HỘI HIỆP SĨ COLOMBO NEWTOWN PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH LẦN HẠT MÂN CÔI CẦU NGUYỆN CHO GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ THẢM SÁT

HỘI HIỆP SĨ COLOMBO NEWTOWN PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH LẦN HẠT MÂN CÔI CẦU NGUYỆN CHO GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ THẢM SÁT

NEWTOWN CONECTICUT: Trong những ngày vừa qua Hội Hiệp Sĩ Colombo giáo xứ thánh Rosa thành Lima tỉnh Newtown đã phát động chiến dịch toàn Hoa Kỳ lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho gia đình các nạn nhân vụ thảm sát tại trường tiểu học ngày 14 tháng 12-2012.

Ông Tim Haas, đại hiệp sĩ, cho biết đây là cách thức tưởng niệm các vị thánh vô tội đã bị sát hại: 12 bé gái và 8 bé trai. Cần phải cầu nguyện nhiều cho gia đình các em thắng vượt giai đoạn khó khăn hiện nay. Hội Hiệp Sĩ Colombo xin mỗi người tham gia chiến dịch cầu nguyện đọc ba kinh Kính Mừng cầu cho ba ý chỉ: thứ nhất cho các nạn nhân và gia đình họ, thứ hai cho các giáo viên và thứ ba cho người dân thành phố có can đảm chịu đựng cái tang đau đớn này và dấn thân làm cho thế giới này trở nên tốt lành hơn. Ông nói Kinh Mân Côi có sức mạnh củng cố đức tin của chúng ta. Ngày 19 tháng 12-2012 chỉ nội trong 24 giờ đã có hơn 60,000 kinh Kính Mừng được đọc theo các ý chỉ này.

Bà chị của cha Luke, linh mục chánh xứ giáo xức thánh nữ Rosa thành Lima Newtown thì xin mọi người cũng nhớ cầu nguyện cho em của bà và các linh mục khác trong tỉnh Newtown. Trong mấy ngày qua mỗi ngày cha Luke phải cử hành hai đám táng. Trong tuần vừa qua đã có 8 đám táng. Ông Haas cho biết trong đám táng các bà mẹ các em đã làm chứng cho tình yêu thương của họ đối với con cái họ, và tuy đau đớn nhưng họ thông truyền cho mọi người tình yêu thương đó. Nỗi đớn đau mất con của họ cũng giống nỗi đớn đau của Mẹ Maria nất Chúa Giêsu.

Theo ông kinh Kính Mừng là câu trả lời tốt nhất cho sự dữ. Khi trở thành hiệp sĩ Colombo mỗi thành viên cũng nhận được tràng hạt Mân Côi và ít nhất mỗi tuần phải lần hạt một lần. Ông nói: lần hạt Mân Côi, tham dự thánh lễ, rước Mình Thánh Chúa và xưng tội là các món qùa giúp chúng ta đương đầu với các tình trạng đau buồn như hiện nay.

Ngày 21 tháng 12-2012 lại xảy ra một vụ giết người khác tại Pensylvania làm cho 4 người thiệt mạng kể cả thủ phạm. Trong các ngày qua đã có hơn 400 ngàn người ký thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền Hoa Kỳ hạn chế bán các loại vũ khí chiến tranh (CNA 21-12-2012). Linh Tiến Khải – Vietvatican

ĐỨC THÁNH CHA ÂN XÁ CHO ÔNG PAOLO GABRIELE

ĐỨC THÁNH CHA ÂN XÁ CHO ÔNG PAOLO GABRIELE

VATICAN: Trong buổi họp báo sáng ngày 22-12-2012 Cha Federico Lombardi giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ân xá cho ông Paolo Gabriele cựu quản gia.

Cha Lombardi nói với các nhà báo rằng: ”Sáng nay Đức Thánh Cha Biển Đừc XVI đã vào tù thăm ông Paolo Gabriele, cựu quản gia của ngài để xác định với ông rằng ngài đã tha thứ cho ông và đích thân báo cho ông biết ngài đã chấp thuận lời xin của ông và ân xá cho ông. Đây là một cử chỉ hiền phụ đối với một người mà Đức Thánh Cha đã chia sẻ vài năm sống tình gia đình mỗi ngày. Tiếp theo đó ông Paolo Gabriele đã được ra khỏi tù và trở về nhà. Mặc dù không được tiếp tục làm việc, nhưng ông được trú ngụ trong nội thành Vaticăng. Tin tưởng nơi sự chân thành xét lại của ông Tòa Thánh cống hiến cho ông khả thể tiếp tục cuộc sống với gia đình trong sự thanh thản”.

Như đã biết ông Gabriele đã bị bắt hồi tháng 5 năm 2012 vì tội đánh cắp nhiều tài liệu mật của Tòa Thánh, một thỏi vàng và một ngân phiếu 100.000 mỹ kim của Đức Thánh Cha. Ông đã bị kết án ba năm tù ngày mùng 6 tháng 10 vừa qua, và được giảm còn một năm rưỡi (SD 22-12-2012)

Linh Tiến Khải

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

Đức Thánh Cha Kiểm Điểm Sinh Hoạt Tòa Thánh năm 2012

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các Hồng Y và các chức sắc Tòa Thánh đến chúc mừng ngài sáng ngày 21 tháng 12-2012 nhân dịp Giáng Sinh và Năm Mới, ĐTC Biển Đức 16 đã kiểm điểm sinh hoạt của Tòa Thánh trong năm 2012.

Ngỏ lời với mọi người sau lời chúc mừng của ĐHY Angelo Sodano, Niên trưởng Hồng Y đoàn, ĐTC cũng nhắc nhở mọi người hiện diện rằng, với tư cách là một gia đình, tất cả đang được mời gọi để đón mừng Hài Nhi Giêsu tại hang đá Belem, Đấng là Thiên Chúa nhưng đã đến gần con người và trở thành một người như chúng ta. Tiếp đến Ngài cũng gửi những lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả mọi người, đặc biệt là các vị Sứ Thần Tòa Thánh trên toàn thế giới. Cuối cùng, Đức Thánh Cha điểm lại những sự kiện quan trọng trong năm, bao gồm 3 cuộc công du, Đại Hội Các Gia Đình Thế Giới Tại Milan, Thượng Hội Đồng Thế Giới Lần Thứ 13 và cuối cùng là Năm Đức Tin. Trước hết, Đức Thánh Cha trình bày ngắn gọn những chia sẻ của ngài về ba cuộc công du trong năm vừa qua, ngài nói:

“Cuối năm nay chúng ta lại chứng kiến biết bao nhiêu cảnh huống khó khăn, những vấn đề và những thách đố lớn lao, nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng nhìn thấy những dấu chỉ của niềm hy vọng, trong Giáo hội cũng như trong thế giới. Hôm nay tôi muốn đề cập đến một vài yếu tố quan trong liên quan đến đời sống Giáo hội cũng như phận vụ Giáo Hoàng của tôi. Trước hết là những chuyến công du tới Mê-xi-cô và Cuba, những cuộc gặp gỡ với sức mạnh của đức tin không thể nào quên, một đức tin được bén rễ sâu trong trái tim con người ở đây; và họ thể hiện một đời sống vui tươi phát xuất từ đức tin. Trong các cuộc viếng thăm nơi vùng đất này, tôi nhớ có biết bao nhiêu đoàn người đông đảo nối tiếp nhau trong niềm vui và hạnh phúc. Nhiều bạn trẻ đã quỳ gối bên đường để đón nhận phép lành của Đấng kế vị thánh Phêrô. Tôi cũng nhớ những buổi cử hành phụng vụ hết sức long trọng bên tượng Chúa Kitô Vua làm cho Vương quyền của Người hiện diện giữa chúng ta, nhờ đó chúng ta cảm nhận được bình an, sự công chính và chân lý của Ngài. Tất cả sự kiện này diễn ra tại các quốc gia mà nơi đó đang phải đối diện với những vấn nạn khác nhau, những hình thức bạo lực cũng như những khó khăn về kinh tế. Trong khi những vấn nạn này không thể giải quyết bằng lòng nhiệt thành tôn giáo, thì nó cũng không thể nào giải quyết được nếu thiếu một sự thanh luyện của con tim xuất phát từ sức mạnh của đức tin, và từ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Tại Cuba, tôi cũng được tham dự những cử hành phụng vụ long trọng, với những tiếng hát, lời kinh và cả sự thinh lặng làm cho sự hiện diện của Đức Kitô thực sự trở nên hữu hình giữa một đất nước mà chính quyền lâu nay đã nỗ lực để loại bỏ Ngài. Một sự tìm kiếm sự cân bằng giữa trách nhiệm và tự do ở đất nước này không thể thành công nếu bỏ qua điểm tham chiếu nền tảng mà con người đã khám phá ra ngang qua cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha cũng nói về cuộc thăm viếng Lebanon và Đại Hội Gia Đình Quốc Tế ở Milan. Dù có nhiều chủ đề và nhiều sự kiện được bàn thảo trong năm nay, tuy nhiên Đức Thánh Cha muốn tập trung vào ba chủ đề chính yếu, đó là: gia đình, phục vụ hòa bình trong thế giới và đối thoại giữa các tôn giáo và cuối cùng là cuộc công bố sứ điệp của Đức Kitô trong thế giới ngày nay cho những người chưa biết Chúa Kitô hay cho những người dầu đã gặp gỡ Ngài nhưng chưa nhận ra Ngài.

Về chủ đề gia đình, Đức Thánh Cha nói như sau:

“Trước hết, những niềm vui lớn lao mà ngày họp mặt ở Milan mang lại cho thấy, giữa bao khó khăn và thách đố, gia đình vẫn mạnh mẽ và sống động trong thế giới ngày nay. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta không thừa nhận cuộc khủng hoảng đang đe dọa nền tảng của gia đình, đặc biệt là trong thế giới Tây Phương. Chúng ta cần lưu ý rằng, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của gia đình như là một bối cảnh đích thực mà nơi đó chuyển giao kế hoạch của cuộc sống con người. Nơi gia đình chúng ta học để biết sống cho và sống với người khác. Vì thế, vấn nạn về gia đình không chỉ đơn thuần là một vấn nạn của một cấu trúc xã hội cụ thể, nhưng còn là vấn vạn về chính con người, về bản chất của con người và về con đường con người phải theo để trở nên người đích thực. Thách đố này bao gồm nhiều mặt. Trước hết là câu hỏi về khả năng của con người để thực hiện một cuộc cam kết hay là lẩn tránh sự cam kết đó. Một người có thể tự ràng buộc mình suốt cuộc đời không? Điều này có tương hợp với bản chất con người không? Điều này có đi ngược với tự do và mục đích tự thành toàn của bản thân không? Con người có thể trở nên là người đích thực khi chỉ sống cho riêng mình và chỉ đi vào mối tương quan với người khác khi thấy có thể phá vỡ mối tương quan này bất kỳ khi nào muốn không? Một sự cam kết suốt cuộc đời có đi ngược với tự do không? Một sự khước từ làm bất kỳ cuộc dấn thân nào cho thấy con người vẫn còn đóng kín với chính mình và giữ cái “Tôi” cho riêng mình và không thực sự vượt lên trên nó. Nhưng chỉ trong sự trao ban, con người mới thực sự tìm thấy chính mình. Và chỉ ngang qua việc mở ra với cái khác, người khác, với con cái, với gia đình, và để cho mình được biến đổi ngang qua những đau khổ, con người mới thực sự khám phá ra sự rộng lớn của bản tính nhân loại. Khi một sự dấn thân như thế bị loại trừ, hình ảnh về con người đích thực cũng biến mất: người cha, người mẹ, con cái – những yếu tố thiết yếu về kinh nghiệm hiện hữu của con người cũng biến mất.”

Nói về bản chất gia đình, Đức Thánh Cha nhắc nhở về bản chất của con người được sáng tạo như là những người nam và người nữ. Đó chính là công trình của Thiên Chúa, chứ không phải là sản phẩm của con người. Ngài nói:

“Thế giới ngày nay người ta từ chối bản chất của mình, và cho rằng, bản chất con người không phải là một điều gì được định sẵn nhưng họ có thể tự quyết định cho bản thân. Theo tường thuật sáng tạo của Thánh Kinh, con người được sáng tạo như những người nam và người nữ chính là bản chất của con người. Tính hai mặt này là một khía cạnh thiết yếu của con người. Tính hai mặt này là một điều được trao ban, nhưng giờ đây người ta đang tranh luận về nó. Giờ đây, Thiên Chúa không còn sáng tạo ra người nam và người nữ, thay vào đó là xã hội, và chính con người tự quyết định cho chính mình.” Đứng trước vấn nạn trên, Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở rằng, khi người ta chọn lựa để tự sáng tạo cho chính mình, thì họ cũng khước từ Đấng Tạo Hóa, và khi ấy phẩm giá con người cũng biến mất. Và do đó, bất cứ ai chống lại Thiên Chúa, thì cũng đang chống lại con người.

Liên quan đến vấn đề đối thoại, Đức Thánh Cha nói rằng:

“Hiện nay, Giáo hội của chúng ta đang đối diện với ba lĩnh vực đối thoại chính yếu, ngang qua những cuộc đối thoại này, Giáo hội muốn hiện diện trong công cuộc đấu tranh cho con người và cho nhân tính của con người. Đối thoại với các quốc gia, với xã hội – bao gồm đối thoại với các nền văn hóa và khoa học – và cuối cùng là đối thoại với các tôn giáo. Trong các cuộc đối thoại này, tiếng nói của Giáo hội được đặt nền tảng trên ánh sáng của Đức Tin. Dầu vậy, Giáo hội cũng hợp tác với ký ức của nhân loại, vốn là những kinh nghiệm ngay từ giai đoạn đầu của lịch sử. Nơi đó, Giáo hội đã học về những điều kiện của con người, Giáo Hội kinh nghiệm về những giới hạn cũng như sự vĩ đại của nó, những cơ hội và những thách đố. Văn hóa nhân loại, mà Giáo hội là một sự đảm bảo, phát triển ngang qua cuộc gặp gỡ giữa mạc khải của Thiên Chúa và cuộc sống con người. Giáo hội đại diện cho ký ức về cái gì có ý nghĩa là trở thành người đích thực trong khi đối diện với nền văn minh hay lãng quên, và do đó chỉ biết đến nó và những tiêu chuẩn của nó. Một cá nhân không có trí nhớ sẽ đánh mất căn tính của mình thế nào, thì con người không có ký ức cũng sẽ đánh mất căn tính của họ như vậy. Điều mà Giáo hội đã học được từ cuộc gặp gỡ giữa mạc khải và kinh nghiệm của con người thực sự vượt ra khỏi lãnh vực của lý trí nhưng nó cũng không thuộc về một thế giới xa lạ vốn không liên hệ gì đến những người không tin. Ngang qua việc đi vào tư tưởng và sự hiểu biết của con người, tri thức này là một sự mở rộng địa hạt của lý trí, và do đó, nó cũng nói cho những người không chia sẻ Đức Tin trong Giáo hội. Trong cuộc đối thoại với các quốc gia và xã hội, dĩ nhiên là Giáo hội không có sẵn các câu trả lời cho những câu hỏi riêng biệt. Cùng với những thể chế khác trong xã hội, Giáo hội cũng phải vật lộn với những câu trả lời để đáp trả một cách tốt nhất cho chân lý tồn tại của con người. Những giá trị mà Giáo hội nhận thấy là nền tảng và không thể thay thế cho sự tồn tại của con người, Giáo hội phải công bố nó một cách rõ ràng và minh bạch. Giáo hội làm tất cả để có thể thuyết phục mọi người, vì thế điều này có thể đụng chạm đến các thể chế chính trị.”

Tiếp đến, về vấn đề đối thoại tôn giáo, Đức Thánh Cha cho nói rằng:

“Trong tình huống hiện tại của con người, cuộc đối thoại tôn giáo là một điều kiện cần thiết cho nền hòa bình trên thế giới và đó là nhiệm vụ của các Kitô Hữu cũng như các cộng đoàn tôn giáo khác. Cuộc đối thoại này mang những chiều kích khác nhau. Trước hết, đó đơn giản chỉ là một cuộc đối thoại về cuộc sống, đối thoại để sống cùng với nhau. Vì thế cuộc đối thoại này không hệ tại ở việc thảo luận những chủ đề của đức tin, nhưng về những vấn đề cụ thể của việc sống chung và chia sẻ trách nhiệm đối với xã hội, đối với đất nước và con người. Trong tiến trình này, điều cần thiết là phải học để biết chấp nhận người khác trong sự khác biệt của họ và cả trong sự khác biệt về suy nghĩ nơi họ. Để làm được điều này, sự chia sẻ trách nhiệm về công lý và hòa bình phải trở nên những nguyên lý hướng dẫn của cuộc đối thoại.”

Sau đó, Đức Thánh Cha chia sẻ một cách vắn tắt về chủ đề truyền giảng Tin Mừng, hay công cuộc Phúc Âm Hóa. Đức Thánh Cha nói rằng, những yếu tố nền tảng của tiếng trình Phúc Âm Hóa xuất hiện trong trình thuật của Thánh Gioan về việc kêu gọi hai môn đệ của ông Gioan Tẩy Giả, những người mà sẽ trở nên môn đệ của Đức ki-tô (Ga 1,35-39).

“Trước hết, chúng ta có một hành động công bố rất đơn sơ. Ông Gioan chỉ về phía Đức Giêsu và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” Một hành động tương tự được tường thuật trong một vài câu sau đó. Lần này, chính Anrê đã nói với em trai của mình rằng: “Tôi đã thấy Đấng Mesia” (1,41). Yếu tố đầu tiên và nền tảng nhất là một sự công bố chân thật, một Kerygma, vốn có sức lôi cuốn nhờ vào sự xác tín nội tâm sâu xa của người công bố. Trong trình thuật về các môn đệ đầu tiên, đoạn tiếp theo trình bày về việc lắng nghe và đi theo Đức Giê-su, chưa phải với tư cách là người môn đệ nhưng chỉ vì sự tò mò thánh thiêng, một khoảng khắc của sự tìm kiếm. Cả hai môn đệ này đều là những con người đang tìm kiếm. Họ đặt khát vọng mong chờ Thiên Chúa lên trên, và vượt qua những vấn đề thường ngày. Và khi đươc khích lệ bởi lời công bố, cuộc tìm kiếm của họ trở nên cụ thể. Họ muốn đến để biết rõ hơn về con người được Thánh Gioan Tẩy Giả mô tả là Chiên Thiên Chúa. Cảnh thứ ba bắt đầu khi Đức Giêsu quay qua, bắt gặp họ và hỏi: “Các con đang tìm gì?” Họ đáp lại bằng một câu hỏi xa hơn, minh chứng sự mở ra đối với sự mong chờ của mình, sự sẵn sàng của họ để bước những chặng đường tiếp theo. Họ hỏi: “Thưa thầy, Thầy ở đâu?” Câu trả lời “Hãy đến mà xem” của Đức Giê-su là một lời mời gọi bước đi với Ngài, và ngang qua đó, đôi mắt của họ mở ra để nhìn thấy Ngài. Lời công bố chỉ hiệu quả trong những tình huống nơi đó người lắng nghe sẵn sàng cho Chúa đến gần họ, nơi đó con người đang tìm kiếm và đang trên đường hướng đến Thiên Chúa. Trái tim của họ được đụng chạm khi Đức Giê-su hướng đến họ, và như vậy cuộc gặp gỡ với lời công bố trở nên một sự tò mò linh thánh giúp người ta biết đến Thiên Chúa sâu xa hơn. Khi họ bước đi với Đức Giêsu, họ được dẫn tới nơi Ngài sống, đó chính là cộng đoàn Giáo hội, và cũng chính là Thân Thể của Ngài. Điều đó có nghĩa là họ đang đi vào cộng đoàn của những người dự tòng, một cộng đoàn vừa học hỏi vừa sống đạo, nơi mà ánh mắt chúng ta sẽ được mở ra khi chúng ta bước đi.

“Hãy đến mà xem”, câu nói mà Đức Giêsu đã nói với hai người môn đệ đi tìm kiếm Ngài khi xưa, thì Ngài cũng nói với những con người đang trên đường tìm kiếm trong thế giới hôm nay. Vào thời điểm cuối năm này, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho Giáo hội để, bất chấp những giới hạn của mình, người ta vẫn không ngừng nhận ra nơi đó chính là nơi Thiên Chúa cư ngụ. Xin Ngài cũng mở mắt cho chúng ta khi chúng ta bước đi trên hành trình trở về nhà Ngài, để chúng ta có thể thấy rõ hơn và xác tín hơn: “Chúng tôi đã gặp Ngài, Ngài chính là Đấng mà toàn thể thế giới đang chờ đợi, là Đức Giê-su, là con Thiên Chúa Thật và là người thật.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha chúc mừng Giáng sinh tới mọi người hiện diện và toàn thể các tín hữu trên toàn thế giới, ngài nói:

“Với những tâm tình này, từ thâu thẳm trái tim tôi, tôi ước mong mọi người có một lễ Giáng Sinh an lành và một Năm Mới Hạnh Phúc.”

Nguyễn Minh Triệu sj

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các trẻ em tìm Chúa

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các trẻ em tìm Chúa

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến dành cho phái đoàn Thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia, sáng ngày 20 tháng 12-2012, ĐTC nhắn nhủ các em tìm Chúa Giêsu như tác giả sự sống, niềm vui, tình thương và an bình.

50 em thiếu nhi đại diện cho hàng chục ngàn thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia, cùng với giáo sư Franco Miano Chủ tịch Phong trào, và Đức Cha Tổng Tuyên úy Domenico Sigalini, đến chúc mừng ĐTC nhân dịp lễ Giáng Sinh. Lên tiếng trong dịp này, ngài nhắc đến chủ đề hoạt động của các thiếu nhi Công Giáo tiến hành Italia là ”đi tìm kiếm tác giả”. ĐTC giải thích cho các em: tác giả sự sống, tác giả niềm vui và tác giả tình thương đối với các em chính là Chúa Giêsu.

ĐTC nói: ”Có bao nhiêu người làm cho các con được hạnh phúc, nhưng có một Người Bạn lớn nhất là Tác giả niềm vui của mọi người và với Tác giả ấy, tâm hồn các con được tràn đầy một niềm vui vượt lên trên mọi niềm vui khác, và kéo dài trọn đời: đó chính là Chúa Giêsu. Các con hãy nhớ rằng hễ các con càng học biết Chúa và đối thoại với Chúa, thì các con càng cảm thấy hài lòng trong tâm hồn và có khả năng vượt thắng những sầu muộn bé nhỏ nhiều khi xảy ra trong tâm hồn các con”.

Về việc tìm kiếm tác giả tình thương, ĐTC nhận xét rằng: ”Tất cả chúng ta đều cần yêu mến và cảm thấy có người chấp nhận và yêu mến chúng ta. Cảm thấy được yêu chính là điều cần thiết để sống, nhưng một điều không kém phần quan trọng, có là có khả năng yêu mến người khác, để làm cho cuộc sống của mọi người được tươi đẹp, cả cuộc sống của những người bạn đồng lứa tuổi với các con đang ở trong tình cảnh khó khăn. Vì thế, cha hài lòng vì sáng kiến của các con trong tháng giêng hỗ trợ một sự án tại Ai Cập nhắm giúp đỡ cụ thể cho các trẻ em bụi đời”. (SD 20-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha kêu gọi suy tư và xét mình nhân lễ Giáng Sinh

Đức Thánh Cha kêu gọi suy tư và xét mình nhân lễ Giáng Sinh

LUÂN ĐÔN. ĐTC mời gọi các tín hữu và mọi người thiện chí suy tư và xét mình nhân dịp lễ Giáng Sinh, lấy hứng từ Tin Mừng.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong một bài bình luận về lễ Giáng Sinh đăng trên tờ Finance Times (Tài Chánh Thời Báo), xuất bản tại Luân Đôn ngày 20 tháng 12-2012, theo lời thỉnh cầu của ban chủ nhiệm báo này.

Sau khi diễn giải ý nghĩa câu Chúa Giêsu trả lời cho những người muốn bắt bẻ Chúa ”Hãy trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, ĐTC viết:

”Sự giáng sinh của Chúa Kitô thách thức chúng ta hãy kiểm điểm lại những ưu tiên, giá trị và chính lối sống của chúng ta. Trong khi Lễ Giáng Sinh chắc chắn là một thời điểm đầy vui mừng, nhưng đây cũng là cơ hội để suy tư sâu xa, và xét mình. Vào cuối một năm cam go về kinh tế đối với nhiều người, chúng ta có thể học hỏi được điều gì từ sự khiêm hạ, nghèo khó, đơn sơ của cảnh tượng hang đá máng cỏ?

”Lễ Giáng Sinh có thể là một thời điểm trong đó chúng ta học cách đọc Tin Mừng, để biết Chúa Giêsu, không những như một hài nhi trong máng cỏ, nhưng còn như một Đấng qua đó chúng ta nhận ra Thiên Chúa làm Người. ĐTC xác quyết rằng: ”Chính trong Tin Mừng mà các tín hữu Kitô tìm được nguồn hứng cho cuộc sống thường nhất và dấn thân trong thế sự – dù là tại Quốc hội hay tại Thị trường chứng khoán-. Các tín hữu Kitô không được tránh né trần thế; họ phải dấn thân với trần thế. Nhưng sự dấn thân của họ trong chính trị và kinh tế phải vượt lên trên mọi hình thức ý thức hệ”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Các tín hữu Kitô chiến đấu chống nghèo đói vì họ nhìn nhận phẩm giá tối cao của mỗi người, được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và nhắm đến cuộc sống vĩnh cửu. Các tín hữu Kitô hoạt động để có sự chia sẻ quân bình hơn các tài nguyên trái đất, vì họ xác tín rằng, trong tư cách là những người quản lý công trình sáng tạo của Thiên Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải chăm sóc những người yếu thế và dễ tổn thương nhất. Các Kitô hữu chống lại sự ham hố và bóc lột vì xác tín rằng lòng quảng đại và tình yêu thương vị tha, như Chúa Giêsu thành Nazareth đã dạy và sống, chính là con đường dẫn đến cuộc sống sung mãn. Niềm tin của Kitô hữu nơi vận mệnh siêu việt của mỗi người cho thấy cần cấp thiết hoạt động để thăng tiến hòa bình và công lý cho mọi người.”

ĐTC cũng cổ võ sự cộng tác của các tín hữu Kitô với những người khác. Kitô hữu trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar chứ không phải những gì thuộc về Thiên Chúa. Nhiều khi trong lịch sử, Kitô hữu đã không thể chiều theo những yêu cầu của Cesar. Từ việc tôn thờ hoàng đế trong đế quốc La Mã xưa kia cho đến các chế độ độc tài trong thế kỷ vừa qua, Cesar đã tìm cách chiếm chỗ của Thiên Chúa. Khi các tín hữu Kitô từ chối cúi mình trước các thần tượng giả dối được đề ra ngày nay, họ không theo một vũ trụ quan lỗi thời. Đúng ra là vì họ tự do đối với những cưỡng bách của ý thức hệ, họ được soi sáng nhờ nhân sinh quan cao quí về vận mệnh của con người, nên họ không thể thỏa hiệp với nhưng gì hạ giá quan niệm ấy.”

Sau cùng, ĐTC viết: ”Tại Italia, nhiều cảnh tượng hang đá diễn tả ở hậu trường cảnh điêu tàn của những dinh thực thời La Mã. Điều này cho thấy sự giáng sinh của Hài Nhi Giêsu đánh dấu sự cáo chung của trật tự cũ, của thế giới ngoại giáo, trong đó không ai dám chống lại những đòi hỏi của Cesar. Nay có một vị vua mới, Ngài không dựa vào sức mạnh của võ khí, nhưng dựa trên sức mạnh của tình thương. Ngài mang hy vọng cho tất cả những người, như Ngài, sống bên lề xã hội. Ngài mang hy vọng cho tất cả những người bị tổn thương vì những thay đổi của cải trong một thế giới bấp bênh. Từ máng cỏ, Chúa Kitô kêu gọi chúng ta sống như những công dân của nước trời, một nước mà mỗi người thiện chí có thể giúp xây dựng trên trái đất này” (SD 20-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

Công bố 24 sắc lệnh án phong chân phước và hiển thánh

VATICAN. Sáng 20 tháng 12-2012, ĐTC đã cho phép Bộ Phong thánh công bố 24 sắc lệnh liên quan đến các án phong chân phước và hiển thánh, trong đó có sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô 6. Đứng đầu danh sách là sắc lệnh nhìn nhận phép lạ của chân phước Antonio Primaldo và hơn 800 vị tử đạo tại thành phố Otranto, nam Italia. Các vị bị người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo giết hại vào ngày 13-8 năm 1480. Hai sắc lệnh khác nhìn nhận phép lạ của hai nữ chân phước Laura di Santa Caterina, người Colombia, sáng lập dòng các nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Nữ Catarina, qua đời năm 1949 tại Belencito-Medellín, thọ 75 tuổi. Tiếp đến là nữ chân phước Maria Guadalupe đồng sáng lập dòng các nữ tu thánh nữ Margarita Maria và người nghèo. Qua đời năm 1963 thọ 85 tuổi. Có 5 sắc lệnh nhìn nhận phép lạ và 3 sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của các vị tôi tớ Chúa thuộc nhiều nước như Italia, Argentina, Tây Ban Nha, Ba Lan, Ucraine, Croát, trong đó có nhiều vị bị giết vì đức tin trong thời nội chiến ở Tây Ban Nha. Sau cùng 10 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của các vị tôi tớ Chúa, đứng đầu là Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, qua đời năm 1978 thọ 81 tuổi. Nhóm hơn 800 chân phước tử đạo ở Otranto có lẽ là nhóm đông đảo nhất được nhìn nhận phép lạ và sẽ được tôn phong hiển thánh. Cuộc tử đạo của các vị diễn ra cách đây 532 năm, sau khi quân Thổ Nhĩ kỳ của Pascià Acmet vây thành Otranto nam Italia từ ngày 28 tháng 7 đến 11 tháng 8 năm 1480. Họ chiếm được thành và tụ tập 813 người còn sống sót, và đưa lên ngòn đồi Minerva gần đó, buộc phải chối bỏ Chúa Kitô, nếu không sẽ bị giết chết. Vị tử đạo đầu tiên là Antonio Primaldo, lần lượt tất cả đều bị chém chết. Ngày 14 tháng 12 năm 1771, ĐGH Clemente 14 công bố sắc lệnh nhìn nhận các vị tử đạo là chân phước. (SD 20-12-2012) G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Noi gương Mẹ Maria khiêm nhường vâng phục tiếp đón Chúa Giêsu Kitô

Noi gương Mẹ Maria khiêm nhường vâng phục tiếp đón Chúa Giêsu Kitô

Lễ Chúa Giáng Sinh mời gọi chúng ta noi gương Mẹ Maria sống khiêm nhường, vâng phục tiếp đón Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người, và luôn tin tưởng trong mọi hoàn cảnh vui buồn và đêm đen của cuộc sống. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 7,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 19 tháng 12-2012 tại đại thính đường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã suy tư về đức tin của Mẹ Maria trong mầu nhiệm Tryền Tin. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trên lộ trình Mùa vọng Trinh Nữ Maria chiếm một chỗ đặc biệt như là Đấng trong một cách thế duy nhất đã chờ đợi việc hiện thực các lời hứa của Thiên Chúa, bằng cách tiếp đón trong đức tin và thịt xác Đức Giêsu Con Thiên Chúa, trong sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa.

”Khaire kekharitomene, ho Kyrios meta sou” ”Hãy vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Chúa ở cùng tôn nương” (Lc 1,28). Đó là các lời tổng lãnh thiên thần Gabriel chào Mẹ Maria. Thoạt tiên từ ”khaire” hãy vui lên xem ra là một lời chào thông thường trong môi trường Hy lạp, nhưng nếu được đọc trong bối cảnh của truyền thống kinh thánh, nó có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Từ này hiện diện bốn lần trong Thánh Kinh Cựu Ước tiếng Hy lạp, và luôn luôn loan báo tin vui Đấng Cứu Thế đến (x. Sp 3,14; Ge 2,21; Dcr 9,9; Ac 4,21). Như thế lời sứ thần chào Đức Maria là một lời mời gọi vui lên, một nièm vui sâu xa, loan báo chấm dứt buồn thương hiện diện trong thế giới trước cái hạn hẹp của cuộc sống, trước khổ đau, cái chết, sự gian ác, bóng tối của sự dữ xem ra làm lu mờ ánh sáng lòng lành của Thiên Chúa. Đó là một lời chào ghi dấu sự khởi đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.

Nhưng tại sao Đức Maria lại được kêu mời vui lên như thế? Câu trả lời ở trong phần hai của lời chào: ”Chúa ở cùng tôn nương”. Cả ở đây nữa để hiểu rõ ý nghĩa của kiểu nói chúng ta phải quay về Thánh Kinh Cựu Ước. Chúng ta tìm thấy kiểu nói này trong sách ngôn sứ Sôphônia: ”Hãy vui lên hỡi con gái Sion… Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi… Thiên Chúa của ngươi ở giữa ngươi là một đấng cứu độ quyền năng” (Sp 3,14-17). Trong các lời này có một lời hứa kép cho dân, cho con gái Sion: Thiên Chúa sẽ đến như đấng cứu tinh của Israel và sẽ ngự giữa dân Người, trong cung lòng con gái Sion.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trong cuộc đối thoại giữa thiên thần và Đức Maria lời hứa đó được hiện thực: Đức Maria được đồng hóa với dân tộc được Thiên Chúa cưới, Người đích thực là con gái Sion; nơi Người thành toàn sự đợi trông Thiên Chúa đến vĩnh viễn, nơi Người Thiên Chúa sống động đến ở.

Trong lời chào của sứ thần, Đức Maria được gọi là ”Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy lạp từ ”ân sủng” Kharis có cùng gốc với từ ”niềm vui”. Cả trong kiểu nói này nữa nguồn gốc niềm vui của Đức Maria cũng được minh giải: niềm vui đến từ ân sủng, nghĩa là đến từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, đến từ sự gắn liền sống động với Người, đến từ chỗ là nơi ở của Chúa Thánh Thần, hoàn toàn được nhào nặn bởi hoạt động của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Đức Maria là thụ tạo trong một cách thế duy nhất đã mở toang các cánh cửa cho Đấng Tạo Hóa, tự đặt mình trong tay Người, không giới hạn. Mẹ hoàn toàn sống nhờ và trong tương quan với Chúa; trong thái độ lắng nghe, chú ý tiếp nhận các dấu chỉ của Thiên Chúa trên lộ trình của dân Người; Mẹ được tháp nhập vào trong một lịch sử đức tin và hy vọng nơi các lời hứa của Thiên Chúa, làm thành mô cuộc sống của Mẹ. Và Mẹ tự do quy phục lời đã nhận được, quy phục ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin.

Và Thánh sử Luca trình thuật câu chuyện của Đức Maria qua sự song song với câu chuyện của tổ phụ Abraham. Cũng như tổ phụ Abraham là cha của các kẻ tin, người đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi ra khỏi miền đất ông đã sống, ra khỏi các an ninh của mình để bắt đầu lộ trình hướng tới một vùng đất không được biết và chỉ được chiếm hữu trong lời Thiên Chúa hứa, Đức Maria hoàn toàn tín thác nơi lời sứ thần của Thiên Chúa nói và trở thành mẫu gương và Mẹ của mọi kẻ tin.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nhấn mạnh một khía cạnh quan trọng khác trong thái độ sống của Mẹ Maria: đó là sự rộng mở tâm hồn cho Thiên Chúa và cho hoạt động của Người trong đức tin bao gồm cả yếu tố của sự tăm tối nữa. Tương quan của con người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, không loại trừ điều tông đồ Phaolô khẳng định trước sự khôn ngoan sâu thẳm của Thiên Chúa: ”Các phán quyết của Người ai dò cho thấu, các đường lối của Người ai theo dõi được” (Rm 11.33). Nhưng chính người, mà như Đức Maria, hoàn toàn rộng mở cho Thiên Chúa, đạt tới việc chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa, cả khi nó nhiệm mầu và thường không trùng hợp với ý muốn riêng, và là một lưỡi gươm đâu thâu linh hồn, như cụ già Simeon sẽ nói tiên tri cho Đức Maria, khi Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (x. Lc 2,35). Con đường đức tin của tổ phụ Abraham bao gồm lúc vui sướng vì ơn có con là Igiaác, nhưng cũng bao gồm lúc đen tối, khi ông phải lên núi Moria để hoàn thành một cử chỉ mâu thuẫn: Thiên Chúa đòi ông hiến tế đứa con mà Người vừa mới ban cho ông. Trên núi thiên thần truyền lệnh cho ông: ”Đừng giơ tay chống lại con trẻ, và đừng làm gì nó cả! Giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Thiên Chúa và đã không từ chối đứa con duy nhất của ngươi đối với Ta” (St 22,12). Sự tín thác hoàn toàn của Abraham nơi Thiên Chúa, tín trung với các lời hứa, đã không suy giảm, cả khi lời Người bí nhiệm và khó chấp nhận. Đối với Đức Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống niềm vui của việc Truyền Tin, nhưng cũng đi ngang qua việc đóng đinh của Con Mẹ, để sau cùng đạt tới ánh sáng của sự Phục Sinh. Áp dụng vào cuộc sống của kitô hữu Đức Thánh Cha nói:

Cả đối với con đường đức tin của từng người trong chúng ta cũng không khác: nó gặp các lúc có ánh sáng, nhưng cũng gặp các chặng trong đó Thiên Chúa xem ra vắng bóng, sự thinh lặng của Người đè nặng trên con tim chúng ta và ý muốn của Người không hợp với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng rộng mở cho Thiên Chúa, đón nhận ơn đức tin, hoàn toàn đặt tin tưởng nơi Người như tổ phụ Abraham và như Đức Maria bao nhiêu, thì với sự hiện diện của Người Thiên Chúa lại càng khiến cho chúng ta có khả năng sống mọi hoàn cảnh cuộc đời trong an bình và chắc chắn về sự trung thành và tình yêu của Người bấy nhiêu. Tuy nhiên điều này có nghĩa là phải ra khỏi chính mình và các dự án riêng của mình, bởi vì Lời Chúa là ngọn đèn hướng dẫn các tư tưởng và hành động của chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã tìm hiểu thêm một khía cạnh khác trong các trình thuật thời thơ ấu của Đức Giêsu, khi thánh Giuse và Mẹ Maria dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ theo luật Môshê: ”Mọi con đầu lòng phải dâng cho Chúa” (X Lc 2,22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia Nagiaret còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, nếu chúng ta đọc trình thuật dưới ánh sáng khoa học tin mừng của Chúa Giêsu 12 tuổi, được tìm thấy trong Đền Thờ đang thảo luận giữa các bậc thầy, sau ba ngày tìm kiếm. Đáp lại các lời âu lo của Đức Mẹ và thánh Giuse: ”Con ơi tại sao Con đã làm cho cha mẹ điều này? Này cha và mẹ đã lo lắng tìm Con”, là câu trả lời bí ẩn của Chúa Giêsu ”Tại sao cha mẹ lại tìm Con? Cha mẹ lại không biết là Con phải lo các việc của Cha Con sao?” (Lc 2,48-49). Đức Maria phải canh tân đức tin sâu xa, với nó Mẹ đã nói ”có” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận quyền ưu tiên của Người Cha thật của Đức Giêsu; phải biết để cho Người Con mà Mẹ đã sinh ra ấy được tự do đi theo sứ mệnh của Người. Và tiếng ”có” của Mẹ Maria đối với ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin, lập lại dọc dài trong suốt cuộc sống của Mẹ, cho tới lúc khó khăn nhất là lúc của Thập Giá.

Mẹ Maria đã có thể sống con đường này bên cạnh Con Mẹ với đức tin vững vàng, cả trong đêm đen cũng không mất niềm trông cậy. Trong ngày Truyền Tin Mẹ bối rối khi nghe các lời của sứ thần. Đó là sự kính sợ mà con người cảm thấy trước sự gần gũi của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ của người sợ hãi điều Thiên Chúa có thể xin. Mẹ Maria suy nghĩ về ý nghĩa lời chào của sứ thần. Trong tiếng Hy lạp được Phúc âm dùng để định nghĩa sự suy nghĩ ”dielogizeto” nhắc tới gốc của từ ”đối thoại”. Điều này có nghĩa là Mẹ Maria bước vào trong sự đối thoại thân tình với Lời Chúa đã được loan báo cho Mẹ, không coi nó một cách hời hợt mà dừng lại để cho nó thấm vào trong tâm trí, hầu hiểu điều Chúa muốn nơi Mẹ, hiểu ý nghĩa của lời loan báo.

Mẹ Maria còn có một thái độ nội tâm khác trước hành động của Thiên Chúa: đó là ”gìn giữ mọi sự trong lòng và suy gẫm” như kể trong trình thuật Chúa Giêsu sinh ra. (Lc 2,19). Có thể nói Mẹ ”giữ chung”, ”để chung” trong tim tất cả mọi biến cố đang xảy ra cho Mẹ, đặt để từng yếu tố, từng lời nói, từng sự kiện vào trong cái toàn thể và đối chiếu, duy trì, bằng cách thừa nhận rằng tất cả đến từ thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ biết nhìn vào chiều sâu để cho các biến cố gọi hỏi, soạn thảo chúng, phân định chúng, và chiếm hữu được sự hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới bảo đảm được thôi. Đó là sự khiêm tốn thẳm sâu của đức tin vâng lời của Mẹ Maria, tiếp nhận cả những diều Mẹ không hiểu trong hành động của Thiên Chúa, bằng cách để cho Chúa rộng mở tâm trí của Mẹ.

Lễ trọng Giáng Sinh mà chúng ta sắp cử hành mời gọi chúng ta sống sự khiêm tốn và vâng phục này của đức tin. Vinh quang của Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và quyền bính của một vì vua, không rạng ngời trong một thành phố danh tiếng hay trong một dinh thự sang trọng, nhưng đến ở trong cung lòng của một trinh nữ và tự mạc khải trong sự nghèo nàn của một trẻ thơ. Cả trong cuộc sống của chúng ta nữa, sự toàn năng của Thiên Chúa thường hành động trong thinh lặng với sức mạnh của chân lý và tình yêu. Đức tin nói với chúng ta rằng sau cùng quyền năng không tự vệ của Trẻ Thơ đó sẽ chiến thắng tiếng ồn ào của các quyền lực trần gian.

Chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức Thánh Cha đã chúc tất cả một lễ Giáng Sinh tươi vui an bình. Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Chính quyền Ai Cập muốn hồi giáo hóa đất nước

Chính quyền Ai Cập muốn hồi giáo hóa đất nước

Phỏng vấn Cha Samir Khalil Samir, dòng Tên

Từ hơn 3 tuần qua Ai Cập lại rơi vào tình hình căng thẳng với các cuộc xuống đường biểu tình rầm rộ của hằng trăm ngàn người tại quảng trường Tahrir và nhiều nơi khác trong thủ đô Cairo, cũng như trong nhiều thành phố lớn toàn nước. Các cuộc biểu tình đã do các nhóm đối lập tổ chức.

Nhưng lần này tình hình căng thẳng hơn vì các đoàn biều tình gồm hai nhóm chống và phò tổng thống Mohamed Morsi. Lý do là vì ngày 22 tháng 11-2012 tổng thống tân cử Mohamed Morsi đã ban hành sắc lệnh, tự cho mình các quyền hành hầu như vô giới hạn, và quyết định trưng cầu dân ý tân Hiến Pháp lấy Luật Sharia làm nền tảng. Ông El Baradei lãnh tụ đảng đối lập định nghĩa các quyết định của tống thống Morsi là một cuộc đảo chánh chống lai nền dân chủ và phản bội các ước vọng của nhân dân Ai Cập.

Các đoàn người biểu tình đã yêu cầu tổng thống thu hồi sắc lệnh và sửa đổi văn bản Hiến Pháp, trước khi cho trưng cầu dân ý, dự trù vào ngày 15 tháng 12. Các đoàn biểu tình phát xuất từ 4 vùng thủ đô và họ đã tràn tới trước dinh tổng thống. Bầu khí đã căng thẩng đến độ tổng thống Morsi đã phải rời khỏi dinh qua một ngõ bí mật. Các vụ đụng độ giữa hai phe chống và phò đã khiến cho hàng chục người chết và hằng trăm người bị thương. Sau cùng tổng thống Morsi đã phải nhượng bộ thu hồi sắc lệnh, nhưng vẫn duy trì cuộc trưng cầu dân ý với văn bản tân Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Samir Khalil Samir, dòng Tên, và giáo sư Claudio Lo Jacono, giám đốc nguyệt san Đông Phương tân tiến, về mưu toan của chính quyền Ai Cập muốn áp đặt luật Sharia trên toàn nước.

Hỏi: Thưa cha Samir, mục đích chính quyền của tổng thống Morsi nhắm tới là biến luật Sharia của Hồi giáo trở thành nền tảng các luật lệ của Ai Cập. Cha nghĩ sao về vấn đề này? Đáp: Đây đã luôn luôn là dự án của đảng ”Các anh em hồi giáo”, của nhóm Salafít và tất cả khuynh hướng hồi. Nó khá mạnh tại Ai Cập; đàng khác nó được trợ giúp tài chánh, và trong một số trường hợp cả trợ giúp quân sự, bởi các nước A rập giầu, đặc biệt là A Rập Sauđi và Qatar. Dự án này là điều không thể chấp nhận được, không chỉ từ phía các người không hồi giáo, nghĩa là các Kitô hữu và một vài nhóm thiểu số khác, mà cũng còn từ phía một số đông các tín hữu hồi muốn phân biệt niềm tin nói với con người rằng một điều là sự dữ thì không được phép làm, với xã hội chính trị nói rằng một điều sẽ bị trừng phạt.

Hỏi: Luật Sharia đã nảy sinh trong bối cảnh nào thưa cha? Đáp: Luật Hồi giáo Sharia đã được thiết lập trong nhiều hình thái khác nhau, ít nhất là trong bốn trường phải Sunnít và một trường phái Sciít trong các thế kỷ thứ IX-X, dựa trên vài câu trong Kinh Coran, nhưng không luôn luôn đúng như vậy. Tôi xin đơn cử một thí dụ rõ ràng và nghiêm trọng nhất. Luật Sharia nói: người bỏ đạo phải bị giết: ai đã là tín hữu hồi mà bỏ Hồi giáo để theo một tôn giáo khác hay để trở thành người vô thần và tuyên bố mình là như vậy, thì phải bị giết. Và tôi thách bất cứ ai tìm ra được trong Kinh Coran một câu nói như vậy. Câu này không hề có trong Kinh Coran. Và vì thế, một cách rất chính đáng, cả các tín hữu hồi nữa cũng rất thường khước từ luật Sharia, bởi vì nó không tương ứng với nền văn hóa hiện nay của người Hồi, mà tương ứng với nền văn minh thời Trung Cổ, trong đó luật Sharia đã được soạn thảo mà không tương ứng với mạc khải của Hồi giáo.

Hỏi: Trong hiện tình của đất nước Ai Cập ngày nay, cha đọc hiểu quyết định thừa nhận các nguyên tắc của luật Sharia như thế nào? Đáp: Điều đã được làm hiện nay là một mưu mẹo. Họ đang lạm dụng sự kiện Quốc hội tạm thời có đa số dân biểu là người hồi để bỏ phiếu. Và chính vì thế mà sự kiện tổng thống Morsi tự cho mình có mọi quyền hành là điều không thể chấp nhận được. Bây giờ kể cả thẩm phán đoàn cũng không thể kết án ông ta. Và tất cả tình hình này đều không thể chấp nhận đựơc, vì tự nó là bất hợp pháp.

Hỏi: Khoản này của Hiến Pháp quy chiếu các nguyên tắc của luật Sharia. Từ quan niệm pháp lý xem ra nó là bước đầu tiên. Thế thì người ta muốn đi tới đâu thưa cha? Đáp: Người ta muốn đi tới chỗ áp dụng tất cả các chi tiết của luật hồi giáo, chứ không phải chỉ áp dụng các nguyên tắc của nó mà thôi. Các nguyên tắc là các hướng dẫn tổng quát. Họ muốn nói một cách cụ thể rằng: chặt tay ai làm điều này, xử tử ai làm điều kia vv… Thi hành tất cả mọi chi tiết của luật Sharia là bước thứ hai. Nhưng một khi đã bỏ phiếu bước thứ nhất, thì bước thứ hai có nguy cơ sẽ tới. Nhưng vấn đề là ở đâu? Đó là sự kiện luật Hồi giáo trái nghịch với tư tưởng hiện nay của người Hồi trong một nước như Ai Cập. Như đã thấy cách đây ít ngày, dân chúng đã biểu tình rất mạnh mẽ với hàng ngàn người trẻ nói rằng chính quyến đã phản bội cuộc cách mạng tháng giêng năm 2011.

Hỏi: Người ta thấy rất nhiều tín hữu kitô và hồi giáo hiệp nhất với nhau trong việc bảo vệ các quyền con người, có đúng vậy không thưa cha?

Đáp: Đúng thế. Các kitô hữu tranh đấu cho điều đó, không phải chỉ vì họ là kitô hữu và đối với họ điều này bất công, mà bởi vì đó là một bất công chống lại nhân loại, một cách đặc biệt chống lại nữ giới, chống lại tất cả các nhóm thiểu số, chống lại những ngưới vô thần, những người đồng tính sẽ phải vào tù.

Đây là một quyết định của những người hồi cuồng tín muốn áp đặt trên các tín hữu hồi, trên các tín hữu kitô và những người khác một quan niệm tôn giáo không phải là quan niệm của tất cả mọi người hồi. Họ muốn áp đặt một thứ đạo Hồi thời Trung Cổ. Và đây là một nguy hiểm rất lớn đối với xã hội Ai Cập và nó có thể trở thành một nguy hiểm rất lớn đối với các xã hội hồi khác.

*** Sau đây là một số nhận định của giáo sư Claudio Lo Jacono, giám đốc nguyệt san ”Đông phương tân tiến” Hỏi: Thưa giáo sư, giáo sư nghĩ gì về Hiến Pháp mà tổng thống Morsi muốn cho trưng cầu dân ý trong hai ngày khác nhau?

Đáp: Có sự gia tăng việc quy chiếu luật Sharia, bao gồm các điều luật của Kinh Coran và các điều luật của truyền thống quy chiếu trước nhất về Mahomed cũng như vài người sau ông. Việc quy chiếu này đã có trong Hiến pháp Ai Cập ngay từ thời tổng thống Mubarak, nghĩa là của một Ai Cập đời hơn là Ai Cập mà chúng ta thấy hiện nay với chiến thắng của các Anh em hồi giáo và của tổng thống Morsi. Việc gia tăng chắc chắn là sẽ có, nhưng cần phải xem luật Sharia sẽ được áp dụng trong các lãnh vực nào, bởi vì chúng ta có thể tưởng tượng những điều kinh khủng như ném đá người phạm tội ngoại tình hay bỏ đạo, nhưng cũng có thể nghĩ tới một loạt các điều lệ hữu lý hơn trong luật Sharia, tương ứng một chút với các tâm tình của công lý đại đồng. Luật Sharia và kinh Coran cũng nói tới các điều rất cao thượng.

Hỏi: Có sự xa cách lớn giữa đường lối chính trị tiến hành với sắc lệnh của tổng thống Morsi và văn bản của Hiến pháp và cảm thức của người dân, có đúng thế không thưa ông? Đáp: Chắc chắn rồi, nếu điều này vô hiệu hóa một loạt các chinh phục mà Ai Cập đã thực hiện được trong qúa khứ, ngay từ thời tổng thống Sadat. Thí dụ như đối với điều kiện của nữ giới đã có một luật lệ rất là tiến bộ đối với hầu như toàn phần còn lại của thế giới hồi giáo. Như vậy nếu người ta lại đặt vấn đề đối với một vài giá trị mà chúng ta định nghĩa là văn minh, thì nó sẽ chỉ khơi dậy một phản ứng mạnh mẽ từ mọi phía tại Ai Cập, tuy là hồi giáo nhưng không còn thừa nhận các giá trị qúa khích của thứ Hồi giáo chính trị, như thứ Hồi giáo của đảng các Anh em Hồi giáo nữa.

Hỏi: Thưa giáo sư, ở đây chúng ta nói tới nữ giới, nhưng mà nó cũng liên quan tới các nhóm thiếu số nữa chứ… Đáp: Vâng, tất cả những điều này cũng liên quan tới các nhóm thiếu số. Chẳng hạn như các tín hữu chính thống Copte. Thiểu số chỉ là một kiểu nói, bởi vì đã không bao giờ có kiểm kê, vì người ta sợ vén mở cho thấy đâu là các sức mạnh của Giáo Hội Copte Ai Cập. Người ta nói rằng Giáo Hội này có hơn 10 triệu tín hữu. Nó đã không bao giờ là một thiểu số trong việc tranh luận cũng như trong vai trò chính trị tại Ai Cập. Cần nhớ rằng từ thời Mehmet ‘Ali là một người hồi, đã luôn luôn có các nhân vật kitô trong guồng máy chính quyền: phó tổng thống rồi các thủ tướng. Chính cuộc cách mạng năm 1919 là một trong những cuộc cách mạng cao qúy nhất của lịch sử Ai Cập, đã trông thấy các tín hữu hồi và các tín hữu kitô cùng cộng tác với nhau. Trong một nghĩa nào đó người ta cũng thấy như thế trong ”Mùa xuân” Ai Cập: nghĩa là có các dấu hiệu của công việc chung phải làm với nhau.

Hỏi: Dầu sao đi nữa thì việc bỏ phiếu Hiến pháp cũng là điều quan trọng, vì có một sự trống rỗng trong lúc này tại Ai Cập liên quan tới Hiến pháp. Có phải thế không thưa giáo sư? Đáp: Vâng. Một Quốc hội đã bị giải tán, một Quốc hội khác còn tiến tới một chút và sẽ phải lấp đầy khoảng trống này trong một cách thế nào đó. Trong lúc này đây thì Quốc hội lập hiến đang nắm giữ một vai trò mà tất cả những người đã biểu tình chống ông Mubarack đã dấn thân cho nó. Đây là một Hiến pháp mới, trong một quốc gia đang trải qua một thời kỳ chuyển tiếp dài. Và sự chuyển tiếp này sẽ không kết thúc với việc tái tổ chức các cơ cấu hiến pháp với một Hiến pháp mới có hình thức ”hơi hồi giáo hơn một chút”.

Cần phải xem cái ”hơi hồi giáo hơn một chút” đó có đụng chạm tới các giá trị không thể tách rời được khỏi nền văn minh đại đồng, chứ không phải chỉ là một phần của thế giới. Chẳng hạn như các giá trị liên quan tới sự bình đẳng giữa các phái tính trên bình diện pháp lý chính trị. Ai Cập hiện đang ở trong một giai đoạn không ổn định, một giai đoạn biến đổi. Nó có thể đi tới chỗ tốt đẹp hơn, nhưng cũng có thể đi tới chỗ đồi tệ hơn. Nhưng chỉ có thời gian mới có thể cho biết được nó sẽ như thế nào mà thôi.

Linh Tiến Khải – Vietvatican  

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á

Chủ tịch FABC mời gọi người Công giáo Việt Nam sống đức tin làm gương cho Giáo hội Á châu

December 17, 2012

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á thumbnail

Đức Hồng y Oswald Gracias dâng Thánh lễ tại nhà thờ Đaminh Ba Chuông

Hôm 15 tháng 12, sau khi kết thúc đại hội khoáng đại Liên hội đồng Giám mục Á châu (FABC) lần thứ X tại Tòa giám mục Xuân Lộc, các tham dự viên đã chia thành 15 nhóm đến thăm Tổng giáo phận TP.HCM.

78 hồng y, tổng giám mục và giám mục cùng hàng trăm linh mục đã hiệp dâng Thánh lễ tại Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn và 14 giáo xứ thuộc 14 giáo hạt của Tổng giáo phận TP.HCM.

Tại giáo xứ Đaminh Ba Chuông, Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Đức Hồng y Oswald Gracias, Đức cha Paul Tan và Philip Banchong đã đồng tế Thánh lễ có sự tham dự của hơn 1.000 người gồm các linh mục trong giáo hạt và dòng Đa Minh, đại diện tu sĩ và bề trên các dòng.

“Tôi muốn nói với anh chị em rằng có rất nhiều điều chúng tôi cần phải học hỏi nơi cộng đoàn giáo dân Việt Nam và chúng tôi rất hãnh diện về điều đó. Tôi mong rằng tinh thần hăng say, đạo đức của anh chị em sẽ trở nên tiên phong cho các giáo hội tại Á châu” – Đức Hồng y Oswald Gracias – chủ tịch FABC – nói với cộng đoàn bằng tiếng Anh và được một linh mục dịch sang tiếng Việt.

Vị Tổng Giám mục của giáo phận Mumbai, Ấn Độ còn nhấn mạnh rằng “Tôi rất ấn tượng về tinh thần đạo đức của giáo dân Việt Nam. Những gì tôi đã thấy chứng tỏ Giáo hội Việt Nam là một Giáo hội rất sống động”.

“Vấn đề là chúng ta giữ làm sao cho đức tin đó luôn sống động và phát triển để thông truyền đức tin đó cho người khác? Làm sao để Lời Chúa đi vào đời sống chúng ta và trở thành trung tâm đời sống của mỗi người để rồi chúng ta chia sẻ nó cho người khác, cho thế giới” – vị hồng y lưu ý.

Và ngài mời gọi tất cả linh mục, tu sĩ “hãy cộng tác với nhau để đem Tin Mừng đến cho người khác và để làm được điều đó thì các cha và nữ tu trước tiên phải loan báo Tin Mừng cho bản thân bằng việc học hỏi Lời Chúa. Vì chỉ khi nào Đức Kitô ngự trị trong bản thân mình thì mình mới có thể chia sẻ Ngài cho người khác được”.

“Chúng ta phải học hỏi Lời Chúa và truyền bá cho mọi người giá trị mà Tin Mừng mang đến trong đời sống”.

Ngài nói rằng Lời Chúa phải được thực thi trong đời sống hằng ngày qua việc sống bác ái yêu thương và công bằng đối với mọi người.

“Chúa đã ban rất nhiều đặc ân cho các linh mục tu sĩ, vậy xin các vị hãy cố gắng tận dụng các đặc ân đó, phát triển các đặc ân đó nhiều hơn nữa” – ngài nhắn nhủ.

“Tôi sẽ tiếp tục cầu nguyện cho giáo dân Việt Nam và xin mọi người hãy cầu nguyện cho chúng tôi – các vị giám mục Á châu”.

Tiếng vỗ tay vang rền khi Đức Hồng y Oswald Gracias ngỏ lời chúc mừng Lễ Giáng sinh đến cộng đoàn và cảm ơn những bài thánh ca được hát bằng tiếng Latinh trong Thánh lễ đã khiến ngài rất xúc động.

Đáp lại mời gọi trên, cha Giuse Trần Hòa Hưng – Chủ tịch Liên hiệp các bề trên thượng cấp Việt Nam – nói rằng “Chúng con tin tưởng cuộc gặp gỡ trong Thánh lễ này sẽ củng cố thêm sức mạnh đức tin, thắt chặt mối dây hiệp thông huynh đệ đồng thời mở ra niềm hy vọng mới cho tất cả tín hữu trong toàn giáo phận”.

Vị linh mục đồng thời là giám tỉnh dòng Don Bosco còn cam kết rằng “trong Năm Đức Tin này, toàn thể gia đình giáo phận, các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân cố gắng xây dựng cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và nhiệt thành loan báo Tin Mừng”.

Tổng giáo phận TP.HCM hiện có hơn 200 giáo xứ với 700,000 giáo dân do hai giám mục, 700 linh mục và 5.764 tu sĩ coi sóc.

Sáng ngày 16 tháng 12, các đại biểu FABC đã dâng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Sau Thánh lễ, Đức Hồng y Oswald Gracias công bố sứ điệp của Đại hội với chín điểm trọng tâm: gặp gỡ Đức Kitô, nhiệt thành loan báo Tin Mừng, tập chú vào Nước Trời, dấn thân xây dựng sự hiệp thông, đối thoại, khiêm tốn, nhất tâm bảo vệ phẩm giá con người, liên đới với các nạn nhân trong xã hội, và can đảm thể hiện đức tin bằng sự hy sinh.

Đại hội FABC bốn năm một lần được tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam có chủ đề “40 năm FABC: Đáp ứng những thách đố tại Á châu” từ ngày 10-16/12.

UCANEWS VIETNAM

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

                                                                     Francis Rodrigues từ Mangalore India 
Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng thumbnail
Đại diện Bờ Biển Ngà tham dự tang lễ của Đức cha Dr Ambrose Madtha

Đức Tổng giám mục đại diện Đức Thánh cha Ambrose Madtha được mai táng tại quê nhà Beltanghady, miền nam Ấn Độ, vào thứ Bảy qua đời do bị tai nạn xe. Vụ tai nạn xảy ra vào ngày 8-12 tại Bờ Biển Ngà, nơi ngài được bổ nhiệm làm đại diện Tòa Thánh gần đây nhất.

Đức cha Madtha qua đời ở tuổi 57, làm sứ thần Tòa Thánh tại 6 quốc gia trong đó có Đài Loan, Albania và Bờ Biển Ngà.

Khoảng 3.500 người tham dự tang lễ của ngài tại nhà thờ giáo xứ Chúa Cứu Thế ở Beltanghady, bang Karnataka, trong đó có một phái đoàn đến từ Bờ Biển Ngà.

Đức cha Madtha được xem là người kiến tạo hòa bình đáng tin cậy tại nhiều nơi ngài được bổ nhiệm.

Lãnh đạo Hồi giáo, Dosso có mặt trong phái đoàn Bờ Biển Ngà, nói Đức cha Madtha đã xây dựng cầu nối giữa các tín ngưỡng, hồi tưởng lại việc ngài in và phát 120 bản sao kinh Qu’ran sau khi một Kitô hữu đốt sách thánh của Hồi giáo, khơi lên phản đối kịch liệt.

“Đó là cử chỉ vĩ đại … nhằm duy trì hòa bình và thân ái. Và là lý do tôi đến tham dự tang lễ”, Dosso nói.

Vào cuối năm 2010, ngài đóng vai trò người trung gian trong hậu trường khi cựu tổng thống Bờ Biển Ngà Laurent Gbagbo cố tình nắm giữ quyền lực sau khi tranh cử thất bại.

Tại Đài Loan – nơi ngài được bổ nhiệm đầu tiên – Đức cha Madtha lúc đó đã thu xếp cho tổng thống Trần Thủy Biển tham dự tang lễ của Đức Gioan Phaolô II. Chưa từng có lãnh đạo nào của quốc đảo bị cô lập ngoại giao này viếng thăm Vatican trước đó.

UCANEWS VIETNAM

Toàn Văn Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

Toàn Văn Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

 

Anh chị em thân mến,

Nhân dịp lần thứ 50 ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi, được tổ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 2013, Ngày Chúa Nhật Thứ 4 Phục Sinh, tôi muốn mời gọi các bạn phản tỉnh về chủ đề: Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng đặt nền tảng trên đức tin, được diễn ra trong năm Đức Tin cùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc công Đồng Vaticano II. Trong khi Công Đồng đang họp, Tôi tớ Chúa, Đức Phaolô VI, đã thiết lập ngày toàn thể Giáo hội cầu nguyện cho ơn gọi. Vào ngày này, mọi người được mời gọi để cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha, xin Ngài tiếp tục sai các thợ gặt đến với Giáo Hội (Mt 9,38). Tại thời điểm đó, Ngài nói rằng: “Vấn đề có đủ số lượng các linh mục có một ảnh hưởng trực tiếp đến mọi tín hữu, không chỉ vì linh mục là nền tảng của xã hội Kitô giáo trong tương lai, nhưng hơn thế, việc có đủ số linh mục là một dấu chỉ rõ ràng của sức sống đức tin và là dấu chỉ tình yêu thương của mỗi giáo xứ cũng như các cộng đoàn giáo phận, đồng thời nó cũng là dấu chỉ rõ ràng về một đời sống luân lý lành mạnh nơi các gia đình Kitô hữu. Nơi đâu ta càng thấy có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, nơi đó người ta đang sống Tin Mừng với sự quảng đại lớn lao (Đức Phaolô VI, Sứ Điệp Radio, 11 tháng 4 năm 1964).

Trong suốt nhiều thế kỷ qua, các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau từ khắp nơi trên thế giới quây quần bên nhau vào ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh và cùng nhau cầu nguyện để xin Thiên Chúa những món quà ơn gọi linh thánh, đồng thời gợi ý cho mọi người tiếp tục phản tỉnh về nhu cần khẩn thiết trong việc đáp trả lời mời gọi linh thánh. Thực vậy, hàng năm sự kiện quan trọng này đã giúp các Kitô hữu thấy được tầm quan trọng của ơn gọi linh mục và tu sĩ, và nhờ đó giúp họ ý thức về điều này trong đời sống thiêng liêng, cầu nguyện và tông đồ của mình.

Hy vọng là một sự trông mong về một điều gì đó tích cực trong tương lai, nhưng mặt khác nó cũng nuôi dưỡng hiện tại thường bị ghi dấu bởi những bất mãn và thất bại. Vậy, đâu là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta? Nhìn vào lịch sử của dân tộc Do thái, được tường thuật lại trong Cựu Ước, chúng ta thấy một yếu tố luôn xuất hiện, đặc biệt là trong những thời điểm khó nhăn như thời Lưu Đày, một yếu tố được tìm thấy đặc biệt nơi các bài viết của các Ngôn Sứ, đó là việc Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa với các Tổ Phụ: Một sự ghi nhớ mời gọi chúng ta bắt chước mẫu gương sáng chói của Tổ Phụ Abraham, ngài “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: “Dòng dõi người sẽ đông đảo như thế” (Rm 4,18). Một chân lý đầy an ủi và có tính soi sáng luôn hiển lộ trong toàn bộ lịch sử cứu độ, đó chính là sự trung tín của Thiên Chúa đối với Giao Ước. Ngài luôn đi vào Giao Ước và đổi mới nó, bất chấp con người đã phá vỡ nó khi bất trung và phạm tội, từ thời lụt hồng thủy (St 8,21-22) đến lúc xuất hành và ngang qua cuộc hành trình qua sa mạc (x. Dt 9,7).

Sự trung tín đó khiến cho Thiên Chúa tiếp tục ký kết một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu với con người, nhờ vào máu của Người Con, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta. Trong mỗi giây phút, đặc biệt là trong những lúc khó khăn, sự trung tín của Thiên Chúa luôn là nguồn sức mạnh đích thực của lịch sử cứu độ. Sức mạnh này khơi nên trong trái tim của những người nam và người nữ một niềm xác tín vững chắc vào niềm hy vọng rằng một ngày họ sẽ đạt đến “Đất Hứa”. Đây chính là nơi chúng ta tìm thấy nền tảng chắc chắn của mọi hy vọng: Thiên Chúa chưa bao giờ từ bỏ chúng ta và Ngài vẫn luôn trung tín với Lời của mình. Vì lý do đó, trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay khó khăn, chúng ta vẫn có thể nuôi dưỡng một niềm hy vọng chắc chắn và cầu nguyện với Thánh Vịnh: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến (Tv 62, 6).

Như thế, để có hy vọng, chúng ta cần tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng tín trung, Ngài luôn giữ lời hứa đã giao ước. Vì thế, đức tin và hy vọng có mối liên hệ mật thiết với nhau. “Thực ra, “Hy vọng” là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh – đến mức trong nhiều đoạn những từ “đức tin” và “hy vọng” dường như có thể hoán chuyển cho nhau. Vì thế Thư Do Thái liên kết chặt chẽ “sự viên mãn của đức tin” (10:22) với “sự tuyên xưng cách quả quyết niềm hy vọng của chúng ta” (10:23). Cũng thế, trong thư Thứ Nhất, khi Thánh Phêrô khích lệ các Kitô hữu hãy luôn luôn sẵn sàng đưa ra câu trả lời liên quan đến logos – ý nghĩa và lý do –cho niềm hy vọng của họ (x. 3:15), thì từ “hy vọng” là tương đương với từ “đức tin” (Spe Salvi, 2).

Anh chị em thân mến, Chính xác thì sự trung tín của Thiên Chúa là gì mà chúng ta có thể đặt để niềm hy vọng của mình? Thưa, đó chính là tình yêu của Ngài. Ngang qua Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa là Đấng đã đổ tràn tình yêu vào nơi sâu thẳm nhất trong mỗi chúng ta (xem Rm 5,5). Và tình yêu này, được biểu lộ trọn vẹn nơi Đức Kitô, đã thấm sâu vào tâm khảm mỗi chúng ta và đòi hỏi một lời đáp trả ngang qua cách thức mà mỗi cá nhân muốn chọn lựa cách sống cho riêng mình. Tình yêu Thiên Chúa đôi lúc dẫn người ta tới nơi mà mình chưa bao giờ tưởng tượng, nhưng tình yêu này cũng luôn dẫn ta đến với những con người mà ta muốn tìm gặp. Như thế, hy vọng được dưỡng nuôi bởi sự xác tín này: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16).

Tình yêu sâu xa và mang tính đòi hỏi này đã thấm sâu vào chúng ta và trao ban cho chúng ta một niềm can đảm. Tình yêu này cũng trao cho ta niềm hy vọng vào cuộc hành trình của mình, vào lịch sử và tương lai. Cách riêng, cha muốn nhắn nhủ với các bạn trẻ, cha muốn nhắc lại rằng: “Sự sống của các con sẽ là gì nếu thiếu tình yêu này? Thiên Chúa chăm sóc mọi người nam và người nữ từ khi tạo dựng đến khi thời gian tới hồi viên mãn, khi Ngài hoàn tất kế hoạch cứu độ của mình. Nơi Thiên Chúa Phục Sinh, chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn” (Bài Huấn Dụ Dành Cho Các Bạn Trẻ Thuộc Giáo phận Sang Marino – Montefeltro, 19 tháng 6 năm 2011). Như xưa Đức Giêsu đã sống cuộc đời dương thế như thế nào, thì hôm nay Đức Giêsu Phục sinh cũng đồng hành trong cuộc sống của chúng ta như vậy. Ngài dìm mình vào hành động của chúng ta, với tất cả khao khát và nhu cầu của ta. Giữa mọi hoàn cảnh, Đức Giêsu tiếp tục nói với chúng ta; Ngài mời gọi chúng ta sống với Ngài, vì chỉ duy Ngài là Đấng có thể thỏa đáp được mọi khát vọng nơi ta. Giờ đây, Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn các môn đệ chính là Giáo Hội, và Ngài vẫn mời gọi mọi người bước theo mình. Lời mời gọi này có thể đến bất kỳ lúc nào. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục cất lời: “Hãy đến và theo tôi” (Mc 10,21). Chấp nhận lời mời gọi này nghĩa là không còn chọn lựa con đường của riêng mình nữa. Theo Ngài nghĩa là đặt để ý muốn của chúng ta nơi Ý muốn của Đức Giêsu, trao ban cho Ngài chính mình, đặt Ngài vào vị trí trổi vượt trong mọi lĩnh vực của đời sống: gia đình, công việc, sở thích riêng và chính bản thân mình. Theo Đức Giêsu cũng có nghĩa là giao nộp chính chúng ta cho Ngài, sống trong tình thân mật với Ngài, và nhờ Ngài đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, và cũng là với anh chị em chúng ta. Sự hiệp thông đời sống với Đức Giêsu là một “tình trạng” đặc ân, nơi đó chúng ta có thể kinh nghiệm được niềm hy vọng và nơi đó đời sống chúng ta trở nên tròn đầy và tự do.

Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta. Tiến trình này, một tiến trình mà ngang qua đó chúng ta đáp trả một cách tích cực đối với lời mời gọi của Thiên Chúa, chỉ khả thi nơi những cộng đoàn Kitô hữu sống đức tin một cách mạnh mẽ và quảng đại làm chứng cho Tin Mừng, nơi có một cảm thức truyền giáo mạnh mẽ đến nỗi thúc đẩy người ta hiến mình cho Nước Thiên Chúa. Tiến trình này được nuôi dưỡng bởi các bí tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và ngang qua một đời sống cầu nguyện liên lỉ. Đời sống cầu nguyện, “một đàng là cái gì đó rất riêng tư, là một cuộc gặp gỡ giữa thâm sâu của chính tôi với Chúa, Thiên Chúa hằng sống. Đàng khác, lời cầu ấy phải luôn được hướng dẫn và soi sáng bởi những kinh nguyện quý giá của Giáo Hội và của các thánh, và bởi lời cầu phụng vụ, trong đó Chúa dạy đi dạy lại chúng ta làm thế nào cầu nguyện cho xứng hợp” (Spe Salvi, 34).

Đời sống cầu nguyện sâu xa và bền bỉ giúp tăng trưởng đức tin nơi cộng đoàn Kitô hữu. Đồng thời đời sống cầu nguyện cũng giúp đổi mới không ngừng niềm xác tín rằng Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Ngài và luôn nuôi dưỡng họ bằng cách trao ban những ơn gọi đặc biệt – ơn gọi linh mục và tu sĩ – để họ có thể là dấu chỉ hy vọng cho thế giới. Thực vậy, linh mục và tu sĩ được mời gọi để trao ban chính mình một cách vô điều kiện cho Dân Thiên Chúa, trong một sự phục vụ yêu thương cho Tin Mừng và Giáo hội, với niềm xác tín vào niềm hy vọng vốn chỉ có thể đến từ một sự mở ra đối với Thiên Chúa. Do đó, ngang qua những chứng tá về đức tin và lòng nhiệt thành tông đồ, họ có thể thông truyền, đặc biệt với các thế hệ trẻ, một khao khát mạnh mẽ để quảng đại và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô, Đấng mời gọi họ bước theo Ngài một cách gần gũi hơn. Khi một người môn đệ của Đức Giêsu chấp nhận lời mời gọi thần linh để dâng hiến chính mình trong đời sống linh mục hay tu trì, chúng ta chứng kiến một hoa trái chín mùi nhất của cộng đoàn Kitô hữu, giúp chúng ta nhìn vào tương lai của Giáo Hội và sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội trong niềm tin tưởng và hy vọng. Điều này đòi hỏi cần có những người thợ gặt mới để công bố Tin Mừng, để cử hành Thánh Lễ và bí Tích Hòa Giải. Vì thế, không thể thiếu những linh mục nhiệt thành, những người luôn ở bên người trẻ với tư cách là “những người bạn đồng hành”, giúp đỡ họ, trong bước đường đời đầy khó khăn và cam go, nhận ra Đức Ki-tô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (xem Ga 14,6). Các linh mục cũng là người nói cho người trẻ về lòng can đảm của Tin Mừng, về vẻ đẹp của việc phục vụ Thiên Chúa, cộng đoàn Kitô hữu và anh chị em của mình! Các linh mục là hiện thân của hoa trái phát sinh từ một sự dấn thân nhiệt thành vốn trao ban ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của họ, vì đời sống này được đặt nền tảng trên niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước ( x. Ga 4,19).

Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô.

Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên con đường đức ái đầy đòi hỏi và sự can đảm này. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban; các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu; và các con sẽ học để sẵn sàng đưa ra một câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (Pr 3,15).

Nguyễn Minh Triệu sj Chuyển ngữ – Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp Chủ tịch chính quyền Palestine

Đức Thánh Cha tiếp Chủ tịch chính quyền Palestine

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 17 tháng 12-2013 dành cho Chủ tịch Chính quyền Palestine, Ông Mahmoud Abbas, ĐTC tái kêu các vị lãnh đạo liên hệ can đảm thực hiện hòa giải và hòa bình.

Theo thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh, sau khi gặp ĐTC, Ông Mahmoud Abbas đã gặp ĐHY Quốc vụ khanh Bertone và Đức TGM ngoại trưởng Mamberti.

Trong các cuộc nói chuyện thân mật, các vị nhắc đến nghị quyết mới được Đại hội đồng LHQ thông qua, nhìn nhận Palestine như một quốc gia Quan sát viên không thành viên. Tòa Thánh cầu mong rằng sáng kiến này khích lệ nỗ lực của Cộng đồng quốc tế tìm một giải pháp công chính và lâu bền cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, hòa bình này chỉ có thể đạt được nhờ việc mở lại cuộc thương thuyết giữa các phe liên hệ, trong sự ngay tình, và tôn trọng quyền lợi của mọi người.

Các vị cũng nói đến sự đóng góp của các cộng đồng Kitô cho công ích của xã hội tại lãnh thổ của người Palestine và trong toàn vùng Trung Đông.

Đây là lần thứ 6 chủ tịch chính quyền Palestine gặp ĐGH. Tháp tùng ông Mahmoud Abbas, có 8 người. Ông đã tặng ĐTC một bức tranh khảm diễn tả Đền thờ thánh mộ Jerusalem. Ngài tặng lại cho ông một bức tranh với hình các phông-ten trong Vườn Vatican. (SD 17-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin

Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Sống đức tin Công Giáo cách sâu sắc và tưởng thành không những đòi hỏi phải có can đảm để tuyên xưng đức tin ấy bằng hành động cụ thể bên ngoài qua việc chu toàn những bổn phận thiêng liêng của người tín hữu sống trong Giáo Hội, như siêng năng việc thờ phượng Chúa, học hỏi lời Chúa, năng lãnh nhận các bí tích ban ơn cứu độ như Thánh Thể và hòa giải, và làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời -mà hơn nữa- còn phải ý thức sâu xa về những nguy cơ đe dọa đức tin đó nữa.

(Xem tiếp . . . .Năm Đức Tin- Nguy cơ của tiền bạc cho đời sống Đức Tin )

Đức Thánh Cha đề cao gia trị của thể thao

Đức Thánh Cha đề cao gia trị của thể thao

VATICAN. Sáng 17 tháng 12-2012, trong buổi tiếp kiến phái đoàn của Ủy ban quốc gia Italia về Olympic, ĐTC đề cao vai trò của thể thao và mời gọi các vận động viên trong hoạt động này luôn phục vụ con người.

Trong số 200 người thuộc phái đoàn có nhiều vận động viên đã tham dự các cuộc tranh tài thế vận Olympic ở Luân đôn, Anh quốc, mùa hè năm nay đã đạt được 28 huy chương, trong đó có 8 huy chương vàng.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng ”Mỗi hoạt động thể thao, dù là ”chơi tài tử” hay chuyên nghiệp để tranh giải, đều đòi phải có sự lương thiện trong cuộc thi đua, tôn trọng thân xác của mình, ý thức liên đới, vị tha và cả niềm vui, sự mãn nguyện và mừng lễ. Tất cả những điều đó đòi phải có một hành trình trưởng thành về nhân bản thực sự, với những sự từ bỏ, kiên trì, nhẫn nại, và nhất là khiêm tốn. Đức tính này không được hoan nghênh nhưng nó chính là bí quyết chiến thắng”.

ĐTC cũnh nhận định rằng điều quan trọng trong thể thao, không những là tôn trọng qui luật, nhưng còn phải có một nhân sinh quan, đồng thời người thực hành thể thao cần có một nền giáo dục, linh đạo, và các giá trị siêu việt. Thực vậy, thể thao là một thiện ích về giáo dục và văn hóa, có khả năng biểu lộ cho con người chính bản thân và giúp họ hiểu giá trị sâu xa của cuộc sống”.

ĐTC đề cao sứ mạng của các vận động viên, như những người chiếm giải vô địch và chứng nhân. Ngài nói: ”Đối với những người ngưỡng mộ, các bạn có thể là những mẫu gương giá trị mà họ muốn noi theo.”

Nhắc đến Năm Đức Tin, ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi muốn nhấn mạnh điều này là hoạt động thể thao có thể giáo dục con người trong việc thi đua về đàng thiêng liêng, nghĩa là sống mỗi ngày, nỗ lực làm cho sự thiện chiến thắng sự ác, sự thật thắng gian dối, tình yêu thắng hận thù, và điều này cần diễn ra nơi chính bản thân mình. Và khi nghĩ đến công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, cả thế giới thể thao cũng có thể được coi là một ”tiền đường dân ngoại” thời nay, nghĩa là một cơ hội quí giá để gặp gỡ, cởi mở đối với mọi người, dù họ có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, trong đó người ta cảm nghiệm niềm vui, và các những vất vả khi đối chiếu mình với những người thuộc các văn hóa, ngôn ngữ, và hướng đi tôn giáo khác”. (SD 17-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma

VATICAN. Sáng chúa nhật 16 tháng 12-2012, ĐTC đã viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma. Đây là giáo xứ thứ 2 tại Roma được ngài viếng thăm trong năm nay.

Xứ này thuộc khu vực Đồi Prenestino ở mạn Đông Roma, được thành lập hồi giữa thập niên 1980. Sau nhiều khó khăn ban đầu, giáo xứ có được một thánh đường mới được thánh hiến hồi năm 2007 sau một thời gian dài chờ đợi. Hiện nay có gần 8 ngàn dân thuộc giáo xứ này và do Cha Fabio Fasciani làm chánh xứ. Đến nơi vào lúc quá 9 giờ rưỡi, ĐTC đã được ĐHY Giám quản Vallini, Đức cha phụ tá khu vực Giuseppe Marciante cùng với 8 LM tiếp đón. Ngài đặc biệt chào thăm lối 30 đôi vợ chồng trẻ có con được rửa tội trong năm qua, trước khi cử hành thánh lễ trước sự hiện diện của hơn 500 người ngồi chật thánh đường. Nhiều người khác tham dự thánh lễ từ bên ngoài hoặc qua truyền hình.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến đặc tính và ý nghĩa của chúa nhật thứ 3 mùa vọng, cũng được gọi là ”Chúa nhật ‘Gaudete’ (Anh chị em hãy vui mừng). Ngài nói: ”Chúa nhật này phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên. Mùa vọng là một dấn thân và hoán cải để chuẩn bị Chúa đến; nhưng hôm nay Giáo Hội cho chúng ta nếm hưởng trước niềm vui của lễ Giáng Sinh đang đến gần. Thực vậy, Mùa vọng cũng là mùa vui mừng, vì trong đó niềm mong đợi Chúa Cứu Thế được khơi dậy trong tâm hồn các tín hữu, và việc chờ đợi một người mà chúng ta yêu mến sắp đến, luôn luôn là lý do làm chúng ta vui mừng.”

Tiếp đến, ĐTC lần lượt giải thích ý nghĩa của 3 bài đọc trong ngày lễ:

– Bài đọc thứ I là một lời mời gọi tha thiết hãy vui mừng và bắt đầu bằng câu ”Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui lên.. Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nhảy mừng và hết lòng tung hô” (Sofonia 3,14). Câu này cũng giống như lời loan báo của Thiên Thần với Mẹ Maria ”Hỡi Bà đầy ơn phúc, hãy vui lên” (Lc 1,26). Lý do chính yếu để thiếu nữ Sion có thể vui mừng được diễn tả trong lời quả quyết mà chúng ta đã nghe, đó là ”Chúa đang ở giữa bạn” (Xp 3,15.17)… Ngôn Sứ muốn nói với chúng ta rằng không có lý do gì để thất vọng, nản chí, buồn sầu, dù tình trạng ta phải đương đầu có thế nào đi nữa, vì chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Chúa, nguyên sự hiện diện ấy cũng đủ để làm cho con tim được thanh thản và hân hoan.

– Trong bài đọc II, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu thành Philiphê vui lên trong Chúa. Tại sao cần vui mừng? Thưa vì ”Chúa đang đến gần!” (Pl 4,5). Trong vài ngày nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa đến, Ngài trở thành trẻ thơ và anh em của chúng ta để ở với chúng ta, và chia sẻ thân phận phàm nhân của chúng ta. Chúng ta phải vui mừng vì sự gần gũi, vì sự hiện diện của Chúa. Thánh Tông đồ mạnh mẽ nói trong một thư khác rằng không điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô. Chỉ có tội lỗi mới làm cho chúng ta xa Chúa.. Nhưng cả khi chúng ta lìa xa Chúa, Ngài vẫn không ngừng yêu thương và gần gũi chúng ta trong lượng từ bi của Ngài, sẵn sàng tha thứ và tái đón nhận chúng ta trong tình thương của Ngài”.

– Sau cùng bài Phúc Âm hôm nay nói rằng để đón tiếp Chúa chúng ta phải chuẩn bị, cứu xét kỹ lưỡng lối sống của chúng ta. Với những người hỏi thánh Gioan Tẩy Giả xem phải làm gì để sẵn sàng đón Đấng Cứu Thế đến (Xc Lc 3,10.12.14), thánh nhân trả lời rằng Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường, nhưng Chúa muốn mỗi người sống theo các tiêu chuẩn liên đới và công bằng; nếu không có những đức tính này thì ta không thể chuẩn bị tốt đẹp để gặp gỡ Chúa.

ĐTC cũng ghi nhận sự khiêm tốn sâu xa của thánh Gioan khi thánh nhân xác nhận sứ mạng của mình chỉ là dọn đường cho Chúa Giêsu, đồng thời Người loan báo một Đấng ”mạnh mẽ hơn”, sẽ làm phép rửa ”trong Thánh Linh và lửa” chứ không phải trong nước.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC chào thăm mọi người hiện diện, từ ĐHY Giám quản, tới cha sở và các thành phần khác nhau trong giáo xứ, và cả các em đang học giáo lý. Ngài nhắn nhủ rằng ”Năm Đức Tin chúng ta đang sống phải trở thành cơ hội để làm tăng trưởng và củng cố kinh nghiệm về việc giảng dạy giáo lý, làm sao để toàn thể khu phố này được nhận biết và đào sâu đạo lý của Giáo Hội và gặp gỡ Chúa như một Nhân Vật Sinh Động. Tôi đặc biệt ngỏ lời với các gia đình, và cầu chúc họ hoàn toàn thực hiện được ơn gọi yêu thương với lòng quảng đại và kiên trì. Sau cùng ĐTC khích lệ các trẻ em nam nữ và những người trẻ trong giáo xứ và nói rằng: ”Các con hãy cảm thấy mình là những người thực sự giữ vai chính trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, dành trọn năng lực tươi mát, lòng hăng say, khả năng của các con để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân trong cộng đoàn”.

Sau khi kết thúc thánh lễ, ĐTC còn dừng lại tại nhà nguyện nơi cử hành thánh lễ ngày thường, để chào thăm những người già cả và anh chị em bệnh nhân.

Kinh Truyền Tin

Trở về Vatican, ĐTC đã xuất hiện lúc quá 12 giờ trưa tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô, trong đó có đông đảo các trẻ em và thân nhân thuộc các giáo xứ ở Roma.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm chúa nhật thứ 3 mùa vọng hôm qua, với cảnh tượng thánh Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng đến xin Ngài làm phép rửa ở sông Giordan. Vì thánh Gioan dùng những lời nghiêm nghị khuyên mọi người chuẩn bị đón Đức Cứu Thế đến, một số người hỏi thánh nhân: ”Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3,10.12.14). Các cuộc đối thoại này thật ý nghĩa và rất thời sự.

Câu trả lời thứ I của thánh nhân hướng về tập thể dân chúng. Thánh Gioan Tẩy Giả nói: ”Ai có hai áo chùng, thì hãy cho người không có một áo, và ai có lương thực để ăn thì cũng hãy làm như vậy” (v.11). Ở đây chúng ta có thể thấy một tiêu chuẩn công lý, được đức bác ái linh hoạt. Công lý đòi phải vượt thắng sự chênh lệch giữa người có dư thừa và người thiếu những điều tối cần thiết; bác ái thúc đẩy quan tâm đến người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, thay vì tìm kiếm những lý lẽ biện minh để bảo vệ tư lợi. Công lý và bác ái không đối nghịch nhau, nhưng cả hai đều cần thiết và bổ túc cho nhau. ”Tình thương luôn luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất”, vì ”luôn luôn có những tình trạng thiếu thốn về vật chất trong đó sự trợ giúp là điều tối cần thiết trong sự yêu thương cụ thể đối với tha nhân” (Deus caritas est, 28)

Câu trả lời thứ hai của thánh Gioan dành cho một số người thu thuế cho người Roma. Những người này bị khinh rẻ vì họ thường lợi dụng địa vị để ăn cắp. Thánh Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng đừng đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định (Xc v.13). Nhân danh Thiên Chúa, vị Ngôn Sứ không đòi phải có những cử chỉ ngoại thường, nhưng trước tiên hãy chu toàn nghĩa vụ của mình một cách lương thiện. Bước đầu tiên tiến về cuộc sống đời đời luôn luôn là tuân giữ các giới răn; trong trường hợp này đó là giới răn thứ bẩy: ”chớ trộm cắp” (Xc Xh 20,15).

Câu trả lời thứ ba liên quan đến các binh sĩ, một loại người có một quyền bính nào đó, và vì thế dễ bị cám dỗ lạm quyền. Với các binh sĩ, thánh Gioan nói: ”Đừng ngược đãi và đừng bóc lột ai; hãy hài lòng với đồng lương của các anh” (v.14). Cả trong trường hợp này, sự hoán cải bắt đầu bằng sự lương thiện và tôn trọng tha nhân: chỉ dẫn này có giá trị đối với mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn hơn.

ĐTC nhận xét rằng ”xét chung các cuộc đối thoại này, điều gây ấn tượng mạnh nhất là tính chất rất cụ thể trong những lời của thánh Gioan: Vì Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về những gì chúng ta làm, nên trong cách cư xử cần chứng tỏ chúng ta tuân theo ý Chúa. Và chính vì thế, những chỉ dẫn của thánh Gioan Tẩy Giả vẫn luôn thời sự: cả trong thế giới phức tạp của chúng ta ngày nay, tình thế sẽ khá hơn nếu mỗi người tuân giữ các qui luật hành xử này. Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, giúp chúng ta chuẩn bị Lễ Giáng sinh với nhiều thành quả tốt đẹp của sự hoán cải.

Kêu gọi và chào thăm Sau kinh Truyền Tin và phép lành, ĐTC nhắc nhở mọi người rằng: ”Từ ngày 28-12 đến 2-1 tới đây, tại Roma sẽ có cuộc gặp gỡ các bạn trẻ Âu Châu do Cộng đồng Taizé cổ võ. Tôi cám ơn các gia đình theo truyền thống hiếu khách của Roma, đã sẵn sàng đón tiếp các bạn trẻ ấy. Cám ơn Chúa, vì số cầu nhiều hơn số cung, tôi lập lại lời kêu gọi đã gửi đến các giáo xứ, để các gia đình khác, trong sự đơn sơ, cũng có thể trải qua kinh nghiệm thật đẹp về tình thân hữu Kitô.”

Theo tòa Giám Quản Roma, có hơn 40 ngàn bạn trẻ Kitô Âu Châu thuộc các hệ phái Kitô, về đây tham dự cuộc gặp gỡ.

Trong lời chào thăm các tín hữu hành hương, bằng tiếng Pháp, ĐTC nhắc đến chúa nhật thứ ba mùa vọng là chúa nhật vui mừng, nhưng ngài đặt câu hỏi: ”Nhưng sự vui mừng có nghĩa gì khi mà con người đang chịu đau khổ vì thử thách hoặc cô đơn? Trong năm Đức Tin này, chúng ta cố gắng coi cuộc sống và những khó khăn của chúng ta với cặp mắt đức tin, để khám phá thấy Chúa Kitô là nguồn mạch vui mừng! Sự hiện diện của Chúa có sứ cứu độ, giải thoát con tim chúng ta khỏi những gì làm chúng ta lo âu; sự hiện diện của Ngài đổi mới và làm cho hòa dịu. Đúng vậy, chúng ta hãy vui lên trong Chúa đang tới! Ước gì niềm vui của chúng ta cũng lan tỏa trong các gia đình, nơi làm việc, trong các cộng đoàn và đất nước chúng ta bằng những cử chỉ quan tâm, chia sẻ và tha thứ!

Với các tíin hữu nói tiếng Anh, ĐTC nhắc đến vụ thảm sát 28 người hôm 14 tháng 12-2012 và nói: ”Tôi rất đau buồn vì bạo lực vô nghĩa lý xảy ra hôm thứ sáu vừa qua tại thành phố Newtown bang Connecticut. Tôi bảo đảm sự gần gũi của tôi trong kinh nguyện, với các gia đình nạn nhân, nhất là những gia đình bị mất một người con. Xin Thiên Chúa của sự ủi an đánh động tâm hồn và thoa dịu nỗi đau khổ của họ. Trong mùa vọng này, chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện sốt sắng hơn và hoạt động cho hòa bình. Tôi khẩn cầu dồi dào phúc lành của thiên Chúa cho những người bị thương tổn vì thảm trạng này và mỗi người trong anh chị em.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt chào thăm các em bé Roma đến đây để xin làm phép tượng Chúa Hài Đồng. Ngài nói: ”Các con rất thân mến, trong khi cha làm phép các tượng Chúa Giêsu mà các con sẽ đặt trong hang đá của các con, cha thành tâm chúc lành cho mỗi người trong các con và gia đình các con, cũng như cho các thầy cô và Trung Tâm sinh hoạt của các trẻ em thuộc các giáo xứ (oratorio) Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-10 đến 12-16-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-10 đến 12-16-2012

Trích từ Xuân Bích VN

Tự do tôn giáo và O.S.C.E.BỔ NHIỆM MỚI. –Báo Vatican ca ngợi sự phát triển của Giáo Hạt Tòng Nhân Hoa Kỳ. –Luật mới nước Anh sẽ chấm dứt việc cấm người Công giáo trong hoàng gia.ACHENTINA :Một bức tượng Đức Trinh Nữ khóc những giọt lệ máu. –Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế : tham nhũng tăng ở Việt Nam, Lào, Trung Quốc.Hiệp hội các linh mục Ái Nhĩ Lan ủng hộ Bourgeois. –Toà Thánh phê chuẩn tư cách pháp nhân Giáo Hạt Tòng Nhân ở Canada.Quyết định xét xử các vụ kiện hôn nhân là “thời khắc quan trọng” cho quốc gia.Bảo Tàng Vatican triển lãm ở Seoul. –Trung Quốc : Việc bổ nhiệm ĐGM Ma bị rút lại. –Tại sao Công Đồng Vatican II bỏ qua chủ nghĩa cộng sản?Thuỵ Sĩ : Caritas phát động hành động”Một triệu ngôi sao” bày tỏ tình liên đới.Niềm tin không phải là cái để đưa ra  bỏ phiếu. –Thông Điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình . –Người Hà-Lan hạ thuỷ bản sao kích thước Tàu Noe. –Nhà khảo cổ hàng đầu thảo luận về bằng chứng Đại hồng thuỷ trong Kinh Thánh.ĐHY Tagle hướng dẫn canh thức cẩu nguyện cho huỷ bỏ luật kế hoạch hoá gia đình.Những người tham dự đại hội Giáo Hội ở Châu Mỹ ra về được hợp nhất, đổi mới.Sáu tân đại sứ.Những tin ngắn (twitt) đầu tiên của Đức Biển-Đức XVI.Đức Biển-Đức XVI ở trong top 5 các nhân vật ảnh hưởng nhất thế giới. (Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ 12-10 đến 12-16-2012 )

HẠT LÚA TRONG NIA

HẠT LÚA TRONG NIA

Hạt lúa trong nia là hạt lúa no tròn, đẫy đà, chắc mẫm, vàng sáng. Hạt lúa ngoài nia là hạt lúa lép xẹp, rỗng ruột, nhẹ tênh.

Năm 1979, cánh đồng ông Bỉnh ở xứ tôi gần như mất trắng. Mẹ tôi sảy cả nia lúa mà không còn được mấy hạt chắc trong nia. Cả hecta ruộng được vài bao lúa chắc, còn lại là cả đống lúa lép. Cha tôi, mẹ tôi nhìn đàn con mà đau thắt ruột. Mất mùa, đói chắc.

Trong bữa cơm chiều, một hạt cơm cõng năm bảy lát củ  khoai nhìn chua xót. Mẹ tôi nói: “Hành trình đời người như hành trình của hạt lúa con ạ. Thiên Chúa đã gieo chúng ta vào ruộng đời, và đến một ngày nào đó, Người sẽ đến mà thu hoạch. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người. Mỗi người phải là hạt lúa trong nia để Thiên Chúa thu vào kho lẫm của người. Nếu là hạt lúa lép, hẳn Người để ngoài đồng kia mà đốt đi”.

Lời Chúa hôm nay gợi lại cho tôi những bài huấn  đức của Mẹ thật tuyệt vời trong đêm trăng khó  ngủ vì đói. Chị em tôi vẫn cảm phục  Đức Tin của mẹ. Giữa lúc khốn khổ như thế mà mẹ vẫn không quên nhiệm vụ làm gương và giáo dục đức tin cho chúng tôi.

Mẹ từng giải thích cho chúng tôi về nguyên nhân sinh lúa lép: do cây lúa yếu, ngã đổ, do sâu bệnh, do sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn trên lá, đạo ôn cổ  bong, do sạ dày, do dọn đất không kỹ, thiếu phân, thiếu nước… Đời sống đức tin cũng vậy con ạ. Rồi mẹ dừng lại ở đó để chị em tôi tự hiểu.

Vâng, nếu ngày ấy chưa hiểu ý mẹ, thì  mỗi Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng, Thánh Gioan Tẩy Giả lại giải thích cho chúng tôi hiểu “chúng tôi phải làm gì “ để trở nên một hạt lúa no tròn chắc mẫm:

-“Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”.

-“Các ngươi đừng đòi gì  quá mức đã ấn định cho các ngươi”

-“Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Vâng, hạt lúa Đức Tin của tôi của bạn hẳn cũng phải là hạt lúa no tròn chắc mẫm để khi Chúa  đến, hạt lúa đời mình được Chúa chon vào kho lẫm của Người.

Để được no tròn, phải tránh các nguyên nhân gây lép: một mặt cây lúa yếu do bộ rễ yếu vì không bám chặt vào Lời Chúa, vào Thánh Thể, mặt khác, cây lúa đời mình để nhiễm bệnh kiêu căng, ích kỷ, hà tiện, bất công, và bao thứ bệnh nguy hiểm khác cho Đức Tin.

Thánh Gioan còn đề nghị rất rõ phương thức làm cho hạt lúa no tròn. Đó là: Bác Ái, Công Bình.

Bác ái, công bình không chỉ là những khẩu hiệu, logo, bích chương hay biểu ngữ, nhưng là một cuộc sống sẻ chia đích thực vì yêu mến Chúa. Sự sẻ chia cho người vì yêu mến Chúa, có sức làm cho mỗi chúng ta thêm phong phú dồi dào về đời sống đức tin: vì “Những bác ái trong cuộc đời tôi là kho tàng muôn đời cho tôi. Ngày tôi về với Người trên trời, kho tàng ấy lại thuộc về tôi” (x Lời bài hát Tôi Biết Tôi Tin. PMCHH”.

Tôi bỗng nhớ trong lễ Giỗ Tổ Tộc Họ Trần Bùi và Mừng Chúa Giáng Sinh tại gx. Gia Viên ngày 09-12-2012, Cha Vĩnh Tiến giới thiệu gx. Xuân Sơn, hạt Túc Trưng, và mong mọi người sẻ chia. Người dẫn chương trình có đặt vấn đề: Mừng Chúa Giáng Sinh bằng việc bác ái cụ thể và đọc liền mấy câu thơ: “Hướng lòng lên tới Xuân Sơn, Nghe Con Thiên Chúa từng cơn nghẹn ngào. Tình này con quyết dâng trao, Tiền này con quyết gửi vào Xuân Sơn”. Rồi anh dí dõm: “Trong Nước Trời, không sử dụng đồng tiền in hình ông Abraham Lincohn, và các ông khác, nhưng sử dụng đồng tiền in hình Đức Giê-su, hoặc đồng tiền in hình Thánh Giá”. Và hôm ấy, gần 700 khách tham dự đã cùng đồng tình đổi tiền đang sử dụng thành tiền in hình Đức Giê-su, bằng cách bỏ vào thùng tiền hiệp thông làm quà cho giáo xứ Xuân Sơn. Mọi người hôm ấy hẳn vui vẻ, vì biết việc bác ái của mình chính là việc làm cho hạt lúa của mình no tròn, hạt lúa trong nia.

Hơn nữa, khi làm việc bác ái sẻ chia cho người, cũng chính là lúc chúng ta thể hiện đức công bình với Thiên Chúa và với anh em. Với Thiên Chúa Đức Công Bình là một hành vi cảm tạ. Với tha nhân, đức công bình không thể là một sự quân bình ăn đồng chia đều xét trên cá vị, hoặc được phép hưởng dùng cách ưu tiên cho xứng danh xứng phận, nhưng lại là sự hưởng dùng ở một mức vừa đủ để sống trong khi ta vẫn có thể tự do sử dụng cách sung túc hơn. Biết bao người đã chọn cách sống vừa phải, và phần sung túc có thể kia thì nhường cho những người thiếu thốn. Không thiếu những đại gia giàu lòng đai lượng nhưng không vì cầu được danh tiếng hay tên tuổi hão huyền. Cũng không thiếu những hạt muối chia đôi trong cảnh lao tù, khốn khó. Càng không thiếu những sẻ chia khi người chia sẻ thực sự là những người đói khổ.

Những hạt lúa của bao người đang no tròn chắc mẫm. Có lẽ nào, tôi và bạn bằng lòng làm hạt lúa lép rỗng ruột, nhẹ tênh bay theo gió cuốn giữa đời. Cũng có người vì thấy tôi, thấy bạn có chút khả năng, kiến thức giáo lý, chức vụ trong giáo hội, hay những đóng góp cách nào đó mà khen tặng chúng ta là “hạt gạo trên sàng”, nhưng thực ra, hạt hạo trên sàng phải là hạt gạo no tròn đức bác ái.

Chúa nhật thứ III mùa Vọng là Chúa Nhật hồng, Chúa Nhật vui mừng vì Chúa sắp đến cho tất cả những ai sẵn sàng chờ đợi bằng chính đời sống bác ái công bình. Họ sẽ vui mừng vì an tâm tin rằng mình sẽ là hạt lúa trong nia, hạt lúa được vào kho lẫm của Thiên Chúa, hạt lúa được cứu độ.

Lạy Chúa Giê-su, Ngài sẽ sảy con trong nia lúa của Ngài. Xin cho đời sống Đức Tin của con no đầy vì những sẻ chia cụ thể cho người thân, kẻ sơ, cho người thương, kẻ ghét. Và xin cho tất cả việc bác ái công bình của chúng con làm là vì Tin vào Ơn Cứu Độ Chúa hứa ban. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

VUI TRONG CHỜ ĐỢI

VUI TRONG CHỜ ĐỢI

Bước vào Mùa Vọng người Kitô hữu nói chung và  người Công Giáo nói riêng được Giáo Hội mời gọi chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh, mừng và chiêm ngắm ngày mà Thiên Chúa ký kết giao ước và trao ban Tình Yêu của Ngài cho con người nhân loại ngang qua mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Ngôi Hai Thiên Chúa. Việc chuẩn bị được bắt đầu từ Chúa nhật thứ I Mùa Vọng và kéo dài trong 4 tuần qua những hành vi: Tỉnh thức, cầu nguyện, tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội, rước lễ và thực thi việc bác ái…

Vọng là mong, chờ, và đợi! Ta mong, chờ và đợi ai, ta mong, chờ và đợi điều gì? Người Do Thái khi xưa đã cất lên lời khấn nguyện: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy mưa, mưa đức công chính, đất mở ra đi cho nảy mầm ơn cứu độ…” (Is.45,8). Lời cầu nguyện trên nói lên sự mong, chờ và đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa ban tặng cho dân tộc họ một vị cứu tinh, để rồi qua vị cứu tinh, người sẽ dẫn dắt và giúp họ thoát khỏi sự thống trị của đế quốc Rôma đang ngày đêm đè nặng trên vai họ những sưu cao thuế nặng, những luật lệ hà khắc…như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hòa bình vô tận…” (Is.9,5-6).

Ngày nay, giữa những đồn đoán về ngày tận cùng của vũ trụ, trái đất; giữa những khó khăn về kinh tế, những cănh bệnh lạ, bệnh nan y đang bao trùm lên đời sống, sức khỏe của con người nhân loại; giữa những tha hóa về mặt đạo đức, những tội ác ngày càng lan tràn; giữa những mối bất hòa, nghi kỵ, chia rẽ từ mái ấm gia đình trở đi; giữa những tranh chấp về chủ quyền, tranh dành quyền bá chủ thế giới, đắc thắng khi sở hữu những vũ khí tối tân, tàn độc…còn đó quanh ta những bức tranh hào nhoáng, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sữ dữ luôn lôi kéo ta vào con đường chết. Như những người Do Thái năm xưa, ta cũng mong, chờ và đợi, hay đúng nghĩa hơn là ta ao ước gia đình luôn hạnh phúc, cuộc sống bình yên, một thế giới đầy ắp tiếng cười, một người bạn cảm thông….ta chờ và đợi Thiên Chúa đến và giúp ta vượt khó, giúp ta tránh xa cạm bẫy của quyền lực sự dữ…

Cố nhạc sỹ Lê Thương đã diễn tả hình ảnh người phụ nữ mong, chờ và đợi hình bóng của đức lang quân qua nhạc phẩm “Hòn Vọng Phu” dưới lăng kính vô vọng và tuyệt vọng, từ sự vô vọng và tuyệt vọng đã làm cho người phụ nữ bằng xương, bằng thịt hóa thánh khối đá vô tri, vô giác. Không, những người Do Thái năm xưa và ta ngày nay không vô vọng, tuyệt vọng, không hóa đá khi mong, chờ và đợi. Sau những mong, chờ và đợi là những niềm vui được khởi đi từ Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Ngôn ngữ của tiên tri Xôphônia đã minh chứng điều ấy: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi…Đức Vua của Ítraen đang Ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa..” (Xp.3,14-15). Thánh Phaolô cũng diễn tả niềm vui ấy trong thư ngài gửi cho giáo đoàn Philípphê: “ Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại, vui lên anh em…” (Pl.4,4).

Vâng! Sau cơn mưa trời lại sáng, sau những mong, chờ  và đợi là những niềm vui. Niềm vui ấy không chỉ đóng khung trong bản văn Kinh Thánh, nhưng được  thực tại hóa ngay trong lòng Giáo Hội qua phẩm phục màu hồng của vị chủ tế trong thánh lễ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng; qua những dấu chỉ bên ngoài: Bộ mặt đường phố như được khoác một tấm áo mới bằng những ánh đèn muôn màu muôn sắc, những hình ảnh trang trí sinh động, vui nhộn; những chiếc hang đá như muốn diễn tả lại khung cảnh “Nhập Thế” của Con Thiên Chúa tại Belem năm xưa; hòa quyện vào những bài thánh ca, những khúc nhạc vui nhộn…

Niềm vui của những người Do Thái năm xưa, của Giáo Hội, của ta ngày nay được khởi đi từ Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, niềm vui ấy được đúc kết thành hai từ “Bình An”.  Đức Kitô đã phán: “ Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian..” (Ga.14,21). Niềm vui, sự bình an của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại không theo kiểu thế gian, vì thế cho nên, ta khó cảm và khó đón nhận được một cách trọn vẹn. Vì sao thế? Xin thưa, vì ta đang là những người sống giữa thế gian, đang phải gánh chịu những hệ lụy từ thế gian.

Vâng! Ta đang sống giữa thế gian, ta đang phải gánh chịu những hệ lụy từ thế gian, vì thế  không ít thì nhiều ta có những suy nghĩ, cách hành xử theo thế gian. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ta được mời gọi đổi mới cuộc đời, đổi mới cách suy nghĩ và hành động khác với thế gian như lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc.3,4-6).

Để giúp ta đổi mới, giúp ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động, giúp ta cảm và đón nhận niềm vui, sự bình an của Thiên Chúa ngang qua Hài Đồng Giêsu trong mùa Giáng Sinh và trong suốt cuộc đời ta, nhất là giúp ta sống đúng với tâm tình của Mùa Vọng, mùa mong, chờ và đợi. Trước tiên ta học nơi những Người Do Thái năm xưa, sau khi lắng nghe lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, họ nhìn nhận mình đầy tội lỗi, để rồi họ cùng nhau bước xuống dòng sông Giođan đón nhận nghi thức thanh tẩy từ ông Gioan tẩy Giả, không những thế, họ còn muốn biết công việc, và làm như thế nào, những mong qua hành động, qua công việc cộng với lòng sám hối, họ hân hoan đón mừng Đấng mà họ đang mong, chờ và đợi. Thế là, từ người bình dân cho tới người vị vọng, từ người ngư phủ cho tới người binh lính và người thu thuế, không hẹn mà gặp, họ tìm đến ông Gioan và hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”.

Cứ ngỡ rằng ông Gioan Tẩy Giả mời gọi họ bước vào đời sống mà ông đang sống, thực hiện những công việc mà ông đã và đang thực hiện, nhưng không, ông chỉ khuyên họ hãy sống và thực hiện tốt công việc, bổn phận hiện tại của mình:

  • V ớ i d â n ch ú n g ô n g khuyên: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”
  • V ớ i nh ữ n g ng ư ờ i thu thu ế , ô n g khuy ê n : “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”
  • Đối với binh lính ông khuyên: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”(x.Lc.3,10-14).
Đây cũng chính là lời khuyên giúp ta sống Mùa Vọng một cách tròn đầy, giúp ta cảm và đón nhận niềm vui và bình an của Thiên Chúa một cách đích thực. Nhờ niềm vui và sự bình an của Thiên Chúa giúp ta sống an vui và hạnh phúc, giúp ta chuẩn bị tốt tâm hồn đón mừng Chúa đến viếng thăm và nhất là giúp ta giới thiệu Chúa cho mọi người.

Còn đó tấm gương sống tâm tình mong, chờ và  đợi , tấm gương đổi mới cách nghĩ, hành động một cách triệt để trong tâm tình tin tưởng hoàn toàn, phó thác hoàn toàn, nhất là tâm tình đơn sơ, khiêm hạ để đón mừng Chúa giá ngự. Đó chính là Mẹ Maria.

Lạy Chúa! Xin khắc ghi lời khuyên của Chúa qua thánh Gioan Tẩy Giả, xin giúp con luôn sống trong tỉnh thức và cầu nguyện, giúp con noi gương Mẹ Maria trong tâm tình Mong, chờ và đợi Chúa đến, xin giúp con và tất cả mọi người trở thành cây viết chì trong lòng bàn tay của Chúa, để Chúa thực hiện những nét chữ Yêu thương nơi thế giới này.Amen

Antôn Lương Văn Liêm– Đạo Binh Đức Me

Công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2013

 

Công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2013

VATICAN. Trong sứ điệp công bố hôm 15 tháng 12-2013, nhân ngày cầu nguyện cho ơn gọi LM tu sĩ, ĐTC Biển Đức 16 khích lệ toàn thể cộng đoàn Giáo Hội sốt sắng cầu nguyện và cộng tác vào việc khơi dậy ơn gọi.

Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi lần thứ 50 sẽ được cử hành vào chúa nhật 21 tháng 4-2013, cũng là chúa nhật thứ 4 Phục Sinh, với chủ đề: ”Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng dựa trên đức tin”.

Trong Sứ điệp, ĐTC nhắc đến nền tảng niềm hy vọng Kitô giáo là xác tín về lòng trung tín của Thiên Chúa: ”Trong mọi lúc, nhất là trong những thời điểm khó khăn nhất, chính sự trung tín của Thiên Chúa luôn luôn là động lực của lịch sử và ơn cứu độ, làm rung động tâm hồn con người và củng cố họ trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ đạt được ”Đất Hứa”. Đó chính là nền tảng của mọi niềm hy vọng: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Ngài trung tín với lời đã hứa. Chính vì thế, trong mọi hoàn cảnh, phúc lợi hay bất lợi, chúng ta có thể nuôi dưỡng một niềm cậy trông và cùng với tác giả Thánh Vịnh cấu nguyện: ”Hồn tôi hỡi, hãy nghỉ an trong Chúa, Niềm hy vọng của tôi từ Người mà đến” (Tv 62,6).

ĐTC viết thêm rằng ”lòng trung tín của Thiên Chúa hệ tại tình thương của Người. Người chính là Cha đổ tràn tình thương trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh (Xc Rm 5,5). Và tình thương ấy được biểu lộ trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô. Tình thương ấy gọi hỏi cuộc sống chúng ta, đòi một câu trả lời về câu trả lời mà mỗi người muốn làm cho cuộc sống của mình, về những gì họ sẵn sàng đề ra để thực hiện trọn vẹn câu trả lời ấy”.

Từ những điều trên đây, ĐTC xác quyết rằng Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi con người bước theo Người, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn còn lập lại: ”Hãy đến và theo Thầy!” (Mc 10,21). Để đón nhận lời mời gọi ấy, ta không được chọn bản thân mình làm đường đi. Theo Chúa có nghĩa là dìm ý chí chúng ta trong ý Chúa Giêsu, thực sự dành ưu tiên cho Chúa, đặt Người ở chỗ thứ nhất so với tất cả những gì thuộc về cuộc sống của chúng ta: gia đình, công ăn việc làm, những lợi ích cá nhân, và chính bản thân. Điều này có nghĩa là đặt trọn cuộc sống của chúng ta cho Chúa, sống với Chúa trong sự thân mật sâu xa, đi vào cuộc hiệp thông với Chúa Cha trong Thánh Linh, nhờ Chúa Giêsu, và qua đó, hiệp thông với anh chị em mình”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”ơn gọi LM tu sĩ nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ bản thân với Chúa Kitô, đối thoại chân thành và tín thác nơi Chúa, để đi vào thánh ý Người. Vì thế, cần tăng trưởng trong kinh nghiệm đức tin, được hiểu như một quan hệ sâu xa với Chúa Giêsu, lắng nghe tiếng Chúa vang dội trong nội tâm chúng ta.. Hành trình ấy, – làm ta có khả năng đón nhận tiếng gọi của Chúa,- có thể xảy ra giữa lòng những cộng đoàn Kitô sống bầu không khí đức tin nồng nhiệt, quảng đại làm chứng về lòng gắn bó với Tin Mừng, hăng say truyền giáo, đi tới sự hiến thân trọn vẹn cho Nước Chúa, được nuôi dưỡng bằng sự siêng năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là Thánh Thể, và bằng đời sống cầu nguyện nhiệt thành”. (SD 15-12-2012)

G. Trần Đức anh OP – Vietvatican

Họp báo công bố Sứ điệp Hòa Bình của Đức Thánh Cha

Họp báo công bố Sứ điệp Hòa Bình của Đức Thánh Cha

VATICAN. Ngày 14 tháng 12-2012, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã giới thiệu Sứ điệp của ĐTC nhân ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 46 sẽ được cử hành vào ngày 1 tháng giêng 2013 tới đây với chủ đề ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình”.

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo giới thiệu cũng có Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, Tổng thư ký của Hội đồng Công lý và Hòa bình, cùng một số chức sắc khác của Tòa Thánh. Sứ điệp của ĐTC gồm 7 đoạn chia làm 3 phần:

Trong phần đầu tiên (1-4), ĐTC nêu lý do tại sao ngài chọn đề tài ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình” và giải thích ý nghĩa sâu xa của mối phúc này, cũng như của hòa bình là hồng ân của Thiên Chúa và công trình của con người. Mặc dù tình trạng đáng báo động của thế giới hoàn cầu hóa với những lò căng thẳng xã hội và những hình thức xung đột bạo lực khác nhau, ĐTC nhận thấy vẫn có những công trình hòa bình chứng tỏ ơn gọi bẩm sinh của nhân loại hướng về hòa bình (n.1) và có một ước muốn hòa bình tương ứng với quyền lợi và nghĩa vụ của sự phát triển toàn diện, xã hội và cộng đoàn”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để trở thành người xây dựng hòa bình, một điều cơ bản là chú ý tới chiều kích siêu việt, liên lỷ đàm thoại với Thiên Chúa và nhìn nhận mình thuộc một gia đình nhân loại duy nhất, với những liên hệ giữa con người với nhau và các tổ chức được một tinh thần cộng đồng hướng dẫn, trong đó có sự nhìn nhận quyền lợi và nghĩa vụ của nhau” (n.3). Xét cho cùng, người xây dựng hòa bình theo mối phúc thật của Chúa Giêsu chính là người tìm kiếm thiện tích của tha nhân, thiện ích trọn vẹn của linh hồn và thân xác, cũng như cộng tác vào việc thực hiện công ích của các xã hội khác nhau” (n.3).

Trong phần II (4-5), ĐTC khẳng định rằng việc thực hiện công ích và hòa bình gắn liền với việc tôn trọng sự sống con người toàn diện. Một người thực sự xây dựng hòa bình là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong mọi chiều kích: bản thân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống sung mãn chính là tột định của hòa bình (n.4).

Trong chiều hướng này, ĐTC viết rằng ”điều quan trọng là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con ngươi như phá thai và làm cho chết êm dịu” (n.4).

ĐTC cũng nói tới sự thăng tiến thiện ích bản thân của con người trong đó có chiều kích siêu việt. Về điểm này, ngài khẳng định rằng ai hoạt động cho cuộc sống an bình của các dân tộc, thì cũng bảo vệ tự do tôn giáo, không phải như một thứ tự do không bị ràng buộc và cưỡng bách trong việc chọn lựa tôn giáo, nhưng còn như ”tự do làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội” (n.4). Về việc thăng tiến chiều kích cộng đồng của thiện ích, ĐTC nhấn mạnh tới tầm quan trọng của quyền có công ăn việc làm. Điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu này là phải xét lao công về phương diện luân lý đạo đức, tinh thần, và như một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghi-en cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm” (n.4).

Trong phần thứ III (6-7), ĐTC đề cao tầm quan trọng của việc giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình. Đây cũng là đề tài được ngài đề cập đến trong Sứ điệp hòa bình hồi năm ngoái. Ngài viết ”Đông đảo những người xây dựng hòa bình được mời gọi dấn thân thực hiện một sự giáo dục giá trị về mặt xã hội. Cần tái khám phá vai trò hàng đầu của gia đình, là tế bào cơ bản của xã hội về phương diện dân số, luân lý, sư phạm, kinh tế và chính trị. Gia đình có một ơn gọi tự nhiên là thăng tiến sự sống” (n.6). Vì thế, cần bảo vệ quyền của các bậc cha mẹ được giáo dục con cái mình và vai trò hàng đầu của trẻ mẹ trong việc giáo dục con cái về luân lý và tôn giáo.

Cả các cộng đồng tôn giáo cũng có một nghĩa vụ rất lớn giáo dục về hòa bình. ĐTC đề cao chức năng quan trọng của các tổ chức văn hóa, học đường và đại học trong việc đóng góp vào việc đổi mới các thành phần lãnh đạo và các tổ chức. Ngài cũng khẳng định rằng nền sư phạm về hòa bình đòi phải có một đời sống nội tâm phong phú, cần có những điểm tham chiếu vững chắc về luân lý và có những thái độ cũng như lối sống thích hợp (n.7).

Cũng nên nói thêm rằng những nhóm đồng tính luyến ái thì cảm thấy bị ”xúc phạm” vì đoạn sứ điệp của ĐTC chống lại hôn nhân đồng phái. Ngài viết: ”Cơ cấu tự nhiên của hôn nhân cần phải được nhìn nhận và thăng tiến, như sự kết hiệp giữa một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt.. Những hình thức kết hiệp này trong thực tế làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn cơ cấu tự nhiên, làm lu mờ đặc tính và vai trò không thể thay thế được của hôn nhân trong xã hội…” (SD 14-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican