TÓM TẮT THÔNG ĐIỆP LUMEN FIDEI

TÓM TẮT THÔNG ĐIỆP LUMEN FIDEI

Dưới đây là bài tóm tắt thông điệp đầu tiên của Đức Phanxicô có tựa đề « Lumen Fidei » (Ánh sáng đức tin), được công bố vào sáng 5 tháng 7/2013 :

Thông điệp gồm có phần dẫn nhập, bốn chương và phần kết luận. Trên thực  tế, nó là thông điệp về đức tin hầu như được Đức Bênêđíctô XVI hoàn thành và Đức Phanxicô đóng góp thêm phần của mình.

Phần dẫn nhập trình bày các mục đích và, cách riêng, sự cần thiết tái khám phá đặc tính rạng ngời của đức tin, vốn soi sáng cuộc sống, trợ giúp con người phân biệt tốt xấu, đang khi mà đức tin thường được coi như là một ảo tưởng, một bước nhảy vào cái vô tri vốn ngăn cản tự do của con người. Trong NămĐức Tin này và trong dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II, « một công đồng về đức tin », thật thích hợp khơi lại một sự nhận thức rộng lớn về đức  tin, được tuyên xưng trong sự duy nhất và toàn vẹn của nó. Đức tin là một hồng ân cần nuôi dưỡng va củng cố. Ai tin thì thấy ! Vì ánh sáng của đức tin, vốn đến từ Thiên Chúa, soi sáng toàn thể cuộc sống con người. Nó đến từ kỷ niệm về cuộc sống của Chúa Giêsu và mở ra một chân trời rộng lớn.

Chương thứ nhất (« Chúng tôi đã tin vào tình yêu »), khi gợi lên Abrahan, đã giải thích làm thế nào việc lắng nghe Lời Chúa được mời gọi ra khỏi cái tôi của mình để mở ra cho sự sống mới được hứa ban, do đó làm cho cho khả thi trong niềm hy vọng việc theo đuổi hành trình của chúng ta. Nhưng đức tin được gắn liền với tình cha, vì Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta không phải là một người xa lạ nhưng là một người Cha, nguồn mạch sự tốt lành, nguồn gốc của mọi sự và là sự nâng đỡ mỗi người. Trong lịch sử Israel, đức tin đối lập với việc tôn thờ ngẫu tượng, vốn làm biến dạng con người, làm cho con người trở nên tù nhân của các xung động của mình và tước đi khỏi con người sự mong đợi lời hứa. Về phần nó, đức tin là sự tin tưởng vào tình yêu thương xót của Thiên Chúa, Đấng đón nhận và luôn tha thứ, Đấng uốn nắn những bước sai lạc của cuộc sống của chúng ta. Đức tin là sự sẵn sàng để mình được biến đổi trước tiếng gọi của Thiên Chúa, một hồng ân nhưng không mà Ngài ban cho chúng ta và đòi hỏi sự can đảm và khiêm tốn tin tưởng  để khám phá con đường ánh sáng gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Sự nghich lý của đức tin là sự cầu xin liên lỉ với Thiên Chúa, Đấng củng cố con người và làm con người xa với các ngẫu tượng. Rồi thông điệp dừng lại trên hình ảnh về Chúa Giêsu Đấng trung gian, Đấng mở chúng ta ra cho  một chân lý cao cả hơn, cho sự biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa như là nền tảng của đức tin. Đức tin được củng cố từ việc suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, vốn mạc khải tình yêu không lay chuyển của Ngài đối với con người. Được phục sinh, Ngài trở thành một chứng nhân đáng tin cậy của đức tin qua đó Thiên Chúa hành động trong lịch sử và quyết định số phận chung cuộc của nó. Khía cạnh quyết định của niềm tin vào Chúa Giêsu là  tham dự vào cách nhìn của Ngài. Đức tin nhìn Chúa Giêsu nhưng còn quan điểm của Ngài. Cũng thế trong đời sống qua đó chúng ta tin tưởng vào người biết rõ hơn chúng ta, đối với đức tin, chính Chúa Giêsu giải thích Thiên Chúa cho chúng ta. Chúng ta tin vào Chúa Giêsu khi chúng ta chấp nhận lời Ngài, chúng ta tin vào Ngài khi chúng ta sáp nhập Ngài vào cuộc sống của chúng ta và chúng ta phó thác cho Ngài. Sự nhập  thể của Ngài là để đức tin không tách rời chúng  ta khỏi thực tại, để nó giúp chúng ta tất cả ý nghĩa của nó. Con người cứu mình nhờ đức tin, vì nó mở ra cho một tình yêu đi trước nó và biến đổi nó từ bên trong. Qua hành động này của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu mang cái nhìn về Chúa Giêsu, những tình cảm và tâm tình con thảo của Ngài. Không có sự hiện diện nàym ta không thể tuyên xưng Chúa. Đức tin trở thành đời sống Giáo Hội vì nó được tuyên xưng trong sự hiệp thông, giữa các tín hữu giữa lòng Giáo Hội. Không đánh mất căn tính của mình, các Kitô hữu hiệp nhất nên một để phục  vụ tha nhân. Đức tin không phải là một sự kiện riêng tư, một quan niệm cá nhân hay một ý kiến, nhưng là một sự lắng nghe chung vốn trở thành lời rao giảng.

Chương hai (« Nếu các ngươi không tin, thì các ngươi sẽ không hiểu”) trình bày mối liên hệ chặt che giữa đức tin và chân lý. Không có chân lý, đức tin không cứu được ! Nó vẫn là một câu chuyện hoang đường phóng chiếu ước muốn hạnh phúc của chúng ta. Chúng ta đang sống một cuộc khủng hoảng chân lý vốn làm cho sự nhắc nhở về mối liên hệ này nên cần  thiết, càng hơn nữa khi nền văn hòa thịnh hành chỉ có khuynh hướng tin vào thực tại kỹ thuật, vào những gì con người đạt tới xây dựng và đo lường bằng khoa học. Chân lý  vốn giải thích toàn thể cuộc sống lại được nhìn cách nghi ngờ. Chân lý cao cả không phải là chân lý đã từng là cơ sở của các chủ nghĩa chuyên chế của thế kỷ qua… Tiếp đến, thông điệp nhấn mạnh mối liên hệ giữa đức tin và tình yêu, không phải là tình yêu vu vơ nhưng là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng biến đổi và cho phép nhìn thấy thực tại vào một ngày kia. Nếu đức tin được gắn liền với chúng, thì chân lý và tình yêu không thể tách rời. Tình yêu đích thực vượt lên thời gian và trở nên sự hiểu biết. Tình yêu trung tín của Thiên Chúa là một chân lý mà trọng tâm của nó là sự gặp gỡ với Chúa Kitô nhập thể, Đấng đã đến với chúng ta để ban ân sủng và hoán cải chúng ta. Rồi vấn đề đối thoại giữa đức tin và lý trí, đặc biệt quan trọng khi chân lý của thế gian thường bị giảm thiểu thành một thực tại chủ quan và trở nên như một áp đặt cố chấp, đang khi tình yêu của Thiên Chúa không áp đặt bằng bạo lực và tiêu diệt con nguời như chủ nghĩa chuyên chế. Đức tin không cố chấp và ngừoi tín hữu không cao ngạo nhưng là nguời khiêm tốn mang một xác tín vốn tôn trọng nguời khác…

Chương ba (« Tôi truyền cho anh em những gì tôi  đã lãnh nhận”) bàn về tầm quan trọng của việc Phúc Âm hóa. Ai đã mở ra cho tình yêu của Thiên Chúa thì không thể giữ Ngài cho mình… Điều này ngụ ý một mối liên hệ  chặt chẽ giữa đức tin và ký ức vì đức tin không phải là một chọn lựa cá nhân. Thiên Chúa kết hợp hết thảy chúng ta trong thời gian bằng cách làm cho chúng ta trở nên đương thời với Chúa Giêsu. Ta không thể tin một mình bởi vì đức tin mở ra cho mỗi người giữa cộng đoạn là Giáo Hội. Do đó, ai tin thì không bao giờ một mình. Các Bí tích vẫn là phương tiện thông truyền đức tin… Đức tin không phải là một hành vi cá nhân và cô độc nhưng là một hành động được thực hiện trong sự hiệp thông Giáo Hội. Không ai có thể tự rửa tội… Đứa bé cần sự nâng đỡ của gia đình vốn thống truyền đức tin cho nó…Và rồi bí tích Thánh Thể là lương thực không thể thiếu của đức tin, một hành vi tưởng niệm vốn hiện tại hóa mầu nhiệm dẫn đưa từ thế giới hữu hình đến thế giới vô hình. Kinh Tin Kính bao gồm nguời tín hữu trong chân lý mà họ tuyên xưng, đang khi kinh Lạy Cha cho phép người Kitô hữu bắt đầu nhìn với đôi mắt của Chúa Kitô, và Thập Giới cho phép đi vào đối thoại với Thiên Chúa…

Chương bốn (“Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một thành đô”) giải thích mối liên hệ giữa đức tin và công ích, vốn hướng đến việc thiết lập một không gian sống tốt hơn của con nguời và các loại khác. Đức tin củng cố sự liên đới giữa các hữu thể nhân linh và giúp họ phục vụ công bằng, luật pháp và hòa bình. Nó không xa rời với thế giới vầ những nhu cầu của con người… Đức tin giúp chúng ta phục vụ công ích. Nó là một thiện ích của mọi nguời cho mọi người, vốn không chỉ dùng chuẩn bị Thế giới bên kia, nhưng là xây dựng một xã hội trần thế đang lữ hành hướng đến hy vọng. Trên bình diện đầu tiên của các cấu trúc mà đức tin soi sáng, có gia đình được xây dựng trên hôn nhân, sự kết hợp vững bền giữa một người nam và một người nữ, nảy sinh từ  giá trị của sự khác biệt giới tính và sống nhờ tình yêu đến từ Thiên Chúa… Thông điệp tiếp đến nói về Ngày quốc tế giới trẻ vốn cho phép họ diễn tả niềm vui của đức tin và sự dấn thân sống nó cách quảng đại. Có bạn trẻ muốn một cuộc sống có phẩm giá và việc họ gặp gỡ Chúa Kitô mang lại cho họ một niềm hy vọng vốn sẽ không làm họ thất vọng… Trong các mối tương quan xã hộim đức tin cho phép con cái của Thiên Chúa mang lại một ý nghĩa mới mẻ cho một tình huynh đệ đại đồng mà không phải chỉ là sự bình đẳng nhưng là kinh nghiệm về tình phụ tử của Thiên Chúa và việc nhận thức phẩm giá của mọi nguời. Đức tin giúp tìm ra những phưong thế tôn trọng thiên nhiên, nhưng mô hình phát triển tôn trọng, thoát khỏi chủ nghĩa duy lợi và lợi nhuận. Là công trình của Thiên Chúa, thiên nhiên phải đuợc coi như là một ân huệ cần đuợc sử dụng vì lợi ích của mọi người…Khi thiếu đi đức tin, thì chính các nền tảng của đời sống cộng đoàn sẽ có nguy cơ…Từ đó cần thiết tuyên xưng công khai niềm tin vào Thiên Chúa để soi sáng đời sống của gia đình nhân loại. Còn về vấn đề đau khổ và cái chết, người Kitô hữu biết rằng không thể loại bỏ chúng. Nhưng chúng có một ý nghĩa khi ta phó thác cho thánh ý của Thiên Chúa, bằng cách biến chúng thành những giai đoạn trưởng thành trong đức tin…

Phần kết luận (“Phúc cho người đã tin”) là một lời mời gọi bước theo Đức Maria, hình ảnh tuyệt hảo của đức tin. Mẹ của Chúa Giêsu đã cưu mang đức tin và niềm vui. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ để không bao giờ quên rằng người tín hữu không bao giờ một mình, và để Mẹ dạy chúng ta nhìn xem bằng đôi mắt của Chúa Giêsu.

Tý Linh (XBVN)

Theo VIS

HÀNH TRANG TÔNG ĐỒ

HÀNH TRANG TÔNG ĐỒ

Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện bằng cách cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các Tông đồ ra đi thực tập truyền giáo. Chúa Giêsu còn chọn thêm nhiều môn đệ nữa. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy 72 môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai đi Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví những lời đó như “một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo hoàn hảo”1.

1. Hành trang Tông đồ

Hành trang đi đường chỉ là: cây gậy, đôi dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.

Chuyến đi nào cũng cần đến những hành trang. Hành trang cồng kềnh bước đi sẽ chậm. Hành trang gọn nhẹ bước tới sẽ nhanh. Hàng trang càng được tinh giản chỉ còn lại những gì thiết yếu nhất thì bước chân cũng sẽ thanh thoát khai lối cho mùa sứ vụ.

Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Gậy và dép” như gợi lại buổi Xuất hành. Nhẹ nhàng quá! Bận vướng với của cải đất đai sản nghiệp đùm đề làm sao có đủ tự do để bứt ra mà dứt khoát lên đường?

Hành trang của những kẻ lên đường xem ra chẳng có gì. “Không bánh, không bị, không tiền, không hai áo”. Nghèo khó quá! Chả bù cho con người ngày nay luôn biết tích lũy lo xa, có của ăn chưa đủ, còn có của để dành nữa. Nhưng cái nghèo về tài sản lại cho thấy cái giàu về đức hạnh. Không lo chiếm hữu hoặc gắn bó với của cải vật chất, người tông đồ trở nên thanh thản lên đường bất cứ lúc nào. Không bận vướng những thứ lỉnh kỉnh làm nặng bước đi hoặc làm chùn bước tới, người Tông đồ học sống tinh thần phó thác để chỉ biết đợi chờ tất cả nơi một mình Thiên Chúa.

Xem ra chẳng có gì. Mà thực ra lại có tất cả. Bởi hành trang đích thực của họ chính là Chúa, Đấng đã nên sản nghiệp cho những kẻ được sai đi 2.

Hành trang ấy còn có ý nghĩa đặc biệt nữa. Đó là các môn đệ được tham dự vào ba chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép của tiên tri, và tấm áo của tư tế.

– Cây gậy

Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.

– Đôi dép

Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường. Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em“.

– Tấm áo

Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng hợp với hiến lễ Chúa Kitô.

Chúa Giêsu còn trao cho các môn đệ những quyền năng của Ngài: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ.

Với những hành trang như thế, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.

2. Phương thức hoạt động Tông đồ

Sứ vụ loan báo Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Khi sai đi “từng hai người một“, Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x. Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.

Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền giáo thường lên đường với nhau “từng hai người một”: Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)… Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu. Chứng tá về tính hiệp nhất khi gắn bó với Đấng đã sai mình, chứng tá về tình huynh đệ khi nhận ra mình được sai đi “từng hai người một”. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.

Chúa Giêsu gọi các môn đệ và sai đi truyền giáo. Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ.

Như thế, Tông đồ là người lên đường chứ không phải xuống đường. Lên đường là một tinh thần nhạy cảm của Tin Mừng được thể hiện qua lối sống gắn bó với sứ vụ. Nhạy cảm với những thao thức của thời đại để tìm đổi mới tư duy, nâng cao tầm nhìn, nới rộng kiến thức, mong diễn đạt Tin Mừng sát với ngôn ngữ hiện tại. Nhạy cảm với nhu cầu của tha nhân bằng muôn ngàn cách thể hiện lòng nhân ái vốn là điểm sáng của giới luật yêu thương, đồng thời là dấu hiệu dễ nhận ra nhất của Tin Mừng cứu độ. Nhạy cảm với Giáo Hội để tìm hiệp nhất. Nhạy cảm với đồng nghiệp để tìm huynh đệ nâng đỡ cộng tác. Nhất là, nhạy cảm với Chúa để tìm thuộc về Ngài mỗi ngày một hơn. Và dọc dài sứ vụ, tư thế lên đường sẽ làm nên hình ảnh chứng nhân 3.

3. Sứ vụ Tông đồ là sống chứng nhân

Trao “Sứ vụ” cho các môn đệ, Chúa Giêsu không bảo các ông “phải giảng điều gì”. Ngài chỉ căn dặn các ông những chi tiết “phải sống”. Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.

Trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phaolô VI quả quyết ít nhất hai lần rằng, phương thức thứ nhất để rao truyền Phúc Âm chính là làm chứng bằng một cuộc sống Kitô hữu đích thực (x. số 21 và 41).

Có ba cách làm chứng: nói, làm và sống. Hiệu năng nhất là cách thứ hai và thứ ba. Ai cũng biết nói thì dễ, làm khó hơn, và sống như mình nói lại càng khó hơn nữa. Chính việc làm và đời sống làm cho lời mình nói đáng tin hơn. Nhưng cả khi người ta chưa nói hay không thể nói, chưa làm hay không thể làm một số điều nào đó, thì người ta đã có thể sống điều mình xác tin và muốn chia sẽ.

Theo Đức Phaolô VI, làm chứng bằng cuộc sống, bằng hành động cụ thể là một cách rao giảng thầm lặng, không nghe được, nhưng thấy được và rất hữu hiệu, nhất là đối với con người thời nay vì hai lý do: một là vì thời nay (thời của khoa học thực nghiệm và của óc thực tiễn), người ta nhạy cảm với việc làm và dị ứng với lời nói và các học thuyết, hai là vì trong thế giới trần tục hoá ngày nay, như ở Việt Nam chẳng hạn, tôn giáo bị đẩy ra bên lề như chuyện riêng tư, thế nên không phải bất kỳ ở đâu và lúc nào người ta cũng có thể, hay nên trực tiếp rao giảng Tin Mừng. Năm 1937, Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ nói với các nhà truyền giáo: “Hãy để cho đời sống các ngài nói với chúng tôi như đoá hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ đơn sơ để cho hương thơm của mình toả lan. Cả người mù không nhìn thấy hoa hồng vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ tới sự cao cả của nhân dân của các ngài khi họ toả hương thơm đời sống. Đối với tôi, đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu chứ không phải chú giải nó”.

Vậy để loan báo Tin Mừng thuyết phục, người Kitô hữu phải sống thế nào cho cuộc đời mình trở thành đáng tin. Đới sống đáng tin thì tự nhiên lời nói cũng đáng tin. Làm tông đồ, rao giảng Phúc Âm đặc biệt thích hợp cho ngày nay là làm cho đời sống Kitô hữu đáng tin. Như vậy toàn bộ cuộc sống ta đều phải “làm chứng”: lời ăn tiếng nói, cách cư xử, giao tiếp, trong gia đình, ngoài xã hội, khi làm việc, khi vui chơi giải trí… Đối với người có ý thức truyền giáo thì nhất nhất việc gì, khía cạnh nào của đời sống họ cũng có thể là lời loan báo. Lời trách nặng nề nhất của người chưa biết Chúa đối với tín hữu Công giáo có lẽ là: Người Công giáo các anh (các chị) không mấy đáng tin; các anh (các chị) nói một đường làm một nẻo. Đức tin, giáo lý nghe thì thật hay nhưng không thấy đem lại cho xã hội một cái gì thật sự tốt đẹp và mới mẻ. Lời phê bình đó có lẽ là quá đáng nhưng thiết tưởng ta chẳng cần cãi lý làm gì, hãy coi đó như một lời nhắc nhở để chúng ta nhìn lại cuộc sống “chứng tá” của mình. Xã hội này đang suy thoái trầm trọng về đạo đức: tham nhũng, thối nát, dối trá, bất công, xì ke ma túy, sa đoạ … Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng nữa không? 4.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu,xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát,không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui,như người tìm được viên ngọc…. quý,biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân. Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.(Mana).

1. “Comment lire un évangile?”, Seuil, trang 103.

2. “Với cả tâm tình”, trang 117-120, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống.

3. “Với cả tâm tình”, trang 121.

4. “Đạo trong đời”, trang 252-255, Lm Nguyễn Hồng Giáo.

LM. Giuse Nguyễn Hữu An

TÂM BÃO

TÂM BÃO

Chủ đề: “Sứ vụ của chúng ta là đem bình an của Đức Kitô đến cho thế gian”

Trong năm 1980, một tờ báo phát hành trên toàn quốc có đăng một câu chuyện khác thường. Một người kia ra xe của ông đang đậu trước một trung tâm thương mại lớn. Ngay trên ghế ngồi, có một mẩu giấy viết:

“Thưa ông/bà;

Tôi đã định ăn cắp chiếc xe này cho đến khi tôi chợt nhìn thấy hàng chữ ‘Peace-Be-to-You’ (Bình An-Cho-Bạn) dán trên kính xe. Nó làm tôi do dự và suy nghĩ. Tôi nghĩ nếu tôi ăn cắp chiếc xe này, ông bà chắc chắn sẽ không có bình an, và ngược lại, tôi cũng không cảm thấy bình an, vì đây là ‘chuyến ăn hàng’ đầu tiên của tôi.

Do đó, ‘bình an cho bạn’ và cho tôi. Nhớ lái xe cẩn thận và lần sau đừng quên khóa cửa.”

Ký tên: “Người Muốn Ăn Cắp Xe.”

Câu chuyện khác thường đó làm sáng tỏ mệnh lệnh khác thường của Chúa Giêsu mà Người đã ban cho các môn đệ trong bài phúc âm hôm nay:

Vào bất cứ nhà nào, trước hết các con hãy nói, ‘Bình an cho nhà này.’ Nếu một người yêu chuộng bình an sống ở đó, lời chúc bình an của các con sẽ ở với họ; nếu không, hãy lấy lại lời chúc bình an.

Áp dụng điều này vào câu chuyện nói trên, chúng ta thấy câu “Bình An-Cho-Bạn” đã nới rộng sự bình an của Đức Kitô đến cho người muốn ăn cắp xe. Tên trộm này là người bình an trong tâm hồn, và bình an của Đức Kitô đã ngự trên hắn ta.

Điều đó nêu lên một câu hỏi: Chúng ta muốn nói gì về “bình an của Đức Kitô”? Bình an đó được cấu tạo bởi những gì?

Khi Kinh Thánh dùng chữ bình an, nó có bốn ý nghĩa khác nhau.

Thứ nhất, nó được dùng trong ý nghĩa quân sự–để chỉ về sự thiếu vắng chiến tranh giữa các quốc gia. Do đó, chúng ta nói, “Các quốc gia đang sống bình yên.”

Thứ hai, nó được dùng ý nghĩa cá nhân–để chỉ về một cảm giác hạnh phúc của con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng tôi hòa thuận với nhau.”

Thứ ba, Kinh Thánh dùng chữ bình an trong ý nghĩa tôn giáo–để chỉ về một tương giao đúng đắn giữa Thiên Chúa và con người. Do đó, chúng ta nói, “Chúng ta hài hòa với Thiên Chúa.”

Sau cùng, Kinh Thánh dùng chữ bình an để chỉ một tình trạng mà trong đó mọi người trên mặt đất hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân, và với chính mình. Đây là điều chúng ta muốn nói qua chữ “bình an của Đức Kitô”.

Đây cũng là điều Đức Giêsu muốn nói khi Người tuyên bố, “Thầy để lại bình an cho các con; chính bình an của Thầy mà Thầy ban cho các con” (Gioan 14:27). Vị linh mục nhắc lại lời này khi cử hành Thánh Lễ. Sự bình an này thì không gì khác hơn là Nước Thiên Chúa được trị đến trên mặt đất-là vương quốc mà chúng ta thường cầu xin trong kinh Lạy Cha khi chúng ta đọc, “Xin cho Nước Cha trị đến…”

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ hãy đem vào thế gian trong thời ấy. Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.

Chúng ta sẽ là các khí cụ mà sự bình an của Đức Kitô sẽ được trải rộng đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới.

Một loại suy sau đây có thể giúp chúng ta biết ý Chúa muốn chúng ta thi hành điều này như thế nào.

Khi gió của cơn bão nhiệt đới lên quá 75 dặm một giờ, người ta gọi nó là “typhoon” (bão lớn) khi xảy ra ở Thái Bình Dương, và gọi là “hurricane” (cuồng phong) khi xảy ra ở Đại Tây Dương.

Để có một ý niệm thế nào là trận cuồng phong, hãy tưởng tượng ra đĩa “frisbee” với một lỗ hổng ở giữa.

Bây giờ, thử tưởng tượng đĩa ấy lớn dần cho tới khi nó rộng đến 100 dặm và lỗ hổng ở giữa rộng đến 10 dặm. Và rồi hãy tưởng tượng cái đĩa khổng lồ ấy xoay tròn với tốc độ 100 dặm một giờ. Đó là cơn cuồng phong hay cơn bão.

Phần đáng chú ý của cơn bão là tâm điểm của nó-cái lỗ hổng ở giữa đĩa “frisbee”. Mặc dù gió lốc đang gào thét chung quanh tâm bão với tốc độ 100 dặm một giờ, nhưng ở tâm bão thì lại êm ả. Không có một chút gió lốc.

Nếu bạn đứng trong tâm bão và nhìn lên, bạn sẽ thấy bầu trời xanh và ánh nắng chói chang.

Tâm bão là một hình ảnh tốt để nói lên điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta trong Tiệc Thánh Thể, khi chúng ta quy tụ để chia sẻ bữa tiệc ấy vào mỗi Chúa Nhật.

Có biết bao cơn bão chung quanh chúng ta ở trong thế giới này. Con người gào thét và lấy của nhau; các nhóm dấy loạn và cướp bóc; quốc gia này đánh nhau với quốc gia khác.

Tuy nhiên, ở bàn Tiệc Thánh Thể thì lại êm ả. Chúng ta nhìn lên và thấy bầu trời xanh cùng ánh nắng chói chang. Chúng ta đang ở tâm bão. Chúng ta vui hưởng “bình an của Đức Kitô.”

Đức Giêsu ban cho chúng ta sự bình an này không phải để chúng ta ở mãi trong đó, nhưng để bồi dưỡng trong giây lát.

Cũng như tâm bão chỉ kéo dài chừng một giờ đồng hồ khi bão đi qua, bữa Tiệc Thánh Thể cũng chỉ khoảng một giờ.

Đức Giêsu không bao giờ muốn chúng ta ở mãi trong tâm bão. Người muốn chúng ta đi vào cơn bão. Đức Giêsu muốn từ bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta tiến bước để trở nên tâm bão giữa các trận cuồng phong của thế gian.

Người muốn chúng ta chia sẻ sự bình an của Người, mà chúng ta được cảm nghiệm trong Thánh Lễ, với toàn thế giới.

Người muốn chúng ta trở thành các khí cụ mà qua đó sự bình an của Đức Kitô được trải rộng trên toàn thế giới.

Và vì thế Kinh Thánh nói về bốn loại bình an: sự bình yên giữa các quốc gia, sự hòa thuận giữa chúng ta, sự hài hòa với Thiên Chúa, và bình an của Đức Kitô-đó là một tình trạng mà mọi người trên thế giới hài hòa với Thiên Chúa, tha nhân và chính mình.

Sự bình an sau cùng này, bình an của Đức Kitô, thì không gì khác hơn là sự trị đến của Vương Quốc Thiên Chúa.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã thể hiện khi làm người.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải đem vào thế gian trong thời đại của họ.

Chính sự bình an này mà Đức Giêsu truyền chúng ta phải đem vào thế gian trong thời đại chúng ta.

Chính sự bình an này mà chúng ta cầu xin Chúa Giêsu tuôn đổ trên chúng ta vào sáng hôm nay:

Lạy Chúa, xin giúp con trở nên khí cụ bình an của Chúa,
Để nơi thù hận, con đem đến tình yêu;
nơi xúc phạm, con đem đến tinh thần tha thứ;
nơi nghi kỵ, con đem đến niềm tin;
nơi bất hoà, con đem đến sự hoà hợp;
nơi thất vọng, con đem đến hy vọng;
nơi bóng tối, con đem đến sự sáng;
nơi buồn sầu, con đem đến niềm vui.

Lạy Chúa, xin hãy dạy con
tìm an ủi người hơn được người ủi an,
tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết;
tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.

Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ;
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân;
chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.”

(Thánh Phanxicô Assisi)

LM. Mark Link, S.J.

AI LÀ THỢ GẶT?

AI LÀ THỢ GẶT?

Trong khi “đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền, Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9, 35-38). Và vì thế, Người tiếp tục sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (CN XIV/TN-C – Lc 10, 1-12.17-20). Trước đó, Người đã sai 12 môn đệ đi giảng dạy (Lc 6, 12-15), và vì là 12 môn đệ đầu tiên chính thức được sai đi, nên các Thánh sử nêu tên đầy đủ; nhưng lần này là con số đông gấp 6 lần. Sự kiện này mang ý nghĩa gì? Điều này cho thấy ngay từ giai đoạn khởi đầu cho sứ vụ cứu độ nhân loại, Đức Giê-su Ki-tô đã trao sứ vụ cho tất cả những ai tin và đi theo Người, được Người coi là bạn hữu (“Anh em là Bạn Hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.” – Ga 15, 14). Như vậy là đã rõ, tất cả mọi Ki-tô hữu đều được coi là thợ gặt trên cánh đồng lúa chín Truyền Giáo.

Đức Giê-su Ki-tô – Đầu của Giáo Hội – đã chỉ thị rõ ràng như vậy, nhưng tiếc một điều là sau đó, Giáo Hội lại chỉ dành cho Giám mục đặc quyền giảng dạy Lời Chúa. Đến Linh mục, Tu sĩ cũng không được phép, chớ đừng nói là giáo dân. Mãi đến thế kỷ XII, XIII, có những nhóm giáo dân tự phát chia sẻ Lời Chúa (như nhóm “Các bà mẹ khoác áo choàng” chẳng hạn). Một số Linh mục trong những dòng tu (Dòng Phan-sinh, Dòng Đa Minh) nhận chân được vấn đề, nên đứng ra trình bày với Toà Thánh để xin phép và được Đức Giáo Hoàng châu phê, cho giáo dân được chính thức tham dự vào công cuộc loan báo Tin Mừng (Dòng Phan Sinh cũng như Dòng Đa Minh từ đó có thêm Dòng Ba dành cho giáo dân, ngoài 2 Dòng Nhất và Nhì dành cho Linh mục, Tu sĩ, Đan sĩ). Kể từ đó, giáo dân mới được quyền rao giảng Tin Mừng và phải chờ đến thế kỷ XX, với Công đồng Va-ti-ca-nô II (1962-1965), người giáo dân mới chính thức được công nhận có quyền và có bổn phận loan báo Tin Mừng, chia sẻ Lời Chúa.

Sở dĩ như vậy, cũng một phần do cách hiểu Tin Mừng ở giai đoạn đầu của Giáo Hội. Tuy nhiên, cho đến ngày nay vẫn còn rải rác những tư tưởng cho rằng chỉ có hàng Giáo sĩ, Giáo phẩm (Giám mục, Linh mục, Phó tế) mới có quyền làm “thợ gặt” và trong những giờ chầu Thánh Thể, khi hát bài “Lời nguyện Truyền Giáo” (“Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt…”), đa phần đều cầu nguyện xin Chúa ban thêm nhiều linh mục. Thật ra, làm “thợ gặt” không nhất thiết cứ phải là linh mục. Và cũng không phải hễ cứ là linh mục thì sẽ là “thợ gặt” đích thực. Điều cần thế là phải cầu xin Thiên Chúa ban cho có những “thợ gặt” đích thực, nghĩa là những “thợ gặt” lành nghề, chịu khó, có tinh thần và lương tâm tông đồ, chứ không phải là những thợ gặt “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Lc 20, 46).

Còn nếu cứ thích hiểu “thợ gặt” là linh mục, thì xin đọc kỹ Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân (số 14): “Thánh Phê-rô Tông đồ đã dạy khi gọi những người đã chịu phép rửa tội “là dòng giống được lựa chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, là dân tộc thuộc về Thiên Chúa” (1 Pr 2, 9). Và cũng vì nó bắt nguồn từ sự thông hiệp trong Giáo Hội nên việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào ba chức vụ của Đức Ki-tô đòi hỏi phải sống và thực hiện trong sự thông hiệp, và để cho sự thông hiệp ngày càng tăng trưởng. Thánh Au-gus-ti-nô viết: “Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục duy nhât.”

Linh Mục duy nhất đó chính là Đức Ki-tô – vị Linh Mục Thượng Phẩm (Tư Tế Thượng Phẩm), Đấng là Đầu, là người chăn dắt các chiên linh mục. Tuy rằng tất cả những tín hữu đã lãnh nhận Phép Rửa đều được coi là linh mục, nhưng những người được đón nhận Ơn Gọi Tu Trì (Ơn Thiên Triệu) mới chính thức là người thừa kế công việc (thừa tác vụ) của Linh Mục Duy Nhất là Đức Giê-su, thông qua bí tích Truyền Chức (nên được gọi là Tư tế thừa tác). Số đông còn lại chỉ là những linh mục tự chăn dắt chính con chiên bản thân và đóng góp sức mình vào sứ vụ chung của cả đoàn chiên (nên được gọi là Tư tế cộng đồng). Rõ ràng các chiên linh mục được Linh Mục duy nhất Giê-su chăn dắt bao gồm cả Tư tế thừa tác và Tư tế cộng đồng.

Nhìn vào nhu cầu loan báo Tin Mừng cho thế giới, Đức Giê-su nhận thấy số người đi loan báo so với số người cần được loan báo quả thật còn quá ít. Vì thế, điều Người yêu cầu là “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Nghĩa là Người yêu cầu các tín hữu hãy cầu xin Thiên Chúa làm cho số “thợ gặt” đông lên. Điều lý thú ở đây là Người chưa yêu cầu các môn đệ làm “thợ gặt” chính hiệu, mà hãy cầu nguyện cho có nhiều “thợ gặt” đã. Khi thành tâm cầu nguyện như thế, ắt Ông Chủ sẽ thoả mãn nhu cầu, vì “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7, 7). Và khi lời cầu xin ấy đạt hiệu quả tốt đẹp, thì những người cầu nguyện ấy đã đương nhiên là những “thợ gặt” chính hiệu rồi vậy.

72 “thợ gặt” được sai đi loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến gần, đó là một sứ mệnh cao trọng và vô cùng khẩn thiết trong một thế giới chứa đầy hận thù gian ác. Một cách cụ thể thì đó là sứ mệnh hòa giải đem lại an bình cho nhân loại như chính Đức Giê-su đã đến và mời gọi cộng tác với Người trong sứ vụ cao trọng đó. Những tưởng sứ vụ hoà bình thì chỉ là đi vào một cánh đồng mênh mông bát ngát những bông lúa chín vàng để thoải mái gặt, ai dè lại được Người Sai Đi báo trước: “Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói” (Lc 10, 3). Chiên con mà đi vào giữa bầy sói thì không dễ dàng gì mà thực hiện nổi sứ vụ đi ngược lại với dục vọng của sói dữ.

Tuy nhiên, nếu chiên con tin tưởng mãnh liệt vào Người Thầy đã sai mình đi, thì sẽ được “Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.” (Lc 10:19), và sẽ hoàn tất được sứ mệnh. Chỉ đến khi nào “Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau” (Is 11, 6), “Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò” (Is 65, 25); thì lúc ấy các thợ gặt sẽ hoan hỉ báo công và được Ông Chủ “sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.” (Mt 25, 33-34).

Còn biểu tượng nào diễn tả cảnh hòa bình cho bằng cảnh chiên con nằm chung với chó sói (Is 11, 6; 65, 25). Đó là hình ảnh tuyệt vời đến siêu thực. Đó cũng là sứ mệnh hòa giải khó khăn nhất mà người môn đệ phải thực hiện trên bước đường truyền giáo. Đức Giê-su đã biết trước tất cả những nguy hiểm đó vì chính Người cũng đã phải đối mặt với khổ đau và cái chết. Người môn đệ cũng phải chia sẻ cùng một thân phận, nên cần phải nhận chân được sự khổ đau và cái chết chính là thành quả gặt hái được của những “thơ gặt” chính hiệu trên cánh đồng Truyền Giáo. Hãy vững tin và kiên trì cầu nguỵên cho mình có đủ can đảm và dũng khí chấp nhận khổ đau và nhất là cái chết vì Tình Yêu như Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô, thì sẽ được trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Vâng, “Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11).

Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa thương ban cho nhân loại thật nhiều “thợ gặt” là những Tông đồ đích thực, thiện nghệ, có tình yêu thật sự đối với Thiên Chúa và tha nhân, để họ dám hy sinh cho vinh quang của Chúa và hạnh phúc của mọi “người thân cận” trên khắp năm châu bốn biển. Nhờ đó, Nước Chúa sẽ được thực hiện ngay trên trần gian này. Ôi! “Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt. Chúa hãy ban nhiều thợ biết nhiệt thành, để Nước Chúa rộng lan khắp nơi. Xin Chúa ban cho đoàn chúng con nên Tông đồ thiện toàn mở Nước Chúa Trời”. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO

GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO

Suy niệm Tin Mừng CN 14 TN C hôm nay, trong bài: “CHÚA SAI TÔI ĐI”, ĐTGM. Ngô Quang Kiệt nói: “Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay”.

          Cha JM. Lam Thy, trong bài suy niệm: “AI LÀ THỢ GẶT”, cắt nghĩa rõ hơn: “Trước đó, Người đã sai 12 môn đệ đi giảng dạy (Lc 6, 12-15), và vì là 12 môn đệ đầu tiên chính thức được sai đi, nên các Thánh sử nêu tên đầy đủ; nhưng lần này là con số đông gấp 6 lần. Sự kiện này mang ý nghĩa gì? Điều này cho thấy ngay từ giai đoạn khởi đầu cho sứ vụ cứu độ nhân loại, Đức Giê-su Ki-tô đã trao sứ vụ cho tất cả những ai tin và đi theo Người, được Người coi là bạn hữu . “Anh em là Bạn Hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.” – Ga 15, 14. Như vậy là đã rõ, tất cả mọi Ki-tô hữu đều được coi là thợ gặt trên cánh đồng lúa chín Truyền Giáo”.

Cha JM. Lam Thy còn nói đến việc Hội Thánh qua các thời kỳ đã nhìn vai trò giáo dân rất thấp bé, mãi cho đến Công đồng Va-ti-ca-nô II (1962-1965), người giáo dân mới chính thức được công nhận có quyền và có bổn phận loan báo Tin Mừng, chia sẻ Lời Chúa.

 Thế nhưng, cho đến ngày nay có vẻ như quan niệm sai lầm ấy vẫn còn tồn tại nơi não trạng của cả các giáo sĩ và giáo dân. Một số giáo sĩ hoặc muốn ôm đồm công việc truyền giáo cho mình, hoặc chưa dám tin về ý thức truyền giáo của giáo dân. Vì vậy, nếu có một số nào đó đã ý thức và dấn thân vào việc truyền giáo trong mọi lĩnh vực cuộc sống, thì lại bị kết án là “không có bằng cấp”, “không đủ tư cách”, làm việc “bao đồng”,  hoặc “không có bài sai”. Có phải vì não trạng ấy của các Giáo Sĩ đã khiến cho đa số giáo dân bỗng trở nên ươn lười, không mạnh dạn dấn thân, cầu an, tránh sự phật lòng các đấng làm thầy “chính danh”.

Ước gì tình trạng ấy đang chỉ là số ít.

Và thiết tưởng cần nhân lên nhiều hơn nữa những mô hình truyền giáo mới trong các cộng đoàn

-bắt đầu từ việc các đấng làm thầy khiêm tốn nhìn nhận sứ vụ truyền giáo của tất cả những người đã được rửa tội, của giáo dân

-họ cần được huấn giáo qua các bài giảng lễ, qua những cuộc tĩnh huấn, học hỏi.

-mở ra cụ thể cho họ những chương trình chứng nhân giữa đời thường, để chính khi họ sống đời sống công giáo công chính, là họ đã truyền giáo vậy.

-tránh xem thường những nhiệt tình của giáo dân, nhưng cần hướng dẫn, nâng đỡ, khích lệ họ để họ đi đúng đường hướng của Hội Thánh.

 Đã đến lúc cả giáo sĩ lẫn giáo dân cần hỗ trợ cho nhau cách xứng hợp để cả hai chu toàn sứ vụ truyền giáo. Xin đừng xem thường nhau nữa. Và cũng xin đừng làm gương xấu về việc xem thường nhau trong việc truyền giáo, nhất là gương xấu nơi các giáo sĩ. Một cha sở xem thường cha phó, xem thường các cha khác; vị đương nhiệm chê bai vị tiền nhiệm; một cha tỏ vẻ vâng mà không phục đức giám mục của mình… thì giáo dân là gì trong mắt cha, nếu không phải là một đám chiên dốt nát, ít học, biết gì mà truyền giáo!

Nhìn lại một chặng đường Công Giáo Việt Nam sau năm 1975, chúng ta có thể thấy được một toàn cảnh Hội Thánh mà vai trò của Giáo Dân Việt Nam thực là đáng kể. Trong lúc các giám mục, linh mục gặp nhiều khó khăn khi thi hành tác vụ, thì chính giáo dân là những người giữ lại nhà thờ, giữ sinh hoạt tôn giáo giữa làn tên mũi đạn. Cũng chính giáo dân trong những cụm “cộng đồng cơ bản” (grassroots community, communauté de base) giữ và trao cho nhau ngọn lửa đức tin, đức cậy, đức mến. Hơn thế nữa, đời sống Tin, Cậy, Mến của họ cũng làm chứng cho mọi người chưa nhận biết Chúa về một Thiên Chúa đáng tôn thờ, và tôn thờ tuyệt đối.

Thưở ấy, có những việc mà linh mục khó làm, nhưng giáo dân làm được. Có những nơi linh mục không thể đến được, nhưng giáo dân thì vào tận bên trong. Có những chuyện nhạy cảm linh mục không dám đương đầu, nhưng giáo dân thì sẵn sàng vì chân lý. Có những sẻ chia mà linh mục không thể sẻ chia được, nhưng giáo dân thì cụ thể sống với nhau bằng đức ái, chia nhau cái củ nần, chén bắp chà vôi qua bữa…

Năm 2000, một cha được chuyển về giáo xứ nọ. Trong buổi họp khẩn cấp với Hội Đồng Giáo Xứ và các ban ngành đoàn thể, cha nói ngay câu đầu tiên: “Phải hạ bức tượng ông thánh Tử Đạo Việt Nam xuống ngay”. Ông chủ tịch từ tốn: “Thưa cha, ông thánh của chúng con linh lắm. Không hạ được đâu. Một ông Nông Hội xã đề nghị đem xe ủi mà ủi tượng đi. Tức thì hai hôm sau, chính ông ấy chết ngay dưới bánh xe ủi trước nhà thờ kia”. Cả hội trường đồng thanh xin cha đừng hạ tượng. Cha nói: “Đúng là tôi đến với anh chị em như chiên con vào giữa đám sói rừng”. Cả giáo xứ buồn man mác. Nghĩ mà thương các cụ Toma L, Phao-lô T…, Sơ cụ M (MTG QN), Sơ cụ A, M, L  (St Paul ĐN) đã kiên trì gìn giữ GX từ sau 1975 có giờ kinh, giờ phụng vụ…. Nghĩ mà thương cha tiền nhiệm chịu thương chịu khó với Giáo Xứ 18 năm, từ những năm 1982 với ngôi nhà thờ tranh tre đổ nát…. Bảo vệ Đức Tin là sói sao? Không sao! Nhờ kiên quyết của giáo dân mà sau 5 năm quản xứ, cha không thể thực hiện ý hạ tượng, lại hiểu và thương giáo dân hơn.

 Ngay lúc này, tại Việt Nam, lời kêu gọi “Lúa chín đầy đồng, mà thiếu thợ gặt. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến” vẫn còn đang khẩn thiết lắm. Chỉ có một, hai giáo phận đã có đủ linh mục phục vụ Hội Thánh Người. Đủ linh mục không có nghĩa là đủ thợ gặt. Thợ gặt vẫn còn thiếu. Huống chi đa số giáo phận còn thiếu linh mục trầm trọng thì thợ gặt còn thiếu tới đâu.

Xin chủ ruộng sai thợ gặt đến ngay trong nhà mình, để cha truyền giáo cho con trai, mẹ truyền giáo cho con gái bằng chính đời sống đạo đức của mình. Xin chủ ruộng sai thợ gặt đến ngay trong khu phố của mình, để đời sống của những người có đạo trở nên lời chứng hùng hồn cho Triều Đại Thiên Chúa đã đến. Xin chủ ruộng sai chính mình vào cánh đồng truyền giáo, là xin cho chính mình sống đúng lời Chúa dạy, đi đúng đường Chúa đi, sống công chính giữa một xã hội bất công chằng chịt, sống trong sạch giữa một thế giới nhơ uế, sống đơn sơ nghèo hèn giữa những con người tham hưởng thụ danh lợi dục…. để trở nên họa ảnh tuyệt đẹp của một Thiên Chúa hiền lành, khiêm nhượng, giàu lòng khoan dung, hằng sống….

Đừng trách người ta lì lợm không tin vào Thiên Chúa, nhưng hãy ngộ ra điều này: người ta không theo đạo không phải vì Đạo không tốt, nhưng một phần, vì người có đạo sống không tốt hơn họ. Đôi khi còn tồi tệ hơn họ. Tại một giáo xứ được kể là lớn nhất nhì Giáo Phận, xảy ra chuyện người có đạo cầm hung khí bất thần đến đánh đập người có đạo ngay trong bữa cơm tối. Máu đổ, cơm đổ trộn lẫn vào nhau. Cả nhà 5 con người ta, cha mẹ và 3 con, đều phải nhập viện trong một đêm. Cha Mẹ bị nặng nhất, phải nằm viện hơn một tháng trời. Người mẹ ra viện, trong tình trạng nửa khùng nửa điên! Đạo nào dạy người có đạo làm như thế. Người chưa có đạo thấy cách hành xử của người có đạo mà ớn lạnh! Truyền giáo cho ai?

Trân trọng đón nhận Lời Chúa hôm nay, mỗi giáo dân vui mừng tạ ơn Chúa vì bài sai quý giá và những chỉ dẫn cụ thể:

-Hãy biết nâng đỡ nhau sống đạo tốt để truyền giáo: “hai người một”

-Hãy hiền lành, khiêm nhượng như “chiên con vào giữa sói rừng”.

-Đừng quá bận tâm đến tiền bạc phương tiện. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”.

-Đừng lo ra chia trí vì những chuyện bên lề, hình thức bên ngoài, nhưng hãy nhắm đến nội dung sống đạo tốt. “Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”.

-Trước tiên là phải “mang bình an đến cho người”, bình an của Chúa được thể hiện trong yêu thương phục vụ.

Lạy Chúa, xin giúp con ý thức và sống đời sống công giáo tốt trong nhà, trong giáo hội, ngoài xã hội, để mọi người nhìn thấy việc chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời.

A men

PM. Cao Huy Hoàng, 04-7-2013

NỖI ĐAU KHỔ CỦA ANH CHỊ EM CHÚNG TA LÀ NƠI GẶP GỠ CHÚA KITÔ

« Để gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, cần phải ôm lấy cách thắm thiết những thương tích của Chúa Giêsu nơi những anh chị em đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, tù tội của chúng ta ». Đó là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô khi giải thích đoạn Tin Mừng trong thánh lễ kính nhớ thánh Tôma Tông đồ. Trong thánh lễ này có các linh mục và các cộng tác viên của Hội Đồng Tòa Thánh Đối Thoại Liên Tôn, do ĐHY Tauran  điều hành.

Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra cho các Tông đồ, nhưng thánh Tôma không có mặt : « Chúa biết tại sao Ngài thực hiện sự việc. Đối với mỗi người trong chúng ta, ngài cho thời gian mà Ngài nghĩ là thích hợp nhất. Ngài đã ban cho thánh Tôma một tuần ». Chúa Giêsu đã tỏ mình nhờ các vết thương : « Toàn thân Ngài là trong sạch, đẹp đẽ, đầy ánh sáng, nhưng những vết thương đã và luôn luôn có đó » và khi Chúa đến vào lúc tận cùng thời gian, Ngài sẽ cho chúng ta thấy các thương tích của Ngài ». Thánh Tôma muốn đặt tay vào đó để tin.

« Ngài hơi cứng đầu. Nhưng Chúa đã muốn một người cứng đầu để cho chúng ta hiểu điều gì lớn lao hơn. Thánh Tôma đã nhìn thấy Chúa, ngài đã được mời gọi xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn và ngài đã không nói : « Quả thật, Chúa đã phục sinh ». Không ! Ngài đi xa hơn. Ngài đã nói : « Lạy Thiên Chúa ». Đây là một đệ đầu tiên đã tuyên xưng thần tính của Chúa Kitô sau phục sinh. Và ngài đã thờ lạy Người. »

« Và như thế, chúng ta hiểu đâu là ý định của Chúa cho ngài chờ đợi : dùng sự nghi ngờ của ngài và dẫn ngài không phải đến chỗ khẳng định sự phục sinh, nhưng là thần tính của Người. Con đường dẫn đến gặp gỡ Chúa Giêsu-Thiên Chúa, đó là những thương tích của Người. Không có con đường nào khác.»

« Trong lịch sử Giáo Hội, đã có một vài sai lầm trên con đường đến với Thiên Chúa. Một số đã tin rằng Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa của người Kitô hữu, chúng ta có thể tìm thấy Ngài trên con đường suy niệm, và đi xa hơn trong việc suy niệm. Đó là nguy hiểm ! Bao nhiêu người đã lạc mất trên con đường này và không đạt tới đó. Có lẽ họ đạt tới chỗ hiểu biết Thiên Chúa, nhưng không phải sự hiểu biết Chúa Giêsu-Kitô, Con Thiên Chúa, Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó là con đường của những người theo thuyết bất khả tri… »

« Một số khác nghĩ rằng để đạt tới Thiên Chúa, chúng ta phải khổ chế, khắc khổ, và họ đã chọn con đường sám hối : chỉ sám hối và ăn chay. Và chính họ cũng không đạt tới Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu-Kitô, Thiên Chúa hằng sống. Đó là những người thuộc trường phái Pêlagiô vốn nghĩ rằng họ có thể đạt tới đó nhờ nỗ lực của họ ». Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng cách duy nhất gặp gỡ Ngài là tìm thấy các vết thương của Ngài ».

Tý Linh (Xuân Bích Việt Nam)

Theo Radio Vatican

Kết thúc cuộc điều tra cấp giáo phận án phong chân phước ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Kết thúc cuộc điều tra cấp giáo phận án phong chân phước ĐHY Nguyễn Văn Thuận

ROMA. Ngày 5 tháng 7-2013, ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma, đã chủ sự buổi lễ long trọng kết thúc cuộc điều tra ở cấp giáo phận án phong chân phước cho ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận.

Buổi lễ diễn ra lúc 11 giờ rưỡi tại Hội trường tòa án của tòa Giám quản Roma nơi mà ngày 2 tháng 10-2010 cũng chính ĐHY Vallini chủ tọa buổi chính thức khai mạc án phong chân phước cho ĐHY Phanxicô Xavie với việc thiết lập tòa án điều tra.

Hiện diện tại Hội trường này có 200 người, và 100 người khác tại phòng bên cạnh có phần thông dịch tiếng Việt. Trong số các vị có mặt, ngoài ĐHY Vallini còn có 5 vị Hồng y khác và một số Giám Mục, đặc biệt là Đức Cha Stephano Nguyễn Như Thể, nguyên TGM Huế, và Đức Cha Giuse Võ Đức Minh, Giám Mục Nha Trang, đông đảo quan khách người nước ngoài và các phái đoàn tín hữu Việt Nam đến từ Mỹ, Úc, Pháp và nhiều nước Âu Châu.
Sau phần giới thiệu của vị công chứng viên của tòa án về các chức sắc hiện diện trong đó có 2 vị thẩm phán, vị chưởng tín (promotore di giustizia), tiến sĩ Waldery Hilgeman, người Hòa Lan, thỉnh nguyện viên án phong của ĐHY Thuận, đã long trọng tuyên thệ trung thành chu toàn việc chuyển tất cả các hồ sơ tài liệu về tiểu sử, các nhân đức và các phép lạ nói chung của Vị Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận mà tòa án đã thu thập được, về Bộ Phong Thánh, cùng với các thư đính kém. Sau đó, hai hộp lớn đựng hồ sơ tài liệu được niêm phong và gắn si đỏ đóng triện, kèm theo các văn kiện giới thiệu và biên bản buổi lễ kết thúc. Các thùng Hồ sơ này chỉ được mở ra với phép của Bộ Phong Thánh.

Diễn văn

Lên tiếng sau các nghi thức trên đây, ĐHY Vallini đã cám ơn tất cả các chức sắc trong tòa án và các cộng sự viên đã chu toàn công tác một cách nhanh chóng và hoàn hảo sau 30 tháng trời kể từ khi bắt đầu, mặc dù cũng gặp nhiều khó khăn. Các chứng từ đã được chức sắc tòa án thu thập qua các cuộc phỏng vấn, hỏi cung, được thực hiện tại Pháp, Đức, Mỹ, Úc; tiếp đến là các chứng từ trên giấy tờ được thu thập từ Việt Nam. ĐHY Vallini xác tín rằng ĐHY Phanxicô Xavie Thuận đã thi hành các nhân đức Kitô giáo đến mức độ anh hùng và ngài gợi lại những giai đoạn nổi bật trong cuộc đời của vị Tôi Tớ Chúa, ĐHY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, những đặc tính trong đời sống thiêng liêng và mục vụ của Người, đặc biệt là những năm bị tù đày trong đó có 9 năm biệt giam; vai trò của Thánh Thể trong đời sống ĐHY Thuận; linh đạo Thánh Giá, gương tha thứ, tình thương hoán cải, chứng nhân hy vọng giữa những đau khổ như ĐTC Biển Đức 16 đã đích thị nhắc đến Đức Cố Hồng Y trong thông điệp ”Spe salvi” của Ngài.

Sau cùng, ĐHY Vallini mời gọi tất cả mọi người hãy tiếp tục cầu nguyện để án phong của Đức Cố Hồng Y đạt đích và Giáo Hội sớm được tôn kính Người trên bàn thờ, Người chính là Tin Mừng của Chúa được sống thực.

Đức Cha Giuse Võ Đức Minh đã đại diện HĐGM và giáo phận Nha Trang của ngài, cám ơn ĐTC Biển Đức 16 cũng như ĐTC Phanxicô đương kim, ĐHY Giám quản Roma và tất cả các chức sắc của tòa án, các cộng tác viên khác và các ân nhân, đã làm cho án phong của ĐHY Phanxicô Xavie được khởi sự và tiến hành.

Trước đó vào lúc 9.30 ban sáng, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã chủ sự thánh lễ tại Vương cung thánh đường thánh Antôn của dòng Phanxicô, gần tòa Giám quản Roma. Đồng tế với ngài có ĐHY Bernard Law, nguyên TGM Boston Hoa Kỳ và từng là Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả, 4 giám mục khác và 40 LM, trước sự hiện diện của đông đảo Liên tu sĩ Việt Nam ở Roma và các phái đoàn giáo dân Việt Nam hành hương.

Trong bài giảng bằng tiếng Anh và Ý, ĐHY Turkson đã đề cao những đặc điểm trong cuộc đời của vị Tôi Tớ Chúa, Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận.

Ban chiều

Lúc 4 giờ chiều cùng ngày 5-7-2013, tại thính đường Đại học Giáo Hoàng Antonianum của dòng Phanxicô, đã có buổi giới thiệu cuốn sách sưu tập các thư mục vụ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận được dịch ra tiếng Ý: ”Lettere Pastorali sulle orme del Concilio Vatican II”, với các bài phát biểu của ĐHY Turkson, ĐHY Bernard Law, Đức Cha Mario Toso, SDB, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công Lý và Hòa bình. Ngoài ra có buổi trao tặng học bổng cho cha Phaolô Nguyễn Thanh Sang, 42 tuổi, thuộc giáo phận Mỹ Tho, theo học tại Đại học Công Giáo Paris từ 2009 – 2013 ban tiến sĩ thần học luân lý chính trị xã hội với chủ đề luận án là: ”Chỗ đứng của sự đề kháng tinh thần trong chính trị theo Gaston Fessard”. Cha cũng là giáo sư thần học luân lý tại Đại chủng viện thánh Giuse Sàigòn

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 sắp được phong hiển thánh

Đức Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 sắp được phong hiển thánh

VATICAN. Đức Gioan 23 và ĐGH Gioan Phaolô 2 sắp được phong hiển thánh trong tương lai gần đây.

Trong thông cáo công bố hôm 5 tháng 7-2013, Bộ Phong Thánh cho biết với sự chấp thuận ĐTC Phanxicô, Bộ công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lợi chuyển cầu của Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2.

Ngoài ra, ĐTC cũng phê chuẩn ý kiến thuận của Hội đồng HY và GM thành viên Bộ Phong Thánh về việc
phong hiển thánh cho Đức Gioan 23 tuy rằng không có phép lạ thứ hai của ngài.

ĐTC cũng sẽ triệu tập một công nghị Hồng y về việc phong thánh trong đó có 2 vị Giáo Hoàng vừa nói. Trong công nghị đó Ngài sẽ công bố ngày cử hành lễ tôn phong.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh giải thích rằng Đức Gioan 23 sẽ được phong hiển thánh mà không cần phải có phép lạ thứ 2. Ngài đã có 1 phép lạ khi được phong chân phước. Các nhà thần học và giáo luật từ lâu vẫn tranh luận về việc có cần phép lạ thứ hai nữa không để được phong hiển thánh. Dầu sao quyền quyết định vẫn tùy thuộc ĐTC và nay Đức Phanxicô đã chấp thuận ý kiến thuận của các HY và GM thuộc Bộ Phong Thánh.

Cũng ngày 5-7-2013, Bộ Phong Thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận phép lạ của Chúa nhờ lời chuyển cầu của vị Tôi Tớ Chúa Alvaro del Portillo, GM Bề trên Giám Hạt tòng nhân Opus Dei (1914-1994) người Tây Ban Nha. Một phép lạ khác của Vị Tôi Tớ Chúa Speranze di Gesù, người Tây Ban Nha, sáng lập dòng các Nữ Tỳ Tình yêu thương xót và dòng các Nam Tử Tình Yêu Thương Xót (1893-1983).

Có 5 sắc lệnh khác nhìn nhận các cuộc tử đạo của nhiều vị Tôi Tớ Chúa trong thời nội chiến 1936-1939 ở Tây Ban Nha, sau cùng là 5 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 5 vị Tôi tớ Chúa.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô: ”Lumen Fidei”

Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô: ”Lumen Fidei”

VATICAN. Thông điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô đã được công bố sáng ngày 5 tháng 7-2013 với tựa đề ”Lumen Fidei” (Ánh sáng Đức Tin).

Thông điệp được công bố bằng 6 thứ tiếng: Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha và được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh, do ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Văn kiện này được gửi đến các GM, LM, Phó Tế, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân. Như chính ĐTC Phanxicô giải thích: văn kiện này hầu như đã được ĐGH Biển Đức 16 hoàn thành và ngài chỉ đóng góp thêm mà thôi. Mục đích của Thông Điệp là phục hồi đặc tính ánh sáng của chính đức tin, có thể soi sáng cho toàn thể cuộc sống con người.

Ngoài phần nhập đề (1-7) và kết luận (58-60), Thông Điệp ”Ánh Sáng Đức Tin” gồm 4 chương:

I. Chúng tôi đã tin nơi tình yêu (1 Ga4,6) (8-22)
II. Nếu các ngươi không tin, thì sẽ không hiểu (Is 7,9) (23-36)
III. Tôi truyền lại cho anh chị em điều tôi đã nhận lãnh (1 Cr 15,3) (37-49)
IV. Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một thành thị (Dt 11,16) (50-60)

Nội dung tổng quát của Thông Điệp

– Ai tin thì thấy. Ai tin thì không bao giờ lẻ loi vì đức tin là một thiện ích cho tất cả mọi người, một công ích giúp phân biệt thiện và ác, xây dựng xã hội chúng ta, mang lại hy vọng. Nội dung nòng cốt của Thông điệp “Ánh sáng đức tin” là ý tưởng này: đức tin không tách rời con người ra khỏi thực tại, nhưng giúp con người đón nhận ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại. ĐGH nhận xét rằng: Trong một thời tại như thời nay, trong đó người ta coi việc tin tưởng là điều trái ngược với sự tìm kiếm và nghiên cứu, đức tin bị người ta coi là một ảo tưởng, một thái độ nhảy vào khoảng không, ngăn cản tự do của con người, điều quan trọng là tin tưởng và tín thác vào tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa với lòng khiêm tốn và can đảm, vì Thiên Chúa chữa lành mọi quanh co sai trái trong lịch sử chúng ta.

– Chứng nhân đáng tin cậy về đức tin chính là Chúa Giêsu, qua Ngài Thiên Chúa thực sự hoạt động trong lịch sử. Ai tin tưởng nơi Chúa Giêsu thì không những nhìn lên Ngài, nhưng còn nhìn với quan điểm của Ngài nữa. Và cũng như trong đời sống thường nhật, chúng ta tín nhiệm kiến trúc sư, dược sĩ, trạng sư, vì họ là những người biết rõ hơn chúng ta, cũng vậy đức tin làm cho chúng ta tín thác nơi Chúa Giêsu, là chuyên gia trong những điều thuộc về Thiên Chúa, Đấng giải thích cho chúng ta về Thiên Chúa.
ĐGH cũng nhấn mạnh rằng đức tin không phải là một sự kiện riêng tư, vì chúng ta tuyên xưng đức tin giữa lòng Giáo Hội, như một cộng đồng hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Và theo thể thức đó, cuộc sống của tín hữu cũng trở thành cuộc sống của Giáo Hội.

-Tiếp đến, ĐGH chứng tỏ mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin, sự thật và tình thương, là những điều đáng tin cậy của Thiên Chúa. Đức tin mà không có sự thật thì không cứu thoát. Nó chỉ là một chuyện ngụ ngôn hay đẹp, nhất là ngày nay người ta đang trải qua một cuộc khủng hoảng sự thật vì một nền văn hóa chỉ tin tưởng nơi kỹ thuật hoặc những chân lý của mỗi người, có lợi cho cá nhân chứ không có lợi cho công ích. Sự quên sót lớn lao của thế giới hiện tại là từ chối chân lý cao cả, là quên đi câu hỏi về Thiên Chúa, vì người ta lo sợ thái độ cuồng tín và ưa thích thái độ duy tương đối hơn.

-Trái lại, đức tin không phải là điều cố chấp, tín hữu không phải là người kiêu căng, vì chân lý xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa không phải là điều bị áp đặt bằng bạo lực và không đè bẹp mỗi người. Vì thế, có thể có cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí: trước tiên vì đức tin thức tỉnh cảm thức phê bình và mở rộng chân trời của lý trí; tiếp đến vì Thiên Chúa là ánh sáng rạng ngời và cả những người không tin cũng có thể tìm thấy Chúa khi họ tìm kiếm Ngài với con tim chân thành. Ai lên đường để thực thi điều thiện thì họ là người đã đến gần Thiên Chúa rồi.

-Một điểm thiết yếu khác của Thông điệp 'Ánh sáng đức tin' là việc rao giảng Tin Mừng. ĐGH viết: Ai cởi mở đối với tình thương của Thiên Chúa thì không thể giữ riêng hồng ân này cho mình. Như ngọn lửa được một ngọn lửa khác khơi lên, ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu sáng trên khuôn mặt các tín hữu Kitô và thông truyền từ đời này sang đời khác, qua những chứng nhân đức tin. Vì thế, có một liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và ký ức, vì tình thương của Thiên Chúa liên kết mọi thời đại và làm cho chúng ta trở thành những người đồng thời với Chúa Giêsu.

-Nhưng có một phương thế đặc biệt nhờ đó đức tin có thể được thông truyền, đó là các bí tích. Trước tiên là bí tích rửa tội nhắc nhở chúng ta rằng đức tin phải được lãnh nhận, trong niềm hiệp thông với Giáo Hội, vì không ai tự rửa tội cho mình; và phép rửa tội làm nổi bật sự hợp lực giữa Giáo Hội và gia đình trong việc thông truyền đức tin. Tiếp đến, là bí tích Thánh Thể, lương thực quí giá nuôi dưỡng đức tin, dạy cho chúng ta nhìn thấy chiều sâu của thực tại. Và việc tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính và Kinh Lạy Cha làm cho tín hữu can dự vào những chân lý mà họ tuyên xưng và cho họ thấy bằng đôi mắt của Chúa Kitô. Sau cùng là 10 giới răn: đây không phải là những giới luật tiêu cực, chỉ có tính chất cấm đoán, nhưng là những chỉ dẫn cụ thể để đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa. ĐGH nhấn mạnh rằng đức tin là duy nhất và sự hiệp nhất đức tin chính là sự hiệp nhất của Giáo Hội.

-Đức tin cũng soi sáng cho cả thiên nhiên, giúp chúng ta ta tôn trọng thiên nhiên, ”tìm thấy những kiểu mẫu phát triển không phải chỉ dựa trên sự hữu ích hoặc lợi lộc, nhưng coi thiên nhiên như một hồng ân”, đức tin dạy chúng ta tìm ra những hình thức cai trị đúng đắn, trong đó quyền bính đến từ thiên Chúa và để phục vụ công ích; đức tin giúp chúng ta khả năng tha thứ, giúp khắc phục những cuộc xung đột. ĐTC viết: ”Khi đức tin bị suy yếu và thiếu sót, thì người ta gặp nguy cơ là cả những nền tảng của cuộc sống sẽ bị thiếu sót. Vì thế, chúng ta đừng xấu hổ khi công khai tuyên xưng Thiên Chúa, xét vì đức tin soi sáng cho toàn thể cuộc sống xã hội.

-ĐGH cũng khẳng định rằng cả đau khổ và sự chết cũng nhận được một ý nghĩa nhờ sự tín thác nơi Thiên Chúa: với những ngừơi đau khổ, Chúa ban cho họ một lý do giải thích tất cả, nhưng ngài cũng trao tặng sự hiện diện của Ngài tháp tùng họ. Theo nghĩa đó, đức tin đi chung với niềm hy vọng. Và tại đây, ĐGH đưa ra một lời kêu gọi: ”Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hy vọng, chứng ta đừng để cho niềm hy vọng bị tan biến với những giải pháp và đề nghị tức khắc, ngăn cản hành trình của chúng ta”.
Và thông điệp kết thúc với một lời kinh dâng lên Đức Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt vời của đức tin, xin Mẹ dạy chúng ta biết nhìn với đôi mắt của Chúa Giêsu.

-Trong chương cuối cùng của Thông điệp ”Ánh sáng đức tin” ĐGH giải thích liên hệ giữa việc tin và xây dựng công ích: đức tin nảy sinh từ tình yêu Thiên Chúa, làm cho những liên hệ giữa con người được vững chắc và đặt mình phục vụ công lý, công pháp, hòa bình. Đức tin không làm cho người ta xa lìa thế giới, trái lại: nếu loại bỏ đức tin ra khỏi xã hội chúng ta, thì chúng ta không còn tín nhiệm nhau và chúng ta chỉ liên kết với nhau vì sợ hãi hoặc vì quyền lợi mà thôi. Trái lại có bao nhiêu lãnh vực được đức tin soi sáng như gia đình dựa trên hôn nhân, được hiểu như một sự kết hợp bền vững giữa một người nam và một người nữ; tiếp đến là thế giới của những người trẻ mong ước một cuộc sống cao cả, và cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô mang lại cho họ niềm hy vọng vững chắc, không đánh lừa. 'Đức tin không phải là một nơi nương náu cho những người thiếu can đảm” và trong lãnh vực này những Ngày Quốc Tế giới trẻ giúp các bạn trẻ chứng tỏ niềm vui đức tin và dấn thân sống đức tin một cách kiên cường và quảng đại.

Đức tin cũng soi sáng cho cả thiên nhiên, giúp chúng ta ta tôn trọng thiên nhiên, ”tìm thấy những kiểu mẫu phát triển không phải chỉ dựa trên sự hữu ích hoặc lợi lộc, nhưng coi thiên nhiên như một hồng ân”, đức tin dạy chúng ta tìm ra những hình thức cai trị đúng đắn, trong đó quyền bính đến từ thiên Chúa và để phục vụ công ích; đức tin giúp chúng ta khả năng tha thứ, giúp khắc phục những cuộc xung đột. ĐTC viết: ”Khi đức tin bị suy yếu và thiếu sót, thì người ta gặp nguy cơ là cả những nền tảng của cuộc sống sẽ bị thiếu sót. Vì thế, chúng ta đừng xấu hổ khi công khai tuyên xưng Thiên Chúa, xét vì đức tin soi sáng cho toàn thể cuộc sống xã hội.

ĐGH cũng khẳng định rằng cả đau khổ và sự chết cũng nhận được một ý nghĩa nhờ sự tín thác nơi Thiên Chúa: với những ngừơi đau khổ, Chúa ban cho họ một lý do giải thích tất cả, nhưng ngài cũng trao tặng sự hiện diện của Ngài tháp tùng họ. Theo nghĩa đó, đức tin đi chung với niềm hy vọng. Và tại đây, ĐGH đưa ra một lời kêu gọi: ”Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hy vọng, chứng ta đừng để cho niềm hy vọng bị tan biến với những giải pháp và đề nghị tức khắc, ngăn cản hành trình của chúng ta”.

Và thông điệp kết thúc với một lời kinh dâng lên Đức Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt vời của đức tin, xin Mẹ dạy chúng ta biết nhìn với đôi mắt của Chúa Giêsu.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm người tị nạn tại đảo Lampedusa

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm người tị nạn tại đảo Lampedusa

Thứ hai mùng 8 tháng 7-2013 Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm đảo Lampedusa để tưởng niệm sự hy sinh của biết bao nhiêu người di cư đã liều mình vượt hiểm nguy của biển khơi, đương đầu với cái chết để tìm đến vùng đất tự do.

Lampedusa là quần đảo rộng hơn 20 cây số vuông, bao gồm hai đảo nhỏ khác là Linosa và Pampione, nằm cách xa bờ biển Tunisia 113 cây số và đảo Sicilia 176 cây số. Quần đảo này thuộc tỉnh Agrigento của Sicilia và có 5,000 dân sống về nghề đánh cá và trồng tỉa. Từ thời xa xưa Lampedusa đã là nơi dừng chân và là căn cứ của các tầu thuyền của người Phênêxi, Hy lạp, Roma và A rập. Người Roma đã thiết lập các xưởng sản xuất một loại nước mắm cá gọi là Garum. Vì đây là nơi hay xảy ra các vụ cướp biển nên sau này trên đảo không có người sinh sống.

Ông hoàng đầu tiên của đảo Lampedusa và Linosa là Giulio Tomassi. Đây là tước hiệu do vua Carlo II của Tây Ban Nha ban cho dòng tộc Tomassi năm 1630. Một thế kỷ sau đó gia đình Tomassi bắt đầu chương trình định cư dân chúng. Trong thập niên 1840 gia tộc Tomassi bán đảo này cho vương quốc Napoli để về sống trong đất liền của Italia, rồi di cư sang Anh quốc trong thời Đệ nhị thế chiến.

Sau khi trại lính của Mussolini đầu hàng, đảo Lampedusa bị hải quân Anh chiếm đóng vào tháng 6 năm 1943. Năm 1972 bờ biển phía tây của đảo do lính biên phòng của Hoa Kỳ kiểm soát. Năm 1994 căn cứ quân sự của khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương chuyển quyền kiểm soát cho quân đội Italia.

Bắt đầu từ năm 2000 Lampedusa ngày càng trở thành điểm chuyển tiếp đầu tiên của người di cư đến từ nhiều nước Phi châu, Trung Đông và Á châu tìm đến các nước Âu châu. Năm 2004 hai chính quyền Italia và Libia ký thỏa hiệp ngầm bắt buộc Libia nhận các người di cư bị Italia trục xuất. Giữa các năm 2004-2006 đã có hàng ngàn người tị nạn bị trả về Libia. Trong năm 2006 các người di cư đã trả tiền cho các tổ chức du nhập người di cư lậu vào Italia. Khi tới đảo Lampedusa đa số đã được chính quyền Italia đưa vào các trại tị nạn trong đất liền. Nhưng thỉnh thoảng cũng có các vụ đắm tầu khiến cho hàng trăm người di cư bị thiệt mạng.

Năm 2009 số người di cư tới đảo Lampedusa qúa đông khiến cho trại tiếp cư không đủ điều kiện đáp ứng các nhu cầu cần thiết. Trại tiếp cư chỉ có 850 chỗ nhưng phải tiếp nhận 2000 người, vì thế một số đông đã phải ngủ dưới lều. Trong cùng năm đã xảy ra một cuộc ẩu đả giữa các người di cư tiếp theo đó là trận hỏa hoạn phá hủy một phần của trại tiếp cư. Đây đã là dịp để Cao Ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc chỉ trích chính quyền Italia sơ sót trong nhiệm vụ tiếp đón người tị nạn.

Tháng 5 năm 2011 số người di cư tới Lampedusa tăng vọt lên tới 35,000 người vì các cuộc nổi loạn của dân chúng bên Tunisia và Libia. Ba tháng sau số người di cư vọt lên 48,000, đa số trong lứa tuổi 20-30. Tình hình nóng bỏng đã gây chia rẽ giữa các nước trong Liên Hiệp Âu châu. Chính quyền Pháp cho rằng đa số các người di cư bỏ nước ra đi vì lý do kinh tế, chứ không ghải vì các cuộc bách hại chính trị. Đại sứ Libia tại Italia tiết lộ là chính đại tá Gaddafi kiểm soát làn sóng người ti nạn, vì muốn biến Lampedusa thành vùng đất của người Phi châu.

Trong các tháng qua đã có gần 8,000 người tị nạn tìm đến Italia, trong đó có hơn 3,600 người cặp bến Lampedusa. Năm 2012 Lampedusa đã tiếp nhận hơn 4.000 người di cư. Tháng 2 năm 2011 số người Phi châu tìm đến Lampedusa gia tăng liên tục và trong 58 ngày liên tiếp Lampedusa đã trở thành một trại tị nạn lộ thiên. Nhưng không phải mọi người đều gặp may mắn. Vụ đắm tầu ngày 6 thàng 4 năm 2011 đã khiến cho hàng chục người chết. Lampedusa trở thành biểu tượng của thảm cảnh tị nạn, và đây là một trong các lý do chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Đức Cha Francesco Montenegro, Tổng Giám Mục giáo phận Agrigento, tuyên bố rằng: ”Sự kiện Đức Thánh Cha Phanxicô chọn Lampedusa cho chuyến viếng thăm mục vụ đầu tiên của ngài tại Italia đem theo một sứ điệp rất mạnh mẽ, giúp chúng ta đọc hiểu lịch sử với con mắt của Thiên Chúa.

Đó là câu trả lời đẹp nhất cho người dân Lampedusa phải một mình tiếp đón các anh chị em ti nạn. Đó cũng là hình ảnh đẹp nhất của Mục Tử Nhân Lành. Một chuyến viếng thăm dành cho các người rốt hết của thế giới giữa những người rốt hết của Âu châu”. Đức Cha Montenegro, cũng là Chủ tịch Ủy ban di cư của Hội Đồng Giám Mục Italia, cho biết tin Đức Thánh Cha viếng thăm Lampedusa đã khiến cho tín hữu toàn tổng giáo phận vừa ngạc nhiên vừa vui sướng. Các lời kêu gọi Đức Phanxicô đưa ra từ mấy tháng qua chứng minh cho thấy Đức Giáo Hoàng không chỉ nói, mà còn thực thi những gì ngài khuyến khích tín hữu nữa: đi ra các vùng ngoại ô xa xôi để gặp gỡ các anh chị em khác.

Lampedusa, vùng đất hội tụ của người di cư đến từ nhiều nơi, diễn tả hiện tượng di cư trên thế giới ngày nay với tất cả các khổ đau và phức tạp của nó. Nó diễn tả một nhu cầu công lý liên quan tới hàng chục triệu con cái Chúa. Đức Cha Montenegro nói: Sự hiện diện của Giám Mục Roma tại Lampedusa sẽ nâng đỡ chúng tôi trong dấn thân thực thi các giáo huấn Tin Mừng liên quan tới tự do, công lý và hòa bình, tinh thần bác ái, tiếp đón và liên đới với các anh chị em di cư tị nạn. Đây cũng là dịp giúp các cộng đoàn địa phương chuẩn bị tinh thần sống biến cố này như một chặng đường đức tin của mình.

Khi nhận được tin từ Tòa Thánh, Linh Mục Stefano Nastasi, cha sở giáo xứ Lampedusa, tưởng mình nghe lầm. Cha nói chính cha và tín hữu không tin được là Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm phần đất hoang vu nằm giữa Địa Trung Hải xa xôi hẻo lánh này. Lampedusa từ nay đi vào lịch sử vì là nơi đầu tiên trong toàn nước Italia và trên thế giới được Đức Thánh Cha viếng thăm, ba tháng sau khi lên giữ chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội hoàn vũ. Trong một ngày hòn đảo này sẽ trở thành con tim của Địa Trung Hải và con tim của toàn thế giới, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ nói với toàn thế giới.

Cha Federico Lombardi cho biết Đức Thánh Cha đến Lampedusa để cầu nguyện cho các nạn nhân di cư và gặp gỡ cộng đoàn địa phương. Đây là một chuyến viếng thăm đơn sơ và kín đáo. Đức Thánh Cha đã rất cảm động vì tin một chiếc tầu chở người di cư bị đắm, vì thế ngài quyết định viếng thăm Lampedusa. Đoàn tùy tùng sẽ rất hạn chế và không có sự hiện diện của chính quyền.

Lúc 8 giờ sáng thứ hai mùng 8 tháng 7-2013 máy bay chở Đức Thánh Cha sẽ cất cánh tại phi trường Ciampino và đến Lampedusa lúc 9 giờ 15 phút. Tiếp đón Đức Thánh Cha có ông thị trưởng Giusi Nicolini, Đức Cha Francesco Montenegro Tổng Giám Muc Agrigento. Sau đó Đức Thánh Cha sẽ đến Cala Pisana và từ đây đi tầu đến hải cảng Lampedusa, theo sau là các tuyền đánh cá của dân chúng địa phương cũng như các tầu chở du khách đang nghỉ hè và thăm viếng đảo này.

Đức Thánh Cha sẽ ném một vòng hoa xuống biển để tưởng niệm tất cả các nạn nhận đã chết trên đường đi tìm tự do và một cuộc sống mới an lành hơn. Tiếp đến Đức Thánh Cha sẽ dừng tại mũi Favarolo, là nơi các người di cư được các tầu tuần tiễu duyên hải của Italia vớt trên biển và đưa vào bờ. Ngài sẽ gặp một nhóm người di cư. Sau đó Đức Thánh Cha sẽ chủ sự thánh lễ cho tín hữu và mọi người tại sân đá bóng thành phố Lampedusa. Sau thánh lễ ngài viếng thăm giáo xứ thánh Gerlando trước khi trở về Roma vào lúc 13 giờ cùng ngày.

Cha xứ Nastasi nói Đức Thánh Cha Phanxicô muốn rằng cuộc viếng thăm của ngài kín đáo với một cuộc gặp gỡ trực tiếp thân tình với dân chúng địa phương, không lễ nghi rườm rà và mầu mè. Cha cho biết hồi tháng 3 vừa qua cha đã viết thư cho Đức Thánh Cha, và thư đã được đưa lên trang mạng của Tổ chức di cư. Thư trình bầy với Đức Thánh Cha thảm cảnh của người di cư và các vụ đắm tầu đã biến Địa Trung Hải trở thành mồ chôn họ và các giấc mơ của họ. Trong thư cha nhắc đến các giọt nước mắt cảm động của Đức Thánh Cha khi biết mình được bầu làm Chủ Chăn, khiến cho chúng hòa với các giọt nước mắt khổ đau của thế giới và của biết bao nhiêu người lê lết cuộc đời trong các xó xỉnh của trái đất này; như các giọt nước mắt của chính Đức Thánh Cha là con của một người Ý di cư đến một vùng đất xa xôi giờ đây trở về chiếc nôi nguồn gốc của mình. Và cha kết thúc lá thư với câu: ”Thưa Đức Thánh Cha, con tim của Địa Trung Hải đợi chờ Đức Thánh Cha”.

Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ Phêrô Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ toàn thể Giáo Hội đi đến các vùng ngoại ô của thế giới, các vùng ngoại ô của cuộc sống, mà người dân Lampedusa sờ mó được hằng ngày qua việc tiếp đón và trợ giúp các anh chị em di cư tị nạn. Giờ đây với chuyến viếng thăm Lampedusa này chính Đức Thánh Cha nêu gương đi tới các vùng ngoại ô xa xôi của cuộc sống.

(Avvenire 2-7-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Công bố kết toán chi thu 2012 của Tòa Thánh

Công bố kết toán chi thu 2012 của Tòa Thánh

VATICAN. Trong năm 2012, ngân sách của Tòa Thánh dư được hơn 2 triệu Euro và ngân sách Quốc Gia thành Vatican dư được 23 triệu Euros.

Con số trên đây được Hội đồng Hồng Y đặc trách nghiên cứu các vấn đề tổ chức và kinh tế của Tòa Thánh, công bố hôm 4 tháng 7-2013, sau 2 ngày nhóm họp, mùng 2 và 3 tháng 7, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và với sự tham dự của 15 HY thành viên đến từ nhiều nước trên thế giới và các chức sắc liên hệ của Tòa Thánh. Đặc biệt ngày 3 tháng 7, ĐTC Phanxicô đã gặp và nói chuyện với Hội đồng HY. Ngài tái khẳng định mục đích và sự hữu ích của Hội đồng và mời gọi tiếp tục các vị nhóm họp định kỳ.

Theo thông cáo, kết toán chi thu năm 2012 của Tòa Thánh dư được 2 triệu 185 ngàn Euros (2,185,622), nhờ sự quản trị tốt về tài chánh. Phần lớn chi phí trong ngân sách của Tòa Thánh là để trả lương cho nhân viên, với 2.823 người tính đến cuối năm vừa qua; tiếp đến là chi phí cho các phương tiện truyền thông xã hội, và trả thuế mới về bất động sản, tăng 5 triệu Euro so với quá khứ.

Phủ Thống đốc quốc gia thành Vatican có ngân sách độc lập với Tòa Thánh, và kết toán chi thu trong năm 2012 dư được hơn 23 triệu Euros (23,079,800), tức là tăng 1 triệu so với năm trước đó. Tính đến cuối năm ngoái số nhân viên của Phủ này là 1936 người.

”Đồng tiền thánh Phêrô”, tức là số tiền các tín hữu đóng góp cho các hoạt động bác ái của ĐTC trong năm qua (2012) được gần 66 triệu mỹ kim (65,922,637.08), tức là giảm gần 3 triệu 800 ngàn mỹ kim (3,789,085). Số tiền các giáo phận đóng góp cho Tòa Thánh chiếu theo khoản giáo luật số 1271 là 28 triệu 303 ngàn mỹ kim tức là giảm gần 12% so với năm 2011 trước đó. Cũng vậy số tiền các dòng tu giúp Tòa Thánh giảm 5.09% tức là được 1 triệu 133 ngàn mỹ kim.

Viện Giáo Vụ, tức là Ngân Hàng Vatican, đã dâng tặng ĐTC số tiền 50 triệu Euro trong tài khóa 2012. Thêm vào đó Viện này còn giúp 1 triệu Euro cho ngân quỹ Amazzonia, 1 triệu 500 ngàn Euros cho Quỹ trợ giúp các nữ đan viện chiêm niệm, 1 triệu rưỡi Euros giúp quỹ thánh Sergio, nâng đỡ các Giáo Hội tại cựu Liên Xô, 1 triệu Euro cho Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh.

Hội đồng Hồng Y chân thành cám ơn sự hỗ trợ của các tín hữu, nhiều khi dưới hình thức ẩn danh, dành cho sứ vụ hoàn vũ của ĐTC, mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, và các HY kêu gọi tiếp tục kiên trì trong việc thiện này (SD 4-7-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Vatican: Phong Thánh cho Chân Phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gần kề

Vatican: Phong Thánh cho Chân Phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gần kề

Blessed John Paul II

Rome  – Giáo hội Công giáo đang sắp sửa tuyên bố Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một vị thánh. Một nguồn tin quen thuộc từ Vatican trong quá trình phong thánh  được đưa ra vào ngày thứ Ba 2 tháng 7 năm 2013 vừa qua.

Hội đồng  xem xét các ứng cử viên cho việc phong thánh đã bỏ phiếu vào ngày Thứ Ba cho vị Giáo Hoàng qua đời gần đây nhất với một phép lạ thứ hai. Nguồn tin do một giới chức Vatican không nêu tên cho biết.

Có nhiều phép lạ của Cố Giáo Hoàng được xem xét nhưng chưa biết rõ phép lạ nào sẽ được công nhận ghi chép vào Thánh sử. Đức Thánh Cha Phanxicô phải quyết định và ký nhận để trở thành văn bản chánh thức.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhậm chức từ năm 1978 cho đến khi ông qua đời vào năm 2005, và Ngài là Giáo Hoàng nổi bật  – thu hút số đông trên toàn cầu.

Ngày tang lễ của Chân Phước Gioan Phaolô, hàng ngàn khách hành hương tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô đều hô vang "Santo Subito" nghĩa là “Phong Thánh ngay!”

 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô rất nhanh chóng được phong chân phước khi ông qua đời chỉ trong 6 năm kể từ khi qua đời vào năm 2005, đây là việc phong chân phước nhanh nhất trong thế kỷ.

Có ba giai đoạn cơ bản để trở thành một vị thánh Công giáo sau khi qua đời.

-Đầu tiên, danh hiệu "đáng kính" được chính thức Đức Giáo Hoàng để đánh giá một người nào đó để được thừa nhận các " nhân đức anh hùng."

-Thứ hai: Cần có một phép lạ , hoặc phải hy sinh vì đạo.(trở thành Chân Phước)

-Thứ ba : Phong thánh đòi hỏi một phép lạ thứ hai.

Vào năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chấp thuận cho Đức Gioan Phaolô II phép lạ đầu tiên: một nữ tu người Pháp được chữa khỏi bệnh run rẩy tay chân (Parkinson).

Sơ Marie-Simon-Pierre, một nữ tu đã cầu nguyện đến Cố Đức Giáo Hoàng sau khi ông qua đời, sau đó Sơ đã được chữa khỏi bệnh, chứng bệnh này cũng là căn bệnh của Chân Phước Gioan Phaolô khi còn sống.

Phép lạ thứ hai được báo cáo xảy ra ở Costa Rica, nơi một phụ nữ cho biết cô hồi phục từ một chấn thương não nghiêm trọng nhờ sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II, nguồn  tin phát xuất từ Vatican.

Patrick Kelly, giám đốc điều hành John Paul II Đền Thánh tại Washington, giải thích tiến trình điều tra các phép lạ của giáo hội.

"Một nhóm bác sĩ đầu tiên kiểm tra các phép lạ. Thứ hai, nhóm nghiên cứu của các nhà thần học nhìn vào phép lạ và sau đó họ thảo luận với nhau về tính hợp pháp và tất cả các sự kiện xung quanh những điều phép lạ", ông nói:

Kỷ lục về phong thánh nhanh nhất là thời hiện đại là Thánh Jose Maria Escriva, người Tây Ban Nha sáng lập ra dòng tu Công giáo Opus Dei của giáo dân và các thánh được hiến dâng cho việc tìm đến Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Escriva đã được phong thánh 27 năm sau khi ông qua đời.

Riêng Chân Phước Gioan Phaolô II có thể phá vỡ kỷ lục đó.

Theo nguồn tin tại Roma thì rất có thể Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô sẽ tuyên phong hiển thánh cho ĐGH Gioan Phaolô II vào ngày 8 tháng 12 là ngày đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đồng thời năm nay lễ trùng vào ngày Chúa Nhật, thích hợp cho việc tổ chức lễ phong thánh.

Một nguồn tin khác cũng đang được nói tới tại Roma là theo một giới chức của Vatican, xin được dấu tên, cho biết rất có thể Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng được phong thánh trong cùng ngày với ĐGH Gioan Phaolô II. Nguồn tin trên được hãng thông tấn ANSA xác nhận.

Truớc tin ĐGH Gioan Phaolô II sắp được phong thánh, dân chúng Ba Lan rất vui mừng. Linh Mục Robert Necek, phát ngôn viên của Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz tuyên bố với đài truyền thình TVN24 của Ba Lan rằng “ Hồ sơ đã đến chặng đường cuối cùng. Còn lại chỉ là quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô".

Thái Trọng (Phỏng dịch từ CNN và AP)

NGÀY ƠN GỌI : ĐỨC PHANXICÔ SẼ LÀM CHỨNG VỀ ƠN GỌI CỦA MÌNH

NGÀY ƠN GỌI : ĐỨC PHANXICÔ SẼ LÀM CHỨNG VỀ ƠN GỌI CỦA MÌNH

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm chứng về ơn gọi của mình nhân Ngày ơn gọi trong khuôn khổ Năm Đức Tin.

Hôm 1 tháng 7/2013, Đức cha Rino Fisichella, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Thăng Tiến Công Cuộc Tân Phúc Âm Hóa, Đức cha José Octavio Ruiz Arenas, thư ký, và Đức cha Graham Bell, phó thư ký, đã giới thiệu « Ngày của các chủng sinh, các tập sinh, và của những ai đang bước theo một hành trình ơn gọi ».

Những ngày này sẽ diễn ra từ 4 đến 7 tháng 7/2013, về đề tài « Con tin tưởng nơi Chúa ! ». Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm chứng về ơn gọi của mình và đồng thời sẽ chủ tế một thánh lễ với các tham dự viên.

Theo Đức cha Fisichella, khoảng 6000 bạn trẻ sẽ đến Rôma từ 66 nước, trong đó có Papouasie Tân Ghi-nê, Đảo Salomon, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Chi-lê…

Các tham dự viên sẽ hành hương viếng mộ thánh Phêrô vào ngày 4/7. Ngày 5/7, các bài giáo lý sẽ được tổ chức theo nhóm ngôn ngữ (Pháp, Ý, Anh, Balan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Đức) và buổi chiều sẽ dành cho việc thăm viếng các nơi thánh, theo dấu chân của thánh Augustin và mẹ ngài, thánh Phanxicô Assidi, thánh Philipphê Nêri, thánh Inhaxio Loyola, thánh Têrêxa Lisieux…Ban tối, các chủng sinh và tập sinh sẽ làm chứng về ơn gọi của mình.

Chiều 6/7, các tham dự viên sẽ gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô tại thính đường Phaolô VI, sau một suy tư của ĐHY Piacenza, Tổng trưởng Bộ Giáo Sĩ. Đức Thánh Cha sẽ nói với các bạn trẻ về ơn gọi của mình và sẽ cho họ những điểm suy tư cho hành trình của họ.

Ngày Ơn Gọi sẽ kết thúc bằng cuộc rước kiệu Đức Mẹ trong vườn Vatican cho đến quảng trường thánh Phêrô. Tại đây, ĐHY Joao Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ Đời Sống Thánh Hiến sẽ có một bài suy niệm.

Cuối cùng, ngày 7/7, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ tế thánh lễ với các tham dự viên, lúc 9g30 tại Vương cung thánh đường Vatican.

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo ZENIT

Tệ nạn của bệnh cờ bạc

Tệ nạn của bệnh cờ bạc

Một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập nhà thương chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc

Trong mọi thành phố lớn khắp thế giới hiện nay đều có các nhà đánh bạc Casino, nơi con người bị cám dỗ tới ”nướng tiền” cho các chủ sòng bài và guồng máy ăn chơi khổng lồ của nó. Nổi tiếng nhất phải kể đến Las Vegas bên Hoa Kỳ, là thành phố đỏ đen nằm giữa sa mạc, nhưng là nơi ăn chơi vô cùng sầm uất, với các sòng bài và đủ mọi màn giải trí cho du khách. Bên Á châu thì có các sòng bài Dubai và Macao. Nhưng các loại máy kéo tiền đủ loại hiện diện ở khắp mọi thành phố lớn nhỏ trên thế giới. Điều đáng ghi nhận là máu mê đánh bạc máy và ham kéo máy không phải chỉ là của người trẻ, mà của cả người già nữa.

Old people gambing 1

Bên Hoa Kỳ, trong thành phố nào bắt đầu mở khu phố đánh bạc, thì chỉ một thời gian sau là cộng đoàn thấy vắng vài cụ ông cụ bà trong các giờ phụng vụ và sinh hoạt. Các cụ bắt đầu mê cờ bạc và giải trí bằng cách đi kéo máy. Có cụ sau lễ Chúa Nhật là đi giải trí cho tới khi hết tiền mới về nhà. Biết đi kéo mày là chỉ có rỗng túi, nhưng không đi không được, vì qủy cờ bạc xúi bẩy xỏ mũi kéo đi. Thế là tiền hưu và tiền của con cháu biếu tặng tới đâu cúng hết cho sòng bài tới đó.

Nghiện cờ bạc là một trong các tệ nạn trên thế giới hiên nay, khiến cho hàng triệu người lâm cảnh tán gia bại sản, gia đình tan nát. Nó đã trở thành một bệnh nguy hiểm. Thống kê của tổ chức sức khỏe thế giới OMS của Liên Hiệp Quốc cho biết trên thế giới hiện có 3% tổng số dân toàn cầu bị bệnh cờ bạc. Chỉ riêng Italia đã có tới 800 ngàn người bị bệnh cờ bạc và 1,7 triệu người có ”máu đỏ đen”. Mỗi năm số người này làm mất đi 69,7 triệu giờ làm việc, vì nạn cờ bạc. Theo kết qủa nghiên cứu của tổ chức ESPAD-Italia, do phân bộ bệnh dịch và nghiên cứu trên các cơ cấu y tế của Học viện vật lý bệnh xá, kiểu chơi ”Cạo và thắng”, Sổ số tự phát, và Siêu xổ số được 58% thiếu nữ ưa thích. Trong khi 30% thanh niên thì thích đánh cá về các trận đấu thể thao. Trong số đó có 52,5% người chơi trong các quán giải khát, 39,1% chơi tại nhà bạn bè và 22,5% chơi tại các phòng chơi. Giới trẻ thanh niên chơi bạo tay hơn, trong khi các thiếu nữ thường không chơi quá 10 Euros.

Theo các thống kê mới nhất nạn cờ bạc tại Italia là dịch vụ hàng năm thu vào 80 tỷ Euros, tức tương đương với 5% tổng sản lượng quốc gia, nghĩa là Italia chỉ đứng sau Anh quốc. Bà Katia Lanosa, chủ tịch Hiệp hội các trạng sư về hôn nhân vùng Emilia Romagna trung Italia, cho biết nạn cờ bạc ngày càng là vấn đề gây đổ vỡ trong gia đình. Nó khiến cho một phần mười các cuộc hôn nhân bị đổ bể, và gia tăng số các trẻ em ăn cắp ăn trộm để có tiền kéo máy hay đánh bạc. Nạn cờ bạc cũng ngày càng gia tăng các cuộc khủng hoảng trong gia đình dẫn đến chỗ ly dị ly thân. Ngoài ra, hậu qủa của cuộc khủng hoảng trong tương quan hôn nhân là cảnh mất công ăn việc làm. Đồng lõa với nạn cờ bạc là thời giờ rảnh rỗi và tình trang không thỏa mãn trong cuộc sống. Bà Katia Lanosa cũng cho biết bệnh cờ bạc cũng thường là lý do của các cảnh bạo lực nghiêm trọng trong gia đình và ngoài xã hội. Nhu cầu cần tiền để đánh bạc khiến cho người bệnh có thể đi đến chỗ hành hạ vợ con và giết người thân, hay cướp bóc vũ trang. Ông Ugo Pastore, Biện lý trưởng vùng Emiglia Romagna, đặc trách về người trẻ vị thành niên cho biết càng ngày càng có nhiều thanh thiếu niên bị lôi cuốn vào tệ nạn cờ bạc. Lý do vì chúng là con cái các gia đình có cha mẹ nghiện cờ bạc, bị bỏ rơi không được săn sóc các nhu cầu tối thiểu, hay chúng bị lây bệnh cờ bạc của cha mẹ. Và số người trẻ trộm cắp tiền của bạn bè người thân gia tăng.

Tại Bergamo, miền bắc Italia, dân chúng của một khu chung cư đã phẫn nộ phát động phong trào tẩy chay các quán đặt máy đánh bạc. Hiện đã có hàng chục quán, nhưng trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều quán khác. Ông Anselmo Parolini, cha gia đình nói: ”Thật là xấu hổ. Chúng tôi lo âu cho con cái của chúng tôi. Chính vì thế chúng tôi đã phát động phong trào phản đối, tẩy chay các quán có đặt máy đánh bạc. Đã có 500 người ký tên, và chúng tôi sẽ đưa vấn đề lên văn phòng tài vụ của tình Bergamo. Chúng tôi cũng sẽ tổ chức môt cuộc biểu tình phản đối việc mở thêm các sòng bài điện tử và gây ý thức đối với tệ nạn xã hội ngày càng lan tràn và trầm trọng này. Nhưng thật ra, tuy có luật ban hành hồi tháng 12 năm 2012 thiết định các sòng bài điện tử phải ở xa các vùng nhậy cảm 400 mét, nhưng đã không có luật nào cấm mở các sòng bài điện tử như thế. Giới trẻ và cả người già ngày càng bị cám dỗ ghé vào kéo máy nơi các sòng bài điện tử này”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vi và các bạn một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập bệnh viện quốc gia chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc, về căn bệnh cờ bạc. Bà Henrietta hiện cũng điều khiển nhóm 12 chuyên viên nghiên cứu thuộc 4 đại học Anh quốc trong nhiều chương trình khác nhau nhắm thám hiểm não bộ của những người mắc ”bệnh cờ bạc”. Bà cũng là cố vấn của chính quyền Anh quốc về vấn đề này.

Hỏi: Thưa bà Henrietta, có thể thiết định số người mắc bệnh cờ bạc trên thế giới và tại Âu châu hiện nay là bao nhiêu không?

Đáp: Không phải mọi quốc gia trên thế giới đều đã làm các cuộc nghiên cứu chuyên biệt. Vấn đề đó là khi dùng các dụng cụ khác nhau, chẳng hạn như SOGS và CPGI để chẩn đoán bệnh cờ bạc, thì khó mà có thể làm thống kê. Vì thế tại sao lại quan trọng việc chỉ nên dùng một phương pháp, ít nhất là tại Âu châu. Bên anh quốc, có 0,9% dân nghiện cờ bạc, tức khoảng nửa triệu người tất cả.

Hỏi: Những người bị bệnh cờ bạc có nguy cơ phạm pháp không thưa bà?

Đáp: Có khoảng một phần ba những người bị bệnh cờ bạc phạm pháp. Tuy nhiên, đây cũng là tỷ lệ của tất cả những người bị bệnh cờ bạc trên toàn thế giới. Các tội phạm thông thường nhất là lừa đảo và trộm cắp. Thường họ cũng ăn cắp trong nơi làm việc, sau khi đã trộm cắp nơi bạn bè và người thân.

Hỏi: Thưa bà vậy chi phí chữa trị cho một người bị bệnh cờ bạc tại Anh quốc hiện nay là bao nhiêu?

Đáp: Việc chữa trị hoàn toàn miễn phí, và được tài trợ bởi tổ chức bác ái chuyên trợ giúp việc hồi phục các người mắc bệnh cờ bạc. Bệnh viện quốc gia chữa các bệnh nhân có vấn đề cờ bạc vẫn còn là nhà thương công duy nhất chữa bệnh cờ bạc tại Anh. Chúng tôi gặp gỡ các bệnh nhân lần đầu tiên để tư vấn, rồi sau đó có 8 lần gặp riêng hay gặp theo nhóm. Chúng tôi cũng cống hiến việc trị liệu trong gia đình nữa và trợ giúp để họ biết sử dụng tài chánh, ngoài các lần gặp gỡ chuyên biệt cho các phụ nữ hay những người vô gia cư.

Hỏi: Thưa bà, chính quyền Anh quốc có đang hoạt động đủ để chống lại bệnh cờ bạc hay không?

Đáp: Tôi tin rằng chính quyền thực sự đang làm nhiều cho vấn đề này. Ủy ban chiến thuật đặc trách cờ bạc lo lắng bảo vệ người lớn và trẻ em dễ bị thương tổn vì nạn cờ bạc. Ngoài ra Ủy ban cũng tung ra các cuộc nghiên cứu và tài trợ việc chữa trị. Tổ chức bác ái trợ giúp các bệnh nhân cờ bạc mỗi năm đầu tư hơn 5 triệu Euros cho công tác này; tôi cầu mong tổ chức gia tăng các việc đầu tư, và tôi nhận thấy rằng Anh quốc đã đi trước rất nhiều trong việc chống lại bệnh cờ bạc.

Hỏi: Hủy bỏ việc quảng cáo thăng tiến chơi cờ bạc có thể giúp gì cho cuộc chiến đấu này hay không thưa bà?

Đáp: 0,9% tổng số dân Anh quốc mắc bệnh cờ bạc, nhưng trong năm 2012 đã có tới 70% chơi cờ bạc ít nhất là một lần. Theo tôi nghĩ hủy bỏ việc quảng cáo xem ra không là điều thực tế. Tôi thấy điều phải làm là phối hợp việc quảng cáo làm sao để các nội dung ít lôi cuốn mời mọc hơn nhất là đối với người trẻ. Ngoài ra, chúng ta cũng bảo đảm làm sao để các quảng cáo đó không được thường xuyên qúa, và nhất là khi có trẻ em theo dõi các chương trình truyền hình.

Hỏi: Thế có các chiến thuật nào khác nữa hay không thưa bà?

Đáp: Có chứ. Một đường lối chính trị tự loại trừ cho phép các cá nhận tự loại mình ra khỏi các cuộc đánh cá là điều sống còn giúp che chở các người có máu mê cờ bạc. Vấn đề là làm thế nào để đạt được mục tiêu này. Tôi hiện đang hướng dẫn một nhóm cộng tác với chính quyền để tìm hiểu xem làm thế nào để đạt mục đích này mà không gây thiệt hại cho sự tự do lựa chọn của một cá nhân.

Hỏi: Thưa bà Henrietta, bệnh cờ bạc đang ngày càng trở thành tệ hại hơn hay sao?

Đáp: Năm 2000 và năm 2007 các phỏng đoán cho biết có khoảng 0,7% dân số toàn cầu bị bệnh cờ bạc. Năm 2010 con số này đã gia tăng lên 0,9%. Thống kê cuối cùng cho biết tại Anh quốc mỗi năm có 4.500 người bị bệnh cờ bạc, và số trẻ em vị thành niên dưới 16 tuổi đông gấp đôi. Nhưng cần phải chờ đợi kết qủa của cuộc nghiên cứu tới để hiểu xem bệnh mê cờ bạc có gia tăng hay không. Nếu là như vậy, thì vấn đề có thể tùy thuộc nơi các dụng cụ mới, trong đó có hệ thống liên mạng Internet. Vì những người mê cờ bạc có thể chơi ngay trên Internet tại nhà, trong phòng của mình, mà không cần phải đi tới các sòng bài.

Hỏi: Theo bà mỗi năm có thêm bao nhiêu người bị bệnh cờ bạc?

Đáp: Trong bệnh viện của chúng tôi mỗi năm có ít nhất 700 người bị bệnh cờ bạc điều trị. Phổ biến nhất là các vụ cá độ thể thao, kéo các máy điện tử, và đánh bạc trên Internet. Tôi mong ước rằng các phụ nữ mắc bệnh bài bạc cũng đến bệnh viện của chúng tôi để được chữa trị. Hiện nay số phụ nữ chỉ chiếm 10% các bệnh nhân đang được trợ giúp để chữa bệnh cờ bạc.

(Avvenire 15-5-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày 5-7-2013: công bố thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô

Ngày 5-7-2013: công bố thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô

VATICAN. Thông điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô sẽ được công bố vào ngày thứ sáu 5 tha1ng 7-2013 với tựa đề ”Lumen Fidei” (Ánh sáng Đức Tin).

Thông điệp sẽ được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh, do ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Thông điệp được công bố bằng 6 thứ tiếng: Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha. Hãng tin Ansa của Italia cho biết ấn bản tiếng Ý đầu tiên của thông điệp này, 90 trang khổ nhỏ, sẽ được ấn hành với nửa triệu bản và giá bán là 3,5 Euro.

Cách đây ít lâu chính ĐTC Phanxicô cho biết Thông điệp này được viết bằng ”4 tay”, nghĩa là ĐTC Biển Đức 16 đã soạn thông điệp này nhân dịp chuẩn bị kết thúc Năm Đức Tin, nhưng rồi ngài từ nhiệm nên chưa hoàn thành và công bố. ĐTC Phanxicô dùng tài liệu đó để hoàn thành Thông điệp đầu tiên của ngài.

Báo chí Italia nhận xét rằng đây là một kỷ lục: thông điệp được ban hành chỉ có 113 ngày sau khi Đức Phanxicô bắt đầu làm Giáo Hoàng, so với 8 tháng trong trường hợp thông điệp đầu tiên của ĐTC Biển Đức 16; 5 tháng đối với Đức Gioan Phaolô 2, 8 tháng trong trường hợp Đức Gioan 23 và 14 tháng đối với Đức Phaolô 6.
Cũng ngày 1-7-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết sáng thứ hai 8-7 tới đây, ĐTC sẽ thực hiện một cuộc viếng thăm ngắn tại đảo Lampedusa ở miền cực nam Italia.

Ngài đã xúc động sâu xa vì vụ đắm tàu mới đây gần Lampesuda của những người vượt biên từ Phi châu. Đây là thảm trạng mới nhất trong một loạt những biến cố thuộc loại này.

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC có ý cầu nguyện cho những người bị mất mạng trên biển, viếng thăm những người sống sót và những người tị nạn trên đảo Lampedusa, khích lệ dân chúng tại đảo này và kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tất cả mọi người hãy săn sóc những anh chị em này đang ở trong tình cảnh khốn cùng.
Cha Lombardi cho biết vì hoàn cảnh đặc biệt, cuộc viếng thăm của ĐTC sẽ diễn ra dưới hình thực âm thầm bao nhiêu có thể, kể cả về sự hiện diện của các GM và chính quyền địa phương, nghĩa là chỉ có sự hiện diện của Đức GM giáo phận Agrigento sở tại và thị trưởng ở đảo Lampedusa.

Theo chương trình do tòa TGM giáo phận Agrigento công bố, ĐTC sẽ khởi hành từ Roma lúc 8 giờ sáng và đến Lampedusa hơn 1 giờ sau đó. Ngài sẽ xuống thuyền có các ngư phủ Sicilia tháp tùng, và thả vòng hoa xuống biển để tưởng niệm các nạn nhân. Sau đó ĐTC sẽ đến Punta Favarolo chào thăm một nhóm người di dân. Sau cùng tại sân thể thao Arena, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ, rồi ngài thăm giáo xứ thánh Gerlando, trước khi trở lại phi trường lúc 12 giờ rưỡi để trở về Roma.

Cha sở Stefano Nastasi ở Lampedusa cho biết cộng đoàn Công Giáo địa phương đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ĐTC. Sân thể thao ở địa phương có thẻ chứa được từ 5 đến 10 ngàn người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo xứ Tam Biên đóng cửa, chuyển sang Nhà Thờ Kiếng cũ

Giáo xứ Tam Biên đóng cửa, chuyển sang Nhà Thờ Kiếng cũ

Thiên An/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV)Giáo dân gốc Việt cùng các sắc dân khác tại giáo xứ Tam Biên, Garden Grove, vừa tổ chức nghi thức đóng cửa, rời ngôi nhà thờ quen thuộc, để chuyển sang nhà thờ Chúa Kitô Vua (Nhà Thờ Kiếng trước đây), vào trưa Thứ Bảy, 29 Tháng Sáu.

 

Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên (trái) và Giám Mục Kevin Vann đóng cửa thánh đường Tam Biên, Garden Grove, trước sự chứng kiến của giáo dân. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Ngôi thánh đường nổi tiếng, Nhà Thờ Kiếng, với 10,661 tấm kiếng lớn dựng thành 7 tòa nhà khác nhau trên khuôn viên rộng 34 mẫu, như vậy chính thức trở thành nhà thờ chánh tòa mới của Giáo Phận Orange, một trong 10 giáo phận lớn nhất Hoa Kỳ.

Vì khu vực Little Saigon thuộc giáo phận này, sự kiện dời giáo xứ sang nhà chính tòa hôm Thứ Bảy có ý nghĩa quan trọng với hàng chục ngàn giáo dân gốc Việt.

Bị ảnh hưởng đáng kể nhất là các cộng đoàn giáo dân tại giáo xứ Tam Biên, những người được lệnh giáo phận rời nhà thờ để sinh hoạt tôn giáo tại địa điểm mới. Tam Biên có tỉ lệ đông đảo giáo dân là người Việt Nam. Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên hiện là linh mục chánh xứ của nhà thờ.

Bên cạnh nhiều người trung niên, cao niên đã chọn giáo xứ Tam Biên từ những năm 1975 làm nơi nâng đỡ tinh thần khi chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ, còn có những em thiếu nhi được mang đến nhà thờ này để được rửa tội khi mới chào đời, rồi sau đó học tiếng Việt, tập múa với các anh chị Việt Nam. Giáo dân gốc Việt tại nơi này thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cùng chọn Tam Biên làm nơi sinh hoạt tinh thần đều đặn mỗi tuần.

Vì ngôi nhà thờ Tam Biên chứa đựng nhiều kỷ niệm quan trọng trong đời người giáo dân tại đây, từ ngày vui đám cưới đến lễ tiễn đưa người quá cố, nhiều giáo dân, và cả linh mục, nữ tu, không cầm được nước mắt trong buổi lễ chia tay thánh đường.

Nghi thức đóng cửa, dời xứ

Buổi lễ bao gồm các nghi thức cầu nguyện, chia sẻ Phúc Âm và làm dấu thánh tại các địa điểm thánh bên trong và xung quanh Thánh đường.

 

Giám Mục Kevin Vann (trái) bắt đầu Thánh lễ Công Giáo đầu tiên tại Nhà Thờ Kiếng cũ, nay là Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô Vua. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Nghi lễ do Giám Mục Kevin Vann, giám mục giáo phận, làm chủ tế. Ðồng tế có ba linh mục của giáo xứ Tam Biên và một số linh mục khách mời. Thánh lễ được cử hành bằng ba thứ tiếng: Việt ngữ, Anh ngữ, và Tây Ban Nha.

Các em thiếu nhi nam nữ gốc Việt mặc áo dài đỏ, vàng, trắng, múa mở đầu. Tiếp theo là các giám mục và linh mục tiến lên bàn thánh.

Ba linh mục của nhà thờ Tam Biên, Nguyễn Văn Tuyên, Trần Cao Thượng, và Juan B. Navarro, bắt đầu chia sẻ lời nguyện với giáo dân.

“Với niềm tin và lòng cậy tín, chúng ta sẽ có thể biến ngôi thánh đường mới thành một nơi để cùng nhau làm việc phụng thờ. Cùng nhau, chúng ta sẽ đến thánh đường mới,” Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên mở đầu phần chia sẻ bằng tiếng Anh.

Tiếp đó là phần chia sẻ bằng tiếng Việt của Linh Mục Trần Cao Thượng, nhắc lại thời gian đầu khi giáo dân gốc Việt đặt chân đến giáo xứ Tam Biên và sự gắn bó giữa cộng đồng Việt Nam và ngôi thánh đường này.

Linh Mục Thượng nói thêm: “Như các tông đồ bỏ hết để theo Chúa, hôm nay, theo lời mời gọi của giáo phận, chúng ta sẵn sàng hy sinh để cùng hy vọng, đoàn kết, xây dựng…”

Nói đến đây, nước mắt Linh Mục Thượng tuôn chảy, giọng nghẹn lại, khiến nhiều người cảm động, khóc theo.
Linh Mục Juan B. Navarro sau đó nói chuyện với giáo dân bằng tiếng Tây Ban Nha, một số giáo dân làm dấu Thánh giá, cúi đầu.

Nghi thức đóng cửa nhà thờ chính thức bắt đầu vào khoảng 1 giờ 30 phút.

 

Thiếu nhi Việt Nam múa mở đầu Thánh Lễ di chuyển giáo xứ Tam Biên. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)


Thánh giá và hương trầm được đưa đến những địa điểm khác nhau bên trong nhà thờ. Tại mỗi địa điểm, các linh mục dừng lại đôi phút để cầu nguyện cùng giáo dân. Họ làm nghi thức này đầu tiên là tại cung thánh, sau đó là tòa giải tội, giếng rửa tội, và cuối cùng là nhà nguyện.

Sau nghi thức làm dấu thánh, toàn bộ người bên trong Thánh đường được mời ra ngoài để giáo xứ chính thức đóng cửa Thánh đường. Trong lời cầu nguyện của đại diện giáo dân Mỹ, Việt, và Hispanic, Giám Mục Kevin Vann và Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên từ từ khép lại cánh cửa ngôi nhà thờ Tam Biên.

Tiếp đó, linh mục và giáo dân đến cầu nguyện tại một số địa điểm khác, trước khi cùng lái xe sang Nhà Thờ Chánh Tòa Ki tô Vua. Các xe đều gắn nơ màu vàng lớn phía trước, nối đuôi nhau tiến vào “ngôi nhà Chúa” mới.

Vì nhà thờ chánh tòa còn đang sửa chữa, buổi lễ đầu tiên của người Công Giáo tại nơi này được diễn ra bên ngoài ngôi thánh đường.

Hàng ngàn chiếc ghế trắng muốt được xếp dài, nhưng vẫn không đủ cho số giáo dân tham dự đông đảo.
Cũng như tại buổi lễ chia tay nhà thờ Tam Biên cũ, lễ mừng ngôi Thánh đường mới thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau, thương nhớ có, hân hoan có, của các giáo dân tại đây.

Tâm tình giáo dân

Các giáo dân chia sẻ nhiều cảm xúc khác nhau, vui có, buồn có, tiếc nuối bên cạnh hân hoan, hy vọng… Mọi người đều nói “vâng theo lời giáo phận” và sẽ “cầu nguyện cho tương lai cộng đoàn Việt Nam.”
 

 

Quang cảnh Thánh Lễ tại sân Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô Vua, Garden Grove. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Ông Nguyễn Văn Lạc, 61 tuổi, người sinh hoạt tại nhà thờ Tam Biên từ Tháng Mười, 1975, nói: “Rất là buồn, nơi đây cộng đoàn Việt Nam đã phát triển mạnh, giờ phải đi là đi thôi.”

Bà Huệ Phạm, thuộc giáo xứ Tam Biên khoảng 20 năm trước khi vừa qua Mỹ, nói: “Cũng buồn đó, bây giờ là chia ra với đông đảo các sắc dân khác, nhưng phải vâng lời thôi. Chúng ta sẽ đoàn kết, cầu nguyện cho cộng đoàn Việt Nam.” Bà cũng là một thành viên ban tổ chức nghi lễ chào mừng giáo đường mới.

Ông Nguyễn Văn Bảy, thuộc giáo xứ Tam Biên từ năm 1980, nói: “Không buồn cũng không vui, cả hai đều là nơi thờ phượng Thiên Chúa.”

Ông Vũ Tràng, một người Việt Nam mới sang, nói: “Thánh đường mới này lớn, đẹp hơn rất nhiều. Tôi mừng cho sự phát triển mạnh mẽ của giáo phận.”

Ba em nhỏ mặc áo dài truyền thống, trong độ tuổi 10 đến 14, Diana Nguyễn, Lina Thạch, và Crystal Ðinh, cùng nói: “Tụi em có nhiều kỷ niệm với nhà thờ Tam Biên lắm, nơi tụi em được mang đến rửa tội lúc mới sinh được vài tháng, rồi đi học múa, rồi sinh hoạt thiếu nhi thánh thể.”

“Nhưng không sao mà, rồi tụi em sẽ có những kỷ niệm còn đẹp hơn tại ngôi thánh đường mới này.”

Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao tấm gương của ĐGH Biển Đức 16

Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao tấm gương của ĐGH Biển Đức 16

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương ĐGH Biển Đức 16 lắng nghe và tuân theo tiếng lương tâm.
Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 30-6-2013 với khoảng 60 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng Chúa nhật 13 thường niên năm C trích từ Tin Mừng theo thánh Luca (9,51-62) kể lại sự kiện Chúa Giêsu đã cương quyết lên đường đi Jerusalem, để chu toàn sứ vụ cứu độ. ĐTC Phanxicô nói:

”Tin Mừng chúa nhật hôm nay (Lc 9,51-62) trình bày một giai đoạn rất quan trọng trong cuộc đời của Chúa Kitô: như thánh Luca đã viết, đó là lúc mà ”Chúa Giêsu đưa ra quyết định quyết liệt lên đường đi Jerusalem” (9,51). Jerusalem là mục tiêu chót, nơi Chúa Giêsu, trong lễ Vượt Qua cuối cùng, phải chịu chết và sống lại, và qua đó ngài chu toàn sứ mạng cứu độ.

Từ lúc ấy, sau khi nhất quyết, Chúa Giêsu hướng thẳng tới đích, và cả những người mà ngài gặp, và họ xin theo Ngài, Chúa nói rõ đâu là những điều kiện: không có nơi ở nhất định; biết từ bỏ lòng quí mến của con người; không chiều theo sự hoài tưởng quá khứ”.

'Nhưng Chúa Giêsu cũng nói với các môn đệ, những người được ủy thác đi trước Ngài trên đường tiến về Jerusalem để loan báo là Ngài sẽ đi qua, Chúa bảo họ đừng áp đặt gì cả: nếu họ không thấy người ta sẵn sàng đón nhận Ngài, thì hãy đi tiếp, tiếp tục tiến bước.. Chúa Giêsu thật là khiêm tốn, Ngài không bao giờ áp đặt. Nếu bạn muốn, thì bạn hãy theo Ngài. Nhưng Ngài không bao giờ áp đặt”.

”Tất cả những điều đó làm cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn, điều ấy nói với chúng ta về tầm quan trọng của lương tâm, kể cả đối với Chúa Giêsu: lắng nghe lương tâm trong tâm hồn mình, tiếng nói của Chúa Cha và tuân theo. Có thể nói, Chúa Giêsu, trong cuộc sống trần thế của Ngài, Ngài không bị điều khiển từ xa: Ngài là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa làm người, và một lúc nào đó, Ngài đi đến quyết định cương quyết lên Jerusalem lần cuối cùng; một quyết định được đề ra trong lương tâm Ngài, nhưng không phải một mình: nhưng cùng với Chúa Cha, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Cha! Ngài đã quyết định trong sự vâng phục Chúa Cha, trong sự lắng nghe sâu xa ý Cha của Ngài trong thâm tâm sâu thẳm. Và vì thế quyết định của Ngài thật là kiên cường, vì được đề ra cùng với Chúa Cha. Và trong Cha, Chúa Giêsu tìm được sức mạnh và ánh sáng cho hành trình của Ngài. Và Chúa Giêsu là người tự do. Trong quyết định ấy Ngài tự do. Chúa Giêsu muốn các tín hữu Kitô cũng tự do như Ngài, với thứ tự do đến từ cuộc đối thoại với Chúa Cha, từ cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Chúa Giêsu không muốn các tín hữu Kitô ích kỷ, họ theo cái tôi của họ, họ không nói với Thiên Chúa; Ngài cũng không muốn các tín hữu Kitô yếu nhược, không có ý chí, những Kitô hữu bị ”điều khiển từ xa”, không có khả năng sáng tạo, luôn tìm cách gắn liền với ý chỉ của một người khác, và vì thế họ không tự do. Chúa Giêsu muốn chúng ta tự do, nhưng thứ tự do ấy được thực hiện ở đâu? Thưa ở trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, trong chính lương tâm của mình. Nếu một Kitô hữu không biết nói với Thiên Chúa, không biết nghe thấy Thiên Chúa trong lương tâm, thì họ không phải là người tự do”.

Vì thế – ĐTC nói – chúng ta phải học cách lắng nghe lương tâm chúng ta hơn nữa. Nhưng xin chú ý! Điều này không có nghĩa là đi theo cái tôi của mình, làm điều mình thích, hợp với mình, làm cho mình hài lòng.. Không phải vậy! Lương tâm là không gian nội tâm của sự lắng nghe sự thật, sự thiện, lắng nghe Thiên Chúa; là nơi nội tâm quan hệ của ta với Chúa,Đấng nói với tâm hồn ta và giúp ta phân định, hiểu con đường ta phải đi, và một khi đã quyết định, thì tiến bước, trung thành với quyết định đó”.

Như một thí dụ về sự tuân phục Thiên Chúa và lương tâm, ĐGH Phanxicô trưng dẫn một chứng nhân đặc biệt và nói rằng:

”Chúng ta đã có một tấm gương tuyệt vời về quan hệ như thế với Thiên Chúa trong lương tâm của mình, một tấm gương tuyệt vời gần đây. ĐGH Biển Đức 16 đã nêu gương sáng theo nghĩa này, khi Chúa làm cho Người hiểu trong kinh nguyện, đâu là bước đường phải thực hiện. Người đã tuân theo lương tâm, với một ý thức lớn về sự phân định và can đảm, nghĩa là ý Thiên Chúa nói với con tim của Người. Và tấm gương này của người Cha chúng ta mưu ích cho tất cả chúng ta, như một tấm gương phải noi theo”.

Khi ĐTC Phanxicô nhắc đến tên ĐGH Biển Đức 16, các tín hữu đã nhiệt liệt vỗ tay. Và ngài kết luận: Đức Mẹ, trong sự đơn sơ của Mẹ, đã lắng nghe và suy niệm trong lòng chính Lời Thiên Chúa và điều này cũng xảy ra cho Chúa Giêsu. Mẹ đã theo Chúa Con với xác tín sâu xa, với niềm hy vọng vững chắc. Xin Mẹ Maria giúp chúng con ngày càng trở thành những con người của lương tâm, tự do trong lương tâm vì trong lương tâm có cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con trở thành những ngừơi nam nữ có khả năng lắng nghe tiếng Thiên Chúa và quyết liệt tuân theo”.

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc nhở rằng hôm nay tại Italia có cử hành ”Ngày bác ái của ĐGH”. Tôi muốn cám ơn các GM và tất cả các giáo xứ, đặc biệt là những giáo xứ nghèo nhất, vì lời cầu nguyện và đóng góp hỗ trợ những sáng kiến mục vụ và bác ái của Người Kế Vị Thánh Phêrô ở các nơi trên thế giới. Xin cám ơn tất cả mọi người”.

ĐTC cũng ngỏ lời chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện, đặc biệt là đông đảo các tín hữu đến từ nước Đức. Và ngài kết luận rằng: ”Tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Tôi cầu chúc tất cả một chúa nhật tốt đẹp và dùng bữa ngon!”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Ông Nunzio Scarano bị bắt liên quan đến ngân hàng Vatican

Đức Ông Nunzio Scarano bị bắt liên quan đến ngân hàng Vatican

 Đức Ông Nunzio Scarano,  một nhân viên của cơ quan mật vụ Ý Mr. Zito và một người môi giới tài chính Giovanni Carenzio đã bị bắt ngày 28 tháng 6-2013 trong khuôn khổ cuộc điều tra của tòa án Ý liên quan đến Viện Giáo Vụ (Ngân hàng Vatican).

Theo trang Corriere della Sera, Đức Ông Nunzio Scarano, Giám chức giáo phận Salerne ở miền Nam nước Ý, đã bị bắt. Đài truyền hình Sky TG-24 cho biết ba người bị tình nghi gian lậu và hối lộ. Việc bắt giữ ba người đã được thực hiện trong khuôn khổ của cuộc điều tra rộng lớn được tòa án Ý thực hiện vào tháng 9/2010, vốn nhắm đến vị chủ tịch của Viện Giáo Vụ là ông Ettore Gotti Tedeschi và ông Tổng giám đốc Paolo Cipriani thời đó vì đã vi phạm luật pháp liên quan đến việc rửa tiền. Hàng chục triệu tiền Euro đã bị phong tỏa để điều tra.

Đức Ông đã bị cáo buộc mang 20 triệu Euro (khoảng $26 triệu USD) bằng tiền mặt từ Thụy Sĩ vào Ý Đại Lợi bằng máy bay phản lực tư nhân. Công tố viên Nello Rossi cho biết Đức Ông Nunzio Scarano  là người trung gian, bị cáo buộc tham ô, gian lận, bắt nguồn từ một kế hoạch tổ chức tại một nhà tù tại Rome.

Trong cuộc họp báo, Công tố viên Rossi nói rằng, Ông Zito đã thuê bao một phản lực cơ bay đến Thụy Sĩ, nhưng kế hoạch đã không thành bởi vì có sự rạng nức trong nhóm. Theo dự trù thì sẽ dùng danh nghĩa của Zito làm việc cho cơ quan cảnh sát Carabinieri của Ý. Ông Zito yêu cầu phải trả tiền chi phí cho việc làm này là 600 ngàn Euros và Đức Ông Scarano đã trả trước bằng một chi phiếu 400 ngàn Euros, chi phiếu này đã được lãnh ra. Sau đó chi phiếu thứ nhì 200 ngàn Euros cũng được gởi ra, nhưng Đức Ông lại nói là mất, nên số tiền còn lại bị chận ,không được giải ngân.

Các công tố viên nói rằng họ đang điều tra số tiền này kết quả của sự trốn thuế, mặc dù họ không chắc chắn về mục đích của việc chuyển ngân vào nước Ý, vì đây là bất hợp pháp nếu mang hơn 10,000 Euros mà không khai báo.

Đức Ông Scarano hiện bị tạm giam trong nhà tù tại Naples, Carenzo bị giam tại Rome và Zito bị giam tại nhà tù quân đội gần thành phố Naples.

Trang lexpress.fr cho biết truyền thông Ý đều loan tin Đức Ông Nunzio Scarano là Giám mục, nhưng trên thực tế ngài không phải là một Giám mục, nhưng chỉ là một linh mục được ban tước Đức Ông. Trang tin này cũng cho biết Đức Ông Scarano đã bị Tòa Thánh cho ngưng việc từ khoảng một tháng nay, khi các bề trên của ngài biết rằng ngài đang bị điều tra.

Cuộc bắt giữ này diễn ra trong bối cảnh cách đây hai hôm Đức Phanxicô đã thành lập một ủy ban đặc biệt để kiểm soát các hoạt động của Viện Giáo Vụ.

Thái Trọng

Ơn gọi sống theo Chúa

Ơn gọi sống theo Chúa

Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng để cứu chữa”.

Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài, và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán: “Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con người.

Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa.

Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”.

Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.

Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

Veritas Radio

Không quay đầu lại

Không quay đầu lại

Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.

Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.

Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.

Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.

Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.

Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt