Đức Thánh Cha Biển Đức 16 tuyên bố từ chức

Đức Thánh Cha Biển Đức 16 tuyên bố từ chức

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 rời bỏ chức vụ Giáo Hoàng kể từ lúc 20 giờ ngày thứ năm, 28 tháng 2 tới đây.
Trong công nghị lúc 11 giờ sáng hôm qua, 11-2, trước sự hiện diện của các Hồng y và GM, ĐTC tuyên bố:

“Anh em rất thân mến.

”Tôi triệu tập anh em đến dự Công nghị này không phải để chỉ nói về 3 cuộc phong thánh, nhưng còn để thông báo cho anh em một quyết định rất quan trọng đối với đời sống Giáo Hội. Sau khi nhiều lần xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã đi tới sự chắc chắn rằng sức lực của tôi, vì tuổi cao, không còn thích hợp nữa để thi hành sứ vụ Phêrô một cách thích đáng nữa. Tôi ý thức rõ sứ vụ này, do yếu tính thiêng liêng, phải được chu toàn không những bằng hoạt động và bằng lời nói, những còn bằng đau khổ và cầu nguyện. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, đang chịu những biến chuyển mau lẹ và bị giao động vì những vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với đời sống đức tin, để cai quản con thuyền của Thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, cần có nghị lực cả thể xác lẫn tâm hồn, nghị lực mà trong những tháng gần đây bị suy giảm nơi tôi đến độ tôi phải nhìn nhận mình không có khả năng thi hành tốt sứ mạng đã được trao phó cho tôi. Vì thế, với ý thức rõ ràng về hành vi hệ trọng này, với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ bỏ sứ vụ Giám Mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô, được ủy thác cho tôi do tay các Hồng Y ngày 19 tháng 4 năm 2005, để từ ngày 28 tháng 2 năm 2013 sắp tới, Tòa Roma, Tòa Thánh Phêrô sẽ trống tòa từ lúc 20 giờ và những ai có thẩm quyền cần phải triệu tập Mật Nghị Hồng Y để bầu vị Giáo Hoàng mới”.

”Anh em rất thân mến, tôi chân thành cám ơn anh em vì tất cả lòng quí mến và công việc mà anh em đã cùng mang gánh nặng sứ vụ của tôi, và tôi xin lỗi vì tất cả những thiếu sót của tôi. Giờ đây, chúng ta hãy phó thác Hội Thánh cho vị Mục Tử Tối Cao, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và cầu xin Mẹ Maria của Ngài, với lòng từ mẫu xin Mẹ trợ giúp các Hồng Y trong việc bầu vị Giáo Hoàng mới. Về phần tôi, cả trong tương lai, tôi muốn hết lòng phục vụ Hội Thánh của Thiên Chúa bằng cuộc sống dành trọn cho việc cầu nguyện”.

Vatican ngày 11 tháng 2 năm 2013

Biển Đức 16, Giáo Hoàng

G. Trần Đức Anh chuyển ý

Tuyên bố của Đức Hồng Y niên trưởng của Hồng Y đoàn

Tuyên bố của Đức Hồng Y niên trưởng của Hồng Y đoàn

VATICAN. Giáo Triều Roma ngỡ ngàng vì lời tuyên bố từ chức của Đức Thánh Cha.

ĐTC công bố quyết định từ chức vào cuối công nghị Hồng y đoàn bắt đầu lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 2-2013 tại dinh Tông Tòa.

Sau kinh giờ Sáu, ĐTC Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, đã đọc tiểu sử của các vị sẽ được phong thánh để xin ĐTC ấn định ngày tôn phong.

Sau nghi thức này, ĐTC ngồi xuống và ngài đọc tuyên ngôn thông báo từ chức. Kế đến, ĐHY Angelo Sodano niên trưởng Hồng y đoàn, đã đại diện mọi người, nói với ĐTC rằng:

”Kính Thưa Đức Thánh Cha, Người Kế Vị quí mến và đáng kính của Thánh Phêrô,

”Sứ điệp cảm động của ĐTC đã vang lên trong Hội trường này như một tiếng sấm giữa trời thanh quang. Chúng con ngỡ ngàng khi nghe sứ điệp ấy, như thể không tin được. Trong những lời của ĐTC, chúng con nhận thấy có lòng yêu mến nồng nhiệt của ĐTC đối với Hội Thánh của Chúa, đối với Giáo Hội mà ĐTC đã yêu mến dường nào. Giờ đây, xin cho phép con nhân danh cộng đoàn tông đồ này, Hồng y đoàn, nhân danh tất cả những cộng sự viên quí mến của ĐTC, để nói rằng chúng con gần gũi với ĐTC hơn bao giờ hết, cũng như chúng con đã gần gũi với ĐTC trong 8 năm rạng ngời triều đại Giáo Hoàng của ĐTC. Ngày 19 tháng 4 năm 2005, nếu con nhớ rõ, vào cuối Mật nghị, với giọng hồi hộp cảm động con đã hỏi ĐTC: ”Ngài có nhận việc bầu cử hợp pháp làm Giáo Hoàng hay không?”, và cũng với sự hồi hộp, ngài đã không trì hoãn trả lời chấp nhận, với niềm tín thác nơi ơn Chúa và trong sự chuyển cầu của Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội. Như Mẹ Maria, ngày hôm ấy, ĐTC đã thưa ”xin vâng” và đã khởi đầu một triều đại Giáo Hoàng sáng ngời, trong sự tiếp tục, một sự tiếp tục mà Ngài đã nói với chúng con nhiều lần trong lịch sử Giáo Hội, trong sự tiếp nối với 265 vị tiền nhiệm của Ngài trên ngai tòa thánh Phêrô, qua 2 ngàn năm lịch sử, từ Thánh Phêrô người ngư phủ khiêm hạ miền Galilea, cho đến các vị đại Giáo Hoàng trong thế kỷ vừa qua, từ thánh Piô 10 cho đến chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2. Kính thưa Đức Thánh Cha, trước ngày 28 tháng 2, như Ngài đã nói, ngày mà Ngài muốn chấm dứt sứ vụ Giáo Hoàng được chu toàn với tất cả lòng yêu mến, lòng khiêm nhường, trước ngày 28-2, chúng con sẽ có dịp biểu lộ rõ hơn tâm tình của chúng con. Cũng như bao nhiêu vị mục tử và tín hữu rải rác trên thế giới, cũng như bao nhiều người thiện chí cùng với chính quyền của bao nhiêu nước. Rồi trong tháng này, chúng con còn được niềm vui nghe tiếng vị chủ chăn, ngay trong ngày thứ tư lễ tro tới đây, rồi ngày thứ năm, với hàng giáo sĩ Roma, trong những buổi đọc kinh Truyền Tin những ngày chúa nhật, trong các buổi tiếp kiến ngày thứ tư. Vì thế còn bao nhiêu dịp để nghe tiếng nói hiền phụ của ĐTC. Nhưng sứ vụ của Ngài sẽ tiếp tục. Ngài đã nói rằng sẽ luôn gần gũi chúng con với chứng tá và lời cầu nguyện của Ngài. Dĩ nhiên, những ngôi sao trên trời sẽ tiếp tục chiếu sáng và sẽ luôn chiếu sáng giữa chúng con ngôi sao triều đại giáo hoàng của Ngài. Chúng con gần gũi Đức Thánh Cha, xin chúc lành cho chúng con.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 11 tháng 2-2013, Cha Lombardi cho biết sau khi Tòa Thánh bắt đầu trống tòa, tức là từ 20 giờ ngày 28 tháng 2-2013, ĐTC Biển Đức 16 sẽ di chuyển ra dinh thự Castel Gandolfo, trong khi chờ đợi Nữ Đan viện chiêm niệm ở Nội thành Vatican được sửa chữa xong và ngài sẽ cư ngụ tại đó.

Về việc cai quản Tòa Thánh sau khi trống tòa, đã có Tông hiến được Đức Gioan Phaolô 2 công bố về vấn đề này. Các Hồng Y sẽ được triệu tập về Roma để tiến hành việc bầu cử Giáo Hoàng mới. Lần này sẽ mau lẹ hơn vì không có chương trình 9 ngày lễ an táng Đức Cố Giáo Hoàng. Việc bầu cử có thể tiến hành trong tháng 3-2013 và trước lễ Phục Sinh có thể Giáo Hội sẽ có vị Giáo Hoàng mới.

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

Họp báo của cha Lombardi về việc Đức Thánh Cha từ chức

Họp báo của cha Lombardi về việc Đức Thánh Cha từ chức

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết sau khi Tòa Thánh bắt đầu trống tòa, tức là từ 20 giờ ngày 28 tháng 2, ĐTC Biển Đức 16 sẽ di chuyển ra dinh thự Castel Gandolfo, trong khi chờ đợi Nữ Đan viện chiêm niệm ở Nội thành Vatican được sửa chữa xong và ngài sẽ cư ngụ tại đó.

Nữ Đan viện này được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 thành lập để hỗ trợ công việc của ngài, nhưng hiện không còn nữ tu nữa.

Trong cuộc họp báo trưa ngày 11 tháng 2-2013, Cha Lombardi nhấn mạnh rằng việc ĐTC tuyên bố từ chức hoàn toàn phù hợp với Giáo luật khoản số 332 triệt 2, qui định ”Trong trường hợp ĐGH từ chức, thì để có hiệu lực, việc từ chức này phải được thực hiện tự do và được biểu lộ một cách phải phép, và không cần phải có ai chấp nhận việc từ chức đó”.

ĐTC Biển Đức 16 cho biết ngài hoàn toàn tự do quyết định từ chức và biểu lộ quyết định đó trước công nghị Hồng y gồm đa số các vị Hồng y hiện diện ở Roma.

Cha Lombardi nhắc lại rằng trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Peter Seewald người Đức hồi năm 2010 và được xuất bản thành cuốn sách với tựa đề ”Ánh sáng thế gian”, ký giả đã hỏi ĐTC có bao giờ nghĩ đến việc từ chức hay không. Ngài đáp: ”Khi có nguy hiểm thì không thể bỏ chạy, vì thế đây không phải là lúc từ chức (Ngài ám chỉ đến những vấn đề lạm dụng tính dục trong Giáo hội bấy giờ và các vấn đề khác), chính trong lúc như thế cần phải kháng cự và vượt thắng tình trạng khó khăn. Đó là ý tưởng của tôi. Người ta có thể từ chức trong một lúc thanh thản, hoặc khi không thể tiếp tục được nữa, chứ không thể bỏ chạy trong lúc nguy hiểm, và nói 'để cho người khác lo'. Vì thế, ĐTC đã từng nói những khó khăn không phải là lý do để từ chức. Trái lại những khó khăn đó là lý do để không từ chức.

Đáp câu hỏi thứ hai của ký giả Seewald: ”Vậy có thể tưởng tượng được một hoàn cảnh trong đó Ngài nghĩ rằng vị Giáo Hoàng từ chức là điều thích hợp?”. Câu trả lời của ĐTC là: ”Đúng vậy, khi một Giáo Hoàng đi tới ý thức rõ ràng mình không thể chu toàn về thể lý, tâm trí và tinh thần, trách vụ được ủy thác thì ngài có quyền, và trong một số hoàn cảnh ngài có nghĩa vụ từ chức”.

Cha Lombardi cũng nhắc lại rằng Tông Hiến ”Universi Dominici Gregis” (Mục Tử toàn thể đoàn chiên Chúa) mang chữ ký của ĐTC Gioan Phaolô 2 ngày 22-2-1996, lễ kính Tòa Thánh Phêrô, là văn kiện theo đó Tòa Thánh được điều hành sau khi Tòa Thánh trống tòa. Văn kiện này đã được áp dụng trong thời sau khi Đức chân phước Gioan Phaolo 2 qua đời hồi đầu tháng 4-2005. Hồng y đoàn sẽ cai quản Giáo Hội trong thời kỳ đó. Các Hồng y tổng trưởng và TGM Chủ tịch các cơ quan trung ương Tòa Thánh ngưng nhiệm vụ và chỉ có vị Tổng thư ký điều hành công việc của cơ quan liên hệ, ngoại trừ vị Hồng Y nhiếp chính, ĐHY Chánh tòa ân giải tối cao, v.v.
Các Hồng Y cử tri (dưới 80 tuổi) sẽ được triệu tập về Roma để tiến hành việc bầu cử Giáo Hoàng mới. Lần này sẽ mau lẹ hơn vì không có chương trình 9 ngày lễ an táng Đức Cố Giáo Hoàng. Việc bầu cử có thể tiến hành trong tháng 3-2013.

Có người dự đoán cuộc bầu cử Giáo Hoàng mới có thể tiến hành trong khoảng từ ngày 14 đến 19 tháng 3-2013.
Từ nay đến 28-2-2013, chương trình hoạt động của ĐTC, các buổi tiếp kiến, các buổi lễ sẽ tiếp tục như cũ. (SD 11-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

Loan báo Chúa Kitô cho mọi người mà không bao giờ nản lòng

Loan báo Chúa Kitô cho mọi người mà không bao giờ nản lòng

Trưa Chúa Nhật hôm qua đã có hàng ngàn tín hữu và du khách hành hương tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô để tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin chung với Đức Thánh Cha. Vì hôm qua cũng là ngày mùng một Tết Nguyên Đán Đức Thánh Cha đã chúc mừng năm mới các dân tộc Viễn Đông như sau:

Anh chị em thân mến, hôm nay nhiều dân tộc Viễn Đông mừng Năm Mới âm lịch. An bình, hòa hơp và cảm tạ Trời là các giá trị đại đồng được cử hành trong dịp vui này và chúng được tất cả mọi người mong ước để xây dựng gia đình, xã hội và quốc gia. Tôi cầu chúc cho các dân tộc ấy có thể đạt được các khát vọng có một cuộc sống hạnh phúc và thịnh vượng. Tôi xin gửi một lời chào đặc biệt tới các tín hữu công giáo của các quốc gia ấy để trong Năm Đức Tin này họ được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan của Chúa Kitô.

Trước đó trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa bài Phúc Âm thánh Luca trong phụng vụ Chúa Nhật thứ V thường niên năm C. Văn bản thánh Luca kể lại ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, khác với hai Phúc Âm Nhất Lãm khác. Đức Thánh Cha nói:

Thật thế, đi trước lời kêu mời là giáo huấn Chúa Giêsu ban cho dân chúng và phép lạ đánh cá được hoàn thành bởi ý muốn của Chúa (Lc 5,1-6). Qủa vậy trong khi dân chúng chen chúc nhau trên bờ hồ Ghênêdarét để lắng nghe Chúa Giêsu, thì Người đã thấy ông Simon mất tin tưởng vì cả đêm đã không bắt được con cá nào. Trước hết Người xin có thể lên thuyền của ông để giảng cho dân đứng cách xa bờ một chút, rồi sau khi giảng xong, người truyền cho ông ra khơi với các bạn ông và tha lưới đánh cá (c. 5). Ông Simon vâng lời và họ bắt được một số lượng cá không tin được. Như thế, thánh sử cho thấy các môn đệ đầu tiên tin và đi theo Chúa Giêsu, bằng cách tin tưởng nơi Người, cậy dưạ trên Lời Người, được đi kèm bằng các dấu lạ. Chúng ta ghi nhận rằng trước khi có dấu chỉ này Simon gọi Đức Giêsu là ”Thầy” (c. 5), trong khi sau đó ông gọi Người là ”Chúa” (c. 7). Đó là sư phạm lời mời gọi cảu Thiên Chúa, là Đấng không nhìn vào các đặc tính của những người được tuyển chọn, cho bằng nhìn vào đức tin của họ, như đức tin của ông Simon kẻ đã nói: ” Dựa trên lời Thầy con sẽ thả lưới” (c. 5).

Tiếp tục bài hhuấn dụ Đức Thánh Cha nói: hình ảnh đánh cá ám chỉ sứ mệnh của Giáo Hội. Thánh Agostino chú giải điểm này như sau: ”Hai lần các môn đệ bắt đầu đánh cá theo lệnh của Chúa: một lần trước cuộc khỗ nạn và một lần sau khi phục sinh, Trong cả hai lần đánh cá toàn thể Giáo Hội được ám chỉ: Giáo Hội như là bây giờ và như sẽ là sau sự sống lại của các người chết. Bậy giờ Giáo hội tiếp nhận một đám đông không thể đếm được, bao gồm ngươi tốt lành vả người gian ác; sau sự phục sinh nó sẽ chỉ bao gồm những người tốt lành mà thôi” (discorso 248,1). Kinh nghiệm của thánh Phêrô chắc chắn là đặc biệt, cũng là kinh nghiệm diễn tả ơn gọi từng tông đồ của Phúc Ậm, không bao giờ được chán nản trong việc loan báo Chúa Kitô cho tất cả mọi người, cho tới tận cùng bờ cõi thế giới. Tuy nhiên, văn bản hôm nay làm cho chúng ta suy nghĩ về ơn gọi linh mục và đời thánh hiến. Nó là công trình của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích thêm ơn gọi này như sau:

Con người không phải là tác giả ơn gọi riêng của mình, mà trả lời cho đề nghị của Thiên Chúa: và sự yếu đuối của con người không được khiến cho họ sợ hãi, nếu Thiên Chúa kêu gọi. Cần tin tưởng nơi sức mạnh của Người hành động trong chính sự nghèo nàn của chúng ta; cần phải luôn luôn tín thác hơn nơi quyền năng lòng xót thương của Người, biến đổi và canh tân chúng ta.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Anh chị em thân mến, Ước chi lời này của Thiên Chúa làm sống dậy nơi chúng ta và trong các cộng đoàn kitô của chúng ta sự can cảm, tin tưởng và lòng hăng say loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Ước chi các thất bại và các khó khăn không dẫn đưa chúng ta tới sự chán nản; chúng ta có bổn phận thả lưới, rồi Chúa làm chuyện còn lại. Chúng ta cũng hãy tin thác nơi lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương các Tông Đồ. Nghe lời Chúa gọi, tuy ý thức được sự bé nhỏ của mình Mẹ đã trả lời với lòng tín thác hoàn toàn: ”Này con đây”. Với sự trợ giúp hiền mẫu của Mẹ chúng ta hãy canh tân sự sẵn sàng của chúng ta theo Chúa Giêsu, là Thầy và là Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Truyền Tin rồi ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài nhắc cho mọi người biết rằng thứ hai hôm nay là lễ Đức Mẹ Lộ Đức và cũng là Ngày Quốc Tế các bệnh nhân. Lễ sẽ được cử hành tại Đền thánh Đức Bà Altoetting trong vùng Bavière nam Đức. Ngài nói: Tôi gần gũi tất cả các bệnh nhận với lời cầu nguyện và lòng thương mến, và tôi hiệp nhất trong tinh thần với tất cả những ai tu tập tại Đền thánh này là nơi rất thân yếu đối với tôi. Tại Lộ Đức Đức Mẹ đã hiện ra với chị Bernadette Sobirous, một cô gái nghèo, và chỉ cho cô một nguồn nước, nhờ đó nhiều người đã được khỏi bệnh. Mẹ Maria muốn gần gũi với những người nghèo nàn, bệnh tật và thiếu thốn của mọi thời đại, và cùng đồng hành với họ trên con đường tiến về với Chúa Kitô, là suối nguồn sự sống. Tôi xin tín thác anh chị em, các người thân yêu của anh chị em và tất cả mọi bệnh nhân cho lời bầu cử của Mẹ Maria, là sự cứu rỗi của những người bệnh tật và là mẹ mọi ủi an.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến hơn 4 ngàn Hiệp Sĩ Malta

Đức Thánh Cha tiếp kiến hơn 4 ngàn Hiệp Sĩ Malta

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi các Hiệp sĩ Malta ”đón nhận Năm Đức Tin như một thời điểm ân phúc để đào sâu sự hiểu biết về Chúa và làm cho chân lý và vẻ đẹp đức tin được rạng ngời, bằng cuộc sống chứng tá và phục vụ.”
 

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến trưa 9 tháng 2-2013, dành cho các vị lãnh đạo và hơn 4 ngàn Hiệp sĩ Malta, nam cũng như nữ, và những người thiện nguyện, đến từ 5 châu, nhân dịp kỷ niệm 900 năm công số Sắc chỉ “Pie postulatio voluntatis” của ĐGH Pasquale II ngày 15-2-1113, đặt Hội Hiệp sĩ Malta dưới sự bảo trợ của Giáo Hội.

Qua Sắc chỉ này, Hội Hiệp Sĩ Malta, – bấy giờ được gọi là ”Huynh đoàn trợ thế” ở Jerusalem, mang danh hiệu thánh Gioan Tẩy Giả,- trở thành một thực thể có chủ quyền, giống như một dòng tu theo luật Giáo Hội, có tự do bầu cử các bề trện, mà không chịu sự xen mình nào của thế quyền hoặc tôn giáo nào.

ĐTC đề cao lòng trung thành ngay từ đầu của các Hiệp sĩ Malta với Giáo Hội và với Người Kế vị thánh Phêrô… ”Nhờ đức tin, qua dòng lịch sử các Hiệp sĩ Malta đã xả thân trợ giúp các bệnh nhân ở Jerusalem, cứu giúp những tín hữu hành hương Thánh Địa gặp nguy hiểm, viết lên những trang sử rạng ngời về đức bác ái Kitô và bảo vệ thế giới Kitô giáo..” Ngài nói:

”Anh chị em hãy tiếp tục con đường ấy, làm chứng tá cụ thể về sức mạnh biến cải của đức tin.. Hãy biết bảo tồn và vun trồng đặc tính quí giá và nhiệt thành hoạt động tông đồ, luôn phù hợp với Huấn quyền của Giáo Hội.. Hoạt động quí giá và đầy ích lợi của anh chị em, trong các lãnh vực khác nhau ở các nơi trên thế giới, đặc biệt quy trọng tâm vào việc phục vụ bệnh nhân, qua các cơ cấu nhà thương và y tế, không phải chỉ có tính chất nhân đạo, nhưng là một sự diễn tả hữu hiệu và là chứng tá sinh động về đức bác ái theo Tin Mừng”.
ĐTC cũng nhắc nhở các Hiệp sĩ Malta rằng: ”Để trao ban tình thương cho anh chị em mình, cần phải kín múc tình thương ấy nơi lò tình yêu thương của Chúa, nhờ kinh nguyện, nhờ liên lỷ lắng nghe Lời Chúa và sống quy hướng vào phép Thánh Thể. Cuộc sống thường nhật của anh chị em phải thấm đượm sự hiện diện của Chúa Giêsu, anh chị em được mời gọi đặt những đau khổ của các bệnh nhân, nỗi cô đơn của người già, những khó khăn của người khuyết tật dưới dưới cái nhìn của Chúa. Khi đi gặp những người ấy, anh chị em phụng sự Chúa Kitô: ”Tất cả những gì các con làm cho một trong những người anh em bé mọn của Thầy đây, là các con làm cho chính Thầy” (Mt 25,40).

ĐTC ghi nhận Hội Hiệp Sĩ Malta là một chủ thể theo công pháp quốc tế. Hội không có tham vọng thực thi quyền bính hoặc ảnh hưởng trần tục, nhưng muốn thi hành sứ mạng của mình một cách hoàn toàn tự do để mưu ích toàn diện cho con người, tinh thần cũng như thể xác, quan tâm đến cá nhân cũng như cộng đoàn, nhất là những người cần hy vọng và tình thương nhiều hơn”.

Trước khi ĐTC vào Đền thờ Thánh Phêrô vào lúc quá 12 giờ trưa để gặp gỡ các Hiệp sĩ Malta, họ đã tham dự thánh lễ tạ ơn trọng thể do ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cử hành cùng với 30 HY, GM và hàng trăm LM tuyên ủy của Hội.

Hiện diện tại buổi lễ, cũng có 7 HY khác, cùng với ngoại trưởng Giulio Terzi của Italia, và nhiều giới chức chính quyền cũng như đại diện của 170 đại sứ quán ở Roma.

Hiện nay trên thế giới có 13,500 Hiệp sĩ Malta, nam và nữ, dấn thân hoạt động đặc biệt trong các công tác từ thiện và y tế. Hội đảm trách nhiều nhà thương, nhất là tại Đức, Pháp, Bỉ, Anh và Italia, Trung Đông và Phi châu, tham gia nhiều công tác cứu thương, săn sóc người già yếu.

Về mặt ngoại giao, Hội Hiệp sĩ Malta có quan hệ trên cấp đại sứ với 104 quốc gia trên thế giới (SD 9-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi toàn thể Giáo Hội hãy tái bày tỏ lòng tín nhiệm nơi người trẻ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7 tháng 2-2013, dành cho các tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đang nhóm tại Roma từ ngày 6 đến 9 tháng 2-2013 về ”các nền văn hóa đang lên của người trẻ”. Tham dự khóa họp có lối 20 HY, hơn 10 GM thành viên, cùng với đông đảo các cố vấn và khách mời.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC đã trình bày một phân tích về thực trạng phức tạp của người trẻ ngày nay, với những điểm sáng và điểm tối, những khó khăn và những khía cạnh tích cực, như sự hăng say quảng đại và can đảm của bao nhiêu người trẻ thiện nguyện, những kinh nghiệm về đức tin chân thành và sâu xa của bao nhiêu người trẻ làm chứng họ được thuộc về Giáo Hội, những cố gắng tại nhiều nơi trên thế giới để kiến tạo những xã hội có khả năng tôn trọng tự do và phẩm giá của mọi người, bắt đầu từ những người bé nhỏ và yếu thế nhất… Xét cho cùng, chúng ta đang đứng trước một thực tại phức tạp nhưng cũng đầy sức thu hút của người trẻ ngày nay, một thực tại cần được hiểu sâu xa và yêu mến với tinh thần cảm thông sâu đậm.. Tuy ý thức về bao nhiêu tình trạng có vấn đề liên quan tới lãnh vực đức tin và sự thuộc về Giáo Hội, chúng ta hãy canh tân lòng tín nhiện nơi người trẻ, tái khẳng định rằng Giáo Hội nhìn đến hoàn cảnh, các nền văn hóa của người trẻ như một điểm tham chiếu quan trọng và không thể tránh né để hoạt động mục vụ”.

Trong chiều hướng trên đây, ĐTC đã nhắc lại Sứ điệp của Công đồng chung Vatican 2 gửi người trẻ, trong đó Công đồng khẳng định rằng: ”Hỡi các bạn trẻ, Giáo Hội nhìn các bạn với lòng tín nhiệm và yêu thương.. Giáo Hội có những gì mang lại sức mạnh và vẻ đẹp của người trẻ, đó là khẳ năng vì vui mừng vì những gì bắt đầu, hiến thân mà không đòi đáp trả, canh tân và tái ra đi để chinh phục”. Và Đức Phaolô 6 đã gửi lời kêu gọi các bạn trẻ trên thế giới: ”Nhân danh Thiên Chúa và Con của Ngài là Đức Giêsu, chúng tôi nhắn nhủ các bạn hãy mở rộng con tim theo chiều kích của thế giới, hãy hiểu lời kêu gọi của anh chị em các bạn, và dùng nghị lực của các bạn để hăng say phục vụ họ. Hãy từ khước, không chạy theo những bản năng bạo lực, oán thù, gây ra chiến tranh và bao nhiêu điều lầm than theo sau đó. Các bạn hãy quảng đại, thanh khiến, tôn trọng, chân thành. Và hăng hái xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thế giới hiện nay”.

Và chính ĐTC Biển Đức 16 cũng mạnh mẽ tái khẳng định lòng tín nhiệm của Giáo Hội nơi người trẻ, hy vọng nơi nọ và những năng lực của họ, Giáo Hội cần người trẻ và sức sinh động của họ, để tiếp tục sống sứ mạng do Chúa Kitô ủy thác với một đà tiến mới”

Trong cuộc họp báo hôm 31 tháng 1-2013, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đã bày tỏ mong ước lắng nghe những ngôn ngữ và văn hóa của các thế hệ trẻ. Và theo ngài, Khóa họp toàn thể của Hội đồng là một cơ hội quí giá và một đòi hỏi cho những người lớn cũng như cho các cộng đồng Kitô. ĐHY nói: dĩ nhiên ngôn ngữ của người trẻ khác với chúng ta, nhưng tiềm năng của các thế hệ trẻ là điều chắc chắn. Cách tốt nhất để Giáo Hội có thể được nghe và nhìn thấy giữa đại hồng thủy của thời đại thông tin ngày nay là mở một “trận chiến truyền thông chớp nhoáng với những câu trả lời đơn sơ cho những vấn nạn thâm sâu nhất của cuộc sống.”

Chương trình 3 ngày nhóm họp của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa khá dầy đặc, và bàn về những thách đố khác nhau do các thế hệ trẻ nêu lên. Các bài thuyết trình đề cập đến các đề tài như xã hội hóa người trẻ, các ngôn ngữ và nghi thức kỹ thuật số, niềm tin của người trẻ, và các lối diễn tả cảm xúc của họ.

Để khai mạc hội nghị đã có một buổi hòa nhạc Rock vào ngày 6-2-2013 tại Đại Học Công Giáo Lumsa, gần Vatican, do nhóm nhạc sĩ ”The Sun”, Mặt Trời, ở Italia trình diễn. Có 4 nhạc sĩ trong nhóm này đã dần dần xích lại gần đức tin Kitô giáo trong những năm 2008 và 2009. Từ đó nhạc của họ chịu ảnh hưởng của cuộc hoán cải này. Các nhóm nhạc sĩ Rock này lan rộng trên toàn Italia và dấn thân nơi các tín hữu Kitô tại Thánh Địa mà họ hỗ trợ bằng nhiều sáng kiến. (SD 7-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP
– Radio Vatican

THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM (Mồng Ba Tết)

THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM

MỒNG BA TẾT

Thật hạnh phúc biết bao hằng năm Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm. Quả thực, con người làm lụng, Thiên Chúa trao ban. Câu nói của người Pháp rất chí lý (L’homme propose, Dieu dispose). Con người có đầu óc, có kế hoạch, có tài năng, bầy mưu hiến kế, nhưng nếu Chúa không ban ơn, không tiếp sức, không cho sức khỏe, con người cũng không thể hoàn thành công việc theo ý muốn. Hiểu rõ ràng, mọi việc là do Chúa. Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn quan tâm tới con cái của mình dành trọn ngày mồng ba để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.

Vâng, ngay trang Sách Sáng Thế 2,4-9.15, tác giả đã viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để con người canh tác và coi sóc đất đai”. Rõ ràng Thiên Chúa không muốn để con người ở nhưng không, năm chờ sung rụng, nhưng Ngài truyền lệnh hay nói một cách khác bắt con người phải làm việc. Bởi vì, ở nhàn rỗi, nhưng không sẽ gây ra tội lỗi. Nhàn cư vi bất thiện là thế. Sách Tông đồ Công vụ lại viết: “Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả và như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận”. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại, cho chúng ta về đời sống lao động. Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra. Cha của Ngài làm nghề thợ mộc. Thánh Giuse âm thầm làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình Nadarét không quản nhọc nhằn. Mẹ Maria chăm lo việc nội trợ để phục vụ trong yêu thương Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với Cha mẹ của Ngài. Tại Nadarét, nhân loại tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong gia đình Nadarét không hề kém giá trị cứu rỗi hôn việc rao giảng, loan báo Nước Thiên Chúa hay trong cuộc thống khổ tử nạn của Ngài, vì trong tất cả mọi sự Ngài đều tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, Cha của Ngài.

Chúa Giêsu đã dạy nhân loại, dạy chúng ta bài học để đời: “…phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”. Dụ ngôn ông chủ đi phương xa, trao cho các đầy tớ các nén bạc, minh chứng rằng: “Cần cù lao động, chịu khó với công việc, vâng nghe lời chủ, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp”. Lời kinh tiền tụng lễ ngày mồng ba tết dạy chúng ta nhiều điều: “ …Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Chúa Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế”. Chúa Giêsu đã làm việc để cho Nước Chúa được rạng sáng vinh quang, để cho thế giới được an bình, thịnh vượng. Nên, chúng ta hãy bắt chước Chúa, làm việc và làm việc không ngừng, nhưng phải mặc cho công việc một ý nghĩa cao quý. Đã đành, mọi người làm việc là để cho gia đình, cho bản thân của mình được tồn tại.Tuy nhiên, lao động cũng có nghĩa là góp tay với mọi người thăng tiến cuộc sống và làm cho công việc, lao động có ý nghĩa cứu rỗi…

Ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn viêc làm của chúng ta: công việc lao động tay chân và việc làm trí óc v.v… Xin Chúa chúc lành cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này để chúng ta hiểu rõ: “làm do chúng ta và ban do Chúa”.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen (Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Sống thảo hiếu (Ngày mồng hai)

Sống thảo hiếu (Ngày mồng hai)

Tuổi già 1

Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng sum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.

Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:

“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.

Khi nhận ra công cha nghĩa mẹ, thì đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta:

“Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”

Thế nên,

Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm

Lòng hiếu thảo quả là một tấm lòng thơm tho, đáng yêu. Lòng hiếu thảo làm cho con người thêm thanh cao, giá trị. Bởi được người đời kính trọng, yêu thương những ai có hiếu với mẹ cha.

Thế nhưng, giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn nơi các bậc cha mẹ vì thiếu tình thương của con. Ở đâu đó, trong nhiều mái gia đình, ông bà cha mẹ lại là gánh nặng cho con cái. Ở đâu đó, vẫn còn những tiếng nghẹn ngào của những bậc sinh thành bị bỏ rơi ngay giữa đàn con cháu của mình.

Thiết tưởng, ngày đầu xuân chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để nghe lời bộc bạch chân thành từ lá thư của một người cha viết cho con.

Lá thư ấy viết rằng:

Con thân mến,

Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu giùm cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vun vãi… Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!

Con hãy nhớ những ngày giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.

Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!

Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.

Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.

Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.

Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.

Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.

Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.

Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…

Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.

Thương con thật nhiều

Là người Kitô, chúng ta cũng được mời gọi sống giới răn: “hãy thảo hiếu cha mẹ”. Đây là lệnh truyền chứ không phải lời khuyên. Lời khuyên thì có thể không làm nhưng lệnh truyền thì buộc phải thi hành. “Phải thờ cha kính mẹ” còn là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại, Kinh Thánh còn ví kẻ khinh rẻ cha mẹ là chọc giận Thiên Chúa: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3, 16). “Phải thờ cha kính mẹ” đó là điều răn duy nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3). “Phải thờ cha kính mẹ” còn phải được thể hiện qua những lời khuyên nhủ thật chân tình trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12-16).

Người ta nói: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Việc thất đức mình làm cho tiền nhân cũng có thể tái diễn ngay chính cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không muốn con bất hiếu với mình thì chính chúng ta hôm nay cũng phài làm gương sáng về hiếu thuận với mẹ cha. Nếu chúng ta muốn con cái đối xử tốt với mình thì hôm nay chúng ta cũng phải ân cần săn sóc mẹ cha.

Nguyện xin Chúa Xuân chúc lành cho buổi họp mặt gia đình hôm nay. Xin Chúa Xuân cư ngụ đến từng gia đình, mang ơn lành đến cho muôn nhà để mọi người được hưởng nếm những giây phút bình yên nhất bên gia đình và người thân. Amen.

Lm. Tạ Duy Tuyền

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 02-01 đến 02-06-2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 02-01 đến 02-06-2013

Trích từ XBVN

  • Nhân bản hoá và Phúc Âm hoá giống như hai tay của cùng một thân thể.

  • Đức Giám Mục Sako được bầu làm tân Thượng phụ Giáo Hội Can-đê.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Kỷ niệm 40 năm Hiệp Hội Kinh Thánh Công Giáo Hồng Kông.

  • Người ám sát Đức Giáo Hoàng nói anh ta làm theo lệnh giáo chủ Khomeini.

  • Cuốn sách nhỏ mới về ơn gọi vận động sự nâng đỡ thiêng liêng.

  • Đức Biển-Đức khích lệ sáng kiến “Một người trong chúng ta” vì thai nhi.

  • Những chiếc chuông mới được làm phép ở Nhà Thờ Đức Bà.

  • Vị giám mục với 150 « bà vợ ».

  • HĐGM Hoa Kỳ, 4 cộng đồng Tin Lành đồng ý công nhận phép rửa của nhau.

  • Hai linh mục bị ám sát trong chưa đầy 15 ngày.

  • Giám mục cấm SSPX sử dụng các nhà thờ Công Giáo.

  • Năm Đức Tin : Các Gia đình hành hương về Roma.

  • Kazakhstan : Phái đoàn liên tôn ở Vatican.

  • An tử,“Thông điệp sai lầm”.

  • Quốc Hội Anh phê chuẩn hôn nhân đồng tính.

  • Một Thượng Hội Nghị được triệu tập ngày 11 tháng 02 tại Vatican

  • Bảo vệ các cặp đồng tính về mặt pháp luật không đòi buộc phải có hôn nhân.

  • Giáo trưởng Cope chỉ trích ảnh hưởng Hồi giáo trên Hiến pháp Ai Cập.

  • “Tin – Cậy – Mến”: sự hiện diện của Giáo Hội tại Hội Chợ Sách quốc tế ở Đài Bắc.

(Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 02-10-2013 )

TRÁI CÂY NGÀY TẾT

TRÁI CÂY NGÀY TẾT

Mùa Xuân là mùa của hoa. Những ngày gần Tết, đi đâu cũng thấy hoa, từ phố thị đến thôn quê. Hoa đủ dáng vẻ, lắm sắc màu. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Hoa đua nhau khoe sắc, rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ của mùa Xuân.

Dưa hấu quý tỵ

Mùa Xuân cũng là  mùa của trái cây ngon ngọt khắp mọi miền đất nước. Trái cây đủ loại, tươi màu thắm sắc và giàu ý nghĩa, làm nên hương vị những ngày Tết.

 

Theo quan niệm của người phương Đông xưa, thế giới được tạo nên từ  "ngũ hành": Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Tư tưởng cùng hình ảnh "ngũ hành" hội nhập sâu sắc vào đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của các dân tộc phương Đông với rất nhiều biểu hiện. Một trong những độc đáo của hội nhập “ngũ hành” là mâm ngũ quả ngày Tết của người Việt Nam. Mâm ngũ quả truyền thống thường chỉ gồm 5 loại quả, được xếp kiểu hình tháp lên đĩa to hoặc mâm, đặt trên bàn thờ. Mâm ngũ quả gồm 5 loại quả có 5 màu sắc khác nhau, thể hiện ước muốn của người Việt là, năm mới sẽ đạt được ngũ phúc lâm môn: phú, quý, thọ, khang, ninh (giàu có, sang trọng, sống lâu,khỏe mạnh và bình an). Ngày nay, cuộc sống hiện đại cùng sự giao lưu phong tục làm cho mâm ngũ quả ít nhiều biến đổi: số quả có thể nhiều hơn 5, cách xếp tự do hơn, trang trí hoa lá, cắm nến để tạo ánh sáng, kết những dây đèn điện tử nhiều màu xung quanh… Tất cả các loại quả trong dịp Tết đều có thể đem bày: chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, trứng gà, hồng xiêm, táo… Mỗi loại quả mang một ý nghĩa riêng: nải chuối, phật thủ như bàn tay che chở; bưởi, dưa hấu căng tròn, mát lành hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn; hồng, quýt rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt.

Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng.

Mâm ngũ quả của người miền Bắc gồm: chuối, ớt, bưởi, quất. Có thể thay thế bằng cam, quýt, trứng gà (lêkima), hồng xiêm. Chuối xanh cong lên ôm bưởi mang ý nghĩa đùm bọc. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người.

Mâm ngũ quả người miền Nam gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý "cầu sung vừa đủ xài". Người dân Nam bộ quan niệm rằng: “Tết đến trong gia đình không có cặp dưa hấu đỏ thì bất thành Tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc”.

Ngoài mâm ngũ qủa, phong tục ngày Tết thường có thêm một nét đẹp nữa là mỗi nhà nấu một nồi chè đậu xanh đêm giao thừa và dựng cây nêu, sáng Mồng Một cắt đôi quả dưa hấu. Ngày đầu năm mới, ngày thiêng liêng nhất, chủ gia đình bổ quả dưa hấu. Mọi người hồi hộp đợi chờ. Ruột đỏ tươi vị ngọt dòn, chia đều mỗi người một miếng, đưa vào miệng thưởng thức vị “Ngọt thanh như đường cát, mát chẳng kém đường phèn”, nghe mát lạnh khắp châu thân. Ngâm nga bài thơ “Dưa hấu ngày xuân” của Thi sĩ Lê Ngọc Hồ, lòng bừng lên niềm vui ngọt ngào mùa xuân.  
 

Bên chậu mai vàng chị xẻ dưa
Hạt  đen, ruột đỏ đẹp dư thừa
Đàn em xúm xít chia phần lớn
Cươì  rộ reo hò xuân nắng thưa
 
Ngũ  quả mẹ bày trông quá xinh
Gia nhân theo chị cúng trên đình
Trái dưa xanh biếc no tròn đẹp
Bàn  độc sơn, vàng sơn mới tinh 
 
Cha gọt nâng niu chậu thuỷ tiên
Cùng mâm ngũ quả cúng gia tiên
Trái dưa lớn nhất trông mà thích
Phiên chợ ba mươi chọn, mẹ hiền 
 
Đẹp biếc vỏ xanh dưa hấu đỏ
Truyện xưa tích cũ  một An Tiêm
Xin dâng hoàng phụ, lòng cung tiến
Dưa đảo đầu xuân trái ngọt hiền.

 
Không rộn ràng như mai vàng, không ồn ào như đào thắm, dưa hấu hiện diện cách khiêm tốn trên bàn thờ như nó vốn là. Với hình thể tròn lẳn, ruột đỏ vỏ xanh, căng tròn mọng nước, dưa hấu là hình tượng của những gì viên mãn, là hình ảnh của sức sống ẩn kín được bày trang trọng trên các bàn ăn, bàn thờ.
 
Màu đỏ của trái dưa hấu tượng trưng cho tài lộc, may mắn. Bổ trái dưa mang màu sắc đỏ thắm ai ai cũng mừng vui, kỳ  vọng cho công việc làm ăn cả năm được hưng thịnh. Nhưng nếu trái dưa nó không mang màu tài lộc thì sao, màu vàng, màu trắng chẳng hạn ?
 
Người Việt đều biết nguồn gốc trái dưa hấu từ câu chuyện cổ  tích Mai An Tiêm. Màu đỏ là hình ảnh của sự  may mắn, thành công; màu xanh ẩn chứa niềm vui hạnh phúc bên trong; vị ngọt thanh gợi cho mọi người nhớ tình thân của bạn bè, gia đình.

Ngày đầu năm, bổ  đôi trái dưa ngọt ngào, người cắt nhát dao đầu tiên phải là người đứng đầu trong nhà. Miếng dưa bổ  ra được chuyền tay mọi người với hy vọng các thành viên trong gia đình luôn gắn kết yêu thương nhau như miếng dưa được xẻ ra từ một trái. Màu sắc của dưa hấu nói lên ít nhiều sự hưng thịnh cửa gia chủ. Bởi thế khi mua dưa hấu người ta phải thận trọng, vì nếu mua phải trái dưa èo uột, màu sắc nhạt nhẽo thì năm ấy coi như xui xẻo từ ngày đầu; ngược lại, trái dưa mọng nước, đỏ tươi, ngọt lịm thì coi như bốc trúng quẻ tốt. Người mua dưa hấu bày Tết chọn rất kỹ từ màu sắc sáng, tròn đều, trái cân đối không lớn và nhỏ quá. Còn người buôn bán dưa hấu để bày Tết hầu hết họ phải lặn lội về tận các ruộng, rẫy trồng dưa, chọn đồng, chọn dưa, đặt cọc trước và giá luôn đắt hơn loại thường, tự họ chăm sóc trước cả tuần và không tưới nước nhiều cho đến ngày thu hoạch. Họ tính toán chi ly để bảo quản dưa Tết luôn luôn đẹp. Vận chuyển dưa hấu phải lót rất nhiều rơm xung quanh từng trái, xe chạy thật chậm, chăm sóc còn hơn vận chuyển trứng, tránh trầy xước, xe phải chạy vào ban đêm hoặc trời râm mát… tất cả đều phải công phu, cẩn trọng. Mua dưa mà như bốc quẻ xăm, quẻ bói đầu năm vậy. Hồi hộp và hy vọng. Ngày xưa, các bà các cụ thường căn cứ vào tài khéo khi mua dưa, khi bổ dưa để chọn vợ cho con trai mình.
 
Ngày Tết, sau những bữa cơm chán ngán vì thịt mỡ, bánh chưng, kẹo ngọt…  thì không gì có thể hơn miếng dưa hấu ngọt lịm. Cầm trên tay miếng dưa như chiếc thuyền rồng đáy xanh, sơn son mịn cát lóng lánh, điểm vài nốt hạt đen. Cắn miếng dưa nhẫn nha cho dòng nước ngọt của đất từ từ trôi qua cổ họng mát rượi. Người ta nói, thơm nhất, ngọt nhất, ngon nhất là những trái dưa trồng trên miền đất cát, nắng gió quanh năm. Càng khắc nghiệt thời tiết, trái dưa càng tiết mật ngọt cho đời. Vì ưu ái mà Trời đã thưởng cho dân nghèo sống vùng đất khô cằn hạn hán thứ quả lạ đời này, như ngày nay Phan Thiết nổi tiếng với trái Thanh Long chỉ ngon ngọt nơi những miền đất khô khan nắng hạn.
 
Nhìn mâm ngũ quả trên bàn thờ, trái dưa hấu nổi bật với những chữ Hán nền vàng nổi bật trên nền xanh: Phúc, Lộc, Thọ, Cát… thật  ý nghĩa. Những chị những cô khéo tay còn có  thể là biến hoá thành những mảnh vuông tròn để người thưởng lãm không chỉ bằng miệng mà còn bằng mắt. Dưa hấu có thể là một vị thuốc dân gian, giải khát, vị hàn thanh… gặp lúc quá chén chếnh choáng, không có gì giã rượu nhanh bằng dưa hấu.

Một trong những yếu tố mang tới hạnh phúc cho con người là có sức khỏe tốt, ít bệnh tật. Thiên tài khoa học Albert Einstein có nhận xét: “ A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy.” Một cái bàn, một cái ghế, một đĩa trái cây và một cây đàn violin; con người còn cần gì thêm nữa để được hạnh phúc!

Ngày nay với công nghệ  hiện đại, người ta làm ra mâm ngũ quả bằng nhựa. Hoa giả, trái dỏm đặt trên bàn thờ tiên tổ nghe sao mà nhức lòng và thiếu thành tâm.

 

29 Tết Qúy Tỵ
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ

ĐẦU NĂM HÁI LỘC

ĐẦU NĂM HÁI LỘC

Hái Lộc ngày Tết

Ngày Tết Nguyên Đán là thời gian quan trọng nhất trong năm, được coi như ngày thánh, con cái dù ở nơi xa cũng cố gắng trở về sum họp dưới mái gia đình để ăn Tết. Giao thừa là lúc mọi người phải có mặt đầy đủ để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ được mọi sự lành trong cả năm mới.

Ngoài ra, người ta còn kiêng cữ trong cách sống, không dám nói hoặc làm một điều gì sai trái để tạo ra xúi quảy cho cả năm.

I. LỜI CHÚC TẾT ĐẦU NĂM

Trong những ngày đầu năm, người ta cầu chúc nhau rất nhiều điều cao quí, rất đa dạng, tùy theo từng hoàn cảnh. Thường người ta chúc nhau : phát tài phát lộc, bách niên giai lão, buôn may bán đắt, thăng quan tiến chức, vạn sự như ý; hay nói một cách tổng quát người ta chúc nhau được ngũ phúc : Phú, Quí, Thọ, Khanh, Ninh.

Ngoài ra, cũng có những câu chúc có vẻ văn hoa như :

Trẻ mãi không già, mặn mà nhan sắc,
Vạn sự cát tường, toàn gia hạnh phúc,
Vui trong sức khỏe, trẻ trong tâm hồn, khôn trong công việc, tuyệt vời trong tình yêu.

Có những câu dài hơi hơn như :

Vạn sự như ý, tỷ sự như mơ, cuộc đời như thơ, tình yêu như nhạc, coi tiền như rác, xem bạc như rơm, chung thủy với cơm, không màng chi phở.

Hoặc chúc mọi người một cách rộng rãi hơn :

Chúc mọi người một bầu trời sức khỏe, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình hạnh phúc.

Thế nhưng, lời cầu chúc tốt đẹp và đầy đủ nhất vẫn là lời chúc “ Phúc. Lộc, Thọ.

Phúc là mong được nhiều hạnh phúc,

Lộc là mong được nhiều của cải lợi lộc,
Thọ là mong được sống lâu mạnh khỏe.

Để tượng trưng cho Phúc, Lộc, Thọ, người ta dùng hình ảnh ba ông già.

Ông Phúc được thể hiện dưới dạng một người giầu có, nét mặt viên mãn hiền hậu, với những chi tiết về hình thể biểu lộ quí tướng như khối hình đầy đặn, tai to, mũi thẳng, hàm nở… mình mặc áo chùng, tay bồng một đứa trẻ mũm mĩm tượng trưng cho con cháu ngoan hiền.

Ông Lộc được thể hiện dưới dạng một viên quan đầu đội mũ phốc hay mũ cánh chuồn, mình khoác áo vân cẩm, dáng đứng nghiêm trang, khuôn mặt uy nghi quắc thước, bởi vì người xưa quan niệm rằng sự thành đạt của con người được thể hiện trên con đường công danh chức tước nhiều bổng lộc.

Ông Thọ được thể hiện dưới dạng một ông già hói đầu, râu tóc bạc phơ, mình mặc áo chùng, tay cầm gậy trúc, trên đầu gậy có treo mấy quả đào tiên, một biểu tượng nói lên sự trường thọ.

Hôm nay, chúng ta đặc biệt chúc nhau chữ LỘC, từ lộc vật chất đến lộc thiêng liêng, đó là LỘC THÁNH do Thiên Chúa ban cho : “Đó là Phúc Lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128,4) hoặc câu khác : “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng. Bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128,2).

II. TỤC HÁI LỘC TRONG NGÀY TẾT

1. Tục hái lộc nơi chùa miếu

Theo tài liệu của ông Phan Kế Bính, ông Toan Ánh và ông Nhất Thanh thì sáng sớm ngày mồng một Tết, người ta đi lễ chùa miếu để xin Thần Phật gia ơn độ trì cho năm mới.

Thường ai cũng mua vài nén hương để khấn vái trước bàn thờ, hoặc đông người quá thì dâng hương ở ngoài sân. Có người mua về vài ba nén hương gọi là “hương lộc” đem về cắm vào bát hương Táo quân ở nhà. Lửa đỏ ở mấy nén hương là lộc Phật Thánh ban biểu tượng cho sự thịnh vượng.

Cũng có nhiều người không xin hương lộc, thì lễ xong ra sân vườn chùa miếu bẻ lấy một cành cây, tục gọi là “HÁI LỘC” đem về gọi là Lộc Thánh.

Tục hái lộc ở các chùa miếu ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần Phật ban cho năm mới. Cành lộc thường là một cành đa nhỏ, cành đề, cành si là những loại cây quanh năm tươi tốt và nảy lộc.

Năm mới lúc trở về có tài lộc mang theo vừa chỉ sự may lành, vừa chỉ sự vui sướng.

2. Tục hái lộc nơi thánh đường

Ngày Mồng Một Tết, ngày linh thiêng nhất trong năm, ngày cầu bình an cho năm mới. Nhiều giáo xứ tổ chức hái lộc đầu xuân.

Lộc thánh là những câu Lời Chúa được tuyển chọn trong Thánh Kinh. Lộc được treo trên những cành mai vàng rực rỡ đặt trên cung thánh. Sau bài giảng, Cha chủ tế hái lộc thánh đầu xuân, rồi đến các tu sĩ nam nữ, đến đại diện các hội đoàn và đại diện các gia đình lên hái lộc.

Sau Thánh lễ, mọi người ra về mang theo niềm vui và hạnh phúc, bình an và Ơn thánh. Gia đình sum họp trước bàn thờ đọc kinh nguyện, dâng một năm mới lên Chúa và Đức Mẹ. Người cha hoặc người mẹ trịnh trọng mở lộc thánh đọc cho cả nhà nghe. Mỗi lộc thánh hợp với từng gia đình. Lộc thánh được đặt trang trọng trên bàn thờ, dưới chân thánh giá. Câu chuyện ngày Tết đi thăm nhau thường hàn huyên về lộc thánh Lời Chúa mỗi nhà.

Lời Thánh vịnh 27 nói lên niềm cậy trông : “Tôi vững vàng tin tưởng, sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống. Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào, hãy cậy trông vào Chúa” (Tv 27).

Vững vàng tin tưởng và trông cậy vì người Kitô hữu xác tín vào lời Chúa Giêsu dạy : “Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho” (Mt 7,7).

Không phải bây giờ người ta mới hái lộc. Từ ngàn xưa, thuở địa đàng đã có truyện con gái đi hái lộc đầu xuân rồi.

Đọc chương 3 sách Sáng thế, chúng ta thấy rõ có một cô gái đẹp ở Vườn Diệu quang, cô được hái lộc ở mọi cây, trừ cây biết lành biết dữ ỡ giữa vườn. Lộc cây ấy không phải lộc tốt mà có hại. Nhưng cô đã liều lĩnh hái lộc cây ấy và lập tức cái lộc cây ấy quật ngã cố. Đó là cô EVÀ đã hái lộc cây trái cấm. Cô đã không hái được lộc thánh mà chỉ hái được lộc của tội lỗi, độc hại. Cô đã đánh mất hạnh phúc trong ngày đầu xuân.

Nhưng bù vào đó, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế cứu chuộc loài người bằng Cây Thập Giá mà lộc của cây này lại đem phúc trường sinh. Lộc đây là lộc thánh ban muôn vàn ơn phúc. Cũng từ đó, Chúa lại còn ban cho chúng ta một thứ lộc quí giá nữa, đó là “Bí tích Thánh Thể”. Chúa phán : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời”.

III. HÃY TẬN HƯỞNG LỘC THÁNH CHÚA BAN

Hôm nay chúng ta không đến chùa miếu để khấn Thần Phật như người ta thường làm, mà đến nhà thờ để ca tụng Chúa là Chúa của Mùa Xuân và xin Người ban cho ta được nhiều ơn lành hồn xác. Chúng ta hãy hái lộc thánh đem về để cho cả năm Quý Tỵ này được may mắn.

Tờ Lộc thánh mà chúng tôi tặng anh chị em hôm nay là lời Chúa Giêsu đã chào thăm các môn đệ sau khi Người sống lại : “Bình anh cho các con” (Ga 20,19.26).

Cùng với tờ Lộc thánh, chúng tôi chúc anh chị em một câu thơ mà ngươi ta chúc nhau trong ngày đấu xuân, coi như món quà tặng cho nhau :

Mai vàng nở khắp quê nhà
An khang thịnh vương món quà đầu năm

“An khang thịnh vượng” cũng là một trong 5 lời chúc căn bản nhất : Phú, Quý, Thọ, Khang. Ninh. “An khang thịnh vượng” là một lời chúc từ chữ Hán, dùng để chúc nhau vào những dịp Tết hay ăn mừng tân gia..

Chữ “An” diễn tả sự bình an, yên ổn, an vui, an bình.
Chữ “Khang” diễn tả sự mạnh khỏe, tươi tốt.

Vậy chúc cho nhau “an khang thịnh vượng” là chúc cho người ta được sống trong bình an, thư thái, mạnh khỏe và phát đạt. Do đó, chúng tôi chúc anh chị em được anh bình cả hồn lẫn xác trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Sự an bình chúng tôi muốn chúc cho anh chị em không phải là anh bình nhất thời, tạm bợ mà là thứ an bình mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã chúc cho loài người trong đêm Người giáng sinh :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người Chúa thương.
(Lc 2,14)

Sự bình an Thiên Chúa ban cho gồm cả hai phương diện :

– Về thể xác : an lành, may mắn, không tai họa, không chiến tranh.
– Về tâm hồn : được ơn nghĩa cùng Chúa, sống kết hợp thân mật với Người.

Điều chúng tôi cầu chúc hôm nay đặc biệt là an bình trong tâm hồn, một thứ an bình tròn đầy và vĩnh cửu. Xã hội có an bình mà lòng không có thì kể là không có an bình thực sự, và ngược lại, xã hội tuy đầy chiến tranh loạn lạc nhưng lòng vẫn được an bình thư thái.

Điều kiện muốn có an bình trong tâm hồn là phải có một tâm hồn trong sạch : “Ai có lòng trong sạch ấy là phúc thật vì sẽ được xem thấy mặt Đức Chúa Trời vậy”. Ai phạm tội là chống lại Chúa, chống lại Chúa là thù nghịch với Chúa, gây chiến với Chúa, như thế làm sao có sự bình an trong tâm hồn được ?

Để kết thúc, xin chúc anh chị em được hưởng sự bình an trường cửu ngay ở đời này nếu anh chị em thực hiện Lời Chúa trong bài Tin mừng Thánh lễ hôm nay : “Trước hết, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,34).

Tân niên thánh đức bao ân phúc
Xuân nhật an hòa mãi phúc vinh

 

LM Giuse Đinh Lập Liễm

 

Giao Thừa Đoàn Tụ

Giao Thừa Đoàn Tụ

Xuân Đức Tin

Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.

Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.

Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ , thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.

Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời… Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.

Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.

Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho “con tạo xoay vần” theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.

Thế nê, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:

– Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
– Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
– Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
– Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
– Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
– Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
– Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
– Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
– Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại

Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Thợ Mộc Dạy Ngư Phủ Đánh Cá

 Thợ Mộc Dạy Ngư Phủ Đánh Cá

Khỏi cần nói bạn cũng thừa biết rằng Chúa Giê-su không phải là một người xuất thân từ một gia đình làm nghề đánh cá, Ngài không phải là một ngư phủ, mà là một người thợ mộc ở làng Na-za-rét (Mc 6:3).  So với kinh nghiệm đi biển của ông Si-môn Phêrô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê, kinh nghiệm về chuyện đánh cá, đánh tôm, đi biển, vá lưới … của Chúa Giêsu chả ăn thua gì cả, kể cả chuyện bơi lội, Chúa Giêsu cũng không biết luôn, bằng chứng là có một lần Ngài đã đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ”(Mt 14: 25; Mc 6:48).  Nếu biết bơi thì Ngài đã chẳng phải … đi bộ trên mặt nước mà đến với các môn đệ, bạn đồng ý không?

Vậy mà trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca tường thuật lại rằng, người thợ mộc mang tên Giêsu lại chỉ cho anh ngư phủ chuyên nghiệp có tên Si-môn là hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc5:4) thì bạn thấy có…lạ không?  Chưa hết, ông Si-môn lại răm rắp tuân theo lời hướng dẫn của người thợ mộc Giêsu nữa mới là lạ chứ lại!  “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.  Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc5:5).  Tại sao vậy?  Lý do nào đã khiến cho ông Phêrô, một ngư phủ kinh nghiệm đầy mình mà lại ngoan ngoãn vâng theo lời khuyên của một anh thợ mộc như vậy?  Đọc chương 4 trong Tin Mừng của thánh Luca, tôi thấy có một lý do rất thuyết phục, đó là bởi vì ông Simôn đã cảm nghiệm được rằng Chúa Giêsu không phải là một người tầm thường, bởi vì Lời của Ngài có một sức mạnh, có một uy quyền và có một hiệu quả vô cùng to lớn. Thật vậy! 
  • Ông đã nghe người ta bàn tán rằng, Chúa Giêsu có những lời giảng dạy uy quyền và thu hút đến nỗi mọi người [ở Na-da-rét] đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người (Lc 4:22).
  • Ông đã từng chứng kiến Chúa Giêsu dùng LỜI để trừ quỷ ở trong hội đường Ca-phác-na-um.  Lời của Chúa uy quyền đến nỗi người ta phải thốt lên rằng:  "Lời ấy là thếnào?  Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!" (Lc 4:36).
  • Ông chính là người đã chứng kiến tận mắt, nghe tận tai Chúa Giêsu dùng Lời để chữa bệnh:  "Đức Giêsu ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt [của bà mẹ vợ ông Simôn] biến mất!" (Lc 4:39).
Vì thế cho nên mặc dù Chúa Giêsu không phải là một ngư phủ lành nghề, mặc dù Ngài không có kinh nghiệm về biển như ông, nhưng ông tin rằng, Lời của Ngài phán ra sẽ mang lại hiệu quả cao cho ông, vì thế cho nên ông mới ngoan ngoãn, và mau mắn chèo thuyền ra khơi thêm một lần nữa để thả lưới bắt cá.
 
Nếu bạn đồng ý với tôi rằng, chính vì ông Si-môn đã có những cảm nghiệm sâu sắc về sức mạnh, về quyền lực và những hiệu năng của LỜI Chúa như vậy, cho nên ông mới dễ dàng vâng nghe theo Lời khuyên của Ngài:  "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” thì bạn và tôi cũng hãy cố gắng và chịu khó lắng nghe và tuân phục những Lời dạy dỗ và khuyên răn của Chúa qua trung gian Mẹ Giáo Hội, qua những lời giảng dạy của Đức Giáo Hoàng, của các Đức Giám Mục, của các linh mục, của ông bà, cha mẹ …về những vấn đề liên quan đến đức tin và luân lý, bởi vì chính Đức Giêsu đã trao cho các ngài nhiệm vụ nhiệm vụ chuyển Lời răn dạy của Ngài đến chúng ta: "Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con" (Mt28:19-20).
  • Con cái phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ, chăm sóc và phụng dưỡng các ngài khi các ngài đau yếu, về già và những lúc bệnh tật…
  • Tránh xa những cám dỗ của xì ke, ma tuý, của cờ bạc rượu chè, của phim ảnh xấu xa trên internet…  Không được quan hệ, hay ăn ở với nhau trước khi làm đám cưới, không được ly dị, không được khinh thường hoặc ngược đãi nhau…
  • Không được thực hiện hay ủng hộ cho những việc như ngừa thai, phá thai, trợ tử…Trái lại mọi người phải tôn trọng và nỗ lực bảo vệ sự sống, dù đó chỉ là một phôi thai hay là một thân xác già yếu bệnh tật, hấp hối trên giường bệnh, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là chủ sự sống [và] quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội.(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #2258 & 2270).
  • Phải đối xử công bằng và bác ái đối với tất cả mọi người, không được có thái độ hay những hành động kỳ thị, xem thường người khác vì khác màu da, khác văn hoá, khác sắc tộc hay vì khác biệt về địa vị trong xã hội hoặc khác biệt về trình độ văn hoá…bởi vì làm như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa "(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #1935).
  • Phải có trách nhiệm, phải có tinh thần liên đới, và phải quan tâm đến những người nghèo khó, đến những anh chị em đang lâm vào những cảnh khó khăn, hoạn nạn…Tình liên đới là một đức tính nổi bật của Ki-tô giáo.  Tình liên đới thúc bách chúng ta chia sẻ của cải vật chất và hơn nữa, cả của cải tinh thần (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo #1948).
Bạn thân mến, ông bà ta thường nói:  "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư!" Nếu tôi và bạn bất tuân những lời răn dạy của ông bà cha mẹ thôi mà mình bị hư hỏng như vậy thì khi chúng mình bất tuânLời răn dạy, khuyên bảo và dạy dỗ của Chúa thì sao?  Thê thảm lắm bở ivì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi ”(Tv119:105) không tuân theo Lời Chúa là khiđó cả thân xác và linh hồn của tôi và của bạn sẽ đi trong bóng tối, trong bóng đêm của lo âu và sợ hãi.  Mà khi tôi và bạn bước đi trong bóng đêm và tối tăm như vậy thì chúng mình sẽ bọ rơi vào hố diệt vong là chuyện dĩ nhiên, cá không ăn muối cá ươn, ta cãi Lời Chúa, linh hồn ta tiêu vong là như vậy đấy!
 
Bạn có muốn thu hoạch được những mẻ cá giống như ông Si-môn nhiều đến nỗi hầu như rách cả lưới không?  Nếu bạn muốn thì hãy noi gương ông Si-môn, không lý luận, không cãi cối, và cũng không hồ nghi… nhưng hãy lắng nghe và thực hành theo Lời Chúa dạy qua những vị trung gian của Chúa ở trần gian này.  Nhưng trước tiên, bạn và tôi phải gần gũi, phải tiếp cận nhiều hơn với Kinh Thánh bằng cách siêng năng đọc Kinh Thánh mỗi ngày, chỉ cần 5 phút một ngày thôi, và trước khi đi lễ Chúa Nhật, bạn hãy chịu khó đọc những bài chia sẻ Lời Chúa trên các trang web Mỹ cũng như Việt, và nếu có lớp KinhThánh nào đó mở ở giáo xứ hay ở địa phận, thì bạn đừng bỏ lỡ cơ hội, hãy ghi danh đến học hỏi ngay, nhiều cái lợi lắm!  Thậtđấy!
 
Cuối cùng, trước thềm năm mới Quý Tỵ, tôi xin cầu chúc bạn và gia quyến cũng như cộng đoàn của bạn sức khoẻ dồi dào, lanh lẹ như rắn, gặp nhiều may mắn, bình an và vạn sự như ý…Chúa!  Amen!
 
Lm Ansgar Phạm Tĩnh, SDD

Chúa Nhật 5 thường niên năm C

Chúa Nhật 5 thường niên năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, nếu ta để ý khi người ta tán dương, chúc tụng hay cám ơn ai, thì họ biểu lộ bằng sự lặp đi lặp lại một điệp từ nào đó; chẳng hạn: “Hoan hô Đức Thánh Cha, hoan hô Đức Thánh Cha, hoan hô Đức Thánh Cha” hay “Cám ơn, cám ơn và xin cám ơn”. Thế thì, qua bài đọc 1 của Chúa Nhật thứ 5 năm C này, ta thấy lời tung hô của các thiên thần đối với Thiên Chúa: “Thánh, Thánh, Thánh”. Lời tung hô oai hùng mạnh mẽ đến nỗi nền nhà rung chuyển và nhà cửa đều đầy khói. Với các thiên thần mà còn phải tung hô Thiên Chúa như vậy thì huống hồ là con người thì phải tung hô Thiên Chúa hơn nữa biết bao.

     Con người đại diện cho toàn thể muôn loài muôn vật trong vũ trụ để cất tiếng tung hô: Thánh Thánh Thánh, đây là những lời tán dương, chúc tụng, ngợi khen dâng lên Đấng chí Thánh chí tôn uy nghi cao cả.  Đứng trước sự uy nghi thánh thiện như thế con người thấy mình dơ bẩn và phải chết đi được vì nỗi sợ hãi, như lời tiên tri Isaia đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi ! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp” (Is 6,5). Tiên tri ý thức được con người yếu đuối tội lỗi, dơ bẩn nên cần được thanh tẩy bằng quyền năng của Thiên Chúa. Với hình ảnh mà Tiên tri Isaia được Thần Sốt Mến gắp cục than đỏ từ bàn thờ tới đặt nơi miệng tiên tri để tẩy rửa, thánh hóa và thiêu đốt, lúc đó tiên tri mới dám thưa: “Này con đây, xin hãy sai con”.

     Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, mỗi người chúng ta phải ý thức được sự thánh thiêng của Thiên Chúa và sự phàm tục dơ bẩn của con người; Ý thức được Thiên Chúa quyền năng thánh thiện để ta có thái độ phủ phục suy tôn, biết nói lên lời tạ ơn Chúa là một hồng ân của tôi, chứ không phải là việc bị ép buộc hay miễn cưỡng. Ý thức được tình trạng con người tội lỗi của mình cần được ngọn lửa mến yêu của Thiên Chúa thiêu đốt, và thánh hoá, như Thiên Chúa đã thánh hoá môi miệng tiên tri Isaia xưa, có như thế chúng ta mới dám mở miệng ca khen, chúc tụng Thiên Chúa, như lời Kinh Tiền Tụng thứ 4, linh mục đọc: “Được tạ ơn Chúa là một hồng ân, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ”.
 
     Vậy thì, thưa qúi ông bà anh chị em, mỗi khi chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, mỗi khi chúng ta tới nhà thờ dâng thánh lễ, đó không phải là một niềm vui, hạnh phúc và vinh dự cho chúng ta đó hay sao; bởi vì không ai đứng vững trước nhan Thánh Chúa, và cũng không ai xứng đáng mở miệng ra để cao rao Danh Thánh Chúa; nhưng Ngài cho phép chúng ta, chúng ta mới tới trước thánh nhan, mở miệng ra để chúc tụng ca khen danh Chúa, mà  chúng ta không bị tiêu diệt. Nếu như ngày xưa tiên tri Isaia đã trông thấy Thiên Chúa các đạo binh, để rồi tiên tri phải thốt lên: “Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi dơ bẩn” thì ngày hôm nay, qua con mắt đức tin chúng ta không những nhìn thấy Chúa qua thánh lễ, rồi lại được đứng vững trước nhan Thánh của Chúa để dâng lời ca khen, chúc tụng Chúa, và còn hơn thế nữa là, ta còn được đụng chạm đến một sự cực Thánh vô cùng, đó là Mình Thánh Chúa khi chúng ta rước lễ, thế mà chúng ta vẫn không bị tiêu hủy; trong khi chúng ta còn nhơ bẩn bởi biết bao tội lỗi; cho nên ta lại càng phải tạ ơn Chúa bao ngàn lần hơn nữa, vì Thiên Chúa đích thân đến với chúng ta qua Đức Giêsu.
 
     Chúa Giêsu đến để rao giảng nước Thiên Chúa và ban bố mọi ơn lành. Ngài đã từng giảng dạy dân chúng trong các hội đường, ở núi đồi hay dọc theo bờ biển, như bài Tin Mừng của thánh Luca thuật lại trong Chúa Nhật thứ 5 năm C này. Vì dân chúng đông đúc chen lấn nhau, nên Ngài đã phải mượn chiếc thuyền đánh cá của ông Simon, dùng thuyền làm diễn đàn để giảng dạy, rồi cũng từ chiếc thuyền đó, đã diễn phép lạ qua mẻ lưới bắt được nhiều cá mà những người rành nghề chài lưới không thể tưởng nổi; vì mẻ lưới hoàn toàn ngược lại với những tính toán của những con người đầy kinh nghiệm trong nghề chài lưới. Họ thức trắng đêm mà chẳng bắt được con cá nào. Quả thật, họ đã giặt lưới trong sự chán chường mệt mỏi, nản chí vì thất bại; thế mà khi nghe Chúa Giêsu bảo đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá. Lẽ ra trong bối cảnh này, con người dễ phản ứng ngược lại, thế mà ở đây, ông Simon đã mau mắn đáp trả, trước hết qua sự kể lại công việc bắt cá đêm qua, vất vả khó nhọc thâu đêm: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.” Với câu trả lời này hàm chứa ẩn ý mà không nói ra là: “Chúng tôi đây là những tay sành nghề chài lưới, còn ông đâu phải là nghề biển mà lại bảo chúng tôi thả lưới giờ này, thật là nực cười”. Ở đây, ông Simon không bảo thủ với sự lão luyện nghề chài lưới của mình, trái lại, ông đã vứt bỏ tất cả và ngoan ngoãn thưa: “Vâng lời Thầy, tôi xin thả lưới”. Nghĩa là: vì con tin Thầy, con sẽ làm theo lời Thầy chỉ dạy. Chính vì sự vâng lời tuyệt vời của ông Simon, nên phép lạ liền xẩy ra, mẻ cá chưa từng thấy bao giờ; một mẻ lưới mà cả hai chiếc thuyền chở đầy đến nỗi gần chìm.
 
     Thấy sự việc như thế khiến ông Simon sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !” Với khoảng khắc, Simon nhận ra con người Giêsu đang ở trước mặt ông là ai? Đồng thời, ông  nhận ra tình trạng con người của ông. Đây là một sự nhìn nhận tuyệt vời của sự gặp gỡ đích thực, hay nói cách khác, đây là một cuộc gặp gỡ nhảy vọt, đổi nghề. Sự gặp gỡ của Simon ở đây không phải chỉ gặp gỡ một con người bằng xương bằng thịt như bao người khác, một con người có tên là Giêsu, quê ở Nazarét, và hơn thế nữa, con người này chính là Con Thiên Chúa. Cho nên, lúc này đây, mọi suy nghĩ và hành động của Phêrô đều biến đổi bởi một sự mến phục suy tôn, và cảm thấy mình không xứng đáng được gần Chúa, nên ông xin Đức Giêsu hãy xa ra ông; “Lạy Thầy, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !”
 
     Nhận ra sự bé bỏng, thấp hèn tội lỗi của mình, nên Simon hoàn toàn tín thác vào Chúa, qua việc: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” nên chi phép lạ mẻ cá lạ lùng. Tiếp theo là lời mời gọi của Chúa đến với Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” Với lời mời gọi thuộc về Chúa hoàn toàn để Chúa thực hiện trên con người mỏng giòn, yếu đuối tội lỗi này, trở nên cột trụ vững vàng của Giáo Hội, qua sự đổ máu ra chết vì Thầy mình, nhưng Phêrô cảm thấy dù chết vì Thầy Giêsu, mình cũng không xứng đáng, nên chi Simon Phêrô xin được chết bằng cách đóng đinh ngược đầu.
 
     Với con người của Thánh Phêrô, là một mẫu gương cho mọi người sống vâng nghe tuân phục, vì biết bao lần ta sống không biết vâng nghe và chẳng tuân phục. Biết bao lần ta cậy dựa vào tài năng, thành công hay kinh nghiệm nào đó của chúng ta. Biết bao lần ta bực bội, và muốn buông xuôi tất cả khi ta vất vả lao nhọc mà không có hy vọng gì; thì hôm nay, qua gương của Thánh Phêrô: “vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Cho dẫu, nhiều khi việc làm của chúng ta xem ra vất vả qua những công việc bình thường, như việc đánh bắt cá của Phêrô xưa. Cho dẫu, nhiều khi ta thất vọng trong công việc, hay qua những người này người kia, nhưng khi ta biết thưa xin vâng và để cho Chúa điều khiển đời ta thì mọi sự sẽ xoay chiều, mọi sự sẽ trở thành niềm vui,  bình an và hạnh phúc.
 
     Lạy Chúa, ngày hôm nay biết bao sự chán chường mệt mỏi bởi công ăn việc làm, bởi gia đình, bởi bệnh tật, bởi cảnh bất công, bởi sự dữ, quyền lực của sa tan… Đứng trước bao điều đó làm cho chúng con dễ chán nản, thất vọng, có khi muốn buông xuôi tất cả. Xin cho chúng con luôn xác tín vào quyền năng của Chúa sẽ giúp chúng con giải quyết được tất cả mọi hoàn cảnh, miễn là chúng con biết tin tưởng, phó thác hoàn toàn trong tay Chúa. Noi gương thánh Phêrô xưa đã thưa với Chúa: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” thì hôm nay, mỗi người chúng con dù ở trong hoàn cảnh nào cũng cần thưa với Chúa: “Vì lời Thầy, con xin làm”. Xin Mẹ Maria, thánh cả Giuse và toàn thể các thánh cầu thay nguyện giúp cho chúng con.  Amen.
 
Linh mục Phaolo Cao Thế Bình SDD.

SUY NIỆM LỜI NGÀI CN V TN C

SUY NIỆM LỜI NGÀI CN V TN C

“Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,”

“Em về trăng mọc bến chân như.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lk 5: 1-11

Gót nhỏ lên thuyền, gót của em. Người em dân dã, vẫn cứ về. Em về trăng mọc, bến chân anh. Người anh mộc mạc, xưa theo Chúa.

Trình thuật thánh Luca, nay ghi về chuyến lên thuyền để đánh bắt rất nhiều cá. Cá ở đây, gồm truyện kể về quà tặng Chúa ban, không chỉ cho mỗi dân con được chọn, mà cả con dân ngoài Đạo, cũng vẫn được. Trước nhất, là về Galilê, và sự thể đánh bắt, vào thời đó.

Biển hồ Galilê, là hồ nhân tạo duy nhất ở Israel. Hồ này dài đến 55 cây số, chạy vòng quanh bến bãi, ở nơi đây. Hồ này sâu từ 25m đến 45m, nhưng mực nước lại thấp hơn mặt nước biển đến 200m. Hồ nhân tạo, nhưng đây là chốn lý tưởng để đánh bắt đủ mọi loại cá. Với dân chài, thì Biển hồ Galilê là nơi tốt nhất để bắt cá. Với khảo cổ, lại có khám phá tuyệt vời từng phát hiện một thuyền đánh cá dài rộng cỡ 8m x 2.20m x 1.35m bộ, với niên đại có từ năm 40 trước Công nguyên. Thuyền này được gọi là “Con Thuyền Của Chúa”, vì là đặc trưng tiêu biểu thời Chúa sống.

Dân chài đây, có nhóm chuyên đánh bắt các loại cá có chất lượng để cung cấp khắp nơi, cả người Ai Cập cũng là khách hàng thường xuyên mua về đem hun khói thành đặc sẳn rất tuyệt vời. Các khai quật cho thấy thuyền đánh cá ở đây được trang bị khá tốt để có thể đánh bắt suốt cả đêm. Sản phẩm đánh được lại đã tạo nguồn lợi tức cho một số công ty chuyên ngành trong thời gian dài, chuyên nghiệp.

Dân chài ở đây, có người còn có nghề tay trái không chỉ đánh cá đóng thuyền thôi, nhưng còn kinh doanh và tránh thuế. Dân chài người Bét-sai-đa sống ở Ca-pha-na-um quen tránh né đám thu thuế; nên, nghề cá là nghề ít bận tâm về luật thuế nhất. Nói chung, dân chài ở đây biết nhiều thứ, chứ không chỉ sơ sơ mỗi cá tôm.

Thế nên, cử toạ đầu tiên tìm đến Chúa để nghe Ngài giảng giải, lại là dân chài Biển hồ Galilê. Chúa hoạt động công khai, Ngài cũng di chuyển loanh quanh các vùng: Bét-sai-đa, Ca-pha-na-um, Ghê-nê-sa-rét, Mag-đa-la, hoặc Ghê-ra-sa cùng các vùng chài lưới và thôn làng ở Biển hồ. Chúa giảng rao vùng cận duyên gồm các làng chài trong đó có cả Tyrô và Siđôn nữa. Hôm ấy, bên vệ đường cạnh hồ Galilê, Chúa gặp ông Phêrô (cùng nhạc mẫu) và các bạn chài là: An-rê, Giacôbê và Gioan (có bà Zêbêđê) và cả anh Lêvi thu thuế, nhất nhất đều đến từ Ca-Pha-Na-Um, ở quanh đó.

Chúa vẫn thường có thói quen di chuyển trên hồ bằng thuyền bè. Chính ở nơi này, Ngài chỉ cho các thánh biết đánh bắt thật nhiều cá, như phép lạ. Và cũng ở triền hồ, Ngài còn phân phát cho cả ngàn người được no nê, ăn thoả chí. Tin Mừng thánh Luca (đoạn 24) cũng cho thấy Chúa đã trở lại hồ này ngay sau ngày Ngài Phục sinh quang vinh.

Vấn đề hỏi là: làm sao thánh Luca lại biết rõ điều ấy. Bởi, ai cũng đều biết thánh Luca đâu thuộc thành phần dân chài và cũng chẳng là tay thu thuế. Thế nên, nguồn văn của trình thuật hôm nay, có lẽ đã được rút từ Tin Mừng thánh Matthêu đoạn 4 câu 18. Đoạn này, thánh Matthêu ám chỉ một Xuất hành mới cốt để tái lập Vương quyền của Đavít.

Thánh Luca không chỉ nhấn mạnh sự kiện Chúa gọi mời dân chài làm tông đồ, nhưng nhấn mạnh lên câu Chúa nói với Phêrô, rằng: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới người.” Có thể là, thánh Luca không có ý đó, nhưng thánh Mátthêu lại trích dẫn lời ngôn sứ Giêrêmia đoạn 16 câu 16 và Êdêkiel đoạn 47 câu 9, trong đó Chúa nói: “Này Ta sai ngư phủ đến, một số đông và họ sẽ vung lưới bắt chúng.” Tất cả điều đó, chỉ muốn nói rằng: Chúa đến như thể cuộc đánh bắt rất nhiều cá chứ không phải chỉ mỗi thứ cá, là người Do thái mà thôi.    

Ở đây, thánh Luca lại nói lên lập trường của riêng thánh-nhân về ơn cứu độ Chúa rộng ban, không chỉ gửi đến với dân được chọn là Do thái mà thôi, nhưng còn mở ra với hết mọi người, mọi sắc tộc, giòng giống. Và cũng thế, các tông đồ của Chúa được gửi đến với mọi người có giòng giống sắc tộc, rất khác nhau. Ngài sẽ không phân biệt một ai để rồi đem tất về với Vương quốc của Ngài, cũng là vùng đất có biển có hồ, mầu mỡ rất nhiều cá.

Truyện kể ở trình thuật thánh Luca hôm nay cũng rất đẹp, trong đó tác giả cho thấy kết quả của công việc hợp tác giữa hai chiếc thuyền đánh cá mỏng manh đến suýt chìm vì nặng chĩu những cá. Một trong thuyền đó, có Simôn Phêrô đã thành công đánh bắt được rất nhiều cá. Một lần nữa, ở đây thánh Luca cũng không nhiều kinh nghiệm về sông nước với đánh bắt. Nhưng tác giả đã để Chúa yêu cầu thánh Phêrô chèo đò vào bờ, rồi theo Ngài.

Nhiều năm qua, có học giả người Do thái là Abraham Joshua Heschel đã nói về vai trò của ngôn sứ ở Israel. Theo ông, ngôn sứ là người hiểu được những “xúc cảm” của Thiên Chúa. Qua cụm từ “xúc cảm”, ông muốn nói: Thiên Chúa không xa với với con người chúng ta, theo nghĩa khoảng cách thần linh, thánh thiêng; nhưng Ngài là Đấng rất cần gần gũi với những khổ đau/sầu buồn, như con người. Ngài cũng có cảm xúc như con người. Giữa Ngài và con người, luôn có sự tuỳ thuộc hỗ tương, tức là: Chúa cần ra khỏi tính thánh thiêng để đến với chúng ta. Và chúng ta cũng thế, cần ra khỏi hoàn cảnh của mình để ra đi mà đến với Chúa. Để sống với những cảm xúc của chính Chúa.

Ý tưởng của diễn giả Heschel đem đến cho ta một mô hình mẫu mực để hiểu được tư tưởng của thánh Luca viết ở đây. Thánh Luca tuy không là ngôn sứ, giống như thế. Chúa của thánh sử cũng không là Thiên Chúa của tác giả Heschel. Nhưng theo thánh Luca, thì Chúa cũng có cảm xúc muốn san sẻ sự vui mừng với chúng ta. Ngài đã đi vào cuộc sống phàm trần theo cung cách cũng trần tục để niềm vui của Ngài lấp đầy hết mọi người. Trong mọi người. Và niềm vui của ta cũng có kết quả tương tự, đối cới Chúa.

Thật ra thì, cụm từ “xúc cảm” ở đây cũng không đúng nghĩa cho lắm khi ta diễn tả điều mà thánh Luca muốn nói. Nhưng điều mà thánh sử Luca muốn nói chính là niềm vui chung vẫn có giữa Đức Giêsu và các thánh tông đồ, rất thuyền chài. Đó là niềm vui rất lớn không biên giới nhưng đã hoàn toàn rộng mở. Niềm vui ấy, nay phát tán đi vào với thế giới gồm đầy khổ đau, âu sầu. Vui, là rung động với những cảm xúc hân hoan của con người để đi vào tận tâm can con người vẫn thường gặp nhiều klhổ đau/sầu buồn vào mọi lúc. Niềm vui ấy, như thể đàn cá tung tăng nhẩy xổ vào lưới bắt của các vị tông đồ/thuyền chài. Đàn cá xem ra thích nhảy vào lưới như thế. Và các tông đồ/thuyền chài cũng mỉm cười vui thích khi thấy đàn cá cứ làm thế.

Và thánh Luca vẫn ghi lại những truyện kể ở trình thuật có Đức Giêsu mỗi lần đến với ai, là người đó cũng sẽ vui mừng, nhảy chồm lên vì sung sướng. Và lòng thương xót của Chúa lớn lao gồm đủ những cảm-xúc và niềm vui to lớn còn là kết quả của sự việc nhảy ra khỏi làn da, thớ thịt mà Chúa từng làm và từng sống với ta như thế. Đức Giêsu cũng đã làm như Chúa đã làm như thế với mọi người. Như thế, thì Ngài đích thật là Người Con của Thiên Chúa.

Điều này dấy lên một vấn đề hỏi rằng: làm sao chủ đề “ơn cứu độ” lại có thể trở nên chuyện chính yếu đối với tác giả Luca, là thế? Đôi khi, đó còn là trọng tâm Tin Mừng của thánh-nhân nữa. Chuyện này kể cũng thực, nhưng không phải là tiên quyết. Ít ra, tác giả cũng không đến nỗi ưu tư nhiều như thế. Ơn cứu độ, là cụm từ ta dùng để chỉ về trạng huống ta trải nghiệm Niềm vui chung có Chúa đã từng đảo ngược mọi chuyện tiêu cực thành cơ hội để ta suy tư về ân huệ trọng yếu này.

Những điều kể trên, đôi khi làm người đọc lại nghĩ về truyện ông Noê ở Cựu Ước. Truyện kể vẫn cứ kể về điều là những sinh vật được cứu sống, chỉ mỗi vài cặp thú vật trên thuyền mà thôi. Cứ tin là như thế. Như thế, tức như thể không phải tất cả mọi thú vật đều có mặt ở đó, hết. Thế thì, các thú khác và người khác thì sao? Có được cứu rỗi không? Về cá heo và chúng bạn vẫn tung tăng bơi lội và cười đùa vui vẻ ngoài con thuyền cách vô tội vạ thì sao? Chúng không được cứu sao?

Nếu thế, cũng không phải là ý của tác giả, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi Thiên Chúa là Đấng thực sự rất Vui và rất đại độ. Có lúc Ngài cũng tung tăng vui vẻ, ngoài con thuyền đấy chứ? Dù thuyền đó là thuyền đánh cá của Phêrô hay thuyền cứu độ của Noê, cũng đều thế. Cả tác giả Luca cũng thế. Cũng đâu bao giờ có được ý tưởng buồn cười về cuộc sống được cứu rỗi và về Thiên Chúa đến như thế.

Thế nên, đọc trình thuật thánh Luca, người đọc hẳn đôi lúc cũng nghĩ như nhà thơ bên dưới:

            “Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,

            Em về trăng mọc bến chân như.

            Người Em hơi thở say mùi huệ,

            Mây trắng vương buồn mắt thái sơ.”

            (Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)

            Trái tim của Chúa, cũng “Hồng Ngọc”, tức: cũng mầu hồng và bằng ngọc, luôn tưởng nhớ hết dân gian mọi người, dù là dân chài thợ mộc, Ngài vẫn mời theo Ngài giảng rao ơn cứu độ thân thương, rất hồng ngọc. Để dân gian mọi người sẽ trở thành ngọc hồng, ngọc bích vẫn cứ thương.

 

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –

Mai Tá lược dịch

PHÚC – LỘC – THỌ

Phuc-Loc-Tho

Đất trời đang giao thời chuyển từ mùa Đông giá rét sang tiết Xuân ấm áp. Như vậy là một năm nữa lại qua đi, và khởi đầu một năm mới! Có chịu cái lạnh của mùa Đông mới thấy quý hơi ấm của mùa Xuân. Cuộc đời cũng vậy, có thất bại mới thấy khao khát thành công mà cố vươn lên, có đau khổ mới thấy trân trọng hạnh phúc khi được nếm hưởng – dù chỉ một chút.

Những lo lắng, những gian lao, những bươn chải của năm cũ đã khép lại. Giờ là lúc chúng ta “quẳng gánh lo đi mà vui sống”. Giờ là lúc ta được nghỉ ngơi, vui thỏa. Giờ là lúc chúng ta sum vầy, đoàn viên.

Cuộc sống có nhiều thứ cần, cả thể xác và tinh thần. Có thể tóm gọn trong bộ ba cơ bản cần thiết nhất là Phúc-Lộc-Thọ (Giản thể: 福禄寿; Phồn thể: 福祿壽; Bính âm: Fú Lú Shòu). PHÚC (Phước) là điều tốt lành, LỘC là sự thịnh vượng, và THỌ là sống lâu.

PHÚC-LỘC-THỌ THEO VĂN HÓA

Theo văn hóa Trung Hoa, Phúc-Lộc-Thọ được tượng trưng bằng ba ông già, gọi là Tam Đa. Người Nhật gọi Phúc-Lộc-Thọ là Fukurokuju, một trong Thất Phước Thần theo thần thoại Nhật bản.

Ông PHÚC (còn gọi là ông Đa Phúc) thường được đặt ở giữa tượng trưng cho sự may mắn, tốt lành. Ông Phúc mặc phẩm phục, đầu đội mũ cánh chuồn, tay cầm ngọc như ý và bế hài nhi. Ông tên là Quách Tử Nghi, làm quan đời nhà Đường. Ông làm quan thanh liêm, nghèo túng nhưng thanh bạch. Vợ giữ đúng đạo làm vợ, con giữ đúng đạo làm con, cháu chắt giữ đúng đạo làm cháu chắt…

Khi ông bà bước sang tuổi 83 thì có chút (chút đích tôn ở đời thứ 5 mà người đời quen gọi là “ngũ đại đồng đường”). Ông bà Quách sung sướng ôm đứa chắt nội vào lòng, cùng cười một tiếng dài rồi cùng nhau viên tịch (qua đời). Việc quy tiên của ông bà Quách đúng là “tiên cảnh nhàn du” mà người già đều mong ước.

Người ta gọi ai được như vậy là “người có phúc”. Vì theo quan niệm xưa, nhà đông con là nhà có phúc nên đôi khi còn thấy có một đứa trẻ đang nắm lấy áo ông Phúc, hoặc nhiều đứa trẻ vây quanh ông, hoặc có hình ảnh con dơi bay xuống ông (dơi phát âm giống âm chữ “phúc”). Quan niệm xưa cũng cho rằng người có phúc là người có địa vị xã hội, có quyền thế, muốn gì được nấy – ngày nay gọi là “hên”.

Ông LỘC (còn gọi là ông Đa Lộc hoặc Thần Tài) tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng. Ông tên là Đậu Từ Quân, sinh tại Giang Tây, làm quan đời nhà Tấn. Ông làm quan lớn của triều đình, có nhiều tiền của. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, “lộc” phát âm gần với âm chữ “lục”, tay cầm “ngọc như ý” hoặc thường có một con hươu đứng bên cạnh (hươu cũng được phát âm giống âm chữ “lộc”).

Trông ông thật oai vệ, bụng to, cân đai xệ xuống. Nhưng buồn thay, năm ông 80 tuổi mà vẫn chưa có cháu đích tôn. Con cái và cháu chắt là “đệ nhất lộc trời”, như ca dao nói: “Có chồng mà chẳng có con, khác nào hoa nở trên non một mình”. Do đó, suốt đời ông chỉ lo kiếm được nhiều lộc. Mà Lộc nhiều để làm gì và để cho ai nhỉ?

Ông THỌ (còn gọi là ông Đa Thọ) tượng trưng cho sự sống lâu với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc phơ, trán hói và dô cao, tay cầm trái đào tiên, bên cạnh thường có thêm con hạc. Ông tên là Đông Phương Sóc, làm quan đời nhà Hán. Trong đời làm quan, ông luôn tìm những lời nói hay để làm vừa lòng Thiên tử (vua) nên luôn được ban cho rất nhiều bổng lộc. Mỗi lần được vàng, bạc vua ban, ông lại đem cưới mỹ nữ về làm tỳ thiếp. Vì vậy, thê thiếp của ông nhiều vô kể. Đông Phương Sóc hưởng thọ 125 tuổi. Khi Đông Phương Sóc viên tịch, con cháu của ông đều đã chết cả. Cháu tứ đại (4 đời) phải thay bố làm ma cho cụ cố.

Người ta sắp xếp ba ông Phúc-Lộc-Thọ gần nhau để khuyên răn hậu duệ: Chỉ nên học ông Phúc mà thôi. Vì chính trong cái Phúc đã bao gồm cả tuổi thọ, phú quý, an lạc, và con cháu đông đúc.

Thi sĩ Nguyễn Khuyến cũng nhắc tới Phúc trong một câu đối Tết: “Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa / Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.

Những câu đối được dán hai bên bàn thờ tổ cũng có chữ Phúc: Phước thâm tự hải / Lộc cao như sơn”, hoặc: “Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ / Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường”.

Rất nhiều những câu đối Tết liên quan Phúc-Lộc-Thọ:

– Phúc Thọ phồn vinh / Lộc tài phát đạt.
– Phúc Thọ vô biên / Lộc tài vô tận.
– Đa tài, đa lộc, đa phú quý / Đắc thời, đắc lộc, đắc nhân tâm.
– Phúc mãn đường niên tăng phú quý / Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa.
– Tân niên, tân phúc, tân phú quý / tấn tài, tấn lộc, tấn bình an.
– Lộc biếc, mai vàng, Xuân hạnh phúc / Đời vui, sống khỏe, Tết an khang.

Trong bộ ba Phúc-Lộc-Thọ, người ta vẫn coi trọng nhất là Phúc. Có lẽ vì vậy mà Phúc được đặt đầu tiên trong bộ ba đó.

PHÚC-LỘC-THỌ THEO KINH THÁNH

Bộ ba Phúc-Lộc-Thọ gợi nhớ Tam Vị Nhất Thể – Một Chúa Ba Ngôi. Đó là mầu nhiệm quan trọng của Công giáo, không thể lý giải theo trí tuệ nhân loại mà chỉ có thể “hiểu” bằng Đức Tin: MỘT mà BA, BA mà MỘT.

Chuyện kể rằng, có lần Thánh Augustinô đang miệt mài suy nghĩ để lý giải mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thì ngài gặp một em bé đang múc nước biển đổ vào một cái lỗ. Ngài thấy lạ nên hỏi em làm gì, em bé nói: “Con đang tát cho cạn biển”. Ngài bảo: “Đó là việc làm ngớ ngẩn. Không thể nào tát cạn biển được”. Em bé hồn nhiên trả lời: “Việc con làm đây tuy khó nhưng còn dễ hơn điều bác đang suy nghĩ”. Thánh Augustinô giật mình tỉnh ngộ!

Trong Cựu ước, PHÚC vẫn được nhắc tới nhiều : Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2); Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người” (Tv 128:1).

Trong Tân ước, Đức Giêsu thường nhắc đến Phúc. Ngay trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5:3-12), còn gọi là Bát Phúc hoặc Tám Mối Phúc Thật, Ngài đã nói ngay tới Phúc. Có lần Ngài nói với Tông đồ Phêrô: “Này anh Simôn con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:17).

Thánh Êlidabét nói với Đức Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (Lc 1:42).

Và Đức Giêsu còn nói tới nhiều loại Phúc:

– Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng (Mt 6:1).
Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (Mt 11:6).
– Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe (Mt 13:16).
Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy (Mt 24:46). Đó là nói về quản gia tín trung, khôn ngoan và tỉnh thức.

Khi nói tới PHÚC thì đã hàm ý có LỘC: “Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:2 và 4); hoặc: “Đức Chúa đã đổ muôn vàn phúc lộc xuống cho chủ tôi” (St 24:35).

Có sinh ắt có tử. Nhưng đâu ai muốn chết yểu hoặc chết sớm. Nghĩa là người ta mong được sống lâu, sống THỌ, càng trường thọ càng tốt: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con” (Tv 138:7), được “bảo toàn mạng sống” tức là chưa chết; hoặc: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17), “không phải chết” tức là còn được sống thêm, được tăng tuổi thọ.

Tuổi thọ liên quan Thập Giới (Mười Điều Răn): “Ai kính sợ Đức Chúa sẽ được trường thọ, còn tuổi đời đứa ác bị rút ngắn đi” (Cn 10:27), và có lợi: “Kính sợ Đức Chúa khiến tâm hồn sung sướng, cho con người được hoan hỷ mừng vui và an khang trường thọ (Hc 1:12). Tuổi thọ cũng liên quan chữ Hiếu: “Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3:16). Đồng thời còn liên quan cách sống trung thực: “Ai khinh chê lợi lộc bất chính sẽ được trường thọ (Cn 28:16).

Nói chung, tuổi thọ nhờ vào Mến Chúa và yêu người: “Gốc rễ của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, cành lá của khôn ngoan là cuộc đời trường thọ (Hc 1:20).

CHÚC TẾT HAY MỪNG TUỔI ?

Lâu nay, có hai khái niệm hay bị sử dụng nhầm lẫn là “Mừng Tuổi” và “Chúc Tết”. Khi chúc Tết cha mẹ, ông bà, rất nhiều con cháu đều nói: “Chúng con mừng tuổi ông bà/cha mẹ”. Thực ra, đây là một ngộ nhận đáng tiếc! Chỉ có ông bà, cha mẹ (bậc trên, hơn tuổi) mới mừng tuổi cho con cháu: mong cháu con thêm một tuổi thêm lớn khôn, trưởng thành. Do vậy, con cháu phải “chúc Tết” ông bà cha mẹ chứ không phải “mừng tuổi”. Tâm lý thường tình, khi con người về già, ai cũng “sợ” năm hết Tết đến, vì thêm một năm mới là giảm một năm được vui sống với cháu con. Nói thẳng ra là “gần đất, xa trời” hơn. Nếu chúng ta “mừng tuổi” ông bà và cha mẹ là mừng vì các ngài sắp… chết!

Tết mặc nhiên mang đến niềm vui, nhưng cũng mang nghĩa “chết trong lòng một ít”. Tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy tâm trạng. Cụ Nguyễn Khuyến phân vân: “Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái / Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân”.

Hoặc chua chát như cụ Tế Xương: “Thiên hạ xám rồi, còn đốt pháo / Nhân tình bạc thế, lại bôi vôi”. Đó là hình ảnh ngày Tết ngày xưa, có nêu cao, có pháo đỏ, và tục lệ bôi vôi trước cửa để xua đuổi tà khí. Đọc câu đối của cụ Tú Xương mà nghe cay lòng quá! Đó là đời thực của các nhà nho bất phùng thời!

Tết là dịp để “ôn cố tri tân”. Ước mong sao cuộc sống sẽ thay đổi theo hướng tích cực về những giá trị truyền thống, văn hóa, văn minh,… đối với cả xã hội và Giáo hội. Sự linh thiêng của ngày Tết cổ truyền là điều quý giá, nên được duy trì và trân trọng.

Cung Chúc Tân Xuân! Chúc Mừng Năm Mới!

Kha Đông Anh
Tết Quý Tỵ – 2013

Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi toàn thể Giáo Hội hãy tái bày tỏ lòng tín nhiệm nơi người trẻ.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7 tháng 2-2013, dành cho các tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đang nhóm tại Roma từ ngày 6 đến 9-2-2013 về ”các nền văn hóa đang lên của người trẻ”. Tham dự khóa họp có lối 20 HY, hơn 10 GM thành viên, cùng với đông đảo các cố vấn và khách mời.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC đã trình bày một phân tích về thực trạng phức tạp của người trẻ ngày nay, với những điểm sáng và điểm tối, những khó khăn và những khía cạnh tích cực, như sự hăng say quảng đại và can đảm của bao nhiêu người trẻ thiện nguyện, những kinh nghiệm về đức tin chân thành và sâu xa của bao nhiêu người trẻ làm chứng họ được thuộc về Giáo Hội, những cố gắng tại nhiều nơi trên thế giới để kiến tạo những xã hội có khả năng tôn trọng tự do và phẩm giá của mọi người, bắt đầu từ những người bé nhỏ và yếu thế nhất… Xét cho cùng, chúng ta đang đứng trước một thực tại phức tạp nhưng cũng đầy sức thu hút của người trẻ ngày nay, một thực tại cần được hiểu sâu xa và yêu mến với tinh thần cảm thông sâu đậm.. Tuy ý thức về bao nhiêu tình trạng có vấn đề liên quan tới lãnh vực đức tin và sự thuộc về Giáo Hội, chúng ta hãy canh tân lòng tín nhiện nơi người trẻ, tái khẳng định rằng Giáo Hội nhìn đến hoàn cảnh, các nền văn hóa của người trẻ như một điểm tham chiếu quan trọng và không thể tránh né để hoạt động mục vụ”.

Trong chiều hướng trên đây, ĐTC đã nhắc lại Sứ điệp của Công đồng chung Vatican 2 gửi người trẻ, trong đó Công đồng khẳng định rằng: ”Hỡi các bạn trẻ, Giáo Hội nhìn các bạn với lòng tín nhiệm và yêu thương.. Giáo Hội có những gì mang lại sức mạnh và vẻ đẹp của người trẻ, đó là khẳ năng vì vui mừng vì những gì bắt đầu, hiến thân mà không đòi đáp trả, canh tân và tái ra đi để chinh phục”. Và Đức Phaolô 6 đã gửi lời kêu gọi các bạn trẻ trên thế giới: ”Nhân danh Thiên Chúa và Con của Ngài là Đức Giêsu, chúng tôi nhắn nhủ các bạn hãy mở rộng con tim theo chiều kích của thế giới, hãy hiểu lời kêu gọi của anh chị em các bạn, và dùng nghị lực của các bạn để hăng say phục vụ họ. Hãy từ khước, không chạy theo những bản năng bạo lực, oán thù, gây ra chiến tranh và bao nhiêu điều lầm than theo sau đó. Các bạn hãy quảng đại, thanh khiến, tôn trọng, chân thành. Và hăng hái xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thế giới hiện nay”.

Và chính ĐTC Biển Đức 16 cũng mạnh mẽ tái khẳng định lòng tín nhiệm của Giáo Hội nơi người trẻ, hy vọng nơi nọ và những năng lực của họ, Giáo Hội cần người trẻ và sức sinh động của họ, để tiếp tục sống sứ mạng do Chúa Kitô ủy thác với một đà tiến mới”

Trong cuộc họp báo hôm 31-1-2013, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đã bày tỏ mong ước lắng nghe những ngôn ngữ và văn hóa của các thế hệ trẻ. Và theo ngài, Khóa họp toàn thể của Hội đồng là một cơ hội quí giá và một đòi hỏi cho những người lớn cũng như cho các cộng đồng Kitô. ĐHY nói: dĩ nhiên ngôn ngữ của người trẻ khác với chúng ta, nhưng tiềm năng của các thế hệ trẻ là điều chắc chắn. Cách tốt nhất để Giáo Hội có thể được nghe và nhìn thấy giữa đại hồng thủy của thời đại thông tin ngày nay là mở một “trận chiến truyền thông chớp nhoáng với những câu trả lời đơn sơ cho những vấn nạn thâm sâu nhất của cuộc sống.”

Chương trình 3 ngày nhóm họp của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa khá dầy đặc, và bàn về những thách đố khác nhau do các thế hệ trẻ nêu lên. Các bài thuyết trình đề cập đến các đề tài như xã hội hóa người trẻ, các ngôn ngữ và nghi thức kỹ thuật số, niềm tin của người trẻ, và các lối diễn tả cảm xúc của họ.

Để khai mạc hội nghị đã có một buổi hòa nhạc Rock vào ngày 6 tháng 2-2013 tại Đại Học Công Giáo Lumsa, gần Vatican, do nhóm nhạc sĩ ”The Sun”, Mặt Trời, ở Italia trình diễn. Có 4 nhạc sĩ trong nhóm này đã dần dần xích lại gần đức tin Kitô giáo trong những năm 2008 và 2009. Từ đó nhạc của họ chịu ảnh hưởng của cuộc hoán cải này. Các nhóm nhạc sĩ Rock này lan rộng trên toàn Italia và dấn thân nơi các tín hữu Kitô tại Thánh Địa mà họ hỗ trợ bằng nhiều sáng kiến. (SD 7-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Sống đức tin có nghĩa là thừa nhận sự cao cả của Thiên Chúa và chấp nhận sự bé nhỏ của chúng ta, chấp nhận điều kiện là thụ tạo của chúng ta bằng cách để cho Chúa làm tràn đầy nó với tình yêu của Người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi găp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ thư 6 tháng 2-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về Kinh Tin Kính. Kinh Tin Kính bắt đầu bằng lời tuyên xưng ”Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng nên trời đất”. Đây là câu lấy lại lời khẳng định của Thánh Kinh, câu đầu tiên trong sách Sáng Thế: ”Từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng nên trời và đất” (St 1,1): Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự và quyền năng của Người là Cha yêu thương trải dài trong vẻ đẹp của thụ tạo. Các hình ảnh Thánh Kinh dùng để miêu tả Thiên Chúa Tạo Hóa toàn năng rất gợi cảm (x. Is 40,12; 45,18; 48,13; Tv 104,2.5; 135,7; Cn 8,27-29; G 38-39). Như là người Cha quyền năng, Thiên Chúa săn sóc những gì Người đã tạo dựng với một tình yêu và lòng trung thành không suy giảm (x. Tv 57,11; 108,5; 36,6). Đức Thánh Cha định nghĩa thụ tạo như sau:

Như thế, thụ tạo trở thành nơi hiểu biết và thừa nhận sự toàn năng của Chúa và lòng lành của Người, và trở thành lời mời gọi lòng tin của chúng ta để chúng ta loan báo Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa… Đức tin như thế bao gồm việc biết thừa nhận sự vô hình bằng cách nhận ra dấu vết của nó trong thế giới hữu hình. Tín hữu có thể đọc cuốn sách vĩ đại của thiên nhiên và hiểu ngôn ngữ của nó (x. Tv 19,2-5); vũ trụ nói với chúng ta về Thiên Chúa (x. Rm 1,19-20), nhưng cần thiết có Lời mạc khải của Người, khơi dậy lòng tin, để con người có thể đạt ý thức tràn đầy về thực tại Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha. Chính trong sách Thánh Kinh mà dưới ánh sáng của đức tin, trí thông minh của con người có thể tìm thấy chìa khóa giải thích để hiểu thế giới. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế chiếm một chỗ đặc biệt với việc giới thiệu công trình tạo dựng của Thiên Chúa diễn ra trong bẩy ngày: trong các ngày đó Thiên Chúa hoàn thành việc tạo dựng, và ngày thứ bẩy Người ngưng mọi hoạt động và nghỉ ngơi. Cấu trúc này khiến cho văn bản lập đi lập lại 6 lần điệp khúc: ”Thiên Chúa thấy rằng đó đã là điều tốt lành” (cc. 4.10.12.18.21.25), để kết luận với lần thứ bẩy câu: ”Thiên Chúa đã thấy rằng tất cả những điều Người đã làm rất tốt lành” (c. 31).
Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều xinh đẹp và tốt lành, đầy khôn ngoan và tình yêu; hành động tạo dựng của Thiên Chúa đem lại trật tự, hài hòa, trao ban vẻ đẹp. Thế rồi trong trình thuật của sách Sáng Thế còn nổi bật sự kiện Thiên Chúa tạo dựng với lời Người: chúng ta đọc thấy 10 lần rằng ”Thiên Chúa phán” (cc. 3.6.9.11.14.20.24.26.28.29), nó nhấn mạnh quyền năng hữu hiệu của Lời Chúa. Như tác giả thánh vịnh hát: ”Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú… Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33,6.9). Sự sống nảy sinh, thế giới hiện hữu, bởi vì tất cả đều vâng phục Lời Thiên Chúa.

Nhưng mà trong thời đại khoa học và kỹ thuật ngày nay nói về việc tạo dựng có nghĩa gì? Chúng ta phải hiểu các trình thuật sách Sáng Thế như thế nào? Thánh Kinh không muốn là một cuốn sách của các khoa học thiên nhiên; trái lại nó muốn làm cho chúng ta hiểu các chân lý đích thật và sâu xa của các sự vật. Các chân lý nền tảng mà các trình thuật của sách Sáng Thế vén mở cho chúng ta, đó là thế giới không phải là một tổng hợp các sức mạnh đối nghịch nhau, nhưng có nguồn gốc và sự ổn định nơi Lời, nơi Lý Trí vĩnh cửu của Thiên Chúa, tiếp tục nâng đỡ vũ trụ. Có một dự án về thế giới nảy sinh từ Lý Trí đó, từ Thần Khí tạo dựng. Tin rằng nền tảng của mọi sự là đó, nó soi sáng mọi khía cạnh của sự hiện hữu và trao ban can đảm giúp đương đầu với cuộc mạo hiểm của cuộc sống với lòng can đảm và niềm hy vọng.

Tột đỉnh của toàn công trình tạo dựng là người nam và người nữ, là con người, thụ tạo duy nhất ”có khả năng hiểu biết và yêu thương Đấng Tạo Hóa” (GS 12). Tác giả thánh vịnh 8 kêu lên: ”Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Con người được Thiên Chúa tạo dựng nên với tình yêu, là điều thật bé nhỏ trước sự mênh mông của vũ trụ… Con người chứa đựng sự mâu thuẫn này: cái bé nhỏ và mau qua của nó chung sống với sự cao cả của điều mà tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa đã muốn ban cho nó.

Các trình thuật trong sách Sáng Thế cũng dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực này bằng cách giúp chúng ta hiểu biết chương trình của Thiên Chúa đối với con người. Đức Thánh Cha giải thích điễm này như sau:

Trước hết các trình thuật ấy khẳng định rằng Thiên Chúa làm thành con người với bụi đất (x. St 2,7). Điều này có nghĩa chúng ta không phải là Thiên Chúa, chúng ta không tự mình làm ra mình, chúng ta là đất. Nhưng nó cũng có nghĩa là chúng ta đến từ đất tốt lành, do công trình của Đấng Tạo Hóa. Thêm vào đó còn có một thực tại nền tảng khác nữa: đó là tất cả mọi người đều là bụi, vượt ngoài các khác biệt đến từ văn hóa, lịch sử, vượt ngoài mọi khác biệt xã hội; chúng ta là một nhân loại duy nhất được nhào nặn với cùng đất duy nhất của Thiên Chúa. Thế rồi còn có một yếu tố thứ hai: con người có nguồn gốc bởi vì Thiên Chúa thở hơi sự sống vào trong thân xác được nhào nắn từ đất (x. St 2,7). Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (St 1,26-27). Như thế chúng ta tất cả đều mang trong mình hơi thở sự sống của Thiên Chúa, và mỗi một sự sống con người đều ở dưới sự che chở của Thiên Chúa. Đây là lý do sâu xa nhất sự bất khả xâm phạm của nhân phẩm, chống lại mọi mưu toan đánh giá con người theo các tiêu chuẩn duy ích lợi và quyền bính. Việc là hình ảnh và giống Thiên Chúa cũng ám chỉ rằng con người không đóng kín trong chính mình, nhưng có một quy chiếu nòng cốt nơi Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đề cập đến hai hình ảnh ý nghĩa trong các chương đầu sách Sáng Thế: đó là hình ảnh ngôi vườn với cây biết lành biết dữ và con rắn (St 2,15-17; 3,1-5). Ngôi vườn nói rằng thực tại trong đó Thiên Chúa đã đặt để con người không phải là một rừng hoang dã, nhưng là nơi Người che chở, dưỡng nuôi và nâng đỡ; và con người phải thừa nhận thế giới không phải như là tư sản để cướp bóc và khai thác, nhưng như là ơn của Đấng Tạo Hóa, dấu chỉ ý muốn cứu độ của Người, ơn cần phải vun trồng và giữ gìn, làm cho lớn lên và phát triển trong sự tôn trọng, trong hài hòa theo các tiết nhịp của luận lý, theo chương trình của Thiên Chúa (x. St 2,8-15).

Con rắn là một hình ảnh bắt nguồn từ các việc phụng tự đông phương của sự phong phú, nó hấp dẫn dân Israel và là một cám dỗ liên tục bỏ giao ước nhiệm mầu với Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của điều này Thánh Kinh trình bầy sự cám dỗ mà Ađam và Evà phải chịu như là nhân tố của cám dỗ và tội lỗi.

Con rắn không khước từ Thiên Chúa, nhưng đưa vào một câu hỏi xảo trá: ”Có thật là Thiên Chúa đã nói: ”Các ngươi không được ăn trái cây nào hết trong vườn không?” (St 3,1). Như thế con rắn khơi dậy sự nghi ngờ rằng giao ước với Thiên Chúa như là một dây xích cột buộc, đánh mất tự do và các điều xinh đẹp qúy báu của cuộc sống. Đức Thánh Cha giải thích cám dỗ như sau:

Cám dỗ trở thành cám dỗ xây dựng thế giới sống một mình, không chấp nhận các hạn chế của thụ tạo, các hạn chế của sự thiện và sự dữ, của luân lý; sự tùy thuộc tình yêu của Thiên Chúa bị coi như một gánh nặng cần phải giải thoát. Nhưng khi làm sai lạc tương quan với Thiên Chúa, bằng cách đặt mình vào chỗ của Người, thì tất cả mọi tương quan khác đều bị hư hỏng. Khi đó người khác trở thành một đối thủ, một sự đe dọa: sau khi nhượng bộ cám dỗ Ađam lập tức đổ tội cho Evà (x. St 3,12); hai người trốn sự hiện diện của vì Thiên Chúa mà họ đã chuyện vãn với tình bạn (x. 3,8-10); thế giới không còn là nơi sống với sự hài hòa nữa, mà là nơi khai thác và trong đó dấu ẩn các cạm bẫy (x. 3,14-19); ghen tương và thù hận đối với người khác bước vào trái tim con người: điển hình là vụ Cain giết em mình là Abel (x. 4,3-9). Thực ra, khi chống lại Đấng Tạo Hóa của mình con người chống lại chính mình, khước từ nguồn gốc của mình và như thế khước từ sự thật; và sự dữ bước vào thế giới, với dây xích nặng nề của khổ đau và cái chết.

Giáo huấn cuối cùng của các trình thuật là tội lỗi sinh ra tội lỗi và tất cả mọi tội lỗi của lịch sử đều bị cột buộc với nhau. Khía cạnh này thúc đẩy chúng ta nói tới ”tội tổ tông” là thực tại khó hiểu. Trước hết chúng ta phải xét rằng không có người nào là khép kín trong chính mính, có thể sống một mình và cho mình; chúng ta nhận được sự sống từ người khác và không phải chỉ trong lúc sinh ra, mà mỗi ngày. Con người là tương quan; tôi chỉ là chính mình trong ”anh” và qua ”anh”, trong tương quan của tình yêu đối với ”anh” của Thiên Chúa và ”anh” của các người khác.

Và tội lỗi là làm vẩn đục hay hủy hoại tương quan với Thiên Chúa, là đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng với tội đầu tiên con người đã ”lựa chọn chính mình chống lại Thiên Chúa, chống lại các đòi buộc của điều kiện là thụ tạo của mình và hậu quả là chống lại sự thiện” (s. 398).

Khi tương quan nền tảng bị vẩn đục, thì các trục khác của tương quan cũng bị liên lụy hay phá hủy, tội lỗi làm hư hỏng tất cả. Giờ đây nếu cấu trúc tương quan của nhân loại bị vẩn đục ngay từ đầu, thì mỗi người đều bước vào trong một thế giới đã bị ghi dấu bởi sự vẩn đục các tương quan, bước vào trong một thế giới bị vẩn dục bởi tội lỗi và nó bị ghi dấu một cách riêng rẽ; Tội lỗi khởi đầu tấn công bản tính nhân loại và gây thương tích (x. SGLGHCG, 404-406). Và con người một mình thì không thể nào ra khỏi tình trạng này, và tự cứu rỗi mình. Chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể tái lập lại các tương quan đúng đắn mà thôi. Chỉ nếu Đấng mà chúng ta đã lìa xa đến với chúng ta và giơ tay ra cho chúng ta với tình yêu, thì các tương quan đúng đắn mới có thể được tái lập. Điều này xảy ra nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đi ngược lại con đường của Ađam, như miêu tả trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philiphê (2,5-11). Trong khi Ađam không thừa nhận mình là thụ tạo và muốn chiếm chổ của Thiên Chúa, thì Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã tự hạ trở thành tôi tớ đi theo con đường tình yêu, hạ mình cho tới chết trên thập giá để tái lập trật tự các tương quan với Thiên Chúa. Thập giá Chúa Kitô trở thành cây mới của sự sống.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc họ các ngày hành hương sốt sắng, Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lạy Cha rồi ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha gặp gỡ công nghị các GM Công Giáo Canđê

Đức Thánh Cha gặp gỡ công nghị các GM Công Giáo Canđê

VATICAN. Sáng hôm 4 tháng 2-2013, ĐTC đã tiếp kiến Công nghị Giáo Hội Công Giáo Canđê gồm 20 vị, dưới sự hướng dẫn của Đức Tân Thượng Phụ Louis Sako.

Buổi tiếp kiến diễn ra trước thánh lễ hiệp thông do Đức Thượng Phụ và các GM Canđê cử hành tại Đền thờ thánh Phêrô. Đại diện ĐTC tại buổi lễ có ĐHY Leonardo Sandri Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương.

Trong thánh lễ, có đọc thư của ĐTC chúc mừng và ban sự hiệp thông Giáo Hội cho Đức tân Thượng Phụ Sako. Ngài viết:

”Tôi nồng nhiệt chúc mừng và cầu xin Chúa ban cho Đức Thượng Phụ dồi dào mọi ân sủng và phúc lành. Xin Chúa soi sáng cho Đức Thượng Phụ trong việc công bố Tin Mừng không biết mệt mỏi theo truyền thống sinh động có từ thời thánh Tômasô Tông Đồ. Ước gì Vị Mục Tử nhân lành và vĩnh cửu nâng đỡ Đức Thượng Phụ trong niềm tin của cha ông và ban cho Đức Thượng Phụ lòng nhiệt thành của các vị tử đạo xưa kia và ngày nay để bảo tồn gia sản linh đạo và phụng vụ của Giáo Hội Canđê đáng kính, trong tư cách Đức Thượng Phụ là Cha và là Thủ Lãnh. Ước gì sứ vụ của Đức Thượng Phụ là niềm an ủi cho các tín hữu Canđê tại quê mẹ cũng như tại hải ngoại, và cho cả toàn thể cộng đồng Công Giáo và các tín hữu Kitô đang sống tại quê hương của Tổ Phụ Abraham, như một khích lệ hòa giải, đón nhận nhau và hòa bình cho toàn thể nhân dân Iraq”.

Sau thánh lễ, Đức Thượng Phụ và các GM Công Giáo Canđê đã đến trước mộ thánh Phêrô Tông Đồ, lập lại lời tuyên xưng đức tin tông truyền.

Giáo Hội Công Giáo Canđê có 550 ngàn tín hữu tại Iraq trước khi Hoa Kỳ và đồng minh đánh chiếm nước này ngày 20 tháng 3-1993. Ở hải ngoại có 200 ngàn tín hữu, nhưng nay chỉ còn lại 200 ngàn tín hữu ở trong nước và phần còn lại phải di tản ra nước ngoài. (SD 4-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Giám mục cao niên nhất Việt Nam qua đời

Giám mục cao niên nhất Việt Nam qua đời

Giám mục Giacôbê Nguyễ văn Mầu

Linh cữu Đức cha Mầu được quàn tại nhà thờ chính tòa Vĩnh Long – Ảnh: Gp. Vĩnh Long

Đức cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu vừa từ trần hôm thứ Năm tại tiểu chủng viện Vĩnh Long, sau 73 năm linh mục và 45 năm giám mục. Hưởng thọ 99 tuổi.

Đức cha Mầu là vị giám mục thứ ba của giáo phận Vĩnh Long. Ngài được ca ngợi là vị giám mục có đời sống cương nghị, sâu đậm tình nghĩa, ứng xử hài hoà đã giúp giáo phận vượt qua nhiều thử thách trong thời kỳ khó khăn.

Trang website giáo phận Vĩnh Long viết rằng: “Trong hoàn cảnh khó khăn của những năm sau 1975, Đức cha Giacôbê đã âm thầm nâng đỡ tinh thần của đoàn dân Chúa. Ngài đã tích cực đào tạo hàng giáo sĩ, tu sĩ và hoạt động Công giáo tiến hành của giáo dân. Ngài đã thành lập nhiều giáo xứ mới và số giáo dân trong giáo phận tăng cao”.

Từ 1968-2001, giáo dân của giáo phận đã tăng từ 40.000 lên đến 168.000 người.

Trong suốt thời gian coi sóc giáo phận, ngài luôn được ca ngợi là vị giám mục nhân hậu và gần gũi với tất cả mọi người.

“Đức cha luôn gần gũi và thương yêu mọi người. Ngài không chỉ là người cha nhân hậu mà ngài còn là người cha rất vui tính và hài hước” – Thầy Phaolô Phan Thanh Duy nhận xét.

Thầy Duy nói rằng trong thời gian ngài nghỉ hưu mỗi khi có người đến thăm, ngài đều kể chuyện hài và chọc cười mọi người. “Ngài rất hóm hỉnh. Mỗi khi ai đó nói hút thuốc là có hại cho sức khỏe và chết sớm ngài đều phản bác và nói rằng nhờ hút thuốc mà ngài mới sống thọ như vậy” – thầy Duy kể.

Đức cha Mầu sinh ngày 21-1-1914 tại Bà Rịa, 12 tuổi ngài học tại Chủng viện Thánh Giuse. Đến năm 1940 ngài chịu chức linh mục và dấn thân phục vụ rất nhiều giáo xứ trong địa phận Sài Gòn lúc bấy giờ bao gồm cả Đà Lạt, Xuân Lộc, Mỹ Tho và Vĩnh Long.

Ngày 12-7- 1968, ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Vĩnh Long. Trước đó, ngài từng là giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.

Tháng 7-2001, ngài được Tòa Thánh chấp thuận cho nghỉ hưu ở tuổi 87, sau 33 năm làm giám mục giáo phận.

Thánh lễ an táng sẽ được cử hành vào ngày 4-2. Thi hài ngài sẽ được an táng trong khuôn viên nhà thờ chính tòa Vĩnh Long.

UCANEWS VN