TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 02-01 đến 02-06-2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 02-01 đến 02-06-2013

Trích từ XBVN

  • Nhân bản hoá và Phúc Âm hoá giống như hai tay của cùng một thân thể.

  • Đức Giám Mục Sako được bầu làm tân Thượng phụ Giáo Hội Can-đê.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Kỷ niệm 40 năm Hiệp Hội Kinh Thánh Công Giáo Hồng Kông.

  • Người ám sát Đức Giáo Hoàng nói anh ta làm theo lệnh giáo chủ Khomeini.

  • Cuốn sách nhỏ mới về ơn gọi vận động sự nâng đỡ thiêng liêng.

  • Đức Biển-Đức khích lệ sáng kiến “Một người trong chúng ta” vì thai nhi.

  • Những chiếc chuông mới được làm phép ở Nhà Thờ Đức Bà.

  • Vị giám mục với 150 « bà vợ ».

  • HĐGM Hoa Kỳ, 4 cộng đồng Tin Lành đồng ý công nhận phép rửa của nhau.

  • Hai linh mục bị ám sát trong chưa đầy 15 ngày.

  • Giám mục cấm SSPX sử dụng các nhà thờ Công Giáo.

  • Năm Đức Tin : Các Gia đình hành hương về Roma.

  • Kazakhstan : Phái đoàn liên tôn ở Vatican.

  • An tử,“Thông điệp sai lầm”.

  • Quốc Hội Anh phê chuẩn hôn nhân đồng tính.

  • Một Thượng Hội Nghị được triệu tập ngày 11 tháng 02 tại Vatican

  • Bảo vệ các cặp đồng tính về mặt pháp luật không đòi buộc phải có hôn nhân.

  • Giáo trưởng Cope chỉ trích ảnh hưởng Hồi giáo trên Hiến pháp Ai Cập.

  • “Tin – Cậy – Mến”: sự hiện diện của Giáo Hội tại Hội Chợ Sách quốc tế ở Đài Bắc.

(Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 02-10-2013 )

TRÁI CÂY NGÀY TẾT

TRÁI CÂY NGÀY TẾT

Mùa Xuân là mùa của hoa. Những ngày gần Tết, đi đâu cũng thấy hoa, từ phố thị đến thôn quê. Hoa đủ dáng vẻ, lắm sắc màu. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Hoa đua nhau khoe sắc, rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ của mùa Xuân.

Dưa hấu quý tỵ

Mùa Xuân cũng là  mùa của trái cây ngon ngọt khắp mọi miền đất nước. Trái cây đủ loại, tươi màu thắm sắc và giàu ý nghĩa, làm nên hương vị những ngày Tết.

 

Theo quan niệm của người phương Đông xưa, thế giới được tạo nên từ  "ngũ hành": Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Tư tưởng cùng hình ảnh "ngũ hành" hội nhập sâu sắc vào đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của các dân tộc phương Đông với rất nhiều biểu hiện. Một trong những độc đáo của hội nhập “ngũ hành” là mâm ngũ quả ngày Tết của người Việt Nam. Mâm ngũ quả truyền thống thường chỉ gồm 5 loại quả, được xếp kiểu hình tháp lên đĩa to hoặc mâm, đặt trên bàn thờ. Mâm ngũ quả gồm 5 loại quả có 5 màu sắc khác nhau, thể hiện ước muốn của người Việt là, năm mới sẽ đạt được ngũ phúc lâm môn: phú, quý, thọ, khang, ninh (giàu có, sang trọng, sống lâu,khỏe mạnh và bình an). Ngày nay, cuộc sống hiện đại cùng sự giao lưu phong tục làm cho mâm ngũ quả ít nhiều biến đổi: số quả có thể nhiều hơn 5, cách xếp tự do hơn, trang trí hoa lá, cắm nến để tạo ánh sáng, kết những dây đèn điện tử nhiều màu xung quanh… Tất cả các loại quả trong dịp Tết đều có thể đem bày: chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, trứng gà, hồng xiêm, táo… Mỗi loại quả mang một ý nghĩa riêng: nải chuối, phật thủ như bàn tay che chở; bưởi, dưa hấu căng tròn, mát lành hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn; hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt.

Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.

Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, ớt, bưởi, quất. Có thể thay thế bằng cam, quýt, trứng gà (lêkima), hồng xiêm. Chuối xanh cong lên ôm bưởi mang ý nghĩa đùm bọc. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người.

Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý "cầu sung vừa đủ xài". Người dân Nam bộ quan niệm rằng: “Tết đến trong gia đình không có cặp dưa hấu đỏ thì bất thành Tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc”.

Ngoài mâm ngũ qủa, phong tục ngày Tết thường có thêm một nét đẹp nữa là mỗi nhà nấu một nồi chè đậu xanh đêm giao thừa và dựng cây nêu, sáng Mồng Một cắt đôi quả dưa hấu. Ngày đầu năm mới, ngày thiêng liêng nhất, chủ gia đình bổ quả dưa hấu. Mọi người hồi hộp đợi chờ. Ruột đỏ tươi vị ngọt dòn, chia đều mỗi người một miếng, đưa vào miệng thưởng thức vị “Ngọt thanh như đường cát, mát chẳng kém đường phèn”, nghe mát lạnh khắp châu thân. Ngâm nga bài thơ “Dưa hấu ngày xuân” của Thi sĩ Lê Ngọc Hồ, lòng bừng lên niềm vui ngọt ngào mùa xuân.  
 

Bên chậu mai vàng chị xẻ dưa
Hạt  đen, ruột đỏ đẹp dư thừa
Đàn em xúm xít chia phần lớn
Cươì  rộ reo hò xuân nắng thưa
 
Ngũ  quả mẹ bày trông quá xinh
Gia nhân theo chị cúng trên đình
Trái dưa xanh biếc no tròn đẹp
Bàn  độc sơn, vàng sơn mới tinh 
 
Cha gọt nâng niu chậu thuỷ tiên
Cùng mâm ngũ quả cúng gia tiên
Trái dưa lớn nhất trông mà thích
Phiên chợ ba mươi chọn, mẹ hiền 
 
Đẹp biếc vỏ xanh dưa hấu đỏ
Truyện xưa tích cũ  một An Tiêm
Xin dâng hoàng phụ, lòng cung tiến
Dưa đảo đầu xuân trái ngọt hiền.

 
Không rộn ràng như mai vàng, không ồn ào như đào thắm, dưa hấu hiện diện cách khiêm tốn trên bàn thờ như nó vốn là. Với hình thể tròn lẳn, ruột đỏ vỏ xanh, căng tròn mọng nước, dưa hấu là hình tượng của những gì viên mãn, là hình ảnh của sức sống ẩn kín được bày trang trọng trên các bàn ăn, bàn thờ.
 
Màu đỏ của trái dưa hấu tượng trưng cho tài lộc, may mắn. Bổ trái dưa mang màu sắc đỏ thắm ai ai cũng mừng vui, kỳ  vọng cho công việc làm ăn cả năm được hưng thịnh. Nhưng nếu trái dưa nó không mang màu tài lộc thì sao, màu vàng, màu trắng chẳng hạn ?
 
Người Việt đều biết nguồn gốc trái dưa hấu từ câu chuyện cổ  tích Mai An Tiêm. Màu đỏ là hình ảnh của sự  may mắn, thành công; màu xanh ẩn chứa niềm vui hạnh phúc bên trong; vị ngọt thanh gợi cho mọi người nhớ tình thân của bạn bè, gia đình.

Ngày đầu năm, bổ  đôi trái dưa ngọt ngào, người cắt nhát dao đầu tiên phải là người đứng đầu trong nhà. Miếng dưa bổ  ra được chuyền tay mọi người với hy vọng các thành viên trong gia đình luôn gắn kết yêu thương nhau như miếng dưa được xẻ ra từ một trái. Màu sắc của dưa hấu nói lên ít nhiều sự hưng thịnh cửa gia chủ. Bởi thế khi mua dưa hấu người ta phải thận trọng, vì nếu mua phải trái dưa èo uột, màu sắc nhạt nhẽo thì năm ấy coi như xui xẻo từ ngày đầu; ngược lại, trái dưa mọng nước, đỏ tươi, ngọt lịm thì coi như bốc trúng quẻ tốt. Người mua dưa hấu bày Tết chọn rất kỹ từ màu sắc sáng, tròn đều, trái cân đối không lớn và nhỏ quá. Còn người buôn bán dưa hấu để bày Tết hầu hết họ phải lặn lội về tận các ruộng, rẫy trồng dưa, chọn đồng, chọn dưa, đặt cọc trước và giá luôn đắt hơn loại thường, tự họ chăm sóc trước cả tuần và không tưới nước nhiều cho đến ngày thu hoạch. Họ tính toán chi ly để bảo quản dưa Tết luôn luôn đẹp. Vận chuyển dưa hấu phải lót rất nhiều rơm xung quanh từng trái, xe chạy thật chậm, chăm sóc còn hơn vận chuyển trứng, tránh trầy xước, xe phải chạy vào ban đêm hoặc trời râm mát… tất cả đều phải công phu, cẩn trọng. Mua dưa mà như bốc quẻ xăm, quẻ bói đầu năm vậy. Hồi hộp và hy vọng. Ngày xưa, các bà các cụ thường căn cứ vào tài khéo khi mua dưa, khi bổ dưa để chọn vợ cho con trai mình.
 
Ngày Tết, sau những bữa cơm chán ngán vì thịt mỡ, bánh chưng, kẹo ngọt…  thì không gì có thể hơn miếng dưa hấu ngọt lịm. Cầm trên tay miếng dưa như chiếc thuyền rồng đáy xanh, sơn son mịn cát lóng lánh, điểm vài nốt hạt đen. Cắn miếng dưa nhẫn nha cho dòng nước ngọt của đất từ từ trôi qua cổ họng mát rượi. Người ta nói, thơm nhất, ngọt nhất, ngon nhất là những trái dưa trồng trên miền đất cát, nắng gió quanh năm. Càng khắc nghiệt thời tiết, trái dưa càng tiết mật ngọt cho đời. Vì ưu ái mà Trời đã thưởng cho dân nghèo sống vùng đất khô cằn hạn hán thứ quả lạ đời này, như ngày nay Phan Thiết nổi tiếng với trái Thanh Long chỉ ngon ngọt nơi những miền đất khô khan nắng hạn.
 
Nhìn mâm ngũ quả trên bàn thờ, trái dưa hấu nổi bật với những chữ Hán nền vàng nổi bật trên nền xanh: Phúc, Lộc, Thọ, Cát… thật  ý nghĩa. Những chị những cô khéo tay còn có  thể là biến hoá thành những mảnh vuông tròn để người thưởng lãm không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt. Dưa hấu có thể là một vị thuốc dân gian, giải khát, vị hàn thanh… gặp lúc quá chén chếnh choáng, không có gì giã rượu nhanh bằng dưa hấu.

Một trong những yếu tố mang tới hạnh phúc cho con người là có sức khỏe tốt, ít bệnh tật. Thiên tài khoa học Albert Einstein có nhận xét: “ A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy.” Một cái bàn, một cái ghế, một đĩa trái cây và một cây đàn violin; con người còn cần gì thêm nữa để được hạnh phúc!

Ngày nay với công nghệ  hiện đại, người ta làm ra mâm ngũ quả bằng nhựa. Hoa giả, trái dỏm đặt trên bàn thờ tiên tổ nghe sao mà nhức lòng và thiếu thành tâm.

 

29 Tết Qúy Tỵ
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ

ĐẦU NĂM HÁI LỘC

ĐẦU NĂM HÁI LỘC

Hái Lộc ngày Tết

Ngày Tết Nguyên Đán là thời gian quan trọng nhất trong năm, được coi như ngày thánh, con cái dù ở nơi xa cũng cố gắng trở về sum họp dưới mái gia đình để ăn Tết. Giao thừa là lúc mọi người phải có mặt đầy đủ để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ được mọi sự lành trong cả năm mới.

Ngoài ra, người ta còn kiêng cữ trong cách sống, không dám nói hoặc làm một điều gì sai trái để tạo ra xúi quảy cho cả năm.

I. LỜI CHÚC TẾT ĐẦU NĂM

Trong những ngày đầu năm, người ta cầu chúc nhau rất nhiều điều cao quí, rất đa dạng, tùy theo từng hoàn cảnh. Thường người ta chúc nhau : phát tài phát lộc, bách niên giai lão, buôn may bán đắt, thăng quan tiến chức, vạn sự như ý; hay nói một cách tổng quát người ta chúc nhau được ngũ phúc : Phú, Quí, Thọ, Khanh, Ninh.

Ngoài ra, cũng có những câu chúc có vẻ văn hoa như :

Trẻ mãi không già, mặn mà nhan sắc,
Vạn sự cát tường, toàn gia hạnh phúc,
Vui trong sức khỏe, trẻ trong tâm hồn, khôn trong công việc, tuyệt vời trong tình yêu.

Có những câu dài hơi hơn như :

Vạn sự như ý, tỷ sự như mơ, cuộc đời như thơ, tình yêu như nhạc, coi tiền như rác, xem bạc như rơm, chung thủy với cơm, không màng chi phở.

Hoặc chúc mọi người một cách rộng rãi hơn :

Chúc mọi người một bầu trời sức khỏe, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình hạnh phúc.

Thế nhưng, lời cầu chúc tốt đẹp và đầy đủ nhất vẫn là lời chúc “ Phúc. Lộc, Thọ.

Phúc là mong được nhiều hạnh phúc,

Lộc là mong được nhiều của cải lợi lộc,
Thọ là mong được sống lâu mạnh khỏe.

Để tượng trưng cho Phúc, Lộc, Thọ, người ta dùng hình ảnh ba ông già.

Ông Phúc được thể hiện dưới dạng một người giầu có, nét mặt viên mãn hiền hậu, với những chi tiết về hình thể biểu lộ quí tướng như khối hình đầy đặn, tai to, mũi thẳng, hàm nở… mình mặc áo chùng, tay bồng một đứa trẻ mũm mĩm tượng trưng cho con cháu ngoan hiền.

Ông Lộc được thể hiện dưới dạng một viên quan đầu đội mũ phốc hay mũ cánh chuồn, mình khoác áo vân cẩm, dáng đứng nghiêm trang, khuôn mặt uy nghi quắc thước, bởi vì người xưa quan niệm rằng sự thành đạt của con người được thể hiện trên con đường công danh chức tước nhiều bổng lộc.

Ông Thọ được thể hiện dưới dạng một ông già hói đầu, râu tóc bạc phơ, mình mặc áo chùng, tay cầm gậy trúc, trên đầu gậy có treo mấy quả đào tiên, một biểu tượng nói lên sự trường thọ.

Hôm nay, chúng ta đặc biệt chúc nhau chữ LỘC, từ lộc vật chất đến lộc thiêng liêng, đó là LỘC THÁNH do Thiên Chúa ban cho : “Đó là Phúc Lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128,4) hoặc câu khác : “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng. Bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128,2).

II. TỤC HÁI LỘC TRONG NGÀY TẾT

1. Tục hái lộc nơi chùa miếu

Theo tài liệu của ông Phan Kế Bính, ông Toan Ánh và ông Nhất Thanh thì sáng sớm ngày mồng một Tết, người ta đi lễ chùa miếu để xin Thần Phật gia ơn độ trì cho năm mới.

Thường ai cũng mua vài nén hương để khấn vái trước bàn thờ, hoặc đông người quá thì dâng hương ở ngoài sân. Có người mua về vài ba nén hương gọi là “hương lộc” đem về cắm vào bát hương Táo quân ở nhà. Lửa đỏ ở mấy nén hương là lộc Phật Thánh ban biểu tượng cho sự thịnh vượng.

Cũng có nhiều người không xin hương lộc, thì lễ xong ra sân vườn chùa miếu bẻ lấy một cành cây, tục gọi là “HÁI LỘC” đem về gọi là Lộc Thánh.

Tục hái lộc ở các chùa miếu ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần Phật ban cho năm mới. Cành lộc thường là một cành đa nhỏ, cành đề, cành si là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc.

Năm mới lúc trở về có tài lộc mang theo vừa chỉ sự may lành, vừa chỉ sự vui sướng.

2. Tục hái lộc nơi thánh đường

Ngày Mồng Một Tết, ngày linh thiêng nhất trong năm, ngày cầu bình an cho năm mới. Nhiều giáo xứ tổ chức hái lộc đầu xuân.

Lộc thánh là những câu Lời Chúa được tuyển chọn trong Thánh Kinh. Lộc được treo trên những cành mai vàng rực rỡ đặt trên cung thánh. Sau bài giảng, Cha chủ tế hái lộc thánh đầu xuân, rồi đến các tu sĩ nam nữ, đến đại diện các hội đoàn và đại diện các gia đình lên hái lộc.

Sau Thánh lễ, mọi người ra về mang theo niềm vui và hạnh phúc, bình an và Ơn thánh. Gia đình sum họp trước bàn thờ đọc kinh nguyện, dâng một năm mới lên Chúa và Đức Mẹ. Người cha hoặc người mẹ trịnh trọng mở lộc thánh đọc cho cả nhà nghe. Mỗi lộc thánh hợp với từng gia đình. Lộc thánh được đặt trang trọng trên bàn thờ, dưới chân thánh giá. Câu chuyện ngày Tết đi thăm nhau thường hàn huyên về lộc thánh Lời Chúa mỗi nhà.

Lời Thánh vịnh 27 nói lên niềm cậy trông : “Tôi vững vàng tin tưởng, sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào, hãy cậy trông vào Chúa” (Tv 27).

Vững vàng tin tưởng và trông cậy vì người Kitô hữu xác tín vào lời Chúa Giêsu dạy : “Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).

Không phải bây giờ người ta mới hái lộc. Từ ngàn xưa, thuở địa đàng đã có truyện con gái đi hái lộc đầu xuân rồi.

Đọc chương 3 sách Sáng thế, chúng ta thấy rõ có một cô gái đẹp ở Vườn Diệu quang, cô được hái lộc ở mọi cây, trừ cây biết lành biết dữ ỡ giữa vườn. Lộc cây ấy không phải lộc tốt mà có hại. Nhưng cô đã liều lĩnh hái lộc cây ấy và lập tức cái lộc cây ấy quật ngã cố. Đó là cô EVÀ đã hái lộc cây trái cấm. Cô đã không hái được lộc thánh mà chỉ hái được lộc của tội lỗi, độc hại. Cô đã đánh mất hạnh phúc trong ngày đầu xuân.

Nhưng bù vào đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế cứu chuộc loài người bằng Cây Thập Giá mà lộc của cây này lại đem phúc trường sinh. Lộc đây là lộc thánh ban muôn vàn ơn phúc. Cũng từ đó, Chúa lại còn ban cho chúng ta một thứ lộc quí giá nữa, đó là “Bí tích Thánh Thể”. Chúa phán : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời”.

III. HÃY TẬN HƯỞNG LỘC THÁNH CHÚA BAN

Hôm nay chúng ta không đến chùa miếu để khấn Thần Phật như người ta thường làm, mà đến nhà thờ để ca tụng Chúa là Chúa của Mùa Xuân và xin Người ban cho ta được nhiều ơn lành hồn xác. Chúng ta hãy hái lộc thánh đem về để cho cả năm Quý Tỵ này được may mắn.

Tờ Lộc thánh mà chúng tôi tặng anh chị em hôm nay là lời Chúa Giêsu đã chào thăm các môn đệ sau khi Người sống lại : “Bình anh cho các con” (Ga 20,19.26).

Cùng với tờ Lộc thánh, chúng tôi chúc anh chị em một câu thơ mà ngươi ta chúc nhau trong ngày đấu xuân, coi như món quà tặng cho nhau :

Mai vàng nở khắp quê nhà
An khang thịnh vương món quà đầu năm

“An khang thịnh vượng” cũng là một trong 5 lời chúc căn bản nhất : Phú, Quý, Thọ, Khang. Ninh. “An khang thịnh vượng” là một lời chúc từ chữ Hán, dùng để chúc nhau vào những dịp Tết hay ăn mừng tân gia..

Chữ “An” diễn tả sự bình an, yên ổn, an vui, an bình.
Chữ “Khang” diễn tả sự mạnh khỏe, tươi tốt.

Vậy chúc cho nhau “an khang thịnh vượng” là chúc cho người ta được sống trong bình an, thư thái, mạnh khỏe và phát đạt. Do đó, chúng tôi chúc anh chị em được anh bình cả hồn lẫn xác trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Sự an bình chúng tôi muốn chúc cho anh chị em không phải là anh bình nhất thời, tạm bợ mà là thứ an bình mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã chúc cho loài người trong đêm Người giáng sinh :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người Chúa thương.
(Lc 2,14)

Sự bình an Thiên Chúa ban cho gồm cả hai phương diện :

– Về thể xác : an lành, may mắn, không tai họa, không chiến tranh.
– Về tâm hồn : được ơn nghĩa cùng Chúa, sống kết hợp thân mật với Người.

Điều chúng tôi cầu chúc hôm nay đặc biệt là an bình trong tâm hồn, một thứ an bình tròn đầy và vĩnh cửu. Xã hội có an bình mà lòng không có thì kể là không có an bình thực sự, và ngược lại, xã hội tuy đầy chiến tranh loạn lạc nhưng lòng vẫn được an bình thư thái.

Điều kiện muốn có an bình trong tâm hồn là phải có một tâm hồn trong sạch : “Ai có lòng trong sạch ấy là phúc thật vì sẽ được xem thấy mặt Đức Chúa Trời vậy”. Ai phạm tội là chống lại Chúa, chống lại Chúa là thù nghịch với Chúa, gây chiến với Chúa, như thế làm sao có sự bình an trong tâm hồn được ?

Để kết thúc, xin chúc anh chị em được hưởng sự bình an trường cửu ngay ở đời này nếu anh chị em thực hiện Lời Chúa trong bài Tin mừng Thánh lễ hôm nay : “Trước hết, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,34).

Tân niên thánh đức bao ân phúc
Xuân nhật an hòa mãi phúc vinh

 

LM Giuse Đinh Lập Liễm

 

Giao Thừa Đoàn Tụ

Giao Thừa Đoàn Tụ

Xuân Đức Tin

Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.

Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.

Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ , thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.

Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời… Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.

Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.

Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho “con tạo xoay vần” theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.

Thế nê, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:

– Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
– Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
– Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
– Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
– Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
– Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
– Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
– Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
– Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại

Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Thợ Mộc Dạy Ngư Phủ Đánh Cá

 Thợ Mộc Dạy Ngư Phủ Đánh Cá

Khỏi cần nói bạn cũng thừa biết rằng Chúa Giê-su không phải là một người xuất thân từ một gia đình làm nghề đánh cá, Ngài không phải là một ngư phủ, mà là một người thợ mộc ở làng Na-za-rét (Mc 6:3).  So với kinh nghiệm đi biển của ông Si-môn Phêrô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê, kinh nghiệm về chuyện đánh cá, đánh tôm, đi biển, vá lưới … của Chúa Giêsu chả ăn thua gì cả, kể cả chuyện bơi lội, Chúa Giêsu cũng không biết luôn, bằng chứng là có một lần Ngài đã đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ”(Mt 14: 25; Mc 6:48).  Nếu biết bơi thì Ngài đã chẳng phải … đi bộ trên mặt nước mà đến với các môn đệ, bạn đồng ý không?

Vậy mà trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca tường thuật lại rằng, người thợ mộc mang tên Giêsu lại chỉ cho anh ngư phủ chuyên nghiệp có tên Si-môn là hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc5:4) thì bạn thấy có…lạ không?  Chưa hết, ông Si-môn lại răm rắp tuân theo lời hướng dẫn của người thợ mộc Giêsu nữa mới là lạ chứ lại!  “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.  Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc5:5).  Tại sao vậy?  Lý do nào đã khiến cho ông Phêrô, một ngư phủ kinh nghiệm đầy mình mà lại ngoan ngoãn vâng theo lời khuyên của một anh thợ mộc như vậy?  Đọc chương 4 trong Tin Mừng của thánh Luca, tôi thấy có một lý do rất thuyết phục, đó là bởi vì ông Simôn đã cảm nghiệm được rằng Chúa Giêsu không phải là một người tầm thường, bởi vì Lời của Ngài có một sức mạnh, có một uy quyền và có một hiệu quả vô cùng to lớn. Thật vậy! 
  • Ông đã nghe người ta bàn tán rằng, Chúa Giêsu có những lời giảng dạy uy quyền và thu hút đến nỗi mọi người [ở Na-da-rét] đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người (Lc 4:22).
  • Ông đã từng chứng kiến Chúa Giêsu dùng LỜI để trừ quỷ ở trong hội đường Ca-phác-na-um.  Lời của Chúa uy quyền đến nỗi người ta phải thốt lên rằng:  "Lời ấy là thếnào?  Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!" (Lc 4:36).
  • Ông chính là người đã chứng kiến tận mắt, nghe tận tai Chúa Giêsu dùng Lời để chữa bệnh:  "Đức Giêsu ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt [của bà mẹ vợ ông Simôn] biến mất!" (Lc 4:39).
Vì thế cho nên mặc dù Chúa Giêsu không phải là một ngư phủ lành nghề, mặc dù Ngài không có kinh nghiệm về biển như ông, nhưng ông tin rằng, Lời của Ngài phán ra sẽ mang lại hiệu quả cao cho ông, vì thế cho nên ông mới ngoan ngoãn, và mau mắn chèo thuyền ra khơi thêm một lần nữa để thả lưới bắt cá.
 
Nếu bạn đồng ý với tôi rằng, chính vì ông Si-môn đã có những cảm nghiệm sâu sắc về sức mạnh, về quyền lực và những hiệu năng của LỜI Chúa như vậy, cho nên ông mới dễ dàng vâng nghe theo Lời khuyên của Ngài:  "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” thì bạn và tôi cũng hãy cố gắng và chịu khó lắng nghe và tuân phục những Lời dạy dỗ và khuyên răn của Chúa qua trung gian Mẹ Giáo Hội, qua những lời giảng dạy của Đức Giáo Hoàng, của các Đức Giám Mục, của các linh mục, của ông bà, cha mẹ …về những vấn đề liên quan đến đức tin và luân lý, bởi vì chính Đức Giêsu đã trao cho các ngài nhiệm vụ nhiệm vụ chuyển Lời răn dạy của Ngài đến chúng ta: "Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt28:19-20).
  • Con cái phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ, chăm sóc và phụng dưỡng các ngài khi các ngài đau yếu, về già và những lúc bệnh tật…
  • Tránh xa những cám dỗ của xì ke, ma tuý, của cờ bạc rượu chè, của phim ảnh xấu xa trên internet…  Không được quan hệ, hay ăn ở với nhau trước khi làm đám cưới, không được ly dị, không được khinh thường hoặc ngược đãi nhau…
  • Không được thực hiện hay ủng hộ cho những việc như ngừa thai, phá thai, trợ tử…Trái lại mọi người phải tôn trọng và nỗ lực bảo vệ sự sống, dù đó chỉ là một phôi thai hay là một thân xác già yếu bệnh tật, hấp hối trên giường bệnh, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là chủ sự sống [và] quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội.(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #2258 & 2270).
  • Phải đối xử công bằng và bác ái đối với tất cả mọi người, không được có thái độ hay những hành động kỳ thị, xem thường người khác vì khác màu da, khác văn hoá, khác sắc tộc hay vì khác biệt về địa vị trong xã hội hoặc khác biệt về trình độ văn hoá…bởi vì làm như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa "(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #1935).
  • Phải có trách nhiệm, phải có tinh thần liên đới, và phải quan tâm đến những người nghèo khó, đến những anh chị em đang lâm vào những cảnh khó khăn, hoạn nạn…Tình liên đới là một đức tính nổi bật của Ki-tô giáo.  Tình liên đới thúc bách chúng ta chia sẻ của cải vật chất và hơn nữa, cả của cải tinh thần (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #1948).
Bạn thân mến, ông bà ta thường nói:  "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư!" Nếu tôi và bạn bất tuân những lời răn dạy của ông bà cha mẹ thôi mà mình bị hư hỏng như vậy thì khi chúng mình bất tuânLời răn dạy, khuyên bảo và dạy dỗ của Chúa thì sao?  Thê thảm lắm bở ivì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi ”(Tv119:105) không tuân theo Lời Chúa là khiđó cả thân xác và linh hồn của tôi và của bạn sẽ đi trong bóng tối, trong bóng đêm của lo âu và sợ hãi.  Mà khi tôi và bạn bước đi trong bóng đêm và tối tăm như vậy thì chúng mình sẽ bọ rơi vào hố diệt vong là chuyện dĩ nhiên, cá không ăn muối cá ươn, ta cãi Lời Chúa, linh hồn ta tiêu vong là như vậy đấy!
 
Bạn có muốn thu hoạch được những mẻ cá giống như ông Si-môn nhiều đến nỗi hầu như rách cả lưới không?  Nếu bạn muốn thì hãy noi gương ông Si-môn, không lý luận, không cãi cối, và cũng không hồ nghi… nhưng hãy lắng nghe và thực hành theo Lời Chúa dạy qua những vị trung gian của Chúa ở trần gian này.  Nhưng trước tiên, bạn và tôi phải gần gũi, phải tiếp cận nhiều hơn với Kinh Thánh bằng cách siêng năng đọc Kinh Thánh mỗi ngày, chỉ cần 5 phút một ngày thôi, và trước khi đi lễ Chúa Nhật, bạn hãy chịu khó đọc những bài chia sẻ Lời Chúa trên các trang web Mỹ cũng như Việt, và nếu có lớp KinhThánh nào đó mở ở giáo xứ hay ở địa phận, thì bạn đừng bỏ lỡ cơ hội, hãy ghi danh đến học hỏi ngay, nhiều cái lợi lắm!  Thậtđấy!
 
Cuối cùng, trước thềm năm mới Quý Tỵ, tôi xin cầu chúc bạn và gia quyến cũng như cộng đoàn của bạn sức khoẻ dồi dào, lanh lẹ như rắn, gặp nhiều may mắn, bình an và vạn sự như ý…Chúa!  Amen!
 
Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

Chúa Nhật 5 thường niên năm C

Chúa Nhật 5 thường niên năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, nếu ta để ý khi người ta tán dương, chúc tụng hay cám ơn ai, thì họ biểu lộ bằng sự lặp đi lặp lại một điệp từ nào đó; chẳng hạn: “Hoan hô Đức Thánh Cha, hoan hô Đức Thánh Cha, hoan hô Đức Thánh Cha” hay “Cám ơn, cám ơn và xin cám ơn”. Thế thì, qua bài đọc 1 của Chúa Nhật thứ 5 năm C này, ta thấy lời tung hô của các thiên thần đối với Thiên Chúa: “Thánh, Thánh, Thánh”. Lời tung hô oai hùng mạnh mẽ đến nỗi nền nhà rung chuyển và nhà cửa đều đầy khói. Với các thiên thần mà còn phải tung hô Thiên Chúa như vậy thì huống hồ là con người thì phải tung hô Thiên Chúa hơn nữa biết bao.

     Con người đại diện cho toàn thể muôn loài muôn vật trong vũ trụ để cất tiếng tung hô: Thánh Thánh Thánh, đây là những lời tán dương, chúc tụng, ngợi khen dâng lên Đấng chí Thánh chí tôn uy nghi cao cả.  Đứng trước sự uy nghi thánh thiện như thế con người thấy mình dơ bẩn và phải chết đi được vì nỗi sợ hãi, như lời tiên tri Isaia đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi ! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp” (Is 6,5). Tiên tri ý thức được con người yếu đuối tội lỗi, dơ bẩn nên cần được thanh tẩy bằng quyền năng của Thiên Chúa. Với hình ảnh mà Tiên tri Isaia được Thần Sốt Mến gắp cục than đỏ từ bàn thờ tới đặt nơi miệng tiên tri để tẩy rửa, thánh hóa và thiêu đốt, lúc đó tiên tri mới dám thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”.

     Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, mỗi người chúng ta phải ý thức được sự thánh thiêng của Thiên Chúa và sự phàm tục dơ bẩn của con người; Ý thức được Thiên Chúa quyền năng thánh thiện để ta có thái độ phủ phục suy tôn, biết nói lên lời tạ ơn Chúa là một hồng ân của tôi, chứ không phải là việc bị ép buộc hay miễn cưỡng. Ý thức được tình trạng con người tội lỗi của mình cần được ngọn lửa mến yêu của Thiên Chúa thiêu đốt, và thánh hoá, như Thiên Chúa đã thánh hoá môi miệng tiên tri Isaia xưa, có như thế chúng ta mới dám mở miệng ca khen, chúc tụng Thiên Chúa, như lời Kinh Tiền Tụng thứ 4, linh mục đọc: “Được tạ ơn Chúa là một hồng ân, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ”.
 
     Vậy thì, thưa qúi ông bà anh chị em, mỗi khi chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, mỗi khi chúng ta tới nhà thờ dâng thánh lễ, đó không phải là một niềm vui, hạnh phúc và vinh dự cho chúng ta đó hay sao; bởi vì không ai đứng vững trước nhan Thánh Chúa, và cũng không ai xứng đáng mở miệng ra để cao rao Danh Thánh Chúa; nhưng Ngài cho phép chúng ta, chúng ta mới tới trước thánh nhan, mở miệng ra để chúc tụng ca khen danh Chúa, mà  chúng ta không bị tiêu diệt. Nếu như ngày xưa tiên tri Isaia đã trông thấy Thiên Chúa các đạo binh, để rồi tiên tri phải thốt lên: “Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi dơ bẩn” thì ngày hôm nay, qua con mắt đức tin chúng ta không những nhìn thấy Chúa qua thánh lễ, rồi lại được đứng vững trước nhan Thánh của Chúa để dâng lời ca khen, chúc tụng Chúa, và còn hơn thế nữa là, ta còn được đụng chạm đến một sự cực Thánh vô cùng, đó là Mình Thánh Chúa khi chúng ta rước lễ, thế mà chúng ta vẫn không bị tiêu hủy; trong khi chúng ta còn nhơ bẩn bởi biết bao tội lỗi; cho nên ta lại càng phải tạ ơn Chúa bao ngàn lần hơn nữa, vì Thiên Chúa đích thân đến với chúng ta qua Đức Giêsu.
 
     Chúa Giêsu đến để rao giảng nước Thiên Chúa và ban bố mọi ơn lành. Ngài đã từng giảng dạy dân chúng trong các hội đường, ở núi đồi hay dọc theo bờ biển, như bài Tin Mừng của thánh Luca thuật lại trong Chúa Nhật thứ 5 năm C này. Vì dân chúng đông đúc chen lấn nhau, nên Ngài đã phải mượn chiếc thuyền đánh cá của ông Simon, dùng thuyền làm diễn đàn để giảng dạy, rồi cũng từ chiếc thuyền đó, đã diễn phép lạ qua mẻ lưới bắt được nhiều cá mà những người rành nghề chài lưới không thể tưởng nổi; vì mẻ lưới hoàn toàn ngược lại với những tính toán của những con người đầy kinh nghiệm trong nghề chài lưới. Họ thức trắng đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Quả thật, họ đã giặt lưới trong sự chán chường mệt mỏi, nản chí vì thất bại; thế mà khi nghe Chúa Giêsu bảo đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá. Lẽ ra trong bối cảnh này, con người dễ phản ứng ngược lại, thế mà ở đây, ông Simon đã mau mắn đáp trả, trước hết qua sự kể lại công việc bắt cá đêm qua, vất vả khó nhọc thâu đêm: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.” Với câu trả lời này hàm chứa ẩn ý mà không nói ra là: “Chúng tôi đây là những tay sành nghề chài lưới, còn ông đâu phải là nghề biển mà lại bảo chúng tôi thả lưới giờ này, thật là nực cười”. Ở đây, ông Simon không bảo thủ với sự lão luyện nghề chài lưới của mình, trái lại, ông đã vứt bỏ tất cả và ngoan ngoãn thưa: “Vâng lời Thầy, tôi xin thả lưới”. Nghĩa là: vì con tin Thầy, con sẽ làm theo lời Thầy chỉ dạy. Chính vì sự vâng lời tuyệt vời của ông Simon, nên phép lạ liền xẩy ra, mẻ cá chưa từng thấy bao giờ; một mẻ lưới mà cả hai chiếc thuyền chở đầy đến nỗi gần chìm.
 
     Thấy sự việc như thế khiến ông Simon sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !” Với khoảng khắc, Simon nhận ra con người Giêsu đang ở trước mặt ông là ai? Đồng thời, ông  nhận ra tình trạng con người của ông. Đây là một sự nhìn nhận tuyệt vời của sự gặp gỡ đích thực, hay nói cách khác, đây là một cuộc gặp gỡ nhảy vọt, đổi nghề. Sự gặp gỡ của Simon ở đây không phải chỉ gặp gỡ một con người bằng xương bằng thịt như bao người khác, một con người có tên là Giêsu, quê ở Nazarét, và hơn thế nữa, con người này chính là Con Thiên Chúa. Cho nên, lúc này đây, mọi suy nghĩ và hành động của Phêrô đều biến đổi bởi một sự mến phục suy tôn, và cảm thấy mình không xứng đáng được gần Chúa, nên ông xin Đức Giêsu hãy xa ra ông; “Lạy Thầy, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !”
 
     Nhận ra sự bé bỏng, thấp hèn tội lỗi của mình, nên Simon hoàn toàn tín thác vào Chúa, qua việc: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” nên chi phép lạ mẻ cá lạ lùng. Tiếp theo là lời mời gọi của Chúa đến với Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” Với lời mời gọi thuộc về Chúa hoàn toàn để Chúa thực hiện trên con người mỏng giòn, yếu đuối tội lỗi này, trở nên cột trụ vững vàng của Giáo Hội, qua sự đổ máu ra chết vì Thầy mình, nhưng Phêrô cảm thấy dù chết vì Thầy Giêsu, mình cũng không xứng đáng, nên chi Simon Phêrô xin được chết bằng cách đóng đinh ngược đầu.
 
     Với con người của Thánh Phêrô, là một mẫu gương cho mọi người sống vâng nghe tuân phục, vì biết bao lần ta sống không biết vâng nghe và chẳng tuân phục. Biết bao lần ta cậy dựa vào tài năng, thành công hay kinh nghiệm nào đó của chúng ta. Biết bao lần ta bực bội, và muốn buông xuôi tất cả khi ta vất vả lao nhọc mà không có hy vọng gì; thì hôm nay, qua gương của Thánh Phêrô: “vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Cho dẫu, nhiều khi việc làm của chúng ta xem ra vất vả qua những công việc bình thường, như việc đánh bắt cá của Phêrô xưa. Cho dẫu, nhiều khi ta thất vọng trong công việc, hay qua những người này người kia, nhưng khi ta biết thưa xin vâng và để cho Chúa điều khiển đời ta thì mọi sự sẽ xoay chiều, mọi sự sẽ trở thành niềm vui,  bình an và hạnh phúc.
 
     Lạy Chúa, ngày hôm nay biết bao sự chán chường mệt mỏi bởi công ăn việc làm, bởi gia đình, bởi bệnh tật, bởi cảnh bất công, bởi sự dữ, quyền lực của sa tan… Đứng trước bao điều đó làm cho chúng con dễ chán nản, thất vọng, có khi muốn buông xuôi tất cả. Xin cho chúng con luôn xác tín vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng con giải quyết được tất cả mọi hoàn cảnh, miễn là chúng con biết tin tưởng, phó thác hoàn toàn trong tay Chúa. Noi gương thánh Phêrô xưa đã thưa với Chúa: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” thì hôm nay, mỗi người chúng con dù ở trong hoàn cảnh nào cũng cần thưa với Chúa: “Vì lời Thầy, con xin làm”. Xin Mẹ Maria, thánh cả Giuse và toàn thể các thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng con.  Amen.
 
Linh mục Phaolo Cao Thế Bình SDD.

SUY NIỆM LỜI NGÀI CN V TN C

SUY NIỆM LỜI NGÀI CN V TN C

“Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,”

“Em về trăng mọc bến chân như.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lk 5: 1-11

Gót nhỏ lên thuyền, gót của em. Người em dân dã, vẫn cứ về. Em về trăng mọc, bến chân anh. Người anh mộc mạc, xưa theo Chúa.

Trình thuật thánh Luca, nay ghi về chuyến lên thuyền để đánh bắt rất nhiều cá. Cá ở đây, gồm truyện kể về quà tặng Chúa ban, không chỉ cho mỗi dân con được chọn, mà cả con dân ngoài Đạo, cũng vẫn được. Trước nhất, là về Galilê, và sự thể đánh bắt, vào thời đó.

Biển hồ Galilê, là hồ nhân tạo duy nhất ở Israel. Hồ này dài đến 55 cây số, chạy vòng quanh bến bãi, ở nơi đây. Hồ này sâu từ 25m đến 45m, nhưng mực nước lại thấp hơn mặt nước biển đến 200m. Hồ nhân tạo, nhưng đây là chốn lý tưởng để đánh bắt đủ mọi loại cá. Với dân chài, thì Biển hồ Galilê là nơi tốt nhất để bắt cá. Với khảo cổ, lại có khám phá tuyệt vời từng phát hiện một thuyền đánh cá dài rộng cỡ 8m x 2.20m x 1.35m bộ, với niên đại có từ năm 40 trước Công nguyên. Thuyền này được gọi là “Con Thuyền Của Chúa”, vì là đặc trưng tiêu biểu thời Chúa sống.

Dân chài đây, có nhóm chuyên đánh bắt các loại cá có chất lượng để cung cấp khắp nơi, cả người Ai Cập cũng là khách hàng thường xuyên mua về đem hun khói thành đặc sẳn rất tuyệt vời. Các khai quật cho thấy thuyền đánh cá ở đây được trang bị khá tốt để có thể đánh bắt suốt cả đêm. Sản phẩm đánh được lại đã tạo nguồn lợi tức cho một số công ty chuyên ngành trong thời gian dài, chuyên nghiệp.

Dân chài ở đây, có người còn có nghề tay trái không chỉ đánh cá đóng thuyền thôi, nhưng còn kinh doanh và tránh thuế. Dân chài người Bét-sai-đa sống ở Ca-pha-na-um quen tránh né đám thu thuế; nên, nghề cá là nghề ít bận tâm về luật thuế nhất. Nói chung, dân chài ở đây biết nhiều thứ, chứ không chỉ sơ sơ mỗi cá tôm.

Thế nên, cử toạ đầu tiên tìm đến Chúa để nghe Ngài giảng giải, lại là dân chài Biển hồ Galilê. Chúa hoạt động công khai, Ngài cũng di chuyển loanh quanh các vùng: Bét-sai-đa, Ca-pha-na-um, Ghê-nê-sa-rét, Mag-đa-la, hoặc Ghê-ra-sa cùng các vùng chài lưới và thôn làng ở Biển hồ. Chúa giảng rao vùng cận duyên gồm các làng chài trong đó có cả Tyrô và Siđôn nữa. Hôm ấy, bên vệ đường cạnh hồ Galilê, Chúa gặp ông Phêrô (cùng nhạc mẫu) và các bạn chài là: An-rê, Giacôbê và Gioan (có bà Zêbêđê) và cả anh Lêvi thu thuế, nhất nhất đều đến từ Ca-Pha-Na-Um, ở quanh đó.

Chúa vẫn thường có thói quen di chuyển trên hồ bằng thuyền bè. Chính ở nơi này, Ngài chỉ cho các thánh biết đánh bắt thật nhiều cá, như phép lạ. Và cũng ở triền hồ, Ngài còn phân phát cho cả ngàn người được no nê, ăn thoả chí. Tin Mừng thánh Luca (đoạn 24) cũng cho thấy Chúa đã trở lại hồ này ngay sau ngày Ngài Phục sinh quang vinh.

Vấn đề hỏi là: làm sao thánh Luca lại biết rõ điều ấy. Bởi, ai cũng đều biết thánh Luca đâu thuộc thành phần dân chài và cũng chẳng là tay thu thuế. Thế nên, nguồn văn của trình thuật hôm nay, có lẽ đã được rút từ Tin Mừng thánh Matthêu đoạn 4 câu 18. Đoạn này, thánh Matthêu ám chỉ một Xuất hành mới cốt để tái lập Vương quyền của Đavít.

Thánh Luca không chỉ nhấn mạnh sự kiện Chúa gọi mời dân chài làm tông đồ, nhưng nhấn mạnh lên câu Chúa nói với Phêrô, rằng: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới người.” Có thể là, thánh Luca không có ý đó, nhưng thánh Mátthêu lại trích dẫn lời ngôn sứ Giêrêmia đoạn 16 câu 16 và Êdêkiel đoạn 47 câu 9, trong đó Chúa nói: “Này Ta sai ngư phủ đến, một số đông và họ sẽ vung lưới bắt chúng.” Tất cả điều đó, chỉ muốn nói rằng: Chúa đến như thể cuộc đánh bắt rất nhiều cá chứ không phải chỉ mỗi thứ cá, là người Do thái mà thôi.    

Ở đây, thánh Luca lại nói lên lập trường của riêng thánh-nhân về ơn cứu độ Chúa rộng ban, không chỉ gửi đến với dân được chọn là Do thái mà thôi, nhưng còn mở ra với hết mọi người, mọi sắc tộc, giòng giống. Và cũng thế, các tông đồ của Chúa được gửi đến với mọi người có giòng giống sắc tộc, rất khác nhau. Ngài sẽ không phân biệt một ai để rồi đem tất về với Vương quốc của Ngài, cũng là vùng đất có biển có hồ, mầu mỡ rất nhiều cá.

Truyện kể ở trình thuật thánh Luca hôm nay cũng rất đẹp, trong đó tác giả cho thấy kết quả của công việc hợp tác giữa hai chiếc thuyền đánh cá mỏng manh đến suýt chìm vì nặng chĩu những cá. Một trong thuyền đó, có Simôn Phêrô đã thành công đánh bắt được rất nhiều cá. Một lần nữa, ở đây thánh Luca cũng không nhiều kinh nghiệm về sông nước với đánh bắt. Nhưng tác giả đã để Chúa yêu cầu thánh Phêrô chèo đò vào bờ, rồi theo Ngài.

Nhiều năm qua, có học giả người Do thái là Abraham Joshua Heschel đã nói về vai trò của ngôn sứ ở Israel. Theo ông, ngôn sứ là người hiểu được những “xúc cảm” của Thiên Chúa. Qua cụm từ “xúc cảm”, ông muốn nói: Thiên Chúa không xa với với con người chúng ta, theo nghĩa khoảng cách thần linh, thánh thiêng; nhưng Ngài là Đấng rất cần gần gũi với những khổ đau/sầu buồn, như con người. Ngài cũng có cảm xúc như con người. Giữa Ngài và con người, luôn có sự tuỳ thuộc hỗ tương, tức là: Chúa cần ra khỏi tính thánh thiêng để đến với chúng ta. Và chúng ta cũng thế, cần ra khỏi hoàn cảnh của mình để ra đi mà đến với Chúa. Để sống với những cảm xúc của chính Chúa.

Ý tưởng của diễn giả Heschel đem đến cho ta một mô hình mẫu mực để hiểu được tư tưởng của thánh Luca viết ở đây. Thánh Luca tuy không là ngôn sứ, giống như thế. Chúa của thánh sử cũng không là Thiên Chúa của tác giả Heschel. Nhưng theo thánh Luca, thì Chúa cũng có cảm xúc muốn san sẻ sự vui mừng với chúng ta. Ngài đã đi vào cuộc sống phàm trần theo cung cách cũng trần tục để niềm vui của Ngài lấp đầy hết mọi người. Trong mọi người. Và niềm vui của ta cũng có kết quả tương tự, đối cới Chúa.

Thật ra thì, cụm từ “xúc cảm” ở đây cũng không đúng nghĩa cho lắm khi ta diễn tả điều mà thánh Luca muốn nói. Nhưng điều mà thánh sử Luca muốn nói chính là niềm vui chung vẫn có giữa Đức Giêsu và các thánh tông đồ, rất thuyền chài. Đó là niềm vui rất lớn không biên giới nhưng đã hoàn toàn rộng mở. Niềm vui ấy, nay phát tán đi vào với thế giới gồm đầy khổ đau, âu sầu. Vui, là rung động với những cảm xúc hân hoan của con người để đi vào tận tâm can con người vẫn thường gặp nhiều klhổ đau/sầu buồn vào mọi lúc. Niềm vui ấy, như thể đàn cá tung tăng nhẩy xổ vào lưới bắt của các vị tông đồ/thuyền chài. Đàn cá xem ra thích nhảy vào lưới như thế. Và các tông đồ/thuyền chài cũng mỉm cười vui thích khi thấy đàn cá cứ làm thế.

Và thánh Luca vẫn ghi lại những truyện kể ở trình thuật có Đức Giêsu mỗi lần đến với ai, là người đó cũng sẽ vui mừng, nhảy chồm lên vì sung sướng. Và lòng thương xót của Chúa lớn lao gồm đủ những cảm-xúc và niềm vui to lớn còn là kết quả của sự việc nhảy ra khỏi làn da, thớ thịt mà Chúa từng làm và từng sống với ta như thế. Đức Giêsu cũng đã làm như Chúa đã làm như thế với mọi người. Như thế, thì Ngài đích thật là Người Con của Thiên Chúa.

Điều này dấy lên một vấn đề hỏi rằng: làm sao chủ đề “ơn cứu độ” lại có thể trở nên chuyện chính yếu đối với tác giả Luca, là thế? Đôi khi, đó còn là trọng tâm Tin Mừng của thánh-nhân nữa. Chuyện này kể cũng thực, nhưng không phải là tiên quyết. Ít ra, tác giả cũng không đến nỗi ưu tư nhiều như thế. Ơn cứu độ, là cụm từ ta dùng để chỉ về trạng huống ta trải nghiệm Niềm vui chung có Chúa đã từng đảo ngược mọi chuyện tiêu cực thành cơ hội để ta suy tư về ân huệ trọng yếu này.

Những điều kể trên, đôi khi làm người đọc lại nghĩ về truyện ông Noê ở Cựu Ước. Truyện kể vẫn cứ kể về điều là những sinh vật được cứu sống, chỉ mỗi vài cặp thú vật trên thuyền mà thôi. Cứ tin là như thế. Như thế, tức như thể không phải tất cả mọi thú vật đều có mặt ở đó, hết. Thế thì, các thú khác và người khác thì sao? Có được cứu rỗi không? Về cá heo và chúng bạn vẫn tung tăng bơi lội và cười đùa vui vẻ ngoài con thuyền cách vô tội vạ thì sao? Chúng không được cứu sao?

Nếu thế, cũng không phải là ý của tác giả, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi Thiên Chúa là Đấng thực sự rất Vui và rất đại độ. Có lúc Ngài cũng tung tăng vui vẻ, ngoài con thuyền đấy chứ? Dù thuyền đó là thuyền đánh cá của Phêrô hay thuyền cứu độ của Noê, cũng đều thế. Cả tác giả Luca cũng thế. Cũng đâu bao giờ có được ý tưởng buồn cười về cuộc sống được cứu rỗi và về Thiên Chúa đến như thế.

Thế nên, đọc trình thuật thánh Luca, người đọc hẳn đôi lúc cũng nghĩ như nhà thơ bên dưới:

            “Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,

            Em về trăng mọc bến chân như.

            Người Em hơi thở say mùi huệ,

            Mây trắng vương buồn mắt thái sơ.”

            (Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)

            Trái tim của Chúa, cũng “Hồng Ngọc”, tức: cũng mầu hồng và bằng ngọc, luôn tưởng nhớ hết dân gian mọi người, dù là dân chài thợ mộc, Ngài vẫn mời theo Ngài giảng rao ơn cứu độ thân thương, rất hồng ngọc. Để dân gian mọi người sẽ trở thành ngọc hồng, ngọc bích vẫn cứ thương.

 

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –

Mai Tá lược dịch

PHÚC – LỘC – THỌ

Phuc-Loc-Tho

Đất trời đang giao thời chuyển từ mùa Đông giá rét sang tiết Xuân ấm áp. Như vậy là một năm nữa lại qua đi, và khởi đầu một năm mới! Có chịu cái lạnh của mùa Đông mới thấy quý hơi ấm của mùa Xuân. Cuộc đời cũng vậy, có thất bại mới thấy khao khát thành công mà cố vươn lên, có đau khổ mới thấy trân trọng hạnh phúc khi được nếm hưởng – dù chỉ một chút.

Những lo lắng, những gian lao, những bươn chải của năm cũ đã khép lại. Giờ là lúc chúng ta “quẳng gánh lo đi mà vui sống”. Giờ là lúc ta được nghỉ ngơi, vui thỏa. Giờ là lúc chúng ta sum vầy, đoàn viên.

Cuộc sống có nhiều thứ cần, cả thể xác và tinh thần. Có thể tóm gọn trong bộ ba cơ bản cần thiết nhất là Phúc-Lộc-Thọ (Giản thể: 福禄寿; Phồn thể: 福祿壽; Bính âm: Fú Lú Shòu). PHÚC (Phước) là điều tốt lành, LỘC là sự thịnh vượng, và THỌ là sống lâu.

PHÚC-LỘC-THỌ THEO VĂN HÓA

Theo văn hóa Trung Hoa, Phúc-Lộc-Thọ được tượng trưng bằng ba ông già, gọi là Tam Đa. Người Nhật gọi Phúc-Lộc-Thọ là Fukurokuju, một trong Thất Phước Thần theo thần thoại Nhật bản.

Ông PHÚC (còn gọi là ông Đa Phúc) thường được đặt ở giữa tượng trưng cho sự may mắn, tốt lành. Ông Phúc mặc phẩm phục, đầu đội mũ cánh chuồn, tay cầm ngọc như ý và bế hài nhi. Ông tên là Quách Tử Nghi, làm quan đời nhà Đường. Ông làm quan thanh liêm, nghèo túng nhưng thanh bạch. Vợ giữ đúng đạo làm vợ, con giữ đúng đạo làm con, cháu chắt giữ đúng đạo làm cháu chắt…

Khi ông bà bước sang tuổi 83 thì có chút (chút đích tôn ở đời thứ 5 mà người đời quen gọi là “ngũ đại đồng đường”). Ông bà Quách sung sướng ôm đứa chắt nội vào lòng, cùng cười một tiếng dài rồi cùng nhau viên tịch (qua đời). Việc quy tiên của ông bà Quách đúng là “tiên cảnh nhàn du” mà người già đều mong ước.

Người ta gọi ai được như vậy là “người có phúc”. Vì theo quan niệm xưa, nhà đông con là nhà có phúc nên đôi khi còn thấy có một đứa trẻ đang nắm lấy áo ông Phúc, hoặc nhiều đứa trẻ vây quanh ông, hoặc có hình ảnh con dơi bay xuống ông (dơi phát âm giống âm chữ “phúc”). Quan niệm xưa cũng cho rằng người có phúc là người có địa vị xã hội, có quyền thế, muốn gì được nấy – ngày nay gọi là “hên”.

Ông LỘC (còn gọi là ông Đa Lộc hoặc Thần Tài) tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng. Ông tên là Đậu Từ Quân, sinh tại Giang Tây, làm quan đời nhà Tấn. Ông làm quan lớn của triều đình, có nhiều tiền của. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, “lộc” phát âm gần với âm chữ “lục”, tay cầm “ngọc như ý” hoặc thường có một con hươu đứng bên cạnh (hươu cũng được phát âm giống âm chữ “lộc”).

Trông ông thật oai vệ, bụng to, cân đai xệ xuống. Nhưng buồn thay, năm ông 80 tuổi mà vẫn chưa có cháu đích tôn. Con cái và cháu chắt là “đệ nhất lộc trời”, như ca dao nói: “Có chồng mà chẳng có con, khác nào hoa nở trên non một mình”. Do đó, suốt đời ông chỉ lo kiếm được nhiều lộc. Mà Lộc nhiều để làm gì và để cho ai nhỉ?

Ông THỌ (còn gọi là ông Đa Thọ) tượng trưng cho sự sống lâu với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc phơ, trán hói và dô cao, tay cầm trái đào tiên, bên cạnh thường có thêm con hạc. Ông tên là Đông Phương Sóc, làm quan đời nhà Hán. Trong đời làm quan, ông luôn tìm những lời nói hay để làm vừa lòng Thiên tử (vua) nên luôn được ban cho rất nhiều bổng lộc. Mỗi lần được vàng, bạc vua ban, ông lại đem cưới mỹ nữ về làm tỳ thiếp. Vì vậy, thê thiếp của ông nhiều vô kể. Đông Phương Sóc hưởng thọ 125 tuổi. Khi Đông Phương Sóc viên tịch, con cháu của ông đều đã chết cả. Cháu tứ đại (4 đời) phải thay bố làm ma cho cụ cố.

Người ta sắp xếp ba ông Phúc-Lộc-Thọ gần nhau để khuyên răn hậu duệ: Chỉ nên học ông Phúc mà thôi. Vì chính trong cái Phúc đã bao gồm cả tuổi thọ, phú quý, an lạc, và con cháu đông đúc.

Thi sĩ Nguyễn Khuyến cũng nhắc tới Phúc trong một câu đối Tết: “Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa / Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.

Những câu đối được dán hai bên bàn thờ tổ cũng có chữ Phúc: Phước thâm tự hải / Lộc cao như sơn”, hoặc: “Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ / Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường”.

Rất nhiều những câu đối Tết liên quan Phúc-Lộc-Thọ:

– Phúc Thọ phồn vinh / Lộc tài phát đạt.
– Phúc Thọ vô biên / Lộc tài vô tận.
– Đa tài, đa lộc, đa phú quý / Đắc thời, đắc lộc, đắc nhân tâm.
– Phúc mãn đường niên tăng phú quý / Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa.
– Tân niên, tân phúc, tân phú quý / tấn tài, tấn lộc, tấn bình an.
– Lộc biếc, mai vàng, Xuân hạnh phúc / Đời vui, sống khỏe, Tết an khang.

Trong bộ ba Phúc-Lộc-Thọ, người ta vẫn coi trọng nhất là Phúc. Có lẽ vì vậy mà Phúc được đặt đầu tiên trong bộ ba đó.

PHÚC-LỘC-THỌ THEO KINH THÁNH

Bộ ba Phúc-Lộc-Thọ gợi nhớ Tam Vị Nhất Thể – Một Chúa Ba Ngôi. Đó là mầu nhiệm quan trọng của Công giáo, không thể lý giải theo trí tuệ nhân loại mà chỉ có thể “hiểu” bằng Đức Tin: MỘT mà BA, BA mà MỘT.

Chuyện kể rằng, có lần Thánh Augustinô đang miệt mài suy nghĩ để lý giải mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thì ngài gặp một em bé đang múc nước biển đổ vào một cái lỗ. Ngài thấy lạ nên hỏi em làm gì, em bé nói: “Con đang tát cho cạn biển”. Ngài bảo: “Đó là việc làm ngớ ngẩn. Không thể nào tát cạn biển được”. Em bé hồn nhiên trả lời: “Việc con làm đây tuy khó nhưng còn dễ hơn điều bác đang suy nghĩ”. Thánh Augustinô giật mình tỉnh ngộ!

Trong Cựu ước, PHÚC vẫn được nhắc tới nhiều : Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2); Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người” (Tv 128:1).

Trong Tân ước, Đức Giêsu thường nhắc đến Phúc. Ngay trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:3-12), còn gọi là Bát Phúc hoặc Tám Mối Phúc Thật, Ngài đã nói ngay tới Phúc. Có lần Ngài nói với Tông đồ Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:17).

Thánh Êlidabét nói với Đức Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (Lc 1:42).

Và Đức Giêsu còn nói tới nhiều loại Phúc:

– Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng (Mt 6:1).
Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (Mt 11:6).
– Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe (Mt 13:16).
Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy (Mt 24:46). Đó là nói về quản gia tín trung, khôn ngoan và tỉnh thức.

Khi nói tới PHÚC thì đã hàm ý có LỘC: “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:2 và 4); hoặc: “Đức Chúa đã đổ muôn vàn phúc lộc xuống cho chủ tôi” (St 24:35).

Có sinh ắt có tử. Nhưng đâu ai muốn chết yểu hoặc chết sớm. Nghĩa là người ta mong được sống lâu, sống THỌ, càng trường thọ càng tốt: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con” (Tv 138:7), được “bảo toàn mạng sống” tức là chưa chết; hoặc: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17), “không phải chết” tức là còn được sống thêm, được tăng tuổi thọ.

Tuổi thọ liên quan Thập Giới (Mười Điều Răn): “Ai kính sợ Đức Chúa sẽ được trường thọ, còn tuổi đời đứa ác bị rút ngắn đi” (Cn 10:27), và có lợi: “Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng, cho con người được hoan hỷ mừng vui và an khang trường thọ (Hc 1:12). Tuổi thọ cũng liên quan chữ Hiếu: “Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3:16). Đồng thời còn liên quan cách sống trung thực: “Ai khinh chê lợi lộc bất chính sẽ được trường thọ (Cn 28:16).

Nói chung, tuổi thọ nhờ vào Mến Chúa và yêu người: “Gốc rễ của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, cành lá của khôn ngoan là cuộc đời trường thọ (Hc 1:20).

CHÚC TẾT HAY MỪNG TUỔI ?

Lâu nay, có hai khái niệm hay bị sử dụng nhầm lẫn là “Mừng Tuổi” và “Chúc Tết”. Khi chúc Tết cha mẹ, ông bà, rất nhiều con cháu đều nói: “Chúng con mừng tuổi ông bà/cha mẹ”. Thực ra, đây là một ngộ nhận đáng tiếc! Chỉ có ông bà, cha mẹ (bậc trên, hơn tuổi) mới mừng tuổi cho con cháu: mong cháu con thêm một tuổi thêm lớn khôn, trưởng thành. Do vậy, con cháu phải “chúc Tết” ông bà cha mẹ chứ không phải “mừng tuổi”. Tâm lý thường tình, khi con người về già, ai cũng “sợ” năm hết Tết đến, vì thêm một năm mới là giảm một năm được vui sống với cháu con. Nói thẳng ra là “gần đất, xa trời” hơn. Nếu chúng ta “mừng tuổi” ông bà và cha mẹ là mừng vì các ngài sắp… chết!

Tết mặc nhiên mang đến niềm vui, nhưng cũng mang nghĩa “chết trong lòng một ít”. Tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy tâm trạng. Cụ Nguyễn Khuyến phân vân: “Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái / Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân”.

Hoặc chua chát như cụ Tế Xương: “Thiên hạ xám rồi, còn đốt pháo / Nhân tình bạc thế, lại bôi vôi”. Đó là hình ảnh ngày Tết ngày xưa, có nêu cao, có pháo đỏ, và tục lệ bôi vôi trước cửa để xua đuổi tà khí. Đọc câu đối của cụ Tú Xương mà nghe cay lòng quá! Đó là đời thực của các nhà nho bất phùng thời!

Tết là dịp để “ôn cố tri tân”. Ước mong sao cuộc sống sẽ thay đổi theo hướng tích cực về những giá trị truyền thống, văn hóa, văn minh,… đối với cả xã hội và Giáo hội. Sự linh thiêng của ngày Tết cổ truyền là điều quý giá, nên được duy trì và trân trọng.

Cung Chúc Tân Xuân! Chúc Mừng Năm Mới!

Kha Đông Anh
Tết Quý Tỵ – 2013

Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi toàn thể Giáo Hội hãy tái bày tỏ lòng tín nhiệm nơi người trẻ.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7 tháng 2-2013, dành cho các tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đang nhóm tại Roma từ ngày 6 đến 9-2-2013 về ”các nền văn hóa đang lên của người trẻ”. Tham dự khóa họp có lối 20 HY, hơn 10 GM thành viên, cùng với đông đảo các cố vấn và khách mời.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC đã trình bày một phân tích về thực trạng phức tạp của người trẻ ngày nay, với những điểm sáng và điểm tối, những khó khăn và những khía cạnh tích cực, như sự hăng say quảng đại và can đảm của bao nhiêu người trẻ thiện nguyện, những kinh nghiệm về đức tin chân thành và sâu xa của bao nhiêu người trẻ làm chứng họ được thuộc về Giáo Hội, những cố gắng tại nhiều nơi trên thế giới để kiến tạo những xã hội có khả năng tôn trọng tự do và phẩm giá của mọi người, bắt đầu từ những người bé nhỏ và yếu thế nhất… Xét cho cùng, chúng ta đang đứng trước một thực tại phức tạp nhưng cũng đầy sức thu hút của người trẻ ngày nay, một thực tại cần được hiểu sâu xa và yêu mến với tinh thần cảm thông sâu đậm.. Tuy ý thức về bao nhiêu tình trạng có vấn đề liên quan tới lãnh vực đức tin và sự thuộc về Giáo Hội, chúng ta hãy canh tân lòng tín nhiện nơi người trẻ, tái khẳng định rằng Giáo Hội nhìn đến hoàn cảnh, các nền văn hóa của người trẻ như một điểm tham chiếu quan trọng và không thể tránh né để hoạt động mục vụ”.

Trong chiều hướng trên đây, ĐTC đã nhắc lại Sứ điệp của Công đồng chung Vatican 2 gửi người trẻ, trong đó Công đồng khẳng định rằng: ”Hỡi các bạn trẻ, Giáo Hội nhìn các bạn với lòng tín nhiệm và yêu thương.. Giáo Hội có những gì mang lại sức mạnh và vẻ đẹp của người trẻ, đó là khẳ năng vì vui mừng vì những gì bắt đầu, hiến thân mà không đòi đáp trả, canh tân và tái ra đi để chinh phục”. Và Đức Phaolô 6 đã gửi lời kêu gọi các bạn trẻ trên thế giới: ”Nhân danh Thiên Chúa và Con của Ngài là Đức Giêsu, chúng tôi nhắn nhủ các bạn hãy mở rộng con tim theo chiều kích của thế giới, hãy hiểu lời kêu gọi của anh chị em các bạn, và dùng nghị lực của các bạn để hăng say phục vụ họ. Hãy từ khước, không chạy theo những bản năng bạo lực, oán thù, gây ra chiến tranh và bao nhiêu điều lầm than theo sau đó. Các bạn hãy quảng đại, thanh khiến, tôn trọng, chân thành. Và hăng hái xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thế giới hiện nay”.

Và chính ĐTC Biển Đức 16 cũng mạnh mẽ tái khẳng định lòng tín nhiệm của Giáo Hội nơi người trẻ, hy vọng nơi nọ và những năng lực của họ, Giáo Hội cần người trẻ và sức sinh động của họ, để tiếp tục sống sứ mạng do Chúa Kitô ủy thác với một đà tiến mới”

Trong cuộc họp báo hôm 31-1-2013, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đã bày tỏ mong ước lắng nghe những ngôn ngữ và văn hóa của các thế hệ trẻ. Và theo ngài, Khóa họp toàn thể của Hội đồng là một cơ hội quí giá và một đòi hỏi cho những người lớn cũng như cho các cộng đồng Kitô. ĐHY nói: dĩ nhiên ngôn ngữ của người trẻ khác với chúng ta, nhưng tiềm năng của các thế hệ trẻ là điều chắc chắn. Cách tốt nhất để Giáo Hội có thể được nghe và nhìn thấy giữa đại hồng thủy của thời đại thông tin ngày nay là mở một “trận chiến truyền thông chớp nhoáng với những câu trả lời đơn sơ cho những vấn nạn thâm sâu nhất của cuộc sống.”

Chương trình 3 ngày nhóm họp của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa khá dầy đặc, và bàn về những thách đố khác nhau do các thế hệ trẻ nêu lên. Các bài thuyết trình đề cập đến các đề tài như xã hội hóa người trẻ, các ngôn ngữ và nghi thức kỹ thuật số, niềm tin của người trẻ, và các lối diễn tả cảm xúc của họ.

Để khai mạc hội nghị đã có một buổi hòa nhạc Rock vào ngày 6 tháng 2-2013 tại Đại Học Công Giáo Lumsa, gần Vatican, do nhóm nhạc sĩ ”The Sun”, Mặt Trời, ở Italia trình diễn. Có 4 nhạc sĩ trong nhóm này đã dần dần xích lại gần đức tin Kitô giáo trong những năm 2008 và 2009. Từ đó nhạc của họ chịu ảnh hưởng của cuộc hoán cải này. Các nhóm nhạc sĩ Rock này lan rộng trên toàn Italia và dấn thân nơi các tín hữu Kitô tại Thánh Địa mà họ hỗ trợ bằng nhiều sáng kiến. (SD 7-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Sống đức tin có nghĩa là thừa nhận sự cao cả của Thiên Chúa và chấp nhận sự bé nhỏ của chúng ta, chấp nhận điều kiện là thụ tạo của chúng ta bằng cách để cho Chúa làm tràn đầy nó với tình yêu của Người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi găp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ thư 6 tháng 2-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về Kinh Tin Kính. Kinh Tin Kính bắt đầu bằng lời tuyên xưng ”Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng nên trời đất”. Đây là câu lấy lại lời khẳng định của Thánh Kinh, câu đầu tiên trong sách Sáng Thế: ”Từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng nên trời và đất” (St 1,1): Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự và quyền năng của Người là Cha yêu thương trải dài trong vẻ đẹp của thụ tạo. Các hình ảnh Thánh Kinh dùng để miêu tả Thiên Chúa Tạo Hóa toàn năng rất gợi cảm (x. Is 40,12; 45,18; 48,13; Tv 104,2.5; 135,7; Cn 8,27-29; G 38-39). Như là người Cha quyền năng, Thiên Chúa săn sóc những gì Người đã tạo dựng với một tình yêu và lòng trung thành không suy giảm (x. Tv 57,11; 108,5; 36,6). Đức Thánh Cha định nghĩa thụ tạo như sau:

Như thế, thụ tạo trở thành nơi hiểu biết và thừa nhận sự toàn năng của Chúa và lòng lành của Người, và trở thành lời mời gọi lòng tin của chúng ta để chúng ta loan báo Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa… Đức tin như thế bao gồm việc biết thừa nhận sự vô hình bằng cách nhận ra dấu vết của nó trong thế giới hữu hình. Tín hữu có thể đọc cuốn sách vĩ đại của thiên nhiên và hiểu ngôn ngữ của nó (x. Tv 19,2-5); vũ trụ nói với chúng ta về Thiên Chúa (x. Rm 1,19-20), nhưng cần thiết có Lời mạc khải của Người, khơi dậy lòng tin, để con người có thể đạt ý thức tràn đầy về thực tại Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha. Chính trong sách Thánh Kinh mà dưới ánh sáng của đức tin, trí thông minh của con người có thể tìm thấy chìa khóa giải thích để hiểu thế giới. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế chiếm một chỗ đặc biệt với việc giới thiệu công trình tạo dựng của Thiên Chúa diễn ra trong bẩy ngày: trong các ngày đó Thiên Chúa hoàn thành việc tạo dựng, và ngày thứ bẩy Người ngưng mọi hoạt động và nghỉ ngơi. Cấu trúc này khiến cho văn bản lập đi lập lại 6 lần điệp khúc: ”Thiên Chúa thấy rằng đó đã là điều tốt lành” (cc. 4.10.12.18.21.25), để kết luận với lần thứ bẩy câu: ”Thiên Chúa đã thấy rằng tất cả những điều Người đã làm rất tốt lành” (c. 31).
Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều xinh đẹp và tốt lành, đầy khôn ngoan và tình yêu; hành động tạo dựng của Thiên Chúa đem lại trật tự, hài hòa, trao ban vẻ đẹp. Thế rồi trong trình thuật của sách Sáng Thế còn nổi bật sự kiện Thiên Chúa tạo dựng với lời Người: chúng ta đọc thấy 10 lần rằng ”Thiên Chúa phán” (cc. 3.6.9.11.14.20.24.26.28.29), nó nhấn mạnh quyền năng hữu hiệu của Lời Chúa. Như tác giả thánh vịnh hát: ”Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú… Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33,6.9). Sự sống nảy sinh, thế giới hiện hữu, bởi vì tất cả đều vâng phục Lời Thiên Chúa.

Nhưng mà trong thời đại khoa học và kỹ thuật ngày nay nói về việc tạo dựng có nghĩa gì? Chúng ta phải hiểu các trình thuật sách Sáng Thế như thế nào? Thánh Kinh không muốn là một cuốn sách của các khoa học thiên nhiên; trái lại nó muốn làm cho chúng ta hiểu các chân lý đích thật và sâu xa của các sự vật. Các chân lý nền tảng mà các trình thuật của sách Sáng Thế vén mở cho chúng ta, đó là thế giới không phải là một tổng hợp các sức mạnh đối nghịch nhau, nhưng có nguồn gốc và sự ổn định nơi Lời, nơi Lý Trí vĩnh cửu của Thiên Chúa, tiếp tục nâng đỡ vũ trụ. Có một dự án về thế giới nảy sinh từ Lý Trí đó, từ Thần Khí tạo dựng. Tin rằng nền tảng của mọi sự là đó, nó soi sáng mọi khía cạnh của sự hiện hữu và trao ban can đảm giúp đương đầu với cuộc mạo hiểm của cuộc sống với lòng can đảm và niềm hy vọng.

Tột đỉnh của toàn công trình tạo dựng là người nam và người nữ, là con người, thụ tạo duy nhất ”có khả năng hiểu biết và yêu thương Đấng Tạo Hóa” (GS 12). Tác giả thánh vịnh 8 kêu lên: ”Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Con người được Thiên Chúa tạo dựng nên với tình yêu, là điều thật bé nhỏ trước sự mênh mông của vũ trụ… Con người chứa đựng sự mâu thuẫn này: cái bé nhỏ và mau qua của nó chung sống với sự cao cả của điều mà tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa đã muốn ban cho nó.

Các trình thuật trong sách Sáng Thế cũng dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực này bằng cách giúp chúng ta hiểu biết chương trình của Thiên Chúa đối với con người. Đức Thánh Cha giải thích điễm này như sau:

Trước hết các trình thuật ấy khẳng định rằng Thiên Chúa làm thành con người với bụi đất (x. St 2,7). Điều này có nghĩa chúng ta không phải là Thiên Chúa, chúng ta không tự mình làm ra mình, chúng ta là đất. Nhưng nó cũng có nghĩa là chúng ta đến từ đất tốt lành, do công trình của Đấng Tạo Hóa. Thêm vào đó còn có một thực tại nền tảng khác nữa: đó là tất cả mọi người đều là bụi, vượt ngoài các khác biệt đến từ văn hóa, lịch sử, vượt ngoài mọi khác biệt xã hội; chúng ta là một nhân loại duy nhất được nhào nặn với cùng đất duy nhất của Thiên Chúa. Thế rồi còn có một yếu tố thứ hai: con người có nguồn gốc bởi vì Thiên Chúa thở hơi sự sống vào trong thân xác được nhào nắn từ đất (x. St 2,7). Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (St 1,26-27). Như thế chúng ta tất cả đều mang trong mình hơi thở sự sống của Thiên Chúa, và mỗi một sự sống con người đều ở dưới sự che chở của Thiên Chúa. Đây là lý do sâu xa nhất sự bất khả xâm phạm của nhân phẩm, chống lại mọi mưu toan đánh giá con người theo các tiêu chuẩn duy ích lợi và quyền bính. Việc là hình ảnh và giống Thiên Chúa cũng ám chỉ rằng con người không đóng kín trong chính mình, nhưng có một quy chiếu nòng cốt nơi Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đề cập đến hai hình ảnh ý nghĩa trong các chương đầu sách Sáng Thế: đó là hình ảnh ngôi vườn với cây biết lành biết dữ và con rắn (St 2,15-17; 3,1-5). Ngôi vườn nói rằng thực tại trong đó Thiên Chúa đã đặt để con người không phải là một rừng hoang dã, nhưng là nơi Người che chở, dưỡng nuôi và nâng đỡ; và con người phải thừa nhận thế giới không phải như là tư sản để cướp bóc và khai thác, nhưng như là ơn của Đấng Tạo Hóa, dấu chỉ ý muốn cứu độ của Người, ơn cần phải vun trồng và giữ gìn, làm cho lớn lên và phát triển trong sự tôn trọng, trong hài hòa theo các tiết nhịp của luận lý, theo chương trình của Thiên Chúa (x. St 2,8-15).

Con rắn là một hình ảnh bắt nguồn từ các việc phụng tự đông phương của sự phong phú, nó hấp dẫn dân Israel và là một cám dỗ liên tục bỏ giao ước nhiệm mầu với Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của điều này Thánh Kinh trình bầy sự cám dỗ mà Ađam và Evà phải chịu như là nhân tố của cám dỗ và tội lỗi.

Con rắn không khước từ Thiên Chúa, nhưng đưa vào một câu hỏi xảo trá: ”Có thật là Thiên Chúa đã nói: ”Các ngươi không được ăn trái cây nào hết trong vườn không?” (St 3,1). Như thế con rắn khơi dậy sự nghi ngờ rằng giao ước với Thiên Chúa như là một dây xích cột buộc, đánh mất tự do và các điều xinh đẹp qúy báu của cuộc sống. Đức Thánh Cha giải thích cám dỗ như sau:

Cám dỗ trở thành cám dỗ xây dựng thế giới sống một mình, không chấp nhận các hạn chế của thụ tạo, các hạn chế của sự thiện và sự dữ, của luân lý; sự tùy thuộc tình yêu của Thiên Chúa bị coi như một gánh nặng cần phải giải thoát. Nhưng khi làm sai lạc tương quan với Thiên Chúa, bằng cách đặt mình vào chỗ của Người, thì tất cả mọi tương quan khác đều bị hư hỏng. Khi đó người khác trở thành một đối thủ, một sự đe dọa: sau khi nhượng bộ cám dỗ Ađam lập tức đổ tội cho Evà (x. St 3,12); hai người trốn sự hiện diện của vì Thiên Chúa mà họ đã chuyện vãn với tình bạn (x. 3,8-10); thế giới không còn là nơi sống với sự hài hòa nữa, mà là nơi khai thác và trong đó dấu ẩn các cạm bẫy (x. 3,14-19); ghen tương và thù hận đối với người khác bước vào trái tim con người: điển hình là vụ Cain giết em mình là Abel (x. 4,3-9). Thực ra, khi chống lại Đấng Tạo Hóa của mình con người chống lại chính mình, khước từ nguồn gốc của mình và như thế khước từ sự thật; và sự dữ bước vào thế giới, với dây xích nặng nề của khổ đau và cái chết.

Giáo huấn cuối cùng của các trình thuật là tội lỗi sinh ra tội lỗi và tất cả mọi tội lỗi của lịch sử đều bị cột buộc với nhau. Khía cạnh này thúc đẩy chúng ta nói tới ”tội tổ tông” là thực tại khó hiểu. Trước hết chúng ta phải xét rằng không có người nào là khép kín trong chính mính, có thể sống một mình và cho mình; chúng ta nhận được sự sống từ người khác và không phải chỉ trong lúc sinh ra, mà mỗi ngày. Con người là tương quan; tôi chỉ là chính mình trong ”anh” và qua ”anh”, trong tương quan của tình yêu đối với ”anh” của Thiên Chúa và ”anh” của các người khác.

Và tội lỗi là làm vẩn đục hay hủy hoại tương quan với Thiên Chúa, là đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng với tội đầu tiên con người đã ”lựa chọn chính mình chống lại Thiên Chúa, chống lại các đòi buộc của điều kiện là thụ tạo của mình và hậu quả là chống lại sự thiện” (s. 398).

Khi tương quan nền tảng bị vẩn đục, thì các trục khác của tương quan cũng bị liên lụy hay phá hủy, tội lỗi làm hư hỏng tất cả. Giờ đây nếu cấu trúc tương quan của nhân loại bị vẩn đục ngay từ đầu, thì mỗi người đều bước vào trong một thế giới đã bị ghi dấu bởi sự vẩn đục các tương quan, bước vào trong một thế giới bị vẩn dục bởi tội lỗi và nó bị ghi dấu một cách riêng rẽ; Tội lỗi khởi đầu tấn công bản tính nhân loại và gây thương tích (x. SGLGHCG, 404-406). Và con người một mình thì không thể nào ra khỏi tình trạng này, và tự cứu rỗi mình. Chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể tái lập lại các tương quan đúng đắn mà thôi. Chỉ nếu Đấng mà chúng ta đã lìa xa đến với chúng ta và giơ tay ra cho chúng ta với tình yêu, thì các tương quan đúng đắn mới có thể được tái lập. Điều này xảy ra nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đi ngược lại con đường của Ađam, như miêu tả trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philiphê (2,5-11). Trong khi Ađam không thừa nhận mình là thụ tạo và muốn chiếm chổ của Thiên Chúa, thì Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã tự hạ trở thành tôi tớ đi theo con đường tình yêu, hạ mình cho tới chết trên thập giá để tái lập trật tự các tương quan với Thiên Chúa. Thập giá Chúa Kitô trở thành cây mới của sự sống.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc họ các ngày hành hương sốt sắng, Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lạy Cha rồi ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha gặp gỡ công nghị các GM Công Giáo Canđê

Đức Thánh Cha gặp gỡ công nghị các GM Công Giáo Canđê

VATICAN. Sáng hôm 4 tháng 2-2013, ĐTC đã tiếp kiến Công nghị Giáo Hội Công Giáo Canđê gồm 20 vị, dưới sự hướng dẫn của Đức Tân Thượng Phụ Louis Sako.

Buổi tiếp kiến diễn ra trước thánh lễ hiệp thông do Đức Thượng Phụ và các GM Canđê cử hành tại Đền thờ thánh Phêrô. Đại diện ĐTC tại buổi lễ có ĐHY Leonardo Sandri Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương.

Trong thánh lễ, có đọc thư của ĐTC chúc mừng và ban sự hiệp thông Giáo Hội cho Đức tân Thượng Phụ Sako. Ngài viết:

”Tôi nồng nhiệt chúc mừng và cầu xin Chúa ban cho Đức Thượng Phụ dồi dào mọi ân sủng và phúc lành. Xin Chúa soi sáng cho Đức Thượng Phụ trong việc công bố Tin Mừng không biết mệt mỏi theo truyền thống sinh động có từ thời thánh Tômasô Tông Đồ. Ước gì Vị Mục Tử nhân lành và vĩnh cửu nâng đỡ Đức Thượng Phụ trong niềm tin của cha ông và ban cho Đức Thượng Phụ lòng nhiệt thành của các vị tử đạo xưa kia và ngày nay để bảo tồn gia sản linh đạo và phụng vụ của Giáo Hội Canđê đáng kính, trong tư cách Đức Thượng Phụ là Cha và là Thủ Lãnh. Ước gì sứ vụ của Đức Thượng Phụ là niềm an ủi cho các tín hữu Canđê tại quê mẹ cũng như tại hải ngoại, và cho cả toàn thể cộng đồng Công Giáo và các tín hữu Kitô đang sống tại quê hương của Tổ Phụ Abraham, như một khích lệ hòa giải, đón nhận nhau và hòa bình cho toàn thể nhân dân Iraq”.

Sau thánh lễ, Đức Thượng Phụ và các GM Công Giáo Canđê đã đến trước mộ thánh Phêrô Tông Đồ, lập lại lời tuyên xưng đức tin tông truyền.

Giáo Hội Công Giáo Canđê có 550 ngàn tín hữu tại Iraq trước khi Hoa Kỳ và đồng minh đánh chiếm nước này ngày 20 tháng 3-1993. Ở hải ngoại có 200 ngàn tín hữu, nhưng nay chỉ còn lại 200 ngàn tín hữu ở trong nước và phần còn lại phải di tản ra nước ngoài. (SD 4-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Giám mục cao niên nhất Việt Nam qua đời

Giám mục cao niên nhất Việt Nam qua đời

Giám mục Giacôbê Nguyễ văn Mầu

Linh cữu Đức cha Mầu được quàn tại nhà thờ chính tòa Vĩnh Long – Ảnh: Gp. Vĩnh Long

Đức cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu vừa từ trần hôm thứ Năm tại tiểu chủng viện Vĩnh Long, sau 73 năm linh mục và 45 năm giám mục. Hưởng thọ 99 tuổi.

Đức cha Mầu là vị giám mục thứ ba của giáo phận Vĩnh Long. Ngài được ca ngợi là vị giám mục có đời sống cương nghị, sâu đậm tình nghĩa, ứng xử hài hoà đã giúp giáo phận vượt qua nhiều thử thách trong thời kỳ khó khăn.

Trang website giáo phận Vĩnh Long viết rằng: “Trong hoàn cảnh khó khăn của những năm sau 1975, Đức cha Giacôbê đã âm thầm nâng đỡ tinh thần của đoàn dân Chúa. Ngài đã tích cực đào tạo hàng giáo sĩ, tu sĩ và hoạt động Công giáo tiến hành của giáo dân. Ngài đã thành lập nhiều giáo xứ mới và số giáo dân trong giáo phận tăng cao”.

Từ 1968-2001, giáo dân của giáo phận đã tăng từ 40.000 lên đến 168.000 người.

Trong suốt thời gian coi sóc giáo phận, ngài luôn được ca ngợi là vị giám mục nhân hậu và gần gũi với tất cả mọi người.

“Đức cha luôn gần gũi và thương yêu mọi người. Ngài không chỉ là người cha nhân hậu mà ngài còn là người cha rất vui tính và hài hước” – Thầy Phaolô Phan Thanh Duy nhận xét.

Thầy Duy nói rằng trong thời gian ngài nghỉ hưu mỗi khi có người đến thăm, ngài đều kể chuyện hài và chọc cười mọi người. “Ngài rất hóm hỉnh. Mỗi khi ai đó nói hút thuốc là có hại cho sức khỏe và chết sớm ngài đều phản bác và nói rằng nhờ hút thuốc mà ngài mới sống thọ như vậy” – thầy Duy kể.

Đức cha Mầu sinh ngày 21-1-1914 tại Bà Rịa, 12 tuổi ngài học tại Chủng viện Thánh Giuse. Đến năm 1940 ngài chịu chức linh mục và dấn thân phục vụ rất nhiều giáo xứ trong địa phận Sài Gòn lúc bấy giờ bao gồm cả Đà Lạt, Xuân Lộc, Mỹ Tho và Vĩnh Long.

Ngày 12-7- 1968, ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Vĩnh Long. Trước đó, ngài từng là giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.

Tháng 7-2001, ngài được Tòa Thánh chấp thuận cho nghỉ hưu ở tuổi 87, sau 33 năm làm giám mục giáo phận.

Thánh lễ an táng sẽ được cử hành vào ngày 4-2. Thi hài ngài sẽ được an táng trong khuôn viên nhà thờ chính tòa Vĩnh Long.

UCANEWS VN

Đầu tư cho sự sống và gia đình là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay

Đầu tư cho sự sống và gia đình là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay

Trưa Chúa Nhật hôm qua là ”Ngày cho sự sống” tại Italia Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã dọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô, trong đó có hàng ngàn thành viên của các phong trào bảo vệ sự sống. Ngỏ lời chào họ Đức Thánh Cha nói:

Anh chi em thân mến, Chúa Nhật thứ nhất tháng Hai là ”Ngày cho sự sống” tại Italia. Tôi hiệp ý với các Giám Mục Italia mời gọi đầu tư cho sự sống và gia đình, như là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay, như các vị đã viết trong sứ điệp gửi ngày này. Tôi chào mừng Phong trào bảo vệ sự sống và cầu chúc thành công cho sáng kiến mang tên gọi ”Một người trong chúng ta”, để cho âu châu luôn luôn là nơi mọi người được bảo vệ trong nhân phẩm của mình.

Đức Thánh Cha cũng chào đại diện các phân khoa Y khoa và Giải phẫu của các đại học ở Roma, cách riêng các giáo sư ngành Sơ sinh và Sản khoa được tháp tùng bởi Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản Roma. Ngài khích lệ họ nỗ lực đào tạo các nhân viên y tế cho nền văn hóa sự sống.

Trước đó trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa bài Phúc Ân thánh lễ Chúa Nhật, kể lại biến cố một ngày thứ bẩy Chúa Giêsu đọc và giải nghĩa Sách Thánh trong hội đường Nagiarét, nơi Người đã lớn lên và ai cũng biết gia đình Người. Đức Thánh Cha nói:

Giờ đây sau một thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một cách thức mới mẻ: trong buổi phụng vụ ngày thứ bẩy Người đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo việc thành toàn của nó bằng cách để cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Điều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, mọi người đều làm chứng và thán phục các lời ân phúc thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,22). Thánh sử Máccô kể rằng ”nhiều người hỏi: ”Bởi đâu ông ta được những điều này? Và ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?” (Mc 6,2). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói: ”ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ” (Đức Giêsu thành Nagiarét, 11). ”Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có các khát vọng nào đây?

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: chính vì biết sự khép kín này xác nhận châm ngôn: ”Không có ngôn sứ nào lại được chấp nhận trong quê hương mình” Đức Giêsu nói với dân chúng trong hội đường các lời vang lên như một khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ lớn Elia và Eliseo đã làm cho các người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Israel có nhiều đức tin hơn. Tới đây thì phản ứng đồng nhất: mọi người đều đứng lên đuổi Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, và còn tìm cách xô Ngươi xuống một vực sâu, nhưng với sự bình tĩnh tột độ Người băng qua đám dân chúng phẫn nộ và bỏ đi. Tới đây người ta phải tự hỏi: tại sao Đức Giêsu lại đã muốn khơi dậy sự đổ bể ấy? Ban đầu dân chúng thán phục Người và có lẽ Người đã có thể có được một sự đồng ý nào đó của họ… Nhưng đây mới là điểm đáng nói. Đức Thánh Cha giải thích lý do sự kiện này như sau:

Đức Giêsu đã không tới để tìm sự đồng ý của loài người, nhưng – như sau cùng Người sẽ nói với quan Philatô – để ”làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chna lý, sẵn sàng trả giá cho việc đó. Có đúng thật là Đức Giêsu là vị ngôn sứ của tình yêu, nhưng tình yêu cũng có chân lý của nó. Còn hơn thế nữa, tình yêu và chân lý là hai tên gọi của cùng một thực tại, là hai tên gọi của Thiên Chúa. Trong phụng vụ hôm nay cũng vang lên các lời của thánh Phaolô: ”Đức mến không vênh vang, không tự đắc, không thiếu tôn trọng, không tìm tư lợi, không nóng giận, không chý ý đến sự dữ nhận được, không vui vì bất công, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,4-6). Tin nơi Thiên Chúa có nghĩa là khước từ các thành kiến riêng, và tiếp nhận gương mặt cụ thể, trong đó Người tự mạc khải ra: đó là con người Đức Giêsu thành Nagiarlet. Và con đường này cũng dẫn tới chỗ nhận biết Người và phục vụ Người nơi tha nhân.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Ở đây thái độ của Đức Maria soi sáng chúng ta. Ai là người thân thiết với nhân tính của Chúa Giêsu hơn Mẹ? Nhưng Mẹ đã không bao giờ lấy làm gương mù gương xấu như các người đồng hương Nagiarét. Mẹ giữ gìn trong tim mầu nhiệm ấy và luôn luôn ngày càng biết tiếp nhận nó hơn, trên con đường lòng tin, cho tới cái chết của Thập Giá và ánh sáng tràn đầy của sự Phục Sinh. Xin Mẹ Maria cũng giúp chúng ta trung thành và tươi vui bước đi trên con đường ấy.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ngài đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong tiếng Pháp Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu cảm tạ Chúa và cầu nguyện cho tất cả những người sống đời thánh hiến, để họ lờn lên trong sự thánh thiện. Gương sống của họ lôi kéo chúng ta dành cho Thiên Chúa một chỗ rộng rãi trong đời sống, qua lời cầu nguyện, qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật và đọc Lời Chúa.

Bằng tiếng Đức ngài nói sứ điệp Phúc Âm hôm nay đòi buộc chúng ta phải quyết định, không phải cho một người nhưng cho Chúa Kitô, như là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Cả ngày nay nữa Phúc Âm cũng vấp phải sự khứơc từ của thế giới, đẩy Thiên Chúa ra bên lề và muốn hài lòng cho mình các câu trả lời dễ dãi và không ràng buộc.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

JERUSALEM. Hôm 29 tháng 1-2013, Tòa Thánh và Israel đã có một cuộc họp ”nghiêm túc và xây dựng” trong khuôn khổ cuộc thương thuyết về các vấn đề kinh tế tài chánh của Giáo Hội Công Giáo tại Thánh Địa.

Trên đây là nội dung thông cáo chung sau cuộc họp của Ủy ban làm việc thường trực song phương giữa Tòa Thánh và Israel. Ủy ban đã ghi nhận có những tiến bộ đáng kể và cầu mong sớm đạt tới một hiệp định”.

Phái đoàn Tòa Thánh tại cuộc họp do Đức Ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao, hướng dẫn, và phái đoàn Israel do thứ trưởng ngoại giao Daniel Ayalon làm trưởng đoàn.

Đối tượng cuộc thương thuyết là điều số 10 triệt 2 trong hiệp định cơ bản ký kết giữa Israel và Tòa Thánh hồi cuối năm 1993.

Cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm nhưng chưa đạt kết quả. Nhà nước Israel muốn bãi bỏ các qui luật có từ thời Osman cai quản Thánh Địa, miễn thế cho các cơ sở của các tôn giáo như nhà thương, nhà trọ và trường học. Chính phủ Israel muốn chấm dứt các qui luật này nhưng Tòa Thánh tiếp tục đòi duy trì, vì nếu không các cơ sở của Giáo hội sẽ không thể tồn tại.

Giới báo chí quốc tế nhận xét rằng: giống như những lần trước đây, thông cáo chung sau cuộc họp hôm 29-1-2013 cũng nói đến ”những tiến bộ trong cuộc thương thuyết, phần lớn các vấn đề đã được giải quyết và thỏa hiệp chung kết đến gần”.

Phía Tòa Thánh không có tuyên bố nào ngoài thông cáo chung, nhưng phía Israel nói đến những tiến bộ tích cực. Ví dụ Đại sứ Zion Evrony của Israel cạnh Tòa Thánh nói với hãng tin Asia News hôm 30-1-2013 rằng ”Đã có những tiến bộ ý nghĩa về nhiều điểm trong Hiệp định cơ bản giữa Tòa Thánh và Israel, nhất là về những điểm đã thảo luận trong các cuộc gặp gỡ trước đây. Tuy một số vấn đề vẫn chưa được giải quyết, nhưng từ cả hai phía đều có ý chí tiếp tục tiến bước để lấp đầy sự dị biệt này, đây sẽ là đối tượng cuộc họp tới đây của Ủy ban”.

Hai bên đã thỏa thuận sẽ nhóm khóa họp toàn thể của Ủy ban vào tháng 6 năm nay tại Vatican.

Đại sứ Evrony nói thêm rằng ”Có nhiều lý do để lạc quan, vì chúng tôi đã nhận thấy rằng những chia cách có thể được khắc phục”. Tuy nhiên ông nhận rằng ”Vẫn chưa có những dữ kiện chính xác về lịch trình để tiến tới một hiệp định chung kết”.

Theo Ông Đại Sứ, có sự cải tiến rõ ràng trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Israel. Các quan hệ tốt đẹp và thấm đượm tinh thần tín nhiệm lẫn nhau.

Một nguồn tin từ Vatican cho biết sở dĩ cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm mà chưa đạt kết quả là vì phía Israel, mỗi khi thay đổi chính phủ, chính phủ đến sau thường không chấp nhận những gì Ủy ban song phương đã đạt được và lại bắt đầu. (SD 30-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

Đức Thánh Cha cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến

Đức Thánh Cha cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến

VATICAN. ĐTC mời gọi những người thánh hiến hãy nuôi dưỡng và canh tân đức tin để có thể chiếu sáng ơn gọi của mình.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 2 tháng 2-2013, lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, cũng là Ngày đời sống thánh hiến, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ trong Đền thờ thánh Phêrô.

Ngày Đời sống thánh hiến được Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cử hành lần đầu tiên hồi năm 1997, với mục đích chúc tụng Thiên Chúa về hồng ân đời sống thánh hiến, là điều vốn thuộc về sự thánh thiện của Giáo Hội, đồng thời ngày càng đề cao chứng tá cũng những người chọn theo Chúa Kitô qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, và đây cũng là cơ hội quí giá để mọi người thánh hiến lập lại quyết tâm đã và đang khích lệ họ hiến thân phụng sự Chúa.

Đây là lần đầu tiên từ 7 năm nay, ĐTC Biển Đức 16 cử hành thánh lễ nhân Ngày Đời Sống thánh hiến. Những năm vừa qua, ngài chỉ chủ sự Kinh Chiều nhân ngày này.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Tổng trưởng Bộ các dòng tu João Braz de Aviz, người Brazil, LM Sebastiano Paciolla, thuộc dòng Xitô, Phó tổng thư ký của Bộ, 4 Bề Trên Tổng quyền thành viên, và hàng chục các LM phục vụ tại Bộ.
Mở đầu buổi lễ có nghi thức làm phép nến do ĐTC chủ sự ở cuối Đền Thờ, rồi ngài cùng với đoàn đồng tế và 50 bề trên nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đi rước tiến lên Bàn thờ chính.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, sau khi quảng diễn ý nghĩa trình thuật Phúc Âm về việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, ĐTC nhắc đến cuộc rước nến sáng vào đầu thánh lễ với sự tham dự của các bề trên nam nữ. Ngài nói:

”Đề tài ánh sáng, vang vọng trong bài ca thứ I và thứ II của Người Tôi Tớ Chúa, trong II-Isaia (Xc 42,6; 49,6) hiện diện mạnh mẽ trong phụng vụ này. Thực vậy phụng vụ được mở đầu với cuộc rước đầy ý nghĩa mà các Bề trên nam nữ của các Hội dòng đời sống thánh hiến có mặt tại đây đã tham dự, tay cầm nến sáng. Dấu hiệu này, đặc biệt trong truyền thống phụng vụ của lễ hôm nay, biểu lộ vẻ đẹp và giá trị của đời thánh hiến như một phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô; một dấu hiệu gợi lại biến cố Mẹ Maria tiến vào Đền Thánh: Đức Trinh Nữ Maria, người Thánh Hiến tuyệt hảo, tay bồng chính Ánh Sáng là Ngôi Lời nhập thể, đến để xua tan bóng đêm ra khỏi trần thế bằng tình thương của Thiên Chúa”.

”Anh chị em thánh hiến thân mến, tất cả em chị em được diễn tả trong cuộc lữ hành tượng trưng, – trong Năm Đức Tin, cuộc lữ hành này càng diễn tả sự hợp nhau của anh chị em trong Giáo Hội, để được củng cố trong đức tin và canh tân sự dâng hiến của anh chị em cho Thiên Chúa. Tôi thân ái gửi đến mỗi người và hội dòng của anh chị em lời chào thăm thân ái nhất và cám ơn anh chị em vì sự hiện diện nơi đây. Trong ánh sáng của Chúa Kitô, với nhiều đoàn sủng khác nhau của đời chiêm niệm và tông đồ, anh chị em cộng tác vào cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới. Trong tinh thần biết ơn và hiệp thông ấy, tôi muốn gửi đến anh chị em ba lời mời gọi, để anh chị em có thể hoàn toàn tiến vào ”cánh cửa đức tin” luôn mở rộng cho chúng ta (Xc Tông thư ”Cánh cửa đức tin”, 1).

– Trước tiên tôi mời gọi anh chị em hãy nuôi dưỡng đức tin để có thể chiếu sáng ơn gọi của mình. Để được vậy, tôi nhắn nhủ anh chị em hãy làm một cuộc lữ hành nội tâm, nhớ lại ”mối tình đầu” qua đó Chúa Giêsu Kitô đã sưởi ấm tâm hồn anh chị em, không phải để hoài tưởng, nhưng để nuôi dưỡng ngọn lửa ấy. Vì thế cần phải ở với Chúa, trong sự thinh lặng thờ lạy, và nhờ đó khơi dậy ý muốn và niềm vui được chia sẻ cuộc sống, những chọn lựa, sự vâng phục đức tin, mối phúc của người thanh bần, tình yêu quyết liệt của Ngài. Luôn luôn tái khởi hành từ cuộc gặp gỡ yêu thương ấy, anh chị em từ bỏ mọi sự để ở với Chúa và như Chúa, anh chị em dấn thân phụng sự Thiên Chúa và anh chị em đồng loại (Xc Tông Huấn ”Đời sống thánh hiến”, 1).

– Thứ hai tôi mời gọi anh chị em hãy có một đức tin biết nhận ra sự khôn ngoan của yếu đuối. Trong những vui mừng và sầu muộn của thời nay, khi những cam go và sức nặng của thánh giá đè nặng, anh chị em đừng nghi ngờ về sự hạ cố (kenosis) của Chúa Kitô, vốn đã là một chiến thắng phục sinh. Chính trong giới hạn và yếu đuối của con người, chúng ta được mời gọi sống đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, hướng đến sự trọn hảo mai hậu, một sự trọn hảo được diễn tả trước phần nào ngay từ bây giờ (ibid., 16). Trong một xã hội luôn tìm kiến hiệu năng và thành công, cuộc sống của anh chị em, như của một ”số nhỏ”, của một nhóm người nhỏ bé yếu thế, cảm thông với những người không có tiếng nói, trở thành một dấu chỉ mâu thuẫn như Phúc âm đã nói.

– Sau cùng tôi mời gọi anh chị em hãy canh tân đức tin, làm cho anh chị trở thành những người lữ hành hướng về tương lai. Tự bản chất, đời sống thánh hiến là một cuộc lữ hành tinh thần, tìm kiếm một Tôn Nhan khi ẩn khi hiện: ”Faciam tuam, Domine, requiram” (Thánh nhan Ngài lạy Chúa, con tìm kiếm) (Tv 26,8). Ước gì điều này trở thành sự liên lỷ khao khát của tâm hồn, thành tiêu chuẩn cơ bản hướng dẫn hành trình của anh chị em, trong những bước tiến nhỏ của cuộc sống hàng ngày cũng như trong những quyết định quan trọng của Giáo Hội ngày nay. Anh chị em đừng hùa theo những tiên tri tai ương, những người loan báo sự cáo chung hoặc sự vô nghĩa của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội ngày nay, trái lại, anh chị em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, mang lấy những võ khí của ánh sáng, như thánh Phaolô nhắn nhủ (Xc Rm 13,11-14), luôn tỉnh thức canh chừng”. Thánh Cromazio đi Aquileia đã viết: ”Xin Chúa đẩy xa khỏi chúng con nguy hiểm như thế để không bao giờ chúng con bị giấc ngủ bất trung đè nặng; nhưng xin ban ơn thánh và lòng từ bi cho chúng con, để chúng con có thể luôn tỉnh thức trong sự trung thành với Người. Thực vậy lòng trung thành của chúng ta có thể tỉnh thức trong Chúa Kitô” (Bài giảng 32,4).

”Anh chị em thân mến, niềm vui của đời thánh hiến nhất thiết tiến qua sự tham phần vào Thập Giá của Chúa Kitô. Mẹ Maria Chí Thánh đã từng trải qua như thế. Sự đau khổ của Mẹ là sự đau khổ của một con tim trở nên một với Con Tim của Con Thiên Chúa, bị đâm thâu qua vì yêu thương. Từ vết thương ấy, vọt ra ánh sáng của Thiên Chúa, và từ những đau khổ, hy sinh, hiến thân mình mà những người thánh hiến sống vì yêu Thiên Chúa và tha nhân chiếu tỏa cùng ánh sáng, loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Trong lễ này, tôi đặc biệt cầu chúc tất cả những người thánh hiến có một cuộc sống thấm đượm Tin Mừng chân chính, để ”nơi anh chị em Tin Mừng được sống thực, được làm chứng, loan báo và chiếu tỏa rạng ngời như Lời chân lý (Xc Porta fidei, 6). Amen”. (SD 2-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong sứ điệp mùa chay nhân dịp Năm Đức Tin, ĐTC mời gọi các tín hữu suy tư về mối quan hệ chặt chẽ giữa đức tin và đức mến, đồng thời làm sao để trong mỗi hoạt động bác ái có phản ánh tình thương của Chúa Kitô đối với con người.

Sứ điệp của ĐTC đã được ĐHY Robert Sarah, người Guinée équatoriaele, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo sáng 1 tháng 2-2013, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Sứ điệp mang tựa đề ”Tin trong đức mến khơi dậy lòng bác ái.” ”Chúng tôi đã nhìn nhận và tin rằng tình yêu Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (1 Ga 4,16).

Sứ điệp được chia làm 4 phần lần lượt nói về:
1. ”Đức tin như một lời đáp lời tình yêu Thiên Chúa”
2. ”Đức mến như một cuộc sống trong đức tin”
3. ”Mối liên hệ không thể phân ly giữa đức tin và đức mến”
4. ”Vị thế ưu tiên của đức tin, chỗ đứng thứ nhất của đức mến”

ĐTC nhấn mạnh sự kiện chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (Xc 1, Ga 4,10), nên tình yêu không còn chỉ là ”một giới răn”, nhưng là lời đáp trả hồng ân tình thương qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta” (Deus caritas est, 1)… Kitô hữu là người được tình thương của Chúa Kitô chinh phục, và vì thế, được tình thương ấy thúc đẩy, họ cởi mở một cách cụ thể và sâu sắc đối với tình yêu tha nhân” (Xc. ibd., 33)… Toàn thể đời sống Kitô là một lời đáp lại tình thương của Thiên Chúa. Và câu trả lời đầu tiên chính là đức tin như một sự đón nhân, đầy ngỡ ngàng và biết ơn, đối với một sáng kiến chưa từng có của Thiên Chúa, đi trước và gọi hỏi chúng ta” (2).
Dưới ánh sáng những sự kiện đó, ĐTC nhắc nhở rằng ”Hiển nhiên là chúng ta không bao giờ có thể tách rời, hoặc đối nghịch giữa đức tin và đức mến. Hai nhân đức hướng thần này liên hệ mật thiết với nhau và thật là điều sai lầm khi coi hai nhân đức ấy đối nghịch nhau”.

Từ sự kiện đó, ĐTC cảnh giác chống lại thái độ của người quá nhấn mạnh đến sự ưu tiên và tầm quan trọng quyết định của đức tin đến độ coi nhẹ và hầu như khinh rẻ những công việc bác ái cụ thể, coi chúng chỉ là những hành vi nhân đạo tổng quát mà thôi.. Cũng vậy, ngài chống lại thái độ của người quá đề cao đức mến và các hoạt động bác ái đến độ cho rằng những hành động đó thay thế đức tin. Để có một đời sống thiêng liêng lành mạnh, cần phải xa tránh thuyết duy tín (fidéisme) cũng như thái độ duy hoạt động dạy đời.”

ĐTC nhận xét ”Đời sống Kitô hệ tại liên tục tiến lên núi gặp gỡ Thiên Chúa để rời hạ san, mang tình thiêng và sức mạnh từ cuộc gặp gỡ ấy, phục vụ anh chị em với cùng tình yêu thương của Thiên Chúa”.

Người tín hữu Kitô hoạt động bác ái biết rằng không phải những cố gắng riêng của mình mang lại hoa trái, nhưng đúng hơn là ”sáng kiến cứu độ” đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài. Ân sủng không giới hạn tự do và trách nhiệm của chúng ta, nhưng quí hướng chúng về những hoạt động bác ái”.

Trong các hoạt động bác ái mà các tín hữu Kitô được mời gọi thi hành, ĐTC đề cao công trình bác ái lớn nhất là việc rao giảng Tin Mừng, mang Lời Chúa đến cho tha nhân: ”Không có hoạt động nào hữu ích hơn, nghĩa là bác ái hơn đối với tha nhân cho rằng bẻ Bánh Lời Chúa, giúp tha nhân được tham dự vào Tin Mừng, dẫn họ đi vào trong tương quan với Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng chính là sự thăng tiến nhân bản cao cả nhất và đầy đủ nhất” (3).

ĐHY Robert Sarah

Trong cuộc họp báo, ĐHY Sarah nhắc đến những hoạt động bác ái rất bao quát của Giáo Hội trợ giúp người nghèo, các nạn nhân chiến tranh, các gia đình gặp khó khăn, các bệnh nhân, v.v. Ngài cũng loan báo sẽ gửi một phái bộ sang Giordani từ 19 đến 21-2 tới đây để phối hợp công tác cứu trợ trong vùng, đặc biệt là cho dân chúng Siria. Phái bộ do chính ĐHY hướng dẫn. Tại thủ đô Amman, ngài sẽ gặp vua Abdallah và các đại biểu của Caritas Trung Đông, Bắc Phi, để thảo luận về tình trạng khó khăn đặc biệt tại Siria, và tìm cách trợ giúp cụ thể cho những người tị nạn. Tình hình địa phương thật là bi thảm vì giá lạnh, thieu lương thực, thuốc men, v.v. Có lẽ chúng tôi sẽ không tìm được giải pháp, nhưng chúng tôi muốn tìm cách ngưng cuộc chiến tranh ở Siria”.

ĐHY cho biết trong năm vừa qua, ĐTC đã dành 3 triệu rưỡi Euro để giúp đỡ các nạn nhân và người nghèo, điều này chứng tỏ sự gần gũi của ĐTC Biển Đức 16 với nhiều thứ đau khổ trên thế giới.

ĐHY Sarah cũng nói: ”Trong Giáo hội có 165 tổ chức Caritas trên toàn thế giới và họp thành một liên hiệp là Caritas quốc tế. Hoạt động của Giáo Hội dành cho người nghèo thật là mênh mông”.

Hiện diện trong cuộc họp báo cũng có Ông Michael Tio, Chủ tịch Liên đoàn quốc tế các Hội bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô. Ông cho biết Hội này hiện diện tại 148 quốc gia, với 780 ngàn thành viên và 1.3 triệu người thiện nguyện, phục vụ 30 triệu người nghèo. Ông Tio khẳng định rằng ”Đức bác ái Kitô là tình yêu đối bới Thiên Chúa được biến thành việc phục vụ tha nhân” (SD 1-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 01-28 đến 02/03/2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 01-28 đến 02/03/2013

Trích từ Xuân Bích VN

  • Đức Giám Mục xác nhận NCR không phải là tờ báo “Công Giáo”
  • TIN VẮN CUỐI TUẦN QUA.
  • Các Tự Sắc mới tác động đến các chủng viện, dạy giáo lý.
  • Đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống.
  • Thiếu hụt trầm trọng ơn thiên triệu buộc Giáo Hội tính đến những lựa chọn khác.
  • Đức Biển Đức XVI ủng hộ các cuộc diễn hành bảo vệ Sự Sống.
  • Sống Ngày Chúa Nhật như là Ngày của Chúa.
  • “Ước gì tên của các nạn nhân Holocaust không bao giờ tàn lụi”.
  • BỔ NHIỆM MỚI.
  • Các ân xá cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân.
  • Giáo Hội và các bệnh nhân phong cùi : 547 trại phong trên thế giới.
  • Cuba: Hoàn trả cho Giáo Hội Công giáo hai trường học và một vùng đất bị tịch biên.
  • Đám đông kỷ lục tại Cuộc Đi Bộ Diễn Hành Vì Sự Sống ở Washington.
  • Một thượng hội đồng để bầu Tân Thượng phụ Can-đê.
  • Dự luật Hôn nhân đồng tính có thể dẫn tới những thay đổi khác trong luật về ngoại tình, ly dị.
  • Uỷ Ban Israel – Toà Thánh.
  • Một số GM Hoa Kỳ sẵn sàng thách thức sắc lệnh HHS, có nguy cơ đi tù.
  • Chim bồ câu của Đức Thánh Cha bị mòng biển tấn công khi mới cất cánh.
  • Thoả thuận giữa Vatican và Palestine hướng tới ký kết “nhanh chóng”.
  • Thánh Đường [nơi Chúa] Giáng Sinh nhận món quà lớn từ Vatican.
  • Giới trẻ bị “ngắt ra” khỏi nền văn hoá của họ.

Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁÓ 01-28-2013 đến 02-03-2013

 

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ – CHÚA NHẬT IV TN C

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ

CHÚA NHẬT IV TN C

Thiên Chúa luôn tác động, song hành và quan phòng gìn giữ các Ngôn Sứ của Người để họ can đảm rao truyền Lời Chúa, dù gặp khó khăn, trắc trở, bách hại. Giê-rê-mi-a tự thuật Lời Thiên Chúa về ơn gọi làm Ngôn Sứ của mình như sau:

“Trước lúc tượng hình trong dạ mẹ, Ta biết ngươi và thánh hiến ngươi rồi. Ta đặt Ngươi làm ngôn sứ. Hãy đi khắp muôn nơi và nói cho thế giới Lời Ta truyền dạy. Đừng nhát đảm hay chùn chân, khiếp hãi, Bởi nơi ngươi Ta xây vững thành trì. Cột sắt đúc, vách thành đồng, thì sá chi, vì kẻ chống đối không mảy may thắng được. Vì Ta ở cùng Ngươi, đi cùng trong từng bước, để giải thoát ngươi khỏi mưu chước gian tà”.

Thân phận Ngôn Sứ của Đức Giêsu cũng vậy, nếu không nói là còn bi tráng hơn. Cả trình thuật lần về quê hương Nadarét để rao giảng Tin Mừng hôm nay, đã cho thấy gần như toàn bộ hành trình Ngôn Sứ của Ngài.

Nghe Chúa Giêsu giảng, phút đầu, kẻ thán phục, người ngỡ ngàng rằng kiếm ở đâu ra một con người tài ba xuất chúng thế. Thế nhưng, khi nhận ra con người ấy là Giêsu, con trai ông thợ mộc trong làng, thì họ tỏ ra xem thường Người, phẫn nộ, đuổi xua và thậm chí, còn muốn ám hại Người nữa.

Vâng chuyện xưa nay vẫn vậy. Con mắt trần gian vẫn nhìn người qua thân thế, nguồn gốc. “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Há lẽ ông thợ mộc Giuse nghèo hèn thinh lặng kia lại có thể có một đứa con tuyệt vời như vậy sao ? Tính ganh tỵ của con người vẫn không ưa ai hơn mình, có khi ngay cả người nhà: “Người nhà chẳng thích người nhà, lắm tài nhiều đức khôn ra với đời”. Đáng lý phải tự hào, phải hãnh diện về người nhà, người làng mình chứ. Người cùng quê hương, làng xóm với Chúa Giêsu không thể chấp nhận trong làng quê mình lại có người tài giỏi, xuất chúng hơn người. Họ quên rằng, nếu không có cái gốc rạ, thì chẳng có cây lúa, nếu không có cây lúa, thì chẳng có hạt lúa, hạt cơm.

Vâng, còn đó, cái gốc rạ, một đời làm chân cho cây lúa, một đời nặng nhọc, vất vả, rồi tàn úa, từ thuở lúa trổ đòng đòng, đến chắc hạt vàng bông. Thử hỏi ai đã từng quí hạt gạo trắng trong, thì quên sao những đêm mưa, bềnh bồng cây lúa ? Ai đã từng nức nở khen cánh đồng mướt xanh như lụa, lại có thể vô tình xem gốc rạ vô công ?

Cũng vậy, Con Chúa xuống làm người, và làm người con trong gia đình có cái gốc rạ là cô thợ may, anh thợ mộc. Về Nadarét, nghe ai đó mắng vốn thật đau, hẳn thiếu điều Người bật khóc thương cho họ đã không hiểu thấu mầu nhiệm kiếp người của Con Thiên Chúa là được sinh ra vì hạnh phúc cuộc đời, được sai đi ban Lời tình muôn thuở. Và vì thế, họ không đón nhận, họ từ chối, phẫn nộ, đuổi xua. Họ không biết “cái gốc rạ” của Đức Giêsu ở trên Trời.

Trước thái độ của người Do Thái ở làng Nadarét, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa Cha, chương trình cứu chuộc nhân loại. “Người  băng qua giữa họ mà đi”, vì Tin Mừng không chỉ dành riêng cho Người ở quê hương Ngài, ở Do Thái, mà là Tin Mùng cho muôn dân tộc, cho cả và thiên hạ.

Chúa Giêsu đã rẽ lối, đi về phía xa vời, cho muôn nước, cho mọi thời rạng ngời Lời Cứu Thế. Người vẫn biết số phận Ngôn Sứ là không ai có thể được vinh dự gì nơi cắt rốn chôn nhau. Hẳn là, Người cũng bỏ lại đằng sau bao kỷ niệm luyến thương nơi quê hương ngày thơ bé để bước vào đường thênh thang mà hành trình không cô lẻ, bởi Thánh Linh cùng Người hiên ngang bước Cứu Thế rạng ngời.

Vâng,

Tin Mừng không ưu tiên cho đồng hương, nhưng ưu tiên cho người hân hoan đón nhận. Tin Mừng không ưu tiên cho trí thức, nhưng ưu tiên cho kẻ thành tâm khiêm cung.

Chiếc áo của Tin Mừng không sang trọng lụa là gấm vóc, nhưng là tình yêu thương che ấm những cuộc đời tang tóc điêu linh. Lời thân thưa của Tin Mừng không chuốt ngót, cũng chẳng rẻ khinh, nhưng chân thật tự tấm lòng yêu không hề gian dối.

Bước đi của Tin Mừng không ngại dấn thân vào trong hẻm tối, nhưng can đảm thắp lên niềm tin nơi chán chường, lầm lỗi, diệt vong. Niềm vui của Tin Mừng không chỉ một lóe sáng cõi hư không, nhưng chiếu dọi vạn hào quang rực hồng muôn năm hằng hữu.

Thời gian của Tin Mừng không tính năm tính tuổi, nhưng là vĩnh cửu, là vô hạn vô biên

Ai có thể cầm chân Tin Mừng trong thánh thất, trong đền thiêng, mà không ngộ ra Tin Mừng đã bước đến muôn miền thế giới ? Ai có thể bắt bớ, bỏ tù ngàn ngàn Ngôn Sứ, mà che mắt nhìn cánh đồng vàng muôn tín hữu thành tâm ?

Con Thiên Chúa đến trần gian rất đỗi âm thầm, rồi hiên ngang bước đi gieo Tin Mừng nguồn sống mới. Người đã đi giữa mũi đạn làn tên chống đối, vẫn hùng anh chết để phục sinh cho nên trọn Tin Mừng.

Lạy Chúa, chúng con, những tín hữu thi hành sứ vụ Ngôn Sứ trong đời thường cũng không tránh khỏi bao làn tên mũi đạn. Xin cho chúng con lòng kiên vững làm chứng rằng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa đang dành cho tất cả những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng, đón nhận Đức Giêsu. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 30.1.2013

Để đón tiếp Chúa

 Để đón tiếp Chúa

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabát, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và Thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì?”.
 
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
 
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
 
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là  Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
 
Dân làng Nadarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi."
 
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
 
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm  ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
 
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
 
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nadarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nadarét đánh mất hồng ân vô giá.
 
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (ĐTGM. GiuseNgô Quang Kiệt).
 
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và  đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
  
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

 Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội Đường Nazaret, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.

1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính thần linh

Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.

Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazaret không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.

Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?

2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính nhưng không

Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.

Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.

Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).

3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính phổ quát

Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Apraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.

Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).

Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long