TRỐNG TÒA, XƯỚNG TÊN ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI TRONG KINH NGUYỆN THÁNH THỂ ?

TRỐNG TÒA, XƯỚNG TÊN ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI TRONG KINH NGUYỆN THÁNH THỂ ?

Câu trả lời của cha Edward McNamara

Một độc giả của ZENIT đã hỏi cha E. McNamara, L.C., giáo sư thần học và là cha linh hướng, câu hỏi sau :

Sau ngày 28/02 và trước khi bầu chọn vị Giáo Tông mới, ta phải tiếp tục xướng tên của Đức Giáo Tông Bênêđíctô XVI trong Kinh Nguyện Thánh Thể không ? Tôi, tôi nghĩ là không, cần phải xử sự như khi một vị Giáo Tông qua đời, tức là không đọc tên ngài, nhưng Giám mục địa phương nói phải  đọc. – E.R., Keimoes, Nam Phi.

Ý kiến của độc giả của chúng tôi là đúng. Cho dầu – ơn Chúa – Đức Bênêđictô XVI sẽ vẫn còn sống giữa chúng ta, nhưng Tông Tòa sẽ vẫn trống tòa kể từ ngày thứ Năm 28/02 lúc 20g (giờ Rôma, ở New York sẽ là 14g và ở Sydney sẽ là 4 giờ sáng thứ Sáu 01/03/2013 ; ở Việt Nam sẽ là 2 giờ sáng thứ Sáu 01/03/2013).

Liên quan đến việc xướng tên Đức Giáo Tông trong Kinh Nguyện Thánh Thể, các thủ bản phụng vụ gần đây hơn không đi vào chi tiết nhưng ta vẫn tìm thấy những thủ bản trước Công đồng Vatican II nói đến các khía cạnh kín ẩn nhất của Phụng Vụ.

Trong trường hợp này, tên của Đức Thánh Cha, và toàn bộ câu quy chiếu đến Đức Thánh Cha, phải được rút khỏi Kinh Nguyện Thánh Thể trong suốt toàn bộ thời gian Trống Tòa. Chỉ phải để lại giám mục địa phương và hàng giáo sĩ, theo hình thức văn chương của mỗi Kinh nguyện.

Chẳng hạn, Kinh Nguyện Thánh Thể sẽ nói : « trong sự hiệp thông với… Đức Giám Mục ‘N’ của chúng con và toàn thể hàng giáo sĩ ».

Trong giáo phận Rôma : « trong sự hiệp thông với…toàn thể hàng giáo sĩ ». Cho dầu Đức Hồng y Đại diện giáo phận Rôma và các giám mục phụ tá vẫn còn tiếp tục chức vụ của mình, những việc đề cập tập thể đến các ngài là tùy ý/không bắt buộc.

Cùng một thể thức như thế được áp dụng trong mỗi giáo phận sau cái chết hay việc từ chức của giám mục địa phương. Trong suốt thời gian trống tòa giám mục, câu « Đức Giám Mục ‘N’ của chúng con » cũng được bỏ đi. Ngược lại, ta đọc tên của vị giám quản tông tòa nhưng không đọc tên của vị giám quản giáo phận tạm thời.

Trong trường hợp giáo phận và giáo phận Tòa Thánh trống tòa, các linh mục áp dụng cùng thể thức như trong giáo phận Rôma, tức là bỏ đi hai tên.

Tý Linh chuyển ngữ (Xuân Bích VN)

 

Tuần tĩnh tâm mùa chay của Đức Thánh Cha

Tuần tĩnh tâm mùa chay của Đức Thánh Cha

VATICAN. Từ chiều chúa nhật 17 tháng 2 vừa qua, ĐTC và các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đang tham dự tuần tĩnh tâm mùa chay cho đến sáng thứ bẩy 23 tháng 2 tới đây.

Cuộc tĩnh tâm khai mạc lúc 6 giờ chiều với nghi thức đặt Mình Thánh Chúa, hát Kinh Chiều, kể đến là bài suy niệm mở đầu của ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, rồi chầu và phép lành Mình Thánh Chúa kết thúc.

Trong bài suy niệm dẫn nhập, ĐHY Ravasi đã ám chỉ tới việc ĐTC Biển Đức 16 sẽ lui về Đan viện Mẹ Giáo Hội ở nội thành Vatican để sống trong ẩn dật, cầu nguyện, và ĐHY ví ngài như Ông Môise trong cuộc chiến đấu giữa Israel và quân binh của Amelek. Như Ông Môisê, nhờ lời cầu nguyện trên núi mà củng cố đoàn quân Israel, chức năng chính của ĐTC Biển Đức 16 sẽ là cầu nguyện cho Giáo Hội. ĐHY nói:

”Chúng ta ở lại thung lũng nơi có Amalek, nơi có bụi mù, lo âu, với những điều kinh khủng, nhưng cũng có những giấc mơ và hy vọng. Nhưng ngay từ bây giờ chúng ta biết rằng trên núi có người chuyển cầu cho chúng ta”.
ĐHY Ravasi cũng nói có sẽ thỉnh thoảng sẽ có những vị trong giáo triều leo lên núi ấy để nâng đỡ cánh tay của ngài giang ra trong lúc cầu nguyện. Theo chương 17 trong sách Xuất Hành, bao lâu Môisê giang tay cầu nguyện, thì Israel chiếm ưu thế so với quân đội của Amalek. Và nếu cánh tay của Ông hạ xuống, thì Israel cũng bị yếu thế”.
ĐHY Ravasi mô tả cuộc tĩnh tâm của giáo triều Roma hiện nay giống như để ”giải thoát tâm hồn khỏi bụi bặm của sự đời, khỏi bùn nhơ của tội lỗi và cát bụi của sự tầm thường, khỏi những chuyện tầm phào mà tai chúng ta liên lỷ phải nghe trong những ngày nay”.

Vị Giảng tĩnh tâm mời gọi mọi người hãy tạo nên sự thinh lặng trong tâm hồn, giải thoát mình khỏi bao nhiêu tiếng ồn ào của đời sống thường nhật. Trong đức tin cũng như trong đức ái, sự thinh lặng thường hùng hồn hơn lời nói”.

ĐHY Ravasi năm nay 70 tuổi, là một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, tác giả của rất nhiều sách báo, được ĐTC bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa hồi tháng 9 năm 2007. Ngài cũng là Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng latinh. Cũng năm đó ngài được ủy thác nhiệm vụ soạn các bài suy niệm cho buổi đi Đàng Thánh Giá trọng thể do ĐTC chủ sự tối thứ sáu Tuần Thánh tại hí trường Colosseo ở Roma.

Đề tài tổng quát của tuần tĩnh tâm hiện nay là ”Nghệ thuật cầu nguyện, nghệ thuật tin. Tôn nhan Thiên Chúa và khuôn mặt con người trong kinh nguyện thánh vịnh”.

Mỗi ngày có 3 bài suy niệm của ĐHY giảng thuyết lần lượt sau Kinh Ngợi Khen lúc 9 giờ sáng, kinh Giờ Ba lúc 10 giờ 15, và lúc 5 giờ chiều được nối tiếp với Kinh Chiều và Chầu Mình Thánh Chúa. (SD 18-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Buổi đọc kinh Truyền Tin áp chót của Đức Thánh Cha

Buổi đọc kinh Truyền Tin áp chót của Đức Thánh Cha

VATICAN. Hơn 50 ngàn tín hữu đã đến tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin của ĐTC Biển Đức 16 trưa chúa nhật 17 tháng 2-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Đây là buổi đọc kinh áp chót của ngài trước khi giã từ sứ vụ Phêrô vào chiều tối ngày 28 tháng 2 tới đây. Vì thế, rất nhiều tín hữu trong giáo phận Roma cùng với các tín hữu hành hương đã kéo đến để giã từ vị Chủ Chăn của mình. Nhiều biểu ngữ đã được trương lên để biểu lộ lòng quí mến. Đặc biệt chính quyền thành phố Roma, dưới sự hướng dẫn của Ông Đô trưởng Gianni Alemano cũng có mặt cùng với cờ hiệu chính thức của thành phố.

Đúng 12 giờ trưa, ĐTC xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài trông xuống quảng trường, giữa tiếng reo vui mừng của các tín hữu. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Ngài đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng chúa nhật thứ I mùa chay kể lại việc Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trong hoang địa.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến

Thứ tư vừa qua, với nghi thức truyền thống xức tro, chúng ta đã bước vào Mùa Chay là thời kỳ hoán cải và thống hối chuẩn bị Lễ Phục sinh. Giáo Hội là mẹ và là thầy, kêu gọi tất cả các phần tử của mình hãy canh tân tinh thần, quyết liệt tái qui hướng về Thiên Chúa, từ bỏ lòng kiêu ngạo và ích kỷ để sống trong tình yêu. Trong Năm Đức Tin này, Mùa Chay là một mùa thuận tiện để tái khám phá niềm tin nơi Thiên Chúa, như tiêu chuẩn căn bản của đời sống chúng ta và đời sống của Giáo Hội. Điều này luôn bao hàm một cuộc chiến đấu, một trận chiến tinh thần, vì hiển nhiên là ác thần luôn chống lại sự nên thánh của chúng ta và tìm cách kéo chúng ta ra khỏi con đường của Thiên Chúa. Vì thế, trong chúa nhật thứ nhất mùa chay, hằng năm đều công bố Phúc Âm về cuộc cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa.

Thực vậy, sau khi được ”tấn phong” như một Đấng Messia, được Thánh Linh xức dầu khi chịu phép rửa tại sông Giordan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Linh đưa vào hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ. Lúc khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã phải vạch trần và đẩy lui những hình ảnh giả trá về Đức Messia mà tên cám dỗ đề nghị với Ngài. Nhưng những cám dỗ này cũng là những hình ảnh giả trá về con người, trong mọi thời đại, những hình ảnh ấy vây bủa lương tâm con người, ngụy tạo bằng những đề nghị thích hợp và hữu hiệu, thậm chí là tốt nữa. Các thánh sử Tin Mừng Mathêu và Luca đều trình bày 3 cuộc cám dỗ Chúa Giêsu, chỉ khác nhau phần nào về thứ tự. Nòng cốt của các cám dỗ ấy là sự lợi dụng Thiên Chúa để phục vụ cho tư lợi, coi thành công hoặc những của cải vật chất là điều quan trọng hơn. Tên cám dỗ thật tinh quái: hắn không trực tiếp xô đẩy hướng về sự ác, nhưng hướng về sự thiện giả tạo, làm cho người ta tin rằng những thực tại đích thực là quyền bính và điều thỏa mãn những nhu cầu đầu tiên. Như thế, Thiên Chúa trở thành điều phụ thuộc, bị biến thành một phương tiện, và xét cho cùng, Ngài trở thành điều không thực, không còn đáng kể nữa và tan biến. Phân tích kỹ lưỡng ta thấy trong các cuộc cám dỗ, điều bị lâm nguy là chính đức tin, liên hệ tới Thiên Chúa. Trong những lúc quyết định của cuộc sống, nói đúng ra là trong mọi lúc, chúng ta đứng trước một ngã ba đường: chúng ta muốn theo cái tôi của mình hay là theo Chúa? theo tư lợi hay là Sự Thiện đích thực, điều thực sự là tốt?

”Như các Giáo Phụ đã dạy chúng ta, những cám dỗ thuộc về sự ”hạ cố” của Chúa Giêsu xuống thân phận phàm nhân của con người, xuống vực thẳm tội lỗi và những hậu quả của nó. Một sự ”hạ cố” mà Chúa Giêsu đã đi đến cùng, đến độ chịu chết trên thập giá và xuống vực thẳm của sự xa cách tột cùng đối với Thiên Chúa. Qua cách thức đó, Ngài là bàn tay mà Thiên Chúa giơ ra cho con người, cho con chiên lạc, để cứu thoát họ. Như thánh Augustino đã dạy, Chúa Giêsu đã chịu những cám dỗ từ phía chúng ta, để ban cho chúng ta chiến thắng của Ngài. Vì thế chúng ta không sợ phải đương đầu với cuộc chiến chống lại ác thần: điều quan trọng là chúng ta cùng chiến đấu với Ngài, cùng với Chúa Kitô, với Đấng Chiến Thắng. Và để ở với Chúa, chúng ta hãy hướng về Mẹ của Ngài, Mẹ Maria: với lòng tín thác chúng ta hãy kêu cầu Mẹ trong giờ thử thách, và Mẹ sẽ giúp chúng ta cảm thấy sự hiện diện toàn năng của Chúa Con, để đẩy lui những cám dỗ bằng Lời Chúa Kitô, và như thế để tái đặt Thiên Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta.

Chào thăm và cám ơn

Sau khi ban phép lành, như thường lệ, ĐTC đã chào các tín hữu bằng các thứ tiếng khác nhau kèm theo những lời nhắn nhủ. Bằng tiếng Pháp ngài nói:

”Mùa chay vừa bắt đầu là một lời mời gọi hãy dành nhiều thời giờ hơn cho Thiên Chúa, trong kinh nguyện, đọc Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích. Qua việc chay tịnh chúng ta học cách đừng lơ là với lương thực đích thực, là lương thực thiêng liêng, để chống lại những cám dỗ của sự dửng dưng, bỏ mặc, ích kỷ và kiêu ngạo, tiền bạc và quyền hành. Chúng ta hãy suy niệm cách thức Chúa Giêsu đã vượt thắng những cám dỗ và xin Chúa ban sức mạnh để chiến đấu chống lại sự ác. Ước gì mùa chay này đối với mỗi người là con đường hoán cải chân thực trở về cùng Thiên Chúa và thời kỳ chia sẻ khẩn trương niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô! Tôi cám ơn anh chị em đã cầu nguyện và tôi xin anh chị em tháp tùng tôi trong tinh thần qua cuộc tĩnh tâm bắt đầu tối hôm nay.
Bằng tiếng Đức, ĐTC cám ơn các tín hữu vì nhiều dấu hiệu hiệp thông và cầu nguyện trong những ngày khó khăn này đối với ngài.

Bằng tiếng Tây Ban Nha, ĐTC xin các tín hữu tiếp tục cầu nguyện cho ngài và cho vị Giáo Hoàng sắp tới, cũng như cho cuộc tĩnh tâm của ngài với giáo triều Roma.

Sau cùng bằng tiếng Ý, ĐTC nói: ”Cám ơn anh chị em đã đến đây đông đảo như thế! Sự hiện diện của anh chị em là một dấu chỉ lòng quí mến và sự gần gũi tinh thần mà anh chị em đã bày tỏ với tôi trong những ngày này. Tôi hết lòng biết ơn anh chị em. Tôi đặc biệt chào thăm chính quyền thủ đô Roma, do ông đô trưởng hướng dẫn, và cùng với ông, tôi chào thăm và cám ơn tất cả dân chúng tại thành phố Roma yêu quí này.. Chiều nay tôi bắt đầu tuần tĩnh tâm: chúng ta hiệp nhất trong kinh nguyện và tôi cầu chúc tất cả anh chị em một tuần lễ tốt đẹp”.
Tuần tĩnh tâm mùa chay mà ĐTC cùng các vị lãnh đạo của các cơ quan trung ương Tòa Thánh tham dự, bắt đầu từ 6 giờ chiều hôm qua, và kéo dài đến sáng thứ bẩy 23 tháng 2 tới đây. Vị giảng tĩnh tâm là ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa từ năm 2007. ĐHY năm nay 70 tuổi, là một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, tác giả của rất nhiều sách báo. Ngài cũng là Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng latinh. Cũng năm 2007 ngài được ủy thác nhiệm vụ soạn các bài suy niệm cho buổi đi Đàng Thánh Giá trọng thể do ĐTC chủ sự tối thứ sáu Tuần Thánh tại hí trường Colosseo ở Roma.

Đề tài tuần tĩnh tâm là ”nghệ thuật cầu nguyện, nghệ thuật tin” (Ars orandi, Ars credendi), đặc biệt chú ý đến tôn nhan Chúa và khuôn mặt của con người trong kinh nguyện Thánh Vịnh.

G. Trần Đức Anh OP-Radiovatican
 

VƯỢT QUA THỬ THÁCH

VƯỢT QUA THỬ THÁCH

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 4,1-13

2. Ý CHÍNH: CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ

Tin mừng thuật lại việc Thánh Thần hướng dẫn Đức Giê-su vào sa mạc ăn chay cầu nguyện bốn mươi ngày, sau đó Người đã dùng Lời Thánh Kinh chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ như sau:

– Một là về thú vui nhục dục.

– Hai là về quyền lực lợi lộc.

– Ba là về danh vọng thế gian.

3. CHÚ THÍCH:

C 1-2: + Được Thánh Thần dẫn đi vào hoang địa: Thánh Lu-ca hay nói tới tác động của Thánh Thần trong cuộc đời Đức Giê-su (x. Lc 1,35 ; 3,16.22). Hoang địa là vùng sa mạc Giu-đa, một giải đất rộng nằm giữa vùng núi gần thành Giê-ri-cô. + Bốn mươi ngày: Con số bốn mươi này gợi lại bốn mươi năm dân Ít-ra-en đi trong sa mạc. + Chịu quỷ cám dỗ: Trong tiếng Do thái, cám dỗ nghĩa là thử thách, giống như một cuộc thi cử. Đứng trước cơn cám dỗ, ta phải lựa chọn giữa sự thiện và sự ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết. + Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói: Nhịn ăn là một trong những hình thức chay tịnh của dân Do thái.

C 3-4: + “Nếu ông là Con Thiên Chúa”: Quỷ đã nhắc lại lời Chúa Cha phán sau khi Đức Giê-su chịu phép Rửa: “Này là Con Ta yêu dấu” (x Lc 3,22). + Truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!: Đây là cơn cám dỗ về của ăn. Quỷ đã nhận ra điểm yếu của Đức Giê-su là bị cơn đói sau thời gian dài ăn chay, nên nó xúi Người làm phép lạ biến đá thành bánh thỏa mãn nhu cầu của bản thân! Đây là sự cám dỗ chiều theo các đam mê lạc thú thể xác. + “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”: Đức Giê-su dùng câu nói của Mô-sê dạy dỗ dân Ít-ra-en xưa để chống trả cơn cám dỗ này của ma quỷ (x. Đnl 8,3).

C 5-8: + Quỷ đem Đức Giê-su lên cao: Có lẽ đây là một vị trí cao hơn mặt đất, như thường ghi trong các Khải huyền Do thái. + Trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ: Câu này cho thấy cơn cám dỗ chỉ xảy ra trong tâm trí của Đức Giê-su. + Nó nói với Người: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này.”..: Ma quỷ đề nghị chia sẻ quyền cai trị để biến Đức Giê-su thành vị Mê-si-a trần thế theo kiểu vua Đa-vít ngày xưa.

Người sẽ liên kết với nhóm Do thái cực đoan để chiếm lại quyền hành và vinh quang, đánh đuổi quân Rô-ma đang cai trị ra khỏi đất nước (x. Gio-an 6,15). Điều mong ước này không nằm trong chương trình cứu độ và không phải là sứ vụ của Đức Giê-su (x. Lc 10,22). + Đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”: Bái lạy là thái độ của loài thụ tạo phục tùng Đấng Tạo Hóa (x. Mt 2,5 ; 8,2). Dân Do thái khi xưa đã sa ngã phạm tội khi tôn thờ bò vàng, nên đã bị phạt (x. Xh 32,1.31-35). Còn nay Đức Giê-su nhắc lại điều luật Mô-sê truyền cho dân Do thái chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Đnl 6,13).

C 9-13: + Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem: Lu-ca kết thúc bản tường thuật các cơn cám dỗ tại Giê-ru-sa-lem. + Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng dậy mà gieo mình xuống đi”: Sau này trong cuộc khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem, các đầu mục Do thái, bọn lính canh và tên gian phi cũng lặp lại cơn cám dỗ này: “Hãy bước xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy mà tin” (x. Mt 27,42b-44). + “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”: Thử thách Thiên Chúa có hai nghĩa: một là như xưa ma quỷ đã cám dỗ dân Do thái lẩm bẩm kêu trách và phản đối Đức Chúa, Đấng đã giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, đang khi lẽ ra họ phải tạ ơn và phó thác cậy trông nơi Người. Hai là quỷ cám dỗ Đức Giê-su lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa để tìm kiếm lợi lộc cho bản thân. Tội này cũng giống tội “trông cậy quá lẽ”, nghĩa là đòi Chúa phải làm phép lạ để thỏa mãn đòi hỏi theo ý riêng mình. + Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi chờ đợi thời cơ: Thời cơ là cuộc thương khó của Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 22,3). Trong vườn cây Dầu, Người đã bị ma quỷ cám dỗ từ chối uống chén đắng đau khổ, nhưng Người đã chiến thắng cơn cám dỗ đó bằng lời cầu xin với Chúa Cha: “Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22,42). Trên cây thập giá, Người bị ma quỷ cám dỗ nghĩ mình đã bị Chúa Cha bỏ rơi! (x. Mt 27,46), nhưng Người đã chiến thắng nó qua lời cầu nguyện phó thác hòan tòan vào sự quan phòng của Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

4. CÂU HỎI: 1) Cám dỗ là gì? Khi chỉ bị ma quỷ cám dỗ làm điều xấu trong tâm trí thì đã có tôi chưa? 2) Đức Giê-su đã dùng phương thế nào để chống lại ma quỷ khi bị chúng cám dỗ? 3) Tội “thử thách Thiên Chúa” có đồng nghĩa với tội “trông cậy quá lẽ” không? Hãy nêu một vài ví dụ cụ thể để minh họa về tội “trông cậy quá lẽ” hay tội “thử thách Thiên Chúa”.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1b).

2. CÂU CHUYỆN: SA CHƯỚC CÁM DỖ

Ngày xưa có một thanh niên tính tình hiền lành, luôn ăn ở hiếu thảo với cha mẹ, và rất yêu thương vợ mình. Một hôm, một con quỷ đã hiện ra và cám dỗ anh ta phạm tội. Quỷ cho anh được quyền chọn làm một trong ba điều xấu: Một là chửi mắng cha mẹ. Hai là giết chết cô vợ thân yêu. Ba là uống rượu. Bấy giờ chàng thanh niên liền suy nghĩ như sau: Chửi mắng cha mẹ là bất hiếu, nên ta quyết không làm. Giết chết người vợ thân ỵêu là bất nghĩa, ta cũng không thể làm được. Chỉ có uống rượu là ta có thể làm được thôi, vì uống rượu đâu phải là điều quá xấu xa! Thế là anh ta chọn uống rượu. Quỷ liền sai người cung cấp cho anh ta đủ các thứ rượu ngon trên đời. Lúc đầu chàng thanh niên còn uống hạn chế mỗi bữa một ly nhỏ, nên không có điều gì xảy ra. Nhưng dần dần việc uống rượu trở thành thói quen, mỗi bữa anh ta phải tăng “đô” lên và uống gấp nhiều lần mới thấy “phê”. Cuối cùng, anh đã trở thành một tên bợm nhậu: lúc nào cũng say xỉn! Một hôm, anh ta say đến nỗi không biết trời trăng gì nữa. Trong cơn say, anh ta đập bể tất cả chén bát và vất mọi thứ đồ đạc trong nhà ra đường. Bị cha mẹ ngăn cản rầy la, anh ta liền to tiếng cãi lại và buông ra những lời thô tục xúc phạm đến cha mẹ. Cô vợ thấy chồng vô lễ và bất hiếu như vậy liền chạy tới khuyên can liền bị anh đâm một nhát dao khiến cô ngã lăn ra chết. Thế là từ việc uống rượu tưởng chừng vô hại lúc đầu, về sau đã trở nên nguyên nhân dẫn đến hai tội ác lớn lao là bất hiếu xúc phạm cha mẹ, và bất nghĩa giết người vợ thân yêu của mình.

3. SUY NIỆM:

– Con người “nhân vô thập toàn” và dễ sa ngã phạm tội là do hậu quả của tội tổ tông truyền lại, như thánh Phao-lô đã có lần thú nhận: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Ngoài ra con người còn bị ma quỷ cám dỗ xúi giục phạm tội như nó đã cám dỗ con cháu No-e phạm nhiều tội đáng bị trừng phạt. Dân Ít-ra-en tuy đã được Đức Chúa cứu khỏi ách nô lệ cho dân Ai cập, thế mà cuối cùng cũng đã nghe theo ma quỷ cám dỗ để nói lời xúc phạm đến Đức Chúa và tỏ thái độ vô ơn đối với Mô-sê.

– Nhưng may thay, loài người có Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương chiến thắng ma quỷ khi bị nó cám dỗ trong sa mạc. Sự chiến thắng của Người là nguồn động viên và khích lệ các tín hữu chúng ta trong việc chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Trong Mùa Chay này, noi gương Đức Giê-su, chúng ta hãy vâng theo ơn Thánh Thần hướng dẫn đi vào sa mạc tâm hồn. Hãy cùng với Đức Giê-su giữ sự thinh lặng, siêng năng cầu nguyện và hãm mình chay tịnh, để dễ nhận biết các cơn cám dỗ của ma quỷ. Rồi nhờ việc chuyên cần học sống lời Chúa và ơn Thánh Thần trợ giúp, chúng ta sẽ chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.

– Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta về ba phương diện là: THÚ VUI, LỢI LỘC và DANH VỌNG như sau:

* Về THÚ VUI: Ma quỷ xúi giục Đức Giê-su thỏa mãn cơn đói khát cơm bánh vật chất và ham mê các đam mê lạc thú bất chính. Ngày nay chúng ta cũng thường cảm thấy cồn cào ruột gan và thèm muốn được “ngồi bên nồi thịt và được ăn bánh thỏa thuê”…. như dân Ít-ra-en trong sa mạc khi xưa (x. Xh 16,2tt). Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng cơn cám dỗ này. Người không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất khi nói: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, mà còn khẳng định: Lời Chúa cũng cần thiết không kém để nuôi dưỡng đức tin. người tín hữu không được vì lợi nhuận tiền tài vật chất mà bỏ rơi bổn phận ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và phó thác nhu cầu cuộc sống trong tay Chúa quan phòng (x. Mt 6,33).

* Về LỢI LỘC: Ma quỷ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giê-su nếu Người chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền của ma quỷ và đã bán linh hồn mình cho ma quỷ để làm tay sai cho nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và đã lần lượt bị diệt vong. Còn Đức Giê-su chỉ nhận quyền lực từ nơi Chúa Cha (x. Lc 1,32b). Chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8). Chỉ Chúa Cha mới ban quyền cai trị cho Chúa Con là Đức Giê-su, và quyền lực ấy sẽ kéo dài mãi mãi, như lời sứ thần Gáp-ri-en: “Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,33).

* Về DANH VỌNG: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su tìm kiếm hư danh, bằng cách xúi Người nhảy từ nóc Đền thờ xuống, vì chắc Thiên Chúa sẽ can thiệp kịp thời cứu Người khỏi té ngã (x. Lc 4,10-11). Đó chính là tội “trông cậy quá lẽ”, tội “thử thách Thiên Chúa” do mê tín dị đòan. Đây là tội tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo và buộc Thiên Chúa phải ra tay can thiệp làm phép lạ để cứu mình khỏi chết. Đức Giê-su đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa như thế khi trưng dẫn lời Kinh thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x Đnl 6,16). Người muốn chúng ta phải có một đức tin đơn sơ phó thác, như đứa con thơ nép mình trong vòng tay cha mẹ và không bao giờ nghi ngờ và đòi hỏi cha mẹ phải chứng minh tình thương ấy.

4. THẢO LUẬN: 1) Ma quỷ đã tấn công vào chỗ yếu của Đức Giê-su là bị đói sau khi nhịn ăn bốn mươi ngày. Còn chỗ yếu của bạn hiện nay là gì? 2) Để chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ cách hữu hiệu, bạn cần sử dụng các phương thế nào noi gương Đức Giê-su trong Tin Mừng hôm nay?

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Bị cám dỗ là thân phận của con người. Nhưng chúng con chỉ thắng được cơn cám dỗ khi biết cậy nhờ vào ơn trợ giúp của Chúa. Cuộc sống hôm nay cho chúng con bao điều cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những dục vọng thầm kín trong chúng con như: Muốn chiếm đoạt của cải người khác cách bất chính và muốn thống trị tha nhân, muốn được sống buông thả theo tính xác thịt tự nhiên. Cám dỗ nào cũng hứa cho chúng con được hoan lạc hạnh phúc đang khi thực ra chúng chỉ mang lại những âu sầu thất vọng.

LẠY CHÚA. Xin cho chúng con chiến thắng được các cơn cám dỗ của ma quỷ nhờ ơn Thánh Thần, nhờ biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, nhờ sự chay tịnh và luôn làm chủ bản thân. Xin cho chúng con dám lội ngược dòng để đi con đường hẹp và leo dốc của Chúa: Con đường nghèo khó khiêm nhu và hy sinh phục vu tha nhân noi gương Chúa xưạ. Ước gì sau những lần chiến đấu vất vả cam go, chúng con sẽ được lớn lên trong tình yêu Chúa. Và ngay cả khi chúng con lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết trỗi dậy cậy trông vào lòng khoan dung của Chúa và mau mắn quay về làm hòa với Chúa nhờ bí tích giải tội.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A

Đ) XIN CHÚA NHẬN LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH

CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ

CHỐNG LẠI CƠN CÁM DỖ

A. DẪN NHẬP

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa chay thánh. Thứ Tư vừa qua, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào một cuộc hành trình, hành trình Mùa chay, đó là một cuộc hành trình hướng tới lễ Phục sinh. Chúng ta là những người đã được chịu phép rửa tội, nhưng chưa hoàn toàn sống đời sống của một Kitô hữu. Mùa Chay mời gọi chúng ta thay đổi tâm hồn, và sống Tin mừng một cách trọn vẹn.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cho chúng ta biết, khi nhập thể vào trần gian với thân phận con người, Đức Kitô cũng từng trải qua nhiều thử thách cam go, chịu ma quỉ cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh trong sa mạc. Ma quỉ cám dỗ Ngài xoay quanh ba chủ đề : thú, lợi, danh… Nhưng Ngài đã vượt thắng tất cả nhờ sức mạnh của Lời Chúa.

Chúa cũng để cho ma quỉ cám dỗ chúng ta, không phải để làm hại ta mà là để cho chúng ta trưởng thành hơn và tỏ lòng trung thành đối với Chúa. Con người yếu đuối không thể vượt qua được những mưu chước của ma quỉ, nhưng chúng ta đã có ơn Chúa trợ lực, Ngài sẽ nâng đỡ chúng ta, Ngài không để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta. Hãy cầu nguyện để múc lấy sức mạnh nơi Chúa : “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Và với ơn Chúa chúng ta sẽ chiến thắng như thánh Phaolô đã nói: “Omnia possum in eo qui me confortat”(Pl 4,13) : Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : Đnl 26,4-10.

Dâng của lễ đầu mùa trước kia là một nghi lễ của dân ngoại, trong đó con người nhìn nhận mình không nắm giữ các bí ẩn của thiên nhiên và của sức sống vạn vật. Vì vậy, con người cầu xin các thần chiếu cố ban ơn.

Tuy nhiên, trong bài đọc 1 hôm nay, ông Maisen dạy cho dân chúng : khi dâng của lễ đầu mùa phải có tâm tình gì : đó là tinh thần biết ơn. Bởi vì, nhìn ngược dòng lịch sử, tổ tiên của dân Do thái ban đầu chỉ là những kẻ phiêu bạt nơi người Ai cập, phải làm nô lệ cho họ. Thiên Chúa đã dùng quyền năng Ngài mà giải thoát họ và xây dựng họ thành một dân tộc hùng mạnh. Vì thế, hằng năm họ phải biết ơn Ngài và lấy một phần hoa lợi của mình mà dâng lên Ngài.

+ Bài đọc 2 : Rm 10,8-13.

Luật đạo cũ xưa tỏ ra quá tỉ mỉ và rắc rối. Thánh Phaolô đem đối chiếu với luật xưa, để người tín hữu thấy rằng lòng tin ở Đức Kitô Phục sinh thì đơn giản như thế nào. Ơn cứu độ chỉ có được bởi lòng tin : Ai tuyên xưng trong lòng và tuyên xưng ra rằng Đức Giêsu Kitô đã sống lại và đang làm Chúa tể, thì sẽ được cứu độ.

Một khi đã có một niềm tin như thế, một niềm tin duy nhất, thì khi đó không còn phân biệt Do thái với dân ngoại. Tất cả đều có một Chúa. Đây là điểm tựa duy nhất cho đời sống đạo của chúng ta.

+ Bài Tin mừng : Lc 4,1-13.

Đoạn trình thuật của thánh Luca về các cám dỗ cũng giống như đoạn trình thuật của thánh Matthêu. Tuy nhiên thánh Luca để ý hơn đến việc chứng tỏ Đức Giêsu chiến thắng các cám dỗ với tư cách người đứng đầu một nhân loại thực sự, một dân Israel mới. Trên bước đường đi về Đất Hứa, dân Israel đã gặp nhiều cám dỗ :

– Cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn.

– Cám dỗ thờ tượng con bê vàng.

– Cám dỗ thử thách Thiên Chúa.

Họ đã sa ngã vào những cám dỗ đó. Nay Đức Giêsu chính là Israel mới, Ngài cũng sống trong sa mạc thời gian dài (40 ngày), cũng bị những loại cám dỗ dân Israel ngày xưa, nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Được như thế, Đức Giêsu đã tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Đó là tấm gương sáng để chúng ta noi theo.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Vật lộn với ma quỉ

I. ĐỨC GIÊU BỊ MA QUỈ CÁM DỖ

1. Đức Giêsu vào trong sa mạc.

Đừng ai tưởng rằng Đức Giêsu không thể bị cám dỗ vì Ngài là Thiên Chúa. Mặc dầu có bản chất thần thánh, Ngài cũng có một bản chất con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ không phải là một tội lỗi. Không có một công trình lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm.

Đức Giêsu đã trải qua 40 ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi khắc nghiệt, nhưng đó lại là một nơi lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện. Và trong thời gian suy nghĩ cầu nguyện đó, ma quỉ có thể thực sự hiện ra để cám dỗ Ngài không ? Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Ngài đều có thật, giống như chúng ta vậy, mặc dầu quỉ sứ không hiện ra với chúng ta với hình dáng của một con người. Ngài đã bị cám dỗ về ba phương diện : thú, lợi, danh.

2. Ý nghĩa của chữ “Cám dỗ

Trong tiếng Do thái, chữ “Cám dỗ” có nghĩa là “thử thách”, “thử tài”, giống như chữ “đi thi” của chúng ta ngày nay. Cám dỗ là đi thi : ai thắng cám dỗ là thi đậu, ai sa ngã là thi rớt. Bởi thế cám dỗ là dịp tốt để ta “lấy bằng cấp”. Tuy nhiên ta đừng khinh địch, hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn : “Thứ quỉ này chỉ có thể thắng nhờ ăn chay và cầu nguyện”. Nhớ lời trong kinh Lạy Cha “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và nhớ Đức Giêsu trong bài Tin mừng này đã chiến thắng được nhờ sự trợ giúp và che chở của Thiên Chúa (Carôlô).

3. Ba chước cám dỗ.

Theo thánh Luca, Đức Giêsu bị 3 chước cám dỗ thử thách :

Cơn cám dỗ thứ nhất : Đức Giêsu ăn chay trong sa mạc. Ngài đói, nên cám dỗ đầu tiên của ma quỉ là tìm kiếm của ăn để nuôi dưỡng thân xác : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”(Lc 4,3).

Cơn cám dỗ thứ hai : Ma quỉ đề nghị Đức Giêsu dùng quyền lực của Ngài để thỏa mãn những ước muốn ái quốc của quần chúng. Dân Israel hy vọng rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến như một người chiến thắng, và Ngài sẽ giải thoát dân Israel bằng gươm giáo. Đức Giêsu có nên dùng quyến lực của Ngài để thực hiện giấc mơ ấy không ?

Cơn cám dỗ thứ ba : Ma quỉ đề nghị : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông ! các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá” (Lc 4,10). Đây là cám dỗ đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng của người Do thái xưa (Xh 17), đòi thấy những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục : đó là cơn cám dỗ trên nóc Đền thờ Giêrusalem…

Ba chước cám dỗ này qui về ba chữ : THÚ, LỢI, DANH.

a) Về THÚ : Ma quỉ xúi giục Đức Giêsu thỏa mãn sự đói khát cơm bánh vật chất và các đam mê lạc thú. Nhưng Đức Giêsu đã thắng cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của cơm bánh vật chất, nhưng khẳng định:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn sống bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.

b) Về LỢI : Ma quỉ ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho Đức Giêsu nếu Ngài chịu tôn thờ nó. Nhưng Đức Giêsu chỉ nhận quyền lực từ Thiên Chúa (x. Lc 1,32b; 10,22; 22,29), chỉ công nhận một mình Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất đáng tôn thờ (x. Lc 4,8; Đnl 6,13).

c) Về DANH : Ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu tìm kiếm hư danh bằng cách xúi giục Ngài nhảy từ nóc Đền thờ vì sẽ được sự can thiệp kịp thời của Thiên Chúa (x. Lc 4,10-11; Tv 91,11-12). Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ thử thách quyền năng Thiên Chúa đó qua lời Kinh thánh:”Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Đnl 6,16).

Cuối cùng cả ba chước cám dỗ đều qui về một điều : đặt những thứ vật chất và vinh quang bản thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói chúng, đây là những chước cám dỗ chủ yếâu trong Giáo hội của Ngài, và nơi mỗi người chúng ta là các thành viên trong Giáo hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt về Đấng khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc Đền thờ, và cai trị bằng quyền lực.

II. CHÚNG TA CŨNG BỊ CÁM DỖ

Suy nghĩ một chút, chúng ta thấy chuyện dân Israel bị cám dỗ 40 năm và Đức Giêsu bị cám dỗ 40 ngày xem ra chỉ là chuyện đời xưa, chẳng liên quan gì đến chúng ta ngày nay. Thực ra ngày nay chúng ta cũng gặp những cám dỗ ấy, nhưng dưới những hình thức khác thôi :

– Phải chăng chúng ta cũng bận tâm quá đáng đến việc ăn uống, sinh nhai ?

– Phải chăng chúng ta ham chuộng danh vọng trần thế ?

– Phải chăng chúng ta không chịu vận dụng hết khả năng của mình mà cứ để Thiên Chúa làm phép lạ cho mình ?

1. Sự khôn ngoan của ma quỉ

Ma quỉ rất tinh quái, nó biết rõ những nhu cầu của con người từ nhu cầu ăn uống cần cho thể xác, đến nhu cầu ham mê danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là kiêu ngạo. Cái khôn của ma quỉ làø làm cho cám dỗ mang một dáng vẻ hấp dẫn, hợp với sở thích và ý muốn của con người, nên mới có sức thuyết phục mạnh mẽ để ta ưng theo. Do cái vỏ quyến rũ, mỹ miều bên ngoài của nó như vậy nên mới dễ đánh lừa ta, khiến ta thường bị sa lầy, mắc bẫy.

Truyện : Mua cái bóng cây

Ngày xưa, có một người giầu có xây nhà bên đường. Trước nhà ông có một cây to, rợp bóng rộng mát. Mùa hè, khi mọi nhà phải chịu nóng bức, ngột ngạt thì ông nhà giầu cứ mặc nhiên ngả lưng dưới bóng cây, hưởng gió mát. Một hôm có anh nhà nghèo đi qua, thấy bóng cây mát liền ngồi nghỉ và thiếp đi lúc nào không biết.

– Ê, ông nhà giầu quát, Ai cho phép mày nằm nghỉ ở đây ? Xéo ngay.

– Vì sao lại thế ? anh nhà nghèo hỏi.

– Cái cây này là của tao, vì vậy cái bóng của nó cũng là của tao, ông nhà giầu lý luận.

– Nếu vậy, ông hãy bán cho tôi cái bóng. Tôi sẽ trả tiền ông đàng hoàng. Xin ông đừng lo.

Nghe nói đến tiền, ông nhà giầu bán ngay cái bóng ấy cho anh nhà nghèo. Từ hôm ấy, hễ trời trở nóng, anh nhà nghèo lại ra ngồi dưới bóng cây nghỉ mát. Khi bóng cây ngả vào sân ông chủ, anh nhà nghèo cũng vào sân nghỉ; khi bóng cây ngả vào bếp hoặc vào phòng tiếp khách, anh nhà nghèo cũng theo vào những nơi đó. Chẳng những thế, anh còn cao hứng rủ rê bạn bè đến nghỉ. Ông nhà giầu tức lắm nhưng đành bấm bụng chịu.

Một hôm ông nhà giầu có khách. Khi bóng cây ngả vào phòng khách, anh nhà nghèo cùng đám bạn bè kéo luôn vào phòng khách nằm, khiến khách rất ngạc nhiên. Hỏi nguyên cớ thì ông nhà giầu cắn môi im lặng, anh nhà nghèo giải thích : “Cái bóng cây này là của tôi. Ôâng chủ đây đã đồng ý bán cho tôi rồi ! Tôi có quyền nghỉ ngơi bất kỳ lúc nào”. Đám khách cười nhạo ông chủ nhà, rồi bỏ ra về. Ít ngày sau, ông nhà giầu bị cả làng chửi bới, còn lũ trẻ con hễ gặp ông ở đâu là bỉu môi chế giễu :”Đồ tham lam, bán cả cái bóng cây” ! Bị bẽ mặt, ông nhà giầu đành bỏ làng đi ở nơi khác. Thế là anh nhà nghèo không những được cái bóng cây mà còn được cả cái cây cùng ngôi nhà của ông nhà giầu nữa. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 107-108)

Qua sự cám dỗ về lòng tham lam tiền bạc, ông nhà giầu đã đưa kẻ thù vào ở trong nhà mình. Một cách nào đó, qua những cám dỗ, chúng ta cũng mở cửa tâm hồn cho ma quỉ vào xâm chiếm linh hồn mình. Tất cả những mưu thâm chước độc của ma quỉ thì thiên hình vạn trạng khiến con người khó mà đứng vững nếu chúng ta không cảnh giác đề phòng, không biết cầu cứu với Chúa, không năng nhận những phương thế hỗ trợ thiêng liêng.

2. Những cám dỗ của chúng ta

Ngày xưa ma quỉ cám dỗ Đức Giêsu thế nào thì ngày nay chúng vẫn cám dỗ chúng ta như vậy, mà còn nhiều trò nguy hiểm hơn nữa. Tất cả những chước cám dỗ ấy cũng qui về ba mối : thú, lợi và danh.

a) Về thú vui

Tiền nhân dạy rằng: “Nhân sinh tại thế dĩ thực vi tiên” nghĩa là con người sinh ra ở đời, thì việc ăn uống là ưu tiên và cần thiết.

Nói lên câu đó, tiền nhân có ý bảo rằng : con người sinh ra thì phải ăn uống. Có ăn có uống thì mới sống được. Có sống thì mới làm việc được, do đó mới có câu: “Có thực mới vực được đạo”. Song le, vì ma quỉ nó dốt CHỮ NHO, nên mới cắt nghĩa quẹo đi: “Con người sinh ra chỉ để ăn uống”, nên thiên hạ đâu đâu cũng thuộc giáo điều của nó: “Không ăn cũng thiệt, không chơi cũng hoài”.

Thánh Phêrô đã khuyên : “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,6). Con người có khuynh hướng thỏa mãn xác thịt, muốn làm cho thân xác được béo tốt, được thưởng thức mọi thú vui không biết ngừng lại. Nhưng người ta có biết rằng “Cực lạc sinh bi ai” ? Cái gì thái quá cũng sinh tai hại. Mùa chay này nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu nói với ma quỉ: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.

b) Về lợi lộc.

Ma quỉ hứa ban lợi lộc và quyền lực vinh quang cho con người nếu chịu tôn thờ nó. Có nhiều người nhẹ dạ đã tin vào lời hứa hão huyền này và đã bán linh hồn cho ma quỉ, trở thành tay sai của nó. Trong lịch sử thế giới, bao nhà độc tài đầy quyền thế, bao đế quốc hùng mạnh đã xuất hiện và lần lượt đều đã bị diệt vong. Ma quỉ cũng cám dỗ Đức Giêsu trở nên giầu có và quyền thế như các vua chúa trên trần gian, nhưng Ngài đã khước từ, Ngài chấp nhận “yếu đuối” (1Cr 1,27). Cơn cám dỗ về quyền hành, về giầu sang phú quí cũng là cơn cám dỗ của chúng ta.

Ngoài ra, danh vọng và giầu sang phú quí chưa hẳn là hạnh phúc vì danh vọng và giầu sang là con dao hai lưỡi : nó có thể phục vụ ta, biến nó thành tôi tớ trung thành của ta, mà nó cũng có thể ức chế ta, biến ta thành nô lệ của nó, sai khiến ta làm đủ mọi điều gian ác.

Truyện : Ca sĩ Elvis Presley

Chắc nhiều người trong chúng ta, nhất là các người trẻ, biết tên chàng ca sĩ nổi tiếng thế giới là Elvis Presley.

Chàng rất giầu có : một mình có 8 chiếc xe hơi, 6 xe gắn máy, 2 máy bay, 16 máy truyền hình, một ngôi biệt thự rất rộng và nhiều tài khoản ngân hàng. Trên tất cả những thứ đó, còn có biết bao đạo quân những người hâm mộ coi chàng là thần tượng.

Thế nhưng Elvis Presley không cảm thấy hạnh phúc. Có lần chàng thú nhận: “Càng nhiều tiền thì càng nhức đầu”. Mẹ chàng thì không mong gì hơn là con trai mình có giờ về thăm gia đình. Nhưng mong ước đơn giản như thế mà cũng không được.

Elvis Presley là một bằng chứng cho lời Đức Giêsu nói : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.

c) Về DANH

Nếu ông là Con Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi ! Vì có lời chép rằng Thiên Chúa sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Tv 91,11-12). Đó là cám dỗ lớn và liên tục mà người ta đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời công khai của Ngài : Hãy làm phép lạ đi – Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời… Hãy chứng minh ông là Thiên Chúa… Hãy biểu lộ quyền hành của ông, chứng minh rằng ông là Đấng Cứu Thế chúng tôi đang mong đợi…

Đức Giêsu đã không nhận những thách thức ấy mặc dầu Ngài có thể làm được tất cả. Thực ra, những thách thức đó chỉ làm cho Đức Giêsu lìa xa con đường mà Chúa Cha đã vạch ra cho Ngài : Ngài phải chết. “Lạy Cha, nếu có thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Chính nhờ thái độ vâng phục tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị “Chúa Cha bỏ rơi” (Mt 27,46), mà chứng tỏ mình là Con Một của Cha…

Đức Giêsu lánh xa khuynh hướng khoe khoang, Ngài chịu thất bại trước những thử thách ấy để đạt được mục đích. Còn chúng ta thì luôn có khuynh hướng khoe khoang, mà quỉ lại nhằm vào khuynh hướng thích khoe khoang, nhất là sự khoe khoang đó lại không đúng sự thật. Nhiều khi chỉ cần một câu nói thách thức hay chạm tự ái là người ta làm theo thách thức đó. Một số bạn trẻ rơi vào xì ke ma túy cũng chỉ vì một lời thách thức hay khiêu khích gì đó.

Khuynh hướng khoe khoang đó cũng là tính kiêu ngạo ẩn náu trong con người. Trong bất cứ hoàn cảnh nào tính kiêu ngạo cũng muốn bùng ra làm cho con người quên đi tình trạng thật của mình mà chỉ muốn vươn lên trên mọi người. Ma quỉ cũng chỉ là các thiên thần đã quên đi bản tính của mình mà đòi bằng Thiên Chúa và đã bị Tổng Lãnh Thiên thần tống nó xuống hỏa ngục làm quỉ vương. Ngộ Không cũng thế, là khỉ mà đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh là bằng Trời, nên đã bị tướng nhà Trời tống xuống trần gian, bị núi đá đè con khỉ suốt 500 năm.

2. Hãy tỉnh thức và đề phòng

Ma quỉ rất khôn ngoan, chúng có những cách lừa đảo rất tinh vi giống như những hàng giả bây giờ. Đàng sau những cám dỗ chúng gây ra sự ảo tưởng để đánh lừa người ta, để đưa người ta vào bẫy và lúc đó không còn thể ra được. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn, thử thách nào cũng đòi hỏi phải lựa chọn. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn ấy không ?

Để nhận thức đúng đâu là cơn cám dỗ và sự nguy hiểm của nó như thế nào, ta phải hiểu nội dung của cơn cám dỗ gồm có ba thành phần : người bị cám dỗ là chúng ta, kẻ cám dỗ là ma quỉ, trung gian môi giới cám dỗ có thể là người khác hoặc một sự vật hoặc một cơ hội. Do đó, diễn tiến của một cơn cám dỗ dù đột ngột hay dai dẳng đều được chuẩn bị, hành động rất khéo léo với mục đích xúi dục con người đi đến chỗ phạm tội lỗi.

Phương cách dụ dỗ của ma quỉ rất xảo quyệt vì nó không bao giờ xui ta phạm tội ngay, mà ban đầu chỉ những chiều theo đôi chút, không bao giờ dụ dỗ con người phạm ngay tội nặng, mà chỉ xúi giục phạm những tôi nhẹ, không bao giờ cám dỗ một lần rồi bỏ qua, mà là nhiều lần, lặp đi lặp lại cho đến khi ta chiều theo ý nó.

Ông Richard Wumbrand đã diễn tả điều này rất đúng bằng hình ảnh như sau: chúng ta như những cô gái vừa đến độ xuân thì. Người yêu cô thật lòng, muốn chia sẻ cuộc đời với cô, và kẻ sở khanh lừa phỉnh, chỉ muốn qua đêm để hại đời cô, cùng dùng chung một ngôn ngữ, cùng chia chung một động từ, đó là “Anh yêu em”. Nếu chỉ để ý đến những cái hào nhoáng bên ngoài hay những lời nói ngon ngọt và không có sự tỉnh táo cần thiết để phân biệt thì chắc chắn thảm họa sẽ xẩy đến.

Truyện : Bà Evà bị cám dỗ

Tại Anh quốc, trong viện bảo tàng nghệ thuật Manchester Art Gallery có một bức tranh của họa sĩ Spencer Stanhop mang tựa đề là “Eve”. Bức tranh vẽ hình một con rắn đang thì thầm những tư tưởng vào tai bà Evà. Nhìn vào nét mặt sung sướng của bà Evà, bạn phải nói rằng bà rất thích những điều đang nghe. Bà đang bị mê hoặc bởi những tư tưởng đó. Bà không nhìn thấy con rắn, nhưng con rắn đang vươn tới quấn quít sau lưng bà, từ cành cây mang đầy hoa trái, nó cong mình cúi xuống thật thấp để khi bà Evà chấp nhận những tư tưởng này thì một trái táo đỏ chói rơi ngay vào bàn tay của bà đang mở ra đón nhận.

Mặc dù trong hình vẽ bà Evà chưa cắn trái táo, tuy nhiên qua nét mặt của bà, độc giả biết rằng bà đã vượt qua giới hạn cho phép. Sự kết hợp của những tư tưởng trong tâm trí bà và trái táo đỏ chói trong lòng bàn tay mở rộng quá quyến rũ đối với bà, vườn địa đàng đã bị mất. Sự cô đơn hiu hắt và mối ác cảm với Thiên Chúa đã bắt đầu. Một cách chính xác, người họa sĩ đã bắt gặp được giây phút của sự thật, đã nhận ra được chân lý qua điều được gọi là “cám dỗ” trong cuộc đời của bạn, và của tôi .

3. Phương thế chống cám dỗ.

Chúa Giêsu đã nói với thánh Phêrô: “Phêrô ơi, ma quỉ nó sàng con như sàng gạo ấy” (Lc 22,31). Những chước cám dỗ không phải là cách làm hại ta mà chỉ là cách thử thách ta xem ta có trung thành với Chúa không, nên Chúa để cho ma quỉ cám dỗ ta. Sức con người yếu đuối không thể thắng được các chước cám dỗ nếu không có sự hỗ trợ của Chúa. Thánh Phaolô đã nói rất đúng “Omnia possum in eo qu me confortat” (Pl 4,13) : tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.

Trong kinh Lạy Cha chúng ta cầu nguyện: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, có nghĩa là “đừng cho phép chúng con bước vào” hay “đừng để chúng con ngã gục trước sự cám dỗ” (Giáo lý Công giáo số 2846). Đây là một lời cầu xin “trung thành” với Thiên Chúa và tuân giữ những điều răn của Ngài (2Tm 3,14; Mt 19,17; Ga 14, 23-24). Nó đòi hỏi chúng ta phải chọn lựa và quyết định. Nó mang lại những giằng co nội tâm mà chính Đức Giêsu đã trải qua trong 40 đêm ngày bị thử thách (x. Lc 4,1-13).

Sau khi đã dựa vào ơn Chúa, để chiến thắng ma quỉ thời nay, không có cách nào khác là phải chiến đấu anh dũng và kiên cường, chống lại những dụ dỗ, phỉnh gạt lừa lọc của chúng. Chiến đấu bằng chính võ khí mà Đức Giêsu đã xử dụng : đó là tinh thần tuyệt đối vâng phục đường lối và thánh ý của Thiên Chúa ; đó là cách sống khiêm tốn, siêu thoát, coi rẻ của cải vật chất và danh vọng thế gian; đó còn là biết đánh giá cũng như hưởng thụ cuộc đời trong chừng mực mà Tạo hóa đã ấn định cho loài người : ăn chay là sống siêu thoát, từ bỏ, tiết độ; cầu nguyện là sống gắn bó mật thiết với Chúa.

Lm Giuse Đinh Lập Liễm

CÁM DỖ

CÁM DỖ

Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.

Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu

Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.

Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị

Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.

Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ

Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.

Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.

Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.

Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.

Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.

Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.

Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám dỗ như thế nào?

2. Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỷ không?

3. Bạn có ý thức rằng ma quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?

4. Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?

TGM Ngô Quang Kiệt

Chúa Nhật 1 Mùa Chay Năm C – 2013

 Chúa Nhật 1 Mùa Chay Năm C – 2013

Kính thưa quí ông bà anh chị em, con người cóhai phần; tinh thần và thể xác. Tinh thần, ta không thấy được bằng con mắt xác thịt. Trái lại, xác thể ta cảm nhận được qua cử chỉ hành động. Hồn và xác là hai lãnh vực khác nhau, nhưng nó lại có một sự liên đới với nhau; chẳng hạn,  tư tưởng được diễn tả ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ chân tay, thân mình. Hiểu như thế thì khi con người nhận thức được ân huệ là quà tặng từ một ai đó, thì từ sâu thẳm trong lòng người có một sự thúc đẩy nào đó của sự biết ơn, và sự biết ơn này được biểu lộ ra bên ngoài như nói lời cám ơn hay bằng một hành động cụ thể như bái phục, dâng lễ vật. Điều này ta thấy rất rõ qua bài đọc 1, sách Đệ Nhị Luật, ông Môsê nhắn nhủ mọi con cái Ít-ra-en hãy dâng của lễ tạ ơn lên Đức Chúa bằng các hiện vật do tay mình làm nên, đưa cho tư tế và tư tế dâng lên Thiên Chúa. Lý do là, vì họ được giải thoát khỏi cảnh lầm than khổ cực ở bên Ai Cập.

     Hiểu như thế thì lời kêu gọi của Môsê xưa kia vẫn rất thiết thực cho ngày hôm nay; vì đã là con người thì ai cũng phải nhận ơn; ơn phần hồn, ơn phần xác. Ơn Thiên Chúa đến với ta qua nhiều hình thức khác nhau: có thể đến từ người này, người kia. Ý thức được điều này để con người tạ ơn Thiên Chúa hay cám ơn con người, qua nhiều hình thức cùng với một hành động cụ thể; chẳng hạn nói: cám ơn hay lời cám ơn được kiềm theo một hiện vật. Và điều quan trọng ởđây là phải bắt nguồn từ tấm lòng biết ơn, mộ mến, kính phục, thờ lạy suy tôn. Để rồi có một cung cách và thái độ khi đối diện với người ta chịu ơn. Điều này ta thấy rất rõ qua việc ông Môsê hướng dẫn dân chúng khi  dâng của lễ tạ ơn như thế nào. Ta hãy đọc lại điều này: “ Và bây giờ, lạy Đức Chúa, này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con. Anh em hãy đặt lễ vật trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anhem, rồi anh em phủ phục trước tôn nhan Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 26, 10).

     Như thế thì, ngày hôm nay bất cứ ai, chẳng lẽ chưa từng một lần nhận ơn Chúa, ơn đời, ơn người sao! Mànói cho cùng, từng giây từng phút ta hằng nhận ơn của Chúa, như sự sống, hơi thở… Thế thì, thử hỏi ta đã làm gì để đền đáp bao ơn Chúa đã ban cho ta. Mỗi người hãy tự vấn lương tâm.
 
     Quả thật! cuộc sống của chúng ta luôn đón nhận ơn của Chúa, vàta cần phải nương tựa vào Chúa, đó là sức mạnh cho chúng ta, là vũ khí giúp chúng ta chiến đấu và chiến thắng các mưu thâm, chước độc của ma qủi xưa cũng như nay đang tung hoành khắp mọi nơi. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải tỉnh thức để chống lại kẻ thù đang vây quanh chúng ta. Ta hãy đứng về phía Chúa Giêsu, noi gương Ngài mà chiến đấu với những cơn cám dỗ thật khủng khiếp, như xưa kia trong sa mạc, Chúa Giêsu đã từng bị ma quỉ cám dỗ. Ma quỉ cám dỗ những gì?
 
     Thứ nhất là cơm bánh. Cơm bánh là điều không thể thiếu được đối với cuộc sống thể xác con người, đây là một nhu cầu cần thiết và chính đáng, nhưng nó không phải là lương thực trường sinh, thế mà cơm bánh nó điều khiển con người và làm cho con người thay đổ không thể tưởng nổi từ một người oai phong, minh mẫn, phong cách trở thành một người không còn tính người nữa, cứ nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chẳng hạn như ở Việt Nam chúng ta, biết bao nhiêu người, vì đồng tiền, miếng ăn, hay muốn được quyền cao chức trọng, giàu sang, nên người ta gian tham,xảo trá, độc ác, đánh mất cảlương tri, nhắm mắt trước những chân lý, lẽ phải.
 
     Chúa Giêsu cũng đã trải qua cơn đói khủng khiếp; vì sau thời gian dài không ăn không uống, lợi dụng thời điểm thuận tiện này, tên dụ dỗ bày ra miếng ăn để đánh bại Chúa Giêsu. Nó tưởng đánh bại Chúa Giêsu một cách dễ dàng như nóđã từng đánh bại haiông bà nguyên tổ hay nhưdân Do thái xưa kia trong sa mạc.Ởđây ma quỉ thật lầm to, vì Chúa Giêsu đã dùng Kinh Thánh đánh bại tên cám dỗ một cách dễ dàng: “ Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” mà còn có thứ quý trọng hơn nhiều, đó là Lời Chúa.
 
     Cơn cám dỗ thứ hai là cám dỗ về danh vọng địa vị, vinh quang phú qu. Cũng vì những điều này mà đã biết bao người chết vì nó, rồi không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh, chém giết cũng vì tranh dành quyền thế, địa vị, giàu sang. Những thứđó là một sức mạnh khiến bao nhiêu người qụy lụy thờ lạy nó, để xin một chút ân huệ, tiền bạc, địa vị.Ma quỷ cũng cám dỗChúa Giêsu về những thứ này, nhưng Chúa Giêsu đâu có màng gì đến những bã vinh hoa phú quý đó. Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để chống lại và chỉ cho nó biết phải thờ lạy ai: “Ngươi phải bái thờ Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Thiên Chúa mà thôi” (Lc 4,8).
 
     Cơn cám dỗ thứ ba cũng không thua kém hai cơn cám dỗ trên; đó là biểu dương sức mạnh, tính phô trương, khoe khoang, muốn làm được những chuyện phi thường, biểu diễn phép lạ ngoạn mục. Chúa Giêsu cũng bị ma quỷ giăng racạm bẫy này, thế nhưng Ngài đã khẳng định cho tên cám dỗ rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”(Lc 4,12).
 
     Qua ba cơn cám dỗ ma quỷ bày ra cho Chúa Giêsu.Chúng ta thấy ma quỷ, qủa là kẻ siêu đẳng, vì nó đánh đúng trọng điểm của con người một cách thật tinh vi và thâm độc, cho nên đã biết bao nhiêu người quỵ ngã nặng nề; đánh mất lương tâm, phẩm giá làm người không còn, hoặc đánh mất ơn gọi căn bản của người Ki-tô hữu hay ơn gọi tu sĩ, như ngày nay ta đang chứng kiến chủ nghĩa hưởng thụ vì chủ nghĩa này làm người ta lơ là việc đạo nghĩa, xa nhà thờ, xa các bí tích, xa Chúa. Hay nói khác đi chúa của họ là quyền hành, tiền bạc, hưởng thụ. Quả thật lànguy hiểm, biết rằng là nguy hiểm, nhưng chúng ta đã có Chúa Giêsu đi tiên phong qua việc Ngài đãđán bại những thứ cám dỗ của tên ma vương bày ra. Ngài đã mở lối tiên phong để những ai dõi bước theo Ngài đều chiến thắng mọi mưu thâm, chước độc của ác thần. Vậy chúng ta hãy mặc lấy Đức Ki-tô bước vào trận chiến thiêng thiêng để ta chiến đấu và chiến thắng sự dữ, có như thế ta sẽ được sống trong thế giới lành thánh an vui, hạnh phúc với Chúa.
 
     Xin Chúa cho chúng con mùa chay Thánh này, biết tìm về nương ẩn bên Chúa, để có Chúa cùng đi, cùng chiến đấu, chúng con đâu sợ gì. Hãy cùng với Chúa Giêsu, mỗi người hãy vào sa mạc cuộc đời, nhất là trong thời gian 40 ngày chay tĩnh này, chúng ta hãy sánh bước với Chúa, sống với Chúa, cầu nguyện với Chúa để được ơn hiệp nhất với Chúa trong mùa chay này, và sự hợp nhất với Chúa mãi muôn đời.  Amen.

Linh mục Phaolô Cao Thế Bình, S.D.D.

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ 02-11 đến 02-17-2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

từ 02-11 đến 02-17-2013

Trích từ Xuân Bích VN

  • Tổng Tu Nghị lần thứ 200 Dòng Phan Sinh Viện Tu

  • Kế hoạch “thuốc giết sơ sinh” giá rẻ bị chỉ trích mạnh mẽ.

  • Tân uỷ viên công tố Vatican ca ngợi các phương tiện truyền thông.

  • Linh mục người Việt ủng hộ nhân quyền được đề cử Nobel Hoà Bình.

  • Hội nghị Hội Đồng Giáo Hoàng khai mạc với phần biểu diễn nhạc Rock.

  • Huân Chương Giáo Hoàng cho Tướng Peter Cosgrove.

  • Bắc Triều Tiên: Cuộc sống của Kitô hữu hết sức khó khăn.

  • ĐHY Burke: Các chính trị gia ủng hộ nạo phá thai không được rước lễ.

  • Đức Hồng Y người Đức bị lừa dối hiểu sai về tác dụng của “viên sáng hôm sau”.

  • CICAD và phản ứng của Đức Gíam Mục Morerod với SSPX.

  • Lời biện hộ của Ngài về quyền của đồng tính nam bị hiểu sai.

  • Thành phần Cơ Mật Viện.

  • Quy trình phong Chân Phước cho Cha Ricci tiến triển.

  • Sau khi từ nhiệm, Đức Thánh Cha rút lui vào tu viện.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Phản ứng của thế giới trước thông báo từ nhiệm vủa Đức Biển Đức XVI.

  • Những vị người Phi Châu và Nam Mỹ trong số các Vị kế nhiệm ?

  • Một tác phẩm lịch sử về Đức Piô XII.

  • “Là Kitô hữu nghĩa là sống nghịch trào lưu”.

  • Những cuộc tôn vinh hiển thánh sắp tới.

  • Lần đầu tiên, Đức Giáo Hoàng xuất hiện trước tín hữu, từ khi Ngài tuyên bố thoái nhiệm.

  • Những người Đức vô thần bất ngờ kính trọng Đức Thánh Cha.

  • Một thánh đường mới dâng kính Đức Bà Ả Rập ở Bahrein.

  • Những bài diễn văn cuối cùng của Đức Thánh Cha.

  • Tác giả nhìn thấy sự sẵn sàng xét lại về mặt văn hoá cuộc cách mạng tình dục.

  • ĐGM Ganswein vẫn là thư ký của Đức Thánh Cha.

Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 02-11 đến 02-17-2013

Hoạt động của Đức Thánh Cha áp tuần tĩnh tâm

Hoạt động của Đức Thánh Cha áp tuần tĩnh tâm

VATICAN. Thứ bẩy 16 tháng 2-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã hoạt động theo chương trình bình thường.

Lúc 11 giờ ngài đã tiếp tổng thống nước Guatemala Ông Otto Fernando Pérez Molina, rồi tiếp 13 GM thuộc 10 giáo phận vùng Lombardia, bắc Italia, do ĐHY Angelo Scola, TGM giáo phận Milano, hướng dẫn, về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh.

Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết sau khi hội kiến với ĐTC, Tổng thống đã gặp ĐHY Quốc vụ khanh Bertone và Đức TGM Ngoại trưởng Mamberti.

Trong các cuộc thảo luận, các vị bày tỏ hài lòng vì quan hệ tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Guatemala. Chính Phủ nước này đánh giá cao đóng góp của Giáo Hội cho sự phát triển đất nước, đặt biệt trong lãnh vực giáo dục, thăng tiến các giá trị nhân bản và tinh thần, các hoạt động từ thiện và xã hội, trong đó có việc cứu trợ các nạn nhân bị động đất mới đây. Ngoài ra, hai bên đồng ý cần tiếp tục cộng tác để giải quyết thảm trạng nghèo đói, nạn buôn bán ma túy và nạn tội phạm có tổ chức cũng như vấn đề di cư. Sau cùng, Tòa Thánh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ sự sống con người, từ lúc mới thụ thai.

Lúc 6 giờ chiều cùng ngày hôm qua, ĐTC đã tiếp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, Ông Mario Monti, đến giã từ ngài.

Ngoài ra, hôm qua ĐTC đã tái bổ nhiệm 5 vị thành viên Hội đồng Hồng Y giám sát viện Giáo Vụ, tức là Ngân Hàng Vatican, với nhiệm kỳ 5 năm, đứng đầu là ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Sau cùng, ĐTC đã tiến hành 3 bổ nhiệm: trước tiên là GM phụ tá tổng giáo phận Dar-es-Salam thủ đô Tanzania, và Đức tân GM giáo phận Churchill-Baie Hudson ở miền bắc Canada, một địa phận rộng mênh mông với 2 triệu 300 ngàn cây số vuông, gần bằng 8 lần Việt Nam, nhưng chỉ có 32 ngàn dân, trong số này có 8.570 tín hữu Công giáo với 10 LM phục vụ 16 giáo xứ. Sau cùng ngài thuyên chuyển vị Sứ thần Tòa Thánh tại Colombia về nước Malta. (SD 16-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Xã luận và thông tin của Cha Lombardi

Xã luận và thông tin của Cha Lombardi

VATICAN. Trong bài xã luận công bố hôm 16 tháng 2-2013, Cha Lombardi, Giám Đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh kiêm Tổng Giám đốc đài Vatican, nhận định rằng việc ĐTC Biển Đức 16 tuyên bố từ nhiệm hôm 11-2 vừa qua đã gây chấn động trên thế giới, vì đó là điều bất ngờ và bất thường trong và ngoài Giáo Hội cũng như tại Vatican…

”Tuy nhiên, thành thật mà nói, quyết định của ĐTC gây ngạc nhiên nhiều cho những người không biết ngài, hơn là cho những người biết rõ và quan tâm theo ngài. Ngài đã nói rõ ràng về việc có thể từ chức trong cuốn sách phỏng vấn tựa đề ”Ánh sáng thế gian”; ngài luôn kín đáo và thận trọng khi nói về những công tác tương lai trong triều đại Giáo Hoàng của ngài; và tuyệt đối rõ ràng là ngài đang thi hành một sứ mạng đã nhận lãnh chứ không phải là thi hành một quyền bính được sở hữu.

Theo cha Lombardi, ”không phải là một sự khiêm tốn giả tạo khi bắt đầu triều đại Giáo Hoàng, ĐTC Biển Đức 16 tự mô tả mình là ”một người thợ khiêm hạ trong vườn nho của Chúa”, luôn chú ý sử dụng một cách khôn ngoan sức lực thể lý không dồi dào của ngài, để có thể thi hành tốt đẹp nhất nghĩa vụ bao la được ủy thác cho ngài một cách bất ngờ, khi tuổi ngài đã khá cao”.

Cha Lombardi gọi việc ĐTC từ nhiệm là ”Một hành vi lớn trong việc cai quản Giáo Hội, không phải như một số người nghĩ là vì ĐGH Biển Đức không còn sức lực để điều khiển giáo triều Roma nữa, nhưng đúng hơn là vì: để đương đầu với những vấn đề lớn của Giáo Hội và thế giới ngày nay mà ngài biết rất rõ, cần phải có năng lực mạnh mẽ và một thời gian cai quản tương ứng với công trình mục vụ lâu dài, chứ không ngắn hạn”.

Và cha Lombardi kết luận rằng: ”ĐTC Biển Đức không bỏ rơi chúng ta trong thời kỳ khó khăn, với lòng tín thác ngài mời gọi Giáo Hội hãy tin tưởng nơi Chúa Thánh Linh và nơi Người Kế Vị Thánh Phêrô mới. Trong những ngày này ngài đã nói là cảm thấy mạnh mẽ và cụ thể sự nồng nhiệt của lời cầu nguyện và lòng quí mến mà các tín hữu dành cho ngài. Về phần chúng ta, chúng ta sẽ cảm thấy sự nồng nhiệt đặc biệt lời cầu nguyện và lòng quí mến của ngài đối với Người Kế Nhiệm và đối với chúng ta. Có lẽ quan hệ thiêng liêng này càng sâu xa và mạnh mẽ hơn trước. Đó là một sự hiệp thông nồng nhiệt trong một tự do tuyệt đối”.

Trong họp báo trưa ngày 16 tháng 2-2013, Cha Lombardi cho biết chưa có sự chắc chắn về ngày khởi đầu Mật nghị Hồng y bầu Giáo Hoàng. Một số Hồng y cho rằng theo Tông Hiến ”Mục tử toàn thể đoàn chiên Chúa” về thời kỳ Tông Tòa trống vị, hạn định 15 ngày sau khi Tông Tòa bắt đầu trống vị là để các Hồng y có thể về họp cho kịp. Trong trường hợp sắp tới, vì các Hồng y đã được báo trước 17 ngày trước khi ĐTC từ nhiệm, nên có thể tất cả các Hồng y sẽ về họp trước hạn định, nên có thể ngày khởi sự Mật Nghị Hồng y có thể bắt đầu sớm hơn. ĐHY Bertone, Hồng y nhiếp chính, và các vị phụ tá đang bắt đầu làm việc để thực hiện những gì cần thiết khi Tông tòa trống ngôi. Trong những ngày tới đây có thể có tin tức về vấn đề này.

Cha Lombardi cho biết theo Giám đốc dinh thự Castel Gandolfo, ĐTC Biển Đức sẽ ở trong dinh Giáo Hoàng tại đó và thời gian lưu ngụ dự trù là 2 tháng, trước khi di chuyển về Đan Viện ”Mẹ Giáo Hội” ở Nội thành Vatican.

Cha Sapienza, Phó Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, cho biết đã có 35 ngàn người đăng ký xin vé dự buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ĐTC thứ tư 27-2-2013. (SD 16-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Cuộc từ nhiệm của Đức Thánh Cha không liên hệ tới vụ Vatileaks

Cuộc từ nhiệm của Đức Thánh Cha không liên hệ tới vụ Vatileaks

BERLIN. Ký giả Peter Seewald, người đã phỏng vấn ĐTC Biển Đức 16, cho biết việc ĐTC từ nhiệm không liên hệ gì tới vụ Vatileaks, thất thoát tài liệu mật tại Vatican.

Ký giả Seewald người Đức, đang soạn một cuốn tiểu sử ĐTC Biển Đức 16. Cuốn sách phỏng vấn trước đây được xuất bản hồi tháng 11 năm 2010, trong đó ĐTC đã nói về vấn đề ngài có thể từ chức. Ông đã có 2 cuộc nói chuyện với ĐTC, để viết tiểu sử của ngài, lần cuối dài 1 tiếng rưỡi cách đây 2 tháng rưỡi tại Castel Gandolfo.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần báo Focus ở Đức (số ra ngày 20 tháng 2-2013 này) và một phần được thông báo trước cho báo chí, Ông Seewald nói về vụ Vatileaks và cho biết ĐTC nói: ”Tôi không rơi vào một tình trạng như thể tuyệt vọng hoặc đau đớn khôn tả; tôi chỉ không thể hiểu được sự kiện này.. Tôi không hiểu nổi những lý do khiến cho Paolo Gabriele lấy trộm các tài liệu như vậy.. Tôi không hiểu nổi tâm lý của anh ta”.

Ông Seewald cũng nói rằng ĐTC cho biết ngài tôn trọng sự độc lập của ngành công lý của Vatican và không can thiệp vào vụ xét xử người hầu của ngài.

Trả lời câu hỏi của ký giả: người ta còn có thể mong đợi gì nơi triều đại Giáo Hoàng của ngài, ĐTC Biển Đức đáp: ”Từ tôi hả? Không bao nhiêu. Tôi là một người già và sức lực đang tàn lụi. Tôi nghĩ rằng điều tôi đã làm là đủ rồi”.
Ông Seewald tiết lộ rằng ”Chưa bao giờ ông thấy ĐGH sức khỏe suy yếu như vậy, đến độ ngài đã phải dốc toàn lực để hoàn thành cuốn thứ ba trong bộ sách ”Đức Giêsu thành Nazareth”. Có lần ngài đã nói với ký giả: ”Đây là cuốn sách cuối cùng của tôi” (AGI, AFP 16-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Đức Thánh Cha tiếp Hội ”Trợ giúp Tòa Thánh Phêrô”

Đức Thánh Cha tiếp Hội ”Trợ giúp Tòa Thánh Phêrô”

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 khuyến khích các tín hữu không ngừng khám phá và đào sâu đức tin, đồng thời thể hiện đức tin qua các hoạt động bác ái, nhất là trong năm Đức Tin hiện nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 15 tháng 2-2013, dành cho phái đoàn 45 thành viên Hội Pro Petri Sede (Trợ giúp Tòa Thánh Phêrô), từ Bỉ về Roma hành hương và trao cho ĐTC số tiền họ quyên góp được hàng năm để ngài dùng vào các việc bác ái.

Ngỏ lời trong dịp này, sau khi cám ơn lòng quảng đại và cảm thức hiệp thông Giáo Hội của các Hội viên, ĐTC nhắc đến ý nghĩa Năm Đức Tin và khẳng định rằng: ”Đức tin là một thực tại sinh động cần luôn luôn khám phá và đào sâu để đức tin có thể tăng trưởng. Chính đức tin phải hướng dẫn cái nhìn và hoạt động của Kitô hữu. Vì đức tin là một tiêu chuẩn mới để hiểu và hành động, thay đổi toàn thể cuộc sống con người”.

ĐTC cũng nhấn mạnh một mục tiêu của Năm Đức Tin là để tăng cường chứng tá Kitô về bác ái. Ngài nói: ”Đức tin mà không có đức bác ái thì không mang lại hoa quả và đức bác ái không có đức tin thì chỉ là một tình cảm luôn bị ảnh hưởng của nghi ngờ. Đức tin và đức ái cần có nhau, đến độ đức này giúc đức kia thực hiện được hành trình của mình” (Porta fidei, n.4)

Sau cùng, ĐTC nhắc nhở rằng: ”Để sống chứng tá đức ái như thế, không thể thiếu cuộc gặp gỡ với Chúa, một cuộc gặp biến đổi con tim và cái nhìn của con người. Thực vậy, chính chứng tá về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người anh chị em chúng ta mang lại ý nghĩa đích thực cho đức bác ái Kitô. Nhân đức này không thể bị thu hẹp vào một thứ lòng nhân đạo hoặc một hoạt động thăng tiến conngười. Sự trợ giúp vật chất, dù cần thiết thế nào đi nữa, vẫn không phải là trọn vẹn đức bác ái, vốn là một sự tham phần vào tình yêu của Chúa Kitô được lãnh nhận và chia sẻ. Vì thế tất cả công trình bác ái chân chính là một sự biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và qua đó nó trở thành lời loan báo Tin Mừng.”

ĐTC kết luận rằng ”Trong Mùa Chay này, ước gì những cử chỉ bác ái được thực hiện một cách quảng đại (Xc Mt 6,,3), giúp mỗi người tiến bước đến gần Chúa Kitô, là Đấng không ngừng đến gặp gỡ con người”

Buổi tiếp kiến dành cho Hội Trợ giúp Tòa Thánh Phêrô diễn ra sau khi ĐTC tiếp Tổng thống Traian Basescu của Rumani cùng với Phu nhân và đoàn tùy tùng, rồi cuộc tiếp kiến của ngài dành cho các GM thuộc 7 giáo phận miền Liguria, bắc Italia, dưới sự hướng dẫn của ĐHY Angelo Bagnasco, TGM Genova và cũng là Chủ tịch HĐGM Italia.
(SD 15-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP-Radio Vatican

Đức Thánh Cha giã từ hàng giáo sĩ Roma

Đức Thánh Cha giã từ hàng giáo sĩ Roma

VATICAN. Sáng 15 tháng 2-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã gặp gỡ lần cuối và từ giã hàng giáo sĩ của giáo phận Roma.
Hàng năm, vào ngày thứ năm sau lễ tro, ĐTC vẫn gặp gỡ và trao đổi với hàng giáo sĩ Roma, nhưng lần này có một sắc thái đặc biệt vì là lần chót. Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 lúc 11.45 có ĐHY Giám quản Agosto Vallini, 7 GM phụ tá và lối 1.500 linh mục.

Các LM đã nồng nhiệt vỗ tay chào đón ĐTC khi ngài tiến vào thính đường.

Trong lời chào ĐTC, ĐHY Vallini đã gợi lại sự tích các kỳ lão tại thành Ephêsô được thánh Phaolô gọi tới Mileto để nghe những lời từ giã của thánh nhân trước khi ngài đi Jerusalem. ”Anh em biết tôi đã cư xử thế nào.. Tôi đã phụng sự Chúa với tất cả lòng khiêm tốn, trong nước mắt và thử thách..; tôi đã không bao giờ thối lui trước những gì có thể là hữu ích, để rao giảng và giáo huấn anh em.. làm chứng về sự trở về cùng Thiên Chúa và niềm tin nơi Đức Giêsu Chúa chúng ta.. Mọi người đã bật khóc và bá cổ thánh Phaolô và hôn” (Cv 20,18-20).
ĐHY Giám quản nói: ”Kính thưa ĐTC, chúng con không giấu rằng trong tâm hồn chúng con nhiều tâm tình: buồn rầu và tôn kính, ngưỡng mộ và nuối tiếc, yêu mến và hãnh diện. Trong tất cả những điều đó chúng con tôn thờ Thánh Ý Chúa và đón nhận từ ĐTC giáo huấn về cách thức yêu mến và phụng sự Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúng con mãi mãi gắn bó với gương sống dịu hiền và mạnh mẽ của Ngài”.

Bài nói chuyện của ĐTC

Mở đầu bài nói chuyện dài 45 phút, ĐTC cho biết ngài không còn sức để ”làm một bài diễn văn lớn”, nhưng trong thực tế ngài đã chứng tỏ tâm trí rất sáng suốt và minh mẫn, ứng khẩu kể lại kinh nghiệm của ngài về công đồng chung Vatican 2, từ khi làm thư ký của ĐHY Frings TGM giáo phận Koeln, và sau đó được bổ nhiệm làm chuyên gia chính thức của Công đồng. Ngài nói:

”Tôi bắt đầu bằng một giai thoại: năm 1959 tôi được bổ nhiệm làm giáo sư ở Đại học Bonn, nơi có các sinh viên, chủng sinh của giáo phận Koeln và các giáo phận lân cận theo học. Vì thế tôi được dịp tiếp xúc với ĐHY Frings. Hồi năm 1961, ĐHY Siri, TGM giáo phận Genova, đã tổ chức một loạt các bài thuyết trình về Công đồng, với các thuyết trình viên là một số Hồng y Âu Châu. ĐHY Siri cũng mời ĐHY TGM Koeln thuyết trình về đề tài “Công đồng và thế giới của tư tưởng tân thời”. ĐHY Frings đã mời tôi là giáo sư trẻ nhất soạn cho ngài dự thảo bài thuyết trình, và ĐHY đã trình bày cho dân chúng ở Genova bài thuyết trình mà tôi đã viết. Ít lâu sau ĐHY Gioan 23 mời ĐHY Frings đến gặp. ĐHY rất lo sợ vì e rằng mình đã nói điều gì không đúng hoặc sai trái, và bị ĐGH gọi để khiển trách, và có lẽ để tước bỏ mũ hồng y (các LM cười rộ!). Đúng vậy, khi cha thư ký của ĐHY giúp ngài mặc áo để vào chầu ĐGH, ngài nói: ”Có lẽ bây giờ tôi mặc chiếc áo HY này lần chót!”.

Nhưng khi ĐHY Frings vào gặp ĐGH Gioan 23, ĐGH tiến đến gặp và ôm lấy ĐHY và nói: ”Cám ơn ĐHY vì đã nói điều mà tôi muốn nói, nhưng tôi không tìm được lời để nói cho đúng” (các cha sở lại cười rộ và vỗ tay). Thế là ĐHY Frings biết mình đang đi đúng đường và ĐHY đã mời tôi đi công đồng với ngài, trước tiên như một chuyên gia riêng, rồi trong giai đoạn đầu tiên, có lẽ vào tháng 11-1962, tôi cũng được bổ nhiệm làm chuyên gia chính thức của Công đồng”.

ĐTC đã nói đến tiến trình soạn thảo các văn kiện, việc bầu cử các Ủy ban, sự phong phú của các văn kiện.
ĐTC cũng nhận xét về hai nhận thức về Công đồng: một công đồng trong thực tại và một công đồng do giới báo chí trình bày, nhiều khi dưới nhãn giới chính trị, một cuộc tranh đấu quyền bính, dân chủ hóa, quyền bính thuộc về giai cấp hạ tầng. Họ nói nhiều đến sự tản quyền trong Giáo Hội, quyền bính dành cho các GM, qua lời của Dân Chúa, quyền bính của nhân dân, của giáo dân.

Về phụng vụ, thứ công đồng của giới báo chí không quan tâm đến phụng vụ như một hành vi đức tin, nhưng như một thứ trong đó người ta làm những điều có thể hiểu được, một thứ hoạt động của cộng đồng, một điều trần thục.

ĐTC nhận xét rằng thứ công đồng của giới truyền thông như thế, hay công đồng tiềm thể, đi tới mọi người, và có hiệu năng hơn, nhưng nó tạo nên bao nhiêu thảm hại, bao nhiêu vấn đề và lầm than trong thực tế: các tu viện, học viện chủng viện bị đóng cửa, phụng vụ bị tầm thường hóa, và công đồng đích thực gặp gó khăn trong việc cụ thể hóa, và trong việc thực hiện. Công đồng tiềm thể của giới truyền thông mạnh mẽ hơn công đồng thực sự.
ĐTC kết luận rằng tôi thấy 50 năm sau Công đồng, thứ công đồng tiềm thể ấy bị tan vỡ, bị mất đi, và xuất hiện công đồng đích thực với tất cả sức mạnh tinh thần, và nghĩa vụ chúng ta trong năm Đức tin này là làm việc để côgn đồng đích thực, với sức mạnh của Thánh Linh, được thể hiện và Giáo Hội được canh tân đích thực”.

ĐTC cũng nói rằng ”cho dù tôi rút lui vào đời sống đầu nguyện, nhưng tôi luôn luôn gần gũi anh em và tôi chắc chắn rằng anh em cũng gần gũi tôi, cho dù đối với thế giới, tôi ở ẩn”. (SD 14-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cuối cùng trong tư cách là Giáo Hoàng

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ cuối cùng trong tư cách là Giáo Hoàng

ĐTC cử hánh thánh lễ cuối cùng với tư cách là Giáo Hoàng

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều 13 tháng 2-2013, ĐTC Biển Đức 16 đã cử hành lễ tro và cũng là thánh lễ cuối cùng trước sự hiện diện của đông đảo tín hữu, trong tư cách là Giáo Hoàng.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ có lối 60 Hồng y và GM, trước sự hiện diện của các tín hữu ngồi chật thánh đường, cùng với nhiều vị trong ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Buổi lễ bắt đầu với cuộc rước thống hối do ĐTC chủ sự, đi từ cuối đền thờ tiến lên bàn thờ chính với sự tham dự của các tu sĩ dòng Biển Đức và Đa Minh cùng với các HY, GM đồng tế.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC nhắc đến truyền thống rất cổ kính cử hành chặng thứ I của mùa chay trong Vương cung thánh đường thánh Sabina trên đồi Avventino. Nhưng do hoàn cảnh đặc biệt, để nhiều người có thể tham dự, ”lễ này được cử hành tại Đền thờ Vatican chiều hôm nay, quanh mộ thánh Phêrô Tông Đồ, cũng với mục đích cầu xin sự chuyển cầu của thánh nhân cho hành trình của Giáo Hội trong lúc đặc biệt này, canh tân niềm tin của chúng ta nơi Vị Mục Tử Tối Cao là Chúa Kitô”. ĐTC nói:

”Đối với tôi, đây là cơ hội thuận tiện để cám ơn tất cả mọi người, nhất là các tín hữu thuộc giáo phận Roma, trong lúc tôi sắp kết thúc sứ vụ Phêrô, và tôi xin mọi người đặc biệt nhớ đến tôi trong kinh nguyện”.

Tiếp đến, ĐTC đã quảng diễn các bài đọc của thứ tư lễ tro, nhất là lời mời gọi hoán cải. ”Sự trở về cùng Chúa là điều có thể thực hiện được như 'ân thánh', vì đó là công trình của Thiên Chúa và là hoa quả của đức tin mà chúng ta đặt nơi lòng từ bi Chúa. Nhưng sự trở về cùng Chúa chỉ trở thành thực tại cụ thể trong đời sống chúng ta khi ơn thánh thấu nhập vào nội tâm sâu thẳm và đánh động tâm hồn, ban cho chúng ta sức mạnh của của sự ”xé lòng”. Ngôn sứ cũng làm vang dội những lời này của Thiên Chúa: 'Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (v.13). Thực vậy, cả ngày nay, nhiều người sẵn sàng xé áo trước những xìcăngđan và bất công, – dĩ nhiên là do người khác phạm – nhưng ít người dường như sẵn sàng hành động trên chính con tim, trên lương tâm, trên những ý hướng của mình, để cho Chúa biến cải, đổi mới và hoán cải”.

ĐTC nhắc nhở rằng lời kêu gọi hoán cải ấy không phải chỉ với tư cách cá nhân, nhưng cả với tư cách cộng đoàn. ”Chiều kích cộng đoàn là một yếu tố thiết yếu trong đức tin và trong đời sống Kitô. Chúa Kitô đã đến để ”tập họp những con cái Thiên Chúa bị tản mác” (Xc Ga 11,52)..”

ĐTC cũng nhấn mạnh lời ngôn sứ Gioel ”Xin Chúa thương xót dân Chúa, đừng để cho gia nghiệp Chúa phải hổ thẹn, đừng để các dân tộc thống trị nó. Tại sao thiên hạ dám nói rằng: Chúa của chúng ở đâu?” (v.17). Ngài giải thích rằng: Lời cầu nguyện này làm cho chúng ta suy nghĩ về tầm quan trọng của chứng tá đức tin và đời sống Kitô của mỗi người chúng ta và các cộng đoàn của chúng ta để biểu lộ khuôn mặt của Giáo Hội và khuôn mặt này nhiều khi bị tủi hổ. Tôi đặc biệt nghĩ đến những tội chống lại sự hiệp nhất của Giáo Hội, những chia rẽ trong thân mình Hội Thánh. Sống mùa chay trong tình hiệp thông nồng nhiệt và hiển nhiên hơn của Giáo Hội, vượt thắng những thái độ cá nhân chủ nghĩa và cạnh tranh, đó là một dấu hiệu khiêm tốn và quí giá đối với những người xa lìa đức tin hoặc dửng dưng”.

ĐTC quảng diễn bài Tin Mừng theo thánh Mathêu về việc làm phúc bố thí, cầu nguyện và ăn chay để đáp lại lời mời gọi hãy hết lòng trở về cùng Chúa. Ngài nói:

”Chúa Giêsu nhấn mạnh đặc tính chân thực của mỗi hành vi tôn giáo như là chất lượng và sự chân thật trong tương quan với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa tố giác thái độ tôn giáo giả hình, thái độ muốn xuất hiện, những thái độ tìm kiếm sự hoan hô và ủng hộ. Môn đệ chân chính không phục vụ bản thân hoặc ”công chúng”, nhưng là phục vụ Chúa, trong sự đơn sơ và quảng đại. ”Và Cha con, Đấng nhìn thấy trong nơi bí nhiệm, sẽ thưởng cho con” (Mt 6,4,6.18).

Và ĐTC kết luận rằng: ”Như thế chứng tá của chúng ta càng có ảnh hưởng quyết định hơn nếu chúng ta càng ít tìm kiếm vinh danh cho chúng ta và nếu chúng ta ý thức rằng phần thưởng của người công chính là chính Thiên Chúa, là được kết hiệp với Chúa, đời này trong hành trình đức tin, và vào cuối đời, trong an bình và trong ánh sáng cuộc gặp gỡ diện đối diện với Chúa mãi mãi” (Xc Cr 13,12).

Sau bài giảng là nghi thức làm phép và xức tro. DHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêro đã bỏ tro trên đầu ĐTC trước khi Ngài xức tro cho một số hồng y và một số linh mục tu sĩ dòng Đaminh và Biển Đức cùng với một số tín hữu.

Lời chào của ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh

Cuối thánh lễ, ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã đại diện tất cả mọi người chào mừng ĐTC và nhắc đến quyết định giã từ sứ vụ GM Roma và Kế Vị Thánh Phêrô Tông Đồ:

”Kính thưa Đức Thánh Cha,

Với tâm tình rất xúc động và rất kính trọng, không những Giáo Hội nhưng cả thế giới đã hay tin về quyết định của ĐTC rời bỏ sứ vụ GM Roma và Người Kế Vị Thánh Phêrô.

”Thưa ĐTC, chúng con sẽ không thành thực nếu chúng con không nói với ĐTC rằng chiều hôm nay có một màn buồn sầu bao phủ tâm hồn chúng con. Trong những năm qua, Giáo Huấn của ĐTC là một cánh cửa sổ mở ra cho Giáo Hội và thế giới, để cho những tia sáng sự thật và tình thương của Thiên Chúa chiếu rọi vào, để mang ánh sáng và sức nóng cho hành trình của chúng con, nhất là trong những lúc mây đen dầy đặc che phủ”.
”Tất cả chúng con đã hiểu rằng chính lòng yêu mến sâu đậm của ĐTC đối với Thiên Chúa và Giáo Hội đã thúc đẩy ĐTC đi tới hành động từ nhiệm ấy, biểu lộ một tâm hồn thanh khiết, đức tin vững mạnh, sức mạnh của sự khiêm tốn và dịu hiền cùng với lòng can đảm mạnh mẽ, nổi bật trong mỗi bước tiến trong cuộc đời và sứ vụ của ĐTC, và chúng chỉ có thể đến từ sự ở với Chúa, ở dưới ánh sáng Lời Chúa, liên tục lên núi gặp gỡ Chúa để rồi trở xuống nơi xã hội con người.

“Kính thưa Đức Thánh Cha, cách đây vài ngài, ĐTC đã nói với các chủng sinh của Giáo Hội Roma rằng là Kitô hữu, chúng ta biết tương lai là của chúng ta, tương lai là của Thiên Chúa, và cây Giáo Hội luôn tiếp tục tăng trưởng. Giáo Hội luôn đổi mới, luôn tái sinh. Phục vụ Giáo Hội với ý thức mạnh mẽ Giáo Hội không phải là của chúng ta nhưng là của Thiên chúa, và không phải chúng ta xây dựng Giáo Hội, nhưng là Thiên Chúa, để có thể lên sự thật: ”Chúng ta là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta chỉ làm điều chúng ta phải làm” (Lc 17,10), hoàn toàn tín thác nơi Chúa, đó là đại giáo huấn mà ĐTC, qua quyết định đau thương này, không những dành cho chúng con là những Mục tử của Giáo Hội, nhưng còn cho toàn thể Dân Chúa. ”Thánh Lễ là cảm tạ Thiên Chúa. Chiều hôm nay chúng con muốn cảm tạ Chúa vì hành trình mà toàn thể Giáo Hội đã thực hiện dưới sự hướng dẫn của ĐTC và chúng con muốn nói với ĐTC tự thâm tâm chúng con, với tất cả lòng quí mến, xúc động và ngưỡng mộ rằng: Cám ơn ĐTC vì đã cho chúng con tấm gương rạng người về người thợ đơn sơ và khiêm tốn trong vườn nho của Chúa, nhưng là một người thợ đã muốn thực hiện trong mọi lúc điều quan trọng nhất để mang Chúa đến cho con người và đưa con người về cùng Thiên Chúa”.

Giuse. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Mùa Chay là thời gian dấn thân để cho chân lý, đức tin và tình yêu thương trở thành điều quan trong nhất

Mùa Chay là thời gian dấn thân để cho chân lý, đức tin và tình yêu thương trở thành điều quan trong nhất

Trong Mùa Chay của Năm Đức Tin chúng ta hãy canh tân dấn thân trên con đường hoán cải để vượt thắng khuynh hướng khép kín trong chính mình, và để dành chỗ cho Thiên Chúa bằng cách nhìn thực tại hàng ngày với đội mắt của Người… Hoán cải có nghĩa là không đóng kín trong việc tìm kiếm thành công, uy tín, địa vị riêng, nhưng làm sao để chân lý, niềm tin nơi Thiên Chúa và tình yêu thương trở thành điều quan trong nhất mỗi ngày.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu. Trong số hàng trăm nhóm hành hương hiên diện có phái đoàn 34 tín hữu Việt Nam Đan Mạch và Thụy Điển do Linh Mục Nguyễn Minh Quang hướng dẫn. Bầu khí buổi tiếp kiến đã rất là cảm động vì tất cả mọi người hiện diện đều biết rằng đây là lần cuối cùng họ gặp Đức Thánh Cha, một người cha chung rất hiền dịu và khiếm tốn.

Vì hôm qua là Thứ Tư Lễ Tro, nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa của Mùa Chay Thánh, Ngài nói:

Hôm nay Thứ Tư Lễ Tro chúng ta bắt đầu thời gian phụng vụ Mùa Chay bốn mươi ngày chuẩn bị cho chúng ta cử hành Lễ Phục Sinh Thánh; nó là một thời gian dấn thân đặc biệt trên con đường thiêng liêng. Số 40 được nói đến nhiều lần trong Thánh Kinh. Nó đặc biệt gợi lại bốn mươi năm dân Israel du hành trong sa mạc: là một thời gian dài đào tạo để trở thành dân Chúa, nhưng cũng là một thời gian, trong đó cám dỗ bất trung với giao ước với Chúa luôn luôn hiện diện. Bốn Mươi cũng đã là các ngày ngôn sứ Elia đi để tới Núi của Thiên Chúa, là núi Horeb, cũng như là thời gian Đức Giêsu sống trong sa mạc trước khi bắt đầu cuôc sống công khai và là nơi Người đã bị quỷ dữ thử thách.

Trước hết sa mạc là nơi Chúa Giêsu rút lui, là nơi của sự thinh lặng, nghèo nàn, nơi con người không có các nâng đỡ vật chất, và đối diện với các vần đề nền tảng của cuộc sống, được thúc đẩy chú ý tới điều nòng cốt, và chính vì thế nên con người dễ gặp gỡ Thiên Chúa hơn. Nhưng sa mạc cũng là nơi của sự chết, bởi vì nơi đâu không có nước, thì cũng không có sự sống, và là nơi của sự cô tịch, trong đó con người cảm thấy bị cám dỗ mạnh mẽ hơn. Chúa Giêsu vào trong sa mạc, và ở đó Người chịu cám dỗ bỏ con đường do Thiên Chúa Cha chỉ định để theo con con đường của trần gian dễ dãi hơn (x. Lc 4,1-13).

Như thế, Người gánh lấy các thử thách của chúng ta, mang lấy sự khốn nạn của chúng ta, để chiến thắng kẻ dữ và mở ra cho chúng ta con đường hướng về Thiên Chúa, con đường của sự hoán cải.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã suy tư về các cám dỗ mà Chúa Giêsu phải đương đầu. Nó là tiếng mời gọi mọi người trả lời cho một câu hỏi nền tảng: cái gì thực sự có giá trị trong cuộc sống chúng ta? Trong cám dỗ thứ nhất ma qủy đề nghị Chúa Giêsu biến đá thành bánh ăn để dập tắt cái đói. Chúa Giêsu trả lời rằng con người không chỉ sống nhờ bánh: không có một câu trả lời cho cái đói chân lý, đói Thiên Chúa, con người không thể được cứu rỗi (x. cc. 3-4). Trong cám dỗ thứ hai ma qủy đề nghị với Chúa Giêsu con đường của quyền bính: nó đưa Người lên cao và cống hiến cho Người sự thống trị thế giới; nhưng đây không phải là con đường của Thiên Chúa: Chúa Giêsu ý thức rõ ràng rằng không phải quyền bính trần gian cứu rỗi thế giới, nhưng là quyền bính của thập giá, của sự khiêm nhường, của tình yêu thương ((cc. 5-8). Trong cám dỗ thứ ba ma qủy đề nghị với Chúa Giêsu từ nóc Đền Thờ Giêrusalem gieo mình xuống để khiến cho mình được Thiên Chúa nâng đỡ qua các thiên thần của Người, nghĩa là hoàn thành một cái gì ngoạn mục để thử thách chính Thiên Chúa; nhưng câu trả lời là Thiên Chúa không phải là một đối tượng mà chúng ta có thể áp đặt các điều kiện của chúng ta: Người là Chúa của tất cả (x.cc. 9-12).

Đâu là nhân tố của ba thử thách mà Chúa Giêsu phải chịu? Đó là đề nghị dùng Thiên Chúa như là dụng cụ, dùng Người cho một đối tượng cho các lợi ích của chúng ta, cho vinh quang, và cho sự thành công riêng của mình.

Và như vậy, trong nòng cốt, đó là tự đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa, bằng cách tháo gỡ Người ra khỏi cuộc sống của mình, và khiến cho Người trở thành thừa thãi. Mỗi người phải tự hỏi: Thiên Chúa có chỗ nào trong cuộc sống của tôi? Người là Chúa hay tôi là Chúa? Đức Thánh Gha giải thích việc lướt thắng các cám dỗ như sau:

Thắng vượt cám dỗ đặt để Thiên Chúa bên dưới mình và các lợi lộc riệng tư hay đặt để Người trong một xó và trở về với trật tự ưu tiên đúng đắn, trả cho Thiên Chúa chỗ nhất, là một con đường mà mọi Kitô hữu phải luôn luôn đi trở lại. Hoán cải, một lời mời gọi mà chúng ta sẽ lắng nghe nhiều lần trong trong Mùa Chay, có nghĩa là theo Chúa Giêsu thế nào để Tin Mừng hướng dẩn cụ thể cuộc sống; có nghĩa là để cho Thiên Chúa biến đổi chúng ta, thôi nghĩ rằng chúng ta là những người duy nhất xậy dựng cuộc đời mình; có nghĩa là nhận biết rằng chúng ta là thụ tạo, chúng ta tùy thuộc nơi Thiên Chúa, nơi tình yêu của Người, và chỉ khi ”mất đi” cuộc sống trong Người, chúng ta mới có thể có được nó. Điều này đòi buộc chúng ta phải có các lựa chọn dựa trên ánh sáng của Lời Chúa. Ngày nay, chúng ta không thể là các Kitô hữu như là hậu qủa đơn thuần của sự kiện sống trong một xã hội có các gốc rễ Kitô: cả người sinh ra từ một gia đình Kitô và được giáo dục tôn giáo cũng phải canh tân sự lựa chọn là tín hữu Kitô mỗi ngày, dành chỗ nhất cho Thiên Chúa, trước các cám dỗ mà một nền văn hóa tục hóa liên tục đề nghị mỗi ngày, trước phán đoán phê bình của nhiều người đồng thời. Đức Thánh Cha nói về các cám dỗ mà Kitô hữu phải đương đầu như sau:

Thật vậy, xã hội ngày nay đưa ra cho Kitô hữu biết bao nhiêu thử thách, và chúng đụng chạm tới cuộc sống cá nhân và xã hội. Không dễ mà trung thành với hôn nhân Kitô, thực thi lòng thương xót trong cuộc sống thường ngày, dành khoảng trống cho lời cầu nguyện và sự thinh lặng nội tâm; không dễ mà công khai chống lại các lựa chọn mà người ta coi như điều tự nhiên như phá thai trong trường hợp không ước muốn mang thai, giết người êm dịu trong trường hợp các bệnh nặng, hay tuyển lựa các phôi thai để ngăn ngừa các bệnh gia truyền. Cám dỗ gạt đức tin ra ngoài luôn luôn hiện diện và việc hoán cải trở thành một câu trả lời cho Thiên Chúa, cần được xác nhận nhiều lần trong cuộc sống.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã kể ra một số các thí dụ chứng minh cho các cuộc hoán cải lớn: chẳng hạn như trường hợp của thánh Phaolô trên đường đến thành Damasco, hay thánh Agostino. Nhưng ngay trong thời đại suy thoái ý nghĩa của sự thánh thiêng ngày nay, ơn thánh Chúa vẫn hoạt động và làm những điều kỳ diệu trong cuộc đời của biết bao nhiêu người. Chúa không mỏi mệt gõ cửa lòng con người trong các bối cảnh xã hội và văn hóa xem ra bị sự tục hóa nuốt trửng, như đã xảy ra cho Pavel Florenskij tín hữu chính thống Nga.

Được giáo dục một cách vô ngộ hoàn toàn, đến độ thù nghịch với các giáo huấn tôn giáo, khoa học gia Florenskij kêu lên: ”Không, không thể sống không có Thiên Chúa!”, và ông đã hoàn toàn thay đổi cuộc sống tới độ trở thành một đan sĩ.

Thế rồi còn có gương mặt của chị Etty Hillversum, một thiếu nữ Hòa Lan gốc Do thái chết trong trại tập trung Auschwitz. Ban đầu chị sống xa Thiên Chúa, rồi khám phá ra Người, khi nhìn sâu vào chính mình và viết: ”Một cái giếng rất sâu ở trong tôi. Và trong cái giếng ấy có Thiên Chúa. Đôi khi tôi thành công trong việc đạt tới Người, nhưng thường hơn thì đá cát che dấu Người: khi đó Thiên Chúa bị chôn vùi. Cần phải đào Người lên” (Nhật Ký, 97). Trong cuộc sống tản mác và bất an, chị tìm lại được Thiên Chúa chính giữa thảm cảnh lớn lao của cuộc diệt chủng Do thái Shoah của thế kỷ XX. Người thiếu nữ mảnh khảnh và không được thỏa mãn này, đã được biến hình bởi đức tin, và trở thành một phụ nữ tràn đầy tình yêu, an bình nội tâm, có khá năng khẳng định như sau: ”Tôi sống liên lỉ trong sự thân tình với Thiên Chúa”.

Khả năng chống lại các ve vãn ý thức hệ thời của chị để lựa chọn tìm chân lý và rộng mở cho sự khám phá ra đức tin, đã được làm chứng bởi một phụ nữ khác của thời đại chúng ta: đó là chị Dorothy Day, người Mỹ. Trong cuốn tiểu sử tự viết chị công khai tuyên xưng rằng chị đã bị rơi vào trong cám dỗ giải quyết tất cả với chính trị, bằng cách chạy theo đề nghị mác xít: ”Tôi đã muốn đi với các người biểu tình, vào tù, viết, ảnh hưởng trên người khác và để lại cho thế giới giấc mơ của tôi. Có biết bao tham vọng và tìm kiếm chính mình trong tất cả những điều đó!” Con đường tiến về đức tin đã đặc biệt khó khăn trong một môi trường tục hóa như vậy, nhưng Thánh sủng vẫn hoạt động như chị đã nêu bật: ”Chắc chắn là tôi đã cảm thấy thường xuyên hơn nhu cầu đến nhà thờ, qùy gối xuống, cúi đầu cầu nguyện. Một bản năng mù lòa, có thể nói thế, bởi vì tôi đã không ý thức cầu nguyện. Nhưng tôi đã đi, tôi đã tháp mình vào bầu khí cầu nguyện… ”. Thiên Chúa đã đưa chị tới việc ý thức gắn bó với Giáo Hội, trong một cuộc sống tận hiến cho những người khốn khổ.

Trong thời đại chúng ta không hiếm các cuộc hoán cải được hiểu như sự trở về của người, sau một nền giáo dục Kitô hời hợt, đã xa rời đức tin biết bao nhiêu năm, và rồi tái khám phá ra Chúa Kitô và Tin Mừng của Người.
Trong sách Khải Huyền chúng ta đọc thấy rằng: ”Này đây: Ta đứng ngoài cửa và Ta gõ. Nếu ai lắng nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta, thì Ta sẽ đến với nó, sẽ dùng bữa tối với nó và nó cùng với Ta” (Kh 3,20). Con người nội tâm của chúng ta phải chuẩn bị để được Thiên Chúa viếng thăm, và chính vì thế không được để cho mình bị xâm lăng bởi các ảo ảnh, dáng vẻ bề ngoài, và các điều vật chất.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và cám ơn mọi người về tình yêu thương và lời cầu nguyện dành cho ngài. Ngài xin tất cả tiếp tục cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội.

Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha giải thích về việc ngài từ nhiệm

Đức Thánh Cha giải thích về việc ngài từ nhiệm

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 cho biết ngài từ nhiệm trong tự do hoàn toàn vì lòng yêu mến Giáo Hội.

Ngỏ lời với các tín hữu vào đầu buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 13 tháng 2-2013 trước sự hiện diện của 8 ngàn người ngồi chật Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican, ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, như anh chị em biết, tôi đã quyết định rời sứ vụ mà Chúa đã ủy thác cho tôi ngày 19 tháng 4 năm 2005. Tôi làm điều này trong sự tự do hoàn toàn vì lòng yêu mến Giáo Hội, sau khi đã cầu nguyện lâu dài và xét mình trước mặt Chúa, với ý thức rõ ràng về sự trầm trọng của hành vi ấy, nhưng tôi cũng biết mình không còn có thể thi hành sứ vụ Phêrô với sức lực mà sứ vụ này đòi hỏi. Tôi được nâng đỡ và soi sáng nhờ xác tín Giáo Hội là của Chúa Kitô, Đấng sẽ không bao giờ để cho Giáo Hội bị thiếu sự hướng dẫn và chăm sóc của Ngài. Tôi cám ơn tất cả anh chị em vì lòng yêu mến và kinh nguyện mà anh chị em đã tháp tùng tôi (vỗ tay). Tôi cảm thấy sức mạnh của lời cầu nguyện trong những ngày không dễ dàng này. Xin anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội”.

Tiết lộ của Đức Ông Georg Ratzinger

Việc ĐTC Biển Đức 16 quyết định từ nhiệm từ lúc 20 giờ ngày 28 tháng 2 tới đây tiếp tục được dư luận các giới và báo chí bàn tán. Đức Ông Georg Ratzinger, 89 tuổi, bào huynh của ĐTC cũng được báo chí phỏng vấn.

Đức ông cho biết ”Từ lâu tôi đã thấy ĐGH không còn đủ sức lực và xác tín để tiếp tục. Từ ít lâu nay, tôi đã biết chắc rằng việc quyết định từ nhiệm sẽ xảy đến trong cuộc đời của ngài và ngài sẽ biết đương đầu với vấn đề này”.
”Trong triều đại Giáo Hoàng của ngài, Đức Biển Đức 16 đã phải đương đầu với những công tác khó khăn và để giải quyết, ngài đã làm tất cả những gì có thể”.

Đức Ông Georg cho biết mình không tạo ra một ảnh hưởng nào trên quyết định từ chức của ĐGH và giải thích rằng ”Sức lực và xác tín không còn hiện diện nơi ngài đầy đủ để tiếp tục sứ vụ giáo huấn trên ngai tòa thánh Phêrô. Ít là ngài không còn nghị lực và cảm thức trách nhiệm mà ngài vẫn luôn coi là phải có và cần thiết.. Bác sĩ riêng của ngài đã nói rõ với ngài rằng từ nay ngài cần tránh những chuyến bay xuyên Đại tây dường, hoặc những cuộc di chuyển dài như vậy. Ngài không còn có thể thực hiện những chuyến đi như vậy”.

Đức Ông Ratzinger nói thêm rằng ”Trách nhiệm là của ngài và ngài tự quyết định một mình”.

Theo Đức Ông, việc ĐGH từ chức có những ”hậu quả tích cực và tiêu cực”, trong khi 8 năm giáo hoàng của ngài là ”một phúc lành cho Giáo Hội”.

Đức Ông Ratzinger cũng xác nhận ĐGH từ nhiệm sẽ ở trong nội thành Vatican trong một Đan viện với những cộng tác viên thân tín. ”Nay chúng tôi sẽ có nhiều giờ hơn với nhau. Những lần trước, thời gian luôn luôn bị hạn chế: luôn có những lễ nghi phải cử hành, và chúng tôi chỉ gặp nhau vào giờ cơm và ban tối. Ngài luôn bận rộn. Trong kỳ nghỉ hè, từ nay sẽ đơn giản hơn. Dầu sao thì khi tôi ở Regensburg và ngài ở Roma, chúng tôi thường xuyên nói chuyện với nhau qua điện thoại”.

Bào huynh của ĐGH cho biết là muốn đến Roma vào mùa hè tới và loại bỏ mọi giả thuyết về việc ĐGH sẽ trở lại miền Bavaria, vì – Đức Ông nói – ”căn nhà ở Pentling không còn thuộc về chúng tôi nữa, và giả sử còn thuộc chúng tôi, thì cũng không thể sống tại đó.. Tôi bước đi khó khăn và mắt kém.. Trí nhớ suy giảm, nhưng phần còn lại thì cũng còn được. Tôi mong ước là cả hai chúng tôi sẽ bớt gặp vấn đề về sức khỏe cho đến khi Chúa gọi chúng tôi về với Người” (Vat. Ins. 12-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

 

 

MÙA CHAY: LUẬT GIỮ CHAY VÀ KIÊNG THỊT

MÙA CHAY: LUẬT GIỮ CHAY VÀ KIÊNG THỊT

Giáo luật điều 1251 dạy: “ Thứ  Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh phải giữ chay và kiêng thịt”. Trong ngày ăn chay, chỉ được ăn một bữa no và một bữa ăn ít không được ăn no. Không được ăn vặt giữa các bữa ăn. Có thể uống sữa hay các loại nước trái cây.

Tuổi giữ chay: Theo Giáo Luật diều 1252 thì mọi người từ 18 tuổi cho đến khi bắt đầu 60 tuổi thì phải giữ chay.

Luật kiêng thịt: Buộc những người từ 14 tuổi trọn. Tuy nhiên các Chủ Chăn và các phụ huynh phải lo dạy cho các em chưa tới tuổi buộc ăn chay và kiêng thịt để chúng hiểu ý nghĩa đích thực của việc của việc thống hối ( Giáo Luật 1252). Theo luật của Giáo Hội Hoa Kỳ, tất cả các ngày thứ Sáu trong Mùa Chay phải kiêng thịt.

Ba việc làm truyền thống trong Giáo Hội Công Giáo vào Mùa Chay là ăn chay , cầu nguyện , và làm việc lành phúc đức ( giúp đỡ người nghèo , v.v.) và một trong 6 điều răn Hội Thánh buộc chúng ta “ chịu Mình Thánh Chúa Giêsu ít nhất là trong Mùa Phục Sinh.” Và để xứng đáng rước Chúa ngự vào lòng chúng ta phải sạch tội. Bởi vậy chúng ta phải liệu đi xưng tội trong Mùa Chay. Việc giữ chay, kiêng thịt không phải là hành động mang tính hình thức bên ngoài, nhưng việc giữ chay, kiêng thịt còn giúp Kitô hữu nhìn nhận giá trị thiêng liêng cao cả: “ Con người sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Chính vì thế, khi giảm bớt nhu cầu ăn uống, con người nhận ra của cải vật chất không mang lại bình an, sự sống đích thực. Những ân huệ này do chính Thiên Chúa toàn năng ban tặng “miễn phí.” Từ đó, việc chia cơm sẻ áo sẽ không trở nên “quá khô khan” đối với Kitô hữu . Khi giảm bớt chi tiêu để chia sẻ cho tha nhân, chính là lúc “ nối dài cánh tay bác ái của Thiên Chúa” ( Mẹ Têresa Calcuta).

Xin Mẹ Maria, vốn là người nội trợ trong mái ấm Nazareth thưở xưa giúp chúng ta sống đúng tinh thần Mùa Chay: “ cầu nguyện, canh tân, chia sẻ” để khi ngày vui Phục Sinh tiến đến , chúng ta tận hưởng sâu đậm niềm vui sống lại cùng với Đức Kitô trong Năm Đức Tin.

Trích từ Hiệp Thông ( Chúa Nhật 10-2-2013)

Giữ chay – ăn chay

Giữ chay – ăn chay

Bread And Water

1. Tháng 3-2007, tôi có viết một bài giải thích hai thuật từ trai tịnh và chay tịnh, nay có người lại hỏi tôi có gì khác biệt giữa thuật từ “giữ chay” và “ăn chay”. Hai thuật từ này dùng rất phổ biến trong cuộc sống hằng ngày, mà chúng ta ít để ý đến ý nghĩa khác biệt của nó. Vậy chúng ta tìm hiểu xem hai thuật từ này đồng nghĩa hay khác nghĩa.

2. Tìm hiểu việc ăn chay, giữ chay trong vài tôn giáo

2.1. Phật giáo

Theo quan điểm bình dân, Phật tử ăn chay là vì muốn tránh quả báo luân hồi. Theo thuyết luân hồi, con người sau khi chết bị đày xuống địa ngục, sẽ bị đẩy làm ngã quỷ (ma đói), sau khi hối cải sẽ được làm súc sinh (loài vật), cuối cùng đầu thai trở lại làm người theo bánh xe luân hồi. Do đó, tu sĩ Phật giáo hay nhiều Phật tử có thói quen ăn chay trường, tức là không ăn thịt và những thức ăn có máu, vì có thể sẽ ăn thịt người thân của mình trong kiếp súc sinh. Những ngày 1, 14, 15 và 30 âm lịch được coi là ngày mở cửa âm phủ, các linh hồn được tự do, những ngày đó Phật tử thường ăn chay [1].

Thực ra, trong Phật giáo có hai trường phái chủ trương ăn chay khác nhau. Phật giáo Nam Tông, vì muốn giữ truyền thống khất thực của Đức Phật, thời Phật giáo Nguyên thuỷ, cho nên phái này chủ trương ăn chay theo cách ‘tam tịnh nhục’, nghĩa là những loại thịt nào mà mình không thấy người ta giết, không nghe tiếng kêu la của loài thú bị giết, hay không có sự nghi ngờ nào người khác vì mình mà giết, những loại thịt đó thì tỳ kheo được thọ dụng, không phạm giới. Thế nhưng, Phật giáo Bắc Tông (Đại Thừa ở Trung Quốc) thì không chấp nhận cách ăn chay này, họ quan niệm rằng ăn chay là không được ăn thịt cá, chỉ ăn các loại rau đậu…

Tuy nhiên, dù Nam Tông hay Bắc Tông, mục đích của việc ăn chay là nhằm tăng trưởng lòng từ bi, giảm bớt lòng sân hận, bằng cách tu tập không sát sinh, biết thương yêu người đồng loại và ngay cả các loài vật khác. Khi đã có lòng từ bi, không nỡ giết loài cầm thú, thì người ấy khó có thể giết người. Đó là lý do tại sao đức Phật đưa ra giới cấm: ‘không được sát sinh’. Giới này cũng chính là nhân tố để hình thành quan điểm ăn chay trong đạo Phật.

2.2. Hồi giáo

Người Hồi giáo ăn chay vào khoảng tháng 9 (lịch Hồi giáo, gọi là tháng Ramadan). Trong tháng này, khi còn ánh sáng mặt trời, họ không được ăn và uống, đến đêm thì mới ăn. Cũng trong tháng này, con người phải tha thứ và sám hối, vợ chồng không được gần nhau vào ban ngày nhưng ban đêm vẫn có thể ân ái với nhau. Trẻ em và phụ nữ có mang không phải thực hiện Ramadan.

Đối với Hồi giáo: Ăn chay là “nhịn ăn, nhịn uống trước rạng đông đến hoàng hôn và quyết tâm diệt trừ những ham muốn tầm thường, chế ngự được sự đói khát, đè nén được dục vọng là làm chủ được thể xác, không còn bị nó sai khiến. Khi kềm chế được dục vọng là tinh thần tự giải thoát, ý chí được tự do, tâm hồn thanh thản, đây là điều kiện cần cho việc tịnh tâm, cầu nguyện và giúp thăng tiến về mặt tâm linh… “Ăn chay” là chấp nhận quy phục Allah, mọi giai tầng trong xã hội đều phải tuân thủ như nhau: vua, quan, sĩ, nông, công, thương, binh, đều phải nhịn ăn đúng giờ, xả chay đúng giờ quy định… Hành động này thể hiện sự bình đẳng của nhân loại trước Allah”.

Như vậy, mục đích việc ăn chay trong Hồi giáo là để chế ngự những ham muốn tầm thường, làm chủ bản thân, thăng tiến tinh thần.

2.3. Công giáo

Đối với người Công giáo, chay tịnh là một trong ba hành vi được khuyên làm nhiều nhất trong đạo (cùng với việc cầu nguyện và bố thí), tín hữu giữ chay để biểu lộ lòng sám hối, ăn năn, tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Việc chay tịnh bao gồm nhịn ăn (jejunium [2]) và kiêng ăn (abstinentia [3]) mà chúng ta quen gọi là “ăn chay” và “kiêng thịt”.

Việc nhịn ăn (ăn chay): Trong ngày chay chỉ được ăn một bữa no (chọn bữa nào cũng được), còn những bữa khác chỉ được ăn chút ít để bụng còn đói. Trong ngày chay không được ăn vặt như kẹo, bánh,…

Việc kiêng ăn (kiêng thịt): Cấm ăn thịt loài máu nóng (heo, bò, gà, vịt…) bao gồm thịt và tất cả những thứ khác như tim, gan, lòng… Nhưng được dùng các nước thịt và các đồ ăn có pha chất thịt, như cháo nước thịt. Được ăn cá và loài máu lạnh (như ếch, rùa, sò, cua, tôm). Ngày kiêng thịt cũng được phép dùng trứng và các sản phẩm từ sữa như bơ và phó mát [4]…

Qua việc chay tịnh, con người nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa, vì lúc không sử dụng lương thực Thiên Chúa ban, con người cảm nghiệm được tính cách bấp bênh của sức lực mình: chay tịnh để tự hạ trước Thiên Chúa (x. Tv 34,13; 68,11; Đnl 8,3) [5].

Ngoài việc nhịn ăn và kiêng ăn nói trên, người thực hành việc chay tịnh còn phải tránh xa tội lỗi và dục vọng, như gương của Chúa Giêsu “giữ chay ròng rã bốn mươi đêm ngày” (Mt 4,2) và Thánh Luca nói rõ hơn, “trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả” (Lc 4,2).

Ý nghĩa đầu tiên và cụ thể nhất của giữ chay là chế ngự: không ăn hoặc ăn ít hơn bình thường. Giữ chay không chỉ là một sự chế ngự có tính cách bên ngoài, nhưng còn phải xuất phát tự trong lòng. Nó phải được kèm theo một sự thay đổi lớn lao trong đời sống.

3. Nghĩa chữ ăn, giữ và chay

3.1. Ăn (chữ Nôm: ): đt. (1) Đưa thực phẩm vào bao tử: Ăn cháo đá bát (không nhớ ơn), ăn chay (tránh dùng thịt cá và ngũ huân); (2) Đi kiếm thức ăn hoặc lợi nhuận: Ăn mày, ăn xin, ăn bám, ăn hại, ăn lương; (3) Thắng cuộc: Ăn con xe, ăn giải nhất, ăn non (vội rút lui khỏi cuộc đỏ đen sau khi chiếm được thắng lợi, vì sợ sắp tới vận xui); (4) Thích hợp tiếp nhận: Ăn cánh, ăn khách, ăn ảnh; (5) Thoả thuận: Ăn chịu, ăn gánh (ưng thuận gia nhập hội đoàn và đóng góp cho hội đoàn), ăn giá (số tiền được thoả thuận giữa kẻ mua người bán); (6) Vui hưởng, ăn uống nhân một dịp gì: Ăn chơi, ăn diện, ăn Tết; (7) Nam nữ sống chung: Ăn nằm, ăn ngủ, ăn ở; (8) Thấm vào, dính vào, lan rộng ra: Giấy ăn mực, keo dán không ăn, ăn nên làm ra (công việc làm ăn có phần hanh thông), nước ăn chân (chân ngâm nước lâu bị hư da); (9) Lối cư xử và sinh sống: Ăn cháo đá bát (vô ơn bạc nghĩa), ăn cơm nhà vác ngà voi (làm công vụ mà không được lợi lộc gì); (10) Ngang với, giá trị tương đương: một đô la Mỹ ăn mười bảy nghìn đồng.

3.2. Giữ (chữ Nôm: , , ) : đt. (1) Cầm chắc trong tay, không để mất mát: Nắm giữ đầu dây; (2) Để cạnh mình, trong mình và quan tâm đến cho khỏi mất, khỏi chuyển sang người khác, khỏi thay đổi: Giữ chìa khoá; giữ hành lý, giữ độc quyền; (3) Làm cho dừng, ngừng lại, ở lại: Đắp bờ giữ nước; (4) Cản trở sự thay đổi: Giữ giá, giữ trật tự; (5) Hành động cách thận trọng, đề phòng thiệt thòi tai hại: Giữ kẽ (cư xử e dè trước người lạ), giữ ý (không dám nói cho hết tư tưởng thầm kín), giữ vệ sinh; (6) Đảm nhiệm một công việc hay chức vụ: Giữ chức giám đốc; (7) Tuân thủ theo yêu cầu của một công việc, trung thành với một niềm tin: Giữ đạo, giữ vững lập trường.

3.3. Chay (chữ Nôm , ): Trong bài “Trai tịnh hay chay tịnh” năm 2007 tôi đã phân tích chữ chay, chữ này là do chữ trai (, Hán Việt) chuyển sang, nên chay đồng nghĩa với trai. Chay nghĩa là: (1) Kiêng ăn vì lý do tôn giáo: Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối; (2) Kiêng thịt cá và ngũ huân (5 món: nồng hành, tỏi, hẹ, kiệu, ngò) vì lý do tôn giáo: Ăn chay trường; (3) Mời nhà sư tới cầu kinh cho người chết: Lập đàn chay; (4) Cây cho trái ngọt và mềm lại cho vỏ dùng để ăn trầu: Trái chay, vỏ chay; (5) Dầu thảo mộc dùng làm keo khi khô rất cứng: Trát dầu chay (hay đọc ra chai).

4. Nghĩa từ ăn chay, giữ chay

4.1. Ăn chay vốn là một từ bên Phật giáo và đã được Cha Alexandre de Rhodes giảng trong Từ điển Annam – Bồ Đào Nha – Latinh như sau: “Ăn chay. Đích thực có nghĩa là kiêng thịt và cá, nhưng bây giờ để chỉ sự ăn chay của những Kitô hữu. Ăn chay (jejunium) có nghĩa là giới hạn lượng lương thực được ăn vào những ngày cụ thể. Còn kiêng cữ (abstinentia) có nghĩa là từ bỏ một thức ăn khoái khẩu như thịt, cá, tôm…”.

Ăn chay, theo nghĩa hẹp, là ăn uống có kiêng cử (Ví dụ: kiêng ăn thịt cá… đối với Phật tử, kiêng ăn ngoài bữa và giảm lượng thức ăn… đối với người Công giáo, kiêng ăn uống ban ngày đối với người Hồi giáo).

Ăn chay, theo nghĩa rộng, là thực hành việc khổ chế bằng cách kiêng cử không chỉ về món ăn thức uống mà còn cả những phương tiện hưởng thụ và thoả mãn khác [6]. Theo nghĩa này thì “ăn chay” không chỉ là việc ăn uống mà còn là một thái độ (tinh thần thống hối), một lối sống (khiêm cung, từ bỏ những thú vui chính đáng) nhằm biểu lộ lòng thống hối, tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn của Chúa Kitô (theo Công giáo) – mà ta quen gọi là “giữ chay”.

4.2. Giữ chay là tuân thủ những yêu cầu về việc chay tịnh, giữ chay bao hàm ý nghĩa rộng hơn là ăn chay (theo nghĩa hẹp). Tương tự như khi chúng ta nói bổn phận “giữ ngày Chúa Nhật” thì rộng nghĩa hơn là bổn phận “dự (xem) lễ ngày Chúa Nhật” [7].

5. Kết luận

Thuật từ giữ chay là thuật từ riêng biệt của người Công giáo, ngoài từ điển Công giáo, các từ điển ngoài đời hầu như không có thuật từ này và nó cũng đúng với ý nghĩa của việc chay tịnh của người Công giáo.

Mặc dù ăn chay có nghĩa rộng như đã nói trên, nhưng trong một số trường hợp, chúng tôi thấy nên dùng chữ giữ chay thay cho ăn chay thì thích hợp hơn, thí dụ:

– “Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Đức Chúa” (Tl 20,26).

– “Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Saun” (2 Sm 1,12).

– “Khi nghe những lời ấy, vua Akháp xé áo mình ra, khoác áo vải bố bám sát vào thịt, ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não” (1 V 21,27).

– “Xin cha cứ đi tập hợp tất cả những người Dothái ở Susan lại. Xin bà con ăn chay cầu nguyện cho con. Suốt ba ngày đêm, đừng ăn uống gì cả. Con và các cung nữ cũng sẽ làm như thế” (Et 4,16).

– “Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói” (Mt 4,2).

* “Chúng tôi đã mất khá nhiều thời gian, và việc đi biển từ nay thật nguy hiểm, vì ngày ăn chay đã qua rồi” (Cv 27,9).

Cũng theo nghĩa này mà chúng ta thấy trong bản tiếng Việt Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1997) dùng chữ “giữ chay” thay vì “ăn chay” [8].

—————————————–

Ghi chú:

[1] http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%82n_chay.

[2] Jejunium: (1) Chay = jẻne; (2). Đói = faim; (3). Tính chất đất khô chồi = stérilité.

[3] Abstinere : (1) Kiêng, giữ; (2) Giữ xa, giữ khỏi.

[4] Lưu ý: Tuổi giữ chay: Từ 18 tuổi trọn đến hết 59 tuổi ; Tuổi kiêng thịt: Từ 14 tuổi trở lên ; Ngày buộc giữ chay và kiêng thịt : Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh.

[5] Xem Bài Giảng Chúa Nhật số 3-2007.

[6] "Fasting means self-mastery; it means being demanding with regard to ourselves; being ready to renounce things—and not just food—but also enjoyment and the various pleasures" (Sứ điệp Mùa Chay 1979 của ĐTC Gioan Phaolô II, số 2).

[7] "Điều răn thứ nhất: Vào các Chúa nhật và các ngày lễ buộc, các tin hữu buộc phải tham dự thánh lễ và tránh tất cả những công việc tự bản chất ngăn trở việc thánh hoá những ngày ấy” (Sách Giáo Lý HTCG số 2042).

[8] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, bản dịch của Ban Giáo Lý TGP. TPHCM, 1997: số 575, 1387, 1430, 1434, 2043, 2742.

—————————————

Tham khảo:

1. Bộ Giáo dục Đào tạo, Nguyễn Như Ý (chủ biên), ĐẠI TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB. Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1999.

2. Hoàng Phê (chủ biên, TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Viện Ngôn Ngữ học, NXB. Đà Nẵng, Hà Nội-Đà Nẵng, 2005.

3. Thiều Chửu, HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN trên mạng:

http://pagesperso-orange.fr/dang.tk/langues/hanviet.htm.

4. Lê Văn Đức, TỰ ĐIỂN VIỆT NAM, nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970.

5. Alexandre de Rhodes, TỪ ĐIỂN ANNAM-LUSITAN-LATINH (thường gọi Từ điển Việt-Bồ-La), NXB. Khoa học Xã hội, TP. HCM, 1991.

Lm. Stêphanô Huỳnh Trụ

Đức Thánh Cha Biển Đức 16 sẽ chủ sự lễ tro tại Vatican

Đức Thánh Cha Biển Đức 16 sẽ chủ sự lễ tro tại Vatican

VATICAN. Trái với chương trình dự định trước đây, ĐTC Biển Đức 16 sẽ chủ sự thánh lễ với nghi thức xức tro từ lúc 5 giờ đến 7 giờ chiều thứ tư, 13 tháng 2, tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Theo truyền thống từ lâu và chương trình đã ấn định trước đây, lẽ ra ĐTC sẽ đến Vương cung thánh Anselmo của dòng Biển Đức vào lúc 4 giờ rưỡi chiều thứ tư lễ tro, 13 tháng 2, và từ đây ngài chủ sự cuộc rước thống hối đến Vương cung thánh đường thánh Sabina của dòng Đa Minh để cử hành thánh lễ với nghi thức xức tro.

Tuy nhiên thông cáo do Ban phụng vụ của ĐTC công bố sáng 12 tháng 2-2013, cho biết địa điểm buổi lễ được dời về Đền thờ Thánh Phêrô.

Họp báo của Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh

Trong cuộc họp báo trưa ngày 12 tháng 2-2013 tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi SJ cho biết lý do thay đổi địa điểm hành lễ là vì đây là thánh lễ cuối của ĐTC Biển Đức 16 trong tư cách là Giáo Hoàng, nên chắc chắn số người muốn tham dự sẽ đông hơn, vì thế điều thích hợp hơn, đó là dời địa điểm hành lễ về Đền thờ Thánh Phêrô rộng lớn hơn. Đền thờ thánh nữ Sabina trên đồi Avventino nhỏ bé, chỉ có thể chứa được tối đa một ngàn người.
Cha Lombardi cũng nhắc lại rằng chương trình hoạt động của ĐTC đã định trước cho tới ngày 28 tháng 2-2013 vẫn được giữ nguyên, như cuộc gặp gỡ các GM Italia về Roma viếng mộ hai thánh Tông Đồ và thăm Tòa Thánh, buổi tiếp kiến dành cho tổng thống Rumani và Guatemala.

Đặc biệt sáng thứ năm 14 tháng 2-2013, ĐTC sẽ gặp hàng giáo sĩ Roma theo thông lệ từ lúc 11 giờ tại Đại thính đường Phaolô 6. Năm ngoái (2012) ngài cũng đã gặp hàng ngàn LM và Phó Tế của giáo phận Roma tại Đại thính đường này và ngài đã trình bày một bài suy niệm ứng khẩu dưới hình thức ”lectio divina”, đọc và suy gẫm Lời Chúa. Năm nay, đề tài bài nói chuyện sẽ là kinh nghiệm về Công Đồng chung Vatican.

Trong tuần tới đây, các sinh hoạt tại Vatican diễn ra trong thầm lặng, vì ĐTC và các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh tham dự tuần tĩnh tâm mùa chay, bắt đầu từ chiều chúa nhật 17 tháng 2 cho đến sáng thứ bẩy 23 tháng 2.

Sáng thứ tư, 27 tháng 2-2013, sẽ có buổi tiếp kiến chung cuối cùng của ĐTC và sẽ làm tại Quảng trường Thánh Phêrô.
Trong cuộc họp báo, Cha Lombardi, đã trả lời nhiều câu hỏi do các ký giả nêu lên. Ngài xác nhận tin cách đây khoảng 3 tháng ĐTC đã chịu một cuộc giải phẫu để thay pin trong máy trợ tim của ngài. Nhưng đó là cuộc can thiệp thường lệ, và ngài đã mang máy trợ tim khi còn là hồng y. Cha Lombardi, tham chiếu bác sĩ riêng của ĐTC, và xác nhận ĐTC Biển Đức 16 hiện không có bệnh cấp tính nào, nhưng ở trong tình trạng sức khỏe suy giảm do tuổi già. Ngài sẽ tròn 86 tuổi vào ngày 16-4 tới đây.

Tại sao ĐTC lại ấn định lúc 20 giờ tối ngày 28 tháng 2 sắp tới sẽ giã từ chức vụ? Cha Lombardi, tham chiếu Đức TGM Georg Gaenswein, Bí thư riêng của ĐTC và cũng là Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, cho biết không có lý do gì đặc biệt. Thông thường ĐTC kết thúc một ngày phục vụ Giáo Hội vào lúc 8 giờ tối.

Về cách xưng hô với ĐTC Biển Đức 16 sau khi ngài từ chức, Cha Lombardi cho biết vấn đề này chưa được xác định.

Về Đan viện nơi ĐTC sẽ cư ngụ trong nội thành Vatican, từ mùa thu năm ngoái, nhóm nữ tu chiêm niệm cuối cùng đã rời khỏi nơi này, và không có nhóm nữ tu mới đến thay thế. Việc tu bổ đan viện đã bắt đầu trong thời gian qua.
Cha Lombardi cũng cho biết tuy việc chuẩn bị cho Mật Nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng hiện nay đã được nghĩ tới, sau lời loan báo của ĐTC sẽ từ chức, nhưng theo giáo luật, công việc chuẩn bị chỉ được khởi sự chính thức từ sau khi Tòa Thánh trống tòa, cụ thể là từ ngày 1 tháng 3-2013 tới đây.

Tòa Thánh lúc đó được điều hành theo Tông Hiến ”Universi Dominici Gregis”, Mục Tử toàn thể đoàn chiên Chúa, do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành năm 1996. Quyền cai trị Tòa Thánh do Hồng y đoàn, dưới sự điều động của ĐHY niên trưởng Angelo Sodano, 86 tuổi. Các vị sẽ nhóm họp một ngày trong phiên khoáng đại. Ngoài ra những công việc hành chánh thông thường thì do ĐHY Bertone, là Hồng y nhiếp chính cùng với 3 hồng y khác, được chọn theo lượt trong số các Hồng Y.

Chính Hồng y đoàn sẽ xác định ngày bắt đầu Mật Nghị bầu Giáo Hoàng mới. Theo qui luật hiện hành, trong số 209 vị thuộc Hồng y đoàn, có 117 Hồng y dưới 80 tuổi được quyền tham dự Mật Nghị tới đây.

HY đoàn cũng yêu cầu 2 giáo sĩ trình bày những bài suy tư cho các HY về những vấn đề Giáo Hội đang gặp phải và cần có sự phân định kỹ lương khi chọn Giáo Hoàng mới.

Cuộc bầu cử sẽ diễn ra tại Nhà Nguyện Sistina trong dinh Tông Tòa, và các HY sẽ cư ngụ trong Nhà Trọ thánh Marta gồm 5 tầng lầu với hơn 120 căn hộ.

Các Hồng y trên 80 tuổi, tuy không còn quyền bầu Giáo Hoàng, nhưng có thể tham gia các cuộc họp của Hồng y đoàn chuẩn bị cho cuộc bầu, và trong thời gian diễn ra cuộc bầu, các Hồng y ấy được mời gọi hướng dẫn các buổi cầu nguyện của Dân Chúa trong các Thánh đường ở Roma cũng như tại các giáo phận trên thế giới cho cuộc bầu Giáo Hoàng mới được diễn tiến tốt đẹp theo ý Chúa. (SD 12-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Thứ Tư Lễ Tro – Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ

Thứ Tư Lễ Tro

Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ

Ash-Wednesday

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro" được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay truớc Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Ðầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình . . . Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Ðức Giáo Hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Ðức Giáo Hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Ðức Giáo Hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Ðức Giáo Hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời : "Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi" (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro" đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời" (còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, ttốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại" một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ

(Theo Tinh Thần)

Trích từ TGPHN