Nhân quyền Việt Nam bị lưu ý trước thềm Đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ

Nhân quyền Việt Nam bị lưu ý trước thềm Đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ

Họp báo về tình hình nhân quyền Việt Nam tại trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ ngày 10-4-2013

                                       Hợp báo về tình hình nhân quyền VN tại trụ sở quốc hội Hoa Kỳ ngày 10 tháng 04 năm 2013

Một cuộc họp báo về tình hình nhân quyền Việt Nam được tổ chức tại trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ ngày 10/4 hai ngày trước khi cuộc đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ khai diễn ở Hà Nội.

Cuộc họp báo do dân biểu Christopher Smith, Chủ tịch Tiểu ban Nhân quyền của Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, chủ trì bắt đầu lúc 10:45 sáng (giờ thủ đô Hoa Kỳ) với phần trình bày và trả lời báo chí của một số nhà lập pháp Mỹ quan tâm đến nhân quyền Việt Nam và người Mỹ gốc Việt đại diện các tổ chức cổ xúy nhân quyền cho Việt Nam.

Trong số này, có tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành Ủy ban Cứu người Vượt biển BPSOS, tổ chức khởi xướng cuộc vận động nhân quyền cho Việt Nam tại Quốc hội Mỹ lần này.
 
Ông Thắng cho biết thêm về nội dung và thông điệp của cuộc họp báo hôm nay:

Cuộc trao đổi này được thực hiện nửa tiếng trước khi buổi họp báo diễn ra ở Quốc hội. Chúng tôi sẽ có tường trình về diễn tiến buổi này, mong quý vị đón theo dõi.
 
Vào sáng 11/4 (giờ Hoa Kỳ) cũng tại trụ sở Quốc hội Mỹ sẽ diễn ra cuộc điều trần về tình hình nhân quyền Việt Nam.

Các nhân chứng gồm đại diện các tổ chức nhân quyền-tôn giáo của người Việt hải ngoại và đại diện các nạn nhân bị buôn người sang Nga, bị đàn áp tôn giáo ở Cồn Dầu sẽ tập trung trình bày ba lãnh vực vi phạm nhân quyền tại Việt Nam bao gồm đàn áp tôn giáo, tra tấn và bạo hành bởi công an, và nạn buôn người.

Ngày 18/4 theo dự kiến sẽ có thêm một cuộc điều trần nữa cũng do dân biểu Chris Smith chủ tọa với trọng tâm nói về nạn buôn người tại Việt Nam.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng nói ông kỳ vọng sẽ có cuộc điều trần thứ ba vào cuối tháng này hoặc đầu tháng sau tập trung vào vấn đề tài sản của các giáo hội tại Việt Nam và của các công dân Mỹ gốc Việt bị nhà cầm quyền Hà Nội cưỡng chiếm.

Trà Mi-VOA

Hãy liên tục vun trồng các tương quan với Thiên Chúa là Cha và sống xứng đáng là con của Người

Hãy liên tục vun trồng các tương quan với Thiên Chúa là Cha và sống xứng đáng là con của Người

Tương quan với Thiên Chúa là Cha không phải là một kho tàng mà chúng ta giữ gìn trong một góc cuộc sống, mà phải lớn lên, phải được nuôi dưỡng mỗi ngày với việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Sám hối và Bí tích Thánh Thể, và sống tình bác ái. Chúng ta có thể sống như là con. Đó là phẩm giá của chúng ta. Hãy có cung cách hành xử như là các người con đích thật của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 10 tháng 4-2013 tại quảng trường thánh Phêrô. Ngoài các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu có các đoàn hành hương đến từ Á châu như Philippines, Nam Hàn và Thái Lan. Hai đoàn hành hương đến từ xa nhất là đoàn hành hương của tổng giáo phận Buenos Aires Argentina và Australia.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bầy bài giáo lý về tầm quan trọng của sự Phục Sinh đối với cuộc sống Kitô. Nếu không có sự phục sinh đức tin Kitô sẽ trờ thành vô ích. Đức Thánh Cha giải thích lý do như sau:

Đức tin của chúng ta dựa trên Cái Chết và sự Phục Sinh của Chúa Kitô, y như một ngôi nhà dựa trên các nền tảng của nó: nếu các nền tảng này sụp đổ, thì ngôi nhà cũng sập. Trên thập giá Chúa Giêsu đã hiến dâng chính mình bằng cách mang trên mình các tội lỗi của chúng ta và xuống trong vực sâu của cái chết, và trong sự Phục Sinh Người chiến thắng và lấy đi các tội lỗi và mở ra cho chúng ta con đường tái sinh vào một cuộc sống mới. Thánh Phêrô diễn tả điều này một cách tổng hợp trong phần đầu thư thứ I của người như chúng ta đã nghe: ”Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai” (1 Pr 1,3-4).

Thánh Tông Đồ nói với chúng ta rằng với sự Phục Sinh của Chúa Giêsu xảy ra một điều gì đó triệt để mới mẻ: đó là chúng ta được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và trở thành con cái của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta được sinh vào một cuộc sống mới. Khi nào thì điều này được thực hiện cho chúng ta? Trong Bí tích Rửa Tội. Xưa kia, người ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội bằng cách dìm mình trong nước. Người phải được rửa tội cởi bỏ y phục, bước xuống trong cái bồn lớn của Bí tích Rửa Tội, và vị Giám Mục hay Linh Mục đổ nước trên đầu họ ba lần, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Rồi người đã được rửa tội bước ra khỏi bồn và mặc y phục mới mầu trắng: nghĩa là họ đã được sinh vào một cuộc sống mới, bằng cách dìm mình trong Cái Chết và sự Sống Lại của Chúa. Họ đã trở thành con cái Chúa.

Trong thư gửi tín hữu Roma thánh Phaolô viết: ”Anh em đã lãnh nhận Thần Khí làm cho anh em trở thành nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên ”Abba, Cha ơi” (Rm 8,15). Thần Khí thực hiện nơi chúng ta điều kiện mới này là con Thiên Chúa. Và đây là ơn lớn nhất mà chúng ta nhận được từ Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Và Thiên Chúa đối xử với chúng ta như là con, Người hiểu biết chúng ta, tha thứ cho chúng ta, ôm ấp chúng ta, yêu thương chúng ta, cả khi chúng ta lầm lỗi. Trong Thánh Kinh Cựu Ước ngôn sứ Isaia đã khẳng định rằng cả khi một bà mẹ có quên con mình đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không bao giờ và không khi nào quên chúng ta” (x. Is 49,15). Đức Thánh Cha giải thích thêm về sự cần thiết phải phát triển cuộc sống mới là con Thiên Chúa của tín hữu như sau:

Tuy nhiên, tương quan là con với Thiên Chúa này không phải như là một kho tàng mà chúng ta giữ gìn trong một góc cuộc sống, mà phải lớn lên, phải được nuôi dưỡng mỗi ngày với việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, tham dự vào các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Sám hối và Bí tích Thánh Thể, và sống tình bác ái. Chúng ta có thể sống như là con. Và đó là phẩm giá của chúng ta. Chúng ta hãy có cung cách hành xử như là các người con đích thật. Điều này có nghĩa là mỗi ngày chúng ta phải để cho Chúa Kitô biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở nên giống như Người; nó có nghĩa là tìm sống như Kitô hữu, tìm cách theo Chúa, cả khi chúng ta trông thấy các hạn hẹp và các yếu đuối của chúng ta đi nữa. Cám dỗ bỏ Thiên Chúa ra một bên và để chính chúng ta vào trung tâm luôn luôn ở trước cửa, và kinh nghiệm về tội lỗi gây thương tích cho cuộc sống Kitô, cho sự kiện là con Thiên Chúa của chúng ta. Vì thế chúng ta phải có can đảm sống đức tin, không để bị hướng dẫn bởi tâm thức nói với chúng ta rằng ”Thiên Chúa không cần thiết, không quan trọng đối với ngươi”. Trái lại: chỉ khi có cung cách hành xử như con cái Thiên Chúa, không ngã lòng vì các sa ngã của chúng ta, khi cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, cuộc sống của chúng ta sẽ mởi mẻ, được linh hoạt bởi sự thanh thản và tươi vui. Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta! Thiên Chúa là niềm hy vọng của chúng ta!

Anh chị em thân mến, chúng ta phải là những người đầu tiên có niềm hy vọng chắc chắn này, và phải là một dấu chỉ hữu hình, rõ ràng, sáng láng của niềm hy vọng đó. Chúa Phục Sinh là niềm hy vọng không suy giảm, không gây thất vọng (x. Rm 5,5). Biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta các niềm hy vọng đã tan biến, biết bao nhiêu lần các chờ mong mà chúng ta mang trong con tim đã không được thực hiện! Niềm hy vọng của Kitô hữu chúng ta mạnh mẽ, chắc chắn, vững vàng trên trần gian này, nơi Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta tiến bước, và được mở ra cho sự vĩnh cửu, bởi vì được xây dựng trên Thiên Chúa, là Đấng luôn trung tín. Sống lại với Chúa Kitô qua Bí tích Rửa Tội, với ơn đức tin, cho một gia tài không hư nát, đem chúng ta tới chỗ tìm các điều của Thiên Chúa nhiều hơn, nghĩ tới Người nhiều hơn và cầu nguyện với Người nhiều hơn.

Là tín hữu Kitô không giản lược vào việc tuân giữ các điều răn, nhưng muốn nói rằng ở trong Chúa Kitô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu thương như Người; để cho Người chiếm hữu đời ta và thay đổi nó, biến đổi nó, giải thoát nó khỏi các tối tăm của sự dữ và tội lỗi.

Anh chị em thân mến, với người hỏi chúng ta về lý do niềm hy vọng trong chúng ta chúng ta hãy chỉ Chúa Kitô Phục Sinh cho họ, chúng ta hãy chỉ Người cho họ bằng việc loan báo Lời Chúa, và nhất là bằng cuộc sống phục sinh của chúng ta. Chúng ta hãy cho thấy niềm vui là con Thiên Chúa, sự tự do sống trong Chúa Kitô mà Người ban cho chúng ta, là sự tự do thật, tự do khỏi sự nô lệ sự dữ, tội lỗi và cái chết. Chúng ta hãy nhìn lền Quê hương trên trời, chúng ta sẽ có được một ánh sáng và sức mạnh mới cả trong dấn thân và các lao nhọc hằng ngày. Đó là một phục vụ qúy báu mà chúng ta phải trao ban cho thế giới này, thường không còn thành công trong viêc hướng cái nhìn lên cao, hướng cái nhìn về Thiên Chúa nữa.

Chào các đoàn hành hương khác nhau Đức Thánh Cha đã cầu chúc mọi người có những ngày viếng thăm Roma tươi vui bổ ích. Chào đông đảo các bạn trẻ hiện diện tại quảng trường Đức Thánh Cha nhắc lại rằng Giáo Hội mới mừng lễ Truyền Tin cho Đức Maria. Ngài xin Đức Mẹ linh hứng cho họ để họ luôn biết lắng nghe và thực hành ý Chúa. Đức Thánh Cha xin Mẹ sưởi ấm con tim của các anh chị em đau yếu trong việc dâng hiến khổ đau của họ để cầu nguyện cho thiện ích của Giáo Hội. Ngài khích lệ các cặp vơ chồng mới cưới biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và tình yêu của Người trong cuộc sống gia đình.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau khi ban phép lành Đức Thánh Cha đã đứng lâu chào các Giám Mục và một số quan khách. Tiếp đến ngài đã đến chào các tín hữu đứng hai bên trên thềm đền thờ thánh Phêrô. Đức Thánh Cha bắt tay từng người một, nói chuyện và lắng nghe họ. Ngài vuốt ve và hôn các trẻ em. Có một em bé tặng Đức Thánh Cha các hình em đã vẽ trên một mảnh giấy. Một bà mẹ xin ngài chúc lành cho bà và bào thai bà đang mang trong bụng. Đức Thánh Cha đã ban phép lành và đặt tay chúc lành cho thai nhi. Một Linh Mục xin Đức Thánh Cha làm phép một triều thiên mạ vàng để dâng kính Đức Mẹ, nhiều người đã xin Đức Thánh Cha chúc lành cho các chuỗi ảnh họ đem theo. Đức Thánh Cha cũng đã làm phép một tượng Đức Mẹ lớn đặt trên kiệu.

Trong khi đi vào nội thành Vatican, Đức Thánh Cha đã bảo dừng xe jeep lại để ngài xuống chào và ban phép lành cho các bệnh nhân ngồi trên xe lăn, Ngài đã hôn các trẻ em tàn tật và bắt tay thân nhân của họ đứng đàng sau.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐTC Phanxicô gặp Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc

ĐTC Phanxicô gặp Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc

Ban Ki-moon, Pope FrancisĐức Thánh Cha tiếp kiến TTK LHQ Ban Ki-Moon

Sáng ngày thứ Ba 9 tháng 4 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-Moon, và đã nói chuyện, thảo luận với nhau về các đề tài quốc tế, nổ lực chung cho việc cổ võ hòa bình, bảo vệ phẩm giá, nhân đạo cho con người từ việc căng thẳng tại bán đảo Đại Hàn cũng như tại Phi Châu và Syria.

Buổi  hội kiến đã diễn ra trong bầu khí thân tình. Hai vị cũng đề cập đến việc buôn bán người. Đức Thánh Cha đã nhắc đến phần đóng góp của giáo hội công giáo cho nổ lực bảo vệ phẩm giá con người và thăng tiến một nền văn hóa gặp gở đối thoại phù hợp với các mục đích tổ chức thế giới.

Đây là nhiệm kỳ thứ hai mà Tổng Thư Ký LHQ nhậm chức gần đây. Ông cũng đưa ra kế hoạch ngũ niên (5 năm) nhằm phòng ngừa các cuộc xung đột phát huy tình liên đới quốc tế và phát triển kinh tế có thể chịu đựng nổi.

Sau cuộc tiếp xúc riêng, ông Ban giới thiệu với Đức Thánh Cha các thành phần phái đoàn tháp tùng ông, kể cả phu nhân của ông, Tham Mưu Trưởng người Á Căn Đình của ông, và Phó Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về giải giới vũ khí.

Đức Thánh Cha Phanxicô đi quanh phòng và tặng cho mỗi người một hộp đựng chuỗi Mân Côi, vẫn còn mang dấu hiệu của Đức Thánh Cha Benedict XVI; một phụ tá của Đức Thánh Cha cho hay ngài đang chờ đợi các chuỗi mân côi có mang dấu hiệu của ngài.

Đức Thánh Cha Phanxicô có nói vài lời bằng tiếng Anh trong buổi gặp gỡ. Ngài tặng cho ông Ban một bức hình bằng đá cẩn mosaic, ngài nói “Xin tặng cho ông” rồi ngài chuyển sang tiếng Ý để nói là bức hình trình bầy một khung cảnh của Rôma.

Ông Ban Ki-Moon tặng cho Đức Thánh Cha một cuốn sách bọc bìa mầu xanh chứa đựng Hiến Chương Liên Hiệp Quốc bằng tiếng Ả Rập, Trung Hoa, Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha. Ông nói với Đức Thánh Cha là hiến chương phản ảnh “các mục tiêu và chủ đích của con người, mà ngài cũng cổ võ.”

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đi từ thư viện Giáo Hoàng đến nơi gặp Hồng Y Tarcisio Bertone, Tổng Trưởng Ngoại Giao (Quốc vụ Khanh)  Tòa Thánh, rồi nói vắn tắt với các phóng viên. Ông cho hay đã mời Đức Thánh Cha tới thăm trụ sở Liên Hiệp Quốc – một lời mời Vatican đã ghi nhận, nhưng chưa cam kết tham dự — ông nói ông hết sức vui mừng vì Đức Thánh Cha đã chọn tên Phanxicô, vì danh xưng này đã trở nên có ý nghĩa là một sự cam kết cho việc kiến tạo hòa bình.

Trích và phỏng dịch từ Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm các Giám Mục tại Hoa Kỳ và Phi Luật Tân

Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm các Giám Mục tại Hoa Kỳ và Phi Luật Tân

Hôm thứ Hai ngày 8 tháng 4 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ định Giám Mục Micjael Owen Jackels, trước đây coi quản giáo phận Witchita. Nay sẽ là Tổng Giám Mục của Dubuque, tiểu bang Iowa. Ngài cũng phong chức cho Đức Ông John Thomas Folda, là một linh mục của giáo phận Lincoln, tiểu bang Nebraska lên làm Giám mục tại Fargo tiểu bang North Dakota.

Tại quốc gia Phi luật Tân, ĐGH Phanxicô cũng chuyển đổi Giám mục Reynaldo Gonda Evangelista nguyên của giáo phận Boac đến giáo phận Imus.

Vatican Radio

Đêm Thắp Nến ủng hộ đồng bào trong nước thay đổi Hiến Pháp

Đêm Thắp Nến ủng hộ đồng bào trong nước thay đổi Hiến Pháp

Thanh Phong – Báo Viễn Đông

GARDEN GROVE – Sau Kiến Nghị của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Tuyên Bố của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Kiến Nghị của 72 vị nhân sĩ trí thức, Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do, Lời Kêu Gọi của cụ Lê Quang Liêm, Hội Trưởng Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo và đồng bào trong nước yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam phải tôn trọng quyền làm người của mọi công dân, tôn trọng và thực thi dân chủ và tự do cho quê hương, trước mắt phải bỏ điều 4 Hiến Pháp dành độc quyền cai trị cho đảng Cộng sản Việt Nam, tại Hải Ngoại nhiều tổ chức, hội đoàn, tôn giáo đã ra Tuyên Cáo, tổ chức Thắp Nến Cầu Nguyện. Với mục đích trên, vào chiều thứ Sáu, ngày 5 tháng 4 năm 2013, 5 tôn giáo lớn Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài và hơn 40 tổ chức, Cộng Đồng, Hội Đoàn, Đoàn Thể cùng đứng tổ chức chung Buổi Thắp Nến tại sân trường Trung Học Bolsa Grande, thành phố Garden Grove, Quận Cam.

Hội Đồng Liên Tôn và các vị đại diện các tôn giáo trong đêm thắp nến ngày 5 tháng 4 năm 2013

Các vị lãnh đạo tôn giáo

Hàng ngàn đồng hương cùng đầy đủ các vị lãnh đạo năm tôn giáo, quý vị dân cử cấp Liên bang, Tiểu bang và địa phương, trong đó có các vị dân cử gốc Việt: Thị Trưởng Tạ Đức Trí (Westminster), Phó Thị Trưởng Michael Võ (Fountain Valley); Nghị viên Chris Phan (Garden Grove), ông Bảo Nguyễn và Luật Sư Nguyễn Quốc Lân (Học Khu Garden Grove). Về phía cộng đồng có Luật Sư Nguyễn Xuân Nghĩa (Chủ Tịch) và toàn Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam Cali, ông Nguyễn Mạnh Chí (Chủ Tịch và toàn Ban Giám Sát CĐNVQG Nam Cali), ông Nguyễn Long và ông Nguyễn Văn Cừ (Chủ Tịch Ban Chấp Hành và CT. Ban Giám Sát Cộng Đồng Los Angeles, ông Nguyễn Văn Lực và bà Kim Trang (Chủ Tịch & Phó Chủ Tịch CĐNV San Diego), Bác sĩ Võ Đình Hữu (Chủ Tịch CĐNV Pomona) cùng hàng ngàn đồng hương tham dự.
Sau nghi thức chào cờ và mặc niệm do Ban Tù Ca Xuân Điềm và CLB Tình Nghệ Sĩ phụ trách, ông Nguyễn Văn Liêm (Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo VN, Trưởng Ban Tổ Chức Đêm Thắp Nến) lên phát biểu, “Quý vị đang dùng những thì giờ quý giá để tặng hiến cho quê hương Việt Nam qua sự ủng hộ việc đòi thay đổi Hiến Pháp của Hội Đồng Giám Mục VN, của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, của các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, của các vị nhân sĩ, trí thức và đồng bào trong nước. Như quý vị đã theo dõi tình hình thời sự tại VN trong những tuần lễ vừa qua, một cao trào nổi lên đòi hỏi thay đổi Hiến Pháp và những tiếng nói cất lên đều đồng thanh đòi hỏi quyền làm người, dân chủ và tự do.
“Trước sự đòi hỏi nghiêm trọng này, nhà cầm quyền CSVN đứng trước sự lựa chọn. Thứ nhất, thay đổi Hiến Pháp là con đường sống cho dân tộc và cho chính họ, Thứ hai, không thay đổi Hiến Pháp, họ sẽ phải đối diện với một làn sóng đứng dậy của người dân đủ mọi thành phần mà bạo lực có mạnh tới đâu cũng không thể ngăn cản được. Những tấm gương ở Trung Đông và Bắc Phi là những điển hình. Như vậy họ chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là thay đổi Hiến Pháp, mà thay đổi Hiến Pháp theo đòi hỏi của đồng bào trong nước là chấp nhận tự do dân chủ.
“Trong đêm thắp nến cầu nguyện này, chúng ta muốn gửi một Thông Điệp ủng hộ và hiệp thông với các vị lãnh đạo tôn giáo, các vị nhân sĩ trí thức và người dân trong nước về đòi hỏi thay đổi Hiến Pháp. Nói một cách rõ ràng là tranh đấu cho tự do, dân chủ cho người dân Việt Nam.”
Sau đó ban tổ chức cho mọi người nghe lại những lời phát biểu của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, của Linh Mục Phan Văn Lợi về vấn đề đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải thay đổi Hiến Pháp để người dân trong nước được hưởng tự do, dân chủ thực sự.
Sau một số bản hợp ca do Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Ban Tù Ca Xuân Điềm trình bày, Hội Đồng Liên Tôn được mời lên khán đài, các vị thắp hương cầu nguyện trước Bàn Thờ Tổ Quốc và châm lửa từ bàn thờ sau đó mang xuống chuyển ngọn lửa cho các bạn trẻ thuộc 5 tôn giáo đứng thành hàng ngang trước khán đài.
Các bạn trẻ lại chuyển ngọn lửa của mình cho đồng bào đang tham dự. Phút chốc, hàng ngàn ngọn nến được thắp sáng, ánh sáng huyền diệu, lung linh được mọi người giơ cao lên trong lúc hiệp thông với các vị lãnh đạo tôn giáo dâng lời cầu nguyện. Đây là giây phút cảm động và ý nghĩa nhất. Sau đó, các vị dân cử được mời đem những ngọn nến đang cháy xếp thành hình bản đồ Việt Nam ngay phía trước khán đài, các đồng hương cũng đem nến sắp hình bản đồ cả phía trước lẫn phía sau lưng đoàn người đứng tham dự, tượng trưng ý nghĩa “Ngọn lửa đấu tranh cho VN sẽ không bao giờ tắt.”
Nghệ sĩ Việt Dũng kêu gọi mọi người cùng hô vang các khẩu hiệu: “Xóa bỏ điều 4 Hiến Pháp,ủng hộ các vị lãnh đạo tôn giáo trong nước.” Trong khi đó rất nhiều người đã đến các bàn ký tên vào kiến nghị ủng hộ các vị lãnh đạo tôn giáo và đồng bào trong nước.
Mỗi tôn giáo đều trình bày một nhạc phẩm riêng: Phật Giáo với nhạc phẩm “Trầm Hương Đốt,” Cao Đài với bài “Nguyện Ca,” Công Giáo với “Kinh Hòa Bình.” Sau đó, một số vị dân cử được mời lên phát biểu, tất cả đều nói lên khát vọng chính đáng của người dân Việt Nam, lên án nhà cầm quyền CSVN và hoan nghênh tinh thần đoàn kết của cộng đồng người Việt hải ngoại không phân biệt tôn giáo đã tổ chức Đêm Thắp nến đầy ý nghĩa này. Sau cùng, Ban Tổ Chức phổ biến một Tuyên Cáo Chung, và lời Cảm Tạ gửi đến tất cả đồng hương và quan khách tham dự. Đêm Thắp Nến được sự tham dự rất nhiệt tình của Ban Tù Ca Xuân Điềm, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Ca Đoàn Hương Nam cùng một số nghệ sĩ thuộc Trung Tâm Asia.
Chương trình được điều hợp bởi các MC: Minh Phương, Việt Dũng, Đỗ Tân Khoa và kết thúc sau 10 giờ tối.

Thắp nến cầu nguyện đêm 5 tháng 4 năm 2013

Linh Mục Thái đang phát biểu

Hãy luôn luôn tín thác nơi lòng thương xót Chúa và đừng sợ hãi là kitô hữu và sống như kitô hữu

Hãy luôn luôn tín thác nơi lòng thương xót Chúa và đừng sợ hãi là kitô hữu và sống như kitô hữu

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô để đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với ngài trưa Chúa Nhật lòng Thương Xót Chúa hôm qua. Đã có rất nhiều đoàn tín hữu đem theo hình Chúa Thương Xót và các biểu ngữ. Đặc biệt là các tín hữu Roma đã tham dự thánh lễ do Đức Hồng Y Giám Quản cử hành tại nhà thờ kính Lòng Thương Xót Chúa ở gần quảng trường thánh Phêrô.

Nhắc lại lời chào bình Chúa Giêsu nói khi hiện ra với các môn đệ Đức Thánh Cha nói với mọi người:
Đậy không phải là một lời chào, cũng không phải là một lời cầu chúc đơn sơ, nhưng là một ơn, là ơn qúy trọng mà Chúa Kitô cống hiến cho các mộn đệ sau khi đã đi qua cái chết và thế giới bên dưới. Ngài trao ban bình an như đã hứa: ”Thầy ban bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27). Sự bình an này là hoa trái của chiến thắng tình yêu của Thiên Chúa trên sự dữ, nó là hoa trái của sự tha thứ. Và qủa thật là như vậy: bình an thực sự, bình an sâu thẳm đến từ kinh nghiệm lòng xót thương của Thiên Chúa.

Tín hữu đã vỗ tay khi Đức Thánh Cha nhắc tới ngày lễ Lòng Thương Xót Chúa, do Đức Chân Phước Gioan Phaolô II thiết lập. và người đã nhắm mắt lìa trần cách đây 8 năm vào chiều hôm trước ngày lễ.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói Phúc Âm thánh Gioan kể rằng Chúa Giêsu đã hiện ra hai lần với các Tông Đồ đóng kín trong nhà Tiệc Ly: lần đầu ngay buổi chiều ngày sống lại, lần đó không có Tôma, là người đã tuyên bố: nếu tôi không trông thấy và sờ vào Chúa, thì tôi không tin. Lần thứ hai, tám ngày sau, cũng có cả Tôma nữa. Chúa Giêsu nói với Tôma, mời ông nhìn các vết thương của Ngài và sờ vào chúng, và Tôma kêu lên: ”Lậy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20,28), Chúa Giêsu nói: ”Vì con đã thấy Thầy nên con đã tin; nhưng phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin” (c. 29). Những người đã không trông thấy nhưng đã tin đó là là các môn đệ, các người nam nữ khác của thành Giêsusalem, dù đã không gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, nhưng đã tin vào chứng tá của các Tông Đồ và các phụ nữ. Đức Thánh Cha giải thích tầm quan trọng lời nói này của Chúa Giêsu như sau:

Đây là một lời nói rất quan trọng đối với đức tin, mà chúng ta có thể gọi là phúc thật của đức tin. ”Phúc cho những ai đã không thấy và đã tin”, đó là phúc thật của lòng tin. Trong mọi thời đại và tại mọi nơi phúc cho những ai, qua Lời Chúa được Giáo Hội rao giảng và các tín hữu kitô làm chứng, tin rằng Chúa Giêsu Kitô là tình yêu thương của Thiên Chúa nhập thể, là Lòng Thương Xót nhập thể. Và điều này có giá trị đối với từng người trong chúng ta!

Cùng với sự bình an của Ngài Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các Tông Đồ để các vị có thể phổ biến trong thế giới ơn tha thứ tội lỗi, ơn mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban, và nó đã được trả bằng giá Máu của Con Thiên Chúa (x. Ga 20,21-23). Giáo Hội được Chúa Kitô phục sinh sai đi thông truyền cho con người ơn tha tội, và như thế làm cho Nước tình yêu được lớn lên, gieo vãi hòa bình trong các con tim, để nó cũng được vững mạnh trong các tương quan, trong các xã hội và các cơ cấu. Và Thần Khí của Chúa Kitô phục sinh xua đuổi sự sợ hãi khỏi trái tim các Tông Đồ và thúc đẩy họ đem Tin Mừng ra khỏi Nhà Tiệc Ly. Đức Thánh Cha nói:

Cả chúng ta nữa cũng hãy can đảm hơn để làm chứng cho đức tin nơi Chúa Kitô Phục Sinh! Chúng ta không được sợ hãi là tín hữu kitô và sống như kitô hữu! Chúng ta phải có lòng can đảm này, ra đi loan báo Chúa Kitô Phục Sinh, bởi vì Ngài là sự bình an của chúng ta, Ngài đã trao ban cho chúng ta sự bình an với tình yêu thương cùng với sự tha thứ của Ngài, với máu và với lòng thương xót của Ngài.
Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Các bạn thân mến, chiều hộm nay tôi sẽ dâng thánh lễ tại Vương cung thánh đường thánh Gioan Laterano, là nhà thờ chính tòa của Giám Mục Roma. Chúng ta hãy cùng cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ giúp chúng ta, Giám Mục và Dân Chúa, tiến bước trong đức tin và trong tình mến, luôn luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Đấng luôn chờ đợi chúng ta, yêu thương chúng ta, tha thứ cho chúng ta với máu của Ngài và tha thứ cho chúng ta mỗi khi chúng ta đến găp gỡ Ngài và xin ơn tha thứ. Chúng ta hãy tin tưởng nơi lòng Thương xót của Ngài.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm tín hữu hiện diện, trong đó có các thành viên phong trào Tân Dự Tòng bắt đầu chiến dịch loan báo Chúa Kitô tại các quảng trường thành phố Roma. Ngài nói: ”Tôi mời gọi tất cả đem Tin Mừng vào mọi môi trường cuộc sống ”với sự dịu hiền và lòng kính trọng”. Anh chị em hãy đến các quảng trường và loan báo Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ của chúng ta”.

Vào lúc 5 giơ 30 chiều Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ tại đền thờ thánh Gioan Laterano là nhà chính tòa của Giám Mục Roma. Cùng đồng tế thánh lễ có Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản Roma và các Giám Mục Phụ Tá, trước sự tham dự của đông đảo các linh mục nam nữ và đại diện các hội đoàn và giáo dân các họ đạo Roma. Trước đó Đức Thánh Cha đã khánh thành tấm bia quảng trường chân phước Gioan Phaolộ II trước tòa Giám Quản. Trước khi bắt thánh lễ bắt đầu một số vị đại diện các thành phần dân Chúa Roma đã lên bầy tỏ sự vâng phục đồi với Đức Thánh Cha là Giám Mục Roma.

Cơ cấu giáo phận Roma bắt đầu được củng cố từ thời Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII. Thay thế Đức Thánh Cha cai quản giáo phận Roma có Đức Hồng Y Giám quảm, một Tổng Giám Mục phó giám quản, và 4 Giám Mục phụ tá đặc trách bốn vùng. Số Linh Mục của giáo phận là 746 vị, cộng với 119 Phó tễ vĩnh viễn, và có 145 Linh Mục đi truyền giáo. Số Linh Mục thuộc các giáo phận khác làm việc ở Roma là 689 vị. Số tu sĩ nam nữ được 30,000, thuộc 28 dan viên kín, 1,160 dòng nữ, 395 dòng nam, 41 tu hội đời, 20 hiệp hội tông đồ, và hàng chục tu hội giáo phận Roma và các giáo phận khác. Ngoài ra còn có gần 80 các nhóm và phong trào với lời khấn. Có khoảng 730 các nhà tổng quyền các dòng tu nam nữ, các nhà quản lý, nhà tỉnh dòng, trung tâm huấn luyện các dòng nam nữ.

Giảng trong thánh lễ nhận nhà thờ chính tòa, Đức Thánh Cha đã kêu gọi mọi người đừng bao giờ đánh mất đi sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời Ngài, Thiên Chúa vẫn luôn gần gữi chúng ta và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Ngài. Sự nhẫn nại của Thiên Chúa phải tìm thấy nơi chúng ta lòng can đảm trở về với Chúa, cho dù chúng ta đã phạm lầm lỗi và tội nào đi nữa. Cũng như thánh Tôma chúng ta có thể vào trong các vết thương của Chúa Giêsu và thực sự sờ vào Ngài mỗi khi chúng ta lãnh nhận các Bí tích với lòng tin. Chính trong các vết thương của Chúa Giêsu chúng ta được an ninh vì tình yêu thương vộ bờ của trái tim Ngài được biểu lộ nơi đó. Vì thế phải có can đảm tín thác nơi lòng thương xót của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy để cho mình đươc bao bọc bởi lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta hãy tín tưởng nơi sự nhẫn nại của Ngài, là Đấng luôn cho chúng ta thời gian để trở về nhà Cha. Hãy để cho Chúa yêu thương chúng ta và hãy gặp gỡ Ngài trong các Bí Tích để cảm nhận được sự dịu hiền và vòng tay yêu thương của Ngài hầu có thể xót thương, kiên nhẫn, tha thứ và yêu thương như Ngài.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA

Lòng thương xót Chúa Thánh Faustina

Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu (Ga 15, 13) “Yêu như Thầy đã yêu” (Ga 15, 12). Chúa Giêsu đã yêu nhân loại đến nỗi chấp nhận ý định của Thiên Chúa Cha, gánh tội cho nhân loại và chết khổ hình trên Thập giá. Thánh Gioan đã định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu”. (1 Ga 4, 8). Khi định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu. Thánh Gioan muốn nói lên tấm lòng đầy nhân hậu của Chúa, tình thương bao la của Ngài… Hôm nay, Giáo Hội tôn kính Lòng Thương Xót của Chúa. Đây là Chúa nhật II Phục Sinh, Chân Phước Gioan Phaolô II đã ấn định toàn thể Hội Thánh mừng Lòng Thương Xót của Chúa vào năm 2001.

Vâng, vào năm 1930 một nữ tu người Ba Lan tên là Maria Faustina đã được Chúa Giêsu chọn để cổ võ Lòng Thương Xót của Chúa cho nhân loại, cho thế giới. Maria Faustina đã được hạnh phúc nhìn thấy Chúa Giêsu và diễn tả về Chúa Giêsu với tước hiệu “Lòng Thương Xót”, để các họa sĩ có thể vẽ lên khung hình, hình ảnh Lòng Thương Xót của Chúa với hàng chữ Lạy Chúa Giêsu con tín thác vào Ngài. Thánh nữ Maria Faustina đã thấy Chúa Giêsu mặc y phục mầu trắng, tay phải giơ lên trời ban phép lành, tay trái đặt vào ngực. Nơi trái tim của Chúa phát tỏa ra hai luồng sáng, màu đỏ và xanh lợt, tượng trưng cho Máu và Nước đã đổ ra trong cuộc thương khó hồng phúc khi chính trái tim của Ngài bị một lưỡi đòng đâm thâu qua. Ánh sáng xanh lợt tỏ lộ cho nước rửa sạch và thanh tẩy linh hồn. Ánh sáng màu đỏ tượng trưng cho máu, làm phát sinh sự sống mới cho linh hồn. Điều này cho chúng ta hiểu rõ hơn về trái tim thanh sạch, vẹn tuyền, tình thương vô bờ vô bến của Chúa Giêsu. Một trái tim luôn chạnh thương, một trái tim nhạy cảm trước những đau khổ, thử thách, hoang mang của cuộc đời. Chúa luôn quan tâm đến con người, đặc biệt trước những nhu cầu cần thiết của con người.Chúa đã nhạy cảm và thương xót đám đông bơ vơ đói, khát khi nhiệt tình nghe Chúa giản dạy. Chúa đã làm phép lạ hóa bánh và cá để nuôi sống họ. Chúa đã chạnh thương làm cho người phụ nữ băng huyết đã mười tám năm được lành bệnh. Chúa đã làm cho con bà góa thành Naim hồi sinh và Lazarô cũng hồi sinh sau bốn ngày chết và chôn trong mồ.Chúa chạnh lòng thương mười người phong cùi và chữa lành họ. Chúa yêu thương, chạnh lòng tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa chạnh lòng thương đứa con hoang đàng trở về với Ngài… Trái tim của Chúa thật vô cùng bao la.Tình thương của Chúa đời đời con ca ngợi (Tv 88 ). Các Tông đồ và hôm nay Tôma, sau tám ngày Chúa sống lại, hiện ra có cả Tôma nữa. Chắc chắn trái tim các ông đã phập phòng vì vui sướn, nhưng cũng không kém hồi hộp, âu lo. Tôma làm gì dám đưa bàn tay ra để đặt vào cạnh sườn Chúa, làm gì dám đưa ngón tay ra để thọc vào lỗ đinh tay, chân của Chúa. Cả Tôma và cả các tông đồ đều một phần cảm cảm nghiệm tình thương vô biên của Lòng Thương Xót của Chúa.

Các Tông đồ và Tôma cũng như các người phụ nữ đã tin vào Chúa sống lại. Họ đã kinh qua quá trình thử thách và rồi đức tin cứ tiệm tiến lớn lên. Họ đã hiên ngang làm chứng cho Chúa sống lại và rao truyền Lòng Thương Xót của Chúa.

Chỉ có tình yêu, chỉ có con tim nhân hậu, cảm thông, thương xót mới nói lên tấm lòng đầy yêu thương của Chúa Giêsu. Thánh nữ Maria Faustina cho hay Chúa Giêsu luôn sẵn sàng tha thứ cho các tội nhân, dẫu rằng có tội nhân đã hoàn toàn tuyệt vọng, nếu họ thực tâm hối cải và quay trở về với Chúa tình yêu. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi, mạnh hơn cả sự chết. Trở về với Chúa, xưng thú tội lỗi và thật chừa cải tội lỗi chắc chắn sẽ được Chúa thứ tha.

Xin mượn lời của Cha Pr.Lâm Tấn Phát, Chánh xứ Tân Hồng, Đồng Tháp để kết luận những dòng suy niệm “Tóm lại, xin anh chị em nghe lời dạy của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Giáo Hội có quyền và nghĩa vụ phải tôn kính, loan báo, và thực hành kêu van khóc lóc Thiên Chúa của Lòng Thương Xót Chúa…”.

Hãy thực hành giới răn yêu thương như Chúa dạy trong Tin Mừng. Hãy tín thác đời mình cho Chúa : “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”.

Thực hiện những điều Chúa dạy trên đây thì ngày phán xét sẽ là ngày vui cho ta.

Chúa Giêsu nói : “Ta đến với con trong giờ lâm chung không với tư cách Quan tòa để xét xử công minh mà đến với con như Vị Cứu Tinh nhân hậu giầu Lòng Thương Xót”.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh

Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

TGM Ngô Quang Kiệt

NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM

NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM

Đức Giêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Giêsu Phục Sinh chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.

Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh hiện diện

Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Giêsu đã trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con người thời đó.

Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại. Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng Cha” (Ga.14, 12).

Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện diện với con người hôm nay.

Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa

Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa, quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa.

Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội (mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.

Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người. Thiên Chúa làm tất cả cho con người.

Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con

Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.

Sứ mạng của Đức Giêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu con người đến chết.

Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Giêsu. Thập giá minh chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh phục lòng người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa?

2. Các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn biết vậy?

3. Sứ mạng của các Kitô hữu hôm nay là gì?

Lm. Phạm Thanh Liêm

Tôma và con mắt thứ ba

Tôma và con mắt thứ ba

Cách xử sự của Tôma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì mà người ta có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay, những gì cân, đo, đong, đếm… được. Còn những gì người ta không thấy, bị xem như là không có. Khi tôi hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời thật đơn giản: “Có thấy đâu mà tin!”

Thế nhưng, có nhiều điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học ( bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ… là những thực tại vô hình, không màu sắc, không trọng lượng, không khối lượng )… nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có.

Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.

Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận thấy. Nhà văn Saint-Exupéry đã khám phá ra điều nầy, ông viết: “L’essentiel est invisible pour les yeux” ( Thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được ). Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý…

Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi. Nhờ con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy vi trùng và những siêu vi cực nhỏ… Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh sáng… Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát… Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.

Trong Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là ‘huệ nhãn’, giúp người ta thấy được những thực tại tâm linh siêu hình. Đối với Đức Giêsu, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ “Con Mắt Đức Tin”, nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả ngục…

Tông đồ Tôma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay… mới là điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo anh: “Nầy Tôma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi”, Tôma cho là chuyện đùa.

Cho dù Tôma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giêsu hiện về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn… thì anh mới tin! Chúa Giêsu không hài lòng với quan điểm đó. Ngài nói: “Tôma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.”

Như thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng con mắt thứ ba, “Con Mắt Đức Tin” để nhận ra Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì đó là con mắt tối cần giúp thấy được những thực tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ. Chúa luôn khiển trách các môn đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa buồn phiền vì dân chúng thiếu lòng tin. Chúa khiển trách Tôma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai mở cho chúng con con mắt thứ ba, con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và nhận biết Thánh Thần Chúa là Đấng thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người là anh em thật của chúng con trong Chúa Kitô. Amen.

Lm. Trần Ngà

Chúa Kitô phục sinh giúp can đảm và dấn thân sống các thực tại thường ngày

Chúa Kitô phục sinh giúp can đảm và dấn thân sống các thực tại thường ngày

Sự Phục Sinh của Chúa Kitô soi sáng cuộc đời, giúp chúng ta tin tưởng sống các thực tại thường ngày và can đảm dấn thân đương đầu với chúng.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 3 tháng 4-2013 tại quảng trường thánh Phêrô. Trong số hàng trăm phái đoàn tham dự có nhóm 13 tân Phó Tế của dòng Tên và thân nhân, trong đó có hai thầy Việt Nam là thầy Cao Gia An và thầy Nguyễn Mai Kha, đã được Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh văn hóa truyền chức chiều thứ ba mùng 2 tháng 4-2013 tại nhà thờ Chúa Giêsu ở Roma. Ngoài ra còn có một nhóm tín hữu Việt Nam đến từ Hoa Kỳ.

Trong khi chờ đợi Đức Thánh Cha các bạn trẻ đã thay phiên nhau ca hát. Xe díp chở Đức Thánh Cha đã đi một vòng giữa các lối đi quanh quảng trường để ngài chào tín hữu.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài tiếp tục trình bầy các bài giáo lý về Năm Đức Tin. Trong Kinh Tin Kính chúng ta lập lại kiểu nói: ”Ngày thứ ba Người đã sống lại theo lời Thánh Kinh”. Đó là biến cố chúng ta đang cử hành: Sự Sống Lại của Chúa Giêsu là trung tâm sứ điệp Kitô ngay từ đầu đã vang lên và được thông truyền để đến được với chúng ta.

Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Côrintô như sau: ”Trước hết tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai” (1 Cr 15,3-5). Lời tuyên xưng đức tin ngắn gọn này loan báo Mầu Nhiệm Phục Sinh, với các lần hiện ra đầu tiên của Chúa Phục Sinh với thánh Phêrô và với Nhóm Mười Hai: Cái Chết và sự Sống Lại của Chúa Giêsu là trung tâm niềm hy vọng của chúng ta. Không có niềm tin này nơi cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu niềm hy vọng của chúng ta sẽ yếu ớt, và cũng sẽ không phải là niềm hy vọng nữa, và chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là trung tâm niềm hy vọng của chúng ta. Thánh Tông Đồ khẳng định: ”Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (c. 17). Đức Thánh Cha ghi nhận tình trạng đức tin hiện nay như sau:

Rất tiếc là thường khi người ta đã tìm làm lu mờ đi niềm tin nơi sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, và các nghi ngờ cũng len lỏi vào giữa cả các tín hữu nữa. Một chút niềm tin đó là ”tin vào nước hoa hồng”, như người ta thường nói: nó không phải là niềm tin mạnh mẽ. Và điều này xảy ra vì sự hời hợt bề ngoài, đôi khi vì sự thờ ơ, người ta lo lắng cho hàng ngàn chuyện được coi là quan trọng hơn đức tin, hay vì một quan điểm chỉ ở chiều ngang của cuộc sống. Nhưng chính sự Phục Sinh mở ra niềm hy vọng lớn hơn cho chúng ta, bởi vì nó mở ra cho cuộc sống chúng ta và cuộc sống của thế giới tương lai vĩnh cửu của Thiên Chúa, niềm hạnh phúc tràn đầy, sự chắc chắn rằng sự dữ, tội lỗi, cái chết có thể được vượt thắng. Và điều này đưa chúng ta tới chỗ tin tưởng sống các thực tại thường ngày hơn, đương đầu với chúng với lòng can đảm và dấn thân. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô soi sáng các thực tại thường ngày ấy với một ánh sáng mới mẻ. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô là sức mạnh của chúng ta!

Nhưng sự thật đức tin về sự Phục Sinh của Chúa Kitô đã được thông truyền cho chúng ta như thế nào? Có hai loại chứng tá trong Thánh Kinh Tân Ước: vài chứng tá là trong hình thức của lời tuyên xưng đức tin, nghĩa là các công thức tổng hợp chỉ cho thấy trung tâm của đức tin; các công thức khác trái lại trong hình thức trình thuật biến cố Phục Sinh và các sự kiện gắn liền với nó. Hình thức thứ nhất là hình thức tuyên xưng đức tin, chẳng hạn như lời tuyên xưng mà chúng ta vừa mới nghe, hay hình thức của Thư gửi tín hữu Roma, trong đó thánh Phaolô viết: ”Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9). Ngay từ những bước đầu tiên của Giáo Hội niềm tin nơi Mầu Nhiệm cái Chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu đã vững vàng và rõ ràng. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn dừng lại trên các chứng tá trong hình thái thứ hai là hình thái trình thuật mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng. Trước hết chúng ta ghi nhận rằng các chứng nhân đầu tiên của biến cố này là các phụ nữ. Vào tảng sáng, họ ra mồ để ướp xác Chúa Giêsu, và họ tìm thấy dấu chỉ đầu tiên: đó là ngôi mộ trống (X. Mt Mc 16,1). Tiếp theo đó là cuộc gặp gỡ với một sứ giả của Thiên Chúa báo cho biết rằng Đức Giêsu thành Nagiarét, Đấng bị đóng đanh, không ở đây, Người đã sống lại (cc. 5-6). Rồi Đức Thánh Cha đã đề cao các phụ nữ như sau:

Các phụ nữ đã được thúc đẩy bởi tình yêu thương và họ biết tiếp nhận lời báo đó với đức tin: họ tin và ngay tức khắc họ thông truyền nó, chứ không giữ nó cho riêng mình. Niềm vui được biết rằng Chúa Giêsu sống, niềm hy vọng tràn ngập con tim không thể kìm hãn được. Điều này cũng phải xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta cảm thấy niềm vui là Kitô hữu! Chúng ta tin nơi một Đấng Phục Sinh đã chiến thắng sự dữ và cái chết! Chúng ta có can đảm ”đi ra” để đem niềm vui và ánh sáng này vào mọi nơi của cuộc sống thường ngày! Sự Phục Sinh của Chúa Kitô là sự chắc chắn lớn nhất của chúng ta; và nó là kho tàng qúy báu nhất! Làm sao lại không chia sẻ với các người khác kho tàng đó, sự chắc chắn đó? Nó không phải chỉ để cho chúng ta mà thôi, mà là để thông truyền nó, trao ban nó cho người khác, chia sẻ với người khác. Đó chính là chứng tá của chúng ta.

Có một yếu tố khác nữa. Trong các lời tuyên xưng đức tin của Tân Ước chỉ có các người nam, các Tông Đồ, chứ không phải các phụ nữ được nhớ tới như các chứng nhân của sự Phục Sinh. Điều này bởi vì theo Luật do thái thời đó, các phụ nữ và trẻ em không thể làm chứng tá một cách đáng tin cậy. Trái lại trong các Phúc Âm phụ nữ có một vai trò hàng đầu nền tảng. Ở đây chúng ta có thể tiếp nhận một yếu tố thuận lợi cho tính cách lịch sử của sự Phục Sinh: nếu nó đã là một sự kiện được bịa ra, trong bối cảnh của thời đó, thì nó sẽ không được gắn liền với chứng tá của các phụ nữ. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Trái lại, các thánh sử kể lại một cách đơn sơ điều đã xảy ra: các phụ nữ là các chứng nhân đầu tiên. Điều này nói muốn rằng Thiên Chúa không lựa chọn theo các tiêu chuẩn của con người: các chứng nhân đầu tiên của biến cố Chúa Giêsu sinh ra là các mục đồng, những người đơn sơ khiêm hạ; các chứng nhân đầu tiên của sự Phục Sinh là các phụ nữ. Và điều này thật là đẹp. Và đây một chút là sứ mệnh của phụ nữ: của các bà mẹ, của đàn bà! Làm chứng cho con cái cháu chắt biết rằng Chúa Giêsu sống, là Đấng đang sống, đã phục sinh. Hỡi các bà mẹ và chị em phụ nữ, hãy tiến lên với chứng tá đó!

Đối với Thiên Chúa chỉ có con tim là đáng kể, khi chúng ta rộng mở cho Người, nếu chúng ta giống như trẻ em, chúng tin tưởng. Nhưng điều này cũng khiến cho chúng ta suy nghĩ về sự kiện trong Giáo Hội và trên con đường lòng tin, nữ giới đã và đang có một vai trò đặc biệt như thế nào trong việc rộng mở các cánh cửa cho Chúa, trong việc theo Người và thông truyền Gương mặt của Người, bởi vì cái nhìn của đức tin luôn luôn cần đến cái nhìn đơn sơ và sâu xa của tình yêu. Các Tông Đồ và các môn đệ vất vả hơn để tin. Các phụ nữ thì không. Thánh Phêrô chạy tới mồ, nhưng dừng lại ở ngôi mộ trống; còn Tôma phải sờ tay vào các vết thương của thân thể Chúa Giêsu. Cả trong con đường lòng tin của chúng ta thật là quan trọng biết và cảm thấy rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, không sợ hãi yêu thương Chúa: đức tin được tuyên xưng với môi miệng và con tim, với các lời nói và với tình yêu.

Sau các cuộc hiện ra với các phụ nữ Chúa Giêsu hiện diện một cách mới mẻ: đó là Đấng chịu đóng đanh, nhưng thân xác Người vinh hiện; Người không trở lại với cuộc sống trần gian nữa, nhưng trong một điều kiện mới mẻ. Ban đầu họ không nhận ra Người, và chỉ qua các lời và các cử chỉ của Người mắt họ mới mở ra: cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh biến đổi, trao ban một sức mạnh mới cho đức tin, một nền tảng không thể sụp đổ. Đối với chúng ta cũng thế, có biết bao nhiêu dấu chỉ qua đó Chúa Phục sinh tỏ hiện ra: Thánh Kinh, bí tích Thánh Thể và các Bí tích, lòng bác ái, các cử chỉ của tình yêu đem đến một tia sáng của Chúa Phục Sinh. Chúng ta hãy để cho mình được chiếu sáng bởi sự Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy để cho mình được biến đổi bởi sức mạnh của Người, để qua chúng ta trong thế giới các dấu chỉ của chết chóc nhường chỗ cho các dấu chỉ của sự sống. Tôi thấy có biết bao nhiêu bạn trẻ tại quảng trường. Họ đây: với họ tôi xin nói: Các con hãy mang theo sự chắc chắn này: đó là Chúa sống và bước đi bên cạnh chúng ta trong đời. Đó là sứ mệnh của chúng ta! Hãy đưa niềm hy vọng đó tiến lên. Hãy cắm neo vào niềm hy vọng ấy: cái neo này ở trên trời: hãy cầm chắc lấy dây neo, hãy cắm neo và đưa niềm hy vọng tiến lên. Các con là chứng nhân của Chúa Giêsu, hãy làm chứng rằng Người sống và điều này sẽ trao ban hy vọng cho chúng ta, sẽ trao ban hy vọng cho thế giới hơi già nua này vì chiến tranh, vì sự dữ vì tội lỗi. Các bạn trẻ ơi hãy tiến lên!

Đức Thánh Cha đã chào các nhóm tín hữu bằng tiếng Ý. Ngài đặc biệt cám ơn các bạn trẻ Libăng đã soạn các bài suy niệm cho buổi đi đàng Thánh Giá tối thứ sáu Tuần Thánh và cám ơn các ca đoàn tiếng Anh đã hát mừng ngài. Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu đón nhận chiến thắng của Chúa Kitô trên sự ác và diễn tả qua những thực tại cụ thể của lịch sử và xã hội.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng lần đầu tiên, trưa ngày 1 tháng 4-2013, thứ hai sau Phục Sinh, với khoảng 40 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô. Ngày này cũng là lễ nghỉ tại Italia. ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em!

Cầu chúc tất cả anh chị em lễ Phục Sinh tốt đẹp! Tôi cám ơn anh chị em hôm nay đến đây đông đảo để chia sẻ niềm vui của lễ Phục Sinh, mầu nhiệm chủ yếu của đức tin chúng ta. Ước gì sức mạnh Phục Sinh của Chúa Kitô đến với mỗi người – nhất là những người đang chịu đau khổ – và tất cả những hoàn cảnh đang cần niềm tín thác và hy vọng hơn cả”.

”Chúa Kitô đã chiến thắng sự ác một cách trọn vẹn và chung kết, nhưng mỗi người chúng ta, những người thuộc mọi thời đại, có nhiệm vụ đón nhận chiến thắng ấy trong cuộc sống bản thân và trong những thực tại cụ thể của lịch sử và xã hội. Vì thế, tôi thấy một điều quan trọng là nhấn mạnh điều mà hôm nay chúng ta cầu xin Chúa trong phụng vụ: ”Lạy Cha, là Đấng làm cho Giáo Hội của Cha được tăng trưởng bằng cách luôn ban cho Giáo Hội những người con mới, xin ban cho các tín hữu của Cha được biểu lộ trong cuộc sống bí tích mà họ đã lãnh nhận trong đức tin” (Kinh Tổng nguyện thứ 2 tuần bát nhật Phục Sinh).

”Đúng vậy, bí tích rửa tội làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta với Chúa Kitô, phải trở thành sự sống, nghĩa là phải được biểu lộ của các thái độ, lối cư xử, những cử chỉ và chọn lựa. Ơn thánh chứa đựng trong các bí tích Phục Sinh là một tiềm năng canh tân rất lớn cho cuộc sống bản thân, cho đời sống gia đình, cho các quan hệ xã hội. Nhưng tất cả đều tiến qua tâm hồn con người: nếu tôi để cho ơn thánh của Chúa Kitô phục sinh đạt tới, nếu tôi để ơn thánh biến đổi tôi trong những khía cạnh không tốt, có thể gây hại cho tôi và tha nhân, thì có nghĩa là tôi để cho chiến thắng của Chúa Kitô vững mạnh trong đời sống của tôi, mở rộng những hoạt động tốt lành của tôi. Đó chính là sức mạnh của ơn thánh!”

Và ĐTC kết luận rằng:
”Anh chị em thân mến, biểu lộ trong cuộc sống bí tích chúng ta đã nhận lãnh: đó chính là sự dấn thân hằng ngày của chúng ta và tôi có thể nói đó là niềm vui thường nhật của chúng ta! Niềm vui cảm thấy mình là dụng cụ của ơn thánh Chúa Kitô, như những nghành của cây nho là chính Ngài, được sống động nhờ nhựa sống của Thánh Linh Ngài”.

”Chúng ta hãy cùn gnhau cầu nguyện, nhân danh Chúa đã chịu chết và sống lại, và nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, để Mầu Nhiệm phục sinh có thể tác động sâu xa trong chúng ta và trong thời đại chúng ta ngày nay, để oán ghét nhường chỗ cho tình thương, dối trá nhường chỗ cho sự thật, oán thù nhường chỗ cho tha thứ, sầu muộn nhường chỗ cho vui mừng”.

Sau khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC còn chào thăm tất cả các tín hữu hành hương đến từ các đại lục để tham dự buổi đọc kinh này. Ngài chỉ nói bằng tiếng Ý, và không dùng các sinh ngữ khác.

Chiều 1 tháng 4-2013, ĐTC đã xuống hầm đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện tại mộ thánh Tông Đồ. Tháp tùng ngài có ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ thánh Phêrô. (SD 1-4-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thánh lễ và Sứ Điệp Phục Sinh đầu tiên của ĐTC Phanxicô

Thánh lễ và Sứ Điệp Phục Sinh đầu tiên của ĐTC Phanxicô

 

VATICAN. 250 ngàn tín hữu đã tham dự thánh lễ và buổi công số sứ điệp Phục Sinh do ĐTC Phanxicô chủ sự sáng chúa nhật 31 tháng 3-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Thánh lễ bắt đầu lúc 10 giờ 15 sáng và số tín hữu đứng đầu Quảng trưởng tràn ra đến cuối đường Hòa Giải.

Theo thói quen từ 28 năm nay, Hiệp Hội các nhà trồng hoa tại Hòa Lan đã tặng ĐTC khoảng 40 ngàn bông hoa đủ loại, đặc biệt là các hoa màu trắng và màu vàng, màu cờ Vatican, để trang điểm khu vực Bàn Thờ trên thềm Đền thờ Thánh Phêrô, biến địa điểm này trở thành một vườn hoa thật đẹp. Tổng cộng đã có hàng trăm đài truyền hình tại gần 70 quốc gia truyền đi thánh lễ và buổi công bố Sứ điệp Phục Sinh.

Trong khi lễ Vọng Phục Sinh có 30 Hồng y đồng tế với ĐTC, thánh lễ sáng hôm qua ngài chỉ có 2 vị Hồng Y phụ tế là ĐHY Raffaele Farina, nguyên thư viện trưởng của Tòa Thánh, và ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô. Hai vị đều là Hồng y đẳng Phó tế. Các HY khác cùng với hơn 20 GM tham dự thánh lễ trong hàng ghế đầu bên hông bàn thờ. Trước thềm bàn thờ có sự hiện diện của đoàn vệ binh Thụy Sĩ, đoàn liên quân của Italia và hai ban quân nhạc của Vatican và Italia.

Đảm nhận phần thánh ca trong buổi lễ, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có 4 Ca đoàn là: Ca đoàn Mẹ Giáo Hội với 140 ca viên, Ca Đoàn Hoa kỳ 105 người và ca đoàn Giáo Hoàng Học Viện Đức – Hungari gồm 65 ca viên, sau cùng là Ca đoàn Học Viện Anh quốc với 75 người.

Đầu thánh lễ, hai phó tế đã mở hai cánh của ảnh Chúa Cứu Thế cực thánh cho ĐTC và mọi người tôn kính, trước khi ca đoàn hát ca nhập lễ.

Nghi thức thống hối được thay thế bằng nghi thức rảy nước thánh với lời nguyện của ĐTC ”Xin Thiên Chúa toàn năng thanh tẩy chúng ta khỏi mọi tội lỗi và nhờ việc cử hành thánh lễ này, làm cho chúng ta được xứng đáng tham dự bàn tiệc vương quốc của Chúa”.

ĐTC không giảng sau bài Tin Mừng, vì sau thánh lễ có sứ điệp Phục Sinh. Trong phần lời nguyện phổ quát bằng 5 thứ tiếng: Ý, Hindi, tiếng Hoa, Đức và Pháp, cộng đoàn đã lần lượt cầu nguyện cho Giáo Hội: xin Chúa cho sức mạnh của Thánh Linh nâng đỡ những người loan báo Tin Mừng và làm cho chứng tá của các thừa tác viên của Giáo Hội được hữu hiệu; cho ĐTC Phanxicô được sự nâng đỡ nhờ ánh sáng của Thánh Linh và kinh nguyện của toàn thể Giáo Hội, để Người dẫn dắt mọi người trong sự vâng phục chân lý và trong việc tuyên xưng đức tin chân thật; cầu cho các nhu cầu của đời sống con người: xin chân lý của Thánh Linh hướng dẫn các lương tâm và trí tuệ con người tìm kiếm sự thiện đích thực và phục vụ phẩm giá mỗi người; cầu cho toàn thế giới: xin Chúa tái tạo sự hiệp nhất của các gia đình và khơi lên những cử chỉ hòa giải giữa các dân tộc với nhau; sau cùng là cầu cho cộng đoàn tham dự thánh lễ: xin Chúa Thánh Linh khơi dậy nơi mỗi người ơn thánh của bí tích rửa tội, để mang lại nhiều hoa trái của sự sống vĩnh cửu.

Trong phần hiệp lễ, 250 LM đã trao Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. Thánh lễ chỉ kéo dài 1 giờ 20 phút và kết thúc lúc 11 giờ 35. Sau khi cởi bỏ áo lễ, ĐTC đã tiến ra bắt tay chúc mừng các Hồng Y hiện diện rồi lên xe díp màu trắng mui trần, tiến qua các lối đi ở quảng trường để chào thăm các tín hữu, trong bầu không khí rất nồng nhiệt và hân hoan. Rồi ngài tiến lên bao lớn chính của Đền thờ thánh Phêrô lúc 12 giờ trưa để chủ sự buổi công bố sứ điệp Phục sinh và ban phép lành. Tháp tùng ĐTC có ĐHY Trưởng đẳng Phó Tế Jean Louis Tauran, cũng là Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh đối thoại liên tôn, và ĐHY Comastri. Ban nhạc của Italia và Tòa Thánh trổi quốc thiều Vatican và Italia.

Công bố Sứ điệp Phục Sinh

Trong sứ điệp, ĐTC quảng diễn ý nghĩa sự sống lại của Chúa Cứu Thế: đó là chiến thắng của Chúa trên sự ác và sự chết, và biến cố này có nghĩa là Thiên Chúa dẫn đưa con người từ nô lệ tội lỗi đến tự do của điều thiện. Ngài cũng cầu chúc hòa bình cho các dân tộc tại những vùng còn chiến tranh, hận thù, máu lửa trên thế giới. ĐTC nói:
Anh chị em ở Roma và toàn thế giới thân mến, chúc anh chị em Lễ Phục sinh tốt đẹp!

Thật là một niềm vui lớn lao cho tôi được loan báo cho anh chị em: Chúa Kitô đã sống lại! Tôi muốn lời này đi tới mỗi nhà, mỗi gia đình, đặc biệt là tại những nơi có nhiều đau khổ hơn, trong các nhà thương, các nhà tù, v.v..
Nhất là tôi muốn cho lời loan báo này đến với mọi tâm hồn, vì chính tại đó Thiên Chúa muốn gieo vãi Tin Vui này: Chúa Giêsu đã sống lại, có hy vọng cho bạn, bạn không còn ở dưới ách thống trị của tội lỗi, của sự ác nữa! Tình thương đã chiến thắng, lòng từ bi đã chiến thắng!

Cả chúng ta, giống như các nữ môn đệ của Chúa Giêsu đi đến mộ và thấy mộ trống, chúng ta cũng có thể tự hỏi xem biến cố này có ý nghĩa gì (Xc Lc 24,4). Chúa Giêsu sống lại nghĩa là gì? Có nghĩa là tình thương của Thiên Chúa mạnh hơn sự ác và sự chết; có nghĩa là tình thương của Thiên Chúa có thể biến đổi cuộc sống chúng ta, làm cho những vùng sa mạc trong tâm hồn chúng ta nở hoa.

Chính vì tình thương này, Con Thiên Chúa đã làm người và đã đi đến tận cùng con đường khiêm hạ và hiến thân, cho đến địa ngục, nơi hố sâu chia cách với Thiên Chúa; chính lòng từ bi yêu thương ấy đã làm cho tử thi của Chúa Giêsu tràn đầy ánh sáng và được hiển dung, được tiến vào sự sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu không trở lại đời sống trước đó, đời sống trần thế, nhưng đã đi vào cuộc sống vinh hiển của Thiên Chúa và Ngài vào đó với nhân tính của chúng ta, mở cho chúng ta một tương lai hy vọng.

Đây là ý nghĩa lễ Vượt Qua: đó là một cuộc xuất hành, con người tiến từ tình trạng nô lệ tội lỗi, nô lệ sự ác, đến tự do của tình thương, của sự thiện. Vì Thiên Chúa là sự sống, chỉ là sự sống, và vinh quang của Ngài là con người được sống (Xc Ireneo, Adversus haereses, 4,20,5-7).

Anh chị em thân mến, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại một lần cho tất cả và cho mọi người, nhưng sức mạnh sự sống lại của Ngài, sự vượt qua từ tình trạng nô lệ sự ác đến tự do của điều thiện, phải được thể hiện trong mọi thời đại, trong mọi không gian cụ thể của cuộc sống chúng ta, trong đời sống mỗi ngày của chúng ta. Ngày nay con người vẫn còn phải tiến qua bao nhiêu sa mạc! Nhất là sa mạc trong nội tâm con người, khi họ thiếu lòng mến Chúa yêu người, khi họ không ý thức mình là người gìn giữ tất cả những gì Đấng Tạo Hóa đã và đang ban cho chúng ta. Nhưng lòng từ bi Chúa có thể làm cho đất khô cằn nhất nở hoa, có thể tái ban sự sống cho những bộ xương khô (Xc Ez 37,1-14).

Vì thế, đây là lời mời gọi mà tôi gửi đến tất cả mọi người: chúng ta hãy đón nhận ơn Phục Sinh của Chúa Kitô! Hãy để cho mình được lòng từ bi của Thiên Chúa đổi mới, hãy để cho Chúa Giêsu yêu thương, hãy để cho quyền năng tình thương của Ngài biến đổi cả đời sống chúng ta; và chúng ta hãy trở thành dụng cụ của lòng từ bi ấy, làm máng chuyển qua đó Thiên Chúa có thể tưới gội trái đất, bảo tồn toàn thể công trình sáng tạo và làm cho công lý và hòa bình được triển nở.

Và chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Phục Sinh, biến đổi sự chết thành sự sống, biến cải oán ghét thành tình thương, thù hận thành tha thứ, chiến tranh thành hòa bình. Đúng vậy, Chúa Kitô là niềm an bình của chúng ta, và nhờ Ngài chúng ta khẩn cầu hòa bình cho toàn thế giới.

Hòa bình cho Trung Đông, đặc biệt là giữa người Israel và Palestine, đang vất vả tìm kiếm con đường hòa thuận, để họ can đảm mở lại các cuộc thương thuyết trong thái độ sẵn sàng hầu chấm dứt cuộc xung đột đã kéo dài quá lâu. Hòa bình tại Irak, để vĩnh viễn chấm dứt mọi bạo lực, và nhất là hòa bình cho Siria yêu quí, cho nhân dân đất nước này bị thương tổn vì xung đột, và hòa bình cho đông đảo người tị nạn, đang chờ đợi được trợ giúp và an ủi. Bao nhiêu là máu đã đổ ra! Và dân lành còn phải chịu đau khổ bao lâu nữa trước khi người ta tìm được một giải pháp chính trị cho cuộc khủng hoảng này?

Hòa bình cho Phi châu, vẫn còn là nơi diễn ra các cuộc xung đột đẫm máu. Hòa bình tại Mali, để đất nước này tìm lại được thống nhất và ổn định; và tại Nigeria, nơi mà rất tiếc các vụ khủng bố vẫn không chấm dứt, đe dọa trầm trọng sinh mạng của bao nhiêu người vô tội, và đó cũng là nơi mà nhiều người, kẻ cả các trẻ em, đang bị các nhóm khủng bố giữ làm con tin. Hòa bình tại miền đông Cộng hòa dân chủ Congo và ở Cộng hòa Trung Phi, nơi mà nhiều người buộc lòng phải rời bỏ gia cư và đang còn sống trong sợ hãi.

Hòa bình tại Á châu, nhất là tại Bán đảo Triều Tiên, để những dị biệt được khắc phục và một tinh thần hòa giải đổi mới được trưởng thành.

Hòa bình cho toàn thế giới, vẫn còn bị phân rẽ vì lòng ham hố của những người tìm kiếm lợi lộc dễ dàng, còn bị thương tổn vì lòng ích kẻ đe dọa sự sống con người và gia đình, lòng ích kỷ tiếp tục kéo dài nạn buôn người, làm cho nạn nô lệ càng lan rộng trong thế kỷ 21 này. Hòa bình cho toàn thế giới, bị xâu xé vì bạo lực gắn liền với nạn buôn bán ma túy và khai thác bất chính các tài nguyên thiên nhiên! Hòa bình cho Trái Đất này của chúng ta! Xin Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại an ủi cho các nạn nhân thiên tai và làm cho chúng ta trở thành những người bảo tồn công trình tạo dựng trong tinh thần trách nhiệm.

Anh chị em thân mến, tôi gửi đến tất cả anh chị em là những người đang nghe tôi ở Roma và ở mọi nơi trên thế giới lời mời gọi này của Thánh Vịnh: ”Hãy cảm tạ Chúa vì Người nhân từ, vì tình thương của Ngài tồn tại mãi mãi. Israel hãy nói rằng: ”Tình thương của Ngài vĩnh cửu” (Tv 117,1-2

ĐTC đã bỏ thói quen chúc mừng Phục Sinh bằng 65 thứ tiếng khác nhau và ngài chỉ cầu chúc chung bằng tiếng Ý:
”Anh chị em đến từ các nơi trên thế giới hiện diện tại Quang trường này, trung tâm của Kitô giáo, và tất cả anh chị em đang theo dõi qua các phương tiện truyền thông, tôi lập lại lời cầu chúc Lễ Phục sinh tốt đẹp! Hãy mang vào các gia đình và đất nước của anh chị em sứ điệp vui mừng, hy vọng và hòa bình mà mỗi năm, vào ngày này, được mạnh mẽ lập lại: Chúa đã sống lại, Ngài chiến thắng tội lỗi và sự chết, xin Chúa nâng đỡ tất cả mọi người, nhất là những người yếu thế và túng thiếu nhất. Xin cám ơn anh chị em vì sự hiện diện và chứng tá đức tin của anh chị em. Tôi đặc biệt nghĩ đến và cám ơn vì món quà các hoa rất đẹp đến từ Hòa Lan. Tôi thân ái lập lại với tất cả mọi người: Xin Chúa Kitô phục sinh hướng dẫn tất cả anh chị em và toàn nhân loại trên con đường công lý, tình thương và hòa bình.

Phép lành toàn xá

Sau sứ điệp phục sinh là nghi thức ban phép lành URBI ET ORBI kèm theo ơn toàn xá cho tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô cũng như những anh chị em tín hữu trên thế giới, theo dõi qua các đài phát thanh và truyền hình.

Mở đầu nghi thức, ĐHY Tauran, trưởng đẳng Phó tế, tuyên bố chủ ý của ĐTC ban ơn toàn xá cho những người nói trên, miễn là họ giữ các qui tắc và hội đủ các điều kiện luật định, nghĩa là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý ĐTC và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi.

Liền đó, ĐTC đã long trọng đọc lời nguyện xin Thiên Chúa nhân lành, vì lời cầu bầu của Mẹ Maria, của các thánh tông đồ Phêrô Phaolô và toàn thể các thánh, mà xá giải mọi tội lỗi và hình phạt bởi tội lỗi cho các tín hữu. Cũng nên nói thêm rằng: Trong sứ điệp, khi cầu chúc hòa bình cho Phi châu, ĐTC đã nhắc đến nhiều người, trong đó có các trẻ em, còn bị các nhóm khủng bố giữ làm con tin. Trong số những người ấy có 7 người Pháp, gồm 3 người lớn và 4 trẻ em bị những nhóm người võ trang bắt cóc cách đây 2 tuần tại miền bắc Camerun, gần biên giới nước Nigeria. Đó là 7 người thuộc cùng một gia đình, cha là nhân viên của hãng dầu khí GDF của Pháp, làm việc tại vùng này.

G. Trần Đức Anh, O.P – Vatican Radio
 

 

Đức Thánh Cha cử hành lễ Vọng Phục Sinh

Đức Thánh Cha cử hành lễ Vọng Phục Sinh

 

VATICAN. Trong lễ Vọng Phục Sinh 30 tháng 3-2013, ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu cởi mở đối với những mới mẻ Thiên Chúa dọn cho chúng ta, nhớ lại những gì Chúa đã làm trong cuộc sống bản thân và thế giới, và nhận ra sự hiện diện sinh động của Chúa giữa chúng ta.

Đây là ý chính bài giảng của ĐTC trong thánh lễ Vọng Phục Sinh đầu tiên ngài cử hành từ lúc 8 giờ rưỡi tối thứ bẩy Tuần Thánh 2013.

Trong thánh lễ, ngài đã ban bí tích khai tâm: rửa tội, thêm sức và Mình Thánh Chúa cho 4 dự tòng, trong đó có một người Mỹ gốc Việt 17 tuổi là anh Anthony Trần Định (1996); một người Albani 30 tuổi, một người Nga cũng 30 tuổi và một người Ý 23 tuổi.

Đồng tế với ĐTC có 30 Hồng y tại Tòa Thánh, trước sự hiện diện của các GM và khoảng 9 ngàn tín hữu. Phần thánh ca do ca đoàn Sistina gồm hơn 40 ca viên và ca đoàn Mẹ Giáo Hội gồm 160 ca viên đảm trách.

Trong bài giảng, ĐTC quảng diễn ý nghĩa trình thuật Phúc Âm: các phụ nữ đến mộ Chúa, tâm tình thất vọng vì Thầy đã chết, nhưng trong tâm hồn họ vẫn còn lòng kính mến đối với Thầy. Chính lúc đó một sự kiện mới mẻ đã đảo lộn cuộc sống của họ: họ thấy ngôi mở mở toang và không thấy xác Chúa… Sự mới mẻ thường làm cho chúng ta sợ hãi, kể cả sự mới mẻ mà Thiên Chúa mang đến cho chúng ta, sự mới mẻ mà Thiên Chúa yêu cầu chúng ta.
ĐTC nói: ”Anh chị em thân mến, chúng ta đừng khép kín đối với sự mới mẻ mà Thiên Chúa muốn đưa vào cuộc sống chúng ta! Chúng ta thường mệt mỏi, thất vọng, buồn sầu, chúng ta cảm thấy gánh nặng tội lỗi chúng ta và nghĩ mình không thể vượt thắng. Chúng ta đừng co cụm vào mình, đừng đánh mất niềm tín thác, đừng bao giờ cam chịu: không có hoàn cảnh nào mà Thiên Chúa không thể thay đổi, không có tội lỗi nào mà Chúa không thể tha thứ nếu chúng ta cởi mở đối với Ngài”.

ĐTC nhận xét rằng sự kiện các phụ nữ đến viếng mộ Chúa vốn là một cử chỉ đơn sơ vì tình yêu, nay biến thành một biến cố thực sự thay đổi cuộc sống của họ: không có gì giống như trước đây nữa, không những trong cuộc sống của các phụ nữ, nhưng cả trong đời sống chúng ta và lịch sử nhân loại. ”Chúa Giêsu không chết, Ngài đã sống lại, Ngài vẫn sống! Ngài không chỉ trở lại trong cuộc sống, nhưng Ngài là chính sự sống, vì Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Hằng Sống (Xc Ds 14,21-28; Dnl 5,26; Gs 3,10). Chúa Giêsu không còn ở trong quá khứ, nhưng Ngài đang sống trong hiện tại và hướng về tương lai, Ngài là ”hôm nay” trường cửu của Thiên Chúa. Thế là sự mới mẻ của Thiên Chúa ở trước mắt các phụ nữ, các môn đệ, và tất cả chúng ta: chiến thắng trên tội lỗi, sự ác, sự chết, trên tất cả những gì đè nén cuộc sống và làm cho nó kém xứng đáng với con người. Và đó là sứ điệp được gửi đến cho tôi, và cho bạn, cho anh chị em,. Bao nhiêu lần chúng ta cần Đấng là Tình Thương nói với chúng ta: tại sao các người tìm kiếm người sống nơi kẻ chết? Các vấn đề, những lo âu hằng ngày có xu hướng làm cho chúng ta co cụm vào mình, trong buồn sầu và cay đắng.. tại đó có chết chóc. Chúng ta đừng tìm Đấng hằng sống tại đó!

“Vậy hãy chấp nhận để cho Chúa Giêsu Phục Sinh đi vào đời sống của bạn, hãy đón nhận Ngài như người bạn, với lòng tín thác: Ngài chính là sự sống! Nếu cho đến nay bạn xa lìa Ngài, hãy cố gắng làm một bước tiến nhỏ: Ngài sẽ đón nhận bạn với vòng tay rộng mở. Nếu bạn dửng dưng lãnh đạm, hãy chấp nhận rủi ro: bạn sẽ không thất vọng. Nếu bạn thấy có vẻ khó theo Ngài, đừng sợ, hãy tín thác vào Ngài, hãy chắc chắn là Ngài gần gũi bạn, ở với bạn và mang lại cho bạn an bình mà bạn tìm kiếm và sức mạnh để sống như Ngài muốn.”

Trong phần thứ ba của bài giảng, ĐTC nhận xét rằng ”khi các phụ nữ thấy ngôi mộ trống và hai thanh niên mặc áo trắng tinh, phản ứng đầu tiên của họ là sợ hãi, nhưng khi họ nghe lời loan báo Chúa sống lại, họ đón nhận với niềm tin. Và hai người mặc áo trắng dẫn vào một lời cơ bản: ”Các bà hãy nhớ Ngài nói với các bà thế nào khi Ngài còn ở Galilea.. Và họ nhớ lại những lời Ngài” (Lc 24,6.8). Chính lời mời gọi hãy nhớ lại cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, những lời nói, cử chỉ, và cuộc sống của Ngài; và chính sự nhớ lại trong tình yêu thương về kinh nghiệm với Thầy đã làm cho các phụ nữ ấy vượt thắng mọi sợ hãi và đem tin Chúa sống lại cho các Tông đồ và mọi người khác (Xc Lc 24,9). Nhớ lại điều Chúa đã và đang làm cho tôi, cho chúng ta, nhớ lại con đường đã trải qua; và điều này mở toang tâm hồn cho hy vọng tương lai. Chúng ta hãy học nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm trong cuộc sống chúng ta!”

Và ĐTC kết luận rằng:

”Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta tham phần vào sự phục sinh của Ngài: cởi mở chúng ta đối với sự mới mẻ biển đổi, cởi mở đối với nhưng điều ngạc nhiên của Chúa; làm cho chúng ta trở nên những người nam nữ có khả năng nhớ lại những điều Ngài đã làm trong cuộc đời chúng ta cũng như trong lịch sử thế giới, làm cho chúng ta có khả năng cảm thấy Ngài như Đấng Hằng Sống, đang sống và hoạt động giữa chúng ta, xin Ngài dạy chúng ta mỗi ngày không tìm Đấng đang sống nơi những kẻ chết. Amen”.

Trong phần rước lễ, 120 LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngôi mộ trống

Ngôi mộ trống

empty-tomb

1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại

Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).

2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?

Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?

Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.

3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới

Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?

4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi

Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).

5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ

Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).

Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.

6. Một nghịch lý thực tế

Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.

7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương

Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.

Cầu nguyện

Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.

JKN

Chúa đã sống lại

Chúa đã sống lại

Jesus Resurrection

Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.

Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.

Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.

Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.

Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

Radio Veritas Asia

Ánh sáng và bóng tối

Ánh sáng và bóng tối

Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.

Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.

Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.

Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.

Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.

– Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.

– Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

– Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.

– Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

– Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.

Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.

Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

HÃY GIEO YÊU THƯƠNG

HÃY GIEO YÊU THƯƠNG

Rose scraps

HÃY GIEO YÊU THƯƠNG VÀO NƠI OÁN THÙ.

Mặt đất tràn đầy thiên đàng,

Mọi lùm cây bừng sáng vì Thiên Chúa hiện diện,

Ai thấy Thiên Chúa thì mới cởi giầy ra,

Những người khác chỉ ngồi chung quanh hái quả mâm xôi.

                                                ( Elizabeth Barrett Browning)

Xem tiếp . . .HÃY GIEO YÊU THƯƠNG