Đức tin và khiêm nhường

Đức tin và khiêm nhường

Linh mục văn sĩ Marlin Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình v.v…, chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn nữa.

Rồi tác giả Marlin mời chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù, không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không? Hay chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại nhau… Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều khác được.

Quả thật, giữa con người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết khẩn xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” mà chúng ta vừa đọc nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.

Trước đó, Chúa Giêsu vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.

“Lạy Chúa xin thêm đức tin cho chúng con”. Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ, nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.

Lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con”. Chúng con đang sống giữa cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay; lung lay trong đức tin hay lạc mất đức tin.

Bài Phúc âm hôm nay nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

Veritas Radio

NẾU BẠN CÓ ĐỨC TIN

NẾU BẠN CÓ ĐỨC TIN

Chủ đề: “Thiên Chúa và quyền năng của Người làm cho mọi sự trở nên có thể đối với ai có lòng tin”.

Hãy thử một trò chơi. Giả như bạn bước vào một cái máy thời gian và đi ngược dòng thời gian để trở về năm 1776.

Giả như bạn mang theo tờ báo mới phát hành hôm nay và khi trở về năm 1776, giả như có vài người cầm lấy tờ báo ấy để đọc. Không biết họ sẽ hiểu được bao nhiêu về tờ báo ấy?

Phần lớn các nhà chuyên môn sẽ cho rằng họ không đủ kiến thức để hiểu tờ báo ấy. Họ sẽ đọc nó như một ngôn ngữ xa lạ. Thử kể ra một vài chữ mà những người thời 1776 không thể hiểu nổi: xe hơi, máy bay, phi hành gia, siêu xa lộ, siêu thị, máy lạnh, thị trường chứng khoán, rađiô, truyền hình, phi thuyền, đi trên mặt trăng, tên lửa tầm xa.

Rồi giả như có người hỏi bạn máy truyền hình là gì. Bạn sẽ nói đó là một phương cách để nhìn thấy những gì thật xa như ở mãi Trung Cộng mà đang thực sự xảy ra ở đó.

Giả như có người hỏi tên lửa tầm xa là gì. Bạn sẽ nói đó là một phương cách phóng đi một viên đạn thật lớn từ Hoa Kỳ và tiêu hủy một thành phố ở bên Nga.

Giả như có người hỏi đi trên mặt trăng là gì. Bạn sẽ nói đó là một người ở dưới đất dùng phi thuyền bay lên mặt trăng và bước đi trên đó.

Bạn nghĩ là họ sẽ nói gì với bạn?

Nếu họ là người có chút khả năng phán đoán, họ sẽ nói bạn điên. Vì bất cứ ai còn chút ý thức đều biết rằng bạn không thể thấy điều gì đó đang xảy ra ở Trung Cộng trong khi bạn còn ngồi ở Nữu Ước.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng một viên đạn lửa bắn đi từ Hoa Kỳ, dù lớn đến đâu đi nữa, cũng không thể tiêu huỷ một thành phố ở Nga.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng bạn không thể bay như chim lên mặt trăng, rồi bước ra ngoài dạo chơi rồi sau đó trở về mặt đất.

Mục đích của trò chơi là để chứng minh rằng những gì mà người của thế kỷ này cho rằng vô nghĩa và không thể được thì lại là điều thực tế và phổ thông đối với người của thế kỷ khác.

Mục đích của trò chơi là để cho thấy điều mà người ở thế kỷ này không bao giờ mơ tưởng tới thì đó lại là điều bình thường đối với người ở thế kỷ khác.

Có một bài học quan trọng ở đây. Nếu chúng ta nhìn về đời sống với một thái độ lạc quan, coi mọi sự đều có thể xảy ra thì có lẽ chúng ta sẽ đạt được điều đó.

Ngược lại, nếu chúng ta cho rằng có những điều không thể thực hiện được thì có lẽ chúng ta cũng thất bại không thể hoàn thành.

Vì người của thế kỷ này không thể phán đoán những gì có thể hay không thể ở thế kỷ khác.

Bây giờ hãy chơi một trò khác.

Giả như có ai đó từ năm 3000 đến địa cầu hôm nay trong một máy thời gian. Giả như người đó có một tờ báo mà trong đó không có những tin tức về các vụ bạo động, không có nghèo đói, không có chiến tranh giữa các quốc gia.

Giả như tờ báo đó chỉ toàn những câu chuyện đầy yêu thương, đầy bình an, đầy tình bạn.

Bạn sẽ nói gì?

Nếu bạn có chút ý thức bạn sẽ nói không thể nào có một thế giới như vậy được. Bạn sẽ nói đó là một thế giới không có thực. Bạn sẽ nói tờ báo ấy đầy những tuyên truyền để gây ấn tượng đối với người của thế kỷ 20.

Tại sao?

Vì bất cứ ai có ý thức đều biết rằng nơi đâu đó loài người là nơi đó có bạo động và hận thù.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng nơi đâu có loài người là nơi đó có kẻ giầu và người nghèo.

Bất cứ ai có ý thức đều biết rằng nơi đâu có quốc gia là ở đó có võ lực và chiến tranh.

Có một bài học quan trọng ở đây. Nếu chúng ta nhìn đời sống với một thái độ bi quan, cho rằng hoà bình trên thế giới không thể nào có được, có lẽ chúng ta sẽ thất bại không đạt được điều đó.

Nếu chúng ta nhìn đời sống với thái độ cho rằng, tự trong tâm hồn, con người thì ích kỷ và vô lo, có lẽ chúng ta sẽ không thiết lập được một xã hội vị tha và biết chăm sóc cho nhau.

Nếu chúng ta nhìn đời sống với thái độ rằng các quốc gia vốn đã thù nghịch và hung dữ, có lẽ chúng ta không thể đạt được một nền hòa bình trên thế giới.

Và điều đó đưa chúng ta đến điểm quan trọng nhất.

Hòa bình trên mặt đất là điều có thể. Con người yêu thương nhau là điều có thể. Sự hài hòa giữa các quốc gia là điều có thể.

Và lý do mà những điều này có thể là vì Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta và dạy chúng ta phải sống như thế nào.

Lý do mà những điều ấy có thể được là vì Chúa Giêsu đã nói như vậy.

Đó là điều Chúa muốn nói khi Người dạy chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha “Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Lý do mà những điều ấy có thể được là vì Chúa Giêsu đã chết để những điều đó có thể thực hiện được.

Lý do mà những điều ấy có thể được là vì Chúa Giêsu đã sống lại để những điều đó có thể thực hiện được.

Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài phúc âm hôm nay.

Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể nói cây dâu này, ‘Hãy bật rễ lên và xuống dưới biển mà trồng!’ thì nó sẽ vâng lời các con .”

Tin mừng của phúc âm hôm nay là, qua đức tin, quyền năng của Thiên Chúa tùy thuộc nơi chúng ta.

Kết quả là, không có gì là không có thể-ngay cả một thế giới không có chiến tranh, ngay cả một thế giới không có nghèo đói, ngay cả một thế giới không còn hận thù.

Hãy nhớ rằng điều mà con người của thế kỷ này cho là không thể được thì người của thế kỷ khác lại cho là bình thường.

Đó chỉ là vấn đề quan điểm và đức tin. Đó chỉ là vấn đề tín thác nơi Chúa Giêsu khi Người nói:

Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể nói cây dâu này, ‘Hãy bật rễ lên và xuống dưới biển mà trồng!’ thì nó sẽ vâng lời các con .”

Cha Mark Link, SJ

Bổn phận

Bổn phận

Chúng ta biết rằng đức tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong việc làm. Đức tin sống với cả con người trong niềm tin, suy tưởng, lời nói và hành động. Truyện kể: Một nhà truyền giáo tới Phi châu giảng đạo. Ngài muốn chuyển dịch Phúc Âm Thánh Gioan sang thổ ngữ địa phương. Ngài gặp nhiều khó khăn vì ngôn từ rất giới hạn, khó tìm được những chữ thích hợp ý nghĩa từ tiếng Anh. Thí dụ: chữ ‘to believe”. Không có ngôn từ nào trong thổ ngữ địa phương phỏng dịch chính xác. Ngài đến hỏi một trong những người dân làng xin giúp đỡ. Khi ngài giải thích những khó khăn, ông ta trả lời theo sự hiểu biết của ông ‘to bebieve’ – ‘tin’ nên dịch là ‘to listen with the heart’ – ‘lắng nghe với trái tim’.

Một số người nghĩ rằng họ đang làm ơn cho Chúa khi họ giữ các giới răn và thờ phượng Chúa. Chúng ta phục vụ thờ phượng Thiên Chúa là một đặc ân. Tiên tri Khabacúc than phiền với Chúa về sự bị đối xử bất công. Ông kêu van: “Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao?” (Kb 1,2). Ai cầu xin cũng muốn được nhậm lời. Tiên tri đối diện nhiều khó khăn và chịu nhiều đắng cay, ông cầu xin Chúa mau đáp lời và giải thoát. Ông kêu cầu Chúa và muốn rằng Chúa phải thực hành trá oán cho những bất công ngay. Chúa hứa với ông là sự công chính sẽ được vãn hòa và sửa phạt công minh. Người làm ác sẽ bị oán phạt: “Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín.” (Kb 2,4).

Trong đời sống đạo, đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta một số điều. Chúng ta là những người rất chân thành thực thi các giới răn, tham dự đầy đủ các nghi lễ, tụ nhóm cầu nguyện hằng tuần và chu toàn mọi điều luật dạy. Chúng ta nghĩ rằng Chúa phải ban phần thưởng. Có người tưởng nghĩ rằng Chúa như ông chủ, chúng ta là những người làm công. Làm xong việc là phải trả lương sòng phẳng. Chúng ta thường quan niệm giữ đạo và thực hành đạo để được an tâm và lãnh phần phúc. Thái độ phục vụ Thiên Chúa bị giảm bớt coi như một khế ước trao đổi. Phần thưởng trên nước trời là công lao chúng ta phục vụ dưới thế. Sự phục vụ như thế sẽ mất đi ý nghĩa tinh ròng. Thực ra việc làm của chúng ta chẳng có công lênh gì trước mặt Chúa. Phần thưởng ngày sau hoàn toàn là hồng ân Chúa ban. Chúng ta cũng chỉ là người đầy tớ phục vụ Chúa trong tin yêu.

Có lần nghe có vị đại diện tôn giáo bạn thuyết pháp rằng các tín đồ không nên tin thờ Thượng đế hay chúa bà nào cả, không có thần thánh, không có niềm tin và mọi sự do chính con người phấn đấu và tu luyện mà thành. Không lệ thuộc vào thế giới thần thánh vì mọi quyền lực ở trong tay con người. Vị thuyết pháp đặt vấn đề: Nếu tin có sự hiện diện của Thiên Chúa quyền năng, vậy bây giờ tôi sẽ cầu xin Chúa hãy làm cây xoài sinh ra trái khế. Nếu Chúa không làm được, vậy là không có Thiên Chúa. Cách lý luận nghe cũng lạ lạ. Thách thức Thiên Chúa qua lời cầu nguyện thể theo ý mình. Về vấn đề niềm tin, Chúa Giêsu đi xa hơn: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu .

LM Giuse Trần Việt Hùng

Xin thêm Đức tin cho con

Xin thêm Đức tin cho con

“Thưa Thầy, xin thêm Đức tin cho con”. Lời thưa của các Tông đồ ngày xưa vẫn là lời van xin của con cái Chúa hôm nay. Tin là gì? Một câu hỏi không dễ trả lời. Một bệnh nhân khi bị bệnh, anh ta đến Thầy thuốc và được dặn uống một số thuốc nào đó. Anh về và làm như lời Bác sĩ dặn. Anh hết bệnh. Nhưng không phải do Thầy thuốc mà do nhờ uống thuốc đúng bệnh, đúng liều giúp anh hết bệnh. Người bệnh tin vào Thầy thuốc là người tài giỏi, có kinh nghiệm trong việc chẩn trị bệnh. Tin như thế là có chứng cớ, có cơ sở.

Một người đi lạc vào rừng không tìm được lối ra. Tưởng sẽ mãi ở trong rừng sâu không có ngày về. Bỗng dưng nhìn thấy một túp lều bên suối. Bước vào trong ông thấy có dụng cụ nấu ăn, có chỗ nghỉ ngơi. Mặc dầu không thấy ai, nhưng ông tin chắc túp lều là do có người dựng lên. Có bếp núc, có nơi tạm nghỉ, ông biết rõ có người tới lui dù ông chưa từng thấy họ. Và ông an tâm vì biết rồi đây mình sẽ trở về được nhà, trở về sống với mọi người vì có đồng lọai ở bên, sẽ giúp đỡ ông. Nhưng tin vào Chúa, Đấng mà con người chưa từng gặp trong cuộc sống thì sao?

Các Tông đồ ngày xưa được Chúa gọi theo Người, các ông chứng kiến những phép lạ Chúa làm, từng nghe không biết bao lời Chúa giảng dạy, từng chứng kiến đám đông người đi theo Chúa. Họ đón nhận Lời Người với một niềm tin tuyệt đối như vị sĩ quan đội trưởng, xin Chúa chữa lành cho con mình: “Thưa Thầy! Thầy khỏi đến nhà tôi, vì nhà tôi chẳng đáng Ngài vào. Thầy chỉ cần phán một lời thôi thì con tôi sẽ lành bệnh”, hay như người đàn bà bị băng huyết lâu năm, chỉ mong được chạm vào áo Thầy chắc chắn sẽ khỏi bệnh. Bà được như ý. Lời Chúa đã minh chứng điều ấy: “Lòng tin của bà đã chữa bà”. Còn TôMa, một con người của chủ thuyết duy nghiệm, dù là một Tông đồ, từng thấy Chúa làm được mọi phép lạ. Tin và phục Chúa như một vị Rabbi có tài, có “Công lực”, có “phép thuật?” Nhưng ông không thể tin được Người là “Con Thiên Chúa”, là “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, là “Đấng Cứu độ trần gian”. Nên khi nghe chuyện sau ngày Chúa chịu tử nạn, Người đã sống lại và hiện ra với các bè bạn, ông không tin. Chỉ đến khi chứng kiến Chúa ngay trước mắt và được trò chuyện với Người, ông mới thưa lên lời xác tín : “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”. Chúa đã nhắc ông : “TôMa vì anh đã thấy Thầy nên anh đã tin, nhưng phúc cho ai không thấy mà tin”. Quả thật niềm tin “Thiêng liêng” không dễ dàng.

Lạy Chúa,

Các Tông đồ đã sống bên Chúa, đã được Chúa dạy bảo, chăm sóc mà còn phải thưa “Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Các ông nửa tin, nửa ngờ. Phải đến khi Thánh Thần Chúa xuống, các ông được mở lòng, mở trí mà vững tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô và làm chứng về Người. Phần con, có gì hơn các Ngài? Con đã được ơn gọi đứng vào hàng ngũ dân Chúa, được lời chứng từ các Tông đồ, qua Giáo hội Chúa nơi trần gian. Được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, Bí tích Thêm sức, tức là lãnh nhận Chúa Thánh Thần, được soi trí mở lòng. Con được Chúa ban ơn Đức Tin, là ơn nhưng không. Nhưng con vẫn hèn tin, vẫn sa ngã, vẫn không mạnh dạn sống lòng tin đó trong cuộc đời. Con thật có lỗi

Xin Chúa ban thêm Đức tin cho con. Xin cho con dám mạnh dạn tuyên xưng: “Tôi vẫn mãi tin luôn, tin rằng Ngài yêu thương tôi. Tôi vẫn cứ tin luôn, cho dù gặp bao gian nguy”. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa! AMEN.

FX. Đỗ công Minh

Đức Thánh Cha Phanxicô hành hương tại Assisi

Đức Thánh Cha Phanxicô hành hương tại Assisi

Pope Francis in Assisi

 

ASSISI. Hôm 4 tháng 10-2013, ĐTC Phanxicô đã dành 13 tiếng đồng hồ, từ 7 giờ sáng cho đến 8 giờ tối, để viếng thăm Assisi cách Roma 200 cây số, quê hương vị Thánh ngài đã chọn làm bổn mạng và là vị hướng đạo cho triều đại Giáo Hoàng của ngài.

Đức Phanxicô là vị giáo hoàng thứ 19 đến viếng thăm Assisi nhưng ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên mang tên vị thánh nghèo.

Máy bay trực thăng của không lực Italia chở ĐTC đã đáp xuống sân vận động gần Viện Seraphicum lúc 7 giờ rưỡi sáng và đã được Chủ tịch Thượng viện Italia, Ông Piero Grasso, Đức GM sở tại và ông thị trưởng Assisi cùng với nhiều quan chức đạo đời và đông đảo tín hữu tiếp đón. Tháp tùng ĐTC trong chuyến viếng thăm này đặc biệt có 8 Hồng Y thuộc Hội đồng cố vấn, giúp ngài trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ và cải tổ các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Trong số 8 vị có ĐHY Sean O'Malley, dòng Phanxicô Capuchino TGM giáo phận Boston, Hoa kỳ.

Thăm các trẻ em khuyết tật

Seraphicum là một viện săn sóc các trẻ em khuyết tật do cha Ludovico da Casoria dòng Phanxicô thành lập ngày 17-9-1871 đúng ngày kỷ niệm thánh tổ phụ chịu 5 dấu thánh và hiện có 60 em.
ĐTC đã vào nhà nguyện của Viện để cầu nguyện ít phút trước khi gặp gỡ các em khuyết tật, cũng với những người săn sóc và một số bệnh nhân khác. Ngài thân ái chào thăm mọi người, hôn các em bé bệnh nhân trong bầu khí thật cảm động.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Ông thị trưởng và bà giám đốc Viện Seraphicum, ĐTC bỏ qua bài diễn văn dọn sẵn, và ứng khẩu nói với mọi người:

”Chúng ta đang ở giữa những vết thương của Chúa Giêsu: những vết thương này đang được lắng nghe, và nhìn nhận.. Chúa Giêsu ẩn trong các trẻ em, các thiếu niên này. Trên bàn thờ chúng ta thờ lại Mình Chúa Giêsu, nơi các em này, chúng ta thấy những vết thương của Chúa.. Các em cần được những người nói mình là Kitô hữu lắng nghe và đón nhận”.

ĐTC nhận xét rằng ”rất tiếc là xã hội bị ô nhiễm vì văn hóa gạt tỏ, trái ngược với văn hóa tiếp đón. Nạn nhân của thứ văn hóa gạt bỏ chính là những người yếu thế, mong mang nhất. Trong bối cảnh đó, ngài kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị và chính quyền đặt những người bị thiệt thòi nơi trung tâm những quan tâm về chính trị và xã hội.
Sau bài huấn dụ, ĐTC còn dừng lại chào thăm từng em khuyết tật và các bác sĩ, y tá, thân nhân và những người săn sóc các em.

Gặp gỡ người nghèo

Liền đó, ngài đến viếng Đền thánh Damiano, trước khi đến tòa GM Assisi để gặp những người nghèo được Caritas trợ giúp. Cuộc gặp gỡ diễn ra tại phòng gọi là ”cởi bỏ”, nơi thánh Phanxicô đã cởi bỏ y phục trả lại cho thân phụ và những gì mình có thể hoàn toàn sống theo lý tưởng thanh bần.

Trong lời chào ĐTC, Đức TGM Sorrentino của giáo phận Assisi nhận xét rằng đây là lần đầu tiên từ 800 năm nay một vị giáo hoàng đến viếng phòng ”cởi bỏ” này.. ”Chúng con cũng xin ĐTC giúp chúng con hiểu làm sao chúng con phải cởi bỏ chính mình để luôn được tự do hầu có thể phục vụ”.

Trong dịp này, ĐTC cũng ứng khẩu và nói “đây là cơ hội để mời gọi Giáo Hội cởi bỏ. Nhưng Giáo Hội là tất cả chúng ta, từ người đầu tiên chịu phép rửa. Tất cả chúng ta đều phải đi theo con đường của Chúa Giêsu, Đấng đã đi trên con đường cởi bỏ, đã trở thành người tôi tớ, người phục vụ, đã muốn hạ mình cho đến thập giá. Nếu chúng ta muốn là Kitô hữu, thì không có con đường nào khác. Nhưng có người nói: Chúng ta không thể làm một Kitô giáo nhân bản hơn, không có thánh giá, không có Chúa Giêsu, không có sự cởi bỏ sao? Nhưng làm như thế, chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu của tiệm bánh ngọt, như những chiếc bánh ngọt thật đẹp, nhưng không phải là Kitô hữu đích thực.”

”Nhưng chúng ta phải cởi bỏ cái gì? Thưa ngày nay Giáo Hội phải cởi bỏ một nguy hiểm rất trầm trọng đe dọa mỗi ngừơi trong Giáo Hội, đó là nguy hiểm tinh thần thế gian. Kitô hữu không thể sống với tinh thần của thế gian. Tinh thần này đưa chúng ta đến chỗ háo danh, quyền lực, hà hiếp, kiêu ngạo. Đó là một thứ ngẫu tượng chứ không phải là Thiên Chúa, và tội thờ thần tược là tội nặng nhất! Tất cả chúng ta đều phải cởi bỏ tinh thần thế tục, trái ngược với tinh thần các Mối Phúc, tinh thần của Chúa Giêsu.

Thánh lễ

Giã từ những người nghèo tại tòa GM Assisi, ĐTC đã đến Vương cung thánh đường thánh Phanxicô lúc 10 giờ 20. Tại đây ngài được cha Tổng quyền dòng Phanxicô Viện tu cùng với cha Bề trên thánh tu viện tiếp đón. ĐTC đã chào thăm đông đảo các tu sĩ của dòng trong Thánh đường trên, trước khi đi xuống hầm đền thờ để quì cầu nguyện trước mộ của thánh Phanxicô.

Sau đó, ngài bắt đầu cử hành thánh lễ tại Quảng trước đền thờ, cùng với các HY tháp tùng, tất cả các GM miền Umbria, và hàng trăm linh mục triều và dòng. Trong số các giới chức chính quyền hiện diện, đặc biệt có Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Nicola Letta. Các tín hữu ngồi hết mọi chỗ trong quảng trường trước Đền thờ.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng, ĐTC mời gọi các tín hữu noi gương thánh Phanxicô mặc lấy Chúa Giêsu, gắn bó với Chúa, tìm an bình đích thực bắt nguồn từ Chúa, và tôn trọng thiên nhiên, nhất là con người. Ngài nói:

”Lạy Cha, là Chúa Trời Đất, con chúc tụng Cha vì Cha đã giấu những điều ấy với những người khôn ngoan và thông thái, và đã tỏ lộ cho những người bé nhỏ” (Mt 11,25)

”An bình và thiện hảo cho tất cả anh chị em! Với lời chào Phanxicô này tôi cám ơn anh chị em đã đến đây, tại Quảng trường này, đầy lịch sử và đức tin, để cùng cầu nguyện.

”Hôm nay, như bao tín hữu hành hương khác, tôi đến đây để chúc tụng Chúa Cha vì tất cả những gì ngài muốn tỏ lộ cho một trong những người bé mọn mà Tin Mừng nói với chúng ta, đó là Phanxicô, con của một thương gia giàu có ở Assisi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đưa Phanxicô đến chỗ cởi bỏ một đời sống thoải mái và phóng túng, để kết hôn với ”Bà Chúa Nghèo” và sống như người con đích thực của Cha ở trên trời. Sự chọn lựa này của Phanxicô, diễn tả một cách quyết liệt sự noi gương Chúa Kitô, mặc lấy Đấng giàu sang đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu nhờ cái nghèo của Ngài (Xc 2 Cr 8,9). Trong trọn cuộc đời của Phanxicô, lòng yêu mến người nghèo và noi gương Chúa Kitô nghèo là hai yếu tố gắn liền với nhau không thể tách rời được, hai mặt của cùng một mề đai.

Thánh Phanxicô chứng tỏ điều gì cho chúng ta ngày nay? Ngài nói với gì chúng ta, không phải bằng lời nói, vốn là điều dễ dàng, nhưng bằng chính cuộc sống?

1. Điều thứ I, điều cơ bản mà thánh Phanxicô chứng tỏ cho chúng ta là: sống như Kitô hữu có nghĩa là có một quan hệ sinh tử với Con người của Chúa Giêsu, là mặc lấy Chúa, là đồng hóa với Chúa.

”Đâu là điểm khởi hành con đường của Thánh Phanxicô hướng về Chúa Kitô? Thưa từ cái nhìn của Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Để cho mình được Chúa ngắm nhìn trong lúc Chúa ban sự sống cho chúng ta và lôi kéo chúng ta về với Ngài. Phanxicô đã trải qua kinh nghiệm này một cách đặc biệt trong ngôi thánh đường Thánh Damiano nhỏ bé, khi cầu nguyện trước tượng Chúa Chịu Đóng Đanh, mà hôm nay tôi được kính viếng. Trong tượng Đóng Đanh ấy, Chúa không xuất hiện như người chết, nhưng như người sống! Máu chảy xuống từ vết thương nơi bàn tay, chân và cạnh sườn Chúa, nhưng máu ấy biểu lộ sự sống. Chúa Giêsu không có đôi mắt khép lại, nhưng mở toang: một cái nhìn nói với con tim. Và Chúa Chịu Đóng Đanh không nói với chúng ta về sự thất bại; trái lại nói với chúng ta về một cái chết cũng là sự sống, sinh ra sự sống, vì nói với chúng ta về tình thương, vì Ngài là Tình Thương của Thiên Chúa nhập thể, và Tình Thương không chết, trái lại, đánh bại sự ác và sự chết. Ai để cho mình được Chúa Giêsu Chịu Đóng Đanh ngắm nhìn thì được tái tạo trở thành một ”thụ tạo mới”. Đây là điểm khởi hành của mọi sự: đó là kinh nghiệm về Ơn Thánh biến đổi, được yêu mến mà không có công trạng gì, dù là ngừơi tội lỗi. Vì thế thánh Phanxicô có thể nói như thánh Phaolô: ”Về phần tôi, tôi không hãnh diện về điều nào khác ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta”(Gl 6,14)

Lạy thánh Phanxicô, chúng con hướng về ngài và cầu xin: xin dạy chúng con ở lại trước Thánh Giá Chúa chịu đóng đanh, để cho Chúa nhìn, để Chúa tha thứ và được tình thương Chúa tái tạo.

2. Trong Tin Mừng chúng ta đã nghe những lời này: ”Hỡi tất cả những ai mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng tôi và tôi sẽ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của tôi và học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,28-29)

Đây là điều thứ hai mà thánh Phanxicô làm chứng cho chúng ta: Ai theo Chúa Giêsu, thì nhận được an bình đích thực. Thánh Phanxicô được nhiều người gắn liền với hòa bình, nhưng ít người đi vào chiều sâu. Đâu là hòa bình mà thánh Phanxicô đã lãnh nhận, đã sống và thông truyền cho chúng ta? Thưa đó là hòa bình của Chúa Kitô, được trải qua tình yêu lớn nhất, tình yêu của Thập Giá. Đó là hòa bình mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các môn để khi Ngài hiện ra giữa họ và nói: ”Bình an cho các con!” và Ngài nói điều đó, tỏ cho họ đôi tay bị vết thương và cạnh sườn bị đâm thâu qua (Xc Ga 20,19.20)

An bình theo tinh thần Phanxicô không phải là một tình cảm ủy mị. Xin lưu ý điều này: không hề có thánh Phanxicô như thế! Và hòa bình ấy cũng không phải là một sự hòa hợp phiếm thần với những năng lượng của vũ trụ.. Cả điều này cũng không phải là tinh thần Phanxicô, nhưng là một ý tưởng mà vài người đã tạo ra! Hòa bình của thánh Phanxicô là hòa bình của Chúa Kitô, và thánh nhân tìm được khi mang lấy ách của Chúa, nghĩa là giới răn của Chúa: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con (Xc Ga 13,34; 15,12). Và cái ách này không thể mang với sự kiêu hãnh, tự phụ, kiêu ngạo, nhưng chỉ có thể mang được với sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Lạy Thánh Phanxicô, chúng con hướng về ngài, và cầu xin: Xin dạy chúng con trở nên ”khí cụ hòa bình”, thứ hòa bình có nguồn mạch nơi Thiên Chúa, hòa bình mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta.

3. ”Lạy Đấng Tối Cao, toàn năng, Chúa nhân từ, chúc tụng Chúa.. cùng với tất cả các thụ tạo của Chúa” (FF 1820). Bài ca của thánh Phanxicô bắt đầu với những lời như thế. Lòng yêu mến của thánh nhân đối với toàn thể công trình sáng tạo, sự hòa hợp của công trình này. Vị Thánh thành Assisi chứng tỏ lòng tôn trọng đối với tất cả những gì Thiên Chúa đã tạo dựng và con người được mời gọi giữ gìn và bảo vệ, nhưng nhất là ngài chứng tỏ lòng tôn trọng và yêu mến đối với mỗi người. Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới để nó trở thành nơi tăng trưởng trong hòa hợp và an bình. Hòa hợp và an bình! Thánh Phanxicô là một người hài hòa và an bình. Từ thành phố hòa bình này, tôi lập lại một cách mạnh mẽ và dịu dàng rằng: chúng ta hãy tôn trọng thiên nhiên, chúng ta đừng trở thành những dụng cụ phá hoại! Chúng ta hãy tôn trọng mỗi người: hãy chấm dứt các cuộc xung đột võ trang đang làm trái đất đẫm máu, khí giới hãy im tiếng và oán thù ở mọi nơi hãy nhường chỗ cho tình thương, xúc phạm nhường chỗ cho tha thứ, và bất hòa nhường chỗ cho đoàn kết. Chúng ta hãy nghe tiếng kêu của những người đang khóc lóc, đau khổ và chết vì bao lực, vì khủng bố hoặc chiến tranh, tại Thánh Địa, vốn được thánh Phanxicô rất yêu mến, tại Siria, toàn vùng Trung Đông và trên thế giới.

Lạy thánh Phanxicô chúng con hướng về ngài, và cầu xin: xin thánh nhân cầu xin Thiên Chúa ban ơn này: xin cho thế giới chúng con được hòa hợp và an bình.

Sau cùng, chúng ta không thể quên rằng hôm nay Italia mừng kính thánh Phanxicô bổn mạng. Tôi cũng biểu lộ cử chỉ truyền thống tặng dầu cho đèn chầu, năm nay đến lượt miền Umbria cung cấp. Chúng ta hãy cầu nguyện cho quốc dân Italia, để mỗi người luôn hoạt động cho công ích, để ý đến những gì liên kết hơn là tới những gì gây chia rẽ.

”Tôi lập lại lời kinh của thánh Phanxicô cho Assisi, cho Italia và thế giới: 'Vì vậy lạy Chúa Giêsu Kitô, là Cha từ bi, con cầu xin Chúa đừng nhìn đến sự vô ơn của chúng con, nhưng luôn nhớ lại lòng thương xốt dồi dào Chúa đã chứng tỏ tạoi thành này, để nơi ấy luôn là địa điểm và là nơi ở của những người thực sự biết Cha và tôn vinh danh Chúa được chúc tụng và vinh hiển đến muôn đời. Amen” (Specchio di perfezione, 124, FF 1824).

Cuối thánh lễ, có nghi thức tặng dầu cho đèn được đốt tại mộ thánh Phanxicô bổn mạng Italia. ĐTC đã làm phép dầu này, và Ông thị trưởng thành Assisi đã mang đến đổ vào đèn và thắp lên.

Sau đó, ĐTC đã đến dùng bữa trưa với những người nghèo tại Trung tâm tiếp đón đầu tiên của Caritas, gần Nhà ga xe lửa Đức Mẹ các Thiên Thần.

Lúc 2 giờ 15 phút chiều, ngài tiếp tục cuộc thăm viếng tại Đan viện Carceri nơi sườn núi Subasio. Đan viện này được kiến thiết trên những hang đá nơi thánh Phanxicô đến cầu nguyện. Theo truyền thống thánh nhân đã nói chuyện với chim chóc tại đây.

Gặp gỡ linh mục, tu sĩ và giáo dân dấn thân

Sau đó, ĐTC đến nhà thờ chính tòa thánh Rufino của giáo phận Assisi, để gặp gỡ hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và các thành viên Hội đồng mục vụ của giáo phận.

Trong bài huấn dụ nhân dịp này, nhắc nhở mọi người về 3 điểm:

1. Trước tiên là lắng nghe Lời Chúa. Giáo hội là cộng đồng lắng nghe trong tinh thần tin yêu những gì Chúa nói. Kế hoạch mục vụ mà anh chị em đang sống nhấn mạnh đặc biệt về chiều kích cơ bản này… Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có thể cải tiến khía cạnh này: đó là ngày càng trở nên người lắng nghe Lời Chúa, để bớt giầu lời nói của chúng ta đồng thời giầu hơn nhờ Lời Chúa nói. Tôi nghĩ đến linh mục có nhiệm vụ rao giảng. Làm sao LM có thể giảng nếu trước đó không lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, trong con tim của mình? Tôi nghĩ đến các cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên: làm sao họ có thể giáo dục nếu lương tâm họ không được Lời Chúa soi sáng, nếu cách thức suy tư và hành động của họ khôgn được Lời Chúa hướng dẫn? Họ nêu gương nào cho con cái?…

2. Thứ hai là bước đi. Đây là lời tôi thích khi nghĩ đến Kitô hữu và Giáo Hội. Nhưng đối với anh chị em, lời này có một nghĩa đặc biệt: anh chị em đang bước vào Công nghị giáo phận, và công nghị ở đây, Sinodo, có nghĩa là đồng hành với nhau. Đây thực là một kinh nghiệm đẹp nhất mà chúng ta sống: được là thành phần của dân đang tiến bước trong lịch sử, cùng với Chúa, Đấng đi giữa chúng ta.

Tôi cũng nghĩ đến các linh mục. Có gì đẹp hơn đối với chúng ta nếu không phải là đồng hành với dân của chúng ta, khích lệ, nâng đỡ dân, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, tha thứ cho nhau, cùng tiến bước trong sự đoàn kết, không chạy trốn về đằng trước, cũng chẳng nhớ nhung quá khứ.

3. Thứ ba là loan báo cho đến tận những vùng ven bờ, vùng ngoại ô của cuộc sống. Điều quan trọng là ra ngoài, để gặp gỡ tha nhân trong các khu ngoại ô, nhất là những con người, trong những hoàn cảnh khác nhau.

Đây là những khu ”ngoại ô” của anh chị em? Đó là những vùng có nguy cơ ở ngoài lề, không được ánh đèn chiếu vào. Đó là những ngừơi, những thực tại con người bị gạt ra ngoài lề, bị coi rẻ. Đó là những người tuy ở trung tâm, nhưng tinh thần thì xa xăm.

Anh chị em đừng sợ ra ngoại và gặp gỡ những ngừơi ấy, những hoàn cảnh ấy. Đừng để mình bị ngăn chặn vì những thành kiến, thói quen, sự cứng nhắc về não trạng hoặc về mục vụ..

Sau cuộc gặp gỡ tại Nhà thờ chính tòa Assisi, lúc quá 4 giờ chiều, ĐTC đến viếng thăm Vương cung thánh đường thánh nữ Clara, viếng mộ của thánh nữ và cầu nguyện tại Nhà nguyện trước Thánh giá thánh Damiano, chào thăm các nữ Đan sĩ tại đây.

Cuộc viếng thăm của ĐTC được tiếp tục tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ các thiên thần của dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô, cách đó 4 cây số, rồi gặp gỡ 12 ngàn người trẻ miền Umbria vào lúc gần 6 giờ chiều tại quảng trường trước Đền thánh và ngài trả lời các câu hỏi do 4 bạn trẻ nêu lên. Tiếp đến ĐTC viếng Đền thánh Rivotorto trước khi đáp trực thăng trở về Vatican, dự kiến vào lúc 8 giờ tối. Rivotorto là nơi có những căn nhà nhỏ thánh Phanxicô và các bạn đồng hành đầu tiên của ngài cư ngụ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đề cao Thông điệp ”Hòa bình dưới thế”

Đức Thánh Cha đề cao Thông điệp ”Hòa bình dưới thế”

VATICAN. ĐTC Phanxicô đề cao tính chất thời sự của thông điệp ”Hòa bình dưới thế” và nhắc nhở về nghĩa vụ của mỗi người phải góp phần kiến tạo hòa bình.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 3-10-2013, dành cho 300 tham dự viên cuộc gặp gỡ do Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình tổ chức nhân dịp kỷ niệm 50 năm ban hành thông điệp ”Pacem in terris” (Hòa bình dưới thế), của Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan 23.

ĐTC nhắc lại thời điểm tột đỉnh trong chiến tranh lạnh hồi cuối năm 1962: nhân loại bị đe dọa vì hiểm họa xung đột hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Trong bối cảnh đó, Đức Gioan 23 đã tha thiết lên tiếng kêu gọi hòa bình và thức tỉnh lương tâm của mọi người trên thế giới và sau đó, ngày 11-4 năm 1963, ngài đã công bố thông điệp Hòa bình dưới thế. ”Những hạt giống hòa bình do Chân phước Gioan 23 gieo vãi đã mang lại hoa trái. Tuy nhiên, thế giới vẫn đang cần hòa bình và lời nhắc nhở của Thông điệp Hòa bình dưới thế vẫn rất thời sự, mặc dù các bức tường và hàng rào đã sụp độ”.

Trong diễn văn, ĐTC Phanxicô đã nhắc lại những nguyên tắc và ý tưởng nòng cốt của Thông Điệp, theo đó ”không thể có hòa bình và hòa hợp đích thực nếu chúng ta không làm việc cho một xã hội công bằng và liên đới hơn, nếu chúng ta không vượt thắng ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, những lợi lộc phe phái ở mọi cấp độ”.

Thông điệp ”Hòa bình dưới thế” đề cao một hệ luận nền tảng của nguồn gốc con người do Thiên Chúa tạo dựng, đó là giá của nhân vị, phẩm giá của mỗi người, cần phải luôn luôn thăng tiến, tôn trọng và bảo vệ. Và không phải chỉ bảo đảm các dân quyền và chính quyền chủ yếu, nhưng còn phải cung cấp cho mỗi người cơ hội được những phương tiện cốt yếu để sinh đống, lương thực, nước, nhà ở, săn sóc sức khỏe, giáo dục và khả năng thành lập và nuôi dưỡng gia đình”.

Và ĐTC Phanxicô kết luận rằng những nguyên tắc căn bản của Thông điệp Hòa bình dưới thế có thể hướng dẫn hữu hiệu việc nghiên cứu và thảo luận về “những điều mới” mà Hội nghị của quí vị bàn tới: đó là nhu cầu cấp thiết về giáo dục, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông xã hội trên các lương tâm, việc đạt được và sử dụng các tài nguyên của trái đất, việc sử dụng tốt hoặc xấu kết quả của những nghiên cứu sinh học, việc chạy đua võ trang và những biện pháp an ninh quốc gia và cuộc tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới là một triệu chứng trầm trọng cho thấy có sự thiếu tôn trọng con người và sự thật, mà các chính phủ và các công dân mắc phải khi đề ra các quyết định”.

ĐTC cũng nhắc đến thảm trạng hơn 80 thuyền nhân bị thiệt mạng vì đắm tàu gần đảo Lampedusa cực nam Italia, trên đường vượt biên từ Bắc Phi vào Âu Châu. Ngài gọi đó là ”một điều ô nhục, đồng thời mời gọi mọi người cầu nguyện cho những người bị thiệt mạng, cho thân nhân họ và mọi người tị nạn. ĐTC nói: ”Chúng ta hãy hiệp lực để những thảm cảnh như vậy không tái diễn nữa”.

Con tàu chở 500 thuyền nhân bị cháy và đắm gần đảo Lampedusa, nơi ĐTC đã đến viếng thăm người tị nạn ngày 8-7-2013 (SD 3-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: Giáo Hội thánh thiện theo nghĩa nào?

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: Giáo Hội thánh thiện theo nghĩa nào?

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung hơn 50 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư 2-10-2013, ĐTC Phanxicô quảng diễn bài giáo lý ”Giáo Hội thánh thiện”, qua đó ngài xác định Giáo Hội thánh thiện theo nghĩa nào, và ơn gọi nên thánh của tất cả các tín hữu.

Trên thềm trước Đền thờ, ở bên tay trái nhìn xuống, có gần 50 GM, trong đó nhiều vị đã tham dự cuộc gặp gỡ về hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio ở Roma tổ chức trong những ngày qua. Từ gần 10 giờ sáng, trong lúc ĐTC bắt đầu đi xe díp trắng mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài, thì xướng ngôn viên lần lượt giới thiệu tên các phái đoàn hành hương.

Sau nửa tiếng chào thăm như thế, xe chở ĐTC dừng lại gần trước thềm lễ đài, và ngài đi bộ tiến lên, làm thánh giá với lời chào phụng vụ bắt đầu buổi tiếp kiến.

Huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Trong kinh Tin Kính, sau khi tuyên xưng: ”Tôi tin Giáo Hội duy nhất”, chúng ta thêm tĩnh từ ”thánh thiện”; nghĩa là chúng ta khẳng định sự thánh thiện của Giáo Hội, và đây là một đặc tính hiện diện ngay từ đầu trong ý thức của các tín hữu Kitô tiên khởi, họ được gọi một cách đơn thuần là ”các thánh” (Xc Cv 9,13.32.41; Rm 8,27; 1 Cr 6,1), vì họ xác tín rằng chính hoạt động của Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh thánh hóa Giáo Hội.

Nhưng Giáo Hội là thánh thiện theo nghĩa nào, khi chúng ta thấy rằng Giáo Hội lịch sử, trong hành trình qua bao thế kỷ, đã gặp bao nhiêu khó khăn, có nhiều vấn đề và trải qua những thời kỳ đen tối? Làm sao một Giáo Hội gồm những phàm nhân, những người tội lỗi lại có thể là Giáo Hội thánh thiện được? Những người nam nữ tội lỗi, các linh mục, nữ tu, giám mục, hồng y, Giáo Hoàng tội lỗi.. Tất cả như thế? Vậy làm sao Giáo Hội có thể là thánh thiện được?

1. Để trả lời cho câu hỏi này, tôi muốn để cho mình được một đoạn thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Ephêsô hướng dẫn. Thánh Tông Đồ đã lấy ví dụ về tương quan gia đình và khẳng định rằng ”Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hiến mình vì Giáo Hội, để làm cho Giáo Hội trở nên thánh thiện” (5,25-26). Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội, hiến trọn thân mình trên thánh giá. Điều này có nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là Giáo Hội là thánh thiện vì xuất phát từ Thiên Chúa là Đấng thánh, Chúa trung tín với Giáo Hội và không bỏ mặc Giáo Hội cho quyền lực của sự chết và sự ác (Xc Mt 16,18). Giáo Hội là thánh thiện vì Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa (Xc Mc 1,24) kết hiệp với Giáo Hội một cách không thể tách rời (Xc Mt 28,20); Giáo Hội là thánh vì được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, Ngài thanh tẩy, biến đổi, canh tân Giáo Hội. Giáo Hội thánh thiện không phải vì công trạng của chúng ta, nhưng vì Thiên Chúa làm cho Giáo Hội nên thánh, đó là hoa trái của Thánh Linh và các Hồng ân của Chúa. Không phải chúng ta làm cho Giáo Hội thánh thiện: nhưng là Thiên Chúa, là Chúa Thánh Linh, trong tình thương, Ngài làm cho Giáo Hội thánh thiện!

2. Có thể anh chị em nói với tôi: nhưng Giáo Hội do những người tội lỗi họp thành, chúng ta thấy điều đó hằng ngày!. Đúng vậy: chúng ta là một Giáo Hội gồm những người tội lỗi; và trong tư cách là những người tội lỗi, chúng ta được kêu gọi để cho mình được Thiên Chúa biến đổi, canh tân và thánh hóa. Trong lịch sử đã có những người bị cám dỗ nói rằng: Giáo Hội chỉ là Giáo Hội của những người tinh tuyền, những người hoàn toàn sống phù hợp với niềm tin, còn những người khác cần phải bị gạt bỏ. Thực vậy, đây là một sự rối đạo. Giáo Hội là thánh thiện, nhưng không từ khước những người tội lỗi; Giáo Hội không từ khước tất cả chúng ta, vì Giáo Hội kêu gọi tất cả; Giáo Hội đón nhận người tội lỗi, Giáo Hội cũng mở rộng đối với những người xa xăm nhất, kêu gọi tất cả hãy để cho mình được lòng từ bi, sự dịu hiền và tha thứ của Chúa Cha ấp ủ, Chúa trao tặng mọi người cơ hội được gặp gỡ ngài, tiến bước về sự thánh thiện. ”Nhưng thưa cha, con là một kẻ tội lỗi, con có những tội tầy đình, làm sao con có thể cảm thấy mình là thành phần của Giáo Hội?”. Anh chị em thân mến, chính đó là điều Chúa muốn; Chúa muốn anh chị em nói: ”Lạy Chúa con đây, với những tội lỗi của con. Xin Chúa tha thứ, xin giúp con tiến bước, xin biến đổi tâm hồn con!”. Trong Giáo Hội, Thiên Chúa mà chúng ta gặp không phải là một quan án không biết thương xót, nhưng như Người Cha trong dụ ngôn Tin Mừng. Bạn có thể như người con đã bỏ nhà, đã tụt xuống thẳm sâu của sự xa lìa Thiên Chúa. Khi bạn có can đảm nói: Tôi muốn trở về nhà, thì bạn sẽ thấy cánh cửa mở rộng. Thiên Chúa đến gặp bạn vì Ngài luôn chờ đợi bạn, Ngài ôm lấy bạn, hôn bạn và tổ chức mừng lễ. Chúa muốn chúng ta là thành phần của một Giáo Hội biết mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, Giáo Hội không phải là căn nhà của vài người, nhưng là nhà của tất cả, trong đó tất cả đều có thể được đổi mới, biến đổi, thánh hóa bằng bình yêu Chúa, những người mạnh nhất cũng như người yếu nhất, người tội lỗi, những người dửng dưng, những người cảm thấy thất vọng và lạc loài. Giáo Hội trao tặng tất cả mọi người cơ hội tiến bước trên con đường thánh thiện, là con đường của tín hữu Kitô: Giáo Hội làm cho chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô trong các bí tích, nhất là trong bí tích giải tội và Thánh Thể; Giáo Hội thông truyền cho chúng ta Lời Chúa, làm cho chúng ta sống trong tình bác ái, trong tình thương của Thiên Chúa đối với mọi người. Vì thế chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có để cho mình được thánh hóa hayt không? Chúng ta có phải là một Giáo Hội kêu gọi và mở rộng vòng tay đón nhận những người tội lỗi, mang lại can đảm, hy vọng hay chúng ta là một Giáo Hội khép kín vào mình? Chúng ta có phải là một Giáo Hội trong đó ta sống tình thương của Thiên Chúa, trong đó có sự quan tâm đối với tha nhân, trong đó mọi người cầu nguyện cho nhau hay không?

3. Câu hỏi cuối cùng: vậy tôi có thể làm gì, tôi cảm thấy yếu đuối, dòn mỏng, tội lỗi? Thiên Chúa nói với bạn: đừng sợ sự thánh thiện, đừng sợ hướng lên cao, để cho mình được Thiên Chúa yêu mến, thanh tẩy, đừng sợ để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn. Chúng ta hãy để cho mình được lây sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu được mời gọi nên thánh (Xc Hiến chế Lumen gentium, 39-42); và sự thánh thiện trước hết không hệ tại làm những việc ngoại thường, nhưng là để cho Thiên Chúa hành động. Đó là cuộc gặp gỡ giữa sự yếu đuối chúng ta với sức mạnh của ơn thánh Chúa, là tín thác nơi hoạt động của Chúa, giúp chúng ta sống trong đức bác ái, làm mọi sự với niềm vui và khiêm tốn, vì vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. Có một câu nói thời danh của văn hào Pháp Léon Bloy; trong những lúc cuối cùng của cuộc đời, ông nói: ”Chỉ có một sự buồn sầu duy nhất trong đời, đó là buồn vì không phải là thánh”. Chúng ta đừng mất hy vọng nơi sự thánh thiện, tất cả chúng ta hãy tiến theo con đường này. Chúng ta có muốn nên thánh không? Chúa đang đợi chúng ta, tất cả với vòng tay rộng mở. Chúa đợi chúng ta để tháp tùng chúng ta trên con đường thánh thiện! Chúng ta hãy sống đức tin trong vui mừng, hãy để cho Chúa yêu thương chúng ta.. Trong kinh nguyện, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn này cho chúng ta và cho tha nhân nữa”.

Chào thăm các nhóm

Sau bài giáo lý trên đây, các giám chức tại Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt ý chính bài huấn giáo của ĐTC, cũng như dịch những lời chào của ngài từ tiếng Ý sang các ngôn ngữ chính.

Bằng tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt nhắc đến đoàn hành hương thuộc giáo phận Besancon và một nhóm người du mục thuộc cộng đoàn Emmanuel bên Pháp.

Bằng tiếng Anh, ĐTC thân ái cháo phái đoàn thuộc Trung tâm quốc tế đối thoại liên tôn và liên văn hóa. Ngài nhắc đến nhiều nhóm Phật từ Nhật Bản, kể cả phái đoàn của Tông Phái Phật Giáo Thiên Đài va Trung Tâm Nakano Dharma thuộc Phật giáo Rissho Kosei-kai bên Nhật.

Với các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC chào thăm các vị chủ tịch, các giám đốc toàn quốc và thành viên, cũng như ân nhân của Quỹ Giáo Hoàng Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ. Ngài khích lệ họ rằng: ”Các bạn thân mến, xin Chúa luôn phong phú hóa kinh nguyện và sự dấn thân của các bạn để nâng đỡ sứ mạng của Giáo Hội tại các nơi trên thế giới, nhất là tại những nơi Giáo Hội đang chịu đau khổ vì thiếu thốn tinh thần và vật chất, cũng như những nơi Giáo Hội đang bị kỳ thị và bách hại”

Sau cùng bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm các tín hữu về Roma hành hương nhân dịp Năm Đức Tin, các bạn trẻ thuộc Tu Hội đời ”Những người tôi tớ của đau khổ” đang tham dự Hội nghị toàn quốc Tông Đồ cầu nguyện và Hội nghị toàn quốc những người Thờ Lạy Thánh Thể. Ngài nói: ”Sau cùng tôi thân ái nghĩ đến các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn. Hôm nay chúng ta kính nhớ các Thiên Thần bản mệnh. Hỡi những người trẻ, ước gì sự hiện diện của các ngài củng cố nơi mỗi người trong các con xác tín Thiên Chúa đang tháp tùng các con trong hành trình cuộc sống; xin Chúa nâng đỡ các anh chị em bệnh nhân quí mến, làm dịu những cơ cực hằng ngày của anh chị em.. và hỡi các đôi tân hôn, xin Chúa giúp đỡ anh chị em trong việc xây dựng gia đình trên tình yêu của Thiên Chúa.
ĐTC đã kết thúc buổi tiếp kiến với kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh ban cho mọi người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha bắt đầu họp Hội đồng Hồng Y Cố Vấn

Đức Thánh Cha bắt đầu họp Hội đồng Hồng Y Cố Vấn

VATICAN. Khóa họp đầu tiên kéo dài 3 ngày của 8 Hồng y thuộc Hội đồng cố vấn của ĐTC đã khai diễn sáng ngày 1 tháng 10-2013, tại thư viện riêng của ĐGH ở lầu 3 trong dinh tông tòa.

Trước đó, ngài đã đồng tế với các Hồng Y tại nguyện đường Nhà trọ thánh Martha ở nội thành Vatican.

Khóa họp được tiến hành với sự hiện diện của ĐTC và dưới sự điều hợp của ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga, dòng Don Bosco, TGM giáo phận Tegucigalpa, Honduras, và 7 vị HY còn lại đến từ Bắc và Nam Mỹ, Vatican, Đức, Australia, Ấn độ và Congo. Vị thư ký của Hội đồng là Đức Cha Marcelo Semerano, GM giáo phận Albano nơi đó dinh thự Castel Gandolfo của ĐGH. Đức Cha đã từng làm Tổng thư ký đặc biệt của một Thượng HĐGM, trong đó ĐHY Jorge Bergoglio, tức là Đức Đương Kim Giáo Hoàng, đã làm Tổng tường trình viên.

Đây là khóa họp chung chính thức đầu tiên, và trong 5 tháng qua, đã có nhiều tiếp xúc giữa ĐTC với các HY thành viên và giữa các HY này với nhau.

Trong cuộc họp báo hôm 30 tháng 9-2013, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, nhắc lại rằng Hội đồng cố vấn của ĐTC có mục đích chủ yếu là góp ý kiến với ĐTC trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ và cải tổ Tông huấn Pastor Bonus (Mục tử nhân lành), ban hành năm 1988 về các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Hội đồng chỉ có tính chất tư vấn và không có quyền đưa ra quyết định nào.

Theo thủ bút của ĐTC được công bố hôm 30-9-2013, ngài sẽ bổ nhiệm thêm hoặc thay đổi con số các thành viên Hội đồng cố vấn nếu thấy là thích hợp. Ngày 4-10 tới đây, nhóm 8 HY sẽ tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm mục vụ và hành hương tại Assisi.

Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho chủ nhiệm báo Cộng hòa (Repubblica) thuộc phe tả ở Italia, ĐTC Phanxicô bày tỏ quyết tâm cải tổ giáo triều Roma và đưa Giáo Hội tái trở thành một cộng đồng Dân Chúa.

Bài phỏng vấn diễn ra ngày 24-9-2013 và được phổ biến trong số ra ngày hôm 1 tháng 10-2013, qua đó ĐTC nói với Ông Eugenio Scalfari, Chủ nhiệm báo Cộng Hòa, rằng: ”Tòa Thánh có một khuyết điểm là qui trọng tâm về Vatican, coi và chăm sóc quyền lợi của Vatican, và phần lớn đây vẫn còn là những lợi lộc trần thế. Quan niệm qui trọng tâm về Vatican như thế lơ là với thế giới bao quanh. Tôi không đòng ý với quan điểm như thế về Tòa Thánh, và tôi sẽ làm hết sức để thay đổi quan điểm đó. Giáo Hội phải tái trở thành một cộng đồng Dân Chúa và các linh mục, cha sở, các GM với nhiệm vụ săn sóc các linh hồn, là để phục vụ Dân Chúa.”

ĐTC cũng khẳng định rằng ”lý tưởng một Giáo Hội truyền giáo và thanh bần, được Thánh Phanxicô thể hiện cách đây 800 năm, ngày nay vẫn còn giá trị, để mang lại hy vọng cho người trẻ, giúp đỡ người già, cởi mở hướng về tương lai, phổ biến tình thương.. Là những nghèo giữa người nghèo, chúng ta phải bao gồm cả những người bị loại trừ và rao giảng hòa bình” (SD 1-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lần đầu tiên Viện Giáo Vụ công bố kết toán chi thu chi tiết

Lần đầu tiên Viện Giáo Vụ công bố kết toán chi thu chi tiết

VATICAN. Hôm 1 tháng 10-2013, lần đầu tiên Viện giáo vụ, quen gọi là ”Ngân hàng Vatican” đã công bố kết toán chi thu năm 2012.

Theo kết toán này dài hơn 100 trang này, trong năm ngoái Viện giáo vụ đã quản lý 6 tỷ 300 triệu Euro và đã lời được 86 triệu 600 ngàn Euro, trong đó 54 triệu 700 ngàn được đưa vào ngân sách của Tòa Thánh, và 31 triệu 900 ngàn được dự trữ chống những rủi ro.

Viện giáo vụ quản lý 13,700 tài khoản của các nhân viên Vatican, giáo phận, dòng tu, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Chủ tịch Viện giáo vụ, ông Ernst von Freyberg, người Thụy Sĩ, nói rằng ”Sự minh bạch là điều cơ bản, là yếu tố chủ yếu trong hoạt động của Viện này. Từ tháng 3 năm nay, chúng tôi theo đuổi chính sách dựa trên 3 điểm: thứ nhất là mở ra và đối thoại với các cơ quan truyền thông, thông báo những gì đan được tiến hành. Vì thế, nay Viện giáo vụ có một phòng báo chí. Thứ hai là thành lập một Web internet để thông truyền hoạt động của Viện. Sau cùng là công bố phúc trình hằng năm. Đây là một bước tiến hướng tới một Viện minh bạch trong sáng và phù hợp với các qui tắc, và theo đó, ĐTC sẽ quyết định đâu là hướng đi mà Viện cần tiếp tục tiến bước” (SD 1-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

27-4-2014 tôn phong 2 chân phước Giáo Hoàng lên bậc Hiển Thánh

Ngày 27 tháng 4-2014 sẽ tôn phong 2 chân phước Giáo Hoàng lên bậc Hiển Thánh

VATICAN. Hai vị Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 sẽ được tôn phong hiển thánh vào ngày, 27-4 năm 2014, Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

ĐTC Phanxicô đã tuyên bố quyết định này trong Công nghị Hồng y đầu tiên do ngài triệu tập lúc 10 giờ sáng 30-9-2013, tại Vatican với sự tham dự của các HY thường trú và các HY hiện diện tại Roma trong những ngày này.

Công nghị Hồng y đã bắt đầu với kinh Giờ Ba, và tiếp đó ĐTC đã tuyên bố ngày phong hiển thánh cho hai vị chân phước Giáo Hoàng tiền nhiệm.

Rồi Đức Ông trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐTC đã yêu cầu tất cả mọi người không phải là Hồng Y ra ngoài phòng họp để ĐTC trao đổi riêng với các vị, trong đó có cả 8 Hồng y thuộc ban cố vấn của ngài.

Cũng ngày 30-9-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố thủ bút của ĐTC về việc thiết lập Hội đồng Hồng Y giúp ngài trong việc cai quản giáo hội hoàn vũ và nghiên cứu dự án duyệt lại Tông huấn Mục Tử Nhân Lành về giáo triều Roma.

Sau công nghị, ĐTC đã tiếp kiến Đức Thượng Phụ Theodoros II, Giáo Chủ Chính Thống Hy Lạp tại Alessandria Ai Cập và toàn Phi châu, cùng với đoàn tùy tùng của Đức Thượng Phụ.

Ngài là thủ lãnh của 350 ngàn tín hữu thuộc 22 tổng giáo phận trong số này có 5 tổng giáo phận tại Ai Cập, và 4 giáo phận tại nơi khác. Giáo Hội này có các tín hữu hiện diện tại 15 nước Phi châu (SD 30-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo kiến tạo hòa bình

Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo kiến tạo hòa bình

ROMA. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tôn giáo kiên trì kiến tạo và bênh vực hòa bình, qua con đường đối thoại và cầu nguyện.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 30-9-2013 dành cho 300 vị đại diện tôn giáo tham dự cuộc gặp gỡ về hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại Roma từ ngày 29-9 đến 1-10-2013 với chủ đề ”Can đảm hy vọng”.

ĐTC nhắc đến tình trạng thế giới ngày nay đang rất cần hòa bình và khẳng định rằng: ”Chúng ta không bao giờ có thể cam chịu đứng trước những đau khổ của các dân tộc, đang trở thành con tin của chiến tranh, lầm than, bóc lột. Chúng ta không thể dửng dưng và bất lực trước thảm trạng của các trẻ em, gia đình, người già nạn nhân của bạo lực. Chúng ta không thể để cho nạn khủng bố giam hãm con tim của một số người hung bạo để rồi làm cho họ gieo rắc đau thương và chết chóc cho bao nhiêu người. Tất cả chúng ta cùng mạnh mẽ tiếp tục nói lên rằng không thể có biện minh tôn giáo nào cho bạo lực, dù nó được biểu lộ dưới bất kỳ hình thức nào.. Cần phải xóa bỏ mọi hình thức bạo lực viện cớ tôn giáo, và cùng nhau chúng ta cảnh giác để thế giới khỏi trở thành con mầu của bạo lực được chứa đựng trong mọi dự phóng văn minh dựa trên sự phủ nhận Thiên Chúa”.

ĐTC cũng đề cao vai trò của các vị lãnh đạo tôn giáo trong việc xây dựng hòa bình và ngài nhận xét rằng: ”Cuộc gặp gỡ của quí vị hàng năm gợi cho chúng ta con đường xây dựng hòa bình, đó là can đảm đối thoại, mang lại hy vọng. Sở dĩ trên thế giới, trong xã hội, có ít hòa bình cũng chỉ vì thiếu đối thoại, người ta cảm thấy khó ra khỏi chân trời chật hẹp của tư lợi để cởi mở đối với một cuộc đối chiếu chân thành và thực sự. Để có hòa bình cần có một cuộc đối thoại kiên trì, bền chí, mạnh mẽ, thông minh, không để mất mát một sự gì. Đối thoại có thể chiến thắng chiến tranh. Đối thoại là cho những người thuộc các thể hệ khác nhau và thường cố tình không biết nhau, nay biết sống chung với nhau. Đối thoại làm cho các công dân thuộc các chủng tộc khác nhau, xác tín khác nhau, biết sống chung với nhau”.

Sau cùng, ĐTC mời gọi các vị lãnh đạo tôn giáo tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới, tại Syria, Trung Đông và bao nhiêu nước khác trên thế giới. Ước gì lòng can đảm hòa bình này mang lại can đảm hy vọng cho thế giới, cho tất cả những người đang chịu đau khổ vì chiến tranh, cho những người trẻ đang lo âu hướng về tương lai của họ” (SD 30-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ cho hơn 100 ngàn giáo lý viên và tín hữu

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ cho hơn 100 ngàn giáo lý viên và tín hữu

VATICAN. Hội nghị quốc tế về giáo lý và cuộc hành hương của các giáo lý viên trong Năm Đức Tin đã kết thúc tốt đẹp với Thánh Lễ do ĐTC Phanxicô cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng chúa nhật 29-9-2013.

Hiện diện trong thánh lễ có hơn 100 ngàn người đứng đầy quảng trường, tràn ra tới cuối đường Hòa Giải, dưới bầu trời mùa thu, có mây phủ nhưng không mưa. Trong số các tham dự viên, đó hơn 1.600 người đã tham dự hội nghị quốc tế về giáo lý trong những ngày liền trước cuộc hành hương chính thức. Hiện diện tại một chỗ danh dự có Đức Thượng Phụ Chính Thống Antiokia ở Siria, Youhanna X Yazigi.

Từ Việt Nam chỉ có 2 người đến tham dự Hội nghị giáo lý có Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền, Trưởng Ban Giáo Lý Tổng giáo phận TP. HCM, và chị Madalena Phạm Thị Thúy, thuộc Ban Thư Ký Ủy ban Giáo Lý Đức Tin của HĐGM Việt Nam.

Đồng tế với ĐTC có 60 HY và GM, 600 linh mục, phần giúp lễ do 15 thầy thuộc Học Viện Giáo Hoàng Quốc Tế ”Tòa Đấng Khôn Ngoan”.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC quảng diễn ý nghĩa các bài đọc, đặc biệt là bài Phúc Âm về người phú hộ và ông Lazzaro nghèo khổ. Ngài nói:

1. ”Khốn cho những không quan tâm ở Sion và những kẻ tự kiêu,.. các ngươi nằm trên giường ngà” (Am 6,1.4), ăn uống, ca hát, tiêu khiển và không bận tâm gì đến những vấn đề của người khác.

Những lời này của ngôn sứ Amos thật nghiêm khắc, cảnh giác chúng ta về một nguy hiểm mà tất cả chúng ta đều mắc phải. Vị sứ giả này của Thiên Chúa tố giác điều gì, ngài đặt điều gì trước mặt những người đồng thời và cả trước mắt chúng ta ngày nay? Thưa đó là nguy cơ sống thoải mái, tiện nghi, phàm tục trong cuộc sống và trong tâm hồn, đặt an sinh ở trung tâm cuộc sống. Đó cũng là kinh nghiệm của người phú hộ trong Phúc Âm, mặc y phục sang trọng và hằng ngày yến tiệc linh đình; đó là điều quan trọng đối với ông ta. Còn người nghèo trước cửa nhà ông không có gì để ăn thì sao? Đó chẳng phải là vấn đề của người phú hộ, chẳng liên hệ gì tới ông ta. Nếu vật chất, tiền bạc, cuộc sống sa hoa trở thành trung tâm cuộc sống, thì chúng nắm bắt, chiếm hữu chúng ta và chúng ta đánh mất chính căn tính làm người của mình: người phú hộ trong Phúc Âm không có tên, ông chỉ là ”một người giàu có”. Vật chất, điều mà ông ta sở hữu, là khuôn mặt của ông, và không có gì khác.

Nhưng chúng ta cũng hãy tự hỏi: làm sao điều ấy lại xảy ra như vậy? Làm sao con người, có lẽ cả chúng ta nữa, lại rơi vào nguy hiểm khép mình, đặt an ninh của chúng ta trong sự vật, và rốt cục chúng chiếm mất khuôn mặt của chúng ta, khuôn mặt của một người? Điều này xảy ra khi chúng ta mất ký ức về Thiên Chúa. Nếu không còn ký ức về Thiên Chúa nữa, thì mọi sự đều thu hẹp vào cái tôi, vào an sinh thoải mái của tôi. Cuộc sống, thế giới, tha nhân, đều mất tầm quan trọng, chẳng còn gì đáng kể nữa, tất cả đều thu hẹp vào một chiều kích, đó là sở hữu. Nếu chúng ta không còn nhớ đến Thiên Chúa nữa, thì chính chúng ta cũng trở nên trống rỗng, chúng ta mất khuôn mặt của mình như người phú hộ trong Phúc Âm! Ai chạy theo sự hư vô thì cũng trở thành hư vô – như lời một ngôn sứ khác, Giêrêmia (Xc Gr 2,5) đã nói. Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa, chứ không phải theo hình ảnh của sự vật, của các ngẫu tượng!

Từ những nhận xét trên đây, ĐTC ngỏ lời với các giáo lý viên hiện diện:

2. Khi nhìn anh chị em, tôi tự hỏi: giáo lý viên là ai? Thưa là người gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa; họ bảo tồn ký ức ấy nơi bản thân và biết khơi dậy ký ức đó nơi tha nhân. Đây là điều thật đẹp: nhớ đến Thiên Chúa, như Đức Trinh Nữ Maria, trước hoạt động kỳ diệu của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, Mẹ không nghĩ đến vinh dự, uy tín, giàu sang, không khép kín vào mình. Trái lại, sau khi lắng nghe lời loan báo của Thiên Chúa và chịu thai Con Thiên Chúa, Mẹ làm gì? Thưa, Mẹ ra đi gặp gỡ bà chị họ Elizabeth cao niên, cũng đang mang thai, để giúp đỡ bà; và trong cuộc gặp gỡ với bà chị, hành vi đầu tiên của Mẹ là nhớ đến hành động của Thiên Chúa, sự trung tín của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, trong lịch sử dân Chúa, trong lịch sử chúng ta: ”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.. vì Người đã nhìn đến phận hèn của nữ tỳ Chúa.. lòng từ bi của Chúa từ đời này sang đời khác” (Lc 1,46.48.50).

Trong bài ca này của Mẹ Maria, cũng có ký ức về lịch sử bản thân, lịch sử của Thiên Chúa với Mẹ, chính kinh nghiệm đức tin của Mẹ. Cũng vậy đối với mỗi người chúng ta, mỗi Kitô hữu: đức tin chứa đựng ký ức về lịch sử Thiên Chúa với chúng ta, ký ức cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng chuyển động đầu tiên, sáng tạo và cứu độ, biến đổi chúng ta; đức tin là nhớ lại Lời Chúa sưởi ấm tâm hồn, những hoạt động cứu độ của Chúa, ban sự sống, thanh tẩy, săn sóc và nuôi dưỡng chúng ta. Giáo lý viên chính là một tín hữu Kitô đặt ký ức ấy để phục vụ việc loan báo; không phải để phô trương, không phải để người ta nói về mình, nhưng để nói về Thiên Chúa, về tình thương và lòng trung tín của Chúa.

Thánh Phaolo nhắn nhủ môn đệ và cộng tác viên của ngài, Timotheo, đặc biệt về điều này: Con hãy nhớ đến Chúa Giêsu Kitô, đã sống lại từ cõi chết, mà Cha loan báo và vì Người Cha chịu đau khổ (Xc 2 Tm 2,8-9). Nhưng Thánh Tông Đồ có thể nói điều đó vì Người đã nhớ đến Chúa Kitô trước, Đấng đã kêu gọi thánh nhân khi còn là kẻ bách hại các tín hữu Kitô, Chúa đánh động và biến đổi Phaolô bằng ơn thánh của Ngài.

Vì thế, giáo lý viên là một Kitô hữu mang trong mình ký ức về Thiên Chúa, để cho mình được ký ức về Thiên Chúa hướng dẫn trong trọn cuộc đời của mình, và biết khơi dậy ký ức ấy trong tâm hồn tha nhân. Đó thực là một công trình lớn lao! Dấn thân trọn đời! Chính cuốn sách Giáo Lý là gì nếu không phải là ký ức về Thiên Chúa, ký ức về hoạt động của Chúa trong lịch sử, về sự kiện Thiên Chúa ở gần chúng ta trong Đức Kitô, Đấng hiện diện trong Lời Chúa, các bí tích, trong Giáo Hội và trong tình thương của Chúa? Hỡi các giáo lý viên, tôi hỏi anh chị em; chúng ta có là ký ức về Thiên Chúa hay không? Chúng ta có thực sự giống như những người lính canh thức tỉnh nơi người khác ký ức về Thiên Chúa, sưởi ấm tâm hồn hay không?

3. ”Khốn cho những kẻ không quan tâm ở Sion”. Đâu là con đường phải theo để khỏi trở thành những ”người không quan tâm”, đặt an ninh nơi chính mình và nơi vật chất, nhưng là những người nam nữ nhớ đến Thiên Chúa? Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô viết cho Timotheo, đưa ra một số chỉ dẫn có thể đánh dấu hành trình của giáo lý viên, hành trình của chúng ta: hướng tới sự công chính, lòng đạo đức, đức tin, đức mến, kiên nhẫn, hiền lành (Xc 1 Tm 6,11).

Giáo lý viên là người nhớ đến Thiên Chúa nếu có một tương quan liên lỷ, sinh tử với Chúa và với tha nhân; nếu giáo lý viên là con người đức tin, thực sự tín thác nơi Thiên Chúa và đặt an ninh của mình nơi Chúa; nếu họ là bác ái, yêu thương, coi mọi người như anh chị em mình; nếu là người ”hypomoné”, kiên nhẫn và bền chí, biết đương đầu với khó khăn, thử thách, những thất bại, trong thanh thản và hy vọng nơi Chúa; nếu giáo lý viên là người hiền lành, có khả năng cảm thông và từ bi.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa để tất cả chúng ta là những ngừơi gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa trong đời sống chúng ta và biết khơi dậy ý tức ấy trong tâm hồn tha nhân. Amen

Trong phần rước lễ, 200 LM đã mang Mình Thánh Chúa đi phân phát cho các tín hữu.

Chào thăm và Kinh Truyền Tin

Cuối thánh lễ, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và cũng là trưởng ban tổ chức, đã cám ơn ĐTC và giới thiệu với ngài các thành phần tham dự. Ngài cũng nhắc đến các giáo lý viên đến từ các nơi trên thế giới trong đó có cả những nước xa xăm như Việt Nam.

Về phần ĐTC, ngài ngỏ lời chào thăm mọi người hiện diện và nói rằng:

”Trước khi kết thúc buổi lễ này, tôi muốn chào tất cả và cám ơn anh chị em đã tham dự, đặc biệt là các giáo lý viên đến từ bao nhiêu nơi trên thế giới.

”Tôi đặc biệt ngỏ lời chào Đức Thượng Phụ Youhanna X, Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp Antiokia và toàn Đông Phương. Sự hiện diện của Đức Thượng Phụ tại đây mời gọi chúng ta một lần nữa cầu nguyện cho hòa bình tại Siria và Trung Đông.”

ĐTC không quên chào thăm các tín hữu hành hương cưỡi ngựa từ Assisi đến đây, các tín hữu hành hương từ Nicaragua và ngài gợi lại biến cố các vị chủ chăn và tín hữu nước này đang mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo Tỉnh Nicaragua. Sau cùng, ĐTC nói: ”Chúng ta vui mừng nhớ rằng hôm qua tại Croatia, có lễ phong chân phước Miroslav Bulesic, LM giáo phận tử đạo năm 1947. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa Đấng đã ban cho những người yếu thế sức mạnh làm chứng tá tột cùng.

Tiếp đến, ĐTC đã mời gọi mọi người cùng đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Tòa Thánh.

Sau Phép lành, ĐTC đã bắt tay chào nhiều người hiện diện, cả các LM đồng tế trước khi đi xe jeep mui trần màu trắng tiến qua các lối đi, cho đến tận cuối đường Hòa Giải để chào thăm các tín hữu.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Thắp nến cầu nguyện hiệp thông với giáo phận Vinh

Thắp nến cầu nguyện hiệp thông với giáo phận Vinh

SANTA ANA – Hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục Giáo Phận Vinh, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange và Hội Bảo Trợ Ơn Gọi Giáo Phận Vinh đã tổ chức Đêm Thắp Nến Cầu Nguyện cho các nạn nhân tại giáo xứ Mỹ Yên nói riêng và toàn giáo phận Vinh nói chung đang bị bách hại một cách khốc liệt bởi nhà cầm quyền cộng sản. Buổi thắp nến cầu nguyện diễn ra trên sân trường học giáo xứ Saint Barbara vào lúc 7 giờ tối thứ Sáu 27-9-2013.

Các Linh mục và giáo dân giơ cao ngọn nến cháy sáng và dâng lời cầu nguyện hiệp thông với giáo phận Vinh.

Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, các Linh mục Nguyễn Thái, Nguyễn Đức Minh, Mai Khải Hoàn, Vũ Ngọc Long, Thái Quốc Bảo đã hiện diện để cùng hàng trăm giáo dân dâng lời cầu nguyện, hiệp thông với sự đau khổ mà giáo dân giáo xứ Mỹ Yên cũng như giáo phận Vinh đang phải gánh chịu. Sau nghi thức chào cờ và mặc niệm do Ban Tù Ca Xuân Điềm phụ trách, Đức GM. Mai Thanh Lương nói mấy lời ngắn gọn: “Chúng ta còn nhớ năm 1917 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho chúng ta một cái công thức để cầu nguyện cho hòa bình và tự do tôn giáo trên thế giới; cho nên trước khi bắt đầu nghi thức cầu nguyện hôm nay, tôi đã đưa đến đây 1,000 bản kinh để xin quý vị về nhà tiếp tục đọc kinh này theo mệnh lệnh của Đức Mẹ Fatima để cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới và tự do khắp nơi, nhất là tại Việt Nam của chúng ta…
“Tôi cầu mong trong lễ nghi hôm nay chúng ta bắt đầu một chương trình mới là tiếp tục cầu nguyện để tự do sớm trở về trên quê hương và nhân quyền được trở lại trên đất nước của chúng ta, và đồng thời chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho phía Công giáo mà phải cầu nguyện cho toàn thể các tôn giáo, chính thể Việt Nam, vì chỉ có Chúa mới đổi được lòng họ.
“Đó là vấn đề rất là quan trọng và tôi nghĩ đó là khí cụ rất đặc biệt mà thánh Phanxico qua kinh Hòa Bình đã dạy chúng ta tất cả những điều đó. Xin Chúa là Vua Hòa Bình, xin Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu cùng Chúa cho dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được hưởng tự do thật sự.”
Ông Nguyễn Văn Lý, Hội Trưởng Hội Ái Hữu và Bảo Trợ Ơn Gọi Giáo phận Vinh, có đôi lời chào mừng Đức Cha, quý cha, quan khách và đồng hương, sau đó ông nói khái quát về buổi Thắp Nến, “Qua các cơ quan truyền thông và đặc biệt trang mạng giáo phận Vinh đã tường trình minh bạch diễn tiến sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên qua thông cáo của Tòa Giám Mục Xã Đoài và các bài phỏng vấn Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục GP Vinh kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục VN, chúng ta đã biết nhà cầm quyền CSVN đã và đang đàn áp dân lành vì thế đêm nay chúng ta cùng nhau tụ họp quanh khuôn viên thánh đường Saint Barbara để cùng nhau hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội VN nói chung, cho GP Vinh và Giáo xứ Mỹ Yên nói riêng.
“Xin Thiên Chúa, Đức Mẹ ủi an, nâng đỡ và ban sức mạnh dẻo dai, kiên cường chịu đựng cho tất cả con dân nước Việt để họ có đủ nghị lực đòi hỏi cho công lý, nhân quyền, và cầu xin Chúa giơ tay ngăn chận sự lộng hành, ngang ngược của chính quyền CSVN. Xin cho họ biết tôn trọng sự thật và các quyền căn bản của con người.”
Sau bản hợp ca Việt Nam-Việt Nam do Ban tù ca Xuân Điềm phụ trách, LM. Nguyễn Đức Minh đã lên kể lại sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên.
Sau đó, ông cố Cao Đức Thắng châm ngọn lửa cho cây nến của các Linh mục hiện diện, và ngọn lửa mau chóng chuyền đến tay tất cả mọi người. Trong lúc Ban tù ca hát nhạc phẩm “Lời Nguyện Cầu Cho Quê Hương” và “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxico Assisi, các Linh mục và giáo dân đem những ngọn nến đang cháy sáng lên sắp thành hình bản đồ nước Việt. Sau đó, Linh mục Nguyễn Thái và ông Chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo đại diện Cộng đồng Công Giáo, đại diện Hội Bảo Trợ Ơn Gọi GP Vinh lên sân khấu dâng lời cầu nguyện cho tự do tôn giáo tại Việt Nam, cho các nạn nhân sớm bình phục, cho các nạn nhân bị bắt bớ sớm được về với gia đình và cho chế độ vô thần Cộng sản sớm bị cáo chung.
Ban tù ca Xuân Điềm hợp ca nhạc phẩm “Phải Lên Tiếng” và “Mẹ Ơi, Đoái Thương Xem Nước Việt Nam”. Sau cùng các Linh mục lên cùng ban phép lành của Chúa cho mọi người và đêm Thắp Nến kết thúc khoảng 9 giờ 30. Trong buổi Thắp Nến, ông Lâm Kim Bảo, Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo, GP Orange đã thay mặt ban tổ chức cảm tạ Đức Cha, quý cha, quan khách , các cơ quan truyền thông và đồng hương đến tham dự.


Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, các Linh mục Nguyễn Thái, Nguyễn Đức Minh, Mai Khải Hoàn, Vũ Ngọc Long, Thái Quốc Bảo đã hiện diện để cùng hàng trăm giáo dân dâng lời cầu nguyện, hiệp thông với sự đau khổ mà giáo dân giáo xứ Mỹ Yên cũng như giáo phận Vinh đang phải gánh chịu. Sau nghi thức chào cờ và mặc niệm do Ban Tù Ca Xuân Điềm phụ trách, Đức GM. Mai Thanh Lương nói mấy lời ngắn gọn: “Chúng ta còn nhớ năm 1917 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho chúng ta một cái công thức để cầu nguyện cho hòa bình và tự do tôn giáo trên thế giới; cho nên trước khi bắt đầu nghi thức cầu nguyện hôm nay, tôi đã đưa đến đây 1,000 bản kinh để xin quý vị về nhà tiếp tục đọc kinh này theo mệnh lệnh của Đức Mẹ Fatima để cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới và tự do khắp nơi, nhất là tại Việt Nam của chúng ta…
“Tôi cầu mong trong lễ nghi hôm nay chúng ta bắt đầu một chương trình mới là tiếp tục cầu nguyện để tự do sớm trở về trên quê hương và nhân quyền được trở lại trên đất nước của chúng ta, và đồng thời chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho phía Công giáo mà phải cầu nguyện cho toàn thể các tôn giáo, chính thể Việt Nam, vì chỉ có Chúa mới đổi được lòng họ.
“Đó là vấn đề rất là quan trọng và tôi nghĩ đó là khí cụ rất đặc biệt mà thánh Phanxico qua kinh Hòa Bình đã dạy chúng ta tất cả những điều đó. Xin Chúa là Vua Hòa Bình, xin Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu cùng Chúa cho dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được hưởng tự do thật sự.”
Ông Nguyễn Văn Lý, Hội Trưởng Hội Ái Hữu và Bảo Trợ Ơn Gọi Giáo phận Vinh, có đôi lời chào mừng Đức Cha, quý cha, quan khách và đồng hương, sau đó ông nói khái quát về buổi Thắp Nến, “Qua các cơ quan truyền thông và đặc biệt trang mạng giáo phận Vinh đã tường trình minh bạch diễn tiến sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên qua thông cáo của Tòa Giám Mục Xã Đoài và các bài phỏng vấn Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục GP Vinh kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục VN, chúng ta đã biết nhà cầm quyền CSVN đã và đang đàn áp dân lành vì thế đêm nay chúng ta cùng nhau tụ họp quanh khuôn viên thánh đường Saint Barbara để cùng nhau hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội VN nói chung, cho GP Vinh và Giáo xứ Mỹ Yên nói riêng.
“Xin Thiên Chúa, Đức Mẹ ủi an, nâng đỡ và ban sức mạnh dẻo dai, kiên cường chịu đựng cho tất cả con dân nước Việt để họ có đủ nghị lực đòi hỏi cho công lý, nhân quyền, và cầu xin Chúa giơ tay ngăn chận sự lộng hành, ngang ngược của chính quyền CSVN. Xin cho họ biết tôn trọng sự thật và các quyền căn bản của con người.”
Sau bản hợp ca Việt Nam-Việt Nam do Ban tù ca Xuân Điềm phụ trách, LM. Nguyễn Đức Minh đã lên kể lại sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên.
Sau đó, ông cố Cao Đức Thắng châm ngọn lửa cho cây nến của các Linh mục hiện diện, và ngọn lửa mau chóng chuyền đến tay tất cả mọi người. Trong lúc Ban tù ca hát nhạc phẩm “Lời Nguyện Cầu Cho Quê Hương” và “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxico Assisi, các Linh mục và giáo dân đem những ngọn nến đang cháy sáng lên sắp thành hình bản đồ nước Việt. Sau đó, Linh mục Nguyễn Thái và ông Chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo đại diện Cộng đồng Công Giáo, đại diện Hội Bảo Trợ Ơn Gọi GP Vinh lên sân khấu dâng lời cầu nguyện cho tự do tôn giáo tại Việt Nam, cho các nạn nhân sớm bình phục, cho các nạn nhân bị bắt bớ sớm được về với gia đình và cho chế độ vô thần Cộng sản sớm bị cáo chung.
Ban tù ca Xuân Điềm hợp ca nhạc phẩm “Phải Lên Tiếng” và “Mẹ Ơi, Đoái Thương Xem Nước Việt Nam”. Sau cùng các Linh mục lên cùng ban phép lành của Chúa cho mọi người và đêm Thắp Nến kết thúc khoảng 9 giờ 30. Trong buổi Thắp Nến, ông Lâm Kim Bảo, Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo, GP Orange đã thay mặt ban tổ chức cảm tạ Đức Cha, quý cha, quan khách , các cơ quan truyền thông và đồng hương đến tham dự.

Bài và Hình: Thanh Phong/Viễn Đông

 

ĐỨC TÂN TỔNG GIÁM MỤC PHÓ TGP. SÀI GÒN

ĐỨC TÂN TỔNG GIÁM MỤC PHÓ TGP. SÀI GÒN

http://www.giaophanbacninh.org/wp-content/uploads/2012/12/121217gmdoc.jpg

 

Sáng thứ Bẩy, 28 tháng 09 năm 2013, Cha Federico Lomardi, SJ, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, hiện là Giám Mục giáo phận Mỹ Tho, làm Tổng Giám Mục Phó với quyền kế vị tại Tổng giáo phận Sài Gòn.

Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, năm nay 69 tuổi, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1944 tại Đà Lạt, được thụ phong linh mục ngày 17 tháng 12 năm 1970, và được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Mỹ Tho ngày 26 tháng 03 năm 1999, kế nhiệm Đức Cha Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, được cử về Sài Gòn làm Tổng Giám Mục.

Cùng với bổ nhiệm trên đây, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa giáo phận Mỹ Tho theo công thức “Sede Vacante et ad Nutum Sanctae Sedis” (trống tòa và tùy ý Tòa Thánh).

Sau đây là tiểu sử của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc:

11-11-1944:    Sinh tại Đà Lạt
1956 – 1963:   Học tại Tiểu chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
1963 – 1964:   Học tại Đại chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
1964 – 1970:   Học tại Đại học Truyền giáo Urbaniana, Rôma
17-12-1970:    Thụ phong linh mục
1971 – 1975:   Giáo sư Tiểu chủng viện Simon Hoà, Đại chủng viện Minh Hoà và Đại học Đà Lạt.
1975 – 1995:   Giám đốc Đại chủng viện Minh Hoà, giáo phận Đà Lạt
1986 – 2008:   Giáo sư thần học tín lý Đại chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
1991 – 1995:   Giáo sư thần học tín lý Đại chủng viện Thánh Giuse, Hà Nội
1994 – 1996:   Giáo sư thần học tín lý Đại chủng viện Huế
1995 – 1999:   Tổng đại diện giáo phận Đà Lạt
26-03-1999:    Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục chính toà giáo phận Mỹ Tho và đã chọn châm ngôn Giám mục là “Chúa là niềm vui của con”.
20-05-1999:    Thánh lễ tấn phong Giám mục tại nhà thờ Chính toà Đà Lạt, do Đức Tổng giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn chủ phong
27-05-1999:    Nhận giáo phận Mỹ Tho.

Trong nhiệm vụ mới, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc sẽ phụ giúp Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, 79 tuổi, và sẽ đương nhiên kế nhiệm Đức Hồng Y khi Tổng giáo phận trống tòa.


G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ

Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ

Một câu chuyện kể rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu nguyện với Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một gia đình đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của con phải cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình nay bị đau nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải nghỉ vì không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?

Chúa trả lời: Con thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết bạn với con.

Đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố: “Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần gian, và đó cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách tiên tri Amos chúng ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an phận trong sự khốn nạn của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.

Giàu có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những gia đình phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên là bị loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng, như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ là những vua chúa, hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh. Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không thể nào an phận trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn của Chúa. Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống trở nên thánh thiện và công chính hơn.

Thánh thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi, không lợi dụng.

Quả thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng như thánh thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được hạnh phúc không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu người như Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương đón nhận và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng ta phải tích lũy làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại và hiền hòa.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm tốn trước tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người chúng ta trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.

Xin mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin.

Veritas Radio

ÔNG SCHWEITZER và NGƯỜI NGHÈO

ÔNG SCHWEITZER và NGƯỜI NGHÈO

“Chúng ta là những người săn sóc lẫn nhau”

Vào năm 1950, một ủy ban gồm đại diện của 17 quốc gia đã chọn ông Albert Schweitzer là “người của thế kỷ”. Hai năm sau, 1952, ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình.

Ông Schweitzer được cả thế giới ca tụng là một thiên tài đa dạng. Ông là một triết gia lỗi lạc, một thần học gia sáng giá, một sử gia đáng kính nể, một nhạc sĩ độc tấu, và là một bác sĩ truyền giáo.

Nhưng điều đáng kể là đức tin Kitô Giáo thật sâu đậm của ông. Chính đức tin này đã ảnh hưởng đến từng góc cạnh của đời ông.

Khi 21 tuổi, Schweitzer tự nhủ là ông sẽ vui hưởng nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi. Sau đó ông sẽ dành cuộc đời còn lại để làm việc cho những người nghèo dưới hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.

Và vì thế vào ngày sinh nhật thứ 30, ngày 13-10-1905, ông bỏ vào thùng thư ở Ba Lê một vài lá thư.

Đó là thư gửi cho cha mẹ và các bạn thân, ông báo cho họ biết là ông sẽ theo học về y khoa. Sau đó ông sẽ sang Phi Châu để làm việc cho các người nghèo với công việc của một bác sĩ.

Ngay lập tức các lá thư ấy đã tạo nên một chấn động. Ông kể lại trong cuốn Out of My Life and Thought:

“Thân nhân và bạn hữu của tôi tất cả đều thành khẩn đưa ra các nhận định của họ về quyết định điên rồ của tôi. Họ nói, tôi đang chôn vùi các tài năng thiên phú… Một bà thật hăng say thuyết phục rằng tôi có thể đạt được nhiều kết quả cho việc giúp đỡ người nghèo qua các bài diễn giảng hơn là hành động trực tiếp mà tôi đang ấp ủ.”

Tuy nhiên, ông Schweitzer không thay đổi ý định.

Vào năm 38 tuổi, ông là một bác sĩ đầy đủ bản lĩnh. Vào năm 43 tuổi, ông sang Phi Châu để mở một bệnh xá ở cạnh bìa rừng mà sau này được gọi là Equatorial Africa. Ông từ trần ở đây năm 1965 khi được 90 tuổi.

Động lực nào đã khiến ông Schweitzer dám gạt bỏ danh vọng và tiền tài để làm việc cho người nghèo ở Phi Châu?

Ông cho biết, một trong những ảnh hưởng là khi ông suy niệm về đoạn phúc âm mà chúng ta vừa nghe hôm nay về người giầu và ông Lagiarô. Ông nói:

“Thật không thể hiểu nổi khi tôi tự cho phép mình sống một cuộc đời sung sướng, trong khi quá nhiều người chung quanh tôi đang vật lộn với sự đau khổ.”

Và đó là điều đưa chúng ta đến câu chuyện phúc âm hôm nay.

Tội của người nhà giầu trong bài phúc âm hôm nay không phải là ông đã ra lệnh tống cổ Lagiarô ra khỏi khu vực của ông.

Cũng không phải là người nhà giầu đã đánh đập hay chửi rủa ông Lagiarô mỗi khi đi ngang qua.

Tội của người nhà giầu là ông không bao giờ để ý đến Lagiarô. Ông coi Lagiarô như một phần đương nhiên của khung cảnh cuộc đời.

Tội của người nhà giầu là ông chấp nhận mà không bao giờ thắc mắc về sự kiện, Lagiarô thì nghèo và chính ông thì giầu.

Tội của người nhà giầu không phải là tội về một hành động, là thi hành một điều gì đó mà lẽ ra không nên làm.

Tội của người nhà giầu là một tội quên sót, đó là, không thi hành điều phải làm. Tội của người nhà giầu là đắm mình trong của cải mà không động đến ngón tay để giúp ông Lagiarô khi cùng cực.

Tội của người nhà giầu cũng chính là tội đang được tái diễn ngày hôm nay. Và chính tội này khiến chúng ta phải thực sự lưu tâm đến những gì cần phải thi hành không chỉ cho người nghèo nhưng còn cho xã hội.

Ông John F.Kennedy đã đề cập đến mối ưu tư này khi ông nói, “Nếu một xã hội tự do không thể giúp gì cho người nghèo thì nó cũng không thể cứu được một thiểu số giầu có.”

Nói cách khác, sự thiếu lưu tâm đến người nghèo không chỉ tiêu diệt người nghèo mà còn tiêu diệt luân lý của xã hội chúng ta.

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi để thi hành điều mà ông Albert Schweitzer đã làm.

Nó là lời mời để suy tư về câu chuyện của người nhà giầu và ông Lagiarô, và tự vấn lương tâm chúng ta câu hỏi mà chính ông Schweitzer đã thắc mắc: Làm thế nào chúng ta có thể sống sung sướng trong khi có quá nhiều người đau khổ?

Nó là lời mời chúng ta hãy suy tư lời của Tướng Dwight D. Eisenhower:

“Mỗi một khẩu súng được chế tạo, mỗi một tầu chiến được hạ thủy, mỗi một tên lửa được phóng đi, trong một ý nghĩa nào đó chúng là sự trộm cắp của người đói không có gì ăn, của người lạnh không có gì mặc.”

Nó là lời mời chúng ta hãy quý trọng lời của Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay.

Hãy kết thúc bài giảng bằng những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến tông du Hoa Kỳ năm 1979, khi người giảng ở vận động trường Yankee Nữu Ước. Đức Thánh Cha nói:

“Chúng ta không thể ngồi đó bất động, vui hưởng sự giầu sang và tự do, nếu ở chỗ nào đó vẫn còn một Lagiarô của thế kỷ 20 đứng trước cửa nhà chúng ta.

“Dưới ánh sáng của bài dụ ngôn của Đức Kitô, giầu sang và tự do có nghĩa một trách nhiệm đặc biệt. Giầu sang và tự do tạo nên một nhiệm vụ đặc biệt.

“Và vì vậy, nhân danh tình liên đới đã trói buộc chúng ta trong một bản tính nhân loại, tôi muốn nói lên phẩm giá của mỗi một con người.

“Người giầu và Lagiarô đều là con người, cả hai được dựng nên cách bình đẳng trong hình ảnh và giống như Thiên Chúa, cả hai đều được cứu độ bởi Đức Kitô với một giá đắt, là giá máu châu báu của Đức Kitô…

“Người nghèo của Hoa Kỳ và của thế giới là anh chị em của các bạn trong Đức Kitô. Các bạn không thể lấy làm mãn nguyện khi để họ hưởng các mẩu vụn của bàn tiệc.

“Các bạn phải nhìn đến thực chất của mình chứ không chỉ sự dư dật của các bạn và giúp đỡ họ. Và các bạn phải đối xử với họ như khách được mời đến dự tiệc trong nhà mình.”

Cha Mark Link, SJ

Liên đới

Liên đới

Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.

Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?”.

Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.

Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.

Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.

Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.

Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.

Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.

Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.

Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.

Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.

Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?
2) Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3) Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
4) Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Bạn hữu của Thiên Chúa

Bạn hữu của Thiên Chúa

Chúa thương người giàu

Tôi không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.

Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ” “ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phe phởn”.Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay:“ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu: “nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn giàu nhờ đức.

Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: “họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng vậy, “họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.

Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc”, có mắt mà không thấy “Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông” ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay “làm đơn xin” gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.

Vậy tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.

Chúa cứu người nghèo

Với những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.

Cái thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa “thấy ai hoạn nạn thì vui mừng”, nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là “ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc “Chúa phạt nhãn tiền” là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau”, mà quên một điều quan trọng là: “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau”. Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột… như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.

Từ “Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu “khó vào nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được “Thiên Chúa cứu giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa. “Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có. Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được “Chúa thương cứu giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.

PM Cao Huy Hoàng

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Suy Niệm

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau.

Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.

Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.

Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.

Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

Gợi Ý Chia Sẻ

Con người chỉ trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?

Ai cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.

Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.

LM Antôn Nguyễn Cao Siêu

Đức Thánh Cha gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên quốc tế

Đức Thánh Cha gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên quốc tế

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các giáo lý viên tái khởi hành từ Chúa Kitô, sống như giáo lý viên, để dẫn đưa tha nhân về với Chúa Kitô.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong bài huấn dụ khi gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên từ các nước trên thế giới tham dự Đại hội quốc tế về giáo lý do Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng tổ chức tại Vatican từ 26 đến 28-9 nhân dịp Năm Đức Tin.

Tham dự Hội nghị cũng có hơn 30 GM Chủ tịch các Ủy ban huấn giáo của các HĐGM trên thế giới, các vị giám đốc các văn phòng huấn giáo toàn quốc và giáo phận.

ĐTC đã đến Đại thính đường Phaolô 6 lúc 5 giờ chiều ngày 27-9-2013 và đã được mọi người tiếp đón nồng nhiệt. Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, ĐTC đề cao tầm quan trọng của các giáo lý viên và cám ơn họ vì sự phục vụ cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. ĐTC nói:

”Các giáo lý viên thân mến,

”Tôi vui mừng vì trong Năm Đức Tin, có cuộc gặp gỡ này dành cho anh chị em: huấn giáo là một cột trụ để giáo dục đức tin và cần có những giáo lý viên tốt! Cám ơn anh chị em vì việc phục vụ dành cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. Tuy rằng nhiều khi việc phục vụ này thật là khó khăn, ta làm việc rất nhiều, dấn thân tận tình nhưng không thấy kết quả mong muốn; giáo dục về đức tin thật là điều tốt đẹp! Giúp các trẻ em, thiếu niên, người trẻ, người lớn ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, đó thực là một cuộc phiêu liêu giáo dục đẹp đẽ nhất, ta xây dựng Giáo Hội qua việc làm đó! Sống như giáo lý viên! ('Essere' catechisti!) Xin anh chị em chú ý, tôi không nói ”làm” giáo lý viên, nhưng là ”sống như giáo lý viên” vì đây là điều bao gồm cuộc sống. Ta hướng dẫn tới cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu bằng lời nói và bằng cuộc sống, bằng chứng tá. Và ”sống như giáo lý viên” đòi phải có lòng yêu mến ngày càng nồng nhiệt hơn đối với Chúa Kitô, yêu mến Dân thánh của Chúa. Và tình yêu này nhất thiết phải khởi hành từ Chúa Kitô.

Tái khởi hành từ Chúa Kitô như thế có nghĩa là gì đối với một giáo lý viên, đối với anh chị em, đối với tôi, vì tôi cũng là một giáo lý viên!

1. Trước tiên tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là ”sống thân mật với Chúa”. Chúa Giêsu nồng nhiệt khuyến khích các môn đệ của Ngài về điều này trong Bữa Tiệc Ly, khi Ngài bắt đầu sống sự dâng hiến cao cả nhất của tình yêu, hy tế Thập Giá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và các cành, và Ngài nói: các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, hãy gắn bó với thầy, như ngành nho gắn liền với thân cây nho. Nếu chúng ta kết hiệp với Chúa, chúng ta có thể sinh hoa trái, và đây chính là cuộc sống thân mật với Chúa Kitô.

Đối với một môn đệ, điều đầu tiên là ở với Thầy Chí Thánh, lắng nghe, học hỏi với Chúa. Và điều này luôn luôn có giá trị, là một hành trình kéo dài trọn cuộc sống! Ví dụ, đối với tôi, điều rất quan trọng là ở lại trước Nhà Tạm; ở trước mặt Chúa, để cho Chúa nhìn ngắm. Điều này sưởi ấm tâm hồn, giữ cho ngọn lửa tình bạn được luôn nồng cháy, làm cho ta cảm thấy thực sự được Chúa nhìn đến, gần gũi và yêu thương. Tôi hiểu rằng đối với anh chị em sự việc không đơn giản như vậy, nhất là đối với những người có gia đình và con cái, thật là khó tìm được thời giờ yên hàn lâu dài. Nhưng cám ơn Chúa, không phải tất cả mọi người đều phải làm như nhau, trong Giáo Hội có nhiều ơn gọi và hình thái thiêng liêng khác nhau; điều quan trọng là tìm được cách thức thích hợp để ở với Chúa; và mỗi người, trong bậc sống của mình có thể thực hiện được điều đó. Trong lúc này đây mỗi người có thể tự hỏi: làm thế nào tôi có thể ”ở với Chúa Giêsu?” Tôi có những lúc ở lại trước sự hiện diện của Chúa, trong thinh lặng, để cho Chúa nhìn tôi hay không? Tôi có để cho ngọn lửa tái sưởi ấm tâm hồn tôi hay không? Nếu trong tâm hồn tôi không có sức nóng của Thiên Chúa, của tình yêu Chúa, sự dịu dàng của Ngài, làm sao chúng ta là những người tội lỗi nghèo hèn có thể sưởi ấm tâm hồn người khác?

2. Yếu tố thứ hai: tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là noi gương Chúa ra khỏi bản thân mình và đi gặp gỡ tha nhân. Đây là một kinh nghiệm đẹp, và hơi nghịch lý. Tại sao? Tại vì ai đặt Chúa Kitô ở trung tâm cuộc sống của mình, thì cũng tản ra ngoài! Hễ bạn càng kết hiệp với Chúa Giêsu, thì Chúa càng trở nên trung tâm cuộc sống của bạn, và Chúa càng làm cho bạn ra khỏi chính mình, làm cho bạn không co cụm vào mình, nhưng cởi mở đối với người khác. Đó thực là một năng động thực sự của tình yêu, là sự chuyển động của chính Thiên Chúa! Thiên Chúa là trung tâm, nhưng Ngài luôn luôn là sự hiến thân, là tương quan, là sự sống thông ban.. Cả chúng ta cũng trở nên như vậy, cả chúng ta cũng kết hiệp với Chúa Kitô, Ngài làm cho chúng ta đi vào năng động như thế của tình yêu. Nơi nào có sự sống đích thực trong Chúa Kitô, thì có sự cởi mở đối với tha nhân, có sự ra khỏi chính mình để đi gặp gỡ tha nhân nhân danh Chúa Kitô.

Tâm hồn của giáo lý viên luôn sống sự chuyển động ”sistole – diastole”, bóp vào – dãn ra: kết hiệp với Chúa Giêsu – gặp gỡ tha nhân. Nếu một trong hai chuyển động này thiếu thì con tim ngừng đập và ta không còn sống nữa. Lãnh nhận hồng ân Tin Vui (kerigma), và trao ban hồng ân ấy. Đó là điều ở trong chính bản chất của kerygma: đó là một hồng ân tạo ra sứ mạng, luôn thúc đẩy đi xa hơn bản thân. Thánh Phaolô đã nói: ”Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta”, nhưng ”sự thúc đẩy chúng ta” cũng có thể được dịch là ”sự chiếm hữu chúng ta”. Và thế là: tình yêu lôi kéo bạn và sai bạn đi, chiếm lấy bạn và trao bạn cho tha nhân. Trong động thái ấy, con tim của Kitô hữu cử động, đặc biệt là con tim của giáo lý viên. Tất cả chúng ta hãy tự hỏi: phải chăng con tim giáo lý viên của tôi cũng đập như thế: kết hiệp với Chúa Giêsu và gặp gỡ tha nhân? Nó được nuôi dưỡng trong tương quan với Chúa, nhưng có phải để dẫn tương quan ấy tới tha nhân hay không? Tôi nói với anh chị em một điều: tôi không hiểu làm sao một giáo lý viên có thể đứng im, không có sự chuyển động như thế.

3. Và yếu tố thứ ba vẫn luôn ở trong đường hướng ấy: tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là không sợ ra đi với Chúa tới các khu ngoại ô. Ở đây tôi nghĩ đến chuyện ông Giona, một nhân vật thật là hay, nhất là trong thời đại chúng ta có những thay đổi và bất định. Giona là một người đạo đức, có đời sống yên hàn, ổn định, và điều này khiến ông có những khuôn mẫu rõ ràng và phán đoán mọi sự, mọi người theo những khuôn mẫu ấy một cách cứng nhắc. Vì thế khi Chúa gọi ông và bảo ông đi giảng ở thành Nivive, là thành phố lớn của dân ngoại, Giona không đồng ý. Thành Nivive vượt ra ngoài những khuôn mẫu của ông, ở ngoại ô thế giới của ông. Và thế là ông trốn chạy. Ông xuống tàu để đi xa. Anh chị em hãy đọc lại sách Giona! Sách này ngắn nhưng là một dụ ngôn có ý nghĩa rất xúc tích, nhất là đối với chúng ta là những người ở trong Giáo Hội. Sách này dạy chúng ta điều gì? Sách dạy chúng ta đừng sợ ra khỏi những khuôn mẫu của mình để theo Chúa, vì Chúa luôn đi ra ngoài, Thiên Chúa không sợ những vùng ngoại biên. Thiên Chúa luôn trung tín, có tinh thần sáng tạo, không khép kín, và vì thế Ngài không bao giờ cứng nhắc, Ngài tiếp đón, gặp gỡ, cảm thông chúng ta. Để trung tín, để có tinh thần sáng tạo, cần biết thay đổi. Để ở lại với Thiên Chúa cần biết ra ngoài, không sợ ra ngoài. Nếu một giáo lý viên để cho sự sợ hãi chiếm đoạt, thì họ là một người nhát sợ; nếu một giáo lý viên ở yên hàn, thì rốt cục sẽ trở thành một pho tượng trong viện bảo tàng; nếu một giáo lý viên cứng nhắc thì họ trở nhăn nheo và không mang lại lợi ích nào. Tôi hỏi anh chị em: có ai trong anh chị em muốn trở thành nhát sợ, một tượng trong viện bảo tàng hoặc son sẻ hay không?
Nhưng cần lưu ý! Chúa Giêsu không nói: hãy đi và tự xoay sở lấy! Không, Chúa nói: Các con hãy đi, Thầy ở với các con! Đây là vẻ đẹp và là sức mạnh của chúng ta; nếu chúng ta đi, nếu chúng ta ra ngoài để mang Tin Mừng của Chúa với tình yêu thương, với tinh thần tông đồ đích thực, với parresia (nói thẳng thắn), thì Chúa đồng hành với chúng ta, Ngài luôn đi trước chúng ta.

Nay anh chị em đã học ý nghĩa của lời ấy. Đây là điều cơ bản đối với chúng ta: Thiên Chúa luôn đi trước chúng ta! Khi chúng ta nghĩ mình đi xa, tới tận bờ cõi xa xăm, có lẽ chúng ta hơi sợ hãi, nhưng tron gthực tế Chúa đã có mặt tại đó: Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong tâm hồn người anh em, trong thân thể Ngài bị thương tích, trong cuộc sống bị áp bức, trong tâm hồn không có niềm tin. Chúa Giêsu có mặt tại đó, trong người anh em ấy. Ngài luôn đi trước chúng ta.

Các giáo lý viên thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì những gì anh chị em đang làm, nhưng nhất là vì anh chị em ở trong Giáo Hội, trong Dân Chúa đang lữ hành. Chúng ta hãy ở lại với Chúa Kitô, cố gắng ngày càng trở nên một với Chúa; chúng ta hãy theo Chúa, noi gương Chúa trong chuyển động yêu thương của Ngài, trong việc ra đi gặp gỡ con người; và chún gta ra ngoài, mở cửa, chúng ta bạo dạn vạch ra những con đường mới để loan báo Tin Mừng.
Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Mẹ Maria tháp tùng anh chị em.

G. Trần Đức Anh chuyển ý O.P – Vatican Radio