PHẢI DỨT KHOÁT THEO CHÚA

PHẢI DỨT KHOÁT THEO CHÚA

I. HOC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 9,51-62

2. Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm này gồm hai phần:

Phần thứ nhất thuật lại câu chuyện Đức Giê-su bị dân làng ở miền Sa-ma-ri từ chối không cho trọ. Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an tức giận yêu cầu được sai lửa từ trời xuống thiêu hủy làng đó. Nhưng Đức Giê-su quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.

Phần thứ hai ghi lại ba trường hợp người ta xin đi theo làm môn đệ Đức Giê-su. Trong mỗi trường hợp Đức Giê-su đều đòi người ta phải chọn lựa dứt khoát như sau:

+ Đối với kẻ thứ nhất xin theo, Người đòi anh ta phải chấp nhận cuộc sống thiếu thốn vật chất và không ổn định.

+ Với người thứ hai, Đức Giê-su đòi anh ta phải coi nhẹ bổn phận lo cho gia đình để ưu tiên lo công việc của Chúa.

+ Còn người thứ ba, Đức Giê-su đòi anh ta một trái tim không san sẻ, để chỉ lo phục vụ Nước Thiên Chúa mà thôi.

3. CHÚ THÍCH:

– C 51-52): + Được rước lên trời: Đây là thành ngữ ám chỉ cái chết cũng như cuộc lên trời của Đức Giê-su (Tin Mừng Lu-ca 9,31 chú thích về cuộc xuất hành của Người). + Nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem: Lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc Vượt Qua. + Vào một làng người Sa-ma-ri: Người Do Thái tránh giao thiệp với người Sa-ma-ri và còn khinh dễ họ, vì họ không còn thuần chủng nữa, và vì niềm tin của họ đã có nhiều dị biệt với người Do thái. Nhưng Đức Giê-su lại cố ý vào trọ trong một làng người Sa-ma-ri. Điều này cho thấy Người chính là chủ chiên đến để tìm chiên lạc và đưa về đàn. Về sau, trước khi lên trời, Đức Giê-su truyền cho các Tông Đồ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, trong đó có dân Sa-ma-ri (x. Cv 1,8). Các ông đã vâng lời Người: Phi-líp-phê loan báo Tin Mừng ở Sa-ma-ri (x. Cv 8,5). Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem cũng cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ (Cv 8,14).

C 53-56: + Dân làng không đón tiếp: Người Sa-ma-ri có ác cảm với người Do thái, đặc biệt những ai đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem. + Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy…?: Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an được gọi là “con của sấm sét” (x. Mc 3,17). Hai ông mới được nhìn thấy ngôn sứ Ê-li-a trong cuộc biến hình của Đức Giê-su (x. Lc 9,28-36), nên giờ đây muốn dùng hình phạt mà giáng xuống trên kẻ thù giống như vị ngôn sứ này đã làm (x. 2V 1,10-12). + Quở mắng các ông: Đức Giê-su muốn các môn đệ hành xử theo giáo huấn mà Người đã dạy về cách đối xử với kẻ thù: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình (x. Lc 6,27-35). + Và Người nói với các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”: Đức Giê-su dạy cho các môn đệ biết việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Đức Giê-su xuống thế gian để kiện toàn luật Mô-sê là luật cho phép trả thù những kẻ làm hại mình. Đối với Đức Giê-su: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa của tình thương. Tình thương thay thế hận thù, tha thứ thay thế báo oán và trừng phạt. Đó chính là tinh thần mà các môn đệ phải học tập cho bằng được. + Thầy trò đi sang làng khác: Điều này nói lên sự nhẫn nhịn của Đức Giê-su đối với những kẻ đối xử không tốt với mình.

C 57-58: + Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng: Lu-ca ghi lại ở đây ba trường hợp về ơn kêu gọi theo Chúa. Trong ba trường hợp này thì hai trường hợp được Mát-thêu thuật lại khi Đức Giê-su bắt đầu đi giảng đạo ở Ga-li-lê (x. Mt 6,19-22). Còn trường hợp thứ ba chỉ có trong Tin Mừng Lu-ca. Qua ba trường hợp này, Lu-ca muốn trình bày những đòi hỏi dứt khoát đối với những ai muốn làm môn đệ của Đức Giê-su. + “Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo… Con chồn có hang…”: Người này tự ý xin theo làm môn đệ và sẽ đi đến bất cứ nơi nào. Nhưng Đức Giê-su cho anh ta thấy cuộc sống khó nghèo và thiếu ổn định. “Không có chỗ dựa đầu”, nghĩa là không có sự bảo đảm về vật chất như một con thú rừng!

C 59-60: + “Xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, người xin làm môn đệ ngỏ lời trước (x. Mt 8,21-22), còn trong Tin Mừng Lu-ca, chính Đức Giê-su kêu gọi anh ta trước. Anh ta tỏ thái độ thiếu dứt khoát qua lời cầu xin về nhà phụng dưỡng cha. Đợi đến khi cha chết và được mai táng, rồi anh ta mới đi theo. Ở đây không nhất thiết là cha anh ta mới chết sắp đem đi chôn. Vì tại Pa-les-tin việc chôn cất một người chết phải thực hiện ngay trong ngày, nên khó mà nghĩ rằng Đức Giê-su lại không đồng ý cho anh ta lưu lại vài giờ để chôn cất cha cho tròn chữ hiếu. + “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”: Chắc chắn Đức Giê-su không cho bổn phận hiếu thảo với cha mẹ là không đáng kể (x. Mt 15,5-9 ; 1 Tm 5,8). Nhưng khi phải lựa chọn giữa tình thân gia đình với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, thì Người đòi môn đệ phải ưu tiên chọn đi theo Chúa.

4. CÂU HỎI: 1) Khi dùng thành ngữ “Được rước lên trời”, tác giả Luca muốn ám chỉ điều gì về cuộc xuất hành của Người? 2) Đức Giê-su nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem để làm gì? 3) Tại sao người Do Thái tránh giao thiệp và còn khinh dể người Sa-ma-ri, trái ngược với Đức Giê-su sẵn sàng đến với họ? Hãy kể ra một số trường hợp cụ thể Người đã làm? 4) So sánh phản ứng cua hai môn đệ Gia-cô-bê Gio-an va cua Đức Giê-su trước sự từ chối đón tiếp của dân làng Sa-ma-ri? Đức Giê-su muốn môn đệ Người phải phản ứng thế nào? 5) Người dạy và hành xử thế nào để nêu gương nhẫn nhịn cho các ông? 6) Hãy kê ba trường hợp người ta xin đi theo làm môn đệ Đức Giê-su và đòi hỏi của Người với mỗi người như thế nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9,60).

2. CÂU CHUYỆN:

Một vị linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quí để làm lễ vật ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, anh thanh niên giàu có vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy hồ cố tìm lấy lại viên ngọc quí giá. Nhưng sau một ngày vất vả tìm kiếm mà viên ngọc vẫn biệt tăm. Chiếu đến, với vẻ mặt thất vọng, anh thanh niên đến chỗ vị linh sư xin chỉ đích xác chỗ đã ném viên ngọc. Bấy giờ vị linh sư liền cầm viên ngọc thứ hai, lại ném xuống sông và nói: “Ta đã ném vào chỗ đó. Anh hãy lặn xuống mà tìm”. Chàng thanh niên hiểu rằng thầy muốn anh phải bỏ lòng ham mê của cải như một điều kiện tiên quyết để theo học với thầy.

3. SUY NIỆM:

Qua 3 trường hợp theo Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đòi hỏi những kẻ muốn theo Người cũng phải có thái độ từ bỏ dứt khoát như thế:

+ Người thứ nhất xin theo Đức Giê-su đến bất cứ nơi nào. Những người đòi anh phải chọn lựa: theo Thầy thì phải biết chấp nhận nay đây mai đó, không có chỗ gối đầu.

+ Người thứ hai được Đức Giê-su kêu gọi đã sẵn sàng đi theo. Nhưng anh ta xin về nhà phụng dưỡng cha già, đến khi cha chết rồi mới đi theo. Nhưng Người đòi anh phải dứt khoát chọn đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.

+ Người thứ ba xin đi theo Đức Giê-su, nhưng xin được về nhà từ giã gia đình trước đã. Nhưng Người đòi anh ta phải chọn lựa, dứt khoát với tình cảm gia đình: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”.

Thực ra, Đức Giê-su rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ (x. Mt 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x. Lc 14,26).

Nhìn lại mình, chúng ta thường hay chọn mình, chọn theo sở thích của mình, gia đình của mình… đang khi Đức Giê-su lại dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

4. THẢO LUẬN: 1) Trong cuộc sống hàng ngày, hãy kể ra ba điều bạn cho là quan trọng và cần thiết phải làm ngay. Tại sao? 2) Sống đúng tinh thần khoan dung của Đức Giê-su dễ hay khó? Tại sao? 3) Bạn quyết tâm sẽ phản ứng thế nào khi bị kẻ khác đối xử không tốt để xứng đáng làm môn đệ Đức Giê-su?

5. NGUYỆN CẦU

1) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Giàu sang, danh vọng, khoái lạc… là những điều hấp dẫn chúng con và trói buộc không cho chúng con ngước đầu lên cao. Xin giải thoát chúng con khỏi sự say mê tìm kiếm kho tàng ở dưới trần gian, để ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa. Lạy Chúa. Ước gì chúng con có thái độ dứt khoát hy sinh những gì đang có, để mua được viên ngọc quí giá là Nước Trời. Ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước lời mời gọi của Chúa dành cho chúng con.

2) LẠY CHÚA. Con cảm thấy Chúa đòi hỏi những ai muốn đi theo làm môn đệ Chúa hơi nhiều: Vì Chúa không có chỗ dựa đầu, nên Chúa đòi con phải biết hy sinh, sống đơn sơ và phó thác. Chúa còn muốn con phải tận lực rao truyền Triều Đại Thiên Chúa. Chúa đòi con phải đặt tình cảm gia đình sau bổn phận theo Chúa. Thật đúng như lời Chúa dạy: “Ai muốn theo Thầy phải bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà đi theo Thầy. Nếu chỉ dựa vào sức riêng tự nhiên, chắc là con khó đi theo Chúa. Nhưng nếu có ơn Chúa giúp con tin mình sẽ làm được mọi sự. Xin giúp con sống quảng đại với Chúa như Chúa đã từng quảng đại với con. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn quên mình và nghĩ tới người khác, để con xứng đáng trở nên môn đệ đích thực của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM Đan Vinh

NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

 NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

Chủ đề: “Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức Giêsu”

Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.

Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn “giữ ngày Chúa Nhật thánh thiện” có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật buồn.

Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước, bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với điều ông tin tưởng.

Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ trong đời ông tham dự loại này.

Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua 100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.

Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.

Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc. Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ vụ, làm việc với các tù binh khác.

Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.

Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.

Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói, “Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?”

Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim, được gọi là Chariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải Academy năm 1982.

Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:

Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước Trời.”

Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.

Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?

Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải đương đầu với sự chống đối trùm lấp?

Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, “Ông ta luôn luôn dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hoạch định chương trình trong ngày.”

Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện.

Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader’s Digest. Bài này nói về một giám đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời trống rỗng.

Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập đến sự trống rỗng này.

Ông cố vấn hỏi, “Bà có muốn lấp đầy nó không?” “Dĩ nhiên là có,” bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, “Hãy bắt đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện.”

Bà nhìn ông và nói, “Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi.” Ông mỉm cười và nói, “Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm.” Sau đó ông nói thêm vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, “Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương trình của Thiên Chúa.”

Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối không thắc mắc!

Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.

Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp thị đã nói: “Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan trọng là lời hứa.”

Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự trong đời sống chúng ta.

Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa Giêsu.

Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông cố vấn tiếp thị đã nói, “Điều quan trọng là lời hứa.”

Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.
Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;
biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;
biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;
biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;
biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,
ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa
.”

LM Mark Link, SJ

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho 34 vị Tổng Giám Mục chính tòa

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho 34 vị Tổng Giám Mục chính tòa

VATICAN. Sáng 29-6-2013, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ mừng kính Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ và trao dây Pallium cho 34 vị TGM chính tòa.

Dây Pallium là dây làm bằng lông chiên màu trắng, có 6 hình thánh giá màu đen, biểu tượng quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh và sự hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô.

34 vị TGM thuộc 21 quốc tịch, trong đó đông nhất là 4 vị người Mỹ (San Francisco, Indianapolis, Oregon, Dubuque) và 3 vị người Italia; tiếp đến Brazil, Ấn độ và Ba Lan mỗi nước có 2 vị. Trong số các TGM, có 7 vị thuộc các dòng tu: gồm 2 vị dòng Don Bosco, 2 vị dòng Thừa Sai Chúa Thánh Thần, các vị còn lại thuộc dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (S.C.I), dòng Camêlô nhặt phép, và một vị nguyên là Bề trên Tổng Quyền dòng Chúa Cứu Thế, Joseph Tobin, từng làm Tổng thư ký Bộ các dòng tu, và nay là TGM giáo phận Indianapolis, Hoa Kỳ.
Hiện diện trong thánh lễ có 50 HY và hơn 60 GM, cùng với trên 8 ngàn tín hữu. Đặc biệt ở chỗ danh dự có phái đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople do Đức TGM Ioannis Zizioulas hướng dẫn. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn ca đoàn Nhà thờ thánh Tôma ở thành phố Leipzig của Giáo Hội Tin Lành Luther.

Nghi thức trao dây Pallium thật đơn sơ và diễn ra vào đầu thánh lễ. ĐHY Jean Louis Tauran, Trưởng Đẳng Phó Tế, giới thiệu các vị TGM chính tòa lên ĐTC và xin ngài trao dây Pallium cho các vị. ĐHY cũng nhắc đến các vị TGM không thể đến Roma được và xin được nhận dây Pallium này trong giáo phận thuộc quyền, từ vị Đại diện Tòa Thánh. Đây là trường hợp Đức Cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng, TGM chính tòa giáo phận Huế.
Kế đến các TGM tuyên thệ luôn trung thành và vâng phục Thánh Phêrô Tông Đồ, Tòa Thánh, Giáo Hội, ĐTC và các Đấng Kế vị hợp pháp.

Tiếp đến ĐTC làm phép các dây Pallium và lần lượt trao vào cổ của các vị TGM tiến lên quì trước ngài.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào các bài đọc của ngày lễ, ĐTC quảng diễn sứ vụ Phêrô là củng cố các anh em trong đức tin, trong đức mến và trong tình hiệp nhất.

Nhắc đến sự kiện thánh Phêrô tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng ít lâu sau đó, khi Chúa Giêsu báo trước cuộc khổ nạn của Người, thì thánh Phêrô lại theo lối suy tư trần tục, muốn cản trở Người. Và ĐTC nói rằng: ”Khi chúng ta để cho những tư tưởng, tình cảm, tiêu chuẩn quyền bính nhân trần trổi vượt, và khi chúng ta không để cho đức tin, cho Thiên Chúa giáo huấn và hướng dẫn, thì chúng ta trở thành viên đá vấp phạm. Đức tin nơi Chúa Kitô là ánh sáng cho đời sống các tín hữu Kitô và các thừa tác viên của Giáo Hội”.

Về sứ vụ của thánh Phêrô củng cố trong tình hiệp nhất, ĐTC giải thích dây Pallium như biểu tượng tình hiệp nhất với Người Kế Vị Thánh Phêrô, là ”nguyên lý và là nền tảng trường cửu và hữu hình của sự hiệp nhất đức tin và tình hiệp thông, LG 18). Ngài nói với các vị TGM:

”Anh em GM thân mến, sự hiện diện của anh em hôm nay là dấu chỉ tình hiệp thông của Giáo Hội không có nghĩa là sự đồng nhất… Trong Giáo Hội, sự khác biệt là một sự phong phú cao độ, luôn dựa trên sự hòa hợp của hiệp nhất, như một bức tranh khảm lớn trong đó mọi mảnh đều góp phần hợp thành một đại kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Điều này phải thúc đẩy chúng ta luôn khắc phục mọi xung đột làm thương tổn thân mình của Giáo Hội. Hiệp nhất trong sự khác biệt chính là con đường của Chúa Giêsu! Dây Pallium, nếu là dấu chỉ sự hiệp thông với GM Roma, với Giáo Hội hoàn vũ, cũng là một quyết tâm đối với mỗi người anh em trở thành dụng cụ của sự hiệp thông”.

Kinh Truyền Tin

Sau thánh lễ, lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin với khoảng 35 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn, ngài nói đến ”Thánh Phêrô là vị đầu tiên đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Còn Thánh Phaolô đã phổ biến Tin Mừng trong thế giới Hy lạp La Mã. Và Chúa Quan Phòng đã muốn hai vị đến Roma này đổ máu vào vì đức tin. Vì thế, Giáo Hội Roma đã tự nhiên trở thành điểm tham chiếu cho tất cả các Giáo Hội rải rác trên thế giới. Không phải vì quyền lực của Đế Quốc, nhưng do sức mạnh cuộc tử đạo của hai vị, do chứng tá của hai vị về Chúa Kitô. Xét cho cùng, luôn luôn và chỉ có tình yêu của Chúa Kitô sinh ra đức tin và làm cho Giáo Hội tiến bước”.

ĐTC cũng nhắc đến một truyền thống tốt đẹp, đó là sự hiện diện của Phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, có vị bổn mạng là thánh Anrê Tông đồ. ”Tất cả chúng ta hãy gửi lời chào thân ái đến Đức Thượng Phụ Bartolomaios I và cầu nguyện cho Người và Giáo Hội tại Constantinople. ĐTC cũng mời gọi người đọc một kinh Kính Mừng để cầu cho Đức Thượng Phụ.”

Sau khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành, ĐTC xin các tín hữu cầu nguyện cho các vị TGM chính tòa mới nhận dây Pallium, biểu tượng tình hiệp thông. Ngài nói: ”Trong số các vị có Đức TGM Diedonné Nzapalainga, của giáo phận Bangui, thủ đô cộng hòa Trung Phi. Chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho cộng đồng dân chúng ở Trung Phi, bị thử thách cam go, để họ tiến bước trong niềm tin và hy vọng”.

Quốc gia này đã bị tàn phá vì bạo lực do phiến quân Séléka, sau cuộc đảo chánh ngày 24-3 năm nay, đưa thủ lãnh phiến quân là Michel Djotodia lên cầm quyền. Nhiều thánh đường cũng như nhà dân chúng đã bị cướp bóc (SD 29-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái khẳng định sự cấp thiết của sự hiệp nhất các tín hữu Kitô để làm cho chứng tá chung của các tín hữu đáng tin.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 28-6-2013 dành cho phái đoàn của tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, là tòa đứng đầu trong Chính Thống giáo, đến Roma để viếng thăm Tòa Thánh nhân dịp lễ kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, theo một truyền thống từ 44 năm qua (1969).

Phái đoàn do Đức TGM Ioannis Zizioulas của giáo phận Pergamo hướng dẫn. Ngài cũng là Đồng Chủ tịch Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Chính Thống và Công Giáo. Cùng đi với Đức TGM có Đức Cha Sinope Athenagoras, phụ tá Đức TGM Chính Thống giáo tại Bỉ, và Tổng LM Prodromos Xenakis, Phó Tổng thư ký của Thánh Hội đồng giáo phận Chính Thống tại đảo Creta.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Việc tìm kiếm sự hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô là điều ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta không thể tránh né. Trong thế giới chúng ta ngày nay người ta đang khao khát sự thật, tình thương, hy vọng, hòa bình và hiệp nhất, điều quan trọng là, nhờ chính chứng tá của chúng ta, có thể loan báo bằng cùng một tiếng nói Tin Mừng và cùng nhau cử hành các mầu nhiệm thánh của đời sống mới trong Chúa Kitô! Chúng ta biết rằng hiệp nhất trước tiên là một hồng ân của Thiên Chúa mà chúng ta phải không ngừng cầu xin, nhưng tất cả chúng ta cũng có nghĩa vụ phải chuẩn bị những điều kiện, vun trồng môi trường thuận tiện trong tâm hồn, để ân phúc đặc biệt này được đón nhận”.

ĐTC cũng đề cao tầm quan trọng của sự đối thoại thần học giữa Công Giáo và Chính Thống qua Ủy ban quốc tế đối thoại thần học. Ủy ban này đã công bố nhiều văn kiện chung và ngày nay đang cùng nhau suy tư về những đề tài liên quan đến những điểm tương đồng, không quên những điều còn chia cách chúng ta. Ngài nói:

”Tôi cảm thấy được an ủi khi biết rằng các tín hữu Công Giáo và Chính Thống có cùng quan niệm về việc đối thoại: không phải để tìm kiếm những điểm tối thiểu về thần học để đạt tới một thỏa hiệp với nhau, nhưng dựa trên sự đào sâu về chân lý duy nhất mà Chúa Kitô đã ban cho Giáo Hội của Ngài và chúng ta không bao giờ hiểu rõ hơn về những sự đánh động của Chúa Thánh Linh. Vì thế, chúng ta không bao giờ được sự gặp gỡ và đối thoại chân thành”.

ĐTC ám chỉ tới sự kiện nhiều Giáo Hội Tin Lành có quan niệm khác biệt về đối thoại đại kết. Theo họ đối thoại không phải để giải quyết các vấn đề đạo lý, nhưng chỉ tìm điểm chung tối thiểu để gọi là hiệp nhất với nhau.
Sáng thứ bẩy 29-6-2013, Phái đoàn Chính Thống sẽ tham dự thánh lễ kính thánh Phêrô và Phaolô do ĐTC Phanxicô cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô và trao giây Pallium cho 34 vị Tổng GM chính tòa của 21 quốc gia.
Đức TGM Huế, Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng, cũng có tên trong danh sách các vị nhận dây Pallium, nhưng ngài xin nhận giây này tại Huế do Đức TGM Leopoldo Girellia đại diện ĐTC trao. (SD 28-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngày bi thảm cho Hôn Nhân ở Hoa Kỳ

Ngày bi thảm cho Hôn Nhân ở Hoa Kỳ

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ngày 26 tháng 6 đã phán quyết với tỷ lệ 5-4 một phần quan trọng của Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân (DOMA: Defense of Marriage Act) là vi hiến, chính phủ liên bang phải công nhận những "hôn nhân đồng tính" cuả các tiểu bang.

Tư pháp Anthony Kennedy, viết cho đa số như sau: Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân "vi phạm thủ tục cơ bản và nguyên tắc được bảo vệ công bình".

Tòa án nói rằng phần 3 của DOMA, định nghĩa hôn nhân như sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, vi phạm sự bảo đảm bình đẳng của Hiến pháp Hoa Kỳ.

"Hiệu lực thực tế của bộ luật này là áp đặt một bất lợi, một tình trạng phân biệt đối xử, và do đó, một sự kỳ thị trên tất cả những ai tham gia vào những cuộc hôn nhân đồng tính được hợp pháp hoá bởi quyền lực không thể tranh cãi cuả các Tiểu Bang HK".

Tư Pháp Antonin Scalia, đại diện cho thiểu số bất đồng, đã bác bỏ giả định của phe đa số là bộ luật có mục đích "chê bai", "làm tổn thương", "xuống cấp", "hạ thấp" và "làm nhục" cá nhân đồng tính.

Thay vào đó, ông giải thích, DOMA "chỉ làm một việc là hệ thống hóa một khía cạnh của hôn nhân mà xã hội của chúng ta chưa từng bao giờ đặt câu hỏi trong hầu hết lịch sử của nó – Thực ra, hầu như tất cả các xã hội trong tất cả lịch sử nhân loại cũng đã không bao giờ đặt câu hỏi như thế"

"Nếu một xã hội muốn có thay đổi thì đó là một điều," ông nói, "nhưng lại là một điều khác khi mà một tòa án dùng pháp luật để áp dụng thay đổi" bằng cách tuyên bố những người chống đối (hôn nhân đồng tính) là "kẻ thù của nhân loại."

Những người phản đối "hôn nhân đồng tính" đã lên tiếng lo ngại về quyền tự do tôn giáo nếu hôn nhân được định nghĩa lại.

ở các tiểu bang công nhận "hôn nhân đồng tính," các cơ sở bác ái xã hội cuả Công Giáo đã bị buộc phải đóng cửa vì chỉ đặt con nuôi cho một gia đình có một người mẹ và một người cha. Các cơ quan phi lợi nhuận và chủ doanh nghiệp tư nhân cũng đã phải đối mặt với nhiều áp lực và các vụ kiện buộc họ phải công nhận hôn nhân đồng tính, đi ngược với với niềm tin tôn giáo của họ.

Hậu quả cuả phán quyết về hôn nhân này sẽ có những tác động sâu rộng, vì luật DOMA có ảnh hưởng đến hơn 1.000 luật của liên bang và cả một khối to lớn cuả các quy định liên bang khác.

Cùng ngày, Tòa án tối cao cũng bác bỏ đơn kháng cáo bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California (California’s Proposition 8)

Nhắc lại sau khi một tòa án California phán quyết rằng "hôn nhân đồng tính" phải được công nhận trong tiểu bang, những người bảo vệ hôn nhân đã phát động một chiến dịch sửa đổi hiến pháp để công nhận hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ.

Trưng Cầu Dân Ý số 8 đã được phê duyệt bởi cử tri nhưng nhanh chóng bị thách thức tại tòa án. Một tòa cấp dưới đã phán quyết rằng các đề xuất là không hợp hiến, và trường hợp được kháng cáo lên toà trên.

Tòa án tối cao đã bác bỏ kháng cáo dựa trên cơ sở kỹ thuật chứ không phải là trên cơ sở giá trị, có nghĩa là phán quyết của tòa cấp dưới bãi bỏ Trưng Cầu Dân Ý số 8 vẫn có hiệu lực. Nói cách khác vấn đề 'hôn nhân đồng tính' sẽ được đấu lại tại California.

Theo phán quyết này, các tiểu bang có thể chọn định nghĩa hôn nhân cho phù hợp với mình. Về các tiểu bang hợp pháp hóa "hôn nhân đồng tính" thì chính phủ liên bang phải công nhận giá thú cuả họ. Hiện nay, chỉ có 12 tiểu bang và District of Columbia công nhận "hôn nhân đồng tính".

Hội Đồng Giám Mục HK, Đức Hồng Y Timothy Dolan của New York, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ, và Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco, Chủ tịch Tiểu ban khuyến khích và bảo vệ hôn nhân, đã nhanh chóng ra một tuyên bố về phán quyết cuả Tối Cao Pháp Viện là một “Ngày bi thảm cho Hôn Nhân và cuả Quốc Gia"
 
Lời tuyên bố như sau.

"Hôm nay là một ngày bi thảm cho hôn nhân và cuả đất nước chúng ta. Tòa án Tối cao đã thực hiện một sự bất công sâu sắc cho người dân Mỹ bằng cách bác bỏ một phần của bộ luật Bảo Vệ Hôn Nhân cuả Liên Bang. Tòa án đã làm sai. Chính phủ liên bang phải tôn trọng sự thật rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, ngay cả khi các tiểu bang không làm như vậy. Việc bảo tồn tự do và công lý đòi hỏi tất cả các luật lệ, dù là cuả liên bang hay tiểu bang, phải tôn trọng sự thật, kể cả sự thật về hôn nhân. Cũng là bất hạnh khi mà Tòa án đã không nắm lấy cơ hội để bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California mà thay vào đó quyết định không đưa ra phán quyết nào về vấn đề này. Lợi ích chung của tất cả mọi người, đặc biệt là cuả các con em cuả chúng ta, phụ thuộc vào một xã hội có sự cương quyết để duy trì sự thật về hôn nhân. Bây giờ là thời gian để nỗ lực hơn nữa trong việc làm chứng cho sự thật này. Những quyết định này là một phần của một cuộc tranh luận chung có những hậu quả nghiêm trọng. Tương lai của hôn nhân và hạnh phúc của xã hội chúng ta đang bị treo trên một sợi dây đu.

"Hôn nhân là định chế duy nhất, kết hợp một người nam và một người nữ trong cuộc sống, cung cấp một nền tảng vững chắc là Có Cha Có Mẹ cho mọi đứa trẻ sinh ra từ sự kết hợp của họ.

"Nền Văn hóa của chúng ta đã quá lâu khinh thường những gì đã được xác nhận qua bản chất cuả con người, kinh nghiệm, sự hợp lẽ, và qua sự thiết kế khôn ngoan của Thiên Chúa: đó là sự khác biệt giữa một người nam và một người nữ là quan trọng, và sự khác biệt giữa một người mẹ và một người cha cũng là quan trọng. Trong khi văn hóa thất bại nhiều trong việc tăng cường hôn nhân, nhưng điều này không phải là lý do để từ bỏ hôn nhân. Bây giờ phải là thời gian để củng cố hôn nhân thêm lên, không phải là lúc để tái định nghiã nó.

"Khi Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của hôn nhân – là suốt đời, là sự kết hợp một vợ một chồng – Chuá đã nhắc lại rằng sự sáng tạo ra con người của Thiên Chúa ngay từ "thuở ban đầu" là có nam có nữ (x. Mt 19). Khi đương đầu với phong tục và pháp luật của thời đó, Chúa Giêsu đã dạy một chân lý phổ biến mà mọi người có thể hiểu được. Sự thật của hôn nhân sẽ tồn tại, và chúng tôi sẽ tiếp tục mạnh dạn tuyên bố với sự tự tin và với lòng từ thiện.

"Bây giờ thì Tòa án tối cao đã ban hành quyết định rồi, với một quyết tâm mới chúng tôi kêu gọi tất cả các nhà lãnh đạo và tất cả mọi người dân của đất nước tốt đẹp này hãy đứng lên để chung nhau kiên định việc thúc đẩy và bảo vệ ý nghĩa độc đáo của hôn nhân: một người nam, một người nữ, cho sự sống. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho việc xét lại quyết định của Tòa án và những hậu quả được giải thích rõ ràng thêm."

Trần Mạnh Trác (Vietcatholic)

Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa

Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa

Giáo Hội là ”nhà của Thiên Chúa”, là đền thờ tinh thần mà chính Chúa Kitô Đền Thờ sống động của Thiên Chúa Cha, xây dựng, trong đó có Chúa Thánh Thần ở, linh hoạt, hướng đẫn và nâng đỡ, và chúng ta là các viên đá sống động.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên với 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 26-6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển hình ảnh cuối cùng giúp minh giải mầu nhiệm của Giáo Hội: đó là hình ảnh Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa (LG, 6). Ngài nói: Từ đền thờ khiến chúng ta nghĩ tới một dinh thự, một việc xây cất. Một cách đặc biệt tâm trí của nhiều người trở về với lịch sử của Dân Israel được kể trong Thánh Kinh Cựu Ước. Tại Giêrusalem Đền Thờ của vua Salomon đã là nơi găp gỡ với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện: bên trong Đền Thờ có Hòm Bia Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người; và trong Hòm Bia Giao Ước có các Bảng Lề Luật, có Bánh Manna và cây gậy của ông Aharon: một nhắc nhớ tới sự kiện Thiên Chúa đã luôn luôn ở trong lịch sử của dân Người, đồng hành với họ trên đường và hướng dẫn bước chân họ. Đền Thờ nhắc nhớ lịch sử này.

Cả chúng ta nữa khi chúng ta đến Đền Thờ chúng ta cũng phải nhớ tới lịch sử này, lịch sử của tôi, của mỗi người trong chúng ta, lịch sử của chúng ta, như Chúa Giêsu đã gặp gỡ tôi, như Chúa Giêsu đã đồng hành với tôi, như Chúa Giêsu yêu thương tôi và chúc lành cho tôi.

Đây, điều đã được hình dung trước trong Đền Thờ xưa kia đã được thực hiện bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: Giáo Hội là ”nhà của Thiên Chúa”, là nơi Người hiện diện, là nơi chúng ta có thể tìm thấy Chúa và gặp gỡ Chúa. Giáo Hội là Đền Thờ trong đó có Chúa Thánh Thần ở, Người là Đấng linh hoạt, hướng dẫn và đỡ nâng Giáo Hội. Nếu chúng ta tự hỏi chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở đâu? Chúng ta có thể bước vào sự hiệp thông với Người qua Chúa Kitô ở đâu? Chúng ta có thể tìm thấy ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi sáng cuộc sống chúng ta ở đâu? Câu trả lời là: trong dân của Thiên Chúa, giữa chúng ta, chúng ta là Giáo Hội. Giữa chúng ta, trong dân của Thiên Chúa và Giáo Hội, trong đó chúng ta gặp Chúa Thánh Thần, chúng ta gặp Thiên Chúa Cha.

Đền thờ xưa kia đã do tay con người làm ra: người ta muốn cho Thiên Chúa ”một ngôi nhà” để có một dấu chỉ hữu hình sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Với sự Nhập Thể của Con Thiên Chúa, lời tiên tri ngôn sứ Nathan nói với Vua Đavít (x. 2 Sm 7,1-19) được thành toàn: không phải nhà vua, không phải chúng ta ”cho Thiên Chúa một ngôi nhà”, nhưng chính Thiên Chúa ”xây nhà của Người” để đến ở giữa chúng ta, như thánh Gioan viết trong phần dẫn nhập Phúc âm (x. Ga 1,14). Chúa Kitô là Đền Thờ sống động của Thiên Chúa Cha, và chính Chúa Kitô xây ”ngôi nhà tinh thần của Người”, là Giáo Hội, được làm không phải bằng các viên đá vật chất, mà bằng các ”viên đá sống động” là chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô nói với các tín hữu Êphêxô rằng: anh em ”đã được xây trên nền tảng của các tông đồ và các ngôn sứ, có cùng ”đá tảng góc tường là chính Chúa Kitô Giêsu. Trong Người toàn công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Ep 2,20-22). Điều này thật là đẹp! Chúng ta là các viên đá sống động trong ngôi nhà của Thiên Chúa, hiệp nhất một cách sâu đậm với Chúa Kitô là dá tảng nâng đỡ và cũng là sự nâng đỡ giữa chúng ta với nhau, phải không? Và điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa chúng ta là Đền Thờ, là Giáo Hội, nhưng chúng ta là Giáo Hội sống động, chúng ta là Đền Thờ sống động, và trong chúng ta khi chúng ta hiệp nhất cùng nhau, thì có Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta lớn lên như là Giáo Hội. Chúng ta không cô đơn, chúng ta là dân của Thiên Chúa và Đức Thánh Cha chỉ mọi người hiện diện và nói: đây là Giáo Hội, dân của Thiên Chúa.

Rồi Đức Thánh Cha nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần như sau:

Và Chúa Thánh Thần với các ơn của Người chỉ định sự khác biệt: điều này quan trọng. Thế Chúa Thánh Thần làm gì giữa chúng ta? Người chỉ định sự khác biệt, sự khác biệt là sự phong phú trong Giáo Hội và hiệp nhất tất cả và mọi người, để xây nên một ngôi đền tinh thần, trong đó chúng ta không dâng lên các lễ tế vật chất, mà dâng lên chính chúng ta, cuộc sống của chúng ta (x. 1 Pr 2,4-5). Giáo Hội không phải là một giao thoa của các sự vật và các lợi lộc, mà là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, Đền Thờ trong đó Thiên Chúa hoạt động, Đền Thờ trong đó với ơn bí tích Rửa Tội, mỗi một người trong chúng ta là viên đá sống động. Điều này nói với chúng ta rằng không có ai là vô ích trong Giáo Hội cả. Nếu có người tình cờ nói tới ai đó rằng: ”Thôi về nhà đi, bạn là một người vô ích”. Điều này không thật đâu! Không có ai vô ích trong Giáo Hội cả: Tất cả chúng ta đều cần thiết để xây dựng Đền Thờ này. Không có ai là phụ thuộc cả! ”Ô tôi là người quan trọng nhất trong Giáo Hội!” Không. Tất cả chúng ta đều bằng nhau trước mắt Thiên Chúa, tất cả, tất cả. Nhưng mà một ai đó trong anh chị em có thể nói: ”Nhưng mà xin Đức Thánh Cha nghe đây, Đức Thánh Cha đâu có ngàng hàng với chúng con được!” Có chứ, tôi cũng như mọi người trong anh chị em thôi, chúng ta tất cả đều bằng nhau, chúng ta tất cả là anh em với nhau! Không có ai là vô danh cả. Tất cả chủng ta làm thành và xây dựng Giáo Hội. Điều này cũng mời gọi chúng ta suy tư về sự kiện nếu thiếu viên đá cuộc sống kitô của chúng ta, thì thiếu một cái gì đó cho vẻ đẹp của Giáo Hội.

Và vài người cũng có thể nói: ”A, tôi với Giáo Hội à không, tôi không ăn nhập gì tới Giáo Hội cả!” Nhưng mà thiếu viên đá đời bạn trong ngôi Đền Thờ xinh đẹp này! Không ai có thể bỏ đi được, phải không? Tất cả chúng ta đều phải đem đến cho Giáo Hội cuộc sống, con tim, tình yêu tư tưởng công việc làm… Tất cả cùng nhau!

Kết luận bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nêu lên câu hỏi sau đây:

Chúng ta sống sự kiện là Giáo Hội của chúng ta như thế nào? Chúng ta có là các viên đá sống động hay chúng ta là các viên đá mỏi mệt, chán nản, thờ ơ? Mà anh chị em có thấy một kitô hữu mệt mỏi, chán nản, thờ ơ là điều xấu xa không? Một kitô hữu như thế thất là xấu. Không được như vậy! Kitô hữu phải sinh động tươi vui là tín hữu kitô! Phải sống vẻ đẹp là thành phần dân của Thiên Chúa, là Giáo Hội. Vậy chúng ta có rộng mở cho hoạt động của Chúa Thánh Thần để là thành phần tích cực trong các cộng đoàn của chúng ta hay không, hay chúng ta khép kín trong chính mình và nói: ”Tôi có biết bao nhiêu điều phải làm, đó không phải là nhiệm vụ của tôi làm điều này điều nọ?” Đừng khép kín trong chính mình.

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn của Người, sức mạnh của Người để chúng ta có thể hiệp nhất một cách sâu xa với Chúa Kitô, là đá góc, là cột trụ, là đá đỡ nâng cuộc sống chúng ta và toàn cuộc sống của Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu nguyện để được linh hoạt bởi Thần Khí của Người. Chúng ta luôn là các viên đá sống động của Giáo Hội.

Sau khi chào nhiều phái đoàn tín hữu và chúc họ có những ngày hành hương Roma tươi vui và được nhiều ơn ích, Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha cũng đã để ra gần một giờ đồng hồ để chào một số Hồng Y Giám Mục tham dự buổi tiếp kiến cũng như tín hữu đứng hai bên khán đài, các cặp vợ chồng mới cưới và đặc biệt là các người tàn tật ngồi trên xe lăn. Hôm qua có nhiều em bé khi được Đức Thánh Cha hôn, cứ ôm chặt và không muốn rời cổ ngài nữa. Tín hữu tặng Đức Thánh Cha đủ thứ. Các em bé thì tặng hình chúng vẽ, cầu thủ các đội banh thì tặng Đức Thánh Cha áo của họ. Nhiều người đem các ảnh tượng, kể cả chén thánh để xin Đức Thánh Cha làm phép. Ngài dừng lại lắng nghe và nói chuyện lâu với một số người và không bao giờ tỏ ra vội vã. Đây là điểm đã thu hút tín hữu rất mạnh.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thêm một tù nhân (Thanh niên Công Giáo) lương tâm tuyệt thực trong tù

Thêm một tù nhân (Thanh niên Công Giáo) lương tâm tuyệt thực trong tù

Hiện tù nhân thanh niên Công giáo Paul Trần Minh Nhật đang tuyệt thực tại trại giam Nghi Kim ở Nghệ An và luật sư Lê Quốc Quân tịch cốc trong Trại giam Số 1 ở Hà Nội.

Paul Tran Minh

Phản đối hành xử hà khắc

Biện pháp tuyệt thực lại được một tù nhân lương tâm tại Việt Nam thực hiện là thanh niên Công giáo Paul Trần Minh Nhật. Anh là người bị tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An hồi ngày 9 tháng giêng năm nay kết án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế cùng với 13 người khác trong cùng vụ việc theo điều 79 Bộ luật hình sự về tội danh âm mưu hay có hành động nhằm lật đổ chính quyền hiện nay.

Phiên phúc thẩm hôm ngày 23 tháng 5 y án đối với Paul Trần Minh Nhật vì anh này tiếp tục không nhận tội về những hoạt động xã hội mà bản thân anh tham gia cho đến khi bị bắt.

Trong trại giam Nghi Kim ở Nghệ An, anh này tiếp tục đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi căn bản cho bản thân. Do bị đối xử quá hà khắc từ ngày 21 tháng 6 vừa qua anh này bắt đầu tuyệt thực.

Chị Nguyễn thị Kim Chi, một người em dâu của anh Nguyễn Đình Cương, người cũng bị kết án chung cùng Trần Minh Nhật trong vụ án vừa nêu cho biết cơ hội mà chị này có thông tin việc Paul Nguyễn Minh Nhật tuyệt thực trong nhà giam:

Trại Nghi Kim tuy là nhà giam nhưng sát nhà dân; có người nhắn tôi ra nói chuyện về việc anh ( Cương) bị công an kỷ luật chuyển sang phòng khác trong ba ngày. Nhân dịp đó có anh ở phòng cùng dãy nhưng ở phòng cuối hét lên để nói chuyện. Ngày đầu hét lên hỏi thì anh Nhật nói sức khỏe bình thường; ngày thứ hai tức 21 tháng 6 hét lên anh nói là nhịn ăn; nhưng tôi không hỏi lý do. Ngày thứ ba, tức ngày 22, anh Nhật hét lên nói lý do nhịn ăn để phản đối chế độ nhà tù. Vì ở Nghệ An hiện nay thời tiết rất nóng lên đến 40 độ C không chịu được, tiếp đến là việc không cho đưa sách vào, tiếp nữa là để đòi lại nhân phẩm cho những người trong tù.

Chị Nguyễn thị Kim Chi đã thông tin cho gia đình anh Paul Trần Minh Nhật biết về việc Paul Trần Minh Nhật quyết định tuyệt thực. Người anh trai Trần Khắc Đạt của người tuyệt thực cho biết việc đi thăm hồi ngày 10 tháng 6 vừa qua và được người em cho biết ý định sử dụng biện pháp tuyệt thực để đấu tranh lại sự hà khắc của trại giam:

Khi tôi đi gửi đồ thì Nhật có dặn tôi gửi cho một ít sách ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp và một số sách tham  khảo, tự điển cũng như một số sách gương các Thánh như Gioan Phao lô 2, Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận… Tôi nói chắc trại giam không cho đâu; Nhật nói anh cứ gửi đi; nếu chừng nào họ không cho thì làm biên bản, em có cách. Tôi hỏi cách gì vì trong trại giam vì mọi quyền hạn của người ta. Nhật nói anh cứ yên tâm; nếu đến lúc đòi mà không có em sẽ tuyệt thực. Sau tôi hỏi thì  họ nói không cho gửi sách vở gì ngoài báo Tiền Phong, Công An của họ.

Vì nay không nhận được những sách theo yêu cầu cộng với những hà khắc của trại giam nữa, em tin chắc Nhật tuyệt thực theo điều báo trước như thế.

Trong thời gian vừa qua nhiều người trong và ngoài nước đều rất quan tâm đến vụ tuyệt thực của triến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ ở trại giam số 5, Yên Định, tỉnh Thanh Hóa từ ngày 27 tháng 5 cho đến ngày 21 tháng 6 vừa qua để đòi hỏi cán bộ trại giam phải trả lời đơn thư tố cáo của bản thân ông. Khi nguyện vọng của ông bước đầu được đáp ứng, ông đã ngưng tuyệt thực.

Tịch cốc cám ơn mọi người

Trước ông, thì một số tù nhân khác cũng từng tuyệt thực để phản đối những điều bất hợp lý quá đáng của nhà tù. Một trường hợp đáng chú ý là của luật sư Lê Quốc Quân từ hôm bị bắt giam hồi ngày 27 tháng 12 năm ngoái cũng tuyệt thực suốt 15 ngày sau đó.

Nay sắp đến ngày bị đưa ra xét xử, ông quyết định tịch cốc, tức không ăn, chỉ uống nước. Mục đích không phải để phản đối nhà tù mà là để cám ơn tất cả những người đã ủng hộ ông bên ngoài. Người em của ông là anh Lê Quốc Quyết cho biết thông tin này như sau:

Khi luật sư vào thăm anh, anh nhắn ra từ ngày 23 tháng 6 anh sẽ tịch cốc; đến ngày 30 tháng 6 sẽ ăn lại để đến ngày 9 tháng 7 ra tòa. Anh nói mục đích tịch cốc nhằm tri ân những ai quan tâm và cầu nguyện cho anh trong thời gian qua cũng như sắp tới. Còn đây không phải tuyệt thực như lần trước để ra yêu sách phản đối việc bắt giữ tùy tiện và không cho anh nhận Kinh Thánh nên tuyệt thực.

Anh Lê Quốc Quyết cũng thông tin thêm về điều mà gia đình anh này cho rằng qua đó chứng tỏ sự phân biệt đối xử của trại giam đối với người bị giam Lê Quốc Quân:

Một điều mà gia đình mới biết gần đây là từ khi bị bắt đến bây giờ, anh Quân vẫn bị phân biệt đối xử- không có đủ nước sạch để uống. Nước trong trại giam bẩn lắm, tắm bị ghẻ đầy người, nên không thể dùng nước đó để uống, mà cũng không có nước đun sôi nên phải gửi nước suối ở ngoài vào. Đối với anh Quân mỗi tuần chỉ nhận được 10 chai nước suối nhỏ; trong khi những người khác gia đình gửi vào bao nhiêu cũng được nhận.

‘Thiên biến, vạn biến’ của người tù

Gia đình luật sư Lê Quốc Quân cho biết chỉ trong diện tích 60 mét vuông nhưng số người bị nhốt chung nhau khá đông; tuy vậy luật sư Lê Quốc Quân tìm cách ứng xử tích cực trong tình cảnh nghiệt ngã như thế. Anh Lê Quốc Quyết cho biết:

Luật sư được vào nhiều nên thông tin ra ngoài cũng đều đặn. Ngoài chuyện bị phân biệt đối xử, anh còn cho biết trong trại giam anh khá bận bịu, anh dạy tiếng Anh cho mọi người và làm thơ. Trước anh thấy buồng giam 60 mét vuông mà nhốt bốn mươi mấy người, anh thấy chật quá; nhưng nay đông người như thế nên có nhiều việc cho anh ấy làm.

Chế độ nhà tù của Việt Nam hiện nay được các cựu tù nhân lương tâm lên tiếng tố cáo sau khi họ được ra khỏi trại giam. Theo họ thì mục tiêu là nhằm triệt hạ những con người dám công khai có những chính kiến khác với quan điểm của nhà nước hay dám chống lại Nhà nước. Dù có người chết rũ tù; tuy nhiên vẫn tiếp tục có những người kiên định và sử dụng mọi biện pháp như tuyệt thực để đòi hỏi quyền chính đáng dành cho con người dù họ là tù nhân.

Gia Minh RFA Bangkok

Đức Thánh Cha tái khẳng định tình thân hữu với Do thái giáo

Đức Thánh Cha tái khẳng định tình thân hữu với Do thái giáo

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái khẳng định quan hệ thân hữu giữa Giáo Hội Công Giáo và Do thái giáo, đồng thời cầu mong hai bên cộng tác với nhau để bênh vực phẩm giá con người.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 24 tháng 6-2013 dành cho Ủy ban Do thái Quốc tế đối thoại liên tôn. Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh liên lạc với Do thái giáo.

ĐTC nhắc đến cuộc đối thoại đều đặn từ 40 năm nay giữa Giáo Hội Công Giáo và Do thái giáo, đồng thời ngài tái khẳng định giáo huấn của Công đồng chung Vatican 2, trong tuyên ngôn ”Nostra Aetate” đoạn số 4 về quan hệ với Do thái giáo, và trong đó Công đồng mạnh mẽ lên án sự oán ghét, bách hại và mọi hình thức bài Do Thái. Ngài nói: ”Do căn cội chung của chúng ta, một Kitô hữu không thể là người bài Do thái”.

ĐTC nhắc lại những quan hệ thân hữu chân thành của ngài với các vị lãnh đạo Do thái ở Buenos Aires, Argentina khi còn làm TGM tại đây: 'Chúng tôi thường nói chuyện về căn tính tôn giáo của nhau, hình ảnh con người chứa đựng trong Kinh Thánh, những cách thức để làm cho cảm thức về Thiên Chúa được luôn sinh động trong một thế giới bị tục hóa về nhiều phương diện. Chúng tôi cũng trao đổi trong nhiều dịp về những thách đố chung đang chờ đợi các tín hữu Kitô và Do thái”.

Và ĐTC nói với Ủy ban Do thái quốc tế rằng: ”Tôi khích lệ các bạn tiếp tục hành trình, tìm cách đưa các thế hệ trẻ tham gia vào tiến trình này. Nhân loại đang cần chứng tá chung của chúng ta bênh vực phẩm giá con người, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, và bênh vực hòa bình, cũng là hồng ân của Chúa.

Chủ tịch Liên hiệp các cộng đoàn Do thái Italia (UCEI), ông Renzo Gattegna, nói rằng những lời của ĐGH Phanxicô hôm nay về nạn bài Do thái chứng tỏ 'sự củng cố tiến trình đã khởi sự cách đây 50 năm với việc công bố Tuyên ngôn Nostra Aatate và với những kết quả rất quan trọng trong việc đối thoại và cảm thông nhau giữa các dân tộc” (SD 24-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

HÃY CAN ĐẢM ĐI NGƯỢC DÒNG ĐỜI

HÃY CAN ĐẢM ĐI NGƯỢC DÒNG ĐỜI

VATICAN. Hôm qua, ngày 23 tháng 06, dầu trời nắng nóng nhưng rất nhiều tín hữu và khách hành hương đã tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với ĐTC Phanxicô. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc Kinh Truyền Tin, diễn giải ý nghĩa của bài Tin Mừng Chúa Nhật XII năm C, Đức Thánh Cha khích lệ các Kitô hữu hãy can đảm đi ngược dòng đời để làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài. Đức Thánh Cha nói:

“Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay vang vọng một lời sâu sắc nhất của Chúa Giêsu: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24).

Đây là một lời tóm kết sứ điệp của Chúa Kitô, và là một lối diễn tả đầy nghịch lý gây ấn tượng sâu sắc, giúp chúng ta hiểu cách nói của Ngài, và gần như giúp chúng ta cảm nhận được giọng nói của Ngài… Nhưng “đánh mất mạng sống vì Đức Kitô” nghĩa là gì? Điều này có thể xảy ra trong hai cách: bằng cách tuyên xưng đức tin một cách minh nhiên, hay ngang qua việc bảo vệ chân lý một cách mặc nhiên. Các vị tử đạo là những mẫu gương tuyệt vời nhất về việc liều mất mạng sống vì Đức Kitô. Trong hai ngàn năm qua, có biết bao nhiêu người nam và nữ đã hy sinh mạng sống vì sự trung tín với Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Và hôm nay, tại nhiều nơi trên thế giới, có rất nhiều, rất nhiều – nhiều hơn những thế kỷ trước – các vị tử đạo, những người trao ban chính mạng sống mình vì Đức Kitô. Họ chấp nhận cái chết để không phải khước từ Đức Kitô. Đây chính là Giáo hội của chúng ta. Hôm nay, chúng ta có nhiều vị tử đạo hơn những thế kỷ trước.

Thế nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều vị tử đạo trong đời sống thường ngày. Họ không chết nhưng đã “liều mất mạng sống” vì Đức Kitô ngang qua việc vuông tròn những trách vụ với tình yêu, theo luận lý của Đức Giêsu, luận lý của quà tặng và của sự thánh hiến. Chúng ta nghĩ về biết bao nhiêu người cha người mẹ đã thực hành đức tin của mình bằng cách dâng hiến đời sống mình một cách cụ thể vì lợi ích của gia đình trong đời sống thường ngày! Có biết bao nhiêu linh mục, nam nữ tu sĩ đã quảng đại dấn thân cho nước Thiên Chúa trong công việc phục vụ của mình! Có biết bao nhiêu người trẻ dám từ bỏ niềm vui riêng để dâng hiến cho trẻ em, người tàn tật và già cả… Đây cũng là những vị tử đạo, tử đạo trong đời sống thường ngày, tử đạo mỗi ngày.

Và rồi cũng có biết bao nhiêu người, Kitô hữu cũng như không phải Kitô hữu, đã “liều mất mạng sống mình” vì chân lý. Và Đức Kitô đã nói rằng “tôi là chân lý”, vì thế, ai phục vụ chân lý, chính là phục vụ Đức Kitô.”

Ngày mai, 24 tháng 6, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, vì thế Đức Thánh Cha nhắc nhở các tín hữu về mẫu gương sống động của thánh Gioan Tẩy Giả trong việc dâng hiến mạng sống mình cho Thiên Chúa và Tin mừng của Ngài. Ngài nói:

“Một trong những vị đã trao ban mạng sống mình vì chân lý chính là Gioan Tẩy Giả, vị thánh mà ngày mai, 24 tháng 6, chúng ta sẽ long trọng mừng việc sinh hạ của ngài, thánh lễ lớn nhất của ngài. Thiên Chúa đã chọn thánh Gioan để chuẩn bị con đường cho Đức Kitô và để chỉ cho dân Israel biết Ngài là Đấng Mêsia, là Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian (Ga 1,29). Thánh Gioan đã dâng hiến trọn vẹn chính mình cho Thiên Chúa và cho Đấng được Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu. Nhưng cuối cùng điều gì đã xảy ra? Ngài đã chết vì chân lý, khi tố cáo tội ngoại tình của Hêrôđê và Hêrôđia. Có biết bao nhiêu người đã trả giá đắt vì dám dấn thân cho chân lý! Biết bao nhiêu người công chính muốn đi ngược dòng đời, để không phải khước từ tiếng nói của lương tâm và tiếng nói của chân lý! Những người công chính không sợ đi ngược dòng! Và chúng ta không phải sợ hãi, và giữa các con, là những người trẻ, cha muốn nhắn nhủ rằng: Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà những giá trị được bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu, muốn cướp mất hy vọng của chúng ta, những giá trị được ví như những bữa ăn, khi bữa ăn không lành mạnh, nó sẽ làm hại chúng ta; những giá trị này làm hại chúng ta. Nhưng chúng ta phải đi ngược dòng đời! Và các con, các bạn trẻ, các con phải là người đi tiên phong: “hãy đi ngược dòng đời và hãy lấy làm hãnh diện khi đi ngược dòng đời như vậy. Hãy tiến lên, các con hãy can đảm và hãy đi ngược dòng đời. Các con hãy hãnh diện về điều này.

Anh chị em thân mến, chúng ta đón nhận lời này của Chúa Giêsu với niềm vui. Đó là một quy tắc sống dành cho tất cả mọi người. Và Thánh Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta đem lời này ra thực hành. Và trên con đường này, mẹ Maria, Mẹ Rất Thánh, đã đi trước chúng ta, luôn luôn là vậy! Mẹ đã đánh mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu đến tận Thập giá, và Mẹ đã lãnh nhận sự sống trong sự trọn vẹn của nó với tất cả ánh sáng và vẻ đẹp của Đấng Phục Sinh. Xin Mẹ giúp chúng ta biết nỗ lực hết mình trong việc sống luận lý của Tin Mừng.”

Sau khi đọc Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha một lần nữa nhắn nhủ mọi người, đặc biệt các bạn trẻ hãy can đảm đi ngược dòng đời.

Anh chị em hãy nhớ kỹ: Đừng sợ hãi khi đi ngược dòng đời! Hãy can đảm! Và như vậy, chúng ta không muốn ăn một thức ăn không tốt, thì chúng ta cũng không muốn mang lấy những giá trị xấu, những giá trị hủy hoại sự sống và đánh cắp niềm hy vọng.” “Hãy tiến lên”!

Cuối cùng, Đức Thánh Cha chào mừng toàn thể các gia đình, các giáo xứ đến, các hội đoàn, trường học và toàn thể mọi người hiện diện.

Nguyễn Minh Triệu sj

Người có đạo

Người có đạo

Bài Tin Mừng hôm nay Lc 9,18-24, sau khi Chúa Giê-su hỏi “Người ta bảo Thầy là ai?”, Chúa lại hỏi: “Các con bảo Thầy là ai”… Và Thánh Phê-rô đã trả lời: “Thầy là Đức Ki-tô của Thiên Chúa”.

Khi tuyên tín như thế, hẳn là ông Phê-rô chưa hiểu nhiều về sứ mạng của Đấng Messia, Đấng được Xức Dầu, gọi là Ki-tô. Vì thế Chúa đã giải thích thêm về “Đức Ki-tô của Thiên Chúa” rằng: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba  sẽ sống lại.

Chúa Giê-su còn công khai nói với mọi người rắng : Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình.

Như vậy, khi tuyên tín vào Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là phải mặc lấy Đức Ki-tô, sống như Ngài đã sống, suy nghĩ như ngài đã suy nghĩ, yêu như ngài đã yêu, và chấp nhận con đường khiêm hạ, từ bỏ, công chính, hiến thân, phục vụ, chết và sống lại, rồi cùng Ngài về trời. Nói cách khác là : phải nên đồng hình đồng dạng với Ngài, thì lời tuyên tín kia mới là lời tuyên tín giá trị.

Chúa cũng đã hỏi ông bà chúng ta câu này. Và cách nào đó, ông bà đã trả lời “Chúa Giê-su là Đạo của chúng con”,  “Chúng con là kẻ có đạo”.

Chỗ tôi, trải qua 20 năm, 1975-1995, bà con nghèo khổ quá, bởi lúa bắp khoai chỉ được một vụ trong năm. Năm nào có mưa khá, thì còn có cái thu hoạch. Năm nào ít mưa là coi như công toi. Không có tiền để lo cho con cái, nhiều cha mẹ đành đi vay mượn, rồi chờ đến mùa lúa thì đong lúa cho người ta. Thế mới có chuyện “bán lúa non” mà “không có lúa già để trả!” Đành mắc nợ triền miên. Người mua lúa non, đong lúa già cũng phải kiếm cho mình phần lợi, nên không thiếu cảnh đong lúa mà người “bán lúa non” xót xa rơi lệ. Họ sàng sảy năm lần bảy lượt để chỉ lấy những hạt lúa chắc. Không một hạt lép nào có thể chen vào lẫm lúa họ. Người bán lúa non đành phải hốt đống lúa lép về mà sàng sảy lại để kiếm những hạt lúa đưng mà phơi, giả, nấu cháo cho con. Trong xóm tôi chỉ có một người mua lúa non tốt bụng. Đó là ông bà A. Ông luôn dặn bà: “Đừng mua quá rẻ của người ta. Người ta trả sao lấy vậy. Mình là người có đạo đó, nghe bà”.

Tôi vẫn nghĩ rằng câu nói “Mình là người có đạo” của ông bà ta xưa, tuy rất đơn sơ mộc mạc, nhưng lại là một ý thức cơ bản, một đức tin sống động, một kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin nơi dương thế.

Một ý thức cơ bản: “Mình là người có đạo”. Ngữ “người có đạo” lúc ấy dành cho người công giáo, cho các Kitô hữu, để phân biệt với từ “người lương” dành cho những người theo các đạo khác, và hiểu chữ lương là lương thiện. Tôi còn nhớ trong sách bổn ngày xưa có câu: “Có một đạo rất chính rất thật ấy là Đạo Thánh Đức Chúa Trời”. Và khi sử dụng từ “mình là người có đạo” cho một người và “mình con nhà có đạo” cho cả dòng họ, thì hiểu là: “Mình đã được rửa tội, là Ki-tô hữu, là người Công Giáo, thuộc dòng dõi của Chúa Giê-su Ki-tô, của Con Thiên Chúa và nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, được ơn gọi là nghĩa tử của Thiên Chúa”. Ý thức ấy vốn là ý thức cơ bản nhất của một “người có đạo”. Và chính ý thức ấy đã hướng dẫn, chỉ đạo mọi tư tưởng lời nói việc làm của ông bà ta xưa.

Một Đức Tin sống động: Bởi vậy, đừng chê ông bà ta ít học giáo lý, cũng đừng xem vốn giáo lý của mình thời nay là khá, là nhiều, nhưng hãy xem cách “sống giáo lý” của ông bà thời ấy.

Từ ý thức “mình là người có đạo”, Mẹ tôi thường dặn dò: “Đi đâu, ở đâu, làm việc gì, cũng phải nhớ mình là người có đạo nghe con”. Sau này chúng tôi mới hiểu là có ở đâu, làm gì, thì cũng phải giữ lề luật Chúa, giữ lời Chúa cho nên, cũng phải “đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su Ki-tô”. Cha thì hay dùng lời thánh Phaolô mà dặn: “Dầu khi ăn, dầu khi uống, dầu khi làm việc gì, cũng phải làm cho sáng danh Chúa”. Khi cha cho ý kiến về việc gì thì ý kiến cuối cùng vẫn là “nhưng phải xem coi có sáng danh Chúa không nghe con, không được sáng danh mình”.

“Mình là người có đạo” hẳn phải từ bỏ những tư tưởng, lời nói, việc làm không xứng với danh xưng quý giá ấý, hẳn phải từ bỏ “cái tôi” của mình để cho danh Chúa được cả sáng. Khi anh em chúng tôi nói, làm điều gì sai quấy, cha thường trách yêu: “Con quên mình là người có đạo sao?”. Khi chị tôi chuẩn bị lập gia đình, Mẹ kể cho chị nghe câu chuyện Tobia và Sara: “Tobia và Sara tâm sự: “Mình con nhà có đạo, không thể lấy nhau như lương dân”.

Kim chỉ nam chính xác: “Mình là người có đạo” như kim chỉ nam chính xác cho hành trình đức tin chúng ta. Bởi vì, khi đã tháp nhập vào Đức Giê-su Kitô là “Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, người có đạo có Con Đường để đi, con đường Thật bảo đảm một Sự Sống Thật thay cho những con đường gian trá chỉ đưa con người ta đến sự chết ngàn thu. Người có đạo là người đi Con đường của Chúa Giê-su: con đường khiêm nhượng, từ bỏ, chấp nhận khổ đau, thập giá, con đường phục sinh và lên trời, và theo con đường ấy mà về trời. Đó là Sự Thật vĩnh cửu, thay cho sự thật về kiếp con người mong manh tàn lụi. Tôi vẫn mãi nghĩ rằng ngày ấy ông bà chúng ta chưa có văn minh, chưa có phương tiện, còn ít văn hóa, nhưng cái gọi là “Văn hóa Ki-tô Giáo” thì có nhiều hơn chúng ta hôm nay. Bởi, ông bà đã chọn Chúa Giê-su Ki-tô và theo đúng con đường của Chúa Giê-su Ki-tô đã đi:

Người có đạo không chối đạo, nhưng xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ.

Người có đạo không oán ghét, trả thù, nhưng yêu thương hết mọi người.

Người có đạo không xảo trá điêu ngoa, lường gạt, nhưng thực thà chân chất.

Người có đạo không sống cách vô luân lý, không tham danh lợi dục nhưng sống đúng phẩm hạnh của người con Cha trên trời.

Người có đạo không ích kỷ, hẹp hòi, không thu quén cho mình nhưng rộng lượng, quảng đại mong phần lợi cho anh em.

Và người có đạo không tham nhũng, hối lộ, thanh trừng nhau kiểu quan to, trộm cắp giết người kiểu dân nhỏ, không lấy quyền mà hiếp đáp, ăn chơi, trác táng, cùng không hoang đàng, phung phí … nhưng là người sống đời công chính của Đức Giê-su.

Người có đạo không toa rập bán nước, nhưng yêu quê hương và bảo vệ tổ quốc.

…………

Người có đạo không làm hoen ố hình ảnh của Thiên Chúa, nhưng luôn là họa ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi xinh đẹp sáng láng thánh thiện.

Hôm nay, Chúa cũng đang hỏi chúng ta mọi lúc mọi nơi “Các con bảo Thầy là ai” để chúng ta xác minh lại niềm tin của mình rằng: “Thầy là Đức Giê-su Ki-tô, là Đạo của chúng con”, và Ngài cũng đang bảo chúng ta sống đức tin ấy cách sống động như ông bà ta xưa: “Mình là người có đạo”.

Xin cho ông bà yên tâm, xin cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam vui mừng vì dòng dõi “con nhà có đạo” Việt Nam thời nay đang bước theo Con Đường của Chúa Giê-su Ki-tô, noi gương đức tin sống động của ông bà, của các Thánh Tử Đạo.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn nhớ mình là “người có đạo” trong mọi lúc, mọi nơi, để vì yêu mến Đạo, vì yêu mến Chúa Giê-su, mà chúng con có thể từ bỏ tất cả những gì không làm đẹp lòng Chúa, không làm đẹp danh Chúa và sẵn sàng làm tất cả những gì có thể, cho vinh danh Chúa. A men.

PM. Cao Huy Hoàng, 21-6-2013

Vatican yêu cầu có đại diện thường trực tại Việt Nam

Vatican yêu cầu có đại diện thường trực tại Việt Nam

Tòa Thánh thúc giục chính phủ Việt Nam cho phép bổ nhiệm đại diện ngoại giao tại Việt Nam “càng sớm càng tốt” trong vòng đàm phán chính thức mới nhất tại Rôma hồi tuần trước.

Trong cuộc họp diễn ra tại Vatican từ ngày 13-14/6, chính phủ Việt Nam kêu gọi Giáo hội Công giáo “tích cực tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội và xây dựng đất nước”.

Ủy ban cấp cao song phương giữa Việt Nam và Tòa Thánh được thành lập năm 2009 đã nhóm họp ba lần trong những năm gần đây.

Hoạt động của ủy ban đã dẫn đến việc bổ nhiệm Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli làm đại diện không thường trú của Vatican tại Việt Nam. Ngài trở thành người đại diện Đức Thánh cha đầu tiên tại Việt Nam kể từ khi đất nước thống nhất vào năm 1975.

Đức cha Girelli hiện sống ở Singapore. Việt Nam hứa tạo điều kiện cho ngài viếng thăm đất nước “nhằm giúp ngài thực hiện sứ vụ hiệu quả hơn”, theo thông cáo chung phát hành sau cuộc họp tại Rôma.

Đặt đại sứ quán Vatican lâu dài tại Việt Nam sẽ mang lại “lợi ích cho tất cả các bên liên quan”, Vatican lưu ý.

Trong cuộc họp dài hai ngày, phái đoàn Việt Nam nhấn mạnh những nỗ lực “thực hiện đúng và không ngừng cải thiện” các chính sách nhắm “tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng” của Việt Nam.

Hồi cuối tháng 5, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu bắt đầu xem lại khuôn khổ pháp lý quy định tôn giáo tại Việt Nam.

Một số chức sắc tôn giáo “lợi dụng” quyền tự do của Việt Nam để “chống đối đảng Cộng sản và nhà nước, và làm chậm quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam”, ông cảnh báo, theo hãng thông tấn nhà nước VNA.

Trong lúc Việt Nam bận xem xét sửa đổi hiến pháp, Giáo hội Công giáo đã trình đề xuất riêng và nghi ngờ dự thảo cho rằng đảng Cộng sản là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”, và lấy chủ Mác – Lênin là nền tảng ý thức hệ của đảng.

Một bản sửa đổi hiến pháp mang tính thách thức tương tự của 72 nhà trí thức hàng đầu được hàng ngàn người ký tên cũng được một số giám mục Việt Nam tán thành trong đó có Đức Giám mục Nguyễn Thái Hợp của Vinh, chủ tịch ủy ban “Công lý và hòa bình” của Việt Nam.

Theo thông cáo cuối cùng, trong cuộc họp tuần trước Việt Nam và Tòa Thánh “thừa nhận Giáo hội dạy ‘sống Phúc âm trong lòng dân tộc’ và ‘sống tốt đạo đẹp đời’”.

Ngoài ra, Vatican còn xác nhận Giáo hội Công giáo muốn “góp phần, theo cách riêng của mình, vào lợi ích chung của xã hội, chuyển tải và thực hành các giáo huấn kiên định của các Đức Thánh cha về vấn đề này”.

Hai nước còn công nhận sự tiến bộ đạt được trong những năm gần đây, đặc biệt là về việc tổ chức cuộc họp của Liên Hội đồng Giám mục Á châu hồi tháng 12-2012.

Cuộc họp diễn ra trong bầu khí “thành thật, cởi mở, và tôn trọng lẫn nhau”, theo bản thông cáo cuối cùng.

Phái đoàn Vatican do Đức ông Antoine Camilleri, trợ lý ngoại trưởng Vatican dẫn đầu, trong khi phía Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn dẫn đầu.

Alessandro Speciale từ thành Phố Vatican, Việt Nam

UCANEWS

Đức Thánh Cha tưởng niệm Đức Giáo Hoàng Phaolô 6

Đức Thánh Cha tưởng niệm Đức Giáo Hoàng Phaolô 6

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 5 ngàn tín hữu thuộc giáo phận Brescia hôm 22-6-2013, ĐTC Phanxicô mời gọi họ hãy noi gương Đức Phaolô 6 nồng nhiệt yêu mến Chúa Kitô, Giáo Hội và con người.

5 ngàn tín hữu, dưới sự hướng dẫn của Đức Cha Luciano Monari GM giáo phận Brescia, là nguyên quán của Đức Phaolô 6, về Roma hành hương nhân dịp kỷ niệm đúng 50 năm Đức Cố Giáo Hoàng được bầu làm Chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ hồi năm 1963.

Lúc 10 giờ sáng, các tín hữu đã tham dự thánh lễ kỷ niệm tại Đền thờ thánh Phêrô do Đức Cha Monari chủ tế cùng với 3 GM và hàng trăm LM. ĐHY Giovanni Battista Re, nguyên Tổng trưởng Bộ Giám Mục, gốc giáo phận Brescia, cũng hiện diện.

Cuối thánh lễ, lúc 12 giờ 20 phút trưa, ĐTC Phanxicô đã đến gặp gỡ các tín hữu. Trong bài huấn dụ, ngài nêu bật 3 khía cạnh cơ bản trong chứng tá và giáo huấn của Đức Phaolô 6, đó là lòng yêu mến Chúa Kitô, yêu mến Giáo Hội và yêu người: ”Một tình yêu sâu đậm đối với Chúa Kitô, không phải để chiếm hữu Chúa, nhưng để loan báo Người. Chúng ta nhớ những lời tha thiết của Đức Cố Giáo Hoàng nói tại Manila: ”Chúa Kitô! Đúng vậy, tôi cảm thấy phải loan báo Ngài, tôi không thể im lặng về Ngài!..”

Đức Phaolô 6 có một tình yêu nồng nhiệt, say mê đối với Giáo Hội, một tình yêu trọn cuộc sống của Người, vui tươi và chịu đau khổ, được biểu lộ ngay trong thông điệp đầu tiên của Người ”Ecclesiam suam”. Đức Phaolô 6 đã sống trọn vẹn những sau thương của Giáo Hội sau Công đồng chung Vatican 2, những ánh sáng, hy vọng và căng thẳng. Người ta yêu mến Giáo Hội và xả thân không chút dè dặt cho Giáo Hội”.

Trước tấm gương của Đức Phaolô 6, ĐTC mời gọi tất cả các tín hữu hãy tự hỏi: ”Phải chăng chúng ta thực sự là một Giáo Hội gắn bó, hiệp nhất với Chúa Kitô, để ra đi và loan báo cho mọi người về Chúa, đặc biệt tại những người 'sống bên lề cuộc sống', hoặc chúng ta khép kín nơi mình hay trong những nhóm riêng của mình?”
Sau cùng, về lòng yêu mến con người, ĐTC nhận xét rằng chính lòng hăng say đối với Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta gặp gỡ, tôn trọng và nhìn nhận Chúa nơi con người và phụng sự Ngài…

”Chuyện người Samaritano nhân lành cũng là mẫu mực linh đạo của Công Đồng… Toàn thể sự phong phú đạo lý của Công Đồng đều đi theo một hướng đi duy nhất, đó là phục vụ con người. Con người trong mọi hoàn cảnh, trong mọi yếu đuối và nhu cầu. Giáo Hội hầu như tự tuyên bố là nữ tỳ của nhân loại” (Bài giảng ngày 7-12-1965, AAS 58 [1966], p.57)

Và ĐTC kết luận rằng: ”Chứng tá của ĐGH Phaolô 6 nuôi dưỡng trong chúng ta ngọn lửa yêu mến Chúa Kitô, yêu mến Giáo Hội, và lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho con người ngày nay, với lòng từ bi, kiên nhẫn, can đảm và vui mừng” (SD 22-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Các con bảo Thầy là ai?

Các con bảo Thầy là ai?

Lời tiên báo về cái chết của Ngài được Chúa Giêsu đưa ra lần đầu tiên ngay sau khi nghe lời xưng nhận phi thường của ông Phêrô. Đây là một trong những giây phút hệ trọng nhất trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Ngài hỏi câu đó khi Ngài đã nhất định đi lên Giêrusalem. Ngài biết rõ những gì đang chờ đợi Ngài ở đó, và câu trả lời cho câu hỏi của Ngài là rất mực quan trọng. Điều Ngài đã biết đó chính là Ngài đang tiến đến cây thập giá để chết. Còn điều Ngài muốn biết trước khi Ngài ra đi là đã có ai thực sự khám phá Ngài là Đấng nào chưa? Câu trả lời đúng sẽ thay đổi tất cả. Nếu không có câu trả lời, mà chỉ có hiểu lầm, thì điều này có nghĩa là công việc của Ngài đã uổng công. Nếu có một nhận thức nào đó, dầu rất sơ sài, thì điều đó có nghĩa là Ngài đã thắp lên một ngọn đuốc trong tâm hồn loài người mà thời gian sẽ không bao giờ tắt được.

Ngài bắt đầu đưa ra một câu hỏi: “Dư luận quần chúng nói Thầy là ai?” Câu trả lời của họ cũng không khác gì câu trả lời của người đời ngày nay: người này bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ khác cho là Êlia, kẻ khác nữa cho là một tiên tri đời xưa sống lại: “Có nghĩa là một nhà cải cách, một nhà đại truyền giáo, một sứ giả của Thiên Chúa”. Những lời phỏng đoán đó không làm cho Chúa Giêsu hài lòng, rồi quay về phía các môn đệ: “Còn về phần các ngươi thì nói Ta là ai?” Lòng Chúa Giêsu hân hoan biết bao khi khám phá bất ngờ của Phêrô tràn ra môi miệng ông: “Thầy là Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa”. Khi nghe điều đó Ngài biết mình đã không thất bại.

Đây là một xác định vĩ đại về Đấng Kitô mà cả thế giới ngày nay vẫn được nghe, nhưng lúc ấy Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ: “Đừng nói điều ấy với ai”. Không những các môn đệ phải khám phá ra sự kiện đó, mà các ông còn phải khám phá ra ý nghĩa của sự kiện đó nữa. Các ông đã lớn lên trong một nền tư tưởng dạy rằng, phải trông đợi từ Thiên Chúa một vị vua chiến thắng sẽ dẫn dắt họ đến địa vị bá chủ thế giới. Cặp mắt của Phêrô hẳn đã sáng lên một niềm xúc động khi ông thốt lên lời đó. Nhưng Chúa Giêsu còn phải dạy cho các ông biết rằng Chúa Cứu Thế đã đến để chết trên cây thập giá. Ngài phải làm đảo lộn tư tưởng của các ông về Thiên Chúa và ý muốn của Ngài, và từ giờ phút này, Ngài sẽ để tâm làm việc đó. Các ông đã khám phá ra Ngài là ai, bây giờ các ông còn phải khám phá thêm ý nghĩa của sự khám phá đó. Chính các môn đệ phải biết ý nghĩa về sự chết và sống lại của Chúa trước đã. Ngày nay không một người nào có thể làm chứng về Đấng Kitô mà lại không biết ý nghĩa của sự chết chuộc tội và quyền năng của sự sống lại của Ngài. Rồi Chúa Giêsu cho các ông biết sự chết mà Ngài sắp phải chịu là rất cần, và quả quyết với họ rằng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại.

Có hai điều cần phải biết trong đoạn lời Chúa này:

. Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách hỏi người ta đang nói gì về Ngài, rồi đột nhiên hướng câu hỏi thẳng vào nhóm môn đệ: “Các ngươi nói Ta là ai?”.

Không bao giờ được cho là đủ nếu chỉ biết những điều người ta nói về Chúa Giêsu. Một người có thể trúng tuyển các kỳ thi về những lời nói và tư tưởng cổ kim của thiên hạ về Chúa Giêsu, người ấy có thể đọc hết các sách Kitô học, được viết bằng mọi thứ tiếng trên thế giới, nhưng người ấy vẫn chưa phải là Kitô hữu. Chúa Giêsu phải là một khám phá riêng của cá nhân chúng ta. Kitô giáo không phải là một câu chuyện lưu truyền. Đối với mỗi người, Chúa Giêsu không đến với câu hỏi rằng: “Ngươi có thể nói cho ta những điều kẻ khác đã nói và biết về Ta chăng?”. Nhưng Ngài hỏi: “Ngươi nói Ta là ai?” Phaolô đã không nói: “Tôi biết điều tôi đã tin”, nhưng ông nói: “Tôi biết Đấng tôi tin”. Kitô giáo không có nghĩa là đọc một bản tín điều nhưng là biết một Đấng nào.

Trong đoạn này chúng ta nghe tiếng “phải” từ miệng Chúa Giêsu, Ngài phán: “Ta phải đi lên thành Giêrusalem Chịu chết”.

Thật rất ý nghĩa khi chúng ta để ý đến những tiếng “phải” Chúa nói trong Phúc âm Luca. Ngài nói: “Há chẳng biết con phải lo việc của Cha con sao?” “Ta cũng phải loan báo Tin Mừng cho các thành khác”; “nhưng ngày nay, ngày mai và ngày kia Ta phải đi”. Ngài thường nói đi nói lại với các môn đệ rằng, Ngài phải đi đón cây thập giá của mình. Chúa Giêsu là người hiểu rõ mình có một định mệnh phải thi hành. Ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn của Ngài. Ngài không có mục đích nào khác với thế gian này ngoài việc làm trọn điều Thiên Chúa đã sai Ngài, là Kitô hữu, cũng như Chúa của mình, là Người hằng vâng lời.

Định mệnh của Ngài cũng là định mệnh của những kẻ là môn đệ của Ngài. Tại đây Chúa đặt ra các điều kiện cho những ai muốn là môn đệ của Ngài.

Người đó phải từ chối mình. Điều đó có nghĩa gì?

Một học giả đã giải thích như sau: Phêrô đã một lần từ chối Chúa khi ông nói về Chúa Giêsu rằng: “Tôi không biết người đó”. Chúng ta từ bỏ mình là nói rằng: “Tôi không biết tôi” tức là không biết chính sự hiện hữu của mình, coi mình như không có vậy. Chúng ta thường tự đặt mình lên cao dường như mình là quan trọng nhất trên thế gian này. Nếu muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta phải tự xóa mình đi, quên chính bản thân của mình.

Người đó phải vác thập giá của mình:

Cây thập giá không phải chỉ là biểu hiện sự đau đớn vì sỉ nhục, và còn là dụng cụ của sự chết. Chúa Giêsu biết rõ thế nào là đóng đinh vào thập giá. Khi Ngài còn là một cậu bé mười một tuổi, thì Giuđa, người xứ Galilê đã cầm đầu một cuộc nổi dậy chống Lamã. Ông đã đánh phá kho vũ khí của vua tại Sepphoris, chỉ cách Nazareth 6,4 cây số. Lamã trả thù tức khắc, Sepphoris bị san thành bình địa, dân chúng bị bắt làm nô lệ, hai ngàn loạn quân bị đóng đinh vào thập giá dựng dọc theo hai bên đường cái để làm lời cảnh cáo ghê sợ cho kẻ nào muốn nổi loạn. Vác thập gía mình có nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng đối diện với những hình khổ như vậy vì lòng trung thành với Chúa, là chúng ta sẵn sàng chịu đựng mọi thứ đau khổ loài người có thể làm cho chúng ta vì chúng ta thành tâm đi theo Chúa Giêsu.

Người đó phải phân phát sự sống mình chứ không tích trữ nó:

Toàn bộ các tiêu chuẩn trần gian phải đổi thay. Các câu hỏi không phải là “Tôi có thể thâu tích bao nhiêu?”, nhưng là “Tôi có thể phân phát bao nhiêu”. Không phải việc gì là điều an toàn để làm, nhưng là việc nào là điều phải lẽ để làm, không phải cái gì là tối thiểu được phép làm, nhưng là “cái gì là điều tối đa có thể làm”. Kitô hữu phải nhận thức rằng đời sống của mình là cho đi, không phải giữ lấy cho mình, nhưng là đem phân phát đời mình cho kẻ khác, không phải là tiết kiệm năng lực, nhưng là tiêu hao năng lực cho Chúa và tha nhân.

Thật ra sự chọn lựa này, nói cho cùng chỉ vì: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, vì tôi coi tất cả như rác để được Đức Kitô và được kết hiệp với Người”.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta biết ơn trở thành những chứng nhân hữu hiệu của Ngài giữa anh chị em xung quanh, chứng nhân trung thành với đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận và giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

Veritas  Radio

Nhận diện Đức Kitô

Nhận diện Đức Kitô

Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.

“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.

Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.

Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực.

Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.

Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến hạnh phúc đích thực.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?
2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?
3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?
4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?
5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?

ĐTGM NGÔ QUANG KIỆT

CÂU HỎI HƠN HAI NGÀN NĂM

CÂU HỎI HƠN HAI NGÀN NĂM

Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê, một thành phố được quận vương Philiphê chỉnh trang để tôn vinh Hoàng đế Cêsarê. Trên chóp đỉnh của một khối đá đứng sừng sững, một ngôi đền nguy nga bằng cẩm thạch trắng thờ Hoàng Đế La Mã được coi là một kỳ công trong vùng.Một số nhà chú giải cho rằng, cảnh tượng vĩ đại đó đã gợi ý khi Chúa tuyên bố Giáo hội của Ngài sẽ được xây trên nền tảng Phêrô vững chắc như một bàn thạch. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đã có từ khi Chúa quyết định đổi tên Simon thành Kêpha hay Phêrô, nghĩa là Đá trong cuộc gặp gỡ đầu tiên (Ga 1,42).

Theo thói quen trước khi quyết định những điều quan trọng, Chúa Giêsu vừa đến nơi liền đi vào một chỗ thanh vắng, một mình cầu nguyện với Chúa Cha. Các Tông đồ chờ Thầy ở ngoại ô thị trấn. Họ nghiệm rằng, mỗi khi Thầy xa họ và trở về là có diễn tiến mới.Thầy trò lại đi về phía những làng nhỏ. Dọc đường Ngài hỏi các ông : Người ta nói Thầy là ai ? Các ông đáp lại : có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Một số nói là Êlia, một số khác cho là một trong các tiên tri thời xưa như Giêrêmia. Nhưng Chúa nhấn mạnh : Còn các con, các con nói Thầy là ai ? Phêrô lên tiếng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Bài Tin Mừng cho thấy, có ba mức độ nhận biết về Chúa Giêsu.

– Dân chúng nhận thấy Chúa Giêsu là một tiên tri như Gioan Tẩy Giả, như Êlia hay một tiên tri nào đó. Tiên tri là sứ giả của Thiên Chúa nên thường có quyền làm được vài phép lạ như chữa bệnh, cứu đói… Dân chúng đến với tiên tri chủ yếu để xin ơn này ơn khác. Họ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Ngài để xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho kẻ chết sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu vì lợi ích, để cầu lợi cầu phúc. Cho nên họ không thể nhận ra Ngài là Đấng Kitô.

– Các môn đệ nhận biết về Chúa Giêsu. Khi Chúa hỏi: “Các con bảo Thầy là ai ? Phêrô đại diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18 ; Is 11. 61,1-2 ; 1V 19,16). Chúa Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.

Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân, làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Ngài siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi đất, Ngài là Đấng Thánh của Israel và nước Ngài tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 ; 12).

Theo truyền thống tiền nhân, các môn đệ cũng quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như thế. Vì vậy, khi thấy Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin cho hai con trai: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Ngài ra và can ngăn Ngài đừng dại dột thế. Chúa Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).

– Mức độ thứ ba chính là cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu độ nơi Thập Giá và Phục Sinh. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Con người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Đó là sứ mệnh chính yếu của Đức Kitô: tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-18 ; 15, 13).Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.

Suy niệm trang Tin Mừng này, Thánh Gioan Kim Khẩu viết : khi Chúa hỏi về dư luận quần chúng, mọi Tông đồ đều trả lời. Khi Chúa hỏi cảm nghĩ của các ông, Phêrô một mình lên tiếng trước các bạn. Không phải do xác thịt nhưng nhờ Chúa Cha mạc khải nên Phêrô nhận biết Thầy Giêsu là Đức Kitô ở tầm mức cao nhất. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người” có một Giêsu “Thiên Chúa ”. Phêrô nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của Chúa Giêsu có một thần tình cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Vì thế, Phêrô được Chúa khen tặng và tín nhiệm trao quyền tối thượng : “Phêrô, con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Ba hình ảnh cụ thể mô tả quyền tối thượng của Phêrô trong Giáo Hội. Đó là, Phêrô được trao chìa khóa Nước Trời, Phêrô được quyền tháo gỡ, cầm buộc và cửa địa ngục sẽ không thắng được.

Tuyên tín Chúa Giêsu là ai tức là xác định đường mình đi. Phêrô đã tuyên tín trên đường hành trình với Chúa. “Các con nói Thầy là ai?” Chúa không hỏi các môn đệ câu ấy trong lúc nghĩ ngơi mà lúc đi đường. Những ngày ở Giêrusalem, ở Galilê, ở Nazareth, người ta nói về Đức Giêsu, người ta xem Ngài làm phép lạ, họ gọi Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, là một tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Đức Kitô. Để biết Ngài, phải sống và hành trình với Ngài và cùng đi với Ngài trên mọi nẻo lối trần thế.

Chúa Giêsu là ai ? Câu hỏi là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Phêrô đã khám phá ra thần tính trong nhân tính của Chúa Giêsu. Phaolô trên đường Đamat, bị té ngựa do ánh sáng từ trời, đã hốt hoảng kêu lên : “Ngài là ai?” và có lời đáp bất ngờ : “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5), Phaolô khám phá ra nhân tính trong thần tính của Đấng đã gọi ngài.

Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ “dưới bầu trời này, không có Danh nào khác”, ngoài Danh Giêsu “được ban cho loài người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12). Nếu ai đó hỏi rằng điều gì làm nên một Kitô hữu, thì câu trả lời là: đó là người tin rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Niềm tin đó là đá nền, trên đó Hội Thánh được xây dựng (GLCG số 424). Tin vào Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Ngài như chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,4-5). Điều độc đáo và đặc biệt của niềm tin Kitô giáo là tin rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con hằng hữu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin Kitô giáo “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,11).

Chỉ trong ánh sáng này chúng ta mới hiểu được tại sao tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là bước theo Ngài, và bước theo Chúa là đòi hỏi quan trọng hơn mọi cam kết khác trong đời. Làm sao một con người thuần túy mà có thể nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37)? Đòi hỏi ấy chỉ có thể đến từ Đấng là chính Thiên Chúa. Làm sao một con người mà có thể nói: “Tất cả những ai nhìn nhận Thầy trước mặt người đời thì Con Người cũng sẽ nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)? Điều đó lại chẳng có nghĩa rằng ơn cứu độ vĩnh cửu tùy thuộc vào thái độ của người ta đối với Chúa Giêsu sao?

Nếu chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ơn cứu độ, nếu chỉ có Ngài mới là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” thì liệu có ai có thể được cứu độ mà không cần đến Chúa Giêsu? Nếu như thế, biết bao người chưa hề nghe đến Danh Chúa Giêsu, không có cơ hội để nhận biết và yêu mến Ngài thì sao ( GLCG số 846-847)? Chính Chúa Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này: đến giờ phán xét, Con Người sẽ tỏ cho thấy tất cả những hành động yêu thương chân chính dành cho tha nhân “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm…”, tất cả những hành động yêu thương ấy đều là cho chính Chúa: “Điều gì các ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, là làm cho chính Ta” (Mt 25; GLCG số 1038).

Sau lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã được biến đổi và trở nên khác với Simon ngày trước. Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Cả hai ngài đã trở nên cột trụ xây dựng Hội Thánh và cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi, đó là đức tin của Hội Thánh và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.

Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), bất cứ ai được tình yêu này chiếm hữu, bất cứ ai kinh nghiệm về sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và quyền năng phục sinh của Ngài, thì người ấy sẽ cảm thấy nỗi ước mong loan báo về Ngài, rao giảng Tin Mừng của Ngài, và dẫn mọi người đến niềm tin vào Chúa Giêsu (GLCG số 429).

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi ấy, Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng, bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng.

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi đã hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay. Trả lời là sống niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô. Ngài là Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính yêu thao thức tìm kiếm gặp gỡ gắn bó. Ngài ở trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, Thánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Ngài hiện diện nơi anh chị chung quanh để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên đới trách nhiệm. Ngài hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.

Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, yêu mến Ngài, bước theo Ngài. Và hơn nữa, “Anh em không còn là nô lệ nhưng là con” (Gal 4,7). Nhờ Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài, chúng ta trở nên những “con cái của Thiên Chúa” (1Cor 6,18).

LM Giuse Nguyễn hữu An

HAI CÂU HỎI

HAI CÂU HỎI

“Đức Giêsu là ai trong sự liên hệ với chúng ta?

Chúng ta là ai trong sự liên hệ với Đức Giêsu?”

Một cậu bé 15 tuổi và người cha đang lái xe ngang qua một phi trường nhỏ trong một tỉnh lẻ ở Ohio. Bỗng dưng có một chiếc máy bay bị trục trặc, bay xà mặt đất rồi xoay tròn và đâm đầu xuống phi đạo.

Câu bé la lên, “Bố ơi, dừng xe lại!” Một vài phút sau cậu bé lôi người phi công ra khỏi máy bay. Đó là thanh niên 20 tuổi đang học lái máy bay, đang thực tập cất lên và đáp xuống. Thanh niên này đã chết trong tay cậu bé.

Khi về đến nhà, cậu đến ôm bà mẹ và khóc, “Mẹ ơi, anh ấy là bạn con! Hắn mới 20 tuổi!” Tối hôm đó, cậu quá bàng hoàng đến độ không muốn ăn. Cậu vào phòng, đóng cửa lại và nằm thừ trên giường.

Cậu đang làm việc bán thời gian tại một tiệm thuốc. Mỗi đồng kiếm được cậu dành dụm để học lái máy bay. Cậu nhất định có được bằng lái khi 16 tuổi.

Cha mẹ cậu tự hỏi không biết tai nạn thảm khốc ấy ảnh hưởng thế nào đến con trai của họ. Liệu nó có bỏ học lái không, hay vẫn tiếp tục? Họ để cho cậu tự quyết định.

Hai ngày sau, bà mẹ đem vào phòng cậu một ít bánh mới nướng. Trên mặt tủ quần áo bà thấy có cuốn nhật ký còn mở. Đó là cuốn nhật ký mà cậu đã gìn giữ từ khi còn nhỏ. Ngang qua đầu trang giấy có hàng chữ lớn, “Đặc Tính của Đức Giêsu.” Bên dưới là một chuỗi các đức tính:

“Đức Giêsu thì không phạm tội; Người khiêm tốn; Người thương kẻ nghèo; Người không ích kỷ; Người gần với Thiên Chúa…”

Bà mẹ thấy rằng trong những giây phút khó quyết định, cậu đã quay về với Đức Giêsu để xin sự hướng dẫn.

Sau đó bà quay sang cậu con trai và nói, “Con quyết định gì về việc học lái máy bay?”

Cậu nhìn vào mắt mẹ và nói, “Mẹ ơi, con hy vọng là bố mẹ sẽ hiểu cho con, nhưng với sự trợ giúp của Thiên Chúa, con phải tiếp tục học bay.”

Cậu trai đó bây giờ là ông Neil Armstrong. Và vào ngày 20-7-1969, ông là người đầu tiên đặt chân trên mặt trăng.

Rất ít người khi xem biến cố lịch sử đó trên truyền hình đã không biết rằng một trong những lý do giúp ông Neil Armstrong đặt chân lên mặt trăng là Đức Giêsu. Họ không biết rằng chính nhờ Đức Giêsu mà ông đã có được sức mạnh cũng như sự hướng dẫn để thi hành một quyết định quan trọng thời niên thiếu mà giờ đây giúp ông thành công đi trên mặt trăng.

Tôi thích câu truyện này vì nó trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu trong bài phúc âm hôm nay-”Các con nói Thầy là ai?”–trong một kiểu cách trả lời mà chúng ta ít thường được nghe.

Cậu Neil Armstrong đã không trả lời câu hỏi ấy bằng cách nói với Đức Giêsu rằng, “Ngài là Con Thiên Chúa,” hoặc “Ngài là Đấng Mêsia,” hoặc “Ngài là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa.” Cậu đã trả lời câu hỏi ấy một cách đơn giản hơn. Cậu nói: “Ngài là một người không phạm tội. Ngài là một người luôn nghĩ đến người khác. Ngài là người thường quan tâm. Ngài là một người gần với Thiên Chúa.”

Nói cách khác, với câu hỏi “Con nói Thầy là ai?” cậu Neil Armstrong không trả lời theo thần học. Cậu đã trả lời theo cảm nghĩ riêng tư. Cậu nhìn đến tâm hồn mình và diễn tả điều cậu cảm nghiệm được về Đức Giêsu trong cuộc đời mình.

Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như vậy. Chúng ta phải trả lời câu hỏi của Đức Giêsu-”Con nói Thầy là ai?”- bởi nhìn vào tâm hồn chúng ta và diễn tả cảm nghiệm sống động hằng ngày của chúng ta đối với Đức Giêsu.

Và cảm nghiệm đó thật khác biệt với mỗi người chúng ta.

Vì đối với một số người, Đức Giêsu là một người mà chúng ta có thể quay về để xin được dẫn dắt khi chúng ta hoang mang. Với những người khác, Đức Giêsu là người mà chúng ta có thể quay về để xin sức mạnh trong những lúc bị thử thách. Còn với những người khác nữa, Đức Giêsu là người hiểu chúng ta, ngay cả khi chúng ta không hiểu chính mình.

Và điều này đưa chúng ta đến phần thứ hai của bài phúc âm hôm nay.

Nếu phần đầu của bài phúc âm là câu hỏi “Chúng ta cảm thấy Đức Giêsu như thế nào?” thì phần thứ hai đề ra câu hỏi “Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?”

Nếu ai muốn đến với tôi, họ phải… vác thập giá hàng ngày và theo tôi.”

Những lời này của Đức Giêsu thách đố chúng ta phải tự hỏi mình, “Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào? Ngài có cảm thấy chúng ta là các môn đệ của Ngài hay không?”

Nói cách khác, chúng ta có vác thập giá hàng ngày của mình và theo Chúa không? Hay nói cách khác nữa-cách thực tế hơn-chúng ta có bắt chước Đức Giêsu trong cuộc sống hằng ngày không?

Chúng ta có sống vì người khác như Đức Giêsu đã sống vì chúng ta hay không?

Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để tìm được sức mạnh khi họ bị thử thách hay không?

Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để được hướng dẫn khi họ hoang mang hay không?

Chúng ta có phải là những người mà người khác có thể quay về để được giúp đỡ khi cần thiết hay không?

Chúng ta có phải là loại người như vậy đối với các phần tử trong chính gia đình của chúng ta hay không?

Nói tóm lại, bài phúc âm hôm nay đưa cho chúng ta hai câu hỏi quan trọng.

Câu thứ nhất là: Chúng ta cảm thấy Đức Giêsu như thế nào? Chúng ta có cảm được Người như Neil Armstrong cảm nghiệm: Người đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta không? Hay Đức Giêsu chỉ là ai đó mà chúng ta chỉ nghĩ đến khoảng một giờ đồng hồ trong ngày Chúa Nhật và các ngày khác thì quên hết?

Câu hỏi thứ hai lại càng quan trọng hơn: Đức Giêsu cảm thấy chúng ta như thế nào?

Người có thấy chúng ta là các môn đệ của Người không? Hay Người chỉ thấy chúng ta hâm mộ Người mà thôi?

Chúng ta có phải là người bắt chước Đức Giêsu không? Hay chúng ta chỉ là người khâm phục Chúa mà thôi? Chúng ta có vác thập giá và theo Chúa hàng ngày không? Hay chúng ta chỉ ngồi bên vệ đường và hoan hô Người khi Người vác thập giá một mình?

Đây là hai câu hỏi quan trọng mà phúc âm đề ra cho mỗi người chúng ta hôm nay: Đức Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta? Chúng ta là ai trong cuộc đời Chúa Giêsu?

Không ai có thể trả lời câu hỏi này thay cho chúng ta. Chúng ta phải tự mình trả lời.

Hãy kết thúc với lời nguyện mà đã được sáng tác bởi một Kitô Hữu vô danh cách đây gần 1,500 năm.

“Lạy Chúa!
Xin hãy là lửa sáng trước mặt con.
Xin hãy là ngôi sao dẫn đường cho con.
Xin hãy là con đường bằng phẳng dẫn đắt con.
Xin hãy là mục tử nhân hậu theo con.
Xin hãy là tất cả những điều ấy hôm nay-tối nay-và mãi mãi.”

 Cha Mark Link, SJ

Đức Thánh Cha tiếp kiến 148 vị Đại Diện Tòa Thánh

Đức Thánh Cha tiếp kiến 148 vị Đại Diện Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến các vị Sứ thần và Khâm Sứ Tòa Thánh sáng 21 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô đặc biệt nhắc nhở các vị hãy sống như những mục tử và quan tâm tuyển chọn các ứng viên xứng đáng để được bổ nhiệm làm Giám Mục.

148 vị TGM Sứ thần và Khâm Sứ Tòa Thánh từ các nơi trên thế giới tựu về Roma để tham dự Ngày của các vị Sứ Thần trong khuôn khổ Năm Đức Tin tiến hành trong hai ngày 21 và 22 tháng 6-2013. Đây là lần thứ 2 các vị họp mặt tại Roma sau lần gặp gỡ hồi năm thánh 2000.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC chân thành cám ơn sự phục vụ của các vị Sứ Thần Tòa Thánh, nhiều khi trong những hoàn cảnh khó khăn, sống trong tình trạng như những người du mục, thường phải thay đổi nhiệm sở, phải hy sinh, từ bỏ nhiều liên hệ bạn hữu, luôn bắt đầu lại, luôn phải thích ứng với những hoàn cảnh của Giáo Hội và đất nước mình được gửi gửi tới.

ĐTC đặc biệt đề cập đến một nhiệm vụ quan trọng của các vị Sứ Thần Tòa Thánh là điều tra để làm danh sách các ứng viên Giám Mục. Ngài nói: ”Trong công tác tế nhị này, anh em hãy chú ý làm sao để chọn các ứng viên là những vị mục tử gần gũi dân chúng, là những người cha và người anh, hiền từ, kiên nhẫn và từ bi; yêu mến thanh bần, thanh bần nội tâm như một sự tự do vì Chúa và thanh bần bên ngoài như sự đơn sơ và khổ hạnh; các ứng viên ấy không phải là người có tâm lý như những ”ông hoàng”. Anh em hãy chú ý để các ứng viên đó không phải là kẻ có tham vọng, là những người không tìm kiếm chức Giám Mục, là hôn phụ của một giáo phận, không luôn luôn tìm kiếm một giáo phận khác. Họ phải là người có khả năng ”canh chừng” đoàn chiên được ủy thác cho mình, nghĩa là quan tâm tới tất cả những gì duy trì sự hiệp nhất của đoàn chiên, tỉnh thức đối với đoàn chiến, chú ý đến những nguy hiểm đe dọa chiên, làm sao để có hy vọng, mặt trời và ánh sáng trong các tâm hồn; với tình tình yêu thương và kiên nhẫn hỗ trợ các dự phóng mà Thiên Chúa thực hiện nơi dân Ngài”.

Cũng trong huấn từ mà ĐTC cho biết là xuất phát tự thâm tâm ngài, ngài nhắc nhở các vị Sứ Thần Tòa Thánh hãy là những vị mục tử và nói rằng:

”Đây là điều không bao giờ chúng ta được quên! Các vị đại diện Tòa Thánh quí mến, anh em là sự hiện diện của Chúa Kitô, sự hiện diện tư tế, sự hiện diện mục tử. Tuy anh em không giảng dạy cho một phần dân Chúa được ủy thác cho anh em, không điều khiển một Giáo Hội địa phương, nhưng anh em là mục tử phục vụ Giáo Hội với vai trò khích lệ, như những thừa tác viên hiệp thông, với nhiệm vụ nhiều khi không dễ dàng, đó là nhiệm vụ nhắc nhở. Anh em hãy luôn làm tất cả những điều đó với tình yêu mến sâu xa! Cả trong những quan hệ với chính quyền dân sự và các đồng nghiệp, anh em là những vị mục tử: luôn tìm kiếm thiện ích của mọi người, của Giáo Hội và của mỗi người”.

Gặp gỡ và cầu nguyện

Sau buổi tiếp kiến của ĐTC vào ban sáng, chiều 21 tháng 6-2013, từ lúc 4 giờ rưỡi đến gần 6 giờ chiều, các vị Sứ Thần Tòa Thánh đã tụ tập tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, chầu Mình Thánh Chúa và cử hành kinh chiều, do ĐHY James Michael Harvey, Giám quản đền thờ này chủ sự, với bài suy nhiệm do ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa đảm trách.

Tiếp đó, các vị đã dừng lại tại Bàn thờ chính của đền thờ bên dưới có mộ Thánh Phaolô và và viếng thăm khu khai quật tại đây. Sau cùng, lúc 8 giờ rưỡi tối, các vị Sứ Thần Tòa Thánh đã dùng bữa tối với ĐTC.

Nhân cuộc gặp gỡ, ĐTC đã tặng cho mỗi vị một thánh giá GM bằng bạc, dài 10 centimeter và ngang 7 centimeter, nặng 85 grams do hai nghệ nhân Claudio và Piero Savi thực hiện riêng cho dịp này.

Lúc 9 giờ sáng thứ bẩy 22 tháng 6-2013, các vị Sứ Thần Tòa Thánh đồng tế thánh lễ với ĐHY Tarcisio Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tại nhà nguyện cung nguyện trong Đền thờ Thánh Phêrô.

Tiếp đến lúc 10 giờ 45, tại Hội trường mới của Thượng HĐGM các vị nguyện kinh giờ Ba, rồi gặp gỡ làm việc với các vị lãnh đạo Phủ Quốc vụ khanh gồm ĐHY Bertone, và hai vị TGM Phụ tá Quốc Vụ Khanh Angelo Becciu và Đức TGM ngoại trưởng của Tòa Thánh Dominique Mamberti.

Ban trưa các vị dùng bữa tại Nhà Trọ thánh Marta và lúc 5 giờ rưỡi chiều có buổi hòa nhạc tại Đại thính đường Phaolô 6.

Trong số các vị Sứ Thần Tòa Thánh, cũng có một người Việt là Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt, hiện là Sứ thần tại Costa Rica, sau khi đã làm Sứ Thần tại Togo, Benin, rồi Cộng hòa Tchad và Trung Phi (SD 21-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi các nước giàu giữ lời hứa

Đức Thánh Cha kêu gọi các nước giàu giữ lời hứa

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 20 tháng 6-2013 dành cho 400 tham dự viên khóa họp thứ 38 của tổ chức Lương nông quốc tế, ĐTC Phanxicô kêu gọi các nước giàu đừng viện cớ khủng hoảng kinh tế để không giữa lời hứa trợ giúp dân nghèo.

Tổ chức Lương nông quốc tế, gọi tắt là FAO, có trụ sở ở Roma, và buổi tiếp kiến đã diễn ra tại sảnh đường Clementina trong dinh tông tòa.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC ghi nhận có nhiều sáng kiến và những giải pháp khả thể để giải quyết tình trạng khó khăn về lương thực trên thế giới. Ngài nói: ”Tôi biết rằng mức sản xuất lương thực hiện nay trên thế giới đủ cho dân chúng, nhưng vẫn có hằng triệu người đang chịu đau khổ và chết vì đói: đây thực là một gương mù. Cần phải tìm ra những phương thức để tất cả mọi người có thể được hưởng hoa màu ruộng đất, không những để tránh tình trạng hố chia cách ngày càng sâu rộng giữa người có nhiều và những người phải hài lòng với những vụn bánh, nhưng nhất là vì đòi hỏi của đức công bằng và nghĩa vụ phải tôn trọng mỗi người”.

”Tất cả chúng ta ở đây đều chia sẻ ý tưởng chúng ta có thể và phải làm cái gì hơn nữa để mang lại nghị lực cho hoạt động quốc tế bênh vực người nghèo, không phải chỉ được linh hoạt bằng thiện chí, hoặc tệ hơn nữa bằng những lời hứa thường không được thi hành. Người ta cũng không thể tiếp tục viện cớ tình trạng khủng chung trên thế giới để tránh né nghĩa vụ. Cuộc khủng hoàng này người ta không thể hoàn toàn ra khỏi, bao lâu không cứu xét những hoàn cảnh và điều kiện sinh sống của con người, qua nhân vị và phẩm giá của họ”.

ĐTC cũng cảnh giác rằng: ”Nhân vị và phẩm giá con người có nguy cơ trở thành trừu tượng, đứng trước những vấn đề như việc sử dụng bạo lực, chiến tranh, thiếu dinh dưỡng, tình trạng bị gạt ra ngoài lề, nạn vi phạm những quyền tự do căn bản, hoặc nạn đầu cơ tài chánh, là tệ nạn trong lúc này đây đang ảnh hưởng trên giá cả lương thực, coi lương thực như mọi thứ hàng hóa khác, mà quên rằng mục tiêu đầu tiên của nó là nuôi sống con người”.
ĐTC nhấn mạnh thêm rằng: ”Cần chống lại những lợi lộc kinh tế thiển cận và lý lẽ quyền lực của một thiểu số, loại bỏ đa số dân chúng thế giới và gây ra nghèo đói, gạt ra ngoài lề, với những hậu quả làm băng hoại xã hội. Ngoài ra cần bài trừ nạn tham ô hối lộ, tạo nên đặc ân cho một số người đồng thời gây ra bất công cho nhiều người”.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến tấm gương người Samaritano nhân lành, cử chỉ của ông cứu giúp người bị thương không phải là một hành vi làm phúc bố thí, nhưng là trở nên một với người mà ông cứu giúp, chia sẻ số phận của ngừơi bị thương. ĐTC nhận định rằng tinh thần ấy cũng phải hướng dẫn công trình cải tổ các tổ chức quốc tế, trong đó có tổ chức FAO. ”Cần vượt thắng thái độ dửng dưng hoặc nhìn sang phía khác, nhưng cần cấp thiết để ý đến những nhu cầu cấp bách hiện nay, với niềm tín thác rằng trong tương lai những kết quả của hoạt động có thể được chín mùi”. (SD 20-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

LỜI CẦU NGUYỆN, ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ MA THUẬT

"LỜI CẦU NGUYỆN, ĐÓ KHÔNG PHẢI LÀ MA THUẬT"

« Việc cầu nguyện không phải là một điều ma thuật, ta không làm ma thuật với việc cầu nguyện », Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố như thế trong bài giảng lễ hôm thứ Năm 20.6.2013 nói về Kinh Lạy Cha. « Chúa Giêsu cho chúng ta một lời khuyên để cầu nguyện : đừng phí lời, đừng ồn ào, tiếng ồn của sự trần tục, tiếng ồn của hư danh và Ngài đã giúp cho hiểu rằng cầu nguyện không phải là một điều ma thuật, ta không làm ma thuật với việc cầu nguyện ».

« Nhưng phải chăng tôi đang cầu nguyện ? cầu xin Thiên Chúa toàn năng ? quá xa vời. « Tôi không cảm thấy Ngài. Chúa Giêsu cũng không cảm thấy Ngài. Tôi đang cầu xin ai ? Thiên Chúa vũ trụ ? hơi thông thường, vào thời đại này, phải không ? Phương thức phiếm thần này vốn xảy đến với nền văn hóa này… bạn, bạn phải cầu xin Chúa Cha ! Đó là một lời mạnh mẽ « Cha ». Bạn phải câu xin Đấng đã sinh ra bạn, Đấng đã ban sự sống cho bạn, cho bạn. Không phải cho mọi người : cho mọi người, đó là quá vô danh ».

Một lần nữa Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng ta không thể cầu nguyện khi có kẻ thù trong tâm hồn mình . Và ngài thêm : « Lạy Cha, tôi không thể nói « Lạy Cha », điều đó không thể đối với tôi ». « Tôi không thể nói « Chúng con », bởi vì người nọ người kia đã làm điều này điều kia cho tôi. Và vì thế điều đó là không thể được ». « Họ phải kết thúc trong hỏa ngục, phải không ? Họ không phải là bạn của tôi ». « Quả thật, điều đó không dễ dàng ». « Nhưng Chúa Giêsu đã hứa ban Thánh Thần cho chúng ta : chính Ngài dạy dỗ chúng ta, từ bên trong, từ tâm hồn, làm thế nào thưa « Lạy Cha » và làm thế nào nói « Chúng con ».

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo Radio Vatican

100 NGÀY SAU KHI ĐƯỢC CHỌN, ĐỨC PHANXICÔ ĐÃ THỰC HIỆN MỘT CUỘC CÁCH MẠNG NHẸ NHÀNG

100 NGÀY SAU KHI ĐƯỢC CHỌN, ĐỨC PHANXICÔ ĐÃ THỰC HIỆN MỘT CUỘC CÁCH MẠNG NHẸ NHÀNG

Từ những ngày đầu tiên, Đức Phanxicô đã có nhiều cử chỉ đặc biệt : trả tiền ở nhà tiếp khách, đi xe buýt với các Hồng y, gọi điện thoại cho bạn bè trước… Từ chối những dấu mà nhiều người cho là thuộc quyền lực giáo hoàng… Tại Nhà Thánh Mát-ta, ngay cả mùa hè, ngài chia sẻ đời sống chung với các vị khách và tham vấn các Hồng y của Giáo triều, các giám mục dừng chân, các tu sĩ. Ngài cũng quan tâm đến các lính gác người Thụy Sĩ…

Các bài giảng thường ngày ở Nhà Thánh Mát-ta, đó là khuôn mặt của một Giáo Hội đang được vẽ nên

Trong các bài giảng thưởng ngày ở  Nhà Thánh Mát-ta, các buổi đọc Kinh Truyền Tin, các buổi tiếp kiến chung và riêng, chình khuôn mặt của một Giáo Hội đang được vẽ nên. « Thừa sai » hướng đến « các vùng ngoại vi », nghèo và quan tâm đến người nghèo, không phải « tổ chức phi chính phủ », không « quan liêu », không « hải quan mục vụ », không phải « người trông trẻ », không phải « tinh hoa », Giáo Hội theo Đức Phanxicô là dấu chỉ của sự mâu thuẫn « urbi et orbi » (thành Rôma và thế giới). Giáo Hội lên án « nền độc tài của các thị trường và lợi nhuận », những hình thức « nô lệ » hiện đại, « chủ nghĩa tiêu thụ », kêu gọi một « nền sinh thái nhân bản ». Giáo Hội chống lại mọi sự nghèo đói, thể hiện lòng trắc ẩn và lòng thương xót. Thay vì dầu hôi, Giáo Hội ở giữa « hương thơm của đoàn chiên ». Tuy nhiên, cũng có thắc mắc : những bài giảng tại Nhà Thánh Mát-ta là những lời của Huấn quyền hay là cá nhân ?

Dù sao người ta cũng ghi nhận « một làn gió mới trên Vatican » từ khi ngài lên ngôi mục tử hoàn vũ.

 

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo La Croix