyết phục người khác thì ta phải ý thức đầy đủ nguy cơ của tội lỗi  để quyết tâm xa tránh không làm những gì phương hại hay mâu thuẫn với đức tin có Chúa là Đấng thánh thiện, nhân từ, công bình, yêu thương và tha thứ. ( tha thứ cho kẻ có tội biết ăn năn xin tha chứ không được  lợi dụng  tha thứ  để cứ tiếp tục phạm tội nữa !)

Tóm lại, sống đức tin không những để biết  thờ lậy, ngợi khen,yêu mến và cảm tạ Chúa ngày một hơn, mà quan trọng không kém là đoạn tuyệt với tội lỗi, vì “ ai phạm tội là người của ma quỷ” như Thánh Gioan Tông Đồ đã dạy. ( 1 Ga  3: 8).

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Đức Thánh Cha bắt đầu loạt bài huấn giáo về Năm Đức Tin

Đức Thánh Cha bắt đầu loạt bài huấn giáo về Năm Đức Tin

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung 40 ngàn tín hữu sáng ngày 17 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã bắt đầu loạt bài huấn giáo mới về Năm Đức Tin.

Cho đến nay, ĐTC nói về trường dạy cầu nguyện, nhưng ngài tạm ngưng loạt bài này. Ngài nói:

”Hôm nay tôi muốn giới thiệu một chu kỳ mới các bài huấn giáo sẽ được khai triển suốt trong Năm Đức Tin mới bắt đầu và trong thời kỳ này, tôi tạm ngưng loạt bài giáo lý về trường cầu nguyện. Qua Tông Thư ”Cửa Đức Tin” tôi đã ấn định Năm đặc biệt này, để Giáo Hội canh tân niềm hăng say tin nơi Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, để khơi dậy niềm vui tiến bước trên con đường Chúa đã chỉ cho chúng ta và làm chứng một cách cụ thể về sức mạnh biến đổi của đức tin.

Kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 là một cơ hội quan trọng để trở về cùng Thiên Chúa, để đào sâu và sống niềm tin của mình một cách can đảm hơn, để củng cố sự thuộc về Giáo Hội, ”là thầy dạy của nhân loại”, qua việc loan báo Lời Chúa, cử hành các bí tích và các hoạt động bác ái, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta gặp gỡ và nhận biết Chúa Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đây là một cuộc gặp gỡ không phải với một ý tưởng hay một dự phóng cuộc sống, nhưng với một Nhân Vật sống động, biến đổi chúng ta một cách sâu xa, tỏ cho chúng ta căn tính đích thực của chúng ta là con cái Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô đổi mới những quan hệ của chúng ta với con người, hướng dẫn những quan hệ đó ngày qua ngày, để mang tính chất liên đới và huynh đệ hơn, theo tiêu chuẩn của tình thương. Tin nơi Chúa không phải là một điều chỉ liên hệ tới trí tuệ của chúng ta, lãnh vực tri thức mà thôi, nhưng còn bao trùm trọn con người của chúng ta nữa: tình cảm, con tim, trí thông minh, ý chí, thể xác, cảm xúc, những tương quan với con người. Với đức tin, tất cả đều được biến đổi trong chúng ta và cho chúng ta, và chúng ta thấy rõ định mệnh tương lai của mình, sự thật về ơn gọi của chúng ta trong lịch sử, ý nghĩa cuộc sống, niềm vui thích được làm người lữ hành tiến về quê trời.

nh hưởng của đức tin

Nhưng chúng ta tự hỏi: đức tin có thực sự là sức mạnh biến đổi cuộc sống chúng ta hay không? Hay nó chỉ là một trong những yếu tố trong cuộc sống, chứ không phải là điều tố bao trùm cả cuộc sống? Qua những bài giáo lý Năm Đức Tin này, chúng ta muốn làm một cuộc hành trình để củng cố hoặc tìm lại niềm vui đức tin, hiểu rằng đức tin không phải là một cái gì xa lạ, tách rời khỏi đời sống cụ thể, nhưng chính là linh hồn của cuộc sống. Niềm tin nơi một Thiên Chúa là Tình Thương, và là Đấng đã trở nên gần gũi với con người, nhập thể và hiến mình trên thập giá để cứu vớt chúng ta và mở cửa trời cho chúng ta, chỉ cho thấy một cách sáng ngời rằng chỉ trong tình yêu mới có sự sung mãn của con người. Ngày nay cần phải lập lại điều đó một cách rõ ràng, giữa lúc những biến đổi văn hóa hiện nay thường cho thấy bao nhiêu hình thức man rợ, dưới chiêu bài gọi là ”những chinh phục của nền văn minh”: đức tin khẳng định rằng chỉ có nhân đạo chân chính tại các nơi, trong những cử chỉ, trong thời gian và trong những hình thức qua đó con người được được linh hoạt bằng một tình thương đến từ Thiên Chúa, được diễn tả như một hồng ân, được biểu lộ trong những quan hệ đầy tình thương, cảm thương, quan tâm và phục vụ vô vị lợi đối với tha nhân. Nơi nào có sự thống trị, chiếm hữu, bóc lột, biến tha nhân thành món hàng để mưu lợi cho cá nhân mình, nơi nào có sự kiêu hãnh của cái tôi khép kín nơi bản thân, thì con người trở nên nghèo nàn, bị hạ cấp và biến dạng. Đức tin Kitô hoạt động trong bác ái và vững mạnh trong niềm hy vọng, khiong giới hạn nhưng nhân bản hóa cuộc sống, hay đúng hơn, đức tin làm cho cuộc sống hoàn toàn là con người”.

ĐTC giải thích rằng:
”Đức tin là đón nhận sứ điệp có sức biến đổi ấy trong đời sống chúng ta, là đón nhận mạc khải của Thiên Chúa, Đấng làm cho chúng ta biết Ngài là ai, hành động như thế nào và đâu là những dự phóng của Ngài cho chúng ta. Dĩ nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa vẫn luôn ở ngoài những ý niệm và lý trí, các nghi thức và kinh nguyện của chúng ta. Tuy nhiên, với mạc khải, chính Thiên Chúa tự thông truyền cho chúng ta, kể chuyện cho chúng ta và cho chúng ta có thể đến với Ngài. Và chúng ta nhận được khả năng lắng nghe Lời Chúa, đón nhận sự thật của Ngài. Và đây chính là điều tuyệt vời của đức tin: Thiên Chúa, trong tình yêu thương, đã tạo dựng nơi chúng ta – nhờ hoạt động của Chúa Thánh Linh – những điều kiện thích hợp để chúng ta có thể nhận ra Lời của Ngài. Chính Thiên Chúa, vì muốn tự biểu lộ, tiếp xúc với chúng ta, hiện diện trong lịch sử con người, nên Ngài đã cho chúng ta có khả năng lắng nghe và đón nhận Ngài. Thánh Phaolô đã vui mừng diễn tả điều đó với lòng biết ơn: ”Chúng tôi luôn cảm tạ Thiên Chúa, vì sau khi đã đón nhận từ chúng tôi lời Chúa qua việc rao giảng, anh chị em đã đón nhận lời ấy không phải như lời người phàm, nhưng thực sự như Lời Thiên Chúa Đấng hoạt động trong anh em là những người tin” (1 Ts 2,13).

Thiên Chúa tự biểu lộ qua lời nói và việc làm trong lịch sử dài về tình bạn với con người, và với tột đỉnh ở trong cuộc nhập thể của Con Thiên Chúa và trong mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Thiên Chúa không những tự biểu lộ cho chúng ta trong lịch sử của một dân tộc, không những nói qua các ngôn sứ, nhưng Ngài còn giã từ cõi trời để đi vào thế giới của con người như một người, để chúng ta có thể gặp gỡ và lắng nghe Ngài. Và từ Jerusalem việc loan báo Tin Mừng cứu độ được loan truyền cho đến tận bờ cõi trái đất. Giáo Hội, được khai sinh từ cạnh sườn của Chúa Kitô, trở thành người mang niềm hy vọng mới mẻ và vững chắc: Đức Giêsu thành Nazareth, bị đóng đanh và chịu chết, đang ngự bên hữu Chúa Cha, và là vị xét xử người sống và kẻ chết. Đó là huấn giáo, là lời loan báo nòng cốt và mạnh mẽ của đức tin. Nhưng ngay từ đầu người ta đã đặt vấn đề ”qui luật đức tin”, nghĩa là lòng trung thành của các tín hữu đối với chân lý Tin Mừng, trong đó cần phải kiên vững, trung thành với chân lý cứu độ về Thiên Chúa và về con người, cần phải bảo tồn và thông truyền. Thánh Phaolô đã viết: ”Anh em lãnh nhận ơn cứu độ, nếu anh em duy trì Tin Mừng trong hình thức mà tôi đã loan báo cho anh em. Nếu không anh em sẽ tin vô ích” (1 Cr 15,2).

Kinh Tin Kính

ĐTC đặt câu hỏi: ”Nhưng từ đâu có công thức thiết yếu của đức tin? Chúng ta tìm được ở đâu chân lý được trung thành truyền lại và tạo nên ánh sáng cho đời sống thường nhật của chúng ta? Câu trả lời thật là đơn giản: thưa ở trong kinh Tin Kính, trong bản tuyên xưng đức tin, qua đó chúng ta gắn bó với biến cố nguyên thủy Con Người và lịch sử của Đức Giêsu thành Nazareth; qua đó người ta cụ thể hóa điều mà thánh Tông Đồ dân ngoại đã nói với các tín hữu thành Corinto: ”Vì thế Tôi truyền lại cho anh em trước tiên điều mà chính tôi cũng đã lãnh nhận: nghĩa là Chúa Ktiô đã chết vì tội lỗi chúng ta theo Kinh Thánh, ngài được an táng và ngày thứ ba Ngài sống lại” (1 Cr 15,3).
”Ngày nay chúng ta cũng cần làm sao để Kinh Tin Kính được biết rõ, hiểu sâu hơn và cầu nguyện với kinh này. Nhất là điều quan trọng là làm sao để Kinh Tin Kính được nhìn nhận. Thực vậy, nhận biết có thể là một hoạt động thuần túy là trí thức, trong khi nhìn nhận có nghĩa là cần phải khám phá mối liên hệ sâu xa giữa những chân lý mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính và cuộc sống hằng ngày cảu chúng ta, để các chân lý ấy thực sự là ánh dẫn đường một cách cụ thể trong cuộc sống chúng ta, trở thành nước tưới gội nơi nóng cháy trên hành trình chúng ta, trở thành sự sống vượt thắng một số sa mạc trong đời sống ngày nay. Trong Kinh Tin Kính có gắn liền cuộc sống luân lý của Kitô hữu, trong đó họ tìm được nền tảng và lý do chứng minh đời sống luân lý ấy. (..)

ĐTC cũng nhận xét rằng ngày nay chúng ta sống trong một xã hội biến đổi sâu xa so với quá khứ gần đây và liên tục biến chuyển. Tiến trình tục hóa và sự lan tràn não trạng hư vô, trong đó mọi sự chỉ là tương đối, đã ảnh hưởng sâu đậm đến tâm thức chung. Như thế, đời sống được sống một cách nhẹ dạ. không có lý tưởng rõ ràng và chẳng có niềm hy vọng vững chắc, giữa lòng những quan hệ xã hội và gia đình lỏng lẻo, tạm bợ. Nhất là các thế hệ trẻ không được giáo dục về sự tìm kiếm chân lý và ý nghĩa sâu xa của cuộc sống vượt lên trên những điều tạm thời chóng qua, họ không được giáo dục về sự bền vững của tình cảm, về lòng tín nhiệm. Trái lại, chủ thuyết duy tương đối làm cho người ta không có những điểm vững chắc, ngờ vực, và dễ ham muốn, tạo ra sự tan vỡ trong những quan hệ giữa con người với nhau, trong khi cuộc sống diễn ra giữa những kinh nghiệm chóng vánh, không lãnh nhận trách nhiệm. Trong khi cá nhân chủ nghĩa và duy tương đối dường như thống trị tâm hồn của nhiều người ngày nay, ta không thể nói rằng các tín hữu hoàn toàn được miễn nhiễm khỏi những nguy hiểm mà chúng ta gặp phải trong việc thông truyền đức tin. Cuộc điều tra thực hiện tại tất cả các đại lục để cử hành Thượng HĐGM thế giới về việc tái truyền giảng Tin Mừng, cho thấy một số nguy hiểm, đó là đức tin được sống một cách thụ động và riêng tư, sự từ khước giáo dục đức tin, sự cách biệt giữa đức tin và cuộc sống.

Các tín hữu Kitô thường không thấy rằng nòng cốt đức tin Công Giáo của mình là Kinh Tin Kính, để rồi đi theo một thứ tôn giáo pha trộn và duy tương đối về tôn giáo, không rõ ràng về các chân lý cần phải tin và đặc điểm cứu độ của Kitô giáo. Ngày nay, có nguy cơ tôn giáo tự chế. Trước thái độ đó, chúng ta phải trở về cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, chúng ta phải tái khám phá sứ điệp Tin Mừng, đưa sứ điệp ấy vào sâu trong ý thức và trong cuộc sống thường nhật của chúng ta.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Cha Nguyễn Năng tham gia phái toàn Tòa Thánh thăm Syria

Đức Cha Nguyễn Năng tham gia phái toàn Tòa Thánh thăm Syria

VATICAN. Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, GM giáo phận Phát Diệm, thuộc phái đoàn Tòa Thánh viếng thăm Siria.
Tuyên bố chiều tối 16 tháng 10-2012 tại phiên khoáng tại thứ 14 của Thượng HĐGM, ĐHY Bertone, Quốc vụ Khanh Tòa Thánh nói rằng:

”Chúng ta không thể chỉ là khán giả trước một thảm kịch như đang xảy ra tại Siria. Một số bài phát biểu của các Nghị phụ tại Hội trường này chứng tỏ thảm trạng ấy.

Xác tín rằng giải pháp cho cuộc khủng hoảng ở Siri chỉ có thể là giải pháp chính trị và nghĩ đến những đau khổ bao la của dân chúng, đến số phận của những người tản cư và tương lai của đất nước Siria, một số người trong chúng ta đã đề nghị Thượng HĐGM này có thể biểu lộ tình liên đới.

ĐTC đã quyết định rằng một phái đoàn sẽ đến Damasco trong những ngày tới đây để bày tỏ nhân danh Ngài và tất cả chúng ta:

– tình liên đới huynh đệ của chúng ta với toàn dân Siria, cùng với một sự đóng góp riêng của các nghị phụ và của Tòa Thánh.
– bày tỏ sự gần gũi tinh thần với các anh chị em Kitô hữu

– nói lên sự khuyến khích của chúng ta với những người đang dấn thân tìm kiếm một sự thỏa thuận tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người, đặc biệt chú ý đến những gì được qui định trong công pháp nhân đạo.

ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh thông báo thành phần gồm 7 vị trong đó có 5 nghị phụ: đứng đầu là ĐHY Laurent Monsengwo Pasinya, TGM Kinshasa bên Congo, 1 trong 3 vị Chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM; ĐHY Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, ĐHY Timothy Dolan, TGM New York, Chủ tịch HĐGM Hoa Kỳ, Đức Cha Fabio Suescun Mutis, Giám Mục Quân đội Colombia và Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, GM Phát Diệm.
Cùng thuộc phái đoàn còn có Đức TGM Dominique Mamberti, Ngoại trưởng Tòa Thánh và Đức Ông Alberto Ortega, thuộc Bộ ngoại giao Tòa Thánh.

ĐHY Bertone cho biết Phái đoàn sẽ lên đường đi Damasco vào tuần tới và trong khi đó, chúng ta hãy cầu nguyện để lý trí và lòng từ bi được trổi vượt (SD 16-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP