Chúa Kitô phục sinh giúp can đảm và dấn thân sống các thực tại thường ngày

Chúa Kitô phục sinh giúp can đảm và dấn thân sống các thực tại thường ngày

Sự Phục Sinh của Chúa Kitô soi sáng cuộc đời, giúp chúng ta tin tưởng sống các thực tại thường ngày và can đảm dấn thân đương đầu với chúng.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 70,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 3 tháng 4-2013 tại quảng trường thánh Phêrô. Trong số hàng trăm phái đoàn tham dự có nhóm 13 tân Phó Tế của dòng Tên và thân nhân, trong đó có hai thầy Việt Nam là thầy Cao Gia An và thầy Nguyễn Mai Kha, đã được Đức Hồng Y Gianfranco Ravasi Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh văn hóa truyền chức chiều thứ ba mùng 2 tháng 4-2013 tại nhà thờ Chúa Giêsu ở Roma. Ngoài ra còn có một nhóm tín hữu Việt Nam đến từ Hoa Kỳ.

Trong khi chờ đợi Đức Thánh Cha các bạn trẻ đã thay phiên nhau ca hát. Xe díp chở Đức Thánh Cha đã đi một vòng giữa các lối đi quanh quảng trường để ngài chào tín hữu.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài tiếp tục trình bầy các bài giáo lý về Năm Đức Tin. Trong Kinh Tin Kính chúng ta lập lại kiểu nói: ”Ngày thứ ba Người đã sống lại theo lời Thánh Kinh”. Đó là biến cố chúng ta đang cử hành: Sự Sống Lại của Chúa Giêsu là trung tâm sứ điệp Kitô ngay từ đầu đã vang lên và được thông truyền để đến được với chúng ta.

Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Côrintô như sau: ”Trước hết tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai” (1 Cr 15,3-5). Lời tuyên xưng đức tin ngắn gọn này loan báo Mầu Nhiệm Phục Sinh, với các lần hiện ra đầu tiên của Chúa Phục Sinh với thánh Phêrô và với Nhóm Mười Hai: Cái Chết và sự Sống Lại của Chúa Giêsu là trung tâm niềm hy vọng của chúng ta. Không có niềm tin này nơi cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu niềm hy vọng của chúng ta sẽ yếu ớt, và cũng sẽ không phải là niềm hy vọng nữa, và chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là trung tâm niềm hy vọng của chúng ta. Thánh Tông Đồ khẳng định: ”Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (c. 17). Đức Thánh Cha ghi nhận tình trạng đức tin hiện nay như sau:

Rất tiếc là thường khi người ta đã tìm làm lu mờ đi niềm tin nơi sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, và các nghi ngờ cũng len lỏi vào giữa cả các tín hữu nữa. Một chút niềm tin đó là ”tin vào nước hoa hồng”, như người ta thường nói: nó không phải là niềm tin mạnh mẽ. Và điều này xảy ra vì sự hời hợt bề ngoài, đôi khi vì sự thờ ơ, người ta lo lắng cho hàng ngàn chuyện được coi là quan trọng hơn đức tin, hay vì một quan điểm chỉ ở chiều ngang của cuộc sống. Nhưng chính sự Phục Sinh mở ra niềm hy vọng lớn hơn cho chúng ta, bởi vì nó mở ra cho cuộc sống chúng ta và cuộc sống của thế giới tương lai vĩnh cửu của Thiên Chúa, niềm hạnh phúc tràn đầy, sự chắc chắn rằng sự dữ, tội lỗi, cái chết có thể được vượt thắng. Và điều này đưa chúng ta tới chỗ tin tưởng sống các thực tại thường ngày hơn, đương đầu với chúng với lòng can đảm và dấn thân. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô soi sáng các thực tại thường ngày ấy với một ánh sáng mới mẻ. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô là sức mạnh của chúng ta!

Nhưng sự thật đức tin về sự Phục Sinh của Chúa Kitô đã được thông truyền cho chúng ta như thế nào? Có hai loại chứng tá trong Thánh Kinh Tân Ước: vài chứng tá là trong hình thức của lời tuyên xưng đức tin, nghĩa là các công thức tổng hợp chỉ cho thấy trung tâm của đức tin; các công thức khác trái lại trong hình thức trình thuật biến cố Phục Sinh và các sự kiện gắn liền với nó. Hình thức thứ nhất là hình thức tuyên xưng đức tin, chẳng hạn như lời tuyên xưng mà chúng ta vừa mới nghe, hay hình thức của Thư gửi tín hữu Roma, trong đó thánh Phaolô viết: ”Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9). Ngay từ những bước đầu tiên của Giáo Hội niềm tin nơi Mầu Nhiệm cái Chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu đã vững vàng và rõ ràng. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn dừng lại trên các chứng tá trong hình thái thứ hai là hình thái trình thuật mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng. Trước hết chúng ta ghi nhận rằng các chứng nhân đầu tiên của biến cố này là các phụ nữ. Vào tảng sáng, họ ra mồ để ướp xác Chúa Giêsu, và họ tìm thấy dấu chỉ đầu tiên: đó là ngôi mộ trống (X. Mt Mc 16,1). Tiếp theo đó là cuộc gặp gỡ với một sứ giả của Thiên Chúa báo cho biết rằng Đức Giêsu thành Nagiarét, Đấng bị đóng đanh, không ở đây, Người đã sống lại (cc. 5-6). Rồi Đức Thánh Cha đã đề cao các phụ nữ như sau:

Các phụ nữ đã được thúc đẩy bởi tình yêu thương và họ biết tiếp nhận lời báo đó với đức tin: họ tin và ngay tức khắc họ thông truyền nó, chứ không giữ nó cho riêng mình. Niềm vui được biết rằng Chúa Giêsu sống, niềm hy vọng tràn ngập con tim không thể kìm hãn được. Điều này cũng phải xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta cảm thấy niềm vui là Kitô hữu! Chúng ta tin nơi một Đấng Phục Sinh đã chiến thắng sự dữ và cái chết! Chúng ta có can đảm ”đi ra” để đem niềm vui và ánh sáng này vào mọi nơi của cuộc sống thường ngày! Sự Phục Sinh của Chúa Kitô là sự chắc chắn lớn nhất của chúng ta; và nó là kho tàng qúy báu nhất! Làm sao lại không chia sẻ với các người khác kho tàng đó, sự chắc chắn đó? Nó không phải chỉ để cho chúng ta mà thôi, mà là để thông truyền nó, trao ban nó cho người khác, chia sẻ với người khác. Đó chính là chứng tá của chúng ta.

Có một yếu tố khác nữa. Trong các lời tuyên xưng đức tin của Tân Ước chỉ có các người nam, các Tông Đồ, chứ không phải các phụ nữ được nhớ tới như các chứng nhân của sự Phục Sinh. Điều này bởi vì theo Luật do thái thời đó, các phụ nữ và trẻ em không thể làm chứng tá một cách đáng tin cậy. Trái lại trong các Phúc Âm phụ nữ có một vai trò hàng đầu nền tảng. Ở đây chúng ta có thể tiếp nhận một yếu tố thuận lợi cho tính cách lịch sử của sự Phục Sinh: nếu nó đã là một sự kiện được bịa ra, trong bối cảnh của thời đó, thì nó sẽ không được gắn liền với chứng tá của các phụ nữ. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Trái lại, các thánh sử kể lại một cách đơn sơ điều đã xảy ra: các phụ nữ là các chứng nhân đầu tiên. Điều này nói muốn rằng Thiên Chúa không lựa chọn theo các tiêu chuẩn của con người: các chứng nhân đầu tiên của biến cố Chúa Giêsu sinh ra là các mục đồng, những người đơn sơ khiêm hạ; các chứng nhân đầu tiên của sự Phục Sinh là các phụ nữ. Và điều này thật là đẹp. Và đây một chút là sứ mệnh của phụ nữ: của các bà mẹ, của đàn bà! Làm chứng cho con cái cháu chắt biết rằng Chúa Giêsu sống, là Đấng đang sống, đã phục sinh. Hỡi các bà mẹ và chị em phụ nữ, hãy tiến lên với chứng tá đó!

Đối với Thiên Chúa chỉ có con tim là đáng kể, khi chúng ta rộng mở cho Người, nếu chúng ta giống như trẻ em, chúng tin tưởng. Nhưng điều này cũng khiến cho chúng ta suy nghĩ về sự kiện trong Giáo Hội và trên con đường lòng tin, nữ giới đã và đang có một vai trò đặc biệt như thế nào trong việc rộng mở các cánh cửa cho Chúa, trong việc theo Người và thông truyền Gương mặt của Người, bởi vì cái nhìn của đức tin luôn luôn cần đến cái nhìn đơn sơ và sâu xa của tình yêu. Các Tông Đồ và các môn đệ vất vả hơn để tin. Các phụ nữ thì không. Thánh Phêrô chạy tới mồ, nhưng dừng lại ở ngôi mộ trống; còn Tôma phải sờ tay vào các vết thương của thân thể Chúa Giêsu. Cả trong con đường lòng tin của chúng ta thật là quan trọng biết và cảm thấy rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, không sợ hãi yêu thương Chúa: đức tin được tuyên xưng với môi miệng và con tim, với các lời nói và với tình yêu.

Sau các cuộc hiện ra với các phụ nữ Chúa Giêsu hiện diện một cách mới mẻ: đó là Đấng chịu đóng đanh, nhưng thân xác Người vinh hiện; Người không trở lại với cuộc sống trần gian nữa, nhưng trong một điều kiện mới mẻ. Ban đầu họ không nhận ra Người, và chỉ qua các lời và các cử chỉ của Người mắt họ mới mở ra: cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh biến đổi, trao ban một sức mạnh mới cho đức tin, một nền tảng không thể sụp đổ. Đối với chúng ta cũng thế, có biết bao nhiêu dấu chỉ qua đó Chúa Phục sinh tỏ hiện ra: Thánh Kinh, bí tích Thánh Thể và các Bí tích, lòng bác ái, các cử chỉ của tình yêu đem đến một tia sáng của Chúa Phục Sinh. Chúng ta hãy để cho mình được chiếu sáng bởi sự Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta hãy để cho mình được biến đổi bởi sức mạnh của Người, để qua chúng ta trong thế giới các dấu chỉ của chết chóc nhường chỗ cho các dấu chỉ của sự sống. Tôi thấy có biết bao nhiêu bạn trẻ tại quảng trường. Họ đây: với họ tôi xin nói: Các con hãy mang theo sự chắc chắn này: đó là Chúa sống và bước đi bên cạnh chúng ta trong đời. Đó là sứ mệnh của chúng ta! Hãy đưa niềm hy vọng đó tiến lên. Hãy cắm neo vào niềm hy vọng ấy: cái neo này ở trên trời: hãy cầm chắc lấy dây neo, hãy cắm neo và đưa niềm hy vọng tiến lên. Các con là chứng nhân của Chúa Giêsu, hãy làm chứng rằng Người sống và điều này sẽ trao ban hy vọng cho chúng ta, sẽ trao ban hy vọng cho thế giới hơi già nua này vì chiến tranh, vì sự dữ vì tội lỗi. Các bạn trẻ ơi hãy tiến lên!

Đức Thánh Cha đã chào các nhóm tín hữu bằng tiếng Ý. Ngài đặc biệt cám ơn các bạn trẻ Libăng đã soạn các bài suy niệm cho buổi đi đàng Thánh Giá tối thứ sáu Tuần Thánh và cám ơn các ca đoàn tiếng Anh đã hát mừng ngài. Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu đón nhận chiến thắng của Chúa Kitô trên sự ác và diễn tả qua những thực tại cụ thể của lịch sử và xã hội.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng lần đầu tiên, trưa ngày 1 tháng 4-2013, thứ hai sau Phục Sinh, với khoảng 40 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô. Ngày này cũng là lễ nghỉ tại Italia. ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em!

Cầu chúc tất cả anh chị em lễ Phục Sinh tốt đẹp! Tôi cám ơn anh chị em hôm nay đến đây đông đảo để chia sẻ niềm vui của lễ Phục Sinh, mầu nhiệm chủ yếu của đức tin chúng ta. Ước gì sức mạnh Phục Sinh của Chúa Kitô đến với mỗi người – nhất là những người đang chịu đau khổ – và tất cả những hoàn cảnh đang cần niềm tín thác và hy vọng hơn cả”.

”Chúa Kitô đã chiến thắng sự ác một cách trọn vẹn và chung kết, nhưng mỗi người chúng ta, những người thuộc mọi thời đại, có nhiệm vụ đón nhận chiến thắng ấy trong cuộc sống bản thân và trong những thực tại cụ thể của lịch sử và xã hội. Vì thế, tôi thấy một điều quan trọng là nhấn mạnh điều mà hôm nay chúng ta cầu xin Chúa trong phụng vụ: ”Lạy Cha, là Đấng làm cho Giáo Hội của Cha được tăng trưởng bằng cách luôn ban cho Giáo Hội những người con mới, xin ban cho các tín hữu của Cha được biểu lộ trong cuộc sống bí tích mà họ đã lãnh nhận trong đức tin” (Kinh Tổng nguyện thứ 2 tuần bát nhật Phục Sinh).

”Đúng vậy, bí tích rửa tội làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta với Chúa Kitô, phải trở thành sự sống, nghĩa là phải được biểu lộ của các thái độ, lối cư xử, những cử chỉ và chọn lựa. Ơn thánh chứa đựng trong các bí tích Phục Sinh là một tiềm năng canh tân rất lớn cho cuộc sống bản thân, cho đời sống gia đình, cho các quan hệ xã hội. Nhưng tất cả đều tiến qua tâm hồn con người: nếu tôi để cho ơn thánh của Chúa Kitô phục sinh đạt tới, nếu tôi để ơn thánh biến đổi tôi trong những khía cạnh không tốt, có thể gây hại cho tôi và tha nhân, thì có nghĩa là tôi để cho chiến thắng của Chúa Kitô vững mạnh trong đời sống của tôi, mở rộng những hoạt động tốt lành của tôi. Đó chính là sức mạnh của ơn thánh!”

Và ĐTC kết luận rằng:
”Anh chị em thân mến, biểu lộ trong cuộc sống bí tích chúng ta đã nhận lãnh: đó chính là sự dấn thân hằng ngày của chúng ta và tôi có thể nói đó là niềm vui thường nhật của chúng ta! Niềm vui cảm thấy mình là dụng cụ của ơn thánh Chúa Kitô, như những nghành của cây nho là chính Ngài, được sống động nhờ nhựa sống của Thánh Linh Ngài”.

”Chúng ta hãy cùn gnhau cầu nguyện, nhân danh Chúa đã chịu chết và sống lại, và nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, để Mầu Nhiệm phục sinh có thể tác động sâu xa trong chúng ta và trong thời đại chúng ta ngày nay, để oán ghét nhường chỗ cho tình thương, dối trá nhường chỗ cho sự thật, oán thù nhường chỗ cho tha thứ, sầu muộn nhường chỗ cho vui mừng”.

Sau khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC còn chào thăm tất cả các tín hữu hành hương đến từ các đại lục để tham dự buổi đọc kinh này. Ngài chỉ nói bằng tiếng Ý, và không dùng các sinh ngữ khác.

Chiều 1 tháng 4-2013, ĐTC đã xuống hầm đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện tại mộ thánh Tông Đồ. Tháp tùng ngài có ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ thánh Phêrô. (SD 1-4-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chúa đã sống lại

Chúa đã sống lại

Jesus Resurrection

Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.

Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.

Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.

Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.

Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.

Radio Veritas Asia

Ánh sáng và bóng tối

Ánh sáng và bóng tối

Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.

Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.

Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.

Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.

Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.

– Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.

– Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.

– Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.

– Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.

– Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.

Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.

Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.

Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.

Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha chủ sự nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa

 

Video clip Way of the Cross of Good Friday dài 1 giờ 38 phút

VATICAN. Lúc 5 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, 29-3-2013, ĐTC Phanxicô đã chủ tọa nghi thức trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, trước sự hiện diện của hơn 8 ngàn tín hữu, khoảng 30 Hồng Y và 25 GM tại Tòa Thánh.

Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã diễn giảng về đề tài ”Được trở nên công chính nhờ niềm tin nơi trong máu Chúa Giêsu Kitô”.

Cha gọi biến cố Thứ Sáu Tuần Thánh này là cao điểm của Năm Đức Tin, và là lúc quyết định. Chính niềm tin này cứu thoát, niềm tin chiến thắng thế giới (1 Ga 5,5). Trong ngày này, chúng ta có thể đưa ra quyết định quan trọng nhất trong đời, quyết định mở toang các cánh cửa vĩnh cữu: tin! Tin rằng ”Chúa Giêsu đã chết cho tội lỗi chúng ta và sống lại để làm cho chúng ta trở nên công chính” (Rm 4,25).

Vị Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo hoàng cũng đặc biệt nói đến sứ mạng của Giáo Hội và các tín hữu trong việc rao giảng Tin Mừng ngày nay, và khẳng định rằng ”Việc rao giảng Tin Mừng của Kitô giáo không phải là ”chinh phục”, cũng chẳng phải là ”tuyên truyền”; đó là một món quà của Thiên Chúa cho thế giới trong Chúa Giêsu con của Ngài. Đó là mang lại cho Đầu niềm vui được cảm thấy sự sống chảy từ con tim tới toàn thân và làm cho các chi thể xa xăm nhất được sinh động. Chúng ta phải làm sao để Giáo Hội không bao giờ giống như lâu đài phức tạp và cồng kềnh như câu chuyện của Văn sĩ Franz Kafka (Un messagio imperiale) và làm sao cho sứ điệp có thể xuất phát từ Giáo Hội, tự do và vui tươi như khi mới bắt đầu. Chúng ta biết đâu là những chướng ngại có thể cản trở các sứ giả: đó là những bức tường phân cách, bắt đầu là những bức tường chia rẽ các Giáo Hội Kitô với nhau, bệnh bàn giấy thái quá, những tàn tích của guồng máy, những luật lệ và tranh luận quá khứ, nay trở thành những đống gạch vụn.”

Cha Cantalamessa nhắc đến những lời gần đây của ĐTC Phanxicô kêu gọi các tín hữu hãy đi tới các khu ngoại ô của cuộc sống, những khu vực tội lỗi, đau khổ, bất công, dốt nát và dửng dưng về tôn giáo, của tư tưởng và mọi hình thức lầm than. Cha nhận xét rằng:

”Cũng như với một số tòa nhà cũ kỹ. Qua các thể kỷ, để thích ứng với những đòi hỏi của giai đoạn, người ta làm đầy những tòa nhà ấy bằng những vách ngăn, những cầu thang và những phòng lớn nhỏ. Đến một lúc người ta nhận thấy tất cả những thích ứng đó không còn đáp ứng các đòi hỏi hiện nay nữa, thậm chí chúng còn là một chướng ngại, và phải có can đảm phá đổ tất cả những thứ ấy, đưa tòa nhà trở lại tìnht rạng đơn sơ, hợp với thời nguyên thủy. Đó là sứ mạng mà một hôm, một người cầu nguyện trước cây thánh giá Thánh Damiano, đã nhận lãnh: ”Hỡi Phanxicô, hãy sửa lại nhà của Ta!”.

Cha Cantalamessa nhắc nhở rằng công trình đó không phải là điều chúng ta tự sức mình có thể làm được, nhưng chính Thiên Chúa làm cho chúng ta có khả năng trở thành những thừa tác viên của giáo ước mới, không phải bằng chữa viết, nhưng là bằng Thần Trí (Xc 2 Cr 2,16; 3,5-6).

Và cha kết luận rằng: ”Xin Chúa Thánh Linh, trong lúc đang mở ra cho Giáo Hội một thời kỳ mới, đầy triển vọng, khơi dậy nơi con người sự chờ đợi sứ điệp và nơi các sứ giả ý chí chuyển đạt sứ điệp cho họ, dù phải hy sinh mạng sống”.
Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ. 120 LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.

Lúc 9 giờ 15 phút tối cùng ngày 29-3-2013, theo chương trình, ĐTC Phanxicô chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại hý trường Colosseo ở Roma. Nghi thức này được hơn 60 đài truyền hình trên thế giới truyền đi trên hệ thống Mondovisione. Hàng chục ngàn tín hữu đã đến tham dự nghi thức này.

ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Roma đã vác Thánh Giá chặng đầu tiên và chặng thứ 14 của Đàng Thánh Giá. Những người vác thập giá tại các chặng còn lại lần lượt là các gia đình Italia và Ấn độ, người khuyết tật và những người trợ giúp, hai LM từ Thánh Địa, các nữ tu từ Trung Đông, 2 chủng sinh người Hoa, và các tín hữu từ Phi châu.
Các bài suy niệm trong Đàng thánh giá năm nay do các bạn trẻ Công Giáo Liban soạn, dưới sự hướng dẫn của ĐHY Béchérai Rai, Giáo Chủ Công Giáo Maronite. (SD 29-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

VINH QUANG THẬP GIÁ

VINH QUANG THẬP GIÁ

Thứ Sáu Tuần Thánh đối với chúng ta là một ngày thánh thiêng, một ngày chay trọng thể, để kính nhớ cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta chay kiêng cho tới tối Vọng Phục sinh và sau đó chúng ta vui mừng, mừng Chúa sống lại.

Thứ Sáu Tuần Thánh, Hội Thánh đề cao vinh quang thập giá hơn là những đau khổ, những tủi nhục, những tang thương của sự thương khó. Hội Thánh kính nhớ cuộc thương khó của Chúa Giêsu và sự sống lại của Ngài. “Đức Kitô phải chịu thương khó đã để vào trong vinh quang” (Lc 24, 26). Thập giá và vinh quang đan quyện lấy nhau. Chúng ta chỉ có thể đón nhận mầu nhiệm Thập Giá và Vinh quang sống lại khải hoàn qua đức tin của chúng ta.

Hôm nay, thật sự ngày Thứ Sáu Tuần Thánh không còn là một ngày ảm đạm sầu đau, nhưng ngày Chúa chịu chết lại là một ngày thật tốt đẹp, ngày cao cả bởi vì Chúa Giêsu đã hoàn tất công trình cứu độ của Ngài : “Khi nào Ta được giương lên cao, đã sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Đây là cao điểm cuộc đời hiến dâng của Chúa cứu thế. Chúa Giêsu chết trên giá, cái chết của Ngài không phải là sự tang tóc theo kiểu suy nghĩ của người đời, Ngài chết theo ý Chúa Cha, Ngài chết để cứu độ con người, cứu chuộc loài người. Cái chết của Ngài có mục đích, có ý nghĩa thẳm sâu. Chúa chết vì yêu thương con người bởi nơi Thập giá chứa chan ơn cứu chuộc. Chúa chết thay cho tất cả mọi người, Ngài vô tội nhưng đã gánh tội lỗi cho chúng ta để cứu rỗi chúng ta. Ngài biết chúng ta cần Ngài, nhưng Ngài yêu thương chúng ta trước, cứu chuộc chúng ta trước khi chúng ta biết mình được hạnh phúc ấy.

Đồi Canvê là nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Tuy nhiên, chẳng khi nào chung ta hiểu thấu ý nghĩa cao sâu của việc Chúa hy sinh chết trên Thập giá, chẳng bao giờ chúng ta hiểu thấu tình thương vô biên của Chúa đối với chúng ta. Cuộc hành trình đức tin vẫn kéo dài. Cuộc lữ hành trần thế vẫn có những thử thách, những mong manh, những đau khổ, con người vẫn có nhièu lỗi phạm, chúng ta vẫn phản nghịch cùng Chúa và vẫn thích làm theo ý chúng ta. Chúa không muốn để chúng ta phải chết tuy chúng ta thật đáng tội chết. Chúa đã chết cho chúng ta được sống và sống dồi dào, sống tự do như Ngài đã nói : “Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).

Do đó, chúng ta phải bỏ con người cũ để mặc lấy Đức Kitô. Từ bỏ tội lỗi, từ bỏ đời sống xấu xa để chúng ta được đẹp lòng Chúa. Chúng ta cũng phải thương yêu người đồng loại và đem Chúa cho họ.

Thứ Sáu Thánh, chúng ta hãy nhìn lên Thập giá Chúa Giêsu : “Đây là cây thánh giá. Nơi đã treo Đấng cứu độ trần gian”. Chúng ta hãy tự suy nghĩ và hồi tâm bởi đâu Chúa chịu chết như vậy ? Phải chăng do tội lỗi con người, do tội lỗi chúng ta mà Chúa chịu đau khổ và chịu chết thảm sầu trên thánh giá ? Chúng ta hãy thực lòng ăn năn thống hối để xin Chúa thứ tha và chúc lành.

Lạy Chúa, vì yêu thương chúng con vô ngần, Chúa đã vui lòng cho con một Chúa đổ máu đào trên thập giá để hoàn thành mầu nhiệm Vượt Qua, đem lại ơn cứu độ cho loài người. Giờ đây, xin Chúa nhớ lại tình thương ấy mà thánh hóa và che chở đoàn con luôn mãi. Amen (Lời nguyện đầu ngày Thứ Sáu Thánh).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

ĐÀNG THÁNH GIÁ 2013 TẠI COLOSSEUM

ĐÀNG THÁNH GIÁ 2013 TẠI COLOSSEUM

DO ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CHỦ SỰ

Suy niệm của các bạn trẻ Liban

theo gợi ý của Đức Hồng Y Béchara Boutros Raï

Bản dịch Việt ngữ: Lm. Lê Công Đức

 

DẪN NHẬP

Một người kia chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17).

Trước câu hỏi cháy bỏng này, một câu hỏi trào lên từ đáy sâu con người chúng ta, Đức Giêsu đã trả lời bằng chính việc Người bước đi trên con đường Thập giá.

Lạy Chúa, chúng con chiêm ngắm Chúa dọc theo con đường này, con đường mà Chúa là người đầu tiên đã bước đi, và qua đó “Chúa đã dùng Thánh Giá Chúa bắc cầu nối sự chết, để con người có thể vượt qua từ cõi chết đến cõi trường sinh” (Thánh Ephraim Syria, Bài giảng).

Tiếng gọi mời bước theo Chúa được trao cho mọi người, nhất là những người trẻ và những ai đang đứng trước thử thách của chia rẽ, chiến tranh hay những bất công, và những ai đang chiến đấu để trở nên những dấu hiệu của hy vọng và những người xây dựng hòa bình giữa anh chị em mình.

Lạy Chúa, với lòng mến yêu, chúng con đặt mình trước mặt Chúa, chúng con dâng cho Chúa những thống khổ của chúng con, chúng con hướng đôi mắt và trái tim chúng con về Thánh Giá Chúa; và được khích lệ bởi lời Chúa hứa, chúng con khấn nguyện: “Ngợi khen Đấng Cứu Chuộc chúng con, Chúa đã chết để cho chúng con được sống. Xin thực hiện nơi chúng con mầu nhiệm cứu chuộc của Chúa, nhờ cuộc khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa” (Phụng vụ Maronite).

Chặng thứ nhất: Chúa Giêsu bị kết án tử hình

station 01

Tin Mừng theo Thánh Máccô 15,12-13. 15

Ông Philatô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Dothái?” Họ la lên: “Ðóng đinh nó vào thập giá!” Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Ðức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.

Đức Giêsu lẽ ra đã phải giành lại công lý từ Philatô, con người nắm quyền lực! Philatô quả thực có khả năng nhận hiểu rằng Đức Giêsu vô tội và ông có quyền phóng thích Người. Nhưng vị tổng trấn Rôma muốn phục vụ cho các quyền lợi riêng của mình hơn, và ông đã nhượng bộ trước những áp lực chính trị và xã hội. Ông kết án một con người vô tội để làm hài lòng đám đông, ông đành quay lưng lại với sự thật. Ông đẩy Đức Giêsu vào thảm kịch Thập giá, dù biết rằng Người vô tội… và rồi ông đi rửa tay.

Trong thế giới hôm nay, có nhiều “Philatô” nắm giữ trong tay những đòn bẩy quyền lực, và sử dụng chúng để phục vụ cho những kẻ mạnh nhất. Có nhiều người nhu nhược và hèn nhát trước bóng ma của quyền lực, lạm dụng quyền bính của mình để phục vụ cho sự bất công, chà đạp lên phẩm giá và quyền sống của con người.

Lạy Chúa Giêsu,

xin đừng để chúng con

rơi vào số những người hành xử bất công.

Xin đừng cho phép những kẻ mạnh

khoái trá khi làm ác,

bất công và bạo ngược.

Xin đừng để sự bất công kết án người vô tội,

đẩy họ đến chỗ tuyệt vọng và cái chết.

Xin khơi lên trong họ niềm hy vọng

và xin soi sáng lương tâm

của những người nắm giữ quyền bính trong thế giới này,

để họ biết cai trị trong công lý. Amen.

 

Chặng thứ hai: Chúa Giêsu vác Thánh Giá

station 02

Tin Mừng theo Thánh Máccô 15,20

Chế giễu chán, chúng lột áo điều Người ra để đóng đinh vào thập giá.

Đức Kitô đứng trước những người lính vốn nghĩ rằng họ có toàn quyền trên Người, trong khi chính nhờ Người mà “mọi vật được tạo thành… và không có Người thì chẳng có chi đã được tạo thành” (Ga 1,3).

Thời nào cũng có những người nghĩ rằng mình có thể thay Thiên Chúa để ấn định cho mình điều nào tốt và điều nào xấu (x. St 3,5) mà không cần qui chiếu đến Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ. Con người nghĩ rằng mình toàn năng, có thể loại trừ Thiên Chúa khỏi cuộc sống của mình và của những người xung quanh mình, nhân danh lý trí, quyền lực và tiền bạc.

Ngày nay cũng vậy, thế giới chịu khuất phục trước những thực tế muốn tìm cách xua đuổi Thiên Chúa khỏi đời sống con người, như trào lưu thế tục mù quáng làm chết ngạt những giá trị của đức tin và luân lý, viện lẽ rằng để bảo vệ con người; hay những chủ nghĩa quá khích đầy tính bạo lực khoác danh nghĩa bảo vệ các giá trị tôn giáo (x. Ecclesia in Medio Oriente, 29).

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã chấp nhận bị sỉ nhục và đứng về phía những người yếu đuối,

chúng con phó thác cho Chúa

tất cả những ai chịu sỉ nhục và đau khổ,

nhất là những anh chị em ở Trung Đông đang bị bách hại.

Xin cho họ tìm thấy nơi Chúa sức mạnh

để có thể vác thập giá hy vọng của họ với Chúa.

Chúng con trao vào tay Chúa

tất cả những ai lầm lạc,

để nhờ Chúa

họ có thể tìm thấy sự thật và tình yêu. Amen.

 

Chặng thứ ba: Chúa Giêsu ngã lần thứ nhất

station 03

Lời Chúa trong Sách Isaia 53,5

Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.

Đấng nắm giữ muôn ngọn đèn trời trong bàn tay thần linh của mình; Đấng mà mọi quyền lực trên trời phải run sợ trước mặt Người… thì đây, hãy nhìn Đấng ấy ngã gục xuống đất dưới sức nặng của Thập giá, không có gì chở che mình.

Chịu mang thương tích vì tội lỗi chúng ta, Đấng mang hòa bình đến cho thế giới này đang ngã xuống dưới sức nặng của tội lỗi chúng ta.

“Hỡi những người tin Chúa, hãy nhìn Đấng Cứu Độ chúng ta bước tới trên con đường lên Canvê. Bị đè nặng bởi những nỗi đớn đau cay đắng, Người không còn sức lực nữa. Chúng ta hãy đến nhìn cảnh tượng lạ lùng này, một cảnh tượng mà chúng ta không thể hiểu và không thể tả. Các nền móng của trái đất bị rúng chuyển và một nỗi sợ kinh hoàng tràn ngập những ai hiện diện ở đó khi Đấng Tạo Hóa và Thiên Chúa của họ bị nghiền nát dưới sức nặng của Thập giá, và Người buông mình cho người ta đẩy đến cái chết, vì yêu thương loài người” (Phụng vụ Canđê).

Lạy Chúa Giêsu,

xin đỡ chúng con dậy khi chúng con gục ngã,

và xin dẫn đưa tâm hồn lầm lạc của chúng con

trở về với Sự Thật của Ngài.

Xin đừng để lý trí con người, vốn được Chúa tạo nên để phụng sự Chúa,

tự cho phép mình thỏa mãn với những sự thật bất toàn của khoa học và công nghệ

mà không thao thức đặt những câu hỏi nền tảng

về ý nghĩa của cuộc sống con người (x. Porta Fidei, 12).

Lạy Chúa, xin giúp chúng con

mở lòng ra cho tác động của Chúa Thánh Thần,

để Ngài hướng dẫn chúng con đến Sự Thật trọn vẹn. Amen.

 

Chặng thứ tư: Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ

station 04

Tin Mừng theo Thánh Luca 2,34-35. 51b

Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.

Trong thương tích và trong đau khổ, mang Thập giá của nhân loại trên vai, Đức Giêsu gặp Mẹ Người, và trên gương mặt của Mẹ, Người nhìn thấy toàn thể nhân loại.

Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, là môn đệ đầu tiên của Thầy Chí Thánh. Qua việc chấp nhận thông điệp của Thiên Sứ, Mẹ gặp gỡ Lời Nhập thể lần đầu tiên và trở thành đền thờ của Thiên Chúa hằng sống. Mẹ gặp gỡ Chúa mà không hiểu vì sao Đấng Sáng Tạo trời đất lại muốn chọn một thiếu nữ, một thụ tạo mong manh, để nhập thể vào thế giới này. Mẹ gặp Chúa trong cuộc tìm kiếm không ngừng tôn nhan Chúa, trong âm thầm suy niệm Lời Chúa nơi sâu thẳm tâm hồn mình. Mẹ tưởng rằng Mẹ đang tìm kiếm Chúa, nhưng thực ra, chính Chúa đang tìm kiếm Mẹ.

Giờ đây Chúa gặp Mẹ khi đang vác Thập giá.

Đức Giêsu khổ sở khi nhìn thấy Mẹ Người khổ sở, cũng vậy, Đức Maria khổ sở khi nhìn thấy Con mình khổ sở. Nhưng chính từ nỗi khổ được chia sẻ này mà một nhân loại mới được sinh ra. “Kính chào Mẹ, Đức Nữ Trinh vinh quang và thánh thiện, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Chúa Kitô! Chúng con kêu cầu Mẹ. Xin cho lời nguyện cầu của chúng con vọng tới Con yêu dấu của Mẹ, và Ngài sẽ thứ tha tội lụy của chúng con” (Theotikon trong Horologion, Al-Aghbia, 37).

Lạy Chúa Giêsu,

trong các gia đình chúng con,

chúng con cũng kinh nghiệm những đau khổ

do con cái gây ra cho cha mẹ,

và do cha mẹ gây ra cho con cái.

Lạy Chúa, trong những hoàn cảnh khó khăn ấy,

xin cho các gia đình chúng con thực sự là nơi Chúa hiện diện,

để nỗi khổ của chúng con có thể biến thành niềm vui.

Xin nâng đỡ các gia đình chúng con

và làm cho gia đình chúng con

trở thành những mái ấm của yêu thương và an bình,

như hình ảnh của Gia đình Thánh ở Nadarét. Amen.

 

Chặng thứ năm: Ông Simôn người Kyrênê vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu

station 05

Tin Mừng theo Thánh Luca 23,26

Khi điệu Ðức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Ðức Giêsu.

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simôn người Kyrênê diễn ra trong thinh lặng, trao cho chúng ta một bài học trong cuộc sống mình: Thiên Chúa không muốn sự đau khổ và Ngài không chấp nhận sự dữ. Nhưng đau khổ, nếu được chấp nhận trong đức tin, sẽ được chuyển hóa thành một con đường cứu độ. Vì thế chúng ta chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu đã chấp nhận, và chúng ta kê vai vác đỡ như ông Simôn người Kyrênê đã làm.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã cho phép con người dự phần vác Thánh Giá với Chúa.

Chúa đã mời gọi chúng con thông phần những đau khổ của Chúa.

Là một con người như chúng con,

ông Simôn người Kyrênê dạy chúng con đón nhận Thập giá

mà chúng con gặp trên muôn nẻo đường đời.

Lạy Chúa, theo gương Chúa,

chúng con cũng vác những Thập giá của đau khổ và bệnh tật hôm nay,

nhưng chúng con đón nhận Thập giá vì có Chúa ở với chúng con.

Đau khổ và bệnh tật có thể đóng đinh chúng con một chỗ,

nhưng nó không thể ngăn cản chúng con ước mơ;

nó có thể làm cho mắt chúng con mù lòa,

nhưng không thể làm mờ lương tâm chúng con;

nó có thể làm cho tai chúng con bị điếc,

nhưng không thể ngăn cản chúng con lắng nghe;

nó có thể làm cho lưỡi chúng con bị cứng không nói được,

nhưng không thể bóp nghẹt nỗi khát khao sự thật nơi chúng con;

nó có thể làm cho tinh thần của chúng con bị đè nặng,

nhưng không thể tước đi tự do của chúng con.

Lạy Chúa,

chúng con muốn trở thành những môn đệ của Chúa

để vác Thánh Giá của Chúa mỗi ngày;

chúng con sẽ vác Thánh Giá trong niềm vui và hy vọng

bởi vì có Chúa cùng vác với chúng con,

và bởi vì Chúa đã chiến thắng trên sự chết, vì chúng con.

Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa,

vì biết bao người đau yếu bệnh tật

đang biết cách làm chứng cho tình yêu Chúa,

chúng con tạ ơn Chúa vì những “Simôn người Kyrênê”

mà Chúa gửi đến trên hành trình của chúng con. Amen.

 

Chặng thứ sáu: Bà Vêrônica lau mặt Chúa Giêsu

station 06

Lời Chúa trong Sách Thánh Vịnh 27,8-9

Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan. Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Ðấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Ðấng cứu độ con.

Bà Vêrônica tìm tới Chúa giữa đám đông. Bà tìm, và cuối cùng bà đã gặp Chúa. Trong khi nỗi khổ của Chúa lên cao ngút, bà muốn xoa dịu bằng cách lấy khăn lau mặt Chúa. Một cử chỉ rất bé nhỏ, nhưng nó diễn tả tất cả tấm lòng của bà đối với Chúa và cho thấy rằng bà tin vào Chúa; cử chỉ bé nhỏ này vẫn còn in đậm trong ký ức của truyền thống Kitô giáo.

Lạy Chúa Giêsu,

chúng con tìm kiếm tôn nhan Chúa.

Bà Vêrônica nhắc chúng con rằng

Chúa hiện diện nơi từng con người đang đau khổ

và đang bước đi trên con đường của họ đến Gôngôtha.

Lạy Chúa,

xin cho chúng con biết tìm gặp Chúa nơi người nghèo,

nơi những anh chị em hèn mọn nhất,

để lau nước mắt cho những người đang khóc,

để săn sóc những những cùng khổ

và nâng đỡ những ai yếu nhược.

Lạy Chúa,

xin dạy chúng con hiểu rằng

một con người mang thương tích và bị lãng quên

không hề đánh mất phẩm giá của họ,

và họ vẫn là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa lòng thế giới.

Xin giúp chúng con biết lau sạch khỏi khuôn mặt họ

những dấu vết của sự nghèo khổ và bất công,

để hình ảnh Chúa nơi họ được tỏ lộ và ngời sáng.

Chúng con cầu nguyện cho những ai đang tìm kiếm Tôn nhan Chúa

và những ai gặp được Tôn nhan Chúa nơi những kẻ không nhà,

những người nghèo và những trẻ em phải hứng chịu bạo lực và bóc lột. Amen.

 

Chặng thứ bảy: Chúa Giêsu ngã lần thứ hai

station 07

Lời Chúa trong Sách Thánh Vịnh 22, 8.12

Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai. Xa con Ngài đứng sao đành,
nguy hiểm bên mình không kẻ giúp cho
.

Đức Giêsu một mình dưới sức nặng – cả thể chất lẫn tinh thần – của Thập giá. Trong lần té ngã này, sức nặng của sự dữ trở nên quá lớn và dường như không còn có giới hạn nào cho sự bất công và bạo lực.

Nhưng Người gượng dậy một lần nữa, Người mạnh mẽ trong niềm tín thác vô hạn đặt nơi Chúa Cha. Trước mắt những người bỏ mặc Người cho số phận của Người, sức mạnh của Thánh Thần đã đỡ Người dậy; sức mạnh ấy kết hợp Người với thánh ý Chúa Cha cách trọn vẹn, đó là sức mạnh của tình yêu cho phép người ta làm được mọi sự.

Lạy Chúa Giêsu,

trong lần ngã thứ hai của Chúa,

chúng con nhận ra rất nhiều hoàn cảnh của chúng con

dường như hoàn toàn bế tắc, không lối thoát.

Chẳng hạn, những thành kiến và hận thù

làm chai lì quả tim chúng con

và dẫn đến những xung đột tôn giáo.

Xin Chúa soi sáng tâm trí chúng con

để chúng con nhận ra, bất chấp “những khác biệt tôn giáo và nhân văn”,

rằng “một tia sáng của sự thật

chiếu soi hết mọi người, nam cũng như nữ”,

và mọi người được gọi sánh bước nhau – trong niềm tôn trọng tự do tôn giáo –

để tiến về sự thật nơi chỉ một mình Thiên Chúa.

Như vậy, các tôn giáo khác nhau

có thể “cộng tác với nhau trong việc phục vụ công ích

và đóng góp vào sự phát triển của mỗi con người

cũng như sự xây dựng xã hội” (Ecclesia in Medio Oriente, 27-28).

Lạy Chúa Thánh Thần,

xin hãy đến an ủi và trợ lực cho các Kitô hữu,

nhất là các anh chị em ở Trung Đông,

để trong kết hợp với Đức Kitô,

họ có thể là những chứng nhân cho tình yêu phổ cập của Chúa

tại một vùng đất bị xâu xé bởi bất công và những xung đột. Amen.

 

Chặng thứ tám: Chúa Giêsu gặp các phụ nữ Giêrusalem đang khóc thương Chúa

station 08

Tin Mừng theo Thánh Luca 23,27-28

Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Ðức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu của chị em”.

Trên đường lên Canvê, Chúa đã gặp các phụ nữ Giêrusalem. Những phụ nữ này đang khóc thương cho những đau khổ của Chúa như thể đó là những đau khổ trong vô vọng. Tất cả những gì họ có thể nhìn thấy nơi Thập giá là hai thanh gỗ tréo ngang, dấu hiệu của sự nguyền rủa (x. Đnl 21,23), trong khi Chúa chọn Thập giá như một phương tiện cho ơn thục hồi và cứu độ.

Trong cuộc Thương Khó và trong cái chết Thập giá, Đức Giêsu trao sự sống mình như giá chuộc cho nhiều người. Nghĩa là Người trao ban sự xoa dịu cho những ai bị áp bức và Người an ủi những ai chịu thống khổ. Người lau sạch nước mắt cho các phụ nữ Giêrusalem và mở mắt cho họ nhận ra sự thật của mầu nhiệm Vượt Qua.

Thế giới của chúng ta cũng tràn ngập những bà mẹ đau khổ, những phụ nữ mà phẩm giá của họ bị thương tổn, bị lạm dụng bởi kỳ thị và bất công (x. Ecclesia in Medio Oriente, 60). Nguyện xin Đức Kitô đau khổ trở nên bình an cho họ và trở nên phương dược chữa trị các thương tổn của họ.

Lạy Chúa Giêsu,

nhờ cuộc nhập thể của Chúa nơi Mẹ Maria,

người mẹ “có phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,42),

Chúa đã biểu dương phẩm giá của mọi phụ nữ.

Với mầu nhiệm Nhập thể,

Chúa đã hợp nhất nhân loại (x. Gl 3,26-28).

Lạy Chúa, xin cho tâm hồn chúng con biết khát khao gặp gỡ Chúa.

Xin cho đường đời đầy khổ lụy của chúng con

vẫn luôn luôn là một con đường của hy vọng,

với Chúa và hướng về Chúa,

vì Chúa là nơi nương tựa của cuộc đời

và là ơn cứu độ của chúng con. Amen.

 

Chặng thứ chín: Chúa Giêsu ngã lần thứ ba dưới sức nặng của Thập giá

station 09

Lời Chúa trong Thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi các tín hữu Côrinthô 5,14-15

Tình yêu Ðức Kitô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết. Ðức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Ðấng đã chết và sống lại vì mình.

Lần thứ ba, Chúa Giêsu ngã xuống dưới sức nặng của Thập giá, sức nặng của tội lỗi chúng ta; và lần thứ ba, Người gắng chỗi dậy, vận dụng hết sức lực còn lại nơi mình, để có thể tiếp tục hành trình lên Gôngôtha, Người không để mình bị nghiền nát và đầu hàng trước cám dỗ.

Kể từ khoảnh khắc Nhập Thể, Đức Giêsu mang lấy Thập giá của đau khổ và tội lỗi nhân loại. Người đã đảm nhận bản tính con người một cách trọn vẹn và vĩnh viễn, cho con người thấy rằng họ có thể chiến thắng, và thấy rằng con đường trở thành con cái Thiên Chúa đã mở ra cho hết mọi con người.

Lạy Chúa Giêsu,

được sinh ra từ cạnh sườn Chúa,

Giáo hội bị đè nặng dưới Thập giá của những chia rẽ

làm cho các Kitô hữu xa rời nhau

và xa rời sự hiệp nhất mà chính Chúa mong muốn;

các Kitô hữu quay lưng lại với khát vọng của Chúa “xin cho họ nên một” (Ga 17,21)

như “Cha và Con là một”.

Với tất cả trọng lượng của nó, Thập giá này đè nặng

trên đời sống và trên lời chứng chung của các Kitô hữu.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan và khiêm nhường

để chỗi dậy một lần nữa và tiến về phía trước trên con đường hiệp nhất,

trong sự thật và yêu thương,

mà không bị khuất phục trước cám dỗ chỉ khư khư bám vào các tiêu chuẩn ích lợi cá nhân và phe nhóm mình, để giải quyết những chia rẽ giữa chúng con (x. Ecclesia in Medio Oriente, 11).

Xin cho chúng con biết từ bỏ não trạng chia rẽ,

“để Thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu” (1Cr 1,17). Amen.

 

Chặng thứ mười: Chúa Giêsu bị lột áo

station 10

Lời Chúa trong Sách Thánh Vịnh 22,19

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng vốn có “tà áo bao phủ Đền thờ” (x. Is 6,1), song khi đến thời viên mãn, Chúa đã mặc lấy bản tính nhân loại của chúng con; Chúa đã rảo bước giữa loài người chúng con, và những ai ước ao đụng chạm đến vạt áo Chúa đều được chữa lành. Nhưng lạy Chúa, Chúa đã bị tước cả tấm áo đó! Người ta đã đoạt của Chúa tấm áo ngoài, và Chúa đã trao cả áo trong cho chúng con (x. Mt 5,40). Chúa đã để cho tấm màn che da thịt Chúa bị xé ra, để chúng con có thể một lần nữa được đón nhận vào trong sự hiện diện của Chúa Cha (x. Dt 10,19-20).

Chúng con nghĩ rằng chúng con có thể tự mình hòan thành chính mình, không phụ thuộc vào Chúa (x. St 3,4-7). Thế là chúng con nhận ra mình trần truồng, nhưng trong tình yêu vô hạn của Chúa, Chúa đã mặc lại cho chúng con phẩm giá của con cái Thiên Chúa và của ơn thánh hóa Chúa ban.

Lạy Chúa, xin nhìn đến các con cái của các Giáo hội Đông phương – bị lột trần bởi khó khăn đủ loại, đôi khi đến mức bị bách hại, và bị suy yếu dần do những làn sóng di cư. Xin Chúa ban cho họ ơn can đảm để ở lại quê hương và loan báo Tin Mừng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Con Người,

Chúa đã bị lột áo

để mạc khải cho chúng con thấy tạo vật mới

được nâng lên từ cõi chết,

xin xé toạc nơi chúng con

bức màn ngăn cách giữa chúng con với Thiên Chúa

và đưa chúng con vào trong sự hiện diện thần linh của Chúa.

Xin cho chúng con biết thắng vượt sự sợ hãi

trước những biến cố của cuộc sống

trong đó chúng con bị lột trần trụi,

và cho chúng con biết mặc lấy con người mới do Phép Rửa của mình,

để chúng con có thể loan báo Tin Mừng,

và rao giảng rằng Chúa là Thiên Chúa đích thực và duy nhất,

là Đấng hướng dẫn lịch sử này. Amen.

 

Chặng thứ mười một: Chúa Giêsu bị đóng đinh vào Thánh Giá

station 11

Tin Mừng theo Thánh Gioan 19,16a.19

Bấy giờ ông Philatô trao Ðức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá. Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: “Giêsu Nadarét, Vua dân Dothái”.

Này đây, Đấng Mêsia đã bao đời mong đợi, nay treo trên cây gỗ thập giá giữa hai người trộm cướp. Hai bàn tay thi ân giáng phúc cho con người nay bị xuyên thủng. Hai bàn chân rong ruổi rao giảng Tin Mừng nay bị treo chới với giữa trời và đất. Đôi mắt đầy yêu thương, từng trao ánh nhìn tha thứ tội lỗi chúng ta và chữa trị các bệnh nhân, nay chỉ hướng vọng trời cao.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng con.

Chúa cầu nguyện với Chúa Cha và chuyển cầu cho nhân loại.

Mỗi nhát búa như âm vang một nhịp đập từ trái tim hy tế của Chúa.

Đẹp thay trên đỉnh đồi Canvê,

những bàn chân của Đấng rao giảng Tin Mừng cứu độ.

Lạy Chúa Giêsu, tình yêu của Chúa đã đong đầy vũ trụ.

Đôi bàn tay xuyên thủng của Chúa

là chỗ nương tựa của chúng con trong cơn khốn đốn.

Đôi bàn tay ấy ôm lấy chúng con

bất cứ khi nào vực thẳm tội lỗi đe dọa chúng con,

và trong các vết thương của Chúa

chúng con tìm thấy sự chữa lành và ơn tha thứ.

Lạy Chúa Giêsu,

chúng con cầu xin Chúa cho tất cả các bạn trẻ bị đè bẹp bởi tuyệt vọng,

cho những người trẻ là nạn nhân

của ma túy, của bè phái và của những đồi trụy.

Xin giải thoát họ khỏi những ách nô lệ ấy.

Xin cho họ biết ngước nhìn lên và đón nhận Tình Yêu.

Xin cho họ tìm thấy hạnh phúc trong Chúa;

lạy Đấng Cứu Độ chúng con, xin hãy cứu vớt họ. Amen.

 

Chặng thứ mười hai: Chúa Giêsu chết trên Thánh Giá

station 12

Tin Mừng theo Thánh Luca 23,46

Ðức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Nói xong, Người tắt thở.

Từ trên Thập giá vang vọng một tiếng kêu: tiếng kêu phó thác trong khoảnh khắc trút hơi thở, tiếng kêu của niềm tin tưởng giữa đau khổ, tiếng kêu gắn liền với cuộc sinh hạ một sự sống mới. Này đây, treo trên cây sự sống, Chúa phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha, khai mở nguồn suối sự sống bất tận và làm nên cuộc sáng tạo mới. Ngày hôm nay, chúng con cũng đối mặt với những thách đố của thế giới này: chúng con cảm nhận những nỗi sợ hãi tràn ngập chúng con và làm lung lay niềm tin tưởng của chúng con. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh để nhận biết sâu xa trong lòng rằng không có cái chết nào sẽ khuất phục chúng con, cho đến khi chúng con yên nghỉ trong đôi bàn tay đã tác tạo và đồng hành với chúng con.

Ước gì mỗi người chúng con có thể thốt lên:

“Ngày hôm qua tôi chịu đóng đinh với Đức Kitô,

hôm nay tôi được thông phần vinh quang với Người.

Ngày hôm qua tôi chết với Người,

hôm nay tôi sống với Người.

Ngày hôm qua tôi được mai táng với Người.

Hôm nay tôi sống lại với Người”. (Gregory Nazianzen)

Trong những đêm trường tăm tối, chúng con chiêm ngắm Chúa. Xin dạy chúng con biết hướng về Đấng Tối Cao, là Chúa Cha trên trời.

Hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện

cho tất cả những ai ủng hộ phá thai

biết ý thức rằng

tình yêu chỉ có thể là một nguồn sự sống.

Chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người ủng hộ “cái chết êm dịu”

và những người thúc đẩy các kỹ thuật và các tiến trình đe dọa sự sống con người.

Xin Chúa mở lòng họ

để họ nhận biết Chúa trong sự thật

và để họ làm việc

xây dựng nền văn minh sự sống và tình thương. Amen.

 

Chặng thứ mười ba: Chúa Giêsu được hạ xuống khỏi Thánh Giá và trao cho Đức Mẹ

station 13

Tin Mừng theo Thánh Gioan 19,26-27a

Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Ðức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Ðây là mẹ của anh“.

Lạy Chúa Giêsu, những người yêu mến Chúa ở lại bên Chúa và giữ vững đức tin. Trong giờ hấp hối và trong cái chết của Chúa, khi thế giới này tin rằng sự dữ toàn thắng và rằng tiếng nói của sự thật, tình yêu, công lý và hòa bình bị dập tắt, thì đức tin vẫn không rúng chuyển.

Lạy Mẹ Maria, chúng con phó dâng cho Mẹ mảnh đất (Trung Đông) này của chúng con. “Thật buồn biết bao khi nhìn thấy con cái của mảnh đất được chúc phúc này phải khốn khổ, họ xâu xé nhau không thương tiếc cho đến chết!” (Ecclesia in Medio Oriente, 8). Như thể chẳng có gì thắng vượt được sự dữ, khủng bố, sát hại và hận thù. “Lạy Đức Trinh Nữ, chúng con phủ phục cầu xin trước Thập giá mà đôi bàn tay Con Mẹ giang ra trên đó vì ơn cứu độ của chúng con: xin ban hòa bình cho chúng con” (Phụng vụ Byzantine).

Chúng ta hãy cầu nguyện

cho các nạn nhân

của chiến tranh và bạo lực hôm nay đang tàn phá nhiều quốc gia ở Trung Đông,

cũng như những nơi khác trên thế giới.

Chúng ta hãy cầu xin

cho những người bị buộc phải di cư

có thể sớm trở về quê hương xứ sở của mình.

Lạy Chúa, xin cho máu các nạn nhân vô tội

trở thành hạt giống của một Trung Đông mới,

đầy tình huynh đệ hơn, đầy hòa bình và công lý hơn,

xin cho mảnh đất Trung Đông lấy lại vẻ rạng ngời của ơn gọi mình:

là chiếc nôi của văn minh và của các giá trị nhân bản và tâm linh.

Xin Ánh Sao của Đông phương cho chúng con nhìn thấy ánh Bình Minh tỏ rạng ở chân trời! Amen.

 

Chặng thứ mười bốn: Chúa Giêsu được mai táng trong mồ

station 14

Tin Mừng theo Thánh Gioan 19,39-40

Ông Nicôđêmô cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Ðức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Ðức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà cuốn, theo tục lệ chôn cất của người Dothái.

Ông Nicôđêmô nhận xác Đức Giêsu, ông liệm xác và đặt xác trong một ngôi mộ ở giữa vườn, điều này gợi nhớ khu vườn của buổi Sáng Tạo. Chúa Giêsu để cho mình được mai táng, cũng như Người đã để cho mình bị đóng đinh, cùng một thái độ phó thác, hoàn toàn “trao nộp” vào tay con người và “hoàn toàn nên một” với họ, “ngay cả trong việc ngủ yên trong mộ” (Thánh Gregory Narek).

Để chấp nhận các khó khăn, các biến cố đớn đau, sự chết, người ta phải có niềm hy vọng vững vàng và đức tin sống động.

Tảng đá lấp cửa mồ sẽ bị lật nhào và một sự sống mới sẽ vụt lên. Vì “được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4).

Chúng ta đã nhận được sự tự do của con cái Thiên Chúa, để chúng ta sẽ không quay lại với tình trạng nô lệ; sự sống đã được trao ban dồi dào cho chúng ta, để chúng ta không còn thỏa mãn với một đời sống thiếu vẻ đẹp và thiếu ý nghĩa.

Lạy Chúa Giêsu,

xin làm cho chúng con

trở thành con cái của ánh sáng, không sợ hãi bóng tối.

Hôm nay chúng con cầu xin Chúa

cho những ai đang đi tìm ý nghĩa cuộc đời

và cho những ai đã đánh mất niềm hy vọng,

để họ có thể nhận được ơn đức tin,

và họ sẽ tin rằng Chúa đã chiến thắng trên tội lỗi và sự chết. Amen.

 

© Copyright 2013 – Libreria Editrice Vaticana

Buổi tiếp kiến chung đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: 27 tháng 3-2013

Buổi tiếp kiến chung đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: 27 tháng 3-2013

VATICAN. 25 ngàn tín hữu hành hương đã tham dự buổi tiếp kiến chung đầu tiên của ĐGH Phanxicô sáng ngày 27 tháng 3-2013. Ngài mời gọi các tín hữu hãy ra khỏi chính mình để tìm đến với tha nhân.

Lúc 10 giờ rưỡi sáng ngày, ĐTC đã dùng xe díp màu trắng mui trần tiến qua các lối đi ở Quảng trường để chào thăm các tín hữu, vui mừng, reo hò. Thỉnh thoảng ngài dừng lại để hôn một em bé do nhân viên an ninh bế lên ngài. Trong số các tín hữu hiện diện có lối 3 ngàn sinh viên thuộc các đại học trên thế giới về Roma tham dự các sinh hoạt tuần thánh và học học linh đạo của Giám hạt tòng nhân Opus Dei, gọi là Hội nghị UNIV quốc tế 2013.
Buổi tiếp kiến của ĐTC diễn ra theo khuôn khổ quen thuộc với phần tôn vinh lời Chúa qua một vài đoạn Sách Thánh được xướng lên bằng 5 thứ tiếng, và tiếp đó là bài huấn dụ của ĐTC.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, mến chào anh chị em!

Tôi vui mừng đón tiếp anh chị em trong buổi tiếp kiến chung đầu tiên của tôi. Với lòng biết ơn sâu xa và kính trọng, tôi thu thập ”chứng nhân” từ tay vị tiền nhiệm quí mến của tôi, Đức Biển Đức 16. Sau lễ Phục Sinh chúng ta sẽ tiếp tục loạt bài giáo lý về Năm Đức Tin. Hôm nay tôi muốn nói về Tuần Thánh. Với Chúa nhật lễ lá, chúng ta đã bắt đầu tuần Thánh, là trung tâm của toàn thể Năm Phụng Vụ, trong Tuần này chúng ta tháp tùng Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, trong cái chết và sự sống lại của Ngài.

Nhưng Tuần Thánh có nghĩa là gì đối với chúng ta? Theo Chúa Giêsu trên hành trình trên đồi Canvê tiến về thập giá và sự sống lại của Ngài có nghĩa là gì?

Trong sứ mạng trần thế, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên những con đường của Thánh Địa; Ngài đã kêu gọi 12 người đơn sơ để họ ở với Ngài, chia sẻ hành trình của Ngài và tiếp tục sứ mạng của Ngài, Ngài đã chọn họ giữa những người đầy lòng tin vào lời Chúa hứa. Ngài đã nói với tất cả mọi người, không phân biệt ai, người quan trọng cũng như người khiêm hạ, chàng thanh niên giàu có và bà góa nghèo, người hùng mạnh cũng như người yếu đuối; Ngài đã mang lòng từ bi và ơn tha thứ của Chúa; Ngài đã chữa lành, an ủi, cảm thông, trao ban hy vọng, mang lại cho mọi người sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng quan tâm đến mỗi người nam nữ, như một người cha, một người mẹ, nhân từ đối với mỗi người con của mình. Thiên Chúa không đợi chúng ta đến với Ngài, nhưng chính Ngài đến với chúng ta, không tính toán, không so đo. Chúa Giêsu đã sống những thực tại thường nhật của dân thường: Ngài cảm động trước đám đông như đoàn chiên không người chăn dắt; Ngài đã khóc trước đau khổ của bà Marta và Maria vì cái chết của em trai Lazzaro; Ngài kêu gọi một người thu thế làm môn đệ; Ngài cũng chịu sự phản bội của một người bạn. Nơi Ngài, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta xác tín rằng Chúa ở cùng chúng ta, ở giữa chúng ta. ”Con cáo có hang, và chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi dựa đầu” (Mt 8,20. Chúa Giêsu không có nhà vì nhà của Ngài là dân chúng, sứ mạng của Ngài là mở cho mọi người những cánh cửa của Thiên Chúam, là sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa.

Trong Tuần Thánh chúng ta sống tột đỉnh của hành trình này, của kế hoạch yêu thương diễn ra trong toàn thể lịch sử những quan hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại. Chúa Giêsu vào thành Jerusalem để thi hành giai đoạn cuối cùng, trong đó tóm gọn toàn thể cuộc sống của Ngài: đó là tận hiến trọn vẹn, không giữ lại cho mình điều gì cả, kể cả sự sống. Trong Bữa Tiệc Ly, với các bạn hữu, Ngài chia sẻ bánh và phân phát chén vì chúng ta. Con Thiên Chúa tự hiến cho chúng ta, nộp Thân Mình và Máu Ngài trong tay chúng ta để ở với chúng ta mãi mãi, để ở giữa chúng ta. Và trong Vườn Cây Dầu, như trong cuộc xử án trước quan Philatô, Ngài không kháng cự, nhưng tự nộp; Ngài là Người Đầy Tớ đau khổ mà Ngôn Sứ Isaia đã báo trước, Người đầu tớ cởi bỏ chính mình cho đến tận cái chết (Xc Is 53,12).

Chúa Giêsu không sống một cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc như một định mệnh không thể tránh được; chắc chắn là Ngài không che giấu sự sao xuyến sâu xa như một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng Ngài hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha. Chúa Giêsu tự nguyện giao nộp mình để chịu chết hầu đáp ứng tình thương của Thiên Chúa Cha, hoàn toàn kết hiệp với ý Chúa Cha, để chứng tỏ tình thương của Ngài đối với chúng ta. Trên thập giá, Chúa Giêsu ”đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi người chúng ta có thể nói: Ngài đã yêu thương tôi và đã nộp mình vì tôi. Mỗi người có thể nói Ngài làm điều ấy ”vì tôi”.

Tiếp tục bài huấn dụ trong buổi tiếp kiến, từ những nhận định vừa nói trên đây, ĐTC rút ra những hệ luận thực hành:

”Tất cả những điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Có nghĩa là đây là con đường của tôi, của bạn, của chúng ta. Sống Tuần Thánh qua việc theo Chúa Giêsu không những với sự xúc động trong tâm hồn, nhưng còn có nghĩa là học cách ra khỏi chính mình, – như tôi đã nói hôm chúa nhật tuần trước-, để đi gặp tha nhân, để đi tới ngoại ô của cuộc sống, đi bước đầu tiến lại anh chị em chúng ta, nhất là những người xa cách nhất, những người bị lãng quên, những người đang cần được cảm thông hơn cả, cần an ủi, giúp đỡ. Có nhu cầu rất lớn là phải mang sự hiện diện sinh động của Chúa Giêsu từ bi và giàu lòng yêu thương!

Sống Tuần Thánh là ngày càng đi vào luận lý của Thiên Chúa, luân lý của Thập Giá, trước tiên không phải là luận lý của đau khổ và cái chết, nhưng là của tình thương và hiến thân mang lại sự sống. Đó là đi vào trong luận lý của Tin Mừng. Đi theo, tháp tùng Chúa Kitô, ở lại với Ngài, hành động này đòi phải ”ra khỏi” chính mình, ra khỏi lối sống đức tin mệt mỏi chỉ theo thói quen, ra khỏi cám dỗ co cụm trong những khuôn khổ của mình, và rốt cuộc khép kín chân trời hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ra khỏi chính mình để đến ở giữa chúng ta, Ngài đã cắm lều giữa chúng ta để mang cho chúng ta lòng từ bi của Thiên Chúa Đấng cứu độ và trao ban hy vọng. Cả chúng ta, nếu chúng ta muốn đi theo và ở lại với Chúa, chúng ta không được hài lòng ở lại trong chuồng của 99 con chiên, chúng ta phải ra ngoài, cùng với Chúa tìm con chiên lạc, con chiên ở xa nhất.

Có lẽ có người nói với tôi: ”Nhưng, thưa cha, con không có thời giờ”, ”con còn bao nhiêu điều phải làm”, ”thật là khó khăn”, ”con có thể làm gì được với sức lực ít ỏi của con”?, cả với tội lỗi của con, với bao nhiêu sự? Chúng ta thường hài lòng với vài kinh nguyện, thánh lễ Chúa nhật tham dự lơ đãng và không liên tục, vài cử chỉ bác ái, nhưng chúng ta không có can đảm ra ngoài để mang Chúa Kitô. Chúng ta phần nào giống như Thánh Phêrô. Vừa khi Chúa Giêsu nói về cuộc khổ nạn, cái chết và sống lại, hiến thân, yêu thương đối với mọi người, Thánh Tông Đồ kéo Chúa ra một nơi và trách cứ Chúa. Điều mà Chúa Giêsu nói, đảo lộn kế hoạch của ông, dường như không thể chấp nhận được, gây khó khăn cho những điều chắc chắn mà ông đã kiến tạo, ý tưởng của ông về Đức Messia. Và Chúa Giêsu nhìn các môn đệ và nói với Phêrô bằng một lời nghiêm khắc nhất trong Tin Mừng: ”Hỡi Satan, hãy xa ra khỏi Ta! vì con không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo con người” (Mt 8,33), Thiên Chúa luôn suy nghĩ với lòng từ bi: Ngài là Cha từ bi!. Thiên Chúa suy nghĩ như người Cha chờ đợi người con trở về và đi gặp con, thấy con đang đến từ đàng xa. Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là mỗi ngày ông đi xem người con có trở về nhà hay không: Đó chính là người Cha từ bi của chúng ta. Đó là dấu hiệu chứng tỏ Ngài chờ đợi con mỗi ngày từ trên sân thượng của nhà; Thiên Chúa suy nghĩ như người Samaritano không đi gần người bị nạn, cảm thương họ, hoặc nhìn sang phía khác, nhưng cứu giúp người ấy, không yêu cầu đối lại điều gì, không hỏi xem đó là người Do thái hay là dân ngoại, là người Samaritano, người giàu có, hay là người nghèo. Không hỏi gì cả. Không yêu cầu gì cả. Ông cứu giúp ngay. Thiên Chúa cũng như thế. Thiên Chúa suy nghĩ như người mục tử hiến mạng sống mình để bảo vệ và cứu đoàn chiên.”

Và ĐTC kết luận rằng:

”Tuần thánh là một thời điểm ân phúc mà Chúa ban cho chúng ta để mở cửa tâm hồn, mở cửa cuộc sống, các giáo xứ, các phong trào, hội đoàn của chúng ta, và ra đi gặp gỡ người khác, làm cho chúng ta trở nên gần gũi để mang ánh sáng và niềm vui đức tin của chúng ta. Luôn đi ra ngoài! Và điều này với tình yêu thương và dịu hiền của Thiên Chúa, trong niềm tôn trọng và kiên nhẫn, biết rằng chúng ta đặt tay, chân, con tim chúng ta, nhưng chính Thiên Chúa hướng dẫn chúng và làm cho mỗi hoạt động của chúng ta được phong phú.
Tôi cầu chúc tất cả sống trọn những ngày này can đảm theo Chúa mang trong mình tia sáng tình thương của Chúa cho những người chúng ta gặp gỡ.

Chào thăm

Sau bài huấn dụ bằng tiếng Ý trên đây, như thường lệ, tên của một số phái đoàn được các giám chức và LM xướng ngôn viên giới thiệu lên ĐTC và các vị đọc bản tóm ý bài huấn dụ của Ngài. Ngài không nói các sinh ngữ, nhưng chỉ dùng tiếng Ý để chào thăm các tín hữu hành hương. Những lời chào này được các vị xướng ngôn viên dịch ra các thứ tiếng: Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha và Arập. Trong lời chào bằng tiếng này, ĐTC nói:

”Các tín hữu hành hương thân mến nói tiếng Arập và từ Trung Đông: các bạn đừng sợ can đảm theo Chúa Giêsu chịu đóng đanh và sống lại, mang cho mọi người niềm vui và ánh sáng niềm tin của các bạn. Chúc các bạn Tuần Thánh tốt đẹp. Tôi ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả các bạn.

Cuối buổi tiếp kiến lúc gần 12 giờ trưa, ĐTC và mọi người đã hát kinh Lạy Cha và ngài ban phép lành cho tất cả.
Sau đó, ĐTC còn chào một số HY và GM, Giám chức. Ngài cũng chào bà Laura Boldrini, tân chủ tịch Hạ nghị viện của Italia, cùng với ái nữ Anastasia. ĐTC dành thêm nửa tiếng đồng hồ để bắt tay chào hỏi các tín hữu, đặc biệt là các sinh viên tham dự Hội nghị UNIV quốc tế 2013.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC PHANXICÔ TRONG CHÚA NHẬT LỄ LÁ (24.3.2013)

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC PHANXICÔ TRONG CHÚA NHẬT LỄ LÁ (24.3.2013)

 

1. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Đám đông các môn đệ hân hoan đi theo Ngài, trải áo trước mặt Ngài, người ta nói về những kỳ công Ngài đã thực hiện, một lời ca tụng được cất lên : « Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời » (Lc 19, 38).

Đám đông, sự hân hoan, lời ca khen, chúc tụng, sự bình an : đó là một bầu khí vui mừng mà người ta đang hít thở. Chúa Giêsu đã đánh thức bao là hy vọng nơi tâm hồn, nhất là nơi những người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khó, bị quên lãng, những người không là gì trước mắt thế gian. Ngài đã hiểu những sự khốn khổ của con người, Ngài đã cho thấy khuôn mặt thương xót của Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình để chữa lành thân xác và linh hồn. Đó, đó là Chúa Giêsu. Đó, đó là trái tim của Ngài đang nhìn đến hết thảy chúng ta, đang nhìn đến các bệnh tật, tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Chúa Giêsu thật lớn lao. Và như thế Ngài vào thành Giêrusalem bằng tình yêu này, và Ngài nhìn đến hết thảy chúng ta. Đó là một khung cảnh đẹp : đầy ánh sáng – ánh sáng của tình yêu của Chúa Giêsu, tình yêu của trái tim Ngài -, đầy niềm vui, đầy hân hoan.

Khởi đầu Thánh Lễ chúng ta cũng đã lặp lại điều đó. Chúng ta đã vẫy lá, những cành lá Ô-liu. Chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu ; chúng ta cũng diễn tả niềm vui của chúng ta được đi theo Ngài, biết Ngài gần gũi, hiện diện trong  chúng ta và giữa chúng ta, như một người bạn, như một người anh em, và cũng như một vị vua, tức là như một giai đoạn sáng ngời trong cuộc  sống của chúng ta. Chúa Giêsu là  Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ để bước đi với chúng ta. Ngài là bạn của chúng ta, là người anh của chúng ta. Nhờ đó Ngài soi sáng bước đi của chúng ta. Và cũng thế chúng ta đã đón tiếp Ngài hôm nay. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em : niềm vui ! Đừng bao giờ là những người buồn bã : một Kitô hữu không bao giờ có thể buồn ! Anh chị em đừng bao giờ để sự nản lòng chiếm lấy ! Niềm vui của chúng ta không phải là một niềm vui nảy sinh từ sự kiện sở hữu nhiều thứ, nhưng nó nảy sinh từ việc gặp gỡ một Ngôi Vị : Chúa Giêsu, Đấng ở cùng chúng ta ; nó nảy sinh từ việc biết rằng cùng với Ngài chúng ta không bao giờ cô độc, ngay cả trong những giây phút khó khăn nhất, ngay cả khi con đường của cuộc sông vấp phải những vấn đề và những chướng ngại dường như không thể vượt qua, và có bao điều như thế ! Và vào giây phút đó kẻ thù sẽ đến, ma quỷ sẽ đến, rất thường ngụy trang thành thiên thần, và nói với chúng ta những lời xảo trá. Đừng nghe nó ! Hãy bước theo Chúa Giêsu ! Chúng ta đồng hành, chúng ta bước theo Chúa Giêsu, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài đồng hành với chúng ta và vác chúng ta trên vai Ngài : niềm vui của chúng ta nằm ở đây, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang trong thế giới của chúng ta. Và xin anh chị em đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp ! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp ! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta.

2. Lời thứ hai. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, hay có lẽ đúng hơn : làm thế nào Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem ? Đám đông tung hô Ngài như Vua. Và Ngài không phản đối, Ngài không bảo đám đông im tiếng (x. Lc 19, 39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào ? Chúng ta hãy nhìn Ngài : Ngài cỡi trên một con lừa con, Ngài không có một triều thần đi theo Ngài, Ngài không được bao bọc bởi một đội quân tượng trưng sức mạnh. Những người đi theo Ngài, đó là những người khiêm hạ, đơn sơ, vốn có khả năng nhìn ra nơi Chúa Giêsu điều gì đó hơn nữa ; vốn có cảm thức đức tin, nói rằng : Đó là Đấng Cứu Độ. Chúa Giêsu không đi vào Thành Thánh để lãnh nhận những danh dự dành cho các vua chúa trần gian, dành cho người có quyền lực, dành cho người thống trị ; Ngài đi vào để bị đánh đòn, bị sỉ nhục và xúc phạm, như ngôn sứ Isaia loan báo trong bài đọc thứ Nhất (x. Is 50,6) ; Ngài đi vào để lãnh nhận vòng gai, một cái gậy, một chiếc áo đỏ tía, vương triều của Ngài sẽ là đối tượng của sự cười nhạo ; Ngài đi vào để vác lấy khổ giá lên núi Can-vê. Và đây là lời thứ hai : Thập Giá. Chúa Giêsu đi vào Giêrusalem để chết trên Thập Giá. Và chính ở đây mà con người Vua của Ngài theo Thiên Chúa được chiếu sáng : ngai vua của Ngài là cây gỗ Thập Giá ! Tôi nghĩ đến những gì mà Đức Bênêđictô XVI đã nói với các Hồng y : Anh em là những hoàng tử, nhưng của một vị Vua chịu đóng đinh. Cây gỗ giá là ngai vua của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang trên mình…Tại sao Thập Giá ? Bởi vì Chúa Giêsu mang trên mình sự dữ, sự bẩn thỉu, tội lỗi của thế giới, và cả tội lỗi của chúng ta, của chúng ta hết thảy, và Ngài lau sạch nó, Ngài lau sạch bằng máu Ngài, bằng lòng thương xót, bằng tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh chúng ta : bao nhiêu vết thương mà sự dữ bắt nhân loại phải chịu ! Chiến tranh, bạo lực, nhưng xung đột kinh tế đang đánh vào những người yếu thế hơn, lòng khát khao tiền bạc, mà không có thể mang theo mình, người phải bỏ nó lại. Bà của tôi đã từng nói với chúng tôi khi còn nhỏ : tấm vải liệm không có túi. Lòng yêu thích tiền bạc, quyền lực, tham nhũng, những chia rẽ, những  tội ác chống lại sự sống con người và công trình tạo dựng ! Và – mỗi một chúng ta đều biết và thừa nhận – cả những tội lỗi của bản thân chúng ta : thiếu tình thương và lòng tôn trọng đối với Thiên Chúa, đối với tha nhân và đối với toàn thể công trình tạo dựng. Và trên thập giá Chúa Giêsu cảm thấy tất cả sức nặng của sự dữ và với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài đã chiến thắng nó, đã đánh bại nó bằng sự phục sinh của Ngài. Đó là điều thiện hảo mà Chúa Giêsu đã làm cho hết thảy chúng ta trên ngai Thập Giá. Thập giá của Chúa Giêsu được ôm lấy với tình yêu không làm cho buồn chán, nhưng mang lại niềm vui, niềm vui được cứu độ và làm một điều hết sức nhỏ bé những gì Ngài đã làm vào ngày Ngài chịu chết !

3. Hôm nay trên quảng trường này có nhiều bạn trẻ : từ 28 năm nay Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Giới Trẻ ! Đây là lời thứ ba : giới trẻ ! Các bạn trẻ thân mến, tôi đã nhìn thấy các bạn trong đoàn rước, khi các bạn đang đi vào ; tôi hình dung các bạn hân hoan bên Chúa Giêsu, vẫy những cành lá ô-liu ; lúc đó tôi hình dung các bạn kêu tên Ngài và diễn tả niềm vui của các bạn được ở với Ngài ! Các bạn có một phần quan trọng trong niềm hân hoan của đức tin ! Các bạn mang cho chúng tôi niềm vui của đức tin và các bạn nói với chúng tôi rằng chúng tôi phải sống đức tin với một con tim trẻ trung, luôn luôn : một con tim trẻ trung, ngay cả lúc 70 hay 80 tuổi ! Con tim trẻ trung ! Cùng với Chúa Giêsu, con tim không bao giờ già đi ! Tuy nhiên, hết thảy chúng ta đều biết và các bạn biết rõ rằng Đức Vua mà chúng ta bước theo và đồng hành với chúng ta là rất đặc biệt : đó là một vị Vua yêu cho đến trên thập giá và dạy cho chúng ta phục vụ, yêu mến. Và các con đừng hổ thẹn về Thập Giá của Ngài ! Trái lại, các con hãy chọn đi theo Ngài, bởi vì các con đã hiểu rằng chính trong việc trao ban chính mình, trong việc trao ban chính mình, trong việc ra khỏi con người của mình, mà sẽ gặp thấy niềm vui đích thực và, qua tình yêu Thiên Chúa, Chúa Kitô đã chiến thắng sự dữ ! Các con mang Thập Giá hành hương xuyên qua tất cả các châu lục, qua các nẻo đường của thế giới ! Các con mang Thập Giá để đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu « Các con hãy đi ! Làm cho muôn dân trở thành môn đệ » (x. Mt 28,19), là chủ đề của Ngày Giới Trẻ năm nay. Các con mang Thập Giá để nói với mọi người rằng trên thập giá Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù ghét đang tách ly giữa con người và các dân tộc, và Ngài đã mang lại sự hòa giải và hòa bình. Các bạn thân mến, Cha cũng thế, Cha bắt đầu lên đường với các con, ngay từ hôm nay, trên những dấu vết của chân phước Gioan-Phaolô II và của Đức Bênêđictô XVI. Từ nay chúng ta gần với giai đoạn sắp đến của cuộc đại hành hương của Thập Giá này. Cha hân hoan hướng tới tháng Bảy sắp đến, ở Rio de Janeiro ! Cha hẹn gặp các con trong thành phố lớn này của Braxin ! Các con hãy chuẩn bị tốt, nhất là về mặt thiêng liêng trong các cộng đoàn của các con, để cuộc Gặp Gỡ này trở nên một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các bạn trẻ phải nói với thế giới : thật tốt đẹp để bước theo Chúa Giêsu ; thật tốt đẹp để đi với Chúa Giêsu ; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt lành ; thật tốt đẹp để ra khỏi chính mình, hướng đến những vùng ngoại vi của thế giới và của cuộc sống để mang lại Chúa Giêsu. Ba lời : niềm vui, thập giá, giới trẻ.

Chúng ta hãy cầu xin sự cầu bàu của Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta niềm vui gặp gỡ với Chúa Kitô, Mẹ dạy chúng ta tình yêu mà chúng ta phải nhìn Ngài dưới thập giá, sự nhiệt thành của trái tim trẻ trung mà chúng ta  bước theo Ngài trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời chúng ta. Ước gì được như thế.

Tý Linh chuyển ngữ theo bản tiếng Pháp (Xuân Bích VN)

Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Brazil vào tháng 7-2013

Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Brazil vào tháng 7-2013

VATICAN. Tổng thống Brazil, bà Dilma Rousseff, cho biết ĐGH Phanxicô đã xác nhận với bà là sẽ đến Rio de Janeiro vào hạ tuần tháng 7 năm nay và có ý định viếng thăm Đền thánh Đức Mẹ Aparecida của Brazil.

Bà Rousseff đã được ĐTC Phanxicô tiếp kiến tại Vatican hôm 20 tháng 3-2013, nhân dịp bà hướng dẫn phái đoàn chính phủ Brazil về Roma dự lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ngài.

Hôm chúa nhật 24 tháng 3, trong bài giảng thánh lễ Lễ Lá tại Vatican, ĐTC cũng hẹn với các bạn trẻ là sẽ gặp lại họ tại Rio de Janeiro và ngài kêu gọi họ hãy chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của mình cho biến cố này. Ngài nói:
”Tôi vui mừng nhìn về tháng bẩy tới, tại Rio de Janeiro! Tôi hẹn các bạn tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các bạn hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các bạn, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các bạn trẻ phải nói với thế giới: theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp!”.

Đức Cha Orani João Tempesta, dòng Xitô, TGM giáo phận Rio de Janeiro, đang có mặt tại Roma trong những ngày này.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican hôm 24 tháng 3-2013, Đức TGM cho biết ban tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ tiếp tục công trình chuẩn bị đón tiếp đông đảo các bạn trẻ từ các nơi.

Trả lời câu hỏi về sự kiện vị Giáo Hoàng đến Rio vào hạ tuần tháng 7 tới đây sẽ là ĐGH Phanxicô, thay vì Đức Biển Đức 16, Đức TGM Tempesta cho biết ”các cuộc gặp gỡ của ĐGH với giới trẻ vẫn không thay đổi, và chỉ có thay đổi về các cuộc gặp gỡ của ĐGH với thành phố Rio và với các nhân vật. Vì thế, giáo phận và chính quyền thành phố đã đề nghị một chương trình mới để trình lên Đức tân Giáo Hoàng. Vào cuối tháng 4 đầu tháng 5, chúng tôi sẽ biết ý muốn của ĐTC”.

Đức TGM Tempesta nói thêm rằng: ”Rio là thành phố lớn, với một lịch sử dài, những sự tốt đẹp, dân chúng rất mộ đạo, nhưng cũng có những vấn đề của họ như nghèo đói, bạo lực, nhưng luôn được niềm vui nhìn thấy những người trẻ tăng trưởng. Tôi tin là Tượng Chúa Cứu Thế ở thành Rio de Janeiro diễn tả thật đẹp hình ảnh một thành phố muốn đón tiếp tất cở mọi người với vòng tay rộng mở”.

Theo chương trình đại cương của Ngày Quốc tế giới trẻ đã được công bố: ngày thứ năm 25-7-2013 các bạn trẻ sẽ chào đón ĐGH tại bãi biển Copacabana; hôm sau, thứ sáu 26-7, sẽ có buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể cũng tại bãi biển đó; tối thứ bẩy và sáng chúa nhật 28-7 sẽ có buổi canh thức cầu nguyện và thánh lễ bế mạc do ĐTC chủ sự tại cánh đồng rộng ở phía tây thành phố Rio có thể chứa được 3 triệu người.

Tháng tư tới đây, một phái đoàn của Tòa Thánh, sẽ đến Rio để xác định các chi tiết trong chương trình. Báo chí cho biết ban tổ chức địa phương đề nghị ĐGH viếng thăm một khu xóm nghèo, và tượng Chúa Cứu Thể trên đồi Corcovado cao 710 mét, hoặc một nhà thương CG giúp cai nghiện ma túy, v.v.

Mặt khác, hôm 24 tháng 3-2013, ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Chủ tịch HĐGM Brazil, cũng xác nhận ĐTC Phanxicô sẽ viếng Đền thánh Đức Mẹ Aparecida bổn mạng của Brazil, tuy nhiên người ta chưa rõ ngài sẽ đến Đền Thánh trước hoặc sau Ngày Quốc Tế giới trẻ tiến hành tại Rio từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm nay.

ĐHY Damasceno Assis cho biết ĐGH Phanxicô có một quan hệ đặc biệt với Đền thánh Đức Mẹ Aparecida là nơi đã diễn ra Đại hội kỳ năm của hàng GM Mỹ châu la tinh hồi tháng 5 tháng 2007.

Hồi đó trong tư cách là TGM Buenos Aires, ĐHY Bergoglio thuộc vào số các GM soạn dự thảo văn kiện chung kết của Đại Hội. Văn kiện đề cao sự chọn lựa ưu tiên của Giáo Hội dành cho người nghèo và sứ vụ truyền giảng Tin Mừng tại Mỹ châu la tinh. ĐHY đã theo sát các đường hướng đã được Đại hội thông qua tại Aparecida. (Tổng hợp 25-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành Lễ Lá đầu tiên: 24-3-2015

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành Lễ Lá đầu tiên: 24-3-2015

VATICAN. 250 ngàn tín hữu đã tham dự Lễ Lá đầu tiên do ĐTC Phanxicô cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng chúa nhật 24 tháng 3-2013. Ngài kêu gọi các tín hữu vượt thắng sầu muộn và hẹn gặp các bạn trẻ tại Ngày Quốc Tế giới trẻ vào tháng 7 năm nay tại Rio de Janeiro, Brazil.

Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép lá diễn ra tại chân cây tháp bút ở giữa Quảng trường và cuộc rước lá tiếp đó: đi đầu là Thánh Giá nến cao, 400 bạn trẻ cầm các ngành ôliu, rồi đến đoàn 100 giám chức và LM, 50 Giám Mục và 30 Hồng Y. Hai Hồng Y phó tế phụ giúp ĐTC là ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, và ĐHY Mauro Piacenza, Tổng trưởng Bộ giáo sĩ, và 4 HY, Giám Mục đồng tế.

Các vị cũng như ĐTC cầm những cành lá được kết lại rất nghệ thuật, đi rước tiến lên bàn thờ trên thềm của Đền thờ, trong khi 2 ca đoàn gồm gần 300 người đảm nhận phần thánh ca.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau bài thương khó do 3 phó tế công bố, ĐTC đã lần lượt quảng diễn 3 ý tưởng chính: niềm vui, thập giá và người trẻ. Ngài nói:

1. Chúa Giêsu vào thành Jerusalem. Đám đông các tín hữu hân hoan tháp tùng ngài, họ trải áo choàng trước Ngài, người ta nói về những việc lạ lùng Ngài đã thực hiện, một tiếng kêu ngợi khen trổi lên: ”Chúc tụng đến đang đến, là vua, nhân danh Chúa. Hòa bình trên trời và vinh danh trên các tầng trời cao” (Lc 19,38).
Đám đông, hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, an bình: đó là một bầu không khí vui mừng mà ta cảm nghiệm. Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong tâm hồn bao nhiêu hy vọng nhất là nơi những người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trước mắt thế giới. Ngài đã biết cảm thông những lầm than của con người, đã tỏ khuôn mặt từ bi của Thiên Chúa, đã cúi mình chữa lành xác hồn.

Đó là Chúa Giêsu. Đó là con tim của Ngài nhìn đến tất cả chúng ta, nhìn những bệnh tật của chúng ta, tội lỗi của chúng ta. Đó là tình thương lớn lao của Chúa Giêsu. Và thế là ngài đi vào thành Jerusalem với tình thương ấy, và nhìn tất cả chúng ta. Đó là một cảnh tượng thật đẹp: đầy ánh sáng, ánh sáng tình thương của Chúa Giêsu, của trái tim Ngài, đầy vui mừng và hân hoan như ngày lễ hội.

Đầu thánh lễ, chúng ta cũng lập lại điều đó. Chúng ta đã vẫy các cành lá. Cả chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu: cả chúng ta cũng bày tỏ niềm vui được tháp tùng Ngài, biết Ngài gần kề, hiện diện trong và giữa chúng ta, như một người bạn, một người anh, và cũng như một vị vua, nghĩa là như ngọn đèn pha sáng ngời trong đời sống chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình đồng hành với chúng ta. Ở đây Ngài soi sáng cho chúng ta trên đường đi. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em: đó là vui mừng! Anh chị em đừng bao giờ là những người nam nữ buồn sầu: một Kitô hữu không bao giờ có thể như vậy! Anh chị em đừng bao giờ để cho nản chí thất vọng chiếm đoạt! Niềm vui của chúng ta không phải là niềm vui phát sinh từ sự sở hữu bao nhiêu của cải, nhưng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ một Nhân Vật là Chúa Giêsu, từ sự biết rằng với Ngài, không bao giờ chúng ta lẻ loi, cả trong những lúc khó khăn, cả khi đường đời chúng ta gặp phải những vấn đề và chướng ngại có vẻ không thể vượt qua nổi, và có bao nhiêu chướng ngại như thế! Và trong lúc này kẻ thù đến, ma quỉ đến, bao nhiêu lần nó đội lốt thiên thần, tinh quái nói với chúng ta những lời của nó. Anh chị em đừng nghe nó! Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Chúng ta tháp tùng, theo Chúa Giêsu, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài tháp tùng chúng ta và vác chúng ta lên vai: đây chính là niềm vui của chúng ta, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang vào thế giới này. Và xin anh chị em đừng để lấy mất niềm hy vọng! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta.

2. Lời thứ hai. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, hay đúng hơn: Chúa Giêsu vào thành Jerusalem như thế nào? Đám đông dân chúng hoan hô Ngài như vị Vua. Và Ngài không chống lại, không bảo họ im đi (Xc Lc 19,39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào? Chúng ta hãy nhìn Ngài: Ngài cưỡi một con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực. Những kẻ đón tiếp Ngài là những người dân khiêm hạ, đơn sơ, những người có cảm thức nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một cái gì hơn nữa, họ có cảm thức đức tin, thấy rằng: Vị này là Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Ngài vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã báo trước trong Bài đọc thứ I (Xc Is 50,6); Ngài vào để chịu mão gai, một cái gậy, một áo choàng đỏ, vương quyền của Ngài là đối tượng cho sự nhạo cười; Ngài vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá. Và đây lời thứ hai: Thập Giá.

Chúa Giêsu vào thành Jerusalem để chịu chết trên Thập Giá. Và chính tại đó, bản chất vua của Ngài theo Thiên Chúa chiếu tỏa rạng ngời: Ngai vàng của Ngài là cây gỗ Thập Giá! Tôi nghĩ đến điều ĐGH Biển Đức 16 đã nói với các Hồng Y: Anh em là những hoàng thân, nhưng là hoàng thân của một vị Vua chịu đóng đanh. Thập giá là ngai vàng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang lấy Thập Giá trên mình. Nhưng tại sao lại Thập Giá? Tại sao? Chúa Giêsu vác lấy trên mình sự ác, sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế, cả tội chúng ta nữa, và Ngài tẩy rửa, thanh tẩy bằng máu của Ngài, với lòng từ bi, tình thương của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh: bao nhiêu vết thương mà sự ác gây ra cho nhân loại! Chiến tranh, bạo lực, xung đột kinh tế gây thiệt hại cho kẻ yếu thế nhất, sự khao khát tiền bạc, mà rồi không ai có thể mang theo với mình, phải để lại nó. Bà nội tôi thường nói với chúng tôi khi còn bé: khăn liệm xác không có túi. Lòng yêu mến tiền bạc, quyền hành, tham nhũng, chia rẽ, những tội ác chống lại sự sống con người và chống lại công trình sáng tạo! Và các tội lỗi cá nhân chúng ta: những thiếu sót trong việc yêu mến và kính trọng Thiên Chúa, đối với tha nhân, và với toàn thể công trình tạo dựng. Chúa Giêsu trên thập giá cảm thấy tất cả gánh nặng của sự ác và với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài chiến thắng chúng, đánh bại chúng trong cuộc phục sinh của Ngài. Thập giá Chúa Kitô được đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ, và làm một túi nhỏ, túi mà ngài đã làm trong ngày Ngài chịu chết.

3. Hôm nay tại Quảng trường này có bao nhiêu là người trẻ: từ 28 năm nay, Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Quốc tế giới trẻ! Và đây là lời thứ ba: Người trẻ! Các bạn trẻ thân mến, tôi đã nhìn thấy các bạn trong cuộc rước, khi các bạn đi vào; tôi tưởng tượng ra các bạn đang vui mừng quanh Chúa Giêsu, vẫy những cành ôliu: tôi mường tượng các bạn hô tên Chúa và biểu lộ niềm vui được ở với Chúa! Các bạn có một phần quan trọng trong đại lễ đức tin! Các bạn mang cho chúng tôi niềm vui đức tin và nói với chúng tôi rằng chúng ta phải sống đức tin với một tâm hồn tươi trẻ, luôn luôn, cả khi chúng ta 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung! Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua! Nhưng tất cả chúng ta biết điều đó và các bạn biết rõ rằng Vị Vua mà chúng ta đi theo và tháp tùng chúng ta là Vị rất đặc biệt: Ngài là vị Vua yêu thương đến độ chấp nhận Thập Giá và Ngài dạy chúng ta phục vụ, yêu thương. Và các bạn không xấu hổ vì Thập Giá của Chúa! Trái lại, các bạn hãy ôm lấy Thập Giá, vì các bạn hiểu rằng chính trong sự hiến thân, chính trong sự ra khỏi chính mình, mà ta được niềm vui đích thực và chính nhờ tình thương mà Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Các bạn mang Thập Giá lữ hành qua mọi đại lục, qua những nẻo đường của Thế Giới! Hãy mang Thập Giá đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: ”Các con hãy đi và làm cho mọi dân nước thành môn đệ” (Xc Mt 28,19), như chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay. Các bạn hãy mang Thập giá để nói với tất cả mọi người rằng trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù hận, phân cách con người và các dân tộc, và đã mang sự hòa giải và an bình. Các bạn thân mến cả tôi cũng lên đường với các bạn, từ hôm nay, theo vết chân phước Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16. Nay chúng ta gần giai đoạn cuối cùng của cuộc đại lữ hành của Thập Giá. Tôi vui mừng nhìn về tháng bẩy tới, tại Rio de Janeiro! Tôi hẹn các bạn tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các bạn hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các bạn, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các bạn trẻ phải nói với thế giới: theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp; thật là tốt khi ra khỏi chính mình, đi tới các khu ngoại ô của thế giới và của cuộc sống để mang Chúa Giêsu! Có ba lời là: vui mừng, thập giá, và giới trẻ.

Và ĐTC kết luận rằng: Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta niềm vui được gặp gỡ với Chúa Kitô, tình yêu mà chúng ta phải nhìn Chúa dưới chân Thập Giá, niềm hăng say của tâm hồn trẻ trung mà chúng ta phải theo Chúa trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời chúng ta. Amen

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự kinh Truyền Tin. Trong lời huấn dụ ngắn, ngài mời gọi các tín hữu hãy khẩn cầu sự chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Mẹ tháp tùng chúng ta trong Tuần Thánh. Xin Mẹ là Đấng đã theo Chúa Con trong niềm tin suốt con đường dẫn tới Canvê, giúp chúng ta bước theo Chúa, vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Xin Đức Mẹ sầu bi đặc biệt nâng đỡ những người đang ở trong tình cảnh khó khăn. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người đang bị bệnh lao phổi. Hôm nay là Ngày Thế Giới chống bệnh này. Và hỡi các bạn trẻ quí mến, tôi đặc biệt phó thác cho Mẹ Maria các bạn và hành trình của các bạn tiến về thành Rio de Janeiro.

ĐTC đã nói bằng nhiều thứ tiếng để cầu chúc các bạn trẻ lên đường bằng an.
Cuối kinh Truyền Tin, ĐTC đã ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio

NHỮNG KẺ HAI LÒNG

 NHỮNG KẺ HAI LÒNG

Chúa nhật Lễ Lá Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giê-su Ki-tô vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất Mầu nhiệm Vượt Qua. Ngày lễ hôm nay gồm 2 phần chính: Phần đầu là cuộc rước kiệu lá kính nhớ Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a và đã được “Một đám người rất đông lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.” (Mt 21, 1-10). Phần thứ hai là Thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa, và vì thế nên Chúa nhật hôm nay còn được gọi là Chúa nhật Chịu Nạn.

Trong một Chúa nhật tưởng niệm hai mặt trái ngược nhau của cuộc đời. Một cách cụ thể, CN Lễ Lá phản ánh trung thực tâm trạng dân chúng Do thái và nói chung  là của con người trần thế: Vừa mới hoan hô, chúc tụng Chúa Ki-tô rất nồng nhiệt, bằng những lời lẽ tưởng chừng như chân thành nhất (“Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” – Mt 21, 9); vậy mà chỉ mấy ngày sau, cũng chính những người hoan hô ấy lại hò reo: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Thậm chí khi Tổng trấn Phi-la-tô thấy không cứu vãn được tình thế, đã lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!", thì đám đông còn gào thét như thách thức: "Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" (Mt 27, 24-25). Thế đấy!

Đám đông dân chúng thì như vậy, nhưng còn những môn đệ ở liền bên với Đức Ki-tô thì sao? Các ngài đi theo Đức Ki-tô vì tin tưởng Người chính là vị cứu tinh cho cuộc đời của mình và các ngài luôn sẵn sàng tuyên xưng niềm tin ấy. Cụ thể như Phê-rô khi nghe Đức Ki-tô hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?", thì tuyên xưng liền: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) và khi nghe Thầy tiên báo sẽ chối Thầy, thì ngay lập tức khẳng định chắc nịch: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Thực ra, cũng không chỉ có một mình Phê-rô đâu, mà "Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy" (Mt 26, 35). Như vậy thì chẳng phải là ca tụng, tung hô đó sao? Nhưng đến khi Thầy gặp nạn thì "Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết" (Mt 26, 56), còn Phê-rô thì lẽo đẽo theo sau và chỉ cần một tớ gái nhà Cai-pha vặn hỏi đã vội vàng "Tôi thề là không biết người ấy" (Mt 26, 74) tới 3 lần. Ấy là chưa kể Giu-đa It-ca-ri-ốt đã bán Thầy cho quân dữ để lấy 30 đồng bạc. Bán Thầy, bỏ trốn hết, chối Thầy như vậy thì có khác gì đả đảo?

Thánh Phê-rô tuy có chối Thầy 3 lần trong một đêm, nhưng khi “sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: "Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần." Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.” (Mt 26, 75). Còn Giu-đa It-ca-ri-ôt thì sao? Cùng ở trong nhóm 12 với các môn đệ được coi là thân tín nhất của Đức Giê-su, thì hẳn nhiên Giu-đa cũng tin tưởng và tung hô Thầy như các môn đệ khác (“Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” – Lc 19, 37-38). Ngay cả khi Đức Giê-su tiên báo có môn đệ sẽ nộp Người cho quân dữ, các môn đệ xôn xao thắc mắc không biết đó là ai, thì Giu-đa cũng vẫn thản nhiên hỏi: "Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?" Cho đến lúc "Đức Giê-su trả lời: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy." Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. Y vừa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y." (Ga 13, 26-27), và thế là Giu-đa trở thành công cụ của Xa-tan bán Thầy lấy 30 đồng bạc! Cuối cùng lại phạm thêm một tội tày trời: Huỷ diệt công trình tạo dựng của Thiên Chúa (thắt cổ tự tử).

Thánh Phê-rô và Giu-đa chỉ là 2 nhân vật nổi cộm nêu bật hai chiều kích mâu thuẫn, đối nghịch nhau trong cùng một con người. Đến như đám đông người Do thái khi đón tiếp Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem (kể cả những người đồng hương với Chúa khi đón tiếp Người về thăm Na-da-ret) còn tệ hại hơn nhiều. Ngày xưa thì như thế, còn ngày nay hẳn là còn hơn thế nữa là cái chắc. Ở Việt Nam tuy có gần 130.000 người chấp nhận cái chết chớ không chịu đả đảo Ki-tô (bước qua, đạp lên thánh giá, bỏ đạo), nhưng con số người sẵn sàng đạp lên thánh giá (chớ đừng nói chỉ bước qua), sẵn sàng gỡ bỏ bàn thờ để chưng hình lãnh tụ (đả đảo Giê-su, hoan hô lãnh tụ), sẵn sàng ghi vào sơ yếu lý lịch là "không tôn giáo"… thì không hiểu còn đông gấp bao nhiêu lần?

Thời gian trước 1975, ở Việt Nam đã có biệt danh "kẻ  hai lòng" tặng những kẻ "ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản". Ngu mỗ vẫn chưa quên sau 1975, những nhà "cách-mạng-30" – cách mạng giờ thứ 25 – đã khai vào lý lịch: "ngoài miệng thì hoan hô quốc gia, nhưng trong lòng thì cộng-sản-thấy-mồ!" Với những kẻ thay lòng đổi dạ nhanh như chớp ấy, ngu mỗ đã làm một bài thơ vịnh, xin được viết lại để anh em bè bạn gần xa nhàn lãm:

VỊNH NHỮNG KẺ HAI LÒNG
Những kẻ hai lòng cứ vểnh râu
Thay đen đổi trắng thật là mau
Khi thì trắng xoá như vôi vữa
Lúc lại đen thui tựa mực tàu
Lẻo mép hoan hô chưa dứt tiếng
Quai mồm đả đảo tiếp liền sau
Than ôi! "Tứ hải giai huynh đệ"
Chữ nghĩa thánh hiền cất ở  đâu?!


“Tình đời đổi trắng thay đen” như thay áo ấy chẳng khác gì cảnh “lật mặt như trở bàn tay”. Ôi chao! "Còn bạc còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi." (xc "Thế thái nhân tình" – Nguyễn Bỉnh Khiêm); "Suy ra cho kỹ, chi hơn nữa. Bạc quá vôi, mà mỏng quá mây" (xc Nguyễn Công Trứ  trong cùng tiêu đề thơ vịnh "Thế thái nhân tình"). Thế thì đám người vừa mới “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, thì ngay lập tức “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4, 28-30); hôm trước "Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.", hôm sau đã "Đóng đinh nó vào thập giá! … Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!", nào có khác chi những "kẻ hai lòng". Thật đúng là "Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao!" ("Kiều" – Nguyễn Du).

Đã có phản biện: Ngày xưa vì Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người – là một nhân vật bằng xương bằng thịt như bao người khác – nên mới có vụ hoan hô, đả đảo. Còn ngày nay thì đâu có một ông Giê-su Na-da-ret để mà hoan hô, đả đảo, đóng đinh vào thập giá. Vì thế, xin nhấn mạnh ở đây vấn đề đả đảo, đóng đinh Chúa, không nhất thiết là cứ phải thật sự trực tiếp bắt trói Chúa, cầm búa đóng đinh vào tay chân Chúa đâu. Ngày nay cũng chẳng có cái vụ bắt bước qua hoặc đạp lên thánh giá, mà hình thức bách đạo còn tinh vi khủng khiếp hơn nhiều. Ngay đến cả những người bề ngoài thì rất siêng năng đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, nhưng chỉ cần một người nghèo khó (một hành khất chẳng hạn) đến "quấy rầy" thì ngay lập tức "Không có gì hết! Cút đi chỗ khác!" Than ôi! "Ngày xưa Ta khát…, Ta đói…, Ta trần truồng… " thì ngươi đã đối xử như vậy đó! Vậy thì ai hoan hô, ai đả đảo? Hoan hô và đả đảo ai vậy? Cứ thử gẫm suy cho thấu đáo mà xem, có đúng là chúng ta gây chia rẽ bất hoà với anh em nhiều hơn là xây dựng, đoàn kết nhau không? Có phải là chúng ta đố kỵ ghen ghét nhiều hơn là yêu thương đùm bọc nhau không? Những cái mà chúng ta cư xử với anh em như vậy chẳng phải là chúng ta đã làm cho Chúa đấy sao? Đấy, vấn đề là ở chỗ đó.

Đối với con người thì chuyện thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen chỉ là "chuyện thường ngày ở huyện". Vấn đề đặt ra là khi được ơn soi sáng thì có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi. Nếu chỉ là hối hận thì Giu-đa It-ca-ri-ốt và đám đông người Do-thái đã biểu hiện ("Bấy giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận… ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ." – Mt 27, 3-5; "Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Người này đích thực là người công chính!" Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về." – Lc 23, 47-48).

Đến như thánh Phê-rô mới là thực lòng ăn năn hối cải (Từ nguyên – Hối: cảm thấy tiếc và băn khoăn, day dứt vì đã trót làm điều lầm lỗi; Cải: đổi khác đi). Vì thế, nên cần phải biết ăn năn hối cải, mà muốn được như vậy thì cần phải cầu nguyện xin Thần Khí soi sáng, hướng dẫn và thêm sức mạnh cho. Hoá cho nên “sám hối" không thôi thì chưa đủ, mà còn cần “canh tân" nữa, và đó cũng chính là chủ đích của mùa Chay Thánh. Vâng, “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo" (Rm 12, 20), “anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em" (Ep 4, 23).

Xin hãy noi gương tảng đá góc tường Phê-rô khi nhìn lại mình đã thực sự ăn năn hối cải để rồi cùng với các Tông đồ tiên khởi hiệp ý cùng Mẹ Maria khẩn thiết cầu nguyện (“Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su. ” – Cv 1, 13-14).

Người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện xin ơn soi sáng để nhìn thấy nơi người anh em mình hình ảnh Đức Giê-su Thiên Chúa, từ đó sống với nhau trong một sự hiệp thông liên kết như chi thể của cùng một thân mình. Nói cách khác, hãy coi “tha nhân thuộc về tôi, cuộc sống, phần rỗi của họ liên hệ tới cuộc sống và phần rỗi của tôi” (Sđ Mùa Chay 2012, số 2). Và chỉ có kết hiệp với nhau nên một trong Chúa Ki-tô, đồng tâm nhất trí cầu nguyện mới thực sự được Chúa ban Thần Khí như xưa Người đã ban trong ngày Lễ Ngũ Tuần.

Tóm lại, “Trong Mùa Chay này, chúng ta chuẩn bị cử hành biến cố Thập Giá và Phục Sinh, trong đó tình yêu của Thiên Chúa đã cứu chuộc thế gian và chiếu ánh sáng của mình trên lịch sử, tôi cầu chúc tất cả anh chị em sống thời gian quý báu này bằng cách làm tái sinh đức tin của anh chị em trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô, để cùng Người bước vào cuộc hành trình tình yêu đối với Chúa Cha và tất cả anh chị em mà chúng ta gặp trong cuộc đời mình.” (Sđ Mùa Chay 2013, phần kết luận). Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khi soi sáng cho con để con nhìn thấy tỏ tường Chúa nơi người anh em của con, đồng thời giúp con đủ dũng khí đổi mới con người của mình từ một "kẻ 2 lòng" trở nên người "một lòng một dạ" yêu thương và trung thành với Chúa, thương yêu anh em như chính bản thân mình, cho đến trọn đời.

Ôi! "Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen" (Lời nguỵên nhập lễ Lễ Lá).

JM. Lam Thy ĐVD.

Rước Lá: Lc 19,28-40

Rước Lá: Lc 19,28-40

Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.

Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”

Thưa anh chị em,

Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.

Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.

Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.

Anh chị em thân mến,

Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.

Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.

Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56.

ĐÁM ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”.

Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá…

Thưa anh chị em,

Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.

Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…

Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn…

Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

ĐỨC PHANXICÔ GẶP ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI KÉO DÀI 45 PHÚT

ĐỨC PHANXICÔ GẶP ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI KÉO DÀI 45 PHÚT

Hôm thứ Bảy 23 tháng 03-2013, ở Castel Gandolfo, hai vị Giáo Hoàng, đã gặp gỡ nhau. Trong một bầu khí huynh đệ và đơn sơ, các ngài đã trao đổi suốt 45 phút.

Sáng thứ Bảy, các vị hữu trách về lễ tân của Vatican đã thừa nhận sự bối rối của mình: làm sao dàn xếp cuộc gặp gỡ hoàn toàn mới mẻ giưa hai vị Giáo Hoàng này? Chắc chắn các ngài đã nói chuyện với nhau qua điện thoại, và chính Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô đã đích thân báo tin cho Đức Bênêđíctô XVI về việc mình được chọn vào tối 13 tháng 03, rồi ngày 19 tháng 03, chính Đức Phanxicô đã chúc mừng lễ bổn mạng của Đức Bênêđíctô XVI.

Pope Francis and Benedict-XVI

Cuối cùng, vấn đề về lễ tân đã không được đặt ra. Khi máy bay trực thăng của Đức Phanxicô đáp xuống Castel Gandolfo lúc 12g15, thì Cha Lombarrdi đã mô tả, từ 13g40, sự rất mực đơn sơ của cuộc gặp gỡ mới mẻ này.

Pope Francis and Benedict-XVI cùng cầu nguyện

Không có sự xuất hiện công chúng nào của hai vị Giáo Hoàng đã xảy ra, ngoại trừ ba lần : đón tiếp ở  bãi đáp máy bay trực thăng, cầu nguyện chung và bắt đầu cuộc gặp gỡ riêng. Những hình ảnh mới lạ chưa bao giờ thấy: hai vị Giáo Hoàng cầu nguyện và làm việc chung.

Pope Francis and Benedict 16 bàn chuyện

 

Đức Bênêđíctô XVI mặc áo trắng, không có tấm choàng vai và không có đai thắt lưng. Hai vị dùng bữa với nhau trước sự hiện diện của hai vị thư ký (Đức Cha Gänswein và Đức Cha Xuereb). Sau bữa ăn, Đức Bênêđíctô đã đưa Đức Phanxicô ra sân bay. Một cử chỉ trân trọng của Đức Phanxicô dành cho Đức Bênêđíctô là thay vì đến ghế quỳ dành riêng cho Giáo Hoàng, ngài đã cùng quỳ với Đức Bênêđíctô trên cùng một ghế băng để cầu nguyện.

Tý Linh – Xuân Bích VN

Tình yêu đáp lại hận thù

Tình yêu đáp lại hận thù

Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và  của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó  kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
 
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột  đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái  độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
 
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
 
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự. Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế  nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
 
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
 
Trên đường lên Núi Sọ, dù  vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
 
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
 
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ  cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
 
Tình yêu thương của Người là  làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
 
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
 
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
  2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
  3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?

  ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Sáng ngày 22 tháng 3-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh đến chúc mừng ngài. Ngài mời gọi các dân nước tham gia cuộc chiến đấu chống nghèo đói vật chất cũng như tinh thần; xây dựng hòa bình và bắc những nhịp cầu giữa con người và các dân tộc.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có các đại diện của 179 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh. Tân niên trưởng ngoại giao đoàn là Đại sứ Jean Claude Michel của tiểu vương quốc Monaco, đã đại diện mọi người chúc mừng ĐTC. Lên tiếng trong dịp này, ngài nói:

Quí vị Đại Sứ, quí bà và quí ông!

Tôi chân thành cám ơn vị niên trưởng của quí vị, Đại Sứ Jean Claude Michel vì những lời tốt đẹp ông đã bày tỏ với tôi nhân danh tất cả mọi người và tôi vui mừng đón tiếp quí vị trong buổi trao đổi lời chào này, đơn sơ nhưng đồng thời cũng nồng nhiệt, muốn là một vòng tay tinh thần của Giáo Hoàng đón nhận toàn thế giới. Thực vậy, qua quí vị, tôi được gặp các dân tộc của quí vị, và như thế, có thể nói, tôi đi đến với mỗi người đồng hương của quí vị, với những vui mừng, thảm trạng, những mong đợi và ước muốn của họ”.

”Sự hiện diện đông đảo của quí vị cũng là một dấu chỉ cho thấy quan hệ của đất nước quí vị với Tòa Thánh thật là phong phú, và thực là một cơ hội phúc lợi cho nhân loại. Thực vậy, điều mà Tòa Thánh vẫn đặc biệt quan tâm đó là thiện ích của mỗi người trên trái đất này! Và chính với ý thức đó mà Giám Mục Roma bắt đầu sứ vụ của mình, biết rõ ràng mình có thể cậy dựa vào tình bạn và lòng quí mến của các quốc gia mà quí vị đại diện, và với xác tín rằng quí vị cũng chia sẻ chủ ý đó. Đồng thời tôi hy vọng đây cũng là cơ hội để bắt đầu một hành trình với những nước chưa có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, một vài nước đã hiện diện tại thánh lễ khai mạc sứ vụ của tôi hoặc đã gửi sứ điệp như một cử chỉ gần gũi. Tôi chân thành cám ơn các nước ấy”.

”Như quí vị biết, có những lý do khác nhau khiến tôi chọn tên của tôi khi nghĩ đến thánh Phanxicô Assisi, một nhân vật được biết đến nhiều, vượt ra ngoài ranh giới của Italia và Âu Châu và cả nơi những người không tuyên xưng đức tin Công Giáo. Một trong những lý do đầu tiên là lòng yêu mến của thánh Phanxicô đối với người nghèo. Vẫn còn bao nhiêu người nghèo trên thế giới này! Và bao nhiêu đau khổ mà những người ấy gặp phải! Theo gương thánh Phanxicô Assisi, Giáo Hội vẫn luôn tìm cách chăm sóc, gìn giữ những người đang khổ vì nghèo túng ở mọi góc trên trái đất, và tôi nghĩ rằng tại nhiều quốc gia của quí vị, quí vị có thể nhận thấy hoạt động quảng đại của các tín hữu Kitô đang xả thân để giúp đỡ các bệnh nhân, cô nhi, những người vô gia cư và tất cả những người bị gạt ra ngoài lề, và qua đó họ đang làm việc để xây dựng một xã hội nhân bản và công bằng hơn”.

”Nhưng cũng có một thứ nghèo đói khác! Đó là sự nghèo đói tinh thần của thời đại ngày nay, liên quan trầm trọng tới cả những nước được coi là giầu có. Đó là điều mà vị Tiền Nhiệm của tôi, Đức Biển Đức 16 quí mến và đáng kính, vẫn gọi là ”chế độ độc tài của chủ thuyết duy tương đối”, khiến cho mỗi người trở thành tiêu chuẩn của chính mình và gây nguy hiểm cho sự sống chung giữa con người với nhau. Và thế là tôi tiến đến lý do thứ hai của việc chọn tên tôi. Thánh Phanxicô Assisi nói với chúng ta: ”Các bạn hãy làm việc để xây dựng hòa bình! Nhưng không có hòa bình đích thực nếu không có chân lý! Không thể có hòa bình thực sự nếu mỗi người là tiêu chuẩn cho chính mình, nếu mỗi người có thể luôn luôn chỉ đòi hỏi quyền của mình, mà không đồng thời quan tâm đến thiện ích của người khác, của tất cả mọi người, bắt đầu từ bản tính mà mỗi người trên trái đất này đều có chung.

Một trong những tước hiệu của Giám Mục Roma là Pontefice, nghĩa là người bắc cầu, với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Tôi mong ước rằng cuộc đối thoại giữa chúng ta giúp bắc những nhịp cầu giữa mọi người, nhờ đó mỗi người có thể tìm thấy nơi tha nhân không phải một kẻ thù, không phải như người cạnh tranh, nhưng như một người anh em cần được đón tiếp và ôm chào! Và rồi chính lai lịch của tôi cũng thúc đẩy tôi làm việc để bắc cầu. Thực vậy, như quí vị đã biết, gia đình tôi gốc Italia, và như thế trong tôi luôn có một cuộc đối thoại sinh động ấy giữa các nơi chốn và các nền văn hóa ở xa nhau, giữa một nơi xa xăm trên thế giới với nơi khác, nhưng ngày càng gần gũi nhau, lệ thuộc nhau, cần được gặp nhau và kiến tạo những không gian thực sự cho tình huynh đệ chân chính.

Trong hoạt động này, vai trò của tôn giáo cũng có đặc tính cơ bản. Thực vậy ta không thể kiến tạo những nhịp cầu giữa con người mới nhau mà lại quên lãng Thiên Chúa. Nhưng điều trái ngược lại cũng có giá trị: ta không thể sống những liên hệ đích thực với Thiên Chúa mà lại cố tình không biết đến tha nhân. Vì thế, điều quan trọng là tăng cường đối thoại giữa các tôn giáo khác nhau, tôi nghĩ đến trước tiên là Hồi giáo và tôi rất đánh giá cao sự hiện diện của bao nhiêu vị lãnh đạo dân sự và tôn giáo trong thế giới Hồi giáo tại thánh lễ khai mạc sứ vụ của tôi. Và một điều cũng quan trọng đó là tăng cường cuộc trao đổi với những người không tín ngưỡng, để không bao giờ có sự trổi vượt của những dị biệt gây chia rẽ và tổn thương, nhưng chính trong sự khác biệt, có sự chiến thắng của ước muốn thiết lập những mối liên hệ thân hữu đích thực giữa mọi dân tộc.

Chiến đấu chống nghèo đói vật chất cũng như tinh thần; xây dựng hòa bình và bắc những nhịp cầu. Đó là những điểm tham chiếu của một hành trình mà tôi muốn mời gọi mỗi quốc gia mà quí vị đại diện tham gia vào. Đó là một hành trình khó khăn nếu chúng ta không học cách ngày càng yêu mến trái đất chúng ta. Cả trong trường hợp này, tôi cũng cảm thấy được trợ lực khi nghĩ đến tên thánh Phanxicô, Đấng đã dạy phải tôn trọng sâu xa đối với toàn thể công trình tạo dựng, bảo tồn môi sinh của chúng ta, mà đáng tiếc là quá nhiều khi chúng ta không sử dụng cho thiện ích, và chỉ khai thác một cách ham hố gây hại cho nhau.

Quí vị đại sứ, quí bà quí ông thân mến,

Một lần nữa xin cám ơn vì công việc mà quí vị đang thực hiện, cùng với Phủ Quốc vụ khanh, để xây dựng hòa bình và bắc những nhịp cầu thân hữu và huynh đệ. Qua quí vị, tôi muốn lập lại lời cám ơn các chính phủ của quí vị vì đã tham dự các buổi lễ nhân dịp tôi được bầu, với mong ước có một hoạt động chung nhiều thành quả. Xin Chúa Toàn Năng đổ tràn hồng ân trên mỗi người trong quí vị, gia đình quí vị và các dân tộc mà quí vị đại diện. Xin cám ơn!
Sau bài diễn văn ngắn trên đây, ĐTC đã dành cả tiếng đồng hồ đứng bắt tay các vị đại sứ và phu nhân hoặc phu quân của họ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG THÁNH GIUSE

SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG THÁNH GIUSE

saint joseph3

Thánh Giuse được Tin mừng hôm nay công khai tuyên dương là “người công chính”. Công chính là gì?

Theo luân lý, công chính là trả cho người khác cái thuộc về họ. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu cũng có lần nói: “Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Việc thánh Giuse muốn kín đáo bỏ trốn được giải thích nhiều cách khác nhau. Nhưng cách giải thích chính xác nhất là của thánh Bênađô. Ngài nói:

“Lý do Giuse muốn rời bỏ Maria cũng là lý do mà Phêrô đã xin Chúa tránh xa ông: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! " (Lc 5:8). Đó cũng là lý do viên đại đội trưởng không dám mời Đức Giêsu vào nhà : “Thưa thầy tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi” (Lc 7:6). Như vậy, vì tự coi mình không xứng đáng và là người tội lỗi, nên Giuse tự nhủ rằng mình chẳng là gì hết để có thể sống chung với một con người vĩ đại như Đức Maria… Phêrô đã sợ hãi sự cao cả của quyền năng, viên đại đội trưởng đã e sợ sự hiện diện uy nghi, Giuse cũng thế, ông sợ hãi trước sự mới lạ, trước chiều sâu của một mầu nhiệm lớn lao, nên muốn rời bỏ bà cách kín đáo.. . Lý do khiến Giuse muốn rời bỏ Maria là thế đó”.

Thánh Giuse công chính không dám nhận những gì không phải của mình. Ngài muốn trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa. Bào thai trong lòng Đức Mẹ là quyền năng của Thiên Chúa. Thánh Giuse không dám lãnh nhận địa vị cao cả đó.

Đặc biệt hơn, công chính là sống đức tin. Đó chính là điều thánh Phaolô quả quyết khi nói về tổ phụ Abraham trong thư Rôma 4, 3.18-22 mà chúng ta nghe một phần trong bài sách thánh thứ hai: “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính….Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin…, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế ông được kể là người công chính”.

Quả thật Abraham luôn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì tin tưởng nên ông mau mắn vâng lời, thi hành mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy. Thiên Chúa truyền cho ông bỏ quê hương xứ sở, lập tức ông lên đường. Thiên Chúa truyền dòng dõi ông sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển, dù lớn tuổi, ông vẫn tin. Khi Isaac, con trai ông, đứa con của lời hứa, được mười hai tuổi, Thiên Chúa truyền ông sát tế dâng cho Người, ông lập tức thi hành.

Cũng trong thư Rôma, thánh Phaolô nhắc lại lời tiên tri Habacuc: “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4// Rm 1,17// Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính. Vì ai tin vào Lời Chúa, thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả. Ta chẳng là gì. Mọi sự là của Thiên Chúa. Ta chẳng có gì. Vì thế tuyệt đối vâng lệnh Thiên Chúa và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Người là điều hợp lý.

Thánh Giuse là người công chính vì thánh nhân tuyệt đối tin tưởng lời Thiên Chúa, dù lời Thiên Chúa nói với thánh nhân trong giấc ngủ. Thánh nhân tin vào lời Thiên Chúa, trong những sự việc bình thường và hợp lý. Như khi truyền cho thánh nhân đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ trốn sang Ai cập và sau đó trở về. Thánh nhân còn tuyệt đối tin tưởng ngay cả trong những trường hợp bất thường và lý trí không giải thích được. Như khi thánh nhân định trốn đi, nhưng Thiên Chúa truyền cho thánh nhân ở lại để nhận Đức Mẹ về làm bạn. Không những tuyệt đối tin tưởng, thánh nhân còn mau mắn thi hành không chút chậm trễ. Đức tin của thánh nhân thật lớn lao. Và vì thế sự công chính của thánh nhân thật trổi vượt, xứng đáng được Tin Mừng chính thức ca tụng.

Chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin. Nhưng xem ra chúng ta còn thiếu đức tin. Nếu “người công chính sống bởi đức tin” thì ta chưa sống bởi đức tin. Vì ta còn thiếu công chính. Ta chưa trả cho người khác những gì thuộc về họ. Bất công lớn lao đang tràn lan khắp nơi. Ta chiếm đoạt những gì không phải của mình. Từ chiếm đoạt vật chất của cải, đến chiếm đoạt danh dự, phẩm giá của người khác. Từ chiếm đoạt quyền lợi, đến chiếm đoạt cả tự do. Từ chiếm đoạt uy tín, đến chiếm đoạt cả tiếng nói, cả ý kiến của người khác. Nhất là khi sự chiếm đoạt bât công được thể chế hóa qua guồng máy có tổ chức, được hợp thức hóa qua luật lệ. Tiếm quyền, tiếm danh, tiếm ngôn đang được thực hiện khắp nơi. Nhưng trên hết con người đang chiếm đoạt quyền lợi, và vị trí của Thiên Chúa.

Cần sửa chữa những tệ nạn này bằng một đời sống công chính. Đó là điều mà Hội đồng Giám mục Việt nam đã thể hiện qua bản góp ý để sửa đổi Hiến pháp nước Việt nam. Hãy trả cho từ ngữ đúng ý nghĩa của nó. Hãy trả cho người dân đúng quyền lợi của họ. Hãy trả cho đảng phái đúng vị trí của nó. Và hãy trả cho các cơ quan chính quyền đúng chức năng của nó.

Hôm nay chúng ta vui mừng hiệp thông với toàn thể Giáo hội trong ngày lễ đăng quang của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha là người thao thức với đời sống đức tin thể hiện qua sự công chính. Vì thế suốt đời mục tử ngài quan tâm tới đoàn chiên nghèo khổ. Đòi công bằng cho người nghèo được nghe rao giảng Tin mừng, ngài đã nói với các linh mục: "Chúa Giêsu dậy chúng ta một phương cách khác: Hãy đi. Hãy đi chia xẻ chứng tá của các bạn, hãy đi mà giao dịch với các anh chị em, hãy đi và chia xẻ, đi và thăm hỏi. Hãy trở thành Lời Chúa bằng cả thân xác lẫn tinh thần.”

Đòi công bằng cho người nghèo được quan tâm nên Ngài đã lên án các đồng sự lãnh đạo giáo hội là đạo đức giả vì đã quên rằng Chúa Giêsu Kitô đã làm cho người phong cùi được sạch và ăn uống với phụ nữ làng chơi. Để chia sẻ với người nghèo, bản thân ngài thường đi xe buýt đến sở làm, tự nấu ăn lấy và thường xuyên thăm viếng các khu xóm nghèo nàn xung quanh thủ đô nước Argentina.

Cũng vì luôn đứng về phía người nghèo và luôn bảo vệ công lý, chống lại bất công, bất bình đẳng trong xã hội, Ngài không ngại lên tiếng chỉ trích những điều bất công, phi lý. Mark Rice-Oxley trên nhật báo The Guardian tại Anh, hôm 13/03, năm 2009, cho biết Ngài đã chỉ trích chính phủ của Tổng thống Ernesto Kirchner, chồng của Tổng thống hiện tại của Argentina là Cristina Fernández de Kirchner, là xấu xa và bất chính khi để bất bình đẳng tại nước này gia tăng. Theo báo La Croix, Ngài đấu tranh chống nghèo đói vì Ngài coi nghèo đói là một sự vi phạm nhân quyền. Cũng theo bài viết này, trong một đất nước mà đối lập hầu như không tồn tại, Ngài thực sự là tiếng nói duy nhất dám đương đầu với vợ chồng Tổng thống Kirchner – người mà Ngài không ngừng chỉ trích là độc đoán, chuyên quyền.

Tạ ơn Chúa đã ban cho thời đại chúng ta một vị Giáo hoàng sống đức tin mãnh liệt trong đức công chính lớn lao. Chúng ta hãy đồng hành với ngài và noi gương ngài sống đức tin trong Năm Đức Tin này bằng đời sống công chính.

Lạy Thánh Cả Giuse là Đấng Công Chính, xin nâng đỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

 
 ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong buổi tiếp kiến Hồng Y Đoàn lần đầu tiên

Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong buổi tiếp kiến Hồng Y Đoàn lần đầu tiên

Pope Francis Diễn văn đầu tiên

Anh em thân mến,
Thời gian Mật Nghị Hồng Y đầy ý nghĩa không những đối với Hồng Y Đoàn mà còn đối với tất cả các tín hữu. Trong những ngày này, chúng ta cảm nghiệm cách rõ ràng mối thân tình và tình liên đới của Giáo hội hoàn vũ, cũng như sự quan tâm của nhiều người, dù không cùng tôn giáo với chúng ta nhưng vẫn hướng về Giáo hội và Tòa thánh với niềm kính trọng và ngưỡng mộ.

Khắp nơi trên địa cầu, một bản hợp ca của lời cầu nguyện tha thiết được các dân Kitô giáo cất lên dành cho vị Giáo hoàng mới, và lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với cộng đoàn chật kín cả quảng trường thánh Phêrô là một bản hợp ca đầy cảm xúc. Với hình ảnh ấn tượng của một đám đông cầu nguyện và vui mừng như thế vẫn còn in dấu trong tâm trí tôi, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các giám mục, linh mục, những người tận hiến, các gia đình, người trẻ và người cao tuổi về sự gần gũi thiêng liêng của họ, là điều rất chân thành và đầy cảm kích.

Tôi cảm thấy cần phải nói lên lòng biết ơn sâu xa đối với tất cả anh em, những Hồng Y khả kính và thân thiết, vì anh em đã cộng tác để điều hành Giáo hội trong thời gian trống tòa. Trước hết, tôi xin chào Đức Hồng Y Angelo, Niên Trưởng Hồng T Đoàn và xin cảm ơn ngài về lời chào mừng mà ngài đã dành cho tôi nhân danh anh em. Cùng với ngài, tôi xin cảm ơn Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, vị Nhiếp chính của Tòa Thánh, về công việc tốt đẹp của ngài trong giai đoạn chuyển giao khó khăn này, và Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, người điều hành Mật NghịHồngY. Với lòng biết ơn, tôi đặc biệt nghĩ đến các vị Hồng Y khả kính, vì tuổi tác và bệnh tật, vẫn đồng hành với chúng ta và yêu mến Giáo hội bằng những hy sinh và lời cầu nguyện. Và tôi muốn báo tin cho các ngài rằng, ngày hôm kia, Đức Hồng Y Mejia đã trải qua một cơn đau tim và đang ở trong bệnh viện. Tôi tin rằng ngài đã ổn định và ngài gửi đến chúng ta lời chào mừng.

Tôi không quên cám ơn tất cả những ai, bằng nhiều cách, đã chuẩn bị cho Mật Nghị Hồng Y, bảo đảm an toàn và yên tĩnh cho các Hồng Y trong thời gian rất quan trọng này của đời sống Giáo hội.
 
Với tất cả lòng biết ơn, tôi đặc biệt nghĩ đến vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Bênêđictô XVI, người mà trong những năm qua đã làm phong phú và tiếp thêm sinh lực cho Giáo hội bằng giáo huấn, lòng nhân từ, sự hướng dẫn, đức tin, sự khiêm hạ và ôn hòa của ngài; những điều này sẽ tồn tại như di sản thiêng liêng. Ngài đã cống hiến hết mình cho sứ vụ thánh Phêrô bằng cách diễn tả khôn ngoan và khiêm hạ, với cái nhìn luôn hướng về Đức Kitô, Đấng Phục sinh, hiện diện và sống động trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta luôn nhớ đến ngài bằng lời cầu nguyện nhiệt tâm và lòng biết ơn chân thành. Tôi cảm thấy rằng Đức Bênêđictô XVI đã thắp lên một ngọn lửa trong sâu thẳm tâm hồn chúng ta; ngọn lửa sẽ tiếp tục bừng cháy vì nó được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện mà ngài vẫn dành cho Giáo hội trong cuộc lữ hành thiêng liêng và sứ mạng của mình.

Anh em thân mến,

Buổi gặp gỡ của chúng ta nhằm tiếp nối tình hiệp thông Giáo hội sâu sắc mà chúng ta đã cảm nghiệm trong thời gian qua. Được thúc đẩy bởi tinh thần trách nhiệm sâu xa và được nâng đỡ bởi tình yêu lớn lao đối với Đức Kitô và Giáo hội, chúng ta cùng cầu nguyện, chia sẻ cho nhau những cảm nhận, kinh nghiệm và suy tư của mình trong tình huynh đệ. Trong chính bầu khí thân mật này, sự hiểu biết lẫn nhau và cởi mở cho nhau được lớn lên. Và đó là điều tốt bởi vì chúng ta là anh em. Như có một vị đã nói với tôi: các Hồng Y là những linh mục của Đức Thánh Cha. Chúng ta là cộng đoàn thân mật và gần gũi như thế, điều đó sẽ giúp ích cho mỗi người trong chúng ta. Sự cởi mở và hiểu biết lẫn nhau giúp chúng ta mở ra cho tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng Phù Trợ, là tác nhân tối cao của mọi sáng kiến và biểu lộ của đức tin. Điều này rất thú vị và mời gọi tôi suy nghĩ. Đấng Phù Trợ tạo nên mọi khác biệt trong Giáo hội và giống như vị tông đồ của tháp Babel. Mặt khác, Đấng Phù Trợ lại kết hợp tất cả những khác biệt này – không phải làm cho chúng như nhau – mà là hài hòa với nhau. Tôi nhớ đến một giáo phụ đã mô tả Thánh Thần là chính sự hài hòa: “Ipse harmonia est”. Đấng Phù Trợ ban cho mỗi người chúng ta đặc sủng khác nhau, và liên kết chúng ta nên một trong cộng đoàn Giáo hội, để thờ phượng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Bắt đầu từ chính tình liên kết đích thực của Hồng Y Đoàn, tôi muốn bày tỏ ước mong phục vụ Tin mừng với tình yêu mới mẻ, giúp cho Giáo hội ngày càng sống trong Đức Kitô và với Đức Kitô. Được thôi thúc bởi Năm Đức Tin, tất cả chúng ta, mục tử và giáo dân, chúng ta sẽ cố gắng trung thành thực thi sứ mạng thường hằng: sứ mạng mang Chúa Giêsu Kitô cho con người, và dẫn đưa con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, Đấng hiện diện thật sự trong Giáo hội và đồng thời hiện diện trong mỗi tâm hồn. Cuộc gặp gỡ này làm cho chúng ta nên con người mới trong huyền nhiệm Ân sủng, khơi lên trong lòng chúng ta niềm vui của người Kitô hữu, đó là cái lợi “gấp trăm” mà Đức Kitô ban tặng cho những ai đón nhận Ngài.

Như Đức Bênêđictô XVI nhắc nhở chúng ta nhiều lần trong giáo huấn của ngài, và cuối cùng với cử chỉ khiêm tốn và can đảm, rằng chính Đức Kitô dẫn dắt Giáo hội qua Thánh Thần của Người. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội, với ân ban sự sống và sức mạnh hiệp nhất. Người làm cho tất cả nên một trong Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Chúng ta đừng bao giờ chiều theo tinh thần bi quan và chua chát mà ma quỉ bày ra trước mặt chúng ta mỗi ngày; đừng bi quan và thất vọng. Chúng ta tin chắc rằng Chúa Thánh Thần, với hơi thở quyền năng, ban cho Giáo hội lòng can đảm để kiên trì tìm kiếm những phương cách mới để loan báo Tin Mừng, nhằm mang Tin Mừng đến tận cùng cõi đất. Chân lý Kitô giáo có sức thu hút và thuyết phục vì nó đáp ứng nhu cầu sâu xa của con người, loan báo một cách thuyết phục rằng Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất trọn vẹn của con người và tất cả nhân loại. Việc loan báo này ngày nay vẫn còn giá trị như thời sơ khai của Kitô giáo, khi Giáo hội thực thi sứ vụ truyền bá Tin Mừng.

Anh em thân mến,

Hãy can đảm lên! Một nửa trong chúng ta đã già: Tôi thích nghĩ về tuổi già như ngai tòa của sự khôn ngoan. Người già thường khôn ngoan vì họ đã bước đi trên đời, như ông Simeon và bà Anna trong Đền thờ. Chính sự khôn ngoan đã giúp họ nhận ra Chúa Giêsu. Chúng ta hãy trao ban sự khôn ngoan này cho người trẻ: như rượu ngon được tăng triển theo thời gian, chúng ta hãy ban tặng sự khôn ngoan này của cuộc sống cho người trẻ. Tôi nhớ đến một thi sĩ người Đức viết về tuổi già rằng: “Es ist ruhig, das Alter, und fromm” – tuổi già là thời của bình an và cầu nguyện. Chúng ta cần trao ban cho người trẻ sự khôn ngoan này.

Anh em sẽ trở về giáo phận để tiếp tục sứ vụ của mình, được tiếp thêm sinh lực qua những ngày tràn đầy tình hiệp thông và lòng tin này. Kinh nghiệm độc đáo không gì sánh bằng này cho phép chúng ta hiểu được tất cả vẻ đẹp của Giáo hội, là điều phản ánh sự sáng của Đức Kitô Phục sinh: sẽ có ngày chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt đẹp đẽ của Đấng Phục sinh.

Tôi xin phó thác sứ vụ của tôi và của anh em cho sự chuyển cầu đầy quyền thế của Đức Maria, Mẹ chúng ta, Mẹ Giáo hội. Dưới cái nhìn từ mẫu của Người, ước gì mỗi người chúng ta bước đi và lắng nghe tiếng của Con chí thánh của Mẹ, gia tăng sự hiệp nhất, kiên trì cầu nguyện và làm chứng cho đức tin chân thực trong sự hiện diện của Chúa. Tôi chân thành ban phép lành Tòa Thánh cho anh em, cho cộng sự viên của anh em và cho những người anh em phục vụ. 
 

Lm. Quang Long chuyển ngữ

 

 

HÃY BỎ HÒN ĐÁ XUỐNG

 HÃY BỎ HÒN ĐÁ XUỐNG

 

Càng gần đến tuần kỷ niệm cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu, lời mời gọi sám hối càng trở nên khẩn thiết hơn, tích cực hơn. Lời Chúa Chúa Nhật 5 Mùa Chay đặt tôi trong tình trạng tự trải lòng mình ra trước Tình Yêu của Thiên Chúa và nhờ Tình Yêu thiêng liêng ấy chiếu vào cõi thâm sâu thầm kín để thấy mình còn lắm điều tồi tệ.

SỰ IM LẶNG CỦA TỘI NHÂN

Các Kinh Sư và Pharisêu  đem đến cho Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đặt cô ấy đứng giữa và yêu cầu cho ý kiến. Họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu phạm luật Môsê. Vì theo luật Môsê thì người đàn bà tội lỗi này phải bị ném đá cho đến chết (x. Lv 20, 10; Đnl 22, 22 – 24 ).

Tôi đang hình dung ra một tòa án cộng đồng, diễn ra ngay trong Đền Thờ, công tố viên không ai khác là các Kinh Sư và Pharisêu, vị thẩm phán và còn là luật sư bào chữa, khách mời hôm nay là Chúa Giêsu, còn người tham dự phiên tòa là dân chúng đang nắm trong tay những hòn đá, khoái chí, hăm he chờ ném vào người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo lời kể của phóng viên tại tòa, Thánh Gioan, thì trong suốt phiên tòa, “người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình” ấy, chị chỉ nói mỗi một câu “họ đã về cả rồi”. Chị hoàn toàn im lặng trong khi chờ bị ném đá, một sự im lặng đáng chú ý.

Dẫu biết rằng “im lặng là đồng lõa”, “im lặng là chấp nhận”, nhưng tôi muốn nghĩ đến trong cái im lặng ấy, có thể, còn có  bao điều chị muốn nói, nhưng không thể nói  được, vì “văn bản luật” đã rõ ràng và tội trạng đã đành rành. Đã nói đến luật pháp trần gian, thì phải hiểu luật pháp luôn là một “cây thước” cứng ngắc. Tôi muốn đặt mình vào tình thế của “người nữ công khai phạm tội ngoại tình” để thêm được một người hiểu cho chị, vì trong sân ai cũng không hiểu, chỉ mỗi một người hiểu chị, là Chúa Giêsu. Trong cái im lặng ấy, có thể chị đang xấu hổ và có thể có nhiều tâm sự thầm kín, nhưng không là lý do để có thể bào chữa, rằng thì là:

“Nhà em nghèo, chồng em bệnh, ba đứa con phải được lo cho học hành”.

“Em cần tiền để sửa lại nhà cửa. Nhà em rách nát, nắng mưa gió cát rác rưởi đều có lối vào”.

“Em không cưỡng lại được số phận, vì trời ban cho em cái hồng nhan “khuynh nước, khuynh thành” làm cho bao “đấng mày râu” chao đảo, như “sắc bất ba đào dị nịch nhân”.

“Em đã lỡ tự trau chuốt cho mình quá mức cần thiết, tưởng để cho đẹp mặt với người ta, có ai ngờ… trở thành món mồi ngon cho những người có lòng tham khoái lạc”.

“Em không thể sống trong cảnh cô đơn khi hãy còn quá trẻ. Em cần có anh ấy!” 

“Anh ấy cần có em, đến với anh ấy vì em muốn giải thoát anh ấy khỏi những bi lụy…”

“Em đang cần một đứa con để giải tỏa những u ám trong gia đình em”…

… Và hàng chục lý do khác nữa để tự biện hộ.

Vâng, có thể chị không có cơ hội để giải bày những tâm sự  với bao nhiêu là lý do chủ quan, khách quan…, có thể chị hiểu là dù có nói gì đi nữa, thì trước mắt người đời, chị cũng không thoát tội chết, không khỏi bị ném đá. Có thể chị hiểu: ý hướng tốt khi thực hiện một điều xấu không đủ biện minh hay chạy tội thành trắng án – cũng như, mục đích tốt không biện minh cho phương tiện xấu – ấy là luật. Biết như thế, nhưng Chúa Giêsu, Đấng hiểu thấu mọi nỗi lòng, hiểu thấu mọi sự im lặng, mọi nỗi đau thầm kín nhất trong lòng, Ngài hiểu chị và thương xót chị.

NHÌN LẠI CHÍNH MÌNH

Chúa Giêsu không chỉ muốn nói cho đám đông tố cáo rằng “hãy thông cảm cho tội nhân” mà còn điều quan trọng là cảnh cáo họ “hãy nhìn lại chính mình”. Chúa nói: “Ai trong các người vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.

– Hãy nhìn lại chính mình, đúng thế, nếu người đời chưa phát hiện ra tôi đang sống trong tình trạng tội lỗi, để tôi trở thành tội nhân công khai, đáng phải bị ném đá, thì lòng tôi ơi, hãy nhớ rằng, nhà ngươi đã bị Thiên Chúa “bắt quả tang” từ trong ý nghĩ, trong tư tưởng đến hành động… không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng Ngài vẫn im lặng, đợi chờ. Tôi có thể tránh được ánh mắt của người đời, nhưng không thể tránh được ánh mắt của Thiên Chúa.

 Hãy nhìn lại chính mình, để thấy, có đôi khi, người ta chưa phạm tội, thì mình đã phạm tội rồi. Thấy một người có khả năng làm việc trong Giáo Xứ, họ đóng góp được nhiều việc, còn tôi, tôi chẳng có tài gì, tôi lại nói: “Ông ấy, bà ấy, con mẹ ấy nó kiêu ngạo lắm”. Thế nghĩa là gì? Có phải họ chưa kịp kiêu ngạo thì tôi đã kiêu ngạo rồi chăng? Nghe chuyện thường xuyên ai đó vẫn gặp nhau, tôi thêu dệt thành chuyện tình ly kỳ hấp dẫn nhất để mọi người có thể tin rằng họ đã phạm tội điều răn thứ 9. Thế có phải chính tôi đã phạm tội trước họ chăng?

Hãy nhìn lại chính mình, để thấy, mình đang tội lỗi nhiều hơn người khác, nhất là khi mình đang có được những vỏ bọc bên ngoài có vẻ như là đạo đức lắm: trí thức Công Giáo chẳng hạn, thành viên Hội Đồng Mục Vụ, Ban Trị Sự, Ban Giáo Lý, hay trong các ban ngành đoàn thể khác chẳng hạn. Những vỏ bọc ấy không là bằng chứng vô tội của tôi, và càng không phải là cái thẩm quyền xét đoán hay kết tội anh em.

– Hãy nhìn lại chính mình, để thấy, những công việc, kể cả việc đạo đức của tôi hằng ngày nơi cộng đoàn Dân Chúa, nếu không vì Lòng Mến chân thành, và vì vinh danh Chúa, thì cũng hãy coi chừng, chưa chắc đó là bảo chứng cho lòng trong sạch của mình. Càng không phải đó là giấy xác nhận tôi có quyền thẩm định tư cách của người này, xếp hạng đạo đức cho người kia, và loại trừ người nọ vì lý do họ phạm tội. Chính từ những xét đoán, kết án, phân biệt, loại trừ đã dẫn đến sự mất hiệp nhất trong cộng đoàn Dân Chúa, làm giảm sút sự phát triển của một Giáo Xứ, một cộng đoàn, thậm chí khiến cho tất cả phải giậm chân tại chỗ, tụt dốc hay rệu rã.

HÃY BỎ HÒN ĐÁ XUỐNG

Khi đã nhìn lại chính mình, người ta đã bỏ hòn đá xuống, rồi lẳng lặng ra về. Chúa Giêsu hỏi người đàn bà ngoại tình: “Này chị, họ đâu cả rồi, không ai lên án chị sao?” – “Thưa Ông, không có ai cả” – “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 10 – 11 ).

Phàm ai sống trên đời cũng “thích” xét đoán và kết án, và không hề thích chính mình “bị xét đoán và bị kết án”. Nhưng ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói: “Đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán” (Mt 7, 1). Và cụ thể nhất, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã thể hiện tinh thần ấy. Mặc dù điều luật về tội ngoại tình của Chúa Giêsu còn ngặt hơn nhiều “Các ngươi đã nghe bảo: ‘Chớ ngoại tình’. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” (Mt 5, 27 – 28). Nhưng trước một tội nhân công khai, ở đây là người đàn bà đã được nNgài hiểu thấu nỗi lòng, Ngài cũng không lên án, ngược lại, Ngài tha thứ và vạch ra một hướng đi tích cực hơn cho chị: “Hãy về và đừng phạm tội nữa”.

Đúng như tinh thần Ngài đã nêu nơi Lc 17, 3 – 4: “Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy răn bảo nó; nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó. Cho dẫu nó xúc phạm đến ngươi bảy lần một ngày, và bảy lần nó trở lại với ngươi và nói “tôi xin chừa cải” thì ngươi cũng phải tha thứ cho nó”.

Tôi xin trích đoạn bài thơ “Càng yêu em hơn” trong tập “Nhật Ký Yêu” của tác giả T.G, một người bạn của tôi:
 

Nàng gục đầu khóc trong vai tôi 
Khóc sụt sùi, nghẹn từng tiếng, rồi òa lên nức nở 
“Anh ơi !“Hãy tha thứ cho em  
cuộc lao đao trong chiến trận tình đời 
Em đã dối gian anh và em là người chiến bại 
Ôi một thời đoan trang và hồng nhan con gái 
Đã bay xa theo gió lộng phù hoa 
Em tưởng mình sẽ hạnh phúc bao la 
Có ngờ đâu lối về xa vạn dặm… 
Cảm ơn anh không vì say vì đắm 
Nhưng vì yêu, đã tha thứ cho em 
Đón em về, dù rã nát trái tim 
Tình yêu anh, cho em con đường mới….”

 

Tác giả T.G. đã bỏ hòn  đá xuống, và viết vào nhật ký những dòng thơ  đầy nước mắt với tựa đề “Càng Yêu Em Hơn”. Tôi nghĩ anh bạn tôi cũng thấm tinh thần Tha Thứ  của Chúa Giêsu hôm nay đối với chính người bạn đời của mình.

Trong khi viết những dòng suy niệm này, tôi nhận được Email của anh tôi, Laogiacali, chuyển cho tôi mấy dòng của ngài Jim Lawhon:

“I remember there are 4 things that we cannot recover: The stone… after… the throw ! The word… after… it’s said ! The occasion… after… the loss ! The time… after… it’s gone”.

“Tôi nhớ, có 4 điều mà chúng ta không thể thu hồi lại được: Hòn đá đã ném đi. Lời đã nói ra. Cơ hội đã vuột mất. Và thời gian đã qua đi”.

Cảm ơn anh Laogiacali, cảm ơn ngài Jim Lawhon, em mượn ý tưởng này để kết.

Xin hãy bỏ hòn đá xuống. Xin khoan hãy nói lời buộc tội… Hòn đá đã ném đi không thu hồi lại được. Lời đã buông… 
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng xót thương, xin thương tha cho con là người tội lỗi nhất – những tội trong tư tưởng, trong lòng trí, và những tội chưa công khai mà Ngài đã “bắt quả tang”. Xin ban cho con lòng thương xót cảm thông và tha thứ, để mở cho anh em con một lối về với bình an và thiện hảo. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG

Chúa Nhật 5 Mùa Chay Năm C

 Chúa Nhật 5 Mùa Chay Năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, trên phương diện xã hội, chúng ta rất cảm phục một phần lớn người Việt Nam ở trên đất nước Hoa Kỳ này đã thành công trong việc học hành cũng như sự nghiệp làm ăn. Bởi đâu họ có được như vậy, nếu không phải nhờ họ xác định được mục đích, để rồi họ nỗ lực quyết tâm đạt cho bằng được đích điểm, cho dẫu gặp khó khăn gian khổ cũng không làm họ nản chí sờn long.

     Hôm nay trong bài đọc 2, chúng ta cũng nói đến vấn đề mục đích cần phải đạt được. người nào vậy, nếu không phải là Thánh Phaolô, là tác giả của bài đọc 2, thơ gởi tín hữu Philipphê. Ngài đã hướng tới mục đích và cứu cánh cuối cùng là Đức Giêsu, và bằng mọi cách ngài phải đạt cho bằng được mà không có một mãnh lực nào ngăn cản nổi; vì Đức Ki-tô mà ngài đánh đổi tất cả. Mọi sự trên đời ngài coi như rác rưởi, phân bón so với mối lợi tuyệt hảo là Đức Kitô. Với một sự xác tín mạnh mẽ vào Đức Kitô mà ngài bất chấp tất cả, cho dù gian khổ, đói khát, đòn vọt, tù đày, kể cả cái chết, không có gì có thể tách Thánh nhân ra khỏi lòng mến Đức Kitô. Phải chăng mỗi người trong chúng ta có được sự xác tín vào Đức Ki-tô như thánh Phaolo, thì bằng mọi cách ta phải chiếm lấy được Đức Kitô là một mối lợi tuyệt hảo, để ta cùng nói lên lời tuyên tín như thánh Phaolô: “Tôi thâm tín rằng: sự chết hay sự sống, dù thiên thần thiên phủ, dù hiện tại tương lai, hay hiểm nguy. Hay cho dù là muôn chiều sâu, dù là muôn chiều cao, dù là ai bất cứ trên trần gian. Không có gì, không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô”. 

     Qua bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy, Chúa Giêsu đứng trước một cạm bẫy thật nguy hiểm; trả lời đàng nào cũng bị kết tội: “Thưa thầy, người đàn bà này bị bắt qủa tang đang ngoại tình. Trong luật Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”. Thầy nghĩ sao? Vì tình thương thì Thầy cần tha thứ cho người đàn bà này. Nhưng vì trung thành với luật Môisê thì phải kết liễu người đàn bà này. Đối thủ thật hí hửng bởi bẫy gài như vậy thì không ai thoát. Thế nhưng họ hung hổ tố cáo như vậy, nên không thấy sự bất công thật trơ trẽn ở chỗ: người đàn bà này ngoại tình là ngoại tình với ai mới được? Còn người kia ở đâu rồi? Có phải là các người bao che cho người cùng phái không? Bẫy gài nguy hiểm cùng với những bộ mặt hùng hổ, chờ câu trả lời là các hòn đá sẽ được tung ra. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su, không phải là câu trả lời trực tiếp, mà nó mang tính cách câu hỏi thách thức đối phương, bắt họ nhìn lại chính mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chúa Giê-su chấp nhận cho họ ném đá nhưng với điều kiện; họ phải nhìn vào con người của họ trước đã, rồi mới kết án người khác. Ai ngờ lời mời gọi này, kẻ cao niên thì lại rút lui trước, rồi từ từ tất cả đều rút lui. Với câu hỏi lại của Chúa Giêsu là câu hỏi xé lòng của họ, nên họ thấy xấu hổ vì mình chẳng tốt lành hơn người đàn bà đó, có khi còn ghê gớm hơn nữa, chẳng qua là dưới con mắt người đời thì người ta không thấy thôi, nhưng làm sao che dấu được con mắt của Thiên Chúa.
 
     Hình ảnh những người Biệt Phái, Pharisêu trong vụ án ném đá xưa, kể ra họ cũng còn nhận ra tình trạng con người của họ, nhưng ngày hôm nay biết bao người hùng hổ lên án người này, người kia mà không nhìn lại chính mình; họ lên án trực tiếp đối phương, lên án qua báo chí, sách vở, đài radio, TV, internet… Họ lên án cho bằng được, đâu cần thỉnh ý Chúa để Ngài cho câu trả lời trước khi họ hành động.
 
     Ôi thôi, con người trước mặt Chúa ai cũng đầy tội lỗi, khuyết điểm, chẳng qua là mình không chịu nhìn thẳng vào con người của mình, mà chỉ nhìn vào đối phương để vạch lá tìm sâu, bới móc rác rưởi; trong khi mình có khi cả một đống dơ bẩn, hôi thối, chẳng qua vì lỗ mũi của mình bị hư trầm trọng đó thôi. Bởi vậy có chyện kể rằng: có người kia mang hai giỏ trên mình; cái trước cái sau. Cái giỏ trước đựng rác, còn giỏ sau lưng đựng phân dơ bẩn hôi thối, thế mà anh ta cứ vênh vang như mình sạch lắm để rồi chê bai và kết án người khác.   
 
     Sứ điệp Lời Chúa tuần này: với câu hỏi của Chúa Giê-su cho các Kinh Sư và những người Pha-ri-sêu xưa, thì ngày hôm nay Ngài vẫn hỏi mỗi người chúng ta: “Ai cảm thấy mình sạch tội thì cứ lên án những người khác”. Phải chăng, trước khi hành động, chúng ta chịu dừng lại một chút để suy nghĩ về câu hỏi của Chúa Giê-su trước khi lên án ai thì hay biết mấy.
 
     Ước gì lời Chúa qua chúa nhật thứ năm mùa chay năm C này, giúp mỗi người chúng ta có được sự xác tín như thánh Phaolo, để bằng mọi giá ta chiếm được Đức Kitô. Và khi ta có được Đức Kitô thì ta có những hành xử như Ngài, nhất là khi đứng trước những người lầm đường lạc lối, những kẻ yếu đuối tội lỗi.  Amen.

Linh mục Phaolô Cao Thế Bình SDD