Bài Phát Biểu của Đức Thánh Cha Trong Buổi Tiếp Kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

Bài Phát Biểu của Đức Thánh Cha Trong Buổi Tiếp Kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 8 tháng 11-2012, dành cho Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học, ĐTC Biển Đức 16 cổ võ sự đối thoại và cộng tác giữa khoa học và đức tin. Sau đây là bài phát biểu của Đức Thánh Cha.

Phiên họp khoáng đại này bàn về chủ đề : “Tính Đa Nguyên và Đồng Nhất trong Khoa Học: Các Chiều kích về lý thuyết phương pháp luận và tri thức luận” đụng chạm đến một chủ đề quan trọng vốn mở ra nhiều quan điểm để hướng đến một viễn tượng mới về sự thống nhất trong các ngành khoa học. Thực vậy, những khám phá và tiến bộ quan trọng trong những năm qua mời gọi chúng ta tìm hiểu về sự đồng nhất nền tảng trong ngành vật lý và sinh học, sự đồng nhất này được biểu lộ một cách rõ ràng hơn mỗi khi chúng ta đạt được một sự hiểu biết sâu xa hơn về trật tự tự nhiên. Nếu như một vài ý niệm mới có được trong cách thức này cho phép chúng ta rút ra những kết luận trong những tiến trình trước đây, thì sự ngoại suy này chỉ ra một sự hội nhất lớn hơn trong tự nhiên và trong cấu trúc phức tạp của vũ trụ và nó giúp ta tìm thấy vị trí nhiệm mầu của con người trong vũ trụ này. Tính đa nguyên và sự vĩ đại của khoa học đương thời cho phép con người hiểu biết nhiều hơn về tự nhiên, điều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến con người. Chỉ có con người mới có khả năng mở rộng tri thức của mình và sắp đặt nó một cách khôn ngoan để mưu ích cho mình và cho môi trường xung quanh.

Trong những cuộc thảo luận của mình, các bạn đã nỗ lực để xem xét, một mặt, về một sự biện chứng trong việc mở rộng không ngừng của các nghiên cứu khoa học, các phương pháp và các ngành chuyên môn, và mặt khác, là vấn nạn về một cái nhìn toàn diện về vũ trụ này, một vũ trụ mà trong đó con người, với khả năng lý trí và tự do, được mời gọi để hiểu biết, yêu mến, sống và lao tác. Trong thời đại chúng ta, việc sẵn có các công cụ nghiên cứu hùng hậu và khả năng để thực hiện những thí nghiệm phức tạp và có tính chính xác cao cho phép các ngành khoa học tự nhiên tiếp cận với những nền tảng của những thực tại hữu hình cho dù họ không nỗ lực để hiểu một cạch trọn vẹn cấu trúc hội nhất và sự thống nhất tối hậu đi chăng nữa. Một sự nối tiếp vô tận và một sự thống nhất nơi các lý thuyết, kết qủa của một nghiên cứu này đến lượt nó trở thành định đề cho những nghiên cứu mới, sẽ minh chứng cho sự hội nhất trong tiến trình khoa học cũng như tạo ra một lực đẩy mạnh mẽ hướng các khoa học gia tiến đến một sự hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý của tự nhiên và một cái nhìn bao quát hơn về thế giới này.

Một sự tiếp cận liên ngành như thế tới sự đa nguyên cũng chỉ ra rằng các ngành khoa học không phải là những thế giới hữu lý không nối kết với nhau và không nối kết với thực tại, nhưng đúng hơn chúng liên kết và hướng đến việc nghiên cứu tự nhiên như là một thực tại duy nhất, hữu lý và hòa hợp trong một sự đa nguyên đích thực.

Một cái nhìn như thế có những điểm tương đồng với quan điểm của Triết học và thần học Kitô giáo về vũ trụ, với khái niệm về hữu thể dự phần, mà trong đó mỗi tạo vật đơn lẻ, sở hữu một mức độ hoàn thiện nơi mình, chia sẻ trong một bản chất cụ thể và trong một vũ trụ bắt nguồn từ Lời sáng tạo của Thiên Chúa. Chính vì tổ chức của tự nhiên mang nơi mình tính logic và đồng nhất đã khích lệ các nghiên cứu khoa học và lôi kéo tâm trí con người hướng đến một sự khám phá về sự đồng tham dự theo chiều ngang giữa các hữu thể và sự dự phần siêu việt với hữu thể Đệ nhất. Vũ trụ không phải là một mớ hỗn độn hay nảy sinh từ hỗn độn, đúng hơn vũ trụ là một đa nguyên được sắp đặt cho phép chúng ta, bằng phân tích so sánh hay loại suy, khởi đi từ một trường hợp cụ thể để đi đến một cái nhìn phổ quát hay ngược lại.

Trong khi vẫn còn đó những khoảnh khắc trong vũ trụ và trong đời sống vượt quá khả năng của việc quan sát mang tính khoa học, thì khoa học vẫn tìm thấy một lãnh địa rộng lớn để không ngừng tự vấn chính mình và từ đó khám phá ra một trật tự rõ ràng bất biến và tương hợp, đóng vai trò như là những thành phần thiết yếu của sự sáng tạo vĩnh cửu.

Chính trong bối cảnh rộng lớn này mà tôi lưu ý về những hoa trái lớn lao nảy sinh từ việc sử dụng phương pháp loại suy trong triết học và thần học, không chỉ đơn giản là những công cụ để phân tích các thực tại trong tự nhiên theo chiều ngang mà còn được xem như là một kích tố cho những suy tư đầy sáng tạo về một bình diện siêu vượt hơn. Rõ ràng nhờ vào khái niệm sáng tạo, tư tưởng Kitô giáo không chỉ sử dụng phương loại suy để thẩm tra về những thực tại trần thế mà còn trở thành những phương thế khởi đi từ việc hiểu biết về một trật tự được sáng tạo đến việc chiêm ngắm Đấng Tạo Hóa. Liên hệ đến nguyên lý cho rằng siêu việt tính của Thiên Chúa ngụ ý về một sự đồng nhất nơi các tạo vật của Ngài một cách thiết yếu hàm chứa một sự khác biệt lớn hơn. Trong khi cấu trúc của thụ tạo là cấu trúc của hữu thể, một hữu thể được hiện hữu nhờ dự phần thì cấu trúc của Thiên Chúa là cấu trúc của hữu thể hiện hữu tự chính nó.

Trong khi con người đã có những nỗ lực lớn lao trong việc tìm chìa khóa mở cửa mầu nhiệm của con người và vũ trụ, tôi tin chắc rằng còn có đó một nhu cầu cấp thiết cho một sự đối thoại và hợp tác liên lỉ giữa thế giới khoa học và đức tin trong việc xây dựng một nền văn hóa tôn trọng con người, bênh vực phẩm giá và tự do của con người, bênh vực tương lai của gia đình nhân loại và sự phát triển bền vững và lâu dài nơi hành tinh của chúng ta. Không có sự liên kết thiết yếu này, vấn nạn lớn về con người sẽ rời bỏ địa hạt của lý trí và chân lý và đắm mình trong sự phi lý, mầu nhiệm hay thái độ dửng dưng; điều này sẽ gây thiệt hại cho chính con người, cho sự hòa bình thế giới và cho vận mệnh tối hậu của chúng ta.

Vietvatican
Nguyễn Minh Triệu sj

 




Giá Trị Vĩnh Viễn Của Tuyên Ngôn Nostra Aetate – Diễn Văn Của Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cổ Võ Sự Hiệp Nhất Các Kitô hữu

Giá Trị Vĩnh Viễn Của Tuyên Ngôn Nostra Aetate – Diễn Văn Của Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cổ Võ Sự Hiệp Nhất Các Kitô hữu

Trong những cuộc thảo luận gần đây về khả năng đón nhận trở lại Huynh Đoàn Thánh Pio 10 vào Giáo hội Công Giáo Roma đã nảy sinh một vài vấn nạn, không chỉ liên quan đến người Do Thái, về tầm quan trọng và giá trị của Tuyên Ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các Tôn Giáo ngoài Kitô GiáoNostra Aetate(số 4). Người Do thái lo ngại rằng, ngang qua một loạt hành động tái hiệp thông của một số linh mục và tín hữu vốn có theo khuynh hướng bài Do thái giáo và từ chối tuyên ngôn về Nostra Aetate, Giáo hội Công Giáo có thể đương đầu với một hướng đi mới trong việc đối thoại với Do thái giáo hay ít nhất điều này cũng cho thấy rằng đối với Giáo hội Công Giáo tầm quan trọng của Tuyên Ngôn này chỉ là tương đối. Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo đôi lúc đã nói rằng Công Đồng Vaticano II đã đưa ra một sự phân biệt về các bản văn của mình, một sự phân biệt giữa Hiến Chế, Sắc Lệnh và Tuyên Ngôn, và rằng Nostra Aetate chỉ là một Tuyên Ngôn và có một tầm quan trọng thứ yếu và tính cách bắt buộc của nó có thể được cân nhắc trong mối liên hệ với các bản văn khác.

Trước vấn đề này, Đức Thánh Cha đã ủy thác cho tôi trình bày vấn nạn này trong một cách thức cụ thể: Nostra Aetate không hề bị đặt lại bởi Huấn quyền của Giáo Hội, như chính Đức Thánh Cha đã minh chứng trong các bài nói chuyện, các bài viết và các cử chỉ của ngài khi gặp gỡ người Do Thái. Một sự xích lại gần hơn với Huynh đoàn Thánh Pio không có nghĩa là chấp nhận và ủng hộ lập trường của họ. Chắc chắn rằng về hình thức, chúng ta có thể đưa ra một sự phân biệt giữa các bản văn khác nhau của Công Đồng; tuy nhiên, xét về mặt nội dung thì chúng là một thể thống nhất không thể tách rời hay không thể đối chọi nhau.
Do đó, Nostra Aetate không thể được xem như một thiên thể độc lập, rơi trực tiếp từ trời xuống và không có sự liên hệ nào với các bản văn khác của Công Đồng. Vì thế, khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã xóa tan mọi nghi vấn bằng cách đồng ý hoàn toàn với Công Đồng và các tài liệu của Công Đồng trong một cái nhìn thống nhất. Khi trình bày về một phương pháp chú giải các bản văn của Công Đồng, ngài đã diễn tả rõ quan điểm này trong bài nói chuyện nổi tiếng của mình trước Giáo Triều Roma trong dịp mừng lễ Giáng Sinh năm 2005.

Nostra Aetate được xem là “tài liệu nền tảng” và là “Magna charta” (tài liệu quan trọng) trong cuộc đối thoại giữa Giáo hội Công Giáo Rôma và Do thái giáo. Tuyên ngôn này bắt đầu với việc phản tỉnh về mầu nhiệm và sứ vụ của Giáo hội trong lịch sử cứu độ và cũng nhắc nhớ về mối dây hiệp thông sâu sắc nối kết dân của Tân Ước với con cháu Abraham. Tuyên ngôn này nói rõ về thái độ cần phải tránh khi đối xử với người Do thái, đó là thái độ khinh khi, hạ giá và xúc phạm. Hơn nữa, Tuyên ngôn này cũng minh nhiên nhấn mạnh về nguồn gốc Do thái của Kitô giáo và đã nỗ lực để đánh đổ những kết án dành cho người Do thái diễn ra ở nhiều nơi trong nhiều thế kỷ qua. Về phần mình, người Do thái đặc biệt đánh giá cao nỗ lực của Giáo Hội Công Giáo ngang qua tài liệu này đã chống lại mọi hình thức bài Do Thái. Do đó, họ tiếp tục được an ủi và hi vọng về khả năng Giáo hội Công giáo sẽ là một đồng minh đáng tin cậy trong trận chiến chống lại phong trào bài Do thái vốn chưa thể loại trừ trong thế giới hôm nay.

Những chất liệu hình thành nên bản dự thảo của tuyên ngôn Nostra Aetate có thể được tổng kết ở ba điểm sau: một sự phản tỉnh về lương tâm Kitô giáo sau thảm họa Holocaust, sự phát triển của khoa học Kinh Thánh cho đến Công Đồng Vaticano II và cuối cùng là sự thành lập nhà nước Israel vào năm 1948. Trong bối cảnh Kitô giáo, thì những hậu quả mà con người phải đối diện trong thảm họa Holocaust chính là yếu tố quyết định thúc đẩy Giáo hội soạn thảo bản văn này. Một yếu tố khác đóng vai trò không nhỏ liên quan đến yếu tố chính trị và thực tiễn đó là sự ra đời của nhà nước Israel. Sau khi nhà nước này được thành lập, Giáo Hội Công Giáo đã có thể hiện diện ở Đất Thánh và đã thi hành đời sống mục vụ của mình trong một đất nước vốn được xem là quốc gia của Do thái Giáo. Khi xem xét đến những nguyên lý thần học được tìm thấy trong Nostra Aetate như là một cấu trúc nền tảng chúng ta cần lưu ý rằng, trong những nghiên cứu Kinh thánh trước Công Đồng, hình ảnh của Đức Giêsu Nadaret đã bắt đầu được xem xét nhiều hơn trong bối cảnh của Do thái giáo trong thời đó. Do đó, Tân Ước đã được xem xét trong bối cảnh của các truyền thống của Do thái và Đức Giêsu được xem là một người Do thái trong thời đại của Ngài và tuân theo những truyền thống này.
Khi phản tỉnh về những ảnh hưởng của các tài liệu Công Đồng Vaticano II, chúng ta không e ngại để xác nhận rằng Nostra Aetate là một tài liệu quan trọng giữa các tài liệu này và nó đóng góp một phần quan trọng và đưa ra một định hướng nền tảng cho Giáo hội Công Giáo sau công đồng. Sự tôn trọng dành cho người Do Thái được diễn tả trong Tuyên Ngôn này đã giúp hai bên chuyển từ thái độ nghi kỵ lẫn nhau trong nhiều thế kỷ sang thái độ sang thái độ hợp tác, hai bên đã trở thành đối tác đáng tin cậy của nhau và thậm chí là thành những người bạn thân để có thể cùng nhau đối diện với những khủng hoảng và vượt qua những xung đột trong một cách thế tích cực.

Trong cuộc đối thoại với Do thái giáo, khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức đã nhấn mạnh rằng, theo bước chân người tiềm nhiệm, ngài không chỉ ước mong phát triển mà còn tăng cường mối liên hệ với những người Do thái. Điều này thì không thể nghi ngờ vì những nỗ lực của Đức Gioan Phaolo II trong việc đối thoại giữa Công Giáo và Do thái thì được đảm bảo và được xây dựng trên Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin do hồng Y Ratzinger làm bộ trưởng. Với tư cách là một nhà nghiên cứu Kinh Thánh, ngang qua việc nghiên cứu Cựu Ước và Tân Ước, hồng Y Ratzinger đã xây dựng những mối tương quan thắm thiết với người Do thái; và ngài cũng đã tăng cường các mối tương quan cá nhân với người Do thái trong thời gian ngài ở Roma. Quan điểm nền tảng thần học của Ratzinger dựa trên niềm xác tín cho rằng Kinh thánh chỉ có thể được hiểu một cách đích thực khi xem nó là cuốn sách duy nhất; và do đó, “concordia testamentorum” (sự hoà hợp giữa các bản văn Kinh Thánh) là một một yếu tố thiết yếu để giải thích đúng đắn sứ điệp Kinh thánh về cứu độ.

Trong ánh sáng của những niềm xác tín này, ta không lấy làm ngạc nhiên khi Đức Thánh Cha gánh vác sứ mạng hòa giải đã được bắt đầu bởi vị tiền nhiệm của mình trong công cuộc đối thoại giữa Công giáo và Do thái. Ngài không chỉ gửi đến vị Trưởng Hội Đường Do thái giáo ở Roma trong là thư đầu tiên trong triều đại của ngài mà còn tái xác nhận điều này trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với vị ủy viên của người Do thái vào ngày 9 tháng 7 năm 2005. Giáo hội Công giáo đang bước những bước đi vững chắc dựa trên những nguyên lý được thiết lập bởi Nostra Aetate; và tiếp bước vị tiền nhiệm của mình, Đức Thánh Cha chắn chắn sẽ tiếp tục cuộc đối thoại này.

Vietvatican
Nguyễn Minh Triệu sj

Đức Thánh Cha chúc mừng Tổng thống Obama

Đức Thánh Cha chúc mừng Tổng thống Obama

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 chúc mừng tổng thống Barack Obama được tái cử và ngài cầu nguyện cho những lý tưởng tự do và công lý, vốn hướng dẫn các nhà lập quốc Hoa Kỳ, tiếp tục triển nở.

Phòng báo chí Tòa Thánh không công bố nguyên văn bức điện của ĐTC gửi cho tổng thống Obama qua trung gian Đức TGM Carlo Maria Viganò, Sứ thần Tòa Thánh tại Washington hôm 7 tháng 11-2012, nhưng thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết:

”Trong bức điện, ĐTC gửi những lời cầu chúc tốt đẹp nhất đến tổng thống trong nhiệm kỳ mới và cho biết sẽ cầu xin Thiên Chúa trợ giúp tổng thống trong trách nhiệm rất trọng đại trước đất nước và cộng đồng quốc tế”.

ĐTC cũng cho tổng thống Obama biết là ngài cầu nguyện để những lý tưởng tự do và công lý vốn đã hướng dẫn các nhà lập quốc Hoa Kỳ có thể tiếp tục chiếu sáng rạng người trong lúc quốc gia tiến bước.

Tuyên bố với giới báo chí, Cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh, cũng bày tỏ hy vọng tổng thống Obama sẽ thăng tiến một nền văn hóa sự sống và tự do tôn giáo. Hy vọng của mọi người là tổng thống Obama đáp ứng những mong đợi của nhân dân Hoa Kỳ và phục vụ luật pháp cũng như công lý để mưu an sinh và sự tăng trưởng của mỗi người, qua việc tôn trọng các giá trị thiết yếu về nhân bản và tinh thần và qua sự thăng tiến một nền văn hóa sự sống và tự do tôn giáo, vốn luôn luôn là điều rất quý giá đối với truyền thống nhân dân Hoa kỳ và niền văn hóa của họ”.

Các GM Công Giáo Hoa Kỳ đã phê bình tổng thống Obama vì đã ủng hộ luật cho phá thai và kế hoạch của chính phủ Mỹ do ông Obama lãnh đạo đòi hệ thống bảo hiểm tư của hầu hết các tổ chức Công Giáo phải trả tiền phí tổn ngừa thai nhân tạo, làm tuyệt đường sinh sản, là những điều đi ngược giáo huấn luân lý Công Giáo.

Theo Cha Lombardi, ”Vai trò của tổng thống Hoa Kỳ là một trách vụ rất lớn lao không những đối với đại quốc gia này, nhưng còn đối với các dân tộc trên toàn thế giới, xét vì vai trò của Hoa Kỳ trên chính trường hoàn cầu. Cha hy vọng tổng thống có thể tìm được những phương thế tốt nhất để thăng tiến an sinh thể lý và tinh thần của mọi người, thực sự góp phần phát triển toàn diện của con người, cũng như công lý và hòa bình trên thế giới”.

ĐHY Timothy Dolan, TGM New York, Chủ tịch HĐGM Hoa Kỳ, cũng gửi thư chúc mừng tổng thống Obama và khẳng định rằng:

”Nhân dân đất nước chúng ta một lần nữa lại ủy thác cho tổng thống một trách nhiệm lớn lao. Các GM Công Giáo Hoa Kỳ cầu nguyện xin Chúa ban cho Tổng thống được sức mạnh và khôn ngoan để đáp ứng các thách đố khó khăn mà Hoa Kỳ đang phải đương đầu.

Trong thư, ĐHY Dolan cũng cho biết các GM cầu nguyện để tổng thống Obama giúp tái lập ý thức công dân đối với trật tự công cộng, để các cuộc nói chuyện công cộng được thấm đượm tinh thần tôn trọng và bác ái đối với mối người. 'Đặc biệt chúng tôi cầu nguyện để tổng thống thi hành chức vụ để theo đuổi công ích, nhất là chăm sóc đến những người dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta, trong đó có cả các thai nhi, người nghèo, và người di dân. Chúng tôi sẽ tiếp tục lập trường bênh vực sự sống, hôn nhân và quyền tự do đầu tiên được quí chuộng nhất, đó là tự do tôn giáo. (CNS 7-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Khoa Học Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 8 tháng 11-2012, dành cho Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học, ĐTC Biển Đức 16 cổ võ sự đối thoại và cộng tác giữa khoa học và đức tin.

Hàn lâm viện Tòa Thánh về khoa học đã nhóm khóa họp toàn thể từ 5 đến 7 tháng 11-2012 tại nội thành Vatican, dưới quyền chủ tọa của giáo sư chủ tịch Werner Arber, với sự tham dự của 60 thành viên quốc tế. Chủ đề khóa họp là ”Sự phức tạp và tương tự trong khoa học: các khía cạnh lý thuyết, phương pháp và giải thích”.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhận xét rằng ”Sự phức tạp và cao cả của khoa học hiện nay trong tất cả những gì giúp con người hiểu biết về thiên nhiên, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến con người. Chỉ có con người mới có thể liên tục mở rộng kiến thức của mình về chân lý và xếp đặt chúng một cách khôn ngoan để mưu ích cho mình và môi trường xung quanh”.

ĐTC cũng nói đến sự tiếp xúc hữu ích giữa khoa học với các ngành triết học và thần học Kitô giáo, đồng thời ngài nhấn mạnh rằng ”Vũ trụ này không phải là một sự hỗn độn hoặc là kết quả của một sự hỗn mang, đúng hơn, nó xuất hiện như một phức thể có trật tự, giúp chúng ta, qua sự phân tích và loại suy so sánh, đi từ sự chuyên môn đến một quan điểm bao quát hơn, và ngược lại.”

ĐTC xác tín rằng ”trong đại công trình khám phá các mầu nhiệm về con người và vũ trụ, cần phải tiếp tục có sự đối thoại và cộng tác giữa thế giới khoa học và thế giới đức tin trong việc xây dựng một nền văn hóa tôn trọng con người, bênh vực phẩm giá con người và tự do, bênh vực tương lai của gia đình nhân loại và sự phát triển dài hạn của trái đất chúng ta. Nếu không có sự hỗ tương cần thiết như thế, thì những vấn nạn lớn của con người sẽ rời bỏ lãnh vực lý trí và chân lý, gây thiệt hại lớn cho chúng nhân loại, cho hòa bình thế giới và cho vận mệnh tối hậu của chúng ta” (SD 8-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sự Thưởng Phạt Đời Đời

Sự Thưởng Phạt Đời Đời

Hỏi: Nhân tháng cầu cách riêng cho các linh hồn (tháng 11), xin Cha giải thích hai câu hỏi sau :

1- Tại sao Thiên Chúa là tình thương và tha thứ lại có thể phạt con người trong nơi gọi là hoả ngục được? Và thực sự có nơi gọi là “hoả ngục” hay không?

2- Luyện tội là nơi nào và dành cho ai ?

 

Trả lời:

1- Đúng, Thiên Chúa là tình yêu như Thánh Gioan đã quả quyết. (x.1Ga :4:8)

Chính vì yêu thương nên Thiên Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc con người nhờ Chúa Giêsu-Kitô, Đấng cũng vì yêu thương con người mà đã tự hiến chiu khổ hình thập giá để “hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20: 28) Thiên Chúa tuyệt đối không được lợi lộc gì và cũng không hề muốn tìm lợi lãi gì cho riêng mình mà phải làm việc này. Đây là điều chắc chắn chúng ta phải tin và cảm tạ Chúa về tình thương vô biên của Người là Cha nhân lành.

Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho con người sự khác biệt độc đáo so với mọi loài thụ tạo khác: đó là có trí hiểu biết và ý muốn tự do (intelligence and free will). Nghĩa là Ngài không tạo dựng loài người như những người máy “robots” chỉ biết thi hành theo mệnh lệnh của người điều khiển, mà là những tạo vật có lý trí và tự do để nhận biết và chọn lựa. Thiên Chúa hoàn toàn tôn trọng ý chí tự do này của con người. Do đó, con người phải chịu trách nhiệm trước Chúa về mọi chọn lựa của mình khi sống trên trần gian này.

Và cũng chính vì con người có lý trí và tự do nên mới có vấn đề thưởng phạt được đặt ra. cho riêng con người trước Thiên Chúa giầu tình thương nhưng cũng rất công minh khi phán xét con người

Nhưng truớc khi đi sâu vào sự thưởng phạt của Thiên Chúa, chúng ta cần biết xem Kinh Thánh và Giáo lý của Giáo Hội nói gì về nơi gọi là “hoả ngục = hell

A- Kinh Thánh

Trước hết, Ngôn sứ Isaia đã dùng hình ảnh sau đây để nói về nơi trừng phạt đời đời của những ai chối bỏ Thiên Chúa và tình thương của Người để làm những sự dữ trái nghịch hoàn toàn với tình thương và bản chất cực tốt cực lành của Chúa:

Khi ra về, mọi người sẽ thấy xác những kẻ phản loạn chống lại Ta vì giòi bọ rúc tiả, chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tàn lụi . Chúng sẽ là đồ ghê tởm cho mọi người phàm”. (Is 60:24)

Sau này, khi đến trong trần gian để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói đến hoả ngục và hình phạt ở nơi này như sau:

Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết, lửa không hề tắt.” (Mc 9: 47- 48)

Nơi khác, Chúa còn nói rõ thêm: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.” (Mt 10:28)

Thánh Gioan Tông Đồ cũng quả quyết như sau về sự hư mất đời đời dành cho những ai không yêu mến người khác như Chúa dạy:

Phàm ai ghét anh em mình, thì là kẻ sát nhân
Và anh em biết : không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó.
” (1 Ga 3 : 15)

B- Giáo Lý của Giáo Hội

Từ ngữ hoả ngục (hell) được dịch từ chữ “Sheol” của Do Thái, hay “Hades” của Hy lạp để chỉ nơi ở của những người không được nhìn thấy Thiên Chúa, là nguồn vui và hạnh phúc bất diệt. Đây chính là nơi mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến trong khi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Nơi này “dành cho những ai, cho đến lúc chết, vẫn từ chối tin và trở lại. Đó là nơi cả hồn lẫn xác sẽ bị hư mất. Và danh từ “hoả ngục” được dùng để chỉ tình trạng ly khai chung cuộc khỏi mọi hiệp thông với Thiên Chúa và các thánh trên trời.” (x. SGLGHCG, số 633, 1033).

Vì thế Giáo Hội, theo gương Chúa Giêsu, cũng tha thiết và nghiêm trọng “cảnh cáo các tín hữu về thực tế đáng buồn và thảm khốc của sự chết đời đời, còn được gọi là hoả ngục” (x. Sđd, số 1056-58)

Giáo lý của Giáo Hội cũng nói thêm là “Linh hồn của những người chết trong tình trạng mang tội trọng sẽ lập tức xuống hoả ngục, lửa vĩnh viễn.” (x. Sđd số 1035)

Nói rõ hơn, những ai biết mình đang có tội trọng như giết người, ngoại tình, âm mưu giết vợ hay chồng của người khác để cướp vợ hay chồng của họ, trôm cướp, tống tiền, làm chứng gian để hại người khác…thì phải nhanh chóng chạy đến với bí tích hòa giải để xưng và đền bù thiệt hại gây ra cho người khác (trộm cắp) để được tha tội và nối lại tình thương với Chúa, là Đấng gớm ghét mọi tội lỗi nhưng lại yêu thương kẻ có tội biết sám hối xin tha.

Như vậy, qua những bằng chứng trên đây, chúng ta không có lý do gì để nghi ngờ hay phủ nhận sự tồn tại của một nơi đáng sợ hãi gọi là “hoả ngục”, tức là nơi hoàn toàn đối nghịch với “Thiên đàng” (paradise), là chỗ “vinh phúc cho ta được thông phần vào bản tính Thiên Chúa và được sống đời đời” sau khi đã hoàn tất hành trình đức tin trong trần thế này theo lời dạy của Thánh Phêrô. (x. 2 Pet 1:4)

C- Chúacó phạt ai xuống hoả ngục hay không?

Như đã nói ở trên, Thiên Chúa là tình yêu và giầu lòng tha thứ, là “Đấng cứu độ chúng ta, Đấngmuốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (x.1 Tm 2:4). Nghĩa là, Thiên Chúa không tiền định hay muốn cho ai phải hư mất đời đời, tức là phải phạt trong nơi gọi là hoả ngục. Lý do là vì “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. (Ga 3: 16)

Tuy nhiên, như đã nói ở trên, Thiên Chúa tạo dựng con người với hai đặc tính độc đáo là có lý trí và ý chí tự do. Lý trí để nhận biết và ý muốn tự do để lựa chọn. Như vậy, nếu Chúa bắt buộc con người phải yêu mến Ngài thì tình yêu này sẽ không có giá trị vì như thế con người sẽ mất hết tự do lựa chọn và sống như mọi loài thụ tạo khác mà thôi. Chính vì Thiên Chúa ban cho và hoàn toàn tôn trọng cho con người sử dụng ý chí tự do (free will) nên sự chọn lựa của cá nhân mới có giá trị thưởng phạt.

Nói khác đi, Thiên Chúa không ép buộc ai phải yêu mến và sống theo đường lối của Ngài. Ngược lại, Ngài chỉ mời gọi và tuỳ con người tự do đáp trả như tác giả Đệ Nhị Luật đã viết:

Hôm nay tôi lấy trời đất làm chứng để cáo tội anh (em): tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh (em) hãy chọn để anh (em) và dòng dõi anh (em) được sống.”(Đnl 30:19)

Do đó, nếu con người sử dụng ý muốn hay ý chí tự do (free will) mà khước từ Thiên Chúa để sống theo ý riêng của mình thì Thiên Chúa sẽ tôn trọng và người ta phải hoàn toàn chịu mọi hâu quả về sự chọn lựa của mình trong cuộc sống trên trần gian này cho đến chết.

Thực tế khắp nơi và ở mọi thời đại đã cho ta thấy rõ là : có biết bao triệu người đã và đang chọn nếp sống phóng túng, gian ác, lưu manh, trộm cướp, bóc lột, gian dâm, khủng bố, giết người, dâm ô, và tôn thờ tiền bạc, vật chất với mọi thú vui vô luân, vô đạo. v.v… Đây là những lối sống hoàn toàn đi ngược với mọi Thánh chỉ của Thiên Chúa và Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Giêsu đã rao giảng và trả giá bằng chính cái chết của Người trên thập giá năm xưa.

Nếu người ta cương quyết chọn con đường sai trái và từ chối hoáncải để được tha thứ và cứu độ thì họ đã tự ý chọn lựa cho mình nơi ở dành cho những kẻ đã khước từ Thiên Chúa là tình thương, an vui, công bình và thánh thiện. Nghĩa là, nếu cuộc sống trên đời này có dẫn đưa ai cuối cùng phải dừng chân ở nơi gọi là “hoả ngục” thì đó hoàn toàn là hậu quả tất nhiên của sư tự do cá nhân muốn chọn lựa, chứ không phải vì Chúa muốn trừng phạt ai, hay tiền định cho ai phải chịu hình phạt đáng sợ này. Như vậy, phải hiểu án phạt hoả ngục theo nghĩa con người có lý trí và tự do đã chọn lựa cho mình một nếp sống hoàn toàn trái ngược với cuộc sống dẫn đưa đến hạnh phúc thiên đàng như Chúa hứa ban cho những ai thành tâm ước muốn khi còn sống trên đời này.Cho nên, không có gì là tàn nhẫn hay trái ngược với tình thương vô biên của Thiên Chúa là Đấng “muốn cho mọi người được cứu độ” và sống đời đời.

Mặt khác, sở dĩ phải đặt vấn đề “thưởng phạt đời đời” là vì sự có mặt của tội lỗi và sự dữ trong trần gian này như một thực tế không ai có thể phủ nhận được

Đó là chiến tranh, vì quyền lợi kinh tế hay chính trị, đang giết hại hàng trăm ngàn người vô tội ở Iraq, Afghanistan, Libya, Syria…Đó là những kẻ đang khai thác kỹ nghệ mãi dâm, sản xuất phim ảnh đồi trụy, buôn bán ma túy, phụ nữ và trẻ em cho những kẻ tìm thú vui dâm ô vô cùng khốn nạn này ở khắp nơi trên thế giới. Đó là các tập đoàn tư bản xanh và đỏ đang gia sức bóc lột dân nghèo, lấy của công làm của tư, độc quyền cai trị, kinh doanh và thao túng thị trường để vơ vết của cải cách bất công, vô nhân đạo.

Nghĩa là, bao lâu còn sống trên trần gian này và trong bản chất yếu đuối do hậu quả của tội Nguyên tổ, con người sẽ luôn luôn bị giằng co giữa sự dữ và sự thiện, giữa cái tốt và cái xấu đối chọi nhau như ánh sáng và bóng tối.

Nếu nhờ đức tin và lý trí, chúng ta nhận biết và tin có Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Đấng tạo dựng mọi loài mọi vật, là Chân Thiên Mỹ tuyết đối, thì lời mời gọi sẽ là: hoặc chọn Chúa để yêu mến và sống theo đường lối của Người hay chốibỏ Chúa để buông mình sống theo những đòi hỏi, quyến rũ của trần gian về danh vọng, tiền tài, vui thú vô luân vô đạo và bịt tai nhắm mắt không nghe tiếng lương tâm và không còn nhìn rõ lằn ranh giữa sự thiện và sự dữ, sự tội đầy rẫy trong trấn thế này.

Do đó, nếu ai phải bị hư mất đời đời trong nơi gọi là “hỏa ngục” thì đó chính là hậu quả chọn lựa của người ấy khi sống trên trần thế này, chứ không phải vì Thiên Chúa đã tiền định hay muốn phạt ai xuống hỏa ngục. Trong tinh thần đó, ân thưởng mà Thiên Chúa hứa ban được ví như bàn tiệc với những thực phẩm tối hảo, trường sinh bất tử mà Người đã dọn sẵn và mời mọi khách đến thưởng thức.

Nếu ai từ khước tham dự Bàn tiệc Nước Trời, thì dĩ nhiên họ không được hưởng những thực phẩm tối cần cho sự sống đời đời, khiến phải chết đói, chết khát là hậu quả tất yếu họ phải gánh chịu vì đã tự do chọn lựa như thế.

2- Luyện Tội (Purgatory) là gì?

Theo giáo lý của Giáo Hội thì Luyên Tội hay Luyện ngục là nơi dành cho “những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn thì, tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết hầu đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.” (x . SGLGHCG, số 1030)

Nói rõ hơn, một người sau khi chết sẽ tức khắc bị phán xét riêng để nếu đã thánh thiện đủ thì được vào ngay nơi gọi là “Thiên đàng” để sống hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa. Ngược lại, nếu đã phạm mọi tội nghịch cùng Thiên Chúa và hoàn toàn từ khước Người cho đến hơi thở cuối cùng thì sẽ vào nơi gọi là “hỏa ngục” như đã giải thích ở trên.Nhưng điều này chỉ có Chúa biết mà thôi và không ai trong Giáo Hội có thể biết được. Vì thế, Giáo Hội vẫn dạy phải cầu cho mọi người đã qua đời kể cả những người đã tự tử chết, vì không biết số phận đời đời của họ ra sao, sau khi chết.

Giữa Thiên Đàng và hỏa ngục, còn nơi thứ ba gọi là Luyện ngục hay Luyện tội là nơi dành cho những linh hồn đã lìa đời trong on nghĩa của Chúa, nhưng chưa thánh thiện đủ để vào ngay Thiên Đàng mà cần được thanh luyện thêm ở nơi này một thời gian trước khi được vào chốn an nghỉ muôn đời với Chúa trên Thiên Đàng.

Cũng theo giáo lý của Giáo Hội, thì các Thánh ở trên trời, các linh hồn thánh trong Luyện Tội và các tín hữu còn sống đều hiệp thông với nhau trong lời cầu nguyện, ca ngượi và cảm tạ dâng lên Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng “chậm giận và giầu tình thương.” (Tv 103: 8).

Đây là tín điều các Thánh thông công mà Giáo Hội dạy con cái mình tin và sống trong cuộc lữ hành tiến về Quê Trời. Nghĩa là các Thánh trên Thiên Đàng có thể cầu bầu đắc lực cho các linh hồn trong Luyện ngục và cho các giáo hữu còn sống trên trần gian. Các linh hồn trong Luyện ngục cũng có thể cầu xin hữu hiệu cho các tín hữu còn sống, nhưng không thể tự giúp mình được vì thời giờ làm việc lành phúc đức đã hết.Vì thế, các linh hồn mong đợi các tín hữu còn sống làm việc lành để cầu cho các linh hồn sớm được đón nhận vào Thiên đàng. Vì thế, chúng ta được khuyên khích cầu nguyện cách riêng cho các linh hồn trong tháng 11 là tháng dành để cầu xin cho các linh hồn đang còn được thanh luyện trong nơi Luyện tội. Giáo Hội ban ân xá (Indulgences) để tha các hình phạt hữu hạn (temporal punishment) cho người còn sống và cho các linh hồn trong Luyện tôi. Hình phạt hữu hạn hay việc đền tội là việc xin tẩy xóa những hậu quả của các tội nặng nhẹ đã được tha qua bí tích hòa giải. Tội được tha nhưng hậu quả của tội còn để lại trong tâm hồn hối nhân. Do đó, mọi hối nhân, sau khi xưng tội cách thành thật, đều phải làm việc gọi là “đền tội” do cha giải tội ấn định.

Nhằm mục đích tha hay tẩy xóa các hình phạt hữu hạn, Giáo Hội ban một đặc ân gọi là ân xá (Indulgence) lấy trong kho tàng ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và công nghiệp của Đức Mẹ và các Thánh để ban cho các tính hữu còn sống hay các linh hồn trong Luyện tội. Ân xá được ban trong những dịp đặc biệt như trong tháng cầu cho các linh hồn (tháng 11) trong Năm Thánh (Year of Jubilee) Năm Đức Tin (năm nay cho đến 24 tháng 11 năm 2013). Ân xá có thể là từng phần (partial indulgence) hay toàn phần tức ân toàn xá (full indulgences) để tha các hình phạt hữu hạn nói trên. Do đó, mọi tín hữu đang hiệp thông với Giáo Hội có thể lãnh ân xá để xin tha hình phạt hữu hạn cho mình hay nhường lại cho các linh hồn nơi Luyện Tội, nhưng không thể nhường cho các tín hữu còn sống.

Muốn hưởng ân toàn xá thì các tín hữu phải thi hành một số việc lành ấn định như xưng tội, rước Mình Thánh Chúa, viếng nhà thờ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha.Về việc viếng nhà thờ thì trong tháng 11 có thể viếng bất cứ nhà thờ nào cũng được. Riêng cho Năm thánh hay Năm Đức Tin thì phải viếng nhà thờ nào được Giáo quyền địa phương (Đức giám mục) chỉ định để được ân xá. Vậy chúng ta hay sốt sắng làm những việc lành thường lệ để lãnh ân xá cầu cho các linh hồn trong tháng 11 này, và trong suốt Năm Đức Tin đang mở ra trong toàn Giáo Hội.

Tóm lại, có Thiên Đàng là nơi dành cho những ai yếu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và xa lánh mọi tội lỗi bao lâu còn sống trên trần gian này. Cũng có hỏa ngục là nơi dành cho những người đã tự do chọn chỗ này cho mình khi tự ý khước từ Thiên Chúa để sống theo ma quỉ, xác thịt và trần gian cho đến hơi thở cuối cùng.Ở giữa hai nơi trên là chốn thanh luyện các linh hồn chưa được tẩy sạch mọi hậu quả của tội lỗi trước khi được gia nhập hàng ngũ các Thánh và các Thiên Thần trên Thiên Đàng.

Ước mong giải đáp này thỏa mãn các câu hỏi được đặt ra.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Đức Thánh Cha chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Bulgari

Đức Thánh Cha chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Bulgari

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 chia buồn với Giáo Hội Chính Thống Bulgari về sự qua đời của Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Maxime, đồng thời ngài cảm tạ Chúa vì những quan hệ tốt đẹp Đức Cố Thượng Phụ đã phát huy với Giáo Hội Công Giáo.

Đức Thượng Phụ qua đời lúc gần 4 giờ sáng ngày 6 tháng -11-2012 tại nhà thương Lonenets ở thủ đô Sophia, hưởng thọ 98 tuổi, sau hơn 1 tháng điều trị tại đây. Người cai quan Giáo Hội Chính Thống Bulgari trong 41 năm trời.
Trong điện văn gửi đến Đức TGM Grigorij của giáo phận Veliko Trnovo, Chủ tịch lâm thời của Thánh Hội đồng Chính Thống Bulgari, ĐTC bày tỏ đau buồn vì sự qua đi của Đức Thượng Phụ Maxime, ”người anh em rất quí mến trong Chúa Kitô”.

Nhân danh Giáo Hội Công Giáo, ĐTC chia buồn với toàn thể các GM, LM, và tín hữu Chính Thống Bulgari, đồng thời cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những điều tốt lành Đức Cố Thượng Phụ đã làm cho Giáo Hội và dân tộc của Người. ”Đặc biệt tôi nhớ đến sự đón tiếp nồng hậu đã dành cho Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 trong cuộc viếng thăm tại Bulgari hồi tháng 5 năm 2002. Tôi cũng cảm tạ Chúa vì những quan hệ tốt đẹp mà Đức Thượng Phụ đã phát huy với Giáo Hội Công Giáo tại Bulgari, và tôi cũng cầu mong những quan hệ tốt đẹp ấy có thể được tiếp tục để công bố Tin Mừng”.

Đức Thượng Phụ Maxime sinh ngày 29 tháng 10-1914 tại Oreshak, miền trung Bulgari, tục danh là Marin Minkov. Năm 1941 ngài trở thành đan sĩ với tên là Maxime. Năm 1971 ngài được bầu làm TGM giáo phận Sophia, Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Bulgari.

Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Bulgari, tân chính phủ tìm cách thay thế các nhân vật được bổ nhiệm dưới thời cộng sản, kể cả Đức Thượng Phụ Maxime. Giáo Hội Chính Thống Bulgari bị chia làm 2 phe. Một nhóm GM và LM toan tính lật đổ Đức Thượng Phụ Maxime, nhưng không thành công và họp lập ra một Hội đồng mới. Sự chia rẽ lan rộng và đưa tới nhiều cuộc đụng độ, chiếm đóng các thánh đường. Có 30% trong số 1 ngàn LM toàn quốc theo phe ly khai. Tuy nhiên phần lớn vẫn trung thành với Đức Thượng Phụ Maxime, người vẫn được các tòa Thượng Phụ Chính Thống khác trên thế giới công nhận.

Một Ủy ban điều tra về các cộng tác viên với cơ quan mật vụ nhà nước cộng sản Bulgari không tìm thấy liên hệ gì giữa Đức Thượng Phụ Maxime với chế độ cộng sản, tuy rằng, trong số 15 GM Bulgari, thì có 11 vị đã làm việc cho chế độ cộng sản.

Trong số 7,4 triệu dân Bulgari, có tới 80% là tín hữu Chính Thống. 13 vị GM thành viên Thánh Hội Đồng nhóm họp để chọn người tạm thời cai quản Giáo Hội trong vòng 4 tháng tới đây tức là cho đến khi Đại Hội đồng của Giáo Hội chọn vị Thượng Phụ mới. (SD, AP 6-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 



 

Đức Thánh Cha chúc mừng Đức Tân Thượng Phụ Chính Thống Copte

Đức Thánh Cha chúc mừng Đức Tân Thượng Phụ Chính Thống Copte

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 nồng nhiệt chúc mừng Đức tân Thượng Phụ Anba Tawadros, Giáo Chủ Chính Thống Copte Ai Cập.

Đức Thượng Phụ Tawadros, nguyên là GM phụ tá giáo phận Beheria, đã đắc cử hôm 4 tháng 11-2012, kế nhiệm Đức Thượng Phụ Shenuda III, 88 tuổi, qua đời hồi tháng 3 năm nay, sau 40 năm cai quản Giáo Hội này.

Trong điện văn công bố hôm 5 tháng 11-2012 tại Vatican, ĐTC bày tỏ với Đức tân Thượng Phụ, toàn thể hàng giáo sĩ và tín hữu, những lời cầu chúc tốt đẹp nhất và tình liên đới trong kinh nguyện, xin Chúa tuôn đổ phúc lành trên sứ vụ Đức Thượng Phụ sắp lãnh nhận.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Trong thời kỳ có nhiều thách đố hiện nay, điều quan trọng đối với mọi Kitô hữu là làm chứng về tình thương và tình hiệp thông liên kết họ với nhau, nhớ đến lời nguyện của Chúa trong bữa Tiệc Ly: Ước gì chúng được nên một, để thế gian tin (Xc Ga 17,21). Tôi cũng cảm tạ Đấng Tối Cao vì những tiến bộ đã đạt được dưới thời vị tiền nhiệm đáng kính mến của Đức Thượng Phụ, trong quan hệ giữa Giáo Hội Chính Thống Copte và Giáo Hội Công Giáo”.

Sau cùng, ĐTC ”hy vọng và cầu nguyện để tình thân hữu và đối thoại giữa chúng ta, được Thánh Linh hướng dẫn, sẽ mang lại những thành quả, trong tình liên đới chặt chẽ hơn và sự hòa giải lâu bền”.

Lễ nhậm chức của Đức Thượng Phụ Tawadros sẽ được cử hành vào ngày 18-11 tới đây với sự tham dự của Tổng thống Mohammed Mustri cùng với nhiều vị quốc trưởng Âu Châu, các vị đại sứ và nhiều quan chức chính quyền.

Đức tân Thượng Phụ Tawadros năm nay 60 tuổi, nguyên là một dược sĩ trước khi đi tu. Các cơ quan truyền thông Ai Cập đề cao kiến thức thần học cũng như các hoạt động mục vụ của ngài với giới trẻ. Ngài được chọn làm vị Thượng Phụ thứ 118 của Chính Thống Copte theo một thể thức phức tạp, qua nhiều giai đoạn. Và chúa nhật 4 tháng 11 vừa qua, một em bé đã bốc thăm chọn 1 trong 3 ứng viên chung kết. Các tín hữu Chính Thống Copte xác tín rằng Chúa dùng một bàn tay trẻ em thơ ngây để chọn người cai quản Giáo Hội. Hôm đó cũng trùng vào sinh nhật thứ 60 của Đức Tân Thượng Phụ.

Chính phủ Ai Cập và đảng Anh em Hồi giáo đã chúc mừng Đức tân Thượng Phụ Tawadros. Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Đức Cha Barnaba El Soryany, GM giáo phận thánh Giorgio của Chính Thống Copte ở Roma nhận định rằng Đức Thượng Phụ Tawadros là một người rất tích cực đối với toàn dân Copte, đặc biệt là ở Ai cập. Việc ngài được chọn thực là một món quà đối với tất cả mọi người. Đức Tawadros cũng là người rất bình tĩnh và được nhiều người yêu mến. ”Cùng ngài chúng tôi sẽ tiến bước, và Giáo Hội sẽ tiến bước trong cuộc đối thoại: ngài hy vọng nhiều nơi cuộc đối thoại.”

HĐGM Đức đã gửi điện chúc mừng Đức Thượng Phụ Tawadros. Đức TGM Chủ tịch Robert Zollitsch cầu chúc Đức tân Thượng Phụ được Chúa chúc lành trong trách vụ lớn lao và trách nhiệm nặng nề. Đồng thời ngài kêu gọi chính quyền Ai Cập tôn trọng tự do tôn giáo của mọi người dân cũng như cổ võ đối thoại giữa các tôn giáo. Đức TGM Zollitsch ca ngợi sự dấn thân của Giáo Hội Chính Thống Copte trong cuộc đối thoại đại kết đồng thời khẳng định rằng ”Tôi rất vui mừng vì có những tiếp xúc tốt đẹp giữa Giáo Hội Chính Thống Copte với Giáo Hội Công Giáo Copte Ai Cập dưới quyền điều khiển của ĐHY Thượng Phụ Antonios Naguib”.

Giáo Hội Chính Thống Copte là cộng đoàn Kitô đông nhất tại Ai Cập và bắt nguồn từ thánh Marco Thánh Sử. Số tín hữu của Giáo Hội này được ước lượng từ 5 đến 12 triệu trong tổng số 80 triệu dân Ai Cập. Ngoài ra có khoảng nửa triệu tín hữu Copte sinh sống tại nước ngoài. (KNA 5-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ

LỊCH SỬ CHỮ QUỐC NGỮ

Người Việt ta từ ngàn năm xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ là loại chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Chữ Việt có  trước cả chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam đã có những khám phá và còn tiếp tục truy tìm. Cùng với các nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa (Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt đã có chữ viết riêng từ trước kỷ Công nguyên (BC).

Bộ chữ này lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các mặt Trống Đồng và nhiều di vật cổ xưa khác đã được khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở vùng cực bắc biên giới Việt Nam, đều có một dạng ký hiệu giống nhau, những hình con nòng nọc là những tự dạng, biểu tượng để ghi chép lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ chữ Việt cổ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn xưa.

(ĐỌC TIẾP XIN VÀO LINK DẪN . . . .lich su chu quoc ngu)

Chỉ luôn muốn sự thiện và nhìn người khác với cái nhìn của Thiên Chúa

Chỉ luôn muốn sự thiện và nhìn người khác với cái nhìn của Thiên Chúa

Từ Thiên Chúa, chúng ta luôn luôn và chỉ học biết muốn sự thiện chứ không bao giờ muốn sự dữ. Chúng ta học biết nhìn người khác với cái nhìn của Chúa Giêsu Kitô: một cái nhìn của tình yêu thương khởi hành từ con tim và không dừng lại ở ngoại diện, nhưng vượt qua các dáng vẻ bề ngoài để tiếp nhận được các chờ mong sâu thẳm của người khác được lắng nghe và được chú ý.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 5 tháng 11-2012 để đọc kinh Truyền Tin với ngài.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay (Mc 12,28-34) tái đề nghị với chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu liên quan tới giới răn trọng nhất: giới răn của tình yêu thương: mến Chúa, yêu người. Các thánh, mà chúng ta vừa mới cử hành trong cùng một ngày lễ trọng, chính là những người tín thác nơi ơn thánh của Thiên Chúa và tìm sống theo luật nền tảng này. Thật thế, giới răn yêu thương có thể được thực thi một cách tràn đầy bởi người sống tương quan sâu xa với Thiên Chúa, y như đứa bé có khả năng yêu thương từ một tương quan tốt với cha mẹ nó. Thánh Gioan thành Avila, mà tôi mới tuyên bố là Tiến Sĩ Hội Thánh, viết ở đầu ”Khảo luận về tình yệu Thiên Chúa” của người như sau: ”Lý do mạnh nhất thúc đẩy con tim chúng ta yêu mến Thiên Chúa là nhìn lại tình yêu mà Người có đối với chúng ta… Hơn các lợi ích khác, điều này thúc đẩy con tim yêu mến; bởi vì người làm một điều lành cho người khác, thì cho họ cái gì mình có; nhưng người yêu thương, thì trao ban chính mình với tất cả những cái mình có, mà không còn lại gì khác để cho” (s. 1). Trước khi là một giới răn, tình yêu là một ơn, một thực tại, mà Thiên Chúa làm cho chúng ta nhận biết và sống kinh nghiệm, để như một hạt giống, nó có thể nảy mầm cả bên trong chúng ta và phát triển trong cuộc sống chúng ta.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ:

Nếu tình yêu của Thiên Chúa đã đâm rễ sâu trong một người, thì người đó có khả năng yêu thương cả người không đáng được yêu, y như Thiên Chúa yêu thương chúng ta vậy. Cha mẹ không chỉ yêu thương con cái khi chúng xứng đáng thôi, nhưng các ngài luôn luôn yêu thương chúng, dĩ nhiên cả khi các ngài làm cho chúng hiểu khi chúng sai. Chúng ta học được từ Thiên Chúa chỉ luôn luôn muốn sự lành và không bao giờ muốn sự dữ. Chúng ta học nhìn người khác với cái nhìn của Chúa Giêsu Kitô. Một cái nhìn phát xuất từ con tim và không dừng lại ở bề ngoài, nhưng đi xa hơn các dáng vẻ bề ngoài và đón nhận được các chờ mong của người khác: được lắng nghe và chú ý một cách nhưng không; tắt một lời một cái nhìn của tinh yêu thương. Nhưng cũng xảy ra điều ngược lại, đó là khi tôi rộng mở cho người khác như họ là, bằng cách đến gặp gỡ họ, sẵn sàng đối với họ, thì tôi cũng rộng mở cho việc hiểu biết Thiên Chúa, cảm nhận rằng Người hiên hữu và tốt lành. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không thể tách rời nhau và có tương quan hai chiều với nhau. Đức Giêsu đã không sáng chế ra tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, nhưng Người đã vén mở cho thấy chúng là một giới rằn duy nhất; và Người đã không chỉ vén mở nó bằng lời nói, mà nhất là bằng chứng tá của Người: Chính Con Người của Đức Giêsu và tất cả mầu nhiệm của Người nhập thể sự hiệp nhất của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, như hai cánh dọc và ngang của Thập Giá. Trong Bí tích Thánh Thể Người ban cho chúng ta tình yêu hai chiều ấy bằng cách tự hiến Chính Mình, để được nuôi dưỡng bởi Bánh này, chúng ta cũng yêu nhau như Người đã yêu chúng ta.

Anh chị em thân mến, qua sự bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta hãy cầu nguyện để mọi kitô hữu biết chứng tỏ đức tin của mình nơi một Thiên Chúa duy nhất với chứng tá trong sáng của tình yêu thương đối với tha nhân.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau đó Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Bằng tiếng Pháp ngài nói: Khi yêu mến Thiên Chúa duy nhất và yêu mến tha nhân như chính mình, chúng ta xây dựng sự hài hòa và bình an trong các gia đình, các cộng đoàn và đất nước của chúng ta. Để hiểu biết giới răn này của Chúa nhiều hơn, mỗi ngày anh chị em hãy tìm ra thời giờ đọc và suy niệm Lời Chúa. Như đối với các thánh, Lời Chúa sẽ là ánh sáng cho chiếu bước đi của anh chị em và là niềm vui cho con tim của anh chị em.

Chào đoàn tín hữu dòng Ba Phanxicô Slovenia Đức Thánh Cha cầu mong chuyến hành hương Roma khích lệ họ luôn là chứng nhân tươi vui của tình yêu Thiên Chúa trong suốt Năm Đức Tin này.

Bằng tiếng Đức ngài cầu chúc ánh sáng tình yêu của Chúa giúp mọi người nhận ra nơi tha nhân hình ảnh của Thiên Chúa và yêu mến họ. Vì đó là dấu chỉ Nước Chúa hiện hiện trong thế giới này.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

VIỆC LÀM CỦA ĐỨC TIN LÀ ĐỨC ÁI

 VIỆC LÀM CỦA ĐỨC TIN LÀ ĐỨC ÁI

Trong Do-thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do-thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do-thái. Người Do-thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Ðạo Do-thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?". Người đáp: "Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi" (Mc 12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Ðệ Nhị luật 6, 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật 19,18. Như vậy Chúa Giê-su đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: "Mến Chúa yêu người".

1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.

Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.

Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái.

Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.

Còn chúng ta, điều gì quan trọng nhất?

Có người cho đó là tiền: có tiền mua tiên cũng được. Mọi người đều cần tiền. Đồng tiền ảnh hưởng trên mọi sinh hoạt, chi phối mọi sinh hoạt, thậm chí còn là mục đích của mọi sinh hoạt. Điều quan trọng hơn cả là làm sao kiếm được nhiều tiền, càng nhiều càng tốt. Tiền bạc là thước đo sự thành công ở đời.

Có người cho đó là địa vị: làm thế nào để có chỗ đứng trong xã hội, được người khác kính trọng, phục tùng.

Người khác cho đó là tình yêu: chỉ có tình yêu mới làm cho người ta hạnh phúc. Đối với đôi nam nữ đang yêu thì tình yêu là quan trọng nhất.

Nhiều người cho đó là học vấn: đối với học sinh hay sinh viên, đỗ đạt là quan trọng nhất.

Đối với phần đông những người trưởng thành, thì điều quan trọng là vợ con, là gia đình, là nghề nghiệp, là nơi ăn chốn ở.

Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.

Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.

Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.

Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.

Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.

Chúa Giê-su đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.

2. Yêu tha nhân như chính mình.

Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giê-su đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gio-an quả quyết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Ðấng mà họ không thấy" (1Ga 4,20); “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối” (1 Ga 2, 9 ).

Đối với Chúa Giê-su, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.

Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.

Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến. Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì "Yêu mến là chu toàn lề luật" (Rm 13,10).

3. Việc làm của Đức tin là Đức ái.

Thánh Gia-cô-bê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phao-lô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).

Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.

Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: "Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13). Và Thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng: "Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì? Đức tin ấy có thể cứu họ được không? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói: "Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no" nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói: "Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi" (Gc 2,14-18).

Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Ki-tô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Ki-tô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. "Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy" (Mt 25,40): những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Ki-tô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi "trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ" (2 Pr 3,13 ; x. Kh 21,1 – Porta Fidei, Số 14).

Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Ki-tô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay (Số 7).

Năm Đức Tin sống Đức Ái, chúng ta cùng chung tay với Chúa Giê-su thực hiện Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,19).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

YÊU MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ THƯƠNG YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

 YÊU MẾN CHÚA HẾT LÒNG VÀ THƯƠNG YÊU NGƯỜI THÂN CẬN NHƯ CHÍNH MÌNH

Đoạn Phúc Âm Thánh Máccô hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và một trong các kinh sư, được cấu trúc một cách đơn sơ:
 
– a)  đặt câu hỏi nhập đề: " Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu" (Mc 12, 28),
 
– b) tiếp theo là câu trả lời của Chúa Giêsu: " Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực…Yêu mến người thân cận như chính mình" (Mc 12, 29-31).
 
– c)  câu trả lời của Chúa Giêsu được đón nhận một cách thích thú, người đối thoại bày tỏ ý kiến ngưỡng mộ và  lập lại: " Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng…Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều qúy hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ" (Mc 12, 33).
 
– d) và đến phiên Chúa Giêsu xác nhận giá trị sự hiểu biết của ông: " Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu " (Mc 12, 34).
 
Câu bình luận cuối cùng của Thánh Marco kết thúc đoạn Phúc Âm và cũng kết thúc chuổi các cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các người đại diện Do Thái giáo được khởi đầu từ những dòng dầu của chương 12 (x. Mc 12, 13): "Sau đó không ai dám chất vấn Người nữa" (Mc 12, 34b).
 
1 – Trong đoạn Phúc Âm Thánh Máccô tuờng thuật lại cuộc hội thoại hôm nay giữa Chúa Giêsu và vị kinh sư, điều nổi bậc làm chúng ta chú ý là thái độ của vị kinh sư đối với Chúa Giêsu. Thái độ của ông khác với cử chỉ của những người Pharisêu hay những người thân tín của vua Hêrôđê cử đến, được Thánh Máccô ghi lại trong các cuộc đối thoại trước đó: "Họ cử mấy người Pharisêu và mấy người thuộc phái Hêrôđê đến cùng Người, để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy" (Mc 12, 13).

Hoặc là đối với những người Sa đốc cũng vậy: "Có những người thuộc nhóm Sa đốc đến gặp Chúa Giêsu. Nhóm nầy chủ trương không có sự sống lại" (Mc 12, 18).
 
Thái độ không có gì là thân thiện của những nhóm người vừa kể cũng được Phúc Âm Thánh Mátthêu và Thánh Luca ghi lại: "Khi nghe tin Chúa Giêsu làm cho nhóm người Sa đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp lại với nhau. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Chúa Giêsu để thử Người" (Mt 22, 34-35). "Có mấy người thông thái luật kia đứng lên hỏi Chúa  Giêsu để thử Người " (Lc 10, 25).
 
Trong khi đó thì vị kinh sư  đối thoại với Chúa Giêsu không có gì là ác cảm đối với Người. Ông hỏi Người một cách thành thật và cảm nhận giá trị câu trả lời của Người:
 
"Thưa Thầy, trong mười điều răn, điều nào trọng nhất" (Mc 12, 28).
– "Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm. Thầy nói rất đúng" (Mc 12, 32).
 
Thái độ của vị kinh sư  đối thoại với Chúa Giêsu cho thấy không có gì  là ngụ ý bất chính bên dưới. Và câu cảm nhận giá trị  của ông, một thành viên có thẩm quyền của Do Thái giáo, cho thấy rằng lời giảng dạy của Chúa Giêsu không có gì ngược lại truyền thống tôn giáo của dân chúng Do Thái, đúng hơn là Chúa Giêsu giải thích Lề Luật Moisen theo chân lý, theo ý muốn của Thiên Chúa, đã được mạc khải ra trong Lề Luật: "Thưa Thầy hay lắm, Thầy nói rất đúng! Thiên Chúa là Đấng duy nhứt, ngoài Người ra không có Đấng nào khác" (Mc 12, 32).
 
Và cũng chính vì đó mà  đoạn Phúc Âm được dành không cho ai hơn là  Chúa Giêsu để cảm nhận định giá và  kết thúc: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu" (Mc 12, 34). Điều vừa kể cho thấy ngụ ý của Thánh Máccô muốn nói với vị kinh sư cũng như cho những ai đọc Phúc Âm Ngài: lời giảng dạy của Chúa Giêsu là những  giá trị tuyệt đối, đối với mọi người chúng ta.
 
2 – Câu hỏi dẫn nhập của vị  kinh sư, "Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu " ( Mc 12, 28) là câu hỏi có liên quan đến bối cảnh bàn cải lúc đó giữa các kinh sư và các thầy thông thái luật Do Thái về tầm mức quan trọng của các giới răn và theo thứ bậc quan trọng nào. Đọc bản dịch Cựu Ước tiếng Hy Lạp, chúng ta thấy dịch giả có cách dịch không xác quyết như: "Điều răn nào là điều răn thứ nhứt trong hết mọi sự?" Nếu đề cập đến Lề  Luật Môsê, câu hỏi trên có ý nghĩa là "là điều răn quan trọng nhất trong các điều răn" hay "điều răn cao cả nhất".
 
Quan trọng nhất hay cao cả nhất, bởi vì bản Lề Luật Môsê là bản văn thể hiện thánh ý Thiên Chúa, được diển tả ra bằng các giới điều luật. Nói cách khác,Thiên Chúa mạc khải thánh ý Ngài qua các điều răn trong Lề Luật. Và câu trả lời của Chúa Giêsu cho vị kinh sư là những gì Người lấy lại tư tưởng được sách Đệ Nhị Luật ghi lại, và chúng ta đã nghe ở bài đọc thứ nhất: "Hãy nghe đây, hởi Israel ! Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhứt. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em" (Dt 6, 4-5). Thánh Máccô không những chỉ trích lại câu 5, câu nêu lên điều răn: "Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em" (Dt 6, 5), mà còn ghi lại cả câu 4 của sách Đệ Nhị  Luật: " …Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất " (Dt 6, 4).
 
Cách trích lại cả hai câu vừa kể của Thánh Máccô từ sách Đệ Nhị Luật cho thấy ngụ ý của ngài. Không những giới răn đặt mỗi người chúng ta có bổn phận đối với  Thiên Chúa bằng tình thương và trách nhiệm cá nhân, "Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em", mà còn đặt mối tương quan tình thương và  trách nhiệm đó đối với Chúa trong nhãn quang đức tin của cộng đồng, bởi vì Thiên Chúa không phải chỉ là Thiên Chúa riêng rẻ của mỗi cá  nhân, mà còn là Chúa chung của cả cộng đồng nhân loại, "Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất ".
 
Và thương yêu Chúa bằng tình thương và trách nhiệm trong nhãn quang đức tin của cộng đồng là thương yêu Chúa và có trách nhiệm làm cho anh em của mình cũng biết để thương yêu Chúa như mình, vì  Chúa là Thiên Chúa duy nhứt, là nguồn hạnh phúc duy nhứt của cả nhân loại. Bổn phận truyền  giáo, loan báo cho anh em biết và  nhân chứng về Chúa để anh em cũng thương yêu, vâng phục và thờ phượng Người, là bổn phận của mỗi người đã được biết Chúa.
 
Còn nữa, câu (Dt 6, 4) sách Đệ Nhị Luật được Thánh Máccô trích dẫn còn nói lên đặc tính duy nhứt và độc quyền tình thương của con người phải có đối với Chúa: " Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất". Ngoài Thiên Chúa ra, không có một chúa nào khác. Cũng không có bất cứ của cải vật chất hay tinh thần nào khác là Chúa khiến con người phải thờ phượng và thương yêu. Quyền lực, của cải tài sản, trí khôn ngoan thông minh,  sắc đẹp, kể cả tình thương đôi lứa, gia đình không  thể là trung tâm điểm của cuộc sống con người và con người có thể hy sinh, cúng hiến cuộc sống mình cho những thực tại đó.
 
Tư tưởng đó được Chúa Giêsu giải thích để nhấn mạnh trong Phúc Âm Thánh Máccô: "Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi" (Mc 12, 30). Câu giải thích vừa kể hơi khác một chút đối với câu trong sách Đệ Nhị Luật: "Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ, hết sức anh em" (Dt 6, 5).
 
Tuy nhiên cả hai câu đều có  cùng một ý nghĩa, nói lên tình thương đối với Chúa là tình thương liên hệ, bao gồm đến tất cả mọi khả năng của con người. Không những chỉ thương yêu Chúa bằng tình cảm xôn xao trong tâm hồn, mà là quy động tất cả mọi khả năng con người chúng ta, từ "linh hồn" đến tình cảm "hết lòng", trí khôn , đến cả thân thể và sức lực thể xác " hết trí khôn và hết sức ngươi". Nói tóm lại, tình yêu dành cho Thiên Chúa là tình yêu trọn vẹn, từ thể xác  đến tinh thần, từ tài sản vật chất đến gia sản tâm linh, từ trí khôn đến sức lực thân thể.
 
3 – Đoạn sách Đệ Nhi Luật ở bài đọc thứ nhứt nói cho chúng ta mối tương quan giữa "mến yêu Thiên Chúa" và "tuân giữ mọi lề luật": "Như vậy, anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người, mà tôi truyền cho anh em, và anh em sẽ được sống lâu" (Dt 6, 2). Tình yêu nói lên nền tảng sâu xa, phát xuất từ nội tâm sâu thẩm của con người, đối với các động tác của con người, ý thức và  tự do chọn lựa tác động của mình để thực hành.
 
Tuân giữ lề luật mà  không được hướng dẫn bằng xác tín lý trí là  hành động chính đáng, bằng tình thương, chỉ là  động tác máy móc, trống rổng bên ngoài. Mối tương quan giữa " tình yêu " và " tuân giữ mọi lề luật " đó, được Chúa Giêsu lấy lại từ điều răn thứ nhứt, " ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng…" kết hợp với điều răn thứ hai, " yêu mến người thân cận như chính mình", liên tưởng đến tư tưởng trong sách Lêvi: "Các ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương người đồng loại như chính mình: Ta là Thiên Chúa" (Lv 19, 18).
 
Theo văn mạch của đoạn văn vừa kể thì "người thân cận" được đề cập đên trong Phúc Âm Thánh Marco là người cùng một " quốc tịch" (những người thuộc về dân ngươi ( Lv 19, 18) hay " đồng bào", nói theo ngôn ngữ Việt chúng ta, dĩ nhiên kể cả " đồng bào Thượng ",như chúng ta thường nói, mặc dầu có lẽ chúng ta không cùng  một chủng tộc. Ý nghĩa vừa kể được đề cập đến trong bản dịch Hy Lạp, được gọi là bản dịch "Bảy Mươi", danh từ "người thân cận" (plesion), ám chỉ những người không cùng quốc tịch Do Thái, nhưng cùng sống chung với dân Do Thái  bên ngoài khuôn viên lãnh thổ đặc thù của họ, cũng phải được xem là "người thân cận", không phân biệt quốc tịch, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, là "người đồng loại " (Lv 19, 18).
 
Và như vậy, dựa vào văn mạch Cựu Ước, thành ngữ "như chính mình" (Mc 12, 31; Lv 19, 18), có nghĩa là cũng phải lo lắng cho họ nhu cầu cần thiết, ước vọng và lợi thú của " người thân cận", như là chính mình đứng ra lo cho mình.
 
4 – Trong câu trả lời của vị  kinh sư, đặt tầm quan trọng của hai điều răn  được đề cập, liên quan đến các nghi thức và  lễ vật tế tự: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, là điều qúy hơn mọi lể toàn thiêu và hy lễ" (Mc 12, 33).
 
Nhận xét của ông thoát xuất từ  những gì các tiên tri đã dạy bảo trong Cựu Ước:
 
"Ông Samuel nói: Chúa có ưa thích các lễ vật toàn thiêu và hy lễ, như ưa thích người ta vâng lời Chúa không? Nầy, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu" (1 Sm 15, 22).
 
– "Chúa phán: Ngần  ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào có  nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ  bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên Ta chẳng thèm" (Is 1, 11).
 
– "Vì Ta muốn tình yêu chớ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là của lễ toàn thiêu" (Os 6,6).
 
Những đoạn văn vừa trích dẫn các sách tiên tri cho thấy không phải Thiên Chúa lên án hay từ chối của lễ dâng lên Người, cho bằng người đòi buộc con người vâng phục thánh ý Người:
 
* " …vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu" (1 Sm 15, 22).
  
* " …thích được các ngươi nhận biết hơn là của lễ toàn thiêu" (Os 6, 6).
 
Điều vừa kể cho thấy những gì Thiên Chúa đòi buộc nơi con người không thể hay không phải chỉ là những tác động thờ phượng, dâng cúng, tế tự bên ngoài, mà là sự dâng hiến bằng tác động và tâm tình sâu thẩm trong tâm hồn của mình cho Người, "..hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hêt sức lực" (Mc 12, 29). Trong lời bình luận cuối cùng của  đoạn Phúc Âm Thánh Marco hôm nay cho thấy Người nhìn nhận sự hiểu biết chính đáng và tâm hồn ngay thẳng của vị kinh sự đối thoại với Người: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu" (Mc 12, 34).
 
Nói một cách khái quát hơn, ai biết giải thích Thánh Kinh một cách đúng đắn, như vị  kinh sư đang đối thoại với Chúa Giêsu, hiểu được thánh ý Chúa Cha trong Sách Thánh và Lề Luật, sống vâng theo những gì Người muốn, là người sẽ "không còn xa Nước Thiên Chúa đâu". Và chắc chắn ghi lại câu khen ngợi vừa kể của Chúa Giêsu đối với vị kinh sư, Thánh Máccô viết một cách ẩn ý. Ẩn ý đó, chúng ta có thể làm sáng tỏ hơn bằng cách đặt câu hỏi: "Vậy thì vị kinh sư cần làm gì khác hơn, để tới được Nước Thiên Chúa, hội nhập vào và thực sự trọn hưởng được mọi hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa?"
 
Câu trả lời được Phúc Âm Thánh Máccô đặt sẵn trước mặt vị kinh sư: Chúa Giêsu đang đứng trước mặt ông! Đó là hội nhập vào Chúa Giêsu, bước theo Người,trở thành môn đệ Người, sống với Người, bởi vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nơi con người Chúa Giêsu Thiên Chúa làm cho vuơng quốc của Người hiện diện: "Còn nếu Ta dựa vào Thánh Thần của Thiên Chúa mà trừ qủy, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12, 28).
 
Triều đại Thiên Chúa đang được Chúa Cha mạc khải cho chúng ta nơi con người Chúa Giêsu. Qua những gì suy niệm, đoạn Phúc Âm Thánh Máccô hôm nay là một lời mời gọi mọi tín hữu Chúa Kitô :
 
– sống nhân chứng Phúc Âm, trở thành môn  đệ Chúa Giêsu, sống khắn khít với Chúa Giêsu, yêu thương Chúa Cha với tất cả con người của mình
 
– và yêu thương, lo lắng, tạo mọi tốt đẹp cho anh em như cho chính mình.

Nguyễn Học Tập

GIỚI LUẬT CĂN BẢN

 GIỚI LUẬT CĂN BẢN

CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN NĂM B (04/11/2012)
 [Đnl 6,2-6; Dt 7,23-28; Mc 12,28b-34]

Bản chất con người vốn dĩ là thích yêu hơn bị ghét, và nếu có yêu thì chỉ thích yêu mình hơn cả. Còn oái oăm hơn nữa là khi thù ghét người khác thì lại không muốn người ta thù ghét mình. Nếu không vì thế, các bậc thánh hiền đã không mất công truyền dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (己 所 不 欲 勿 施 於 人: Điều mình không muốn thì đừng làm cho người khác – Khổng Tử); “Ái nhân như ái thân” (身 : Yêu người như yêu mình – Nho giáo). Thiên Chúa thì còn hơn thế nữa, tình yêu Người dành cho nhân loại đã lên tới tuyệt đỉnh: Vì tình yêu, Người đã dựng nên loài người có nam có nữ; cũng vì tình yêu, Người đã ban cả Con Một làm giá chuộc muôn người. Và chính Con Một Thiên Chúa – Đức Giê-su Ki-tô – luôn luôn day: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7, 12); "Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15,12); "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 15).

Quả  nhiên tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người là vô  cùng vô tận. Ngay khi dựng nên vũ trụ, Đấng Sáng Tạo đã  vì tình yêu bao la (tình bác ái) mà dựng nên con người theo hình ảnh Người, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất (St 1, 28). Tuy vậy nhưng Thiên Chúa vẫn không quên con người là vật thụ tạo, để tồn tại và phát triển thì vẫn rất cần đến một thứ tình yêu giới tính (tình ái), và vì thế nên "Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người". Và rồi Thiên Chúa phán với con người có nam có nữ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất" (St 1, 27-28).  

Trong Thông điệp "Thiên Chúa là Tình Yêu", ĐGH Biển Đức XVI đã lý giải rất rõ ràng về Tình Yêu Thiên Chúa. Luận điểm của ĐGH đã đi từ Cựu Ước tới Tân Ước theo "nhãn quan tôn giáo" (thần học – triết lý siêu nhiên) để nhận định và lý giải Tình Yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Tuy nhiên, ngài vẫn không quên "nhãn quan triết học" (triết lý nhân sinh), khi ngài viết: "Chiều kích triết học đáng nêu ra trong hình ảnh Thánh Kinh này, và tầm quan trọng từ quan điểm lịch sử các tôn giáo, là một mặt chúng ta thấy mình đứng trước một hình ảnh rất siêu hình của Thiên Chúa: Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối và là nguồn mạch của mọi loài; nhưng mặt khác, chủ tể tác tạo hoàn vũ này – Logos, Đấng Thượng trí – lại đồng thời là một người biết yêu với tất cả đam mê của một tình yêu thật sự. "Eros" (ái tình: 愛 情) vì thế đã nên tột cùng cao quý, nhưng đồng thời thuần khiết đến độ nên một với "agape" (bác ái: 博愛)." (Tđ "Thiên Chúa là Tình Yêu", số 19).

Thời Cựu Ước, Luật Mô-sê đuợc ban bố cho dân thi hành có tới 613 điều (trong đó có 365 điều xấu cấm làm và 248 điều tốt dạy phải làm). Tuy nhiên, giới luật của Thiên Chúa được ghi trên bia đá và trao cho ngôn sứ Mô-sê trên núi Si-nai (Xh 20, 1-21) chỉ có 10 điều, trong đó bao gồm 3 điều về yêu mến Thiên Chúa và 7 điều còn lại là yêu thương đồng loại. Như vậy, rút gọn lại, chỉ còn 2 điều cơ bản: Mến Chúa + yêu người. Và để tìm ra 2 giới luật căn bản này thì lại thấy ở 2 sách khác nhau trong Cựu Ước: Điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật: "Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng, hết dạ, hết sức anh (em)" (Đnl 6, 5); điều răn sau trong sách Lê-vi:“Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Đến thời Tân Ước thì chính Đức Giê-su Ki-tô – hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu – nối kết lại thành một giới răn quan trọng nhất: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó" (Mc 12, 29-31).

Tuy rằng Đức Ki-tô vẫn nói đó là 2 điều răn, nhưng thực chất giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là "Tình Yêu" được thể hiện bằng 2 chiều kích: Mến Chúa + yêu người. Hai chiều kích đó vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau, đan quyện vào nhau, không thể tách rời. Thật vậy, không thể yêu Thiên Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại, không thể yêu tha nhân mà lại không yêu Thiên Chúa được. Vì thế ngay sau Lời dạy của Đức Ki-tô, thì chính kẻ đã thắc mắc – một kinh sư – cũng phải thốt lên: "Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ." (Mc 12, 32-33); và được Thầy Chí Thánh chúc  phúc: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!" (Mc 12, 34).

Thánh Gio-an đã xác quyết: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga 4, 20). Và thánh Phao-lô cũng đã viết: "Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5, 14); "Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô" (Gl 6,2). Ấy là chưa kể chính Đức Ki-tô trong lời dạy về ngày cánh chung cũng khẳng định: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Muốn yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và sức lực, thì phải yêu tha nhân như yêu chính mình. Và chỉ có yêu tha nhân như yêu chính bản thân mình mới là thực sự yêu mến Thiên Chúa.

Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã dựng nên con, đã ban cho con một tấm lòng, một trí khôn biết phân biệt thiện ác, biết yêu và ghét, và nhất là đã ban cho con sự tự do tuyệt đối, để con có thể tự quyết định cuộc đời của mình bằng cách lựa chọn một con đường. Con đã sai lầm trong lựa chọn để chỉ biết yêu mình trên hết, co mình vào cái vỏ ốc “ích kỷ” đến độ có thể “hại nhân” (“ích kỷ hại nhân”: lợi mình hại người). Cúi xin Chúa đoái thương, ban cho con một tâm hồn quảng đại, một tấm lòng bao dung độ lượng; xin cho con biết yêu người như yêu chính mình, biết coi tất cả mọi người (kể cả những người thù ghét con) đều là anh em một nhà (“tứ hải giai huynh đệ”), cùng con một Cha trên trời. Ôi! “Lạy Chúa từ nhân. Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người … Lạy Chúa! Xin hãy dạy con tìm yêu mến người hơn được người mến yêu, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết…” (Kinh hoà bình – TCCĐ). Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (Từ 10-29 đến 11-04-2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

(Từ 10-29 đến 11-04-2012)

Trích từ Xuân Bích VN

Yêu mến Giáo hội.

ĐHY Burke chỉ trích văn hoá bài luật trong xã hội và Giáo Hội.

Lập luận một chiều về Giáo Luật 1915.

Cặp vợ chồng Công giáo cứu 1,400 cô nhi người Trung Quốc.

Phái đoàn Vatican thăm các nơi sẽ tổ chức Ngày Thế Giới Giới Trẻ 2013

Hồng Kong, nơi tổ chức Diễn Đàn Châu Á về Phụng Vụ sắp tới.

Hai thuyên chuyển thẩm quyền chuyên môn ở Giáo Triều La Mã.

SSPX : Thêm một thời gian nữa để suy nghĩ.

Các GM Áo gợi ý những hạn chế về bất đồng.

Vị LM bất đồng người Ái Nhĩ Lan bị bắt phải im lặng, lên tiếng phàn nàn trên BBC.

Bổ nhiệm mới .

Ở một thời kỳ biến động, Chính Thống Cốp Ai Cập chọn một tân giáo trưởng.

Làn sóng di dân chậm lại.

Hồng y Vatican mở cửa cho các giáo hạt tòng nhân phái Lutheran (Tin Lành).

LM ở Baltimore giảng về sự ủng hộ hôn nhân đồng tính.

Ơn gọi linh mục giáo phận thấp kỷ lục ở Ái Nhĩ Lan.

ĐGM John Onaiyekan nhận giải hoà bình 2012 của Pax Christi.

Bắc Kinh sẽ không đáp lại lời kêu gọi đối thoại của Đức Thánh Cha.

Giáo phận Antigonish dàn xếp các vụ kiện lạm dụng tình dục.

Các tu sĩ Dòng Tên Uruguay lên án sự ủng hộ nạo phá thai của linh mục.

Chương trình Hội nghị khoáng đại các Giám Mục nước Pháp.

Đức Thánh Cha thúc giục tôn trọng các quyền của di dân.

 (Xem chi tiết . . . TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-29 đến 11-04-2012 )

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu nguyện cho các Hồng Y và Giám Mục qua cố

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cầu nguyện cho các Hồng Y và Giám Mục qua cố

VATICAN. Sáng 3 tháng 11-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ cầu nguyện cho 10 HY và 143 GM qua đời trong vòng 12 tháng qua, trong số các GM vừa nói có 2 GM Việt Nam.

Đó là Đức Cha Alexis Phạm Văn Lộc, nguyên GM Kontum, qua đời ngày 17 tháng 11-2011 và Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện, nguyên GM Vĩnh Long, qua đời tại Pháp ngày 13 tháng 5-2012.

Đồng tế với ĐTC có 30 hồng y, trước sự hiện diện của hơn 40 GM, và lối 1 ngàn tín hữu.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đề cao niềm tin nơi Thiên Chúa như câu trả lời cho vấn nạn sự chết. Ngài nói: ”Chúng ta trả lời bằng niềm tin nơi Thiên Chúa, bằng một cái nhìn với niềm hy vọng vững chắc dựa trên sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Như thế, sự chết dẫn vào sự sống, đời sống vĩnh cữu, không phải là một bản sao vô tận thời hiện tại, nhưng là một cái gì hoàn toàn mới mẻ. Đức tin nói với chứng ta rằng sự bất tử đích thực mà chúng ta mong ước không phải là một ý tưởng, hay một ý niệm nhưng là một quan hệ hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa hằng sống: đó là ở trong tay Chúa, trong tình thương của Chúa, và trong Ngài chúng ta trở nên một với tất cả các các anh chị em mà Chúa đã tạo dựng và cứu chuộc, đó là một sự hiệp nhất với toàn thể các thụ tạo”.
ĐTC nói thêm rằng: ”Niềm hy vọng của chúng ta dựa trên tình yêu của Thiên Chúa được chiếu tỏa rạng người trong thập giá của Chúa Kitô và làm vang dội trong tâm hồn lời Chúa Giêsu nói với người trộm lành: ”Ngày hôm nay anh sẽ ở cùng tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43). Đó chính là cuộc sống đạt tới mức viên mãn: là cuộc sống trong Thiên Chúa; một cuộc sống mà giờ đây chúng ta chỉ có thể thấy lờ mờ như khi ta nhận thấy trời thanh quang qua sương mù”.

ĐTC cũng nhắc đến tên 10 vị HY quá cố trong năm qua và nói đến các vị TGM và GM quá cố, đồng thời gợi lại bài Tin Mừng để nói rằng ”Khi nghĩ lại chứng tá của các anh em đáng kính này của chúng ta, chúng ta có thể nhận ra nơi họ những người môn đệ ”hiền lành”, ”từ bi”, ”có tâm hồn khiết tịnh”, hoặc là những người xây dựng hòa bình, mà đoạn Tin Mừng nói đến (Mt 5,1-12): Họ là những người bạn của Thiên Chúa, tín thác vào lời Chúa hứa, trong những khó khăn và cả trong những bách hại, các vị đã bảo tồn niềm vui đức tin, và giờ đây họ đang ở vĩnh viễn trong Nhà Cha, và vui hưởng phần thưởng thiên quốc, tràn đầy hạnh phúc và ân thánh.

”Thực vậy, các vị mục tử mà hôm nay chúng ta tưởng niệm, đã phục vụ Giáo Hội với lòng trung thành và yêu mến, đôi khi phải đương đầu với những thử thách nặng nề, miễn làm đảm bảo cho đoàn chiên được ủy thác cho các vị sự quan tâm và chăm sóc. Trong những năng khiếu và trách vụ khác nhau, các vị đã nêu gương tỉnh thức, khôn ngoan và tận tụy đối với Nước Chúa, và đóng góp phần qúy giá cho mùa hậu Công đồng, là thời kỳ canh tâm trong toàn thể Giáo Hội”.

Chiều tối ngày 2 tháng 11-2012, lễ các linh hồn, ĐTC đã xuống tầng hầm đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho các vị Giáo Hoàng quá cố được an táng tại đây. Ngài nói với những người hiện diện: ”Chúng ta hãy phó thác cho lòng từ bi của Chúa các vị có mộ tại đây và đang chờ ngày thân xác sống lại. Đặc biệt chúng ta cầu cho các vị Giáo Hoàng đã chu toàn công tác chủ chăn của Giáo Hội hoàn vũ để các ngài được tham dự phụng vụ vĩnh cửu trên thiên quốc” (SD 3-11-2012)
G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

 



 

Thành công lớn nhất trong đời người

Thành công lớn nhất trong đời người

(Suy niệm nhân Lễ Các Đẳng Linh Hồn 2012)

Thành công lớn nhất trong cuộc đời, có phải:

– Là những công trình khoa học để lại cho nhân loại?

– Là những tác phẩm văn học, nghệ thuật đồ sộ lưu danh tới nghìn thu?

– Là đôi ba toà lâu đài, là dăm bảy công ty, là nơi nào cũng có bất động sản mang tên mình?

– Là tài sản kếch xù cho con cháu tận hưởng?

– Là đã tạo nên cơ ngơi sự nghiệp vững chắc nơi xứ người?

– Là đã khẳng định tên tuổi mình trong danh mục các danh nhân thế giới?

– Là có con làm giám mục, linh mục, làm quan lớn, là cho con cái ăn học đến nơi đến chốn, là lo được cả cho con thành thất thành gia đàng hoàng trọng thể?

– Là đã xây dựng những ngôi nhà thờ đồ sộ, những công trình Giáo Hội thật khang trang, hoặc đã giúp đỡ cả trăm ngàn lượt người khốn khó?

– Là trăm ngàn việc lớn việc nhỏ giúp ích cho đời?

Có thể còn bao nhiêu định nghĩa về sự thành công ở đời này, con người ta theo đó chúc tụng nhau, truyền tụng cho nhau, và rút kinh nghiệm sống sao để được những thành công như thế.

Có vẻ như không có điều gì vô lý, khi nhìn những hoa trái của một đời người mà kết luận người ấy đã thành công, hay thất bại.

Có người còn cho rằng cuộc sống với những thành công như thế là có ý nghĩa, cho mình và cho đời: một cuộc sống thật đáng sống. Và khi con người ta chết đi, thì công trình của họ vẫn sống, vẫn giá trị. Bởi, có ai sống mãi trên thế gian để tận hưởng cái vinh quang cuộc đời, cái thành công của mình đâu. Sự chết vẫn đang rình rập, chờ đợi.

Vì sự chết cố định đó, mà đã có biết bao người lại cho rằng: sự chết là một thất bại chua chát cho con người. Bởi vì sự chết chấm dứt một đời người, sự chết làm dừng lại tất cả, làm tiêu tan tất cả. Sự chết thật tồi tệ!

Mặc nhiên ai cũng phải chấp nhận sự chết là một phần của sự sống con người. Vì tự ngàn xưa đến nay, sự chết không miễn trừ ai.

Vì thế, trước mắt chúng ta, bao nhiêu con người thành công đang nằm nhắm mắt xuôi tay, hư nát, biến tan thành tro bụi, tại  nghĩa trang này, tại nghĩa trang kia, trong lòng biển, trong lòng đất… như một sự thật kinh hoàng. Sự chết sẽ trả lời cho họ, cho chúng ta về sự thành công lớn nhất trong cuộc đời.

Đối với các Kitô hữu Công giáo, thì thiết tưởng:

Thành công lớn nhất trong đời người là được chết trong Chúa Kitô, để được sống lại với Người. Quả thật như thế! Chính vì sự chết là một thất bại của đời người, mà Thiên Chúa sai Con Một của người đến thế gian, loan báo Tin mừng ơn Cứu Rỗi và ban ơn Cứu Rỗi là sự Sống Lại Vĩnh Cửu dành cho những ai TIN vào con của Người.

Như vậy, nếu những con người thành công trên thế gian này, mà không chiếm hữu được sự thành công “được chết và được sống lại” thì rõ ràng là những thành công kia đã trở nên vô ích cho chính họ.

Ngược lại, đối với những con người sống ở đời xem như gặt hái toàn là những đau khổ, thất bại trong đời, mà nếu họ “được chết và sống lại với Chúa Kitô” thì quả là họ đã thành công, và thành công ấy không mất đi, không tiêu tan được.

Biết bao người đang nằm tại nghĩa trang này, trong đó có cả ông bà cha mẹ chúng ta, người thân của chúng ta đã đi qua một cuộc đời trong âm thầm đau khổ, trong chua chát bẻ bàng, có khi chẳng để lại cho đời điều gì tốt đẹp, tưởng như là thất bại ê chề, nhưng không, chúng ta tin là họ đã nắm chắc phần thành công lớn nhất trong cuộc đời vì họ đã ước ao được chết trong Chúa và sống lại với Người.

Tuy nhiên, phàm ai không còn những yếu đuối hư hèn, những lần vấp ngã vì yêu chuộng sự thế gian hơn yêu yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta nguyện xin Chúa cho các linh hồn được Chúa thứ tha và đem vào lòng Chúa hưởng Nước Chúa vinh quang muôn đời.

Hôm nay, trước các phần mộ của những người thành công, có cơ hội cho mỗi chúng ta đặt lại vấn đề ưu tiên số một cho những việc cần phải làm trong đời sống trần gian.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con có được thành công lớn nhất trong đời là được chết trong Chúa Chúa Kitô, trong ân nghĩa Thiên Chúa để được sống lại trong Nước Chúa.
Amen.

 

PM Cao Huy Hoàng

CÁC PHƯƠNG THẾ GIÚP ĐỠ CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

CÁC PHƯƠNG THẾ GIÚP ĐỠ CÁC LINH HỒN LUYỆN NGỤC

Bà Maria Simma chào đời ngày 21 tháng 2-1915 tại Sonntag thuộc Grosswalsertal (Vorarlberg) bên nước Áo. Bà là tín hữu Công Giáo thật đạo đức có lòng yêu thương cách riêng Các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội. Do đó Các Đẳng Linh Hồn được THIÊN CHÚA cho phép hiện về xin bà cầu nguyện, đền bù tội lỗi thay cho các ngài để các ngài được sớm hưởng Nhan Thánh Chúa. Sau đây là chứng từ của bà về các phương thế hữu hiệu nhất để giúp đỡ các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Hình.

1/ Thánh Lễ. Thánh Lễ là hy tế tối cao không gì có thể thay thế được.

2/ Các đau khổ đền bù. Mỗi một đau đớn thể xác hoặc tinh thần vui lòng chấp nhận đều có thể dâng cho Các Đẳng Linh Hồn.

3/ Kinh Mân Côi. Sau Thánh Lễ, kinh Mân Côi là phương thế hữu hiệu nhất để giúp Các Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Tội. Mỗi ngày có số đông Các Đẳng Linh Hồn được giải thoát khỏi Lửa Luyện Hình nhờ Kinh Mân Côi, nếu không chắc hẳn các ngài còn phải chịu đau khổ lâu năm dài đăng đẳng trong Luyện Ngục.

4/ Đàng Thánh Giá. Đi Đàng Thánh Giá cũng giúp ích rất nhiều, làm giảm bớt hình khổ cho các Đẳng Linh Hồn.

5/ Các Ân Xá. Các Đẳng Linh Hồn cho biết là Các Ân Xá có một giá trị lớn lao. Các Ân Xá là của bồi thường thích đáng được Đức Chúa GIÊSU KITÔ dâng lên THIÊN CHÚA là CHA Người. Kẻ nào lúc còn sống lãnh nhiều Ân Xá cho người quá cố thì cũng sẽ nhận được – hơn những người khác – ơn toàn xá trong giờ lâm tử, là ơn được ban cho mỗi tín hữu vào giờ lâm chung ”in articulo mortis”.

Thật bất nhân nếu chúng ta không biết lợi dụng kho tàng ơn thánh của Hội Thánh để giúp ích cho Cắc Đẳng Linh Hồn nơi Lửa Luyện Ngục. Cứ tưởng tượng rằng chúng ta đang đứng trước một ngọn núi đầy đồng tiền bằng vàng và chúng ta có thể tự do lấy bao nhiêu tùy ý để giúp những người nghèo không thể lấy được, mà chúng ta lại nhẫn tâm không chịu lấy để giúp đỡ người khác, thì hẳn chúng ta ác độc biết biết là chừng nào! Tại rất nhiều nơi người ta thấy việc sử dụng các Kinh hưởng ân xá giảm bớt rất nhiều. Cần phải khuyến khích các tín hữu Công Giáo ở khắp mọi nơi trở lại với việc đạo đức lãnh các Ân Xá và nhường lại cho Các Đẳng Linh Hồn.

6/ Làm việc bố thí và các việc lành phúc đức, đặc biệt là việc dâng cúng tiền của cho công cuộc truyền giáo cũng giúp ích rất nhiều cho Các Đẳng Linh Hồn.

7/ Thắp nến cũng giúp ích cho Các Đẳng Linh Hồn. Lý do là cử chỉ ưu ái này làm giảm nhẹ đau khổ tinh thần của Các Đẳng Linh Hồn. Lý do khác là khi thắp sáng các cây nến đã được làm phép sẽ đẩy lui bóng tối mà Các Đẳng Linh Hồn đang chìm ngập trong Luyện Ngục.

Một hôm có một bé trai 11 tuổi ở Kaiser hiện về xin bà Maria Simma cầu nguyện cho cậu. Cậu bị giam trong Lửa Luyện Ngục bởi vì khi còn sống, vào ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn 2-11, cậu nghịch ngợm thổi tắt các cây nến được thắp sáng trên các ngôi mộ nơi nghĩa trang. Rồi cậu cũng ăn cắp nến để chơi đùa.

Các cây nến được làm phép có một giá trị rất lớn đối với Các Đẳng Linh Hồn. Vào một Ngày Lễ Nến 2-2 bà Maria Simma phải thắp sáng hai cây nến để cầu cho một Linh Hồn, cùng lúc bà phải chịu các đau khổ để đền bù thay cho Linh Hồn này.

8/ Rảy Nước Thánh có công hiệu làm giảm bớt các đau khổ Các Đẳng Linh Hồn đang phải chịu. Một hôm bà Maria Simma rảy nước thánh cho Các Đẳng Linh Hồn. Bà liền nghe một tiếng nói: ”Xin rảy thêm nữa!”

Tất cả các phương thế không giúp ích cho Các Đẳng Linh Hồn cùng một phương cách như nhau. Nếu khi còn sống, người nào không quý chuộng việc tham dự Thánh Lễ, thì trong Lửa Luyện Ngục cũng không được hưởng bao nhiêu các ơn ích do Thánh Lễ mang lại. Nếu một người khi còn sống có lòng ác độc thì cũng không được giúp đỡ lúc bị giam trong Lửa Luyện Hình. Người nào phạm tội phỉ báng người khác thì phải đền bù cách nghiêm khắc các tội lỗi của họ. Nhưng kẻ nào có lòng tốt khi còn sống thì sẽ nhận được rất nhiều trợ giúp lúc bị giam trong Lửa Luyện Hình.

Một linh hồn lúc còn sống đã sao nhãng việc tham dự Thánh Lễ đã xin cử hành 8 Thánh Lễ để được giải thoát khỏi Lửa Luyện Ngục. Lý do là khi còn sống Linh Hồn này đã xin cử hành 8 Thánh Lễ cho một Linh Hồn khác nơi Lửa Luyện Hình.

… ”Lạy THIÊN CHÚA, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử. Ngài thấy cho: lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai. Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn chân thật, dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan. Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết. Xin cho con được nghe tiếng reo mừng hoan hỷ, để xương cốt bị Ngài nghiền nát được nhảy múa tưng bừng. Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm. Lạy THIÊN CHÚA, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Thánh Vịnh 51(50) 3-14).

(”Le anime del Purgatorio mi hanno detto”, Maria Simma, Edizioni Villadiseriane, Ottava edizione, trang 40-42)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
 



 

KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

KINH LẠY CHA CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN

Câu chuyện xảy ra tại đền thánh Đức Mẹ MARIA ở Einsiedeln bên Thụy Sĩ vào ngày Lễ Nến mùng 2 tháng 2 năm 1968. Đền thánh rất được các tín hữu Công Giáo năng lui tới kính viếng, hành hương.

Nhưng ngày mùng 2 tháng 2 năm 1968 là một ngày trong tuần và trời mùa đông thật lạnh. Đền thánh vắng vẻ không một bóng người. Bà Aloisia Lex đến viếng đền thánh cùng với mấy người bà con. Đang quỳ cầu nguyện, bỗng bà đưa mắt nhìn lên bàn thờ chính và trông thấy một Nữ Tu cao tuổi đang đứng đó. Nữ Tu mang y phục đan sĩ nhưng y phục trông thật cổ xưa như thuộc về mấy thế kỷ trước. Bà Aloisia liền tiến về phía Nữ Tu và được Chị trao cho một tờ giấy Kinh. Bà nhận lấy và lơ đãng bỏ vào túi. Cùng lúc ấy, một hiện tượng lạ lùng diễn ra. Cửa nhà thờ bỗng mở toang và bà Aloisia trông thấy một đoàn ngũ tín hữu hành hương, đông vô kể, tiến vào nhà thờ. Các tín hữu ăn mặc thật nghèo nàn, và chân đi lướt trên mặt đất, giống như những bóng ma. Đoàn tín hữu hành hương dài như bất tận cứ tiếp tục nối đuôi nhau tiến vào nhà thờ. Trong nhà thờ, có một vị Linh Mục đang đứng đó và hướng dẫn cho các tín hữu biết phải đi đâu.

Trông thấy đoàn tín hữu đông vô kể bà Aloisia tự hỏi:
– Làm sao đền thánh nhỏ bé lại có thể chứa hết một đoàn người hành hương đông đảo đến như thế?

Vừa thắc mắc tự hỏi bà vừa quay mặt đi hướng khác, trong khoảnh khắc bằng thời gian thắp lên một ngọn nến. Nhưng khi nhìn lui thì bà lại thấy nhà thờ trống trơn, vắng vẻ y như trước!

Lòng đầy kinh ngạc, bà Aloisia Lex chạy đến hỏi những người bà con thì họ cho biết là không trông thấy một ai kể cả vị Nữ Tu cao tuổi! Bà Aloisia bối rối không biết mình mơ hay thật. Nhưng khi cho tay vào túi thì bà lại rút ra tờ giấy Kinh mà vị Nữ Tu đã trao cho bà. Tờ giấy Kinh là bằng chứng bà không mơ! Đây là lời Kinh do chính Đức Chúa GIÊSU KITÔ đã dạy thánh nữ Mechtilde đọc, trong một lần Ngài hiện ra với thánh nữ.

Thánh nữ Mechtilde (1241-1299), người Đức, được đặc ân trông thấy Đức Chúa GIÊSU hiện ra nhiều lần. Và một trong những lần hiện ra ấy, Đức Chúa GIÊSU dạy cho chị Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục.

Tiếp đó, cứ mỗi lần đọc Kinh LẠY CHA này, thánh nữ Mechtilde lại trông thấy đông đảo các Linh Hồn trong Lửa Luyện Ngục được Chúa rước về Trời. Sau đây là Kinh LẠY CHA cầu cho các Đẳng Linh Hồn trong Lửa Luyện Hình.

Lạy CHA chúng con ở trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Thiên Quốc, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không yêu mến CHA đủ, cũng không tôn vinh CHA cân xứng, đúng với địa vị của CHA, Đấng vừa là CHÚA vừa là CHA, đã vì lòng nhân lành mà nhận các Linh Hồn làm con của CHA. Trái lại, các Linh Hồn vì phạm tội mà xua đuổi CHA ra khỏi lòng họ, nơi mà CHA vẫn hằng mong muốn ở lại.
Để đền bù các lỗi phạm này, con xin dâng CHA tình yêu và lòng kính trọng mà Con CHA nhập thể, đã bày tỏ cùng CHA, suốt thời gian sống tại thế. Con cũng xin dâng CHA mọi việc hãm mình, mọi đền bù mà Con CHA đã làm và chính nhờ các việc lành này mà Con CHA tẩy xóa và chuộc đền các tội lỗi của loài người. Amen.

Chúng con nguyện danh CHA cả sáng. Con nài van CHA, lạy CHA Chí Lành, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tôn vinh danh thánh CHA cách cân xứng. Các Linh Hồn đã nhiều lần gọi tên CHA cách bất cẩn và đã làm ô danh tên gọi Kitô-hữu bằng đời sống bất xứng của mình.
Để đền bù tội lỗi các Linh Hồn đã phạm, con xin dâng lên CHA mọi danh dự mà Con Chí Ái CHA đã làm cho danh CHA được cả sáng, bằng lời nói và bằng việc làm, suốt trong thời gian tại thế của Con CHA. Amen.

Nước CHA trị đến. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn tìm kiếm cũng không hề ước mong cho Nước CHA trị đến, ước mong với lòng nhiệt thành và chú tâm đến Nước CHA, là Nước duy nhất nơi được an nghỉ đến muôn đời.
Để đền bù cho sự hờ hững làm việc lành của các Linh Hồn, con xin dâng lên CHA niềm mong ước dạt dào của Con Chí Thánh CHA, Ngài không ngừng cầu mong cho các Linh Hồn trong Luyện Ngục được mau mau vào hưởng hạnh phúc trong Nước của Ngài. Amen.

Ý CHA thể hiện dưới đất cũng như trên Trời. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn đặt ý muốn của họ dưới thánh ý của CHA; họ đã không chu toàn thánh ý CHA trong mọi sự và rất thường khi, họ chỉ sống và hành động theo ý muốn của họ mà thôi.
Để đền bù cho sự bất tuân của các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, con xin dâng lên CHA sự thuần thục hoàn hảo của Trái Tim đầy tình yêu của Con Chí Thánh CHA đối với thánh ý CHA và sự tuân phục sâu xa nhất mà Con CHA bày tỏ cùng CHA khi Con CHA vâng phục CHA cho đến chết trên Thánh Giá. Amen.

Xin CHA cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì các Linh Hồn đã không luôn luôn nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể với lòng ao ước đủ; các Linh Hồn cũng thường nhận lãnh Bí Tích này với sự lo ra chia trí và không có lòng mến, hay đôi lúc còn dám nhận lãnh cách bất xứng, hay tệ hại hơn nữa, đó là chểnh mãng trong việc nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể.
Để đền bù mọi tội lỗi trên đây mà các Linh Hồn đã vấp phạm, con xin dâng lên CHA sự thánh thiện cao cả và sự trầm mặc lớn lao của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Chúa chúng con, Con Chí Thánh CHA, cũng như tình yêu nhiệt thành mà qua đó Đức Chúa GIÊSU đã ban cho chúng con hồng ân khôn sánh này là bí tích Thánh Thể. Amen.

Xin CHA tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vì đã vấp ngã phạm bảy mối tội đầu, cũng như không muốn yêu thương cũng chẳng tha thứ cho kẻ thù của mình.
Để đền bù cho mọi tội lỗi trên đây, con xin dâng lên CHA lời kinh đượm đầy tình yêu mà Con Chí Thánh CHA đã thân thưa cùng CHA, xin CHA thứ tha cho kẻ thù của Ngài, lúc Ngài bị đóng đinh trên Thánh Giá. Amen.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA tha tội cho các Linh Hồn nơi Luyện Ngục, bởi vì, rất thường khi các Linh Hồn đã không chống trả lại các cơn cám dỗ và các dục tình nhưng đã đi theo kẻ thù của điều lành và đã chìu theo các quyến rũ của xác thịt.
Để đền bù cho các tội lỗi trên đây dưới mọi hình thức mà các Linh Hồn nơi Luyện Ngục đã phạm, con xin dâng lên CHA chiến thắng vinh quang mà Đức Chúa GIÊSU KITÔ Chúa chúng con đã chiến thắng trên thế gian này, cũng như đời sống rất thánh thiện, việc làm và những lao cực, sự đau khổ và cái chết nhục nhã của Ngài. Amen.

Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Con cầu xin CHA, lạy CHA Chí Nhân, xin CHA hãy giải thoát chúng con khỏi mọi biến loạn, nhờ công nghiệp của Con Chí Ái CHA và xin dẫn đưa chúng con, cũng như dẫn đưa các Linh Hồn nơi Luyện Ngục vào trong Nước CHA, Nước của vinh quang vĩnh cửu, giống y như CHA vậy. Amen.

(”STELLA MARIS”, mensuel d'informations religieuses, Novembre/1993, trang 5)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
 



VÙNG TÂY CUBA CẦN NHIỀU NĂM ĐỂ TÁI THIẾT CÁC TÀN PHÁ CỦA BÃO SANDY

VÙNG TÂY CUBA CẦN NHIỀU NĂM ĐỂ TÁI THIẾT CÁC TÀN PHÁ CỦA BÃO SANDY

SANTIAGO DE CUBA: Bà Mariliza Sanchez, tổng thư ký Caritas Cuba, cho biết dân chúng miền tây Cuba phải cần rất nhiều năm mới tái thiết được các tàn phá do trận bão Sandy gây ra trong các ngày qua.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo CNA Hoa Kỳ hôm 29 tháng 10-2012 bà cho biết trận bão đã gây ra nhiều thiệt hại tại các thành phố Holguin, Guantanamo và Santiogo de Cuba. Ngoài hàng ngàn nhà cửa bị sập hay thiệt hại, các cánh đồng trồng cà phê và chuối lá cũng bị hư hại, đường dây điện thoại và các cơ sở hạ tầng khác bị phá hủy. Bà Sanchez cũng cho biết quân đội đang giúp dọn dẹp đường lộ. Cần phải mất nhiều năm mới tái hồi phục được các thiệt hại do trận bão gây ra. 90% các nhà thờ trong tổng giáo phận Santiago cũng như nhiều tu viện và nhà xứ bị hư hại nặng. Tổ chức Caritas cố gắng trợ giúp trong khả năng có thể, nhưng các nhu cầu và các thiệt hại qúa to lớn. Dù vậy Giáo Hội cần làm tất cả những gì có thể để xoa dịu các khổ đau của người dân, và đó là điều phải làm ngay lập tức. Giáo Hội tích cực cộng tác với chính quyền tại những nơi có thể trong công tác cứu trợ. Các linh mục trong các vùng bị thiệt hại nặng nhất đang dành ưu tiên cho các gia đình cần được trợ giúp nhất trong việc phân phát thực phẩm, chăn mền, quần áo và các vật dụng cần thiết do Caritas cung cấp. Trong một vài vùng các cha đã tổ chức bếp để nấu cháo phân phát cho các nạn nhân. Caritas Cuba đã nhận được trợ giúp của Hoa Kỳ, Thụy Sĩ và Đức.

Cho tới nay bão Sandy đã khiến cho 190 người chết, trong đó có 90 người tại Mỹ, một số người bị mất tích, rất nhiều người bị thương và hàng triệu gia đình không có điện (CNA 31-10-2012).

Linh Tiến Khải – Vietvatican

CÁC TỔ CHỨC CÔNG GIÁO BỒ ĐÀO NHA TỐ CÁO TRÌNH TRẠNG NGHÈO TÚNG GIA TĂNG

CÁC TỔ CHỨC CÔNG GIÁO BỒ ĐÀO NHA TỐ CÁO TRÌNH TRẠNG NGHÈO TÚNG GIA TĂNG

LISBOA: Liên đoàn công nhân và phong trào giới trẻ công giáo Bồ Đào Nha tố cáo tình trạng tụt hậu xã hội khiến cho nan nghèo túng, bất an và bạo lực gia tăng trong nước.

Trong một thông cáo chung phổ biến hôm 30 tháng 10-2012, các phong trào Liên hiệp công nhân công giáo, Phong trào công nhân kitô, và Phong trào công nhân trẻ công giáo đã ghi nhận tình trạng thoái hóa xã hội và các giá trị của cuộc sống chung. Việc khinh thường lao động và các quyền của giới công nhân gây thiệt thòi cho các anh chị em nghèo túng nhất. Họ cũng phê bình chính quyền bất lực trong việc chống lại nạn gian tham hối lộ và trốn thuế, nạn lẫn lộn lợi nhuận cá nhân với các phục vụ công cộng. Các tệ nạn này chứng minh cho thấy tinh thần vô trách nhiệm trong việc điều hành tài chánh của giới chức ngân hàng. Và thông cáo kết luận: ”Chúng ta tất cả là giới trẻ, người lớn, người già và trẻ em, chúng ta có bổn phận ý thức về các thực tại này, suy tư trở lại các giá trị mà chúng ta muốn dùng để xây dựng xã hội và hành động một cách đúng đắn” (FIDES 30-10-2012)

Linh Tiến Khải – Vietvatican

VIẾNG THĂM NGHĨA TRANG VÀ CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI QÚA CỐ TRÊN MẠNG

VIẾNG THĂM NGHĨA TRANG VÀ CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI QÚA CỐ TRÊN MẠNG

MANILA: Tín hữu Philippines, đặc biệt những người sống tại hải ngoại, có thể viếng thăm các nghĩa trang, nghe suy tư và cầu nguyện cho những người đã chết trên mạng trong ngày lễ Các đẳng linh hồn và suốt tháng 11.

Đây là sáng kiến do Văn phòng truyền thông của Hội Đồng Giám Mục đưa ra trong dip lễ Các Thánh và lễ các Đẳng linh hồn mùng 1 và mùng 2 tháng 11. Đức ông Pedro Quintorio, giám đốc văn phòng truyền thông, cho biết sáng kiến này đã nảy sinh từ ý thức có trên 8 triệu người Philipines hiện sống và làm việc tại nước ngoài, và con số này gia tăng mỗi năm. Đa số họ là tín hữu công giáo sốt sắng thực hành đạo, và là một tiềm lực rao truyền Tin Mừng rất lớn đối với các Giáo Hội trong các nước tây âu cũng như trong các nước Arập. Sự kiện không thể viếng thăm các người thân đã qua đời trong các ngày đầu tháng 11 là một đau khổ rất lớn đối với họ. Chính vì thế các Giám Mục Phi đã tìm ra giải pháp thành lập một địa chỉ trên mạng goi là Undas online, có nghĩa là các lễ tháng 11, trong đó các tín hữu Philipines di cư có thể viếng thăm người thân qúa cố tại các nghĩa trang trong toàn nước. Đức ông Quintorio cũng cảnh cáo các chính trị gia không được lợi dụng trưng các biểu ngữ tranh cử năm 2013 gần các nghĩa trang, và diễn thuyết tranh cử trong các nhà thờ (FIDES 31-10-2012).

Linh Tiến Khải – Vietvatican