Xin thêm Đức tin cho con

Xin thêm Đức tin cho con

“Thưa Thầy, xin thêm Đức tin cho con”. Lời thưa của các Tông đồ ngày xưa vẫn là lời van xin của con cái Chúa hôm nay. Tin là gì? Một câu hỏi không dễ trả lời. Một bệnh nhân khi bị bệnh, anh ta đến Thầy thuốc và được dặn uống một số thuốc nào đó. Anh về và làm như lời Bác sĩ dặn. Anh hết bệnh. Nhưng không phải do Thầy thuốc mà do nhờ uống thuốc đúng bệnh, đúng liều giúp anh hết bệnh. Người bệnh tin vào Thầy thuốc là người tài giỏi, có kinh nghiệm trong việc chẩn trị bệnh. Tin như thế là có chứng cớ, có cơ sở.

Một người đi lạc vào rừng không tìm được lối ra. Tưởng sẽ mãi ở trong rừng sâu không có ngày về. Bỗng dưng nhìn thấy một túp lều bên suối. Bước vào trong ông thấy có dụng cụ nấu ăn, có chỗ nghỉ ngơi. Mặc dầu không thấy ai, nhưng ông tin chắc túp lều là do có người dựng lên. Có bếp núc, có nơi tạm nghỉ, ông biết rõ có người tới lui dù ông chưa từng thấy họ. Và ông an tâm vì biết rồi đây mình sẽ trở về được nhà, trở về sống với mọi người vì có đồng lọai ở bên, sẽ giúp đỡ ông. Nhưng tin vào Chúa, Đấng mà con người chưa từng gặp trong cuộc sống thì sao?

Các Tông đồ ngày xưa được Chúa gọi theo Người, các ông chứng kiến những phép lạ Chúa làm, từng nghe không biết bao lời Chúa giảng dạy, từng chứng kiến đám đông người đi theo Chúa. Họ đón nhận Lời Người với một niềm tin tuyệt đối như vị sĩ quan đội trưởng, xin Chúa chữa lành cho con mình: “Thưa Thầy! Thầy khỏi đến nhà tôi, vì nhà tôi chẳng đáng Ngài vào. Thầy chỉ cần phán một lời thôi thì con tôi sẽ lành bệnh”, hay như người đàn bà bị băng huyết lâu năm, chỉ mong được chạm vào áo Thầy chắc chắn sẽ khỏi bệnh. Bà được như ý. Lời Chúa đã minh chứng điều ấy: “Lòng tin của bà đã chữa bà”. Còn TôMa, một con người của chủ thuyết duy nghiệm, dù là một Tông đồ, từng thấy Chúa làm được mọi phép lạ. Tin và phục Chúa như một vị Rabbi có tài, có “Công lực”, có “phép thuật?” Nhưng ông không thể tin được Người là “Con Thiên Chúa”, là “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, là “Đấng Cứu độ trần gian”. Nên khi nghe chuyện sau ngày Chúa chịu tử nạn, Người đã sống lại và hiện ra với các bè bạn, ông không tin. Chỉ đến khi chứng kiến Chúa ngay trước mắt và được trò chuyện với Người, ông mới thưa lên lời xác tín : “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”. Chúa đã nhắc ông : “TôMa vì anh đã thấy Thầy nên anh đã tin, nhưng phúc cho ai không thấy mà tin”. Quả thật niềm tin “Thiêng liêng” không dễ dàng.

Lạy Chúa,

Các Tông đồ đã sống bên Chúa, đã được Chúa dạy bảo, chăm sóc mà còn phải thưa “Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Các ông nửa tin, nửa ngờ. Phải đến khi Thánh Thần Chúa xuống, các ông được mở lòng, mở trí mà vững tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô và làm chứng về Người. Phần con, có gì hơn các Ngài? Con đã được ơn gọi đứng vào hàng ngũ dân Chúa, được lời chứng từ các Tông đồ, qua Giáo hội Chúa nơi trần gian. Được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, Bí tích Thêm sức, tức là lãnh nhận Chúa Thánh Thần, được soi trí mở lòng. Con được Chúa ban ơn Đức Tin, là ơn nhưng không. Nhưng con vẫn hèn tin, vẫn sa ngã, vẫn không mạnh dạn sống lòng tin đó trong cuộc đời. Con thật có lỗi

Xin Chúa ban thêm Đức tin cho con. Xin cho con dám mạnh dạn tuyên xưng: “Tôi vẫn mãi tin luôn, tin rằng Ngài yêu thương tôi. Tôi vẫn cứ tin luôn, cho dù gặp bao gian nguy”. Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa! AMEN.

FX. Đỗ công Minh

Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo kiến tạo hòa bình

Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo kiến tạo hòa bình

ROMA. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tôn giáo kiên trì kiến tạo và bênh vực hòa bình, qua con đường đối thoại và cầu nguyện.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 30-9-2013 dành cho 300 vị đại diện tôn giáo tham dự cuộc gặp gỡ về hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại Roma từ ngày 29-9 đến 1-10-2013 với chủ đề ”Can đảm hy vọng”.

ĐTC nhắc đến tình trạng thế giới ngày nay đang rất cần hòa bình và khẳng định rằng: ”Chúng ta không bao giờ có thể cam chịu đứng trước những đau khổ của các dân tộc, đang trở thành con tin của chiến tranh, lầm than, bóc lột. Chúng ta không thể dửng dưng và bất lực trước thảm trạng của các trẻ em, gia đình, người già nạn nhân của bạo lực. Chúng ta không thể để cho nạn khủng bố giam hãm con tim của một số người hung bạo để rồi làm cho họ gieo rắc đau thương và chết chóc cho bao nhiêu người. Tất cả chúng ta cùng mạnh mẽ tiếp tục nói lên rằng không thể có biện minh tôn giáo nào cho bạo lực, dù nó được biểu lộ dưới bất kỳ hình thức nào.. Cần phải xóa bỏ mọi hình thức bạo lực viện cớ tôn giáo, và cùng nhau chúng ta cảnh giác để thế giới khỏi trở thành con mầu của bạo lực được chứa đựng trong mọi dự phóng văn minh dựa trên sự phủ nhận Thiên Chúa”.

ĐTC cũng đề cao vai trò của các vị lãnh đạo tôn giáo trong việc xây dựng hòa bình và ngài nhận xét rằng: ”Cuộc gặp gỡ của quí vị hàng năm gợi cho chúng ta con đường xây dựng hòa bình, đó là can đảm đối thoại, mang lại hy vọng. Sở dĩ trên thế giới, trong xã hội, có ít hòa bình cũng chỉ vì thiếu đối thoại, người ta cảm thấy khó ra khỏi chân trời chật hẹp của tư lợi để cởi mở đối với một cuộc đối chiếu chân thành và thực sự. Để có hòa bình cần có một cuộc đối thoại kiên trì, bền chí, mạnh mẽ, thông minh, không để mất mát một sự gì. Đối thoại có thể chiến thắng chiến tranh. Đối thoại là cho những người thuộc các thể hệ khác nhau và thường cố tình không biết nhau, nay biết sống chung với nhau. Đối thoại làm cho các công dân thuộc các chủng tộc khác nhau, xác tín khác nhau, biết sống chung với nhau”.

Sau cùng, ĐTC mời gọi các vị lãnh đạo tôn giáo tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới, tại Syria, Trung Đông và bao nhiêu nước khác trên thế giới. Ước gì lòng can đảm hòa bình này mang lại can đảm hy vọng cho thế giới, cho tất cả những người đang chịu đau khổ vì chiến tranh, cho những người trẻ đang lo âu hướng về tương lai của họ” (SD 30-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ cho hơn 100 ngàn giáo lý viên và tín hữu

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ cho hơn 100 ngàn giáo lý viên và tín hữu

VATICAN. Hội nghị quốc tế về giáo lý và cuộc hành hương của các giáo lý viên trong Năm Đức Tin đã kết thúc tốt đẹp với Thánh Lễ do ĐTC Phanxicô cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng chúa nhật 29-9-2013.

Hiện diện trong thánh lễ có hơn 100 ngàn người đứng đầy quảng trường, tràn ra tới cuối đường Hòa Giải, dưới bầu trời mùa thu, có mây phủ nhưng không mưa. Trong số các tham dự viên, đó hơn 1.600 người đã tham dự hội nghị quốc tế về giáo lý trong những ngày liền trước cuộc hành hương chính thức. Hiện diện tại một chỗ danh dự có Đức Thượng Phụ Chính Thống Antiokia ở Siria, Youhanna X Yazigi.

Từ Việt Nam chỉ có 2 người đến tham dự Hội nghị giáo lý có Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền, Trưởng Ban Giáo Lý Tổng giáo phận TP. HCM, và chị Madalena Phạm Thị Thúy, thuộc Ban Thư Ký Ủy ban Giáo Lý Đức Tin của HĐGM Việt Nam.

Đồng tế với ĐTC có 60 HY và GM, 600 linh mục, phần giúp lễ do 15 thầy thuộc Học Viện Giáo Hoàng Quốc Tế ”Tòa Đấng Khôn Ngoan”.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC quảng diễn ý nghĩa các bài đọc, đặc biệt là bài Phúc Âm về người phú hộ và ông Lazzaro nghèo khổ. Ngài nói:

1. ”Khốn cho những không quan tâm ở Sion và những kẻ tự kiêu,.. các ngươi nằm trên giường ngà” (Am 6,1.4), ăn uống, ca hát, tiêu khiển và không bận tâm gì đến những vấn đề của người khác.

Những lời này của ngôn sứ Amos thật nghiêm khắc, cảnh giác chúng ta về một nguy hiểm mà tất cả chúng ta đều mắc phải. Vị sứ giả này của Thiên Chúa tố giác điều gì, ngài đặt điều gì trước mặt những người đồng thời và cả trước mắt chúng ta ngày nay? Thưa đó là nguy cơ sống thoải mái, tiện nghi, phàm tục trong cuộc sống và trong tâm hồn, đặt an sinh ở trung tâm cuộc sống. Đó cũng là kinh nghiệm của người phú hộ trong Phúc Âm, mặc y phục sang trọng và hằng ngày yến tiệc linh đình; đó là điều quan trọng đối với ông ta. Còn người nghèo trước cửa nhà ông không có gì để ăn thì sao? Đó chẳng phải là vấn đề của người phú hộ, chẳng liên hệ gì tới ông ta. Nếu vật chất, tiền bạc, cuộc sống sa hoa trở thành trung tâm cuộc sống, thì chúng nắm bắt, chiếm hữu chúng ta và chúng ta đánh mất chính căn tính làm người của mình: người phú hộ trong Phúc Âm không có tên, ông chỉ là ”một người giàu có”. Vật chất, điều mà ông ta sở hữu, là khuôn mặt của ông, và không có gì khác.

Nhưng chúng ta cũng hãy tự hỏi: làm sao điều ấy lại xảy ra như vậy? Làm sao con người, có lẽ cả chúng ta nữa, lại rơi vào nguy hiểm khép mình, đặt an ninh của chúng ta trong sự vật, và rốt cục chúng chiếm mất khuôn mặt của chúng ta, khuôn mặt của một người? Điều này xảy ra khi chúng ta mất ký ức về Thiên Chúa. Nếu không còn ký ức về Thiên Chúa nữa, thì mọi sự đều thu hẹp vào cái tôi, vào an sinh thoải mái của tôi. Cuộc sống, thế giới, tha nhân, đều mất tầm quan trọng, chẳng còn gì đáng kể nữa, tất cả đều thu hẹp vào một chiều kích, đó là sở hữu. Nếu chúng ta không còn nhớ đến Thiên Chúa nữa, thì chính chúng ta cũng trở nên trống rỗng, chúng ta mất khuôn mặt của mình như người phú hộ trong Phúc Âm! Ai chạy theo sự hư vô thì cũng trở thành hư vô – như lời một ngôn sứ khác, Giêrêmia (Xc Gr 2,5) đã nói. Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa, chứ không phải theo hình ảnh của sự vật, của các ngẫu tượng!

Từ những nhận xét trên đây, ĐTC ngỏ lời với các giáo lý viên hiện diện:

2. Khi nhìn anh chị em, tôi tự hỏi: giáo lý viên là ai? Thưa là người gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa; họ bảo tồn ký ức ấy nơi bản thân và biết khơi dậy ký ức đó nơi tha nhân. Đây là điều thật đẹp: nhớ đến Thiên Chúa, như Đức Trinh Nữ Maria, trước hoạt động kỳ diệu của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, Mẹ không nghĩ đến vinh dự, uy tín, giàu sang, không khép kín vào mình. Trái lại, sau khi lắng nghe lời loan báo của Thiên Chúa và chịu thai Con Thiên Chúa, Mẹ làm gì? Thưa, Mẹ ra đi gặp gỡ bà chị họ Elizabeth cao niên, cũng đang mang thai, để giúp đỡ bà; và trong cuộc gặp gỡ với bà chị, hành vi đầu tiên của Mẹ là nhớ đến hành động của Thiên Chúa, sự trung tín của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, trong lịch sử dân Chúa, trong lịch sử chúng ta: ”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.. vì Người đã nhìn đến phận hèn của nữ tỳ Chúa.. lòng từ bi của Chúa từ đời này sang đời khác” (Lc 1,46.48.50).

Trong bài ca này của Mẹ Maria, cũng có ký ức về lịch sử bản thân, lịch sử của Thiên Chúa với Mẹ, chính kinh nghiệm đức tin của Mẹ. Cũng vậy đối với mỗi người chúng ta, mỗi Kitô hữu: đức tin chứa đựng ký ức về lịch sử Thiên Chúa với chúng ta, ký ức cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng chuyển động đầu tiên, sáng tạo và cứu độ, biến đổi chúng ta; đức tin là nhớ lại Lời Chúa sưởi ấm tâm hồn, những hoạt động cứu độ của Chúa, ban sự sống, thanh tẩy, săn sóc và nuôi dưỡng chúng ta. Giáo lý viên chính là một tín hữu Kitô đặt ký ức ấy để phục vụ việc loan báo; không phải để phô trương, không phải để người ta nói về mình, nhưng để nói về Thiên Chúa, về tình thương và lòng trung tín của Chúa.

Thánh Phaolo nhắn nhủ môn đệ và cộng tác viên của ngài, Timotheo, đặc biệt về điều này: Con hãy nhớ đến Chúa Giêsu Kitô, đã sống lại từ cõi chết, mà Cha loan báo và vì Người Cha chịu đau khổ (Xc 2 Tm 2,8-9). Nhưng Thánh Tông Đồ có thể nói điều đó vì Người đã nhớ đến Chúa Kitô trước, Đấng đã kêu gọi thánh nhân khi còn là kẻ bách hại các tín hữu Kitô, Chúa đánh động và biến đổi Phaolô bằng ơn thánh của Ngài.

Vì thế, giáo lý viên là một Kitô hữu mang trong mình ký ức về Thiên Chúa, để cho mình được ký ức về Thiên Chúa hướng dẫn trong trọn cuộc đời của mình, và biết khơi dậy ký ức ấy trong tâm hồn tha nhân. Đó thực là một công trình lớn lao! Dấn thân trọn đời! Chính cuốn sách Giáo Lý là gì nếu không phải là ký ức về Thiên Chúa, ký ức về hoạt động của Chúa trong lịch sử, về sự kiện Thiên Chúa ở gần chúng ta trong Đức Kitô, Đấng hiện diện trong Lời Chúa, các bí tích, trong Giáo Hội và trong tình thương của Chúa? Hỡi các giáo lý viên, tôi hỏi anh chị em; chúng ta có là ký ức về Thiên Chúa hay không? Chúng ta có thực sự giống như những người lính canh thức tỉnh nơi người khác ký ức về Thiên Chúa, sưởi ấm tâm hồn hay không?

3. ”Khốn cho những kẻ không quan tâm ở Sion”. Đâu là con đường phải theo để khỏi trở thành những ”người không quan tâm”, đặt an ninh nơi chính mình và nơi vật chất, nhưng là những người nam nữ nhớ đến Thiên Chúa? Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô viết cho Timotheo, đưa ra một số chỉ dẫn có thể đánh dấu hành trình của giáo lý viên, hành trình của chúng ta: hướng tới sự công chính, lòng đạo đức, đức tin, đức mến, kiên nhẫn, hiền lành (Xc 1 Tm 6,11).

Giáo lý viên là người nhớ đến Thiên Chúa nếu có một tương quan liên lỷ, sinh tử với Chúa và với tha nhân; nếu giáo lý viên là con người đức tin, thực sự tín thác nơi Thiên Chúa và đặt an ninh của mình nơi Chúa; nếu họ là bác ái, yêu thương, coi mọi người như anh chị em mình; nếu là người ”hypomoné”, kiên nhẫn và bền chí, biết đương đầu với khó khăn, thử thách, những thất bại, trong thanh thản và hy vọng nơi Chúa; nếu giáo lý viên là người hiền lành, có khả năng cảm thông và từ bi.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa để tất cả chúng ta là những ngừơi gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa trong đời sống chúng ta và biết khơi dậy ý tức ấy trong tâm hồn tha nhân. Amen

Trong phần rước lễ, 200 LM đã mang Mình Thánh Chúa đi phân phát cho các tín hữu.

Chào thăm và Kinh Truyền Tin

Cuối thánh lễ, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và cũng là trưởng ban tổ chức, đã cám ơn ĐTC và giới thiệu với ngài các thành phần tham dự. Ngài cũng nhắc đến các giáo lý viên đến từ các nơi trên thế giới trong đó có cả những nước xa xăm như Việt Nam.

Về phần ĐTC, ngài ngỏ lời chào thăm mọi người hiện diện và nói rằng:

”Trước khi kết thúc buổi lễ này, tôi muốn chào tất cả và cám ơn anh chị em đã tham dự, đặc biệt là các giáo lý viên đến từ bao nhiêu nơi trên thế giới.

”Tôi đặc biệt ngỏ lời chào Đức Thượng Phụ Youhanna X, Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp Antiokia và toàn Đông Phương. Sự hiện diện của Đức Thượng Phụ tại đây mời gọi chúng ta một lần nữa cầu nguyện cho hòa bình tại Siria và Trung Đông.”

ĐTC không quên chào thăm các tín hữu hành hương cưỡi ngựa từ Assisi đến đây, các tín hữu hành hương từ Nicaragua và ngài gợi lại biến cố các vị chủ chăn và tín hữu nước này đang mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo Tỉnh Nicaragua. Sau cùng, ĐTC nói: ”Chúng ta vui mừng nhớ rằng hôm qua tại Croatia, có lễ phong chân phước Miroslav Bulesic, LM giáo phận tử đạo năm 1947. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa Đấng đã ban cho những người yếu thế sức mạnh làm chứng tá tột cùng.

Tiếp đến, ĐTC đã mời gọi mọi người cùng đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Tòa Thánh.

Sau Phép lành, ĐTC đã bắt tay chào nhiều người hiện diện, cả các LM đồng tế trước khi đi xe jeep mui trần màu trắng tiến qua các lối đi, cho đến tận cuối đường Hòa Giải để chào thăm các tín hữu.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ

Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ

Một câu chuyện kể rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu nguyện với Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một gia đình đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của con phải cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình nay bị đau nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải nghỉ vì không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?

Chúa trả lời: Con thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết bạn với con.

Đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố: “Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần gian, và đó cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách tiên tri Amos chúng ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an phận trong sự khốn nạn của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.

Giàu có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những gia đình phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên là bị loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng, như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ là những vua chúa, hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh. Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không thể nào an phận trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn của Chúa. Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống trở nên thánh thiện và công chính hơn.

Thánh thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi, không lợi dụng.

Quả thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng như thánh thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được hạnh phúc không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu người như Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương đón nhận và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng ta phải tích lũy làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại và hiền hòa.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm tốn trước tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người chúng ta trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.

Xin mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin.

Veritas Radio

Bạn hữu của Thiên Chúa

Bạn hữu của Thiên Chúa

Chúa thương người giàu

Tôi không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.

Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ” “ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phe phởn”.Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay:“ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu: “nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn giàu nhờ đức.

Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: “họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng vậy, “họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.

Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc”, có mắt mà không thấy “Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông” ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay “làm đơn xin” gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.

Vậy tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.

Chúa cứu người nghèo

Với những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.

Cái thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa “thấy ai hoạn nạn thì vui mừng”, nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là “ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc “Chúa phạt nhãn tiền” là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau”, mà quên một điều quan trọng là: “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau”. Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột… như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.

Từ “Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu “khó vào nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được “Thiên Chúa cứu giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa. “Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có. Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được “Chúa thương cứu giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.

PM Cao Huy Hoàng

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày di dân và tị nạn

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày di dân và tị nạn

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi cộng đồng quốc tế cộng tác với nhau để cải tiến tình trạng người di dân ngày càng gia tăng trên thế giới. Ngài cũng mời gọi các cơ quan truyền thông góp phần bài trừ những thành kiến khiến do người di dân không được tiếp đón tại các nước họ nhập cư.

ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp công bố hôm 24-9-2013 nhân ngày di dân và tị nạn sẽ được cử hành vào ngày 19-1-2014, với chủ đề: ”Người di dân và tị nạn: hướng về một thế giới tốt đẹp hơn”. Sau đây là toàn văn sứ điệp của ĐTC.

”Anh chị em thân mến, các xã hội chúng ta đang cảm nghiệm những tiến trình lệ thuộc lẫn nhau và ảnh hưởng trên nhau trên bình diện hoàn vũ chưa từng có trước đây trong lịch sử. Những tiến trình này tuy có những yếu tố gây khó khăn hoặc tiêu cực, nhưng chúng có mục đích cải tiến những điều kiện sống của gia đình nhân loại, không những về mặt kinh tế, nhưng cả trong những khía cạnh chính trị và văn hóa nữa. Vả lại, mỗi người là thành phần của nhân loại và, cùng với toàn thể gia đình các dân nước, cùng hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Nhận xét này gợi hứng cho đề tài mà tôi đã chọn cho Ngày Thế giới về di dân và tị nạn năm nay, đó là “Những người di dân và tị nạn: hướng về một thế giới tốt đẹp hơn”.

”Trong thế giới đang biến chuyển ngày nay, hiện tượng con người ngày càng lưu động trở nên như ”một dấu chỉ thời đại”, theo định nghĩa của ĐGH Biển Đức 16 (Xc Sứ điệp Ngày Thế giới di dân và tị nạn 2006). Thực vậy, một đàng những cuộc di cư thường cho thấy những thiếu sót từ phía các quốc gia và cộng đồng quốc tế, nhưng đàng khác chúng cũng bộc lộ khát vọng của nhân loại mong sống hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt, sự đón tiếp và lòng hiếu khách giúp phân chia đồng đều các tài nguyên của trái đất, bảo vệ và thăng tiến phẩm giá cũng như thế đứng trung tâm của mỗi người”.

Về phương diện Kitô, cả trong việc di cư, cũng như trong các thực tại khác của con người, người ta thấy có sự căng thẳng giữa một bên là vẻ đẹp của công trình sáng tạo, mang dấu vết của ơn thánh và công trình cứu chuộc, và bên kia là mầu nhiệm tội lỗi. Đối nghịch với tình liên đới và sự tiếp đón, những cử chỉ huynh đệ và cảm thông, có sự từ khước, kỳ thị, nạn khai thác bóc lột, đau khổ và chết chóc. Đáng lo hơn cả là những tình trạng trong đó việc di cư không những do sự cưỡng bách, nhưng còn được thực hiện qua nhiều thể thác khác nhau của nạn buôn người và biến thành nô lệ. Nạn lao động như nô lệ là điều thường thấy ngày nay! Tuy có những vấn đề, những rủi ro và khó khăn phải đương đầu, điều làm cho người di dân và tị nạn phấn khởi là niềm tín thác và hy vọng; họ mang trong tâm hồn mong ước một tương lai tốt đẹp hơn không những cho bản thân, nhưng còn cho gia đình và những người thân yêu của họ nữa.

”Việc kiến tạo một ”thế giới tốt đẹp hơn” bao hàm điều gì? Thành ngữ ”một thế giới tốt đẹp hơn” không ám chỉ một cách thơ ngây tới những ý niệm trừu tượng hoặc những thực tại không thể đạt tới được, nhưng đúng hơn nó hướng về sự tìm kiếm một sự phát triển đích thực và toàn diện, hoạt động để có những điều kiện sống xứng đáng cho tất cả mọi người, để họ tìm được những câu trả lời đúng đắn cho những đòi hỏi của các cá nhân và gia đình, để công trình tạo dựng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được tôn trọng, gìn giữ và vun trồng. Đấng Đáng Kính Phaolô 6 đã mô tả những khát vọng của con người ngày nay như sau: ”Được giải thoát khỏi lầm than, bảo đảm cuộc sống của mình một cách chắc chắn nhất, được sức khỏe, công ăn việc làm vững chắc; được tham gia đầy đủ nhất vào các trách nhệm, không bị áp bức nào, tránh được những tình trạng làm thương tổn phẩm giá con người; được hưởng một nền giáo dục đầy đủ hơn; tóm một lời là muốn được hiểu biết và sở hữu nhiều hơn, để sống trọn vẹn hơn” (Thông điệp Phát triển các dân tộc, 23-6-1967, 6).

”Con tim chúng ta mong ước được ”tốt đẹp hơn nữa”, điều này không phải chỉ là được một kiến thức hoặc được sở hữu nhiều hơn, nhưng nhất là được sống sung mãn hơn. Ta không thể thu hẹp sự phát triển vào sự tăng trưởng kinh tế mà người ta thường theo đuổi mà không để ý gì đến những người yếu thế nhất và vô phương tự vệ. Thế giới chỉ có thể được cải tiến tốt đẹp hơn nếu người ta quan tâm trước tiên tới con người, nếu sự thăng tiến con người có tính chất toàn diện, trong mọi chiều kích, kể cả chiều kích tinh thần; nếu không ai nào bị lơ là, kể cả những người nghèo, các bệnh nhân, tù nhân, những người túng thiếu, người ngoại quốc (Xc Mt 25,31-46); nếu ta có khả năng đi từ một nền văn hóa gạt bỏ đến một nền văn hóa gặp gỡ và tiếp đón”.

”Những người di dân và tị nạn không phải là những con cờ trên bàn cờ của nhân loại. Họ là những trẻ em, phụ nữ và đàn ông rời bỏ hoặc bị bó buộc rời bỏ gia cư của họ vì nhiều lý do, họ cùng chia sẻ một ước muốn hợp pháp là được biết, sở hữu, và nhất là được sống trọn vẹn hơn. Thật là đáng ngạc nhiên trước con số những người di cư từ đại lục này sang đại lục khác, cũng như những người di chuyển trong nội địa quốc gia hoặc những vùng địa lý của họ. Làn sóng di dân ngày nay là làn sóng lớn nhất trong lịch sử, họ gồm những cá nhân, nếu không phải là cả dân tộc. Đồng hành với những người di dân và tị nạn, Giáo Hội dấn thân tìm hiểu những nguyên do gây ra hiện tượng di dân, và Giáo Hội cũng hoạt động để khắc phục những hậu quả tiêu cực và đề cao giá trị cũng như hậu quả tích cực của việc di cư đối với các cộng đoàn nguyên quán, cộng đoàn chuyển tiếp hoặc các cộng đoàn định cư trong tiến trình di cư.

”Đáng tiếc là, trong lúc khích lệ sự phát triển hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn, chúng ta không thể im lặng trước gương mù nghèo đói trong các chiều kích khác nhau: bạo lực, bóc lột, kỳ thị, gạt ra ngoài lề, những biện pháp thu hẹp tự do cơ bản, của cá nhân cũng như của tập thể, đó là một số yếu tố chính của nghèo đói cần phải vượt qua. Nhiều lần chính những khía cạnh đó là nguyên nhân thúc đẩy sự di cư, gắn liền di cư với nghèo đói. Trong khi trốn chạy những tình trạng lầm than hoặc bách hại để tiến tới một viễn tượng tốt đẹp hơn hoặc để cứu vãn cuộc sống, hàng triệu người lên đường di cư, và trong khi hy vọng được mãn nguyện, thì họ thường gặp phải những nghi kỵ, khép kín hoặc loại trừ và bị những nghịch cảnh, cử những nghịch cảnh trầm trọng nhất và làm thương tổn phẩm giá của họ.

”Thực tại di cư, với những chiều kích mà thời đại hoàn cầu hóa ngày nay đang đòi phải được xử lý và điều hành một cách mới mẻ, công bằng và hữu hiệu, nhất là đòi phải có sự cộng tác quốc tế và một tinh thần liên đới, cảm thông sâu xa. Điều quan trọng là sự cộng tác ở các cấp độ khác nhau, với sự đồng thanh chấp nhận những văn kiện pháp lý bảo vệ và thăng tiến con người. ĐGH Biển Đức 16 đã phác họa khuôn mẫu cho các chính sách và khẳng định rằng ”chính sách như thế cần phải được khai triển từ một sự cộng tác chặt chẽ giữa các nước xuất cư và các nước tiếp cư; cần tháp tùng bằng những qui luật quốc tế thích hợp có khả năng hòa hợp những hệ thống pháp lý khác nhau, trong viễn tượng cứu vãn những đòi hỏi và những quyền của con người và các gia đình di cư, và đồng thời, quyền của các xã hội nơi những người di cư đến ngụ” (Thông điệp Caritas in veritate, 29-6-2009, 62). Cùng nhau làm việc cho một thế giới tốt đẹp hơn đòi phải có sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước, với thái độ sẵn sàng và tín nhiệm, không dựng lên những hàng rào không thể vượt qua. Một sự hợp lực có thể là khích lệ đối với các chính phủ để đương đầu với những chênh lệch về xã hội và kinh tế, và một sự hoàn cầu hóa không có qui luật nào là những nguyên nhân tạo ra di cư trong đó con người trở thành nạn nhân hơn là người nắm vai chính. Không có nước nào một mình có thể đương đầu với những khó khăn gắn liền với hiện tượng này, nó rộng lớn đến độ liên hệ tới tất cả các đại lục trong hai phong trào nhập cư và xuất cư.

”Tiếp đến, điều quan trọng là nhấn mạnh sự cộng tác ấy đã khởi sự với cố gắng của mỗi người phải làm để kiến tạo những điều kiện kinh tế và xã hội tốt đẹp hơn tại quê hương, để việc xuất cư không phải là sự chọn lựa duy nhất đối với những người tìm kiếm hòa bình, công lý, an ninh và sự tôn trọng đầy đủ phẩm giá con người. Kiến tạo những cơ hội công ăn việc làm trong các nền kinh tế địa phương, sẽ tránh được sự phân rẽ gia đình và bảo đảm những điều kiện ổn định và thanh thản cho cá nhân và cộng đoàn.

”Sau cùng, khi nhìn thực tại những người di dân và tị nạn, có một yếu tố thứ ba mà tôi muốn nêu bật trên con đường xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, đó là vượt thắng những thành kiến và thiếu cảm thông trong việc cứu xét việc di cư. Thực vậy, nhiều khi những người di dân, tản cư, xin tị nạn và người đã được tị nạn khơi dậy nơi dân chúng địa phương những ngờ vực và đối kỵ. Người ta lo sợ rằng người di dân và tị nạn tạo nên những xáo trộn trong an ninh xã hội, và có nguy cơ làm cho họ đánh mất căn tính và văn hóa, tạo ra cạnh tranh trong thị trường công việc làm hoặc làm cho tội phạm gia tăng. Trong lãnh vực này, các phương tiện truyền thông xã hội có một vai trò trách nhiệm lớn: thực vậy họ có nhiệm vụ vạch trần những thành kiến và cung cấp những thông tin chính xác khi nói về những sai lầm của một số người di dân và tị nạn, và cũng cần mô tả sự lương thiện, ngay chính, tâm hồn đại đảm của nhiều người trong số họ. Trong vấn đề này, cần có một sự thay đổi thái độ từ mọi người đối với những người di dân và tị nạn; đi từ thái độ tự vệ và sợ hãi, không quan tâm, hoặc gạt ra ngoài lề, tương ứng với nền văn hóa loại bỏ, tới thái độ dựa trên nền văn hóa gặp gỡ, là văn hóa duy nhất có khả năng kiến tạo một thế giới công bằng và huynh đệ hơn, một thế giới tốt đẹp hơn. Cả các phương tiện truyền thông xã hội cũng được mời gọi đi vào sự hoán cải thái độ, và cổ võ sự thay đổi thải độ như thế đối với những người di dân và tị nạn.

“Tôi nghĩ đến Thánh Gia Nazareth cũng đã trải qua kinh nghiệm bị chối bỏ vào đầu hành trình của mình: ”Mẹ Maria sinh con đầu lòng, bọc trong tá và đặt trong mang cỏ vì không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã cảm nghiệm thế nào là rời bỏ quê hương của mình và trở thành người di cư: bị lòng khao khát quyền lực của vua Hêrôđê đe dọa, các vị buộc lòng phải chốn chạy sang Ai Cập (Xc Mt 2,13-14). Nhưng con tim từ mẫu của Mẹ Maria và trái tim ân cần của thánh Giuse, người gìn giữ Thánh Gia thất đã luôn bảo tồn niềm tín thác: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi. Nhờ lời chuyển cầu của các ngài, ước gì niềm xác tín này luôn kiên vững trong tâm hồn những người di dân và tị nạn.

”Giáo Hội đáp lại mệnh lệnh của Chúa Kitô, ”Các con hãy đi khắp thế gian và làm cho mọi dân tộc thành môn đệ”, Giáo Hội được kêu gọi trở thành Dân Chúa bao gồm mọi dân tộc và mang Tin Mừng cho mọi dân tộc, vì nơi khuôn mặt của mỗi người có in khuôn mặt của Chúa Kitô! Ở đây có cội rễ sâu xa nhất của phẩm giá con người, phải luôn tôn trọng và bảo vệ. Không phải các tiêu chuẩn hiệu năng, sản xuất, giai tầng xã hội, chủng tộc hoặc tôn giáo làm nền tảng cho phẩm giá con người, nhưng là sự kiện con người được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa (Xc St 1,26-27), và hơn nữa là con Thiên Chúa, mỗi người là con của Thiên Chúa! Nơi con người có in hình ảnh Chúa Kitô. Vì thế, vấn đề ở đây là trước hết chúng ta nhìn thấy và giúp người khác thấy người di dân và tị nạn không phải như một vấn đề cần phải đương đầu, nhưng như người anh em, chị em cần tiếp đón, tôn trọng và yêu mến, một cơ hội Chúa Quan Phòng ban để góp phần kiến tạo một xã hội công bằng hơn, dân chủ trọn vẹn hơn, một quốc gia liên đới hơn, một thế giới huynh đệ hơn và một cộng đoàn Kitô cởi mở hơn theo Tin Mừng. Những cuộc di cư có thể làm nảy sinh cơ hội tái truyền giảng Tin Mừng, mở ra những không gian cho sự tăng trưởng một nhân loại mới đã được loan báo trong mầu nhiệm phục sinh: một nhân loại trong đó mỗi phần đất ngoại quốc là quê hgương và mỗi quê hương là đất xa lạ.

”Anh chị em di dân và tị nạn thân mến! Anh chị em đừng mất hy vọng một tương lai chắc chắn hơn cũng được dành cho anh chị em, và trên đường đi anh chị em có thể gặp một bàn tay nâng đỡ, được cảm nghiệm tình huynh đệ liên đới và hơi ấm của tình bạn! Tôi hứa cầu nguyện cho tất cả anh chị em và những người dành trọn cuộc đời và năng lực để ở cạnh anh chị em và tôi ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả.
Vatican ngày 5 tháng 8 năm 2013

Phanxicô, Giáo Hoàng

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp người nghèo, tù nhân, giới văn hóa và giới trẻ tại Cagliari, Sardegna

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp người nghèo, tù nhân, giới văn hóa và giới trẻ tại Cagliari, Sardegna

CAGLIARI. Trong chuyến viếng thăm mục vụ chúa nhật 22-9-2013, ĐTC Phanxicô đã dành buổi chiều cùng ngày để gặp gỡ người nghèo, các tù nhân được Caritas giúp đỡ, giới văn hóa và giới trẻ tại thành phố Cagliari, thủ phủ đảo Sardegna của Italia.

ĐTC Phanxicô đã dành 12 tiếng đồng hồ để viếng thăm Tổng giáo phận Cagliari có 570 ngàn tín hữu Công Giáo. Cao điểm cuộc viếng thăm là thánh lễ ngài cử hành trước 100 ngàn tín hữu tại Quảng trường trước Đền Thánh Đức Mẹ Bonaria. Tên của Đền thánh này có liên hệ đặc biệt với tên của thành phố Buenos Aires ở Argentina nơi ĐTC làm GM. Thực vậy các thủy thủ của đoàn tàu từ Sardegna có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Mẹ Bonaria nên họ đã lấy tên của Đền Thánh Đức Mẹ nơi quê hương để đặt cho nơi họ đến cư ngụ ở Argentina.

Gặp gỡ người nghèo, tù nhân và Caritas
Sau thánh lễ, ĐTC đã dùng bữa với các GM đảo Sardegna tại Đại chủng viện miền, rồi lúc quá 3 giờ chiều ngài đến Nhà thờ chính tòa Cagliari để gặp gỡ người nghèo và các tù nhân do tổ chức Caritas trợ giúp.
Có 130 người nghèo cùng với một số tù nhân và các nhân viên Caritas hiện diện tại Nhà Thờ, trong bầu không khí hân hoan và cảm động.
Trong bài huấn dụ tại cuộc gặp gỡ, ĐTC nói:

”Khi nhìn Chúa Giêsu chúng ta thấy Chúa đã chọn con đường khiêm hạ và phục vụ. Đúng ra, chính bản thân Chúa là con đường ấy… Con đường của Chúa là con đường bác ái. Vì thế chúng ta thấy bác ái không phải chỉ là ban cấp sự giúp đỡ, nhưng là sự chọn lựa một lối sống; là con đường khiêm hạ và liên đới. Sự khiêm hạ của Chúa Kitô không phải là để dạy đời, không phải là một tình cảm, nhưng đó là điều chân thực: Chúa muốn trở nên bé nhỏ, ở với những người hèn mọn, với những người bị loại trừ, ở với chúng ta là những người tội lỗi. Nhưng chúng ta cần để ý, đây không phải là một ý thức hệ! Nhưng là một lối hiện hữu và sống, đi từ tình yêu, từ con tim của Thiên Chúa Cha.

”Nhưng nhìn ngắm Chúa mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải theo Chúa nữa. Và đó là khía cạnh thứ hai. Chúa Giêsu không đến để trình diễn cho người ta thấy. Chúa Giêsu là đường và con đường là để bước theo.”

ĐTC cám tạ Chúa vì sự dấn thân của tất cả những anh chị em tận tụy quảng đại tại Cagliari và Sardegna này trong việc thực thi những công việc từ bi bác ái và ngài khích lệ họ tiếp tục con đường ấy đồng thời nhắc nhở rằng:
”Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà.”

”Khi theo Chúa Kitô trên con đường bác ái, chúng ta gieo vãi hy vọng. Đó là xác tín thứ ba mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em. Xã hội Italia ngày nay đang rất cần hy vọng, đặc biệt tại đảo Sardegna này. Ai có trách nhiệm chính trị và dân sự thì có nghĩa vụ của mình, nghĩa vụ cần được hỗ trợ tích cực, như những công dân…
”Nhưng trong tư cách là Giáo Hội, tất cả chúng ta đều có một trách nhiệm lớn, đó là gieo vãi hy vọng bằng những công việc liên đới, luôn tìm cách cộng tác một cách tốt đẹp hơn với các tổ chức công cộng, trong sự tôn trọng các thẩm quyền liên hệ. Đức bác ái diễn tả cộng đoàn, và sức mạnh của cộng đoàn Kitô là làm tăng trưởng xã hội từ bên trong như men. Tôi nghĩ đến những sáng kiến của anh chị với các tù nhân trong các nhà tù, tôi nghĩ đến sự thiện nguyện của bao nhiêu hội đoàn, đến tình liên đới với các gia đình đang chịu đau khổ nhiều hơn vì thiếu việc làm. Về điểm này, tôi nói với anh chị em: hãy cam đảm, đừng để cho người ta cướp mất niềm hy vọng và hãy tiến bước!

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã chào thăm nhiều người. Có những người nhân dịp này trao cho ngài những lá thư riêng hoặc một món quà nhỏ.. Ngài mời mọi người đọc kinh Lạy Cha trước khi ban phép lành kết thúc.
Trước khi rời Nhà thờ chính tòa Cagliari, ĐTC cũng chào thăm các nữ tu thuộc các dòng khác nhau, kể cả các nữ tu chiêm niệm. Ngài nói với họ: ”Chị em là sự nâng đỡ tinh thần cho Giáo Hội. Hãy tiếp tục tiến bước với xác tín đó. Chúa kêu gọi chị em để nâng đỡ Giáo Hội bằng lời cầu nguyện của chị em”.

Gặp giới văn hóa

Hoạt động thứ hai của ĐTC chiều chúa nhật vừa qua là cuộc gặp gỡ với giới văn hóa lúc quá 4 giờ chiều tại thính đường Giáo Hoàng phân khoa thần học ở Cagliari do các cha dòng Tên đảm trách. Ngoài ra còn có đại diện của hai Đại học công lập ở Cagliari và Sassari.

Ngỏ lời trong dịp này, sau lời chào mừng của LM khoa trưởng thần học và hai giáo sư viện trưởng Đại học, ĐTC đã trình bày một số suy tư dựa trên đoạn Tin Mừng về thái độ của hai môn đệ trên đường làng Emmaus sau khi Chúa chịu chết, họ rời khỏi thành Jerusalem và trở về quê. ĐTC đã cô đọng suy tư của ngài trong 3 điểm: thất vọng, cam chịu và hy vọng.

Thứ 1. Hai môn đệ mang trong tâm hồn nỗi đau khổ và lạc hướng vì cái chết của Chúa Giêsu, họ thất vọng vì sự việc xảy ra. Chúng ta thấy tâm tình tương tự trong tình trạng chúng ta ngày nay: thất vọng, vỡ mộng, vì cuộc khủng hoảng không những về kinh tế tài chánh, nhưng cả về môi sinh, giáo dục và luân lý nữa. Đó là một cuộc khủng hoảng liên quan đến hiện tại và tương lai lịch sử, trong cuộc sống con người thuộc nền văn minh tây phương và liên hệ tới toàn thế giới… Ít nhất trong 4 thế kỷ gần đây, người ta chưa hề thấy tình trạng những xác tín chắc chắn cơ bản bị rúng động như hiện nay, những xác tín ấy vốn tạo nên cuộc sống con người. Tôi nghĩ đến sự suy thoái môi trường, những chênh lệch xã hội, tiềm năng kinh khủng của võ khí, hệ thống kinh tế tài chánh, sự phát triển, sức nặng của các phương tiện thông tin, truyền thông, chuyên chở.

2. ”Đâu là những phản ứng đứng trước thực tại ấy? Hai môn đệ làng Emmaus đã có phản ứng cam chịu, tìm cách trốn chạy khỏi thực tại, rời bỏ thành Jerusalem. Chúng ta cũng thấy thái độ như thế trong thời điểm lịch sử này. Đứng trước cuộc khủng hoảng, người ta có thể có thái độ cam chịu, bi quan đối về những gì có thể thực hiện hữu hiệu… Sự thất vọng và vỡ mộng cũng đưa tới sự trốn chạy, tìm những ”hòn đảo” hoặc ngưng lại. Thái độ đó phần nào cũng giống như thái độ rửa tay của Philatô. Thái độ này có vẻ là thực tiễn, nhưng trong thực tế nó cố tình không biết đến tiếng kêu công lý, nhân đạo, trách nhiệm xã hội và dẫn tới chủ nghĩa cá nhân, giả hình, nếu không muốn nói là đi tới thái độ sống chết mặc bay.

3. ĐTC nhận xét rằng: Về điểm này chúng ta tự hỏi: có một con đường phải đi trong tình trạng của chúng ta hay không? Phải chăng chúng ta phải cam chịu, trốn chạy thực tại, rửa tay và co cụm vào mình? Tôi nghĩ không những có một con đường phải đi, nhưng chính trong thời điểm lịch sử này, chúng ta được thúc đẩy tìm thấy những con đường hy vọng, mở ra những chân trời mới cho xã hội chúng ta. Và đây chính là vai trò của Đại học như một nơi soạn ra và thông truyền kiến thức, huấn luyện về sự khôn ngoan theo nghĩa sâu xa nhất của từ này, giáo dục toàn diện con người.

Trong ý hướng trên đây, ĐTC nói đến 3 vai trò của đại học: Đại học như một nơi phân định, đọc thực tại và phân tích suy xét, không chút sợ hãi, không hoảng hốt.. Đại học, như một môi trường của sự khôn ngoan có chức năng rất quan trọng là huấn luyện về sự phân định, để nuôi dưỡng hy vọng.

Tiếp đến đại học như một nơi kiến tạo nền văn hóa gần gũi. Sự cô lập và co cụm vào mình hoặc đóng khung trong những lợi lộc riêng của mình không bao giờ là con đường tái tạo hy vọng và thực huện sự canh tân, trái lại chính sự gần gũi, nền văn hóa gặp gỡ mới làm được điều đó. Đại học là nơi ưu tiên để thăng tiến, giảng dạy và sống nền văn hóa đối thoại..

ĐTC nhận xét rằng khi Chúa Giêsu đến gần các môn đệ làng Emmanus, ngài đồng hành, lắng nghe cái nhìn thực tại, sự thất vọng của họ, đối thoại với họ, và với cách thức đó, Ngài khơi dậy nơi họ niềm hy vọng, những chân trời mới đã hiện diện, mà chỉ có cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh giúp nhận ra.
Yếu tố sau cùng: Đại học là nơi huấn luyện về tình liên đới.. Phân định thực tại, nhận thức khủng hoảng, thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ, và đối thoại, hướng về tình liên đới, như yếu tố cốt yếu để canh tân xã hội chúng ta. Và ĐTC kết luận rằng:

”Đức tin ban cho các tín hữu Kitô chúng ta niềm hy vọng vững chắc thúc đẩy phân định thực tại, sống sự gần gũi và tình liên đới vì Thiên Chúa đi vào lịch sử chúng ta, trở thành ngừơi trong Đức Giêsu, ngụp lặn trong sự yếu đuối của chúng ta, trở nên gần gũi tất cả mọi người, chứng tỏ tình liên đới cụ thể, nhất là với những ngừơi nghèo khổ túng thiếu nhất mở ra cho chúng ta một chân trời vô biên và chắc chắn của niềm hy vọng”.

Gặp giới trẻ
Giã từ giới văn hóa, ĐTC trở lại Quảng trường Carlo Felice gần bến tàu Cagliari nơi ngài đã gặp giới lao động của đảo Sardegna vào ban sáng chúa nhật. Tại đây 100 ngàn bạn trẻ đã tụ tập tại đây ca hát, suy tư và nghe chứng từ về đề tài: ”Con hãy thả lưới!” dựa trên Tin Mừng theo thánh Luca (5,4-11).

Khi ĐTC đến, họ đã dành cho ngài một cuộc tiếp đón nồng nhiệt. Một số đại diện bạn trẻ đã chào mừng và xin ĐTC trả lời một số thắc mắc xin ngài giải đáp.

Trong phần huấn dụ, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa đoạn Tin Mừng về sự tích các môn đệ vất vả cả đêm mà không bắt được con cá nào từ hồ Galilea. Nhưng rồi Chúa Giêsu đến, gọi Phêrô, Anrê, và Giacôbê và Gioan, cũng với các ngư phủ khác, ngài bảo Phêrô thả lưới, nhưng ông nói: ”Thưa thầy chúng con vất vả cả đêm mà chẳng được gì!”
Đó là điểm đầu tiên ĐTC muốn nói tới, là kinh nghiệm về sự thất bại, có cái gì đó không ổn, có một sự thất vọng.
ĐTC nói: ”Trong tuổi trẻ chứng ta đề ra dự phóng, hướng về đằng trước, nhưng nhiều khi gặp phải thất bại, thất vọng: đó là một sự thử thách.

Cả trong Giáo Hội, chúng ta cũng trải qua kinh nghiệm ấy: các LM, giáo lý viên, những người linh hoạt vất vả rất nhiều, mất bao nhiêu năng lực, dồn toàn lực, nhưng rốt cục không thấy những thành quả tương ứng với cố gắng. Đức tin bị suy giảm, nhiều tín hữu không tích cực tham gia đời sống Giáo Hội, nhiều tín hữu Kitô mệt mỏi và buồn sầu, nhiều người trẻ, sau khi chịu phép thêm sức, thì không còn tham gia đời sống giáo xứ nữa.

ĐTC đặt câu hỏi: đứng trước thực tại ấy chúng ta có thể làm gì? Chắc chắn một điều không được làm là để cho mình bị thái độ bi quan và nản chí đè bẹp. Các bạn trẻ không thể và không được sống mà không có hy vọng, hy vọng là điều thuộc về cuộc sống của các bạn. Một người trẻ không có niềm vui và hy vọng thì thật là đáng lo, và không còn là người trẻ nữa.

Thánh Phêrô, trong giờ phút nguy kịch, thất bại, lẽ ra Người có thể chiều theo sự mệt mỏi và nán chí, nghĩ rằng thật là vô ích và tốt hơn nên rút lui về nhà. Nhưng, với lòng can đảm, thánh nhân ra khỏi mình và quyết định tín thác vào Chúa Giêsu và nói: ”Vâng lời Thầy con sẽ thả lưới!” Phêrô không nói: theo sức lực, theo những tính toán, kinh nghiệm của con như một ngư phủ lành nghề, nhưng Người nói: ”theo lời Thầy”! Và kết quả là một mẻ cá lạ lùng, lưới đầy cá, đến độ suýt bị rách!

Sang điểm thứ 2: tín thác vào Chúa Giêsu. ĐTC nói:
”Chúa luôn ở với chúng ta. Chúa đến bên bờ biển cuộc đời chúng ta, gần gũi với những thất vọng của chúng ta, sự dòn mỏng, tội lỗi của chúng ta, để biến đổi chúng. Các bạn đừng bao giờ ngừng tiếp tục cuộc chơi, như những thể tháo gia giỏi biết đương đầu với những vất vả của việc tập luyện, để đạt kết quả! Những khó khăn không được làm các bạn kinh hãi, nhưng thúc đẩy các bạn đi xa hơn. Hãy nghe những lời Chúa nói với các bạn: ”hãy ra khơi và thả lưới, hỡi các bạn trẻ Sardegna! Các bạn hãy luôn ngoan ngoãn đối với Lời Chúa.. Khi những cố gắng khơi dậy đức tin nơi các bạn đồng lứa dường như vô ích, như những vất vả suốt đêm của các ngư phủ, các bạn hãy nhớ rằng với Chúa Giêsu, tất cả có thể thay đổi. Lời Chúa đã làm đầy lưới, và lời Chúa làm cho công việc truyền giáo của các môn đệ trở nên hữu hiệu. Theo Chúa Giêsu có nhiều đòi hỏi, và có nghĩa là không hài lòng với những mục tiêu bé nhỏ, nhưng can đảm nhắm lên cao!

Điểm thứ ba: ”Hãy thả lưới bắt cá (v.4).” ĐTC nói: Các bạn trẻ Sardegna thân mến, điều thứ ba tôi muốn nói với các bạn là các bạn cũng được mời gọi trở thành những người ngư phủ lưới người. Các bạn đừng do dự dành trọn cuộc đời mình để vui mừng làm chứng về Tin Mừng, nhất là cho các bạn đồng lứa tuổi.

”Tôi muốn kể cho các bạn một kinh nghiệm bản thân. Hôm qua (21-9), tôi đã kỷ niệm 60 năm ngày tôi cảm thấy tiếng Chúa Giêsu trong tâm hồn tôi.. Tôi không bao giờ quên. Chúa đã cho tôi nghe được mạnh mẽ rằng tôi phải đi con đường ấy. Lúc đó tôi 17 tuổi. Tôi đã trải qua vài năm trước đó trước khi quyết định đi tu trở thành cụ thể và chung kết. Sau bao nhiêu năm với một vài thành công, vui mừng, những cũng có bao năm thất bại, mong manh, tội lỗi.. 60 năm trên con đường của Chúa, đi theo Chúa, cạnh Chúa, luôn luôn cùng với Chúa. Tôi chỉ nói với các bạn điều này: tôi không bao giờ hối hận vì đã đi theo Chúa! Không phải vì tôi mạnh như Tarzan, tôi không hối hận vì cả trong những lúc đen tối, những lúc tội lỗi, yếu đuối mong manh, thất bại, tôi đã nhìn Chúa Giêsu và tôi tin thác nơi Ngài và Chúa không bao giờ để tôi một mình. Các bạn hãy tín thác vào Chúa Giêsu, luôn tín thác vào ngài và tiến bước!

Sự đóng góp của các bạn thật là quan trọng cho sứ mạng của Giáo Hội là rao giảng Tin Mừng: Người trẻ làm tông đồ của người trẻ! Hãy nói với mọi người bằng cuộc sống của các bạn và bằng niềm vui rằng Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài luôn thời sự. Và các bạn hãy can đảm đi ngược dòng, đừng để mình bị cuốn theo dòng đời. Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, cảm nghiệm tình thương và lòng từ bi của Chúa là một cuộc phiêu lưu lớn nhất và đẹp nhất có thể xảy ra cho một người.

”Các thánh cũng như vậy, các ngài không phải là hoàn hảo khi sinh ra, không là thánh khi chào đời! Các ngài nên thánh vì đã tín thác vào lời Chúa và ra khơi như Simon Phêrô. Các bạn hãy noi gương các ngài, tín thác nơi sự chuyển cầu của các ngài và luôn luôn là những người hy vọng”.
Cuối cuộc gặp gỡ, ĐTC còn chào thăm một số bạn trẻ, trong đó có những người khuyết tật. Rồi lúc gần 7 giờ ngài đáp máy bay từ phi trường Cagliari để trở về Roma.
Sở cảnh sát ở Cagliari cho biết có tới 400 ngàn người đã tham dự các sinh hoạt và buổi lễ do ĐTC cử hành tại đây chúa nhật vừa qua.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH

NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH

Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.

Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.

Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.

Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.

Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.

Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.

Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.

Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.

Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.

Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.

Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.

Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.

Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha trả lời phỏng vấn

Đức Thánh Cha trả lời phỏng vấn

ROMA. Hôm 19-9-2013, bán nguyệt san Civiltà Cattolica, Văn Minh Kitô của dòng Tên Italia, đã công bố cuộc phỏng vấn ĐTC Phanxicô, dài 29 trang, nói về thân thế, cá tính, và lập trường của ngài về nhiều vấn đề của Giáo Hội.

Cuộc phỏng vấn được ĐTC dành cho Cha Antonio Spadano S.J, giám đốc tạp chí Văn Minh Công Giáo, vào 3 ngày 19, 23 và 29-8-2013, tổng cộng dài 6 tiếng đồng hồ, được dịch ra phổ biến đồng thời trên 16 tạp chí của dòng Tên bằng những thứ tiếng chính như Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Croát, Hungari, Thụy Điển, Slovak v.v.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐTC Phanxicô nói về nguy cơ quá nhấn mạnh đến giáo huấn Công Giáo về đạo đức tính dục và y khoa; lý do ngài chọn đường lối cai quản và tham vấn trong Giáo Hội, gia đình, vị thế phụ nữ trong Giáo Hội, giáo triều Roma, và đâu là những ưu tiên hàng đầu đối với Giáo Hội ngày nay.

Cha Spadano cho biết ĐTC đã đích thân duyệt lại văn bản cuộc phỏng vấn đề chấp thuận cho công bố, trong đó có đoạn ngài nói: ”Chúng ta không thể chỉ nhấn mạnh đén những vấn đề liên quan đến phá thai, hôn nhân đồng phái, và sử dụng các phương pháp ngừa thai”.

ĐTC cũng tiết lộ là đã bị phê bình vì không đề cập đến những đề tài đó, nhưng ngài nói: ”Không cần lúc nào cũng phải nói về những vấn đề ấy. Các giáo huấn tín lý và luân lý của Giáo Hội không phải tất cả đều tương đương với nhau.. Sứ vụ mục vụ của Giáo Hội không thể bị ám ảnh với việc thông truyền một mớ các đạo lý liên tục áp đặt.. Việc rao giảng như truyền giáo nhấn mạnh tới những gì là thiết yếu, những điều cần thiết. Chúng ta phải tìm ra một sự quân bình mới, chẳng vậy cả tòa nhà luân lý của Giáo Hội sẽ bị sụp đổ như một căn nhà bằng giấy, và sẽ đánh mất sự tươi mát và hương thơm của Tin Mừng”.

ĐTC xác tín rằng ”Đề nghị về Tin Mừng phải đơn sơ, sâu xa và chiếu tỏa rạng ngời hơn. Những hệ luận luân lý phải đi từ mệnh đề ấy”. Ngài cũng tái khẳng định một trong những đề tài chính, đó là cần có lòng từ bi hơn là xét đoán, khi đề cập đến tội lỗi.. Điều mà Giáo Hội ngày nay cần hơn cả đó là khả năng chữa lành những vết thương, sưởi ấm tâm hồn các tín hữu. Giáo Hội cần gần gũi với con người”.

Theo ĐGH Phanxicô, ”đôi khi Giáo Hội đã khép kín mình trong những chuyện nhỏ nhặt, những qui luật hẹp hòi. Điều quan trọng nhất là lời công bố đầu tiên: Chúa Giêsu Kitô đã cứu bạn”.

Trong chiều hướng đó, ngài nói: ”Tòa giải tội không phải là một phòng tra tấn, nhưng là nơi mà lòng từ bi của Chúa thúc đẩy chúng ta hành động tốt đẹp hơn.. Những người luôn tìm kiếm những giải pháp kỷ luật, những người mong ước một sự an ninh thái quá về đạo lý, những người ngoan cố nỗ lực phục hồi một quá khứ không còn nữa, chính là những người có một cái nhìn bất động và hướng nội về sự vật”.

ĐTC cũng đề cập đến đường lối cai quản của ngài và nói: ”Nhiều người nghĩ rằng những thay đổi và cải tổ có thể diễn ra trong một thời gian ngắn, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta luôn cần có thời gian để đặt nền tảng cho một sự thay đổi thực sự và hữu hiệu. Đó chính là thời gian phân định. Nhưng đôi khi sự phân định thúc đẩy chúng ta phải làm ngay điều mà trước đó bạn nghĩa là phải làm về sau. Và đó cũng là điều xảy ra cho tôi trong những tháng qua”.

Riêng về việc cải tổ tại Vatican, ĐTC nghĩ rằng cần phải tản quyền về các Giáo Hội địa phương nhiều hơn. ”Một số cơ quan Tòa Thánh có nguy cơ trở thành một cơ quan kiểm duyệt. Thật là đáng ngạc nhiên khi thấy những đơn tố cáo về sự thiếu đạo lý chân chính từ các nơi được gửi về Roma. Tôi nghĩ những trường hợp ấy phải được các HĐGM địa phương điều tra và họ có thể được Tòa Thánh trợ giúp trong việc này. Những trường hợp như thế được xử lý ở địa phương thì tốt hơn. Các cơ quan Tòa Thánh là những ngừơi trung gian chứ không phải là những người điều hành” (CNS 19-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo phận Vinh tiếp tục tìm hiểu sự thật ở Mỹ Yên

Giáo phận Vinh tiếp tục tìm hiểu sự thật ở Mỹ Yên

Gia Minh, biên tập viên RFA

Trước những cáo buộc từ phía Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, cơ quan truyền thông của tỉnh này cũng như của trung ương đối với vụ việc tại giáo xứ Mỹ Yên, linh mục đoàn giáo phận Vinh tiếp tục lên tiếng để chứng minh những cáo buộc từ phía chính quyền và truyền thông Nhà nước là không đúng sự thật.

Người đứng đầu linh mục đoàn cũng như toàn giáo phận Vinh, Đức giám mục Phao lô Nguyễn Thái Hợp, cho biết về điều đó trong cuộc nói chuyện với biên tập viên Gia Minh của Đài Á Châu Tự Do vào sáng ngày 17 tháng 9 như sau:

Đức giám mục Phao lô Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện, tiếp tục đưa những thông tin về phía những người dân bị đàn áp. Và càng ngày chúng ta thấy sự dàn dựng của nhà nước và sự bóp méo sự thật càng ngày càng lộ ra. Có lẽ chính quyền đã chuẩn bị trước: đưa cả quân đội, đưa cả cảnh sát rồi bộ đội, cơ động đến để gài bẫy người dân; rồi cũng thuê người để ném đá và chụp ảnh những người được thuê ném đá đó để đưa lên. Bây giờ càng ngày, càng nhiều ngày hơn chúng tôi đứng từ phía nạn nhân thì có những thông tin rõ hơn.

Và tôi cũng rất ngạc nhiên bức thư của ông Thái Văn Hằng gửi cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Nhơn- chủ tịch Hội đồng Giám mục, rồi sau đó gửi cho tất cả các linh mục thuộc giáo phận Vinh lặp lại quan điểm đó- quan điểm của báo đài Nghệ An cũng như của VTV1 đã đăng tải. Chúng tôi rất ngạc nhiên! Chính vì vậy hôm qua, các linh mục giáo phận Vinh đã họp để đọc lại bản đó và sẽ công bố một bản trả lời nói lên quan điểm của chúng tôi về những nhận định và rồi sẽ có những thông tin khác nữa để dần dần cho thấy sự thật ở đâu, sự thật như thế nào.

Cuộc chiều ngày 4 tháng 9, chuyện đó chúng tôi hoàn toàn bất ngờ, chúng tôi không dàn dựng chuyện đó. Bà con thân nhân của ông Khởi cũng như ông Hải, họ tin một cách ngây thơ lời hứa hẹn của ông chủ tịch xã, và quan chức của huyện mà họ đến. Họ đến hai bàn tay không, không chuẩn bị gì; trong khi phía Nhà nước đưa lính ở trên núi, coi như dàn binh bố trận. Có thông tin nghi giáo dân Vinh làm một cuộc khởi loạn hay gì đó, Nhà nước mới làm dữ dội như vậy.

Phía bà con có một số người đưa máy hình ra chụp, nhưng những ai đưa máy hình ra chụp thì bị đánh tàn tệ, lấy cả máy hình; nhiều khi trả lại không còn phim trong đó nữa. Thành ra chúng tôi không có số hình như bên kia dàn dựng; nhưng dần dần cũng qui tụ lại một số hình.

Có ai mà mấy chục dân đến mà đưa cả gần ngàn công an, bộ đội, cơ động đến. Đó là sự dàn binh bố trận

Gia Minh: Truyền thông Nhà nước và ông Thái Văn Hằng, phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An cho rằng các chức sắc, ngay cả đức giám mục, chức việc của giáo xứ Mỹ Yên bị kích động bởi những người mà họ nói là thế lực phản động trong và ngoài nước, Đức Giám Mục nghĩ sao và trình bày thế nào với công luận?

Đức giám mục Phao lô Nguyễn Thái Hợp: Điều có thể nói lại một lần nữa là dàn dựng và vu khống một cách trắng trợn. Nhưng cũng may hôm nay chúng ta đang ở trong thời đại toàn cầu hóa, trong thời đại thông tin không như mấy thập niên trước đây thành ra dư luận thấy rõ hơn và càng ngày càng thấy rõ hơn sự dàn cảnh. Điều gì cũng có hai mặt cả: nếu dùng vũ lực có thể thắng nhưng rồi nhiều khi có thể chết vì chính vũ lực đó. Gian dối có thể đưa lại thành quả lúc đầu, nhưng trong chiều dài lịch sử ai dùng vũ lực và gian dối phản lại. Chúng tôi vẫn tin tưởng như vậy.

Gia Minh: Thưa Đức giám mục, trong một trả lời phỏng vấn của Đài RFA hồi tuần trước, đức giám mục có nói rằng qua hành xử của chính quyền tỉnh Nghệ An thì cánh cửa đối thoại bị đóng sập lại. Đối thoại là con đường mà giáo hội theo đuổi lâu nay, vậy không lẽ sắp đến đây con đường đối thoại không thể khai thông được?

 

Đức giám mục Phao lô Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi vẫn sẵn sàng chủ trương của Giáo hội là chủ trương đối thoại. Đó cũng là chủ trương của nhân loại hôm nay dù rằng các nước nhiều khi phải dùng biện pháp quân sự; nhưng đó là biện pháp ngắn hạn. Riêng chúng tôi từ phía nạn nhân, chúng tôi không có chủ trương, mà đây Nhà nước ‘bày binh bố trận’, Nhà nước đánh dân, Nhà nước lừa dân. Chúng tôi đứng về phía những người bị nạn, luôn luôn chúng tôi chủ trương đối thoại; nhưng để đối thoại thì đòi hỏi phải đối thoại một cách chân thành thẳng thắn giữa những người nói thật với những người không lươn lẹo. Chúng tôi vẫn chờ đợi những hành động chân thành hơn, khả tín hơn để rồi tiếp tục đối thoại.

Gia Minh: Ông Thái Văn Hằng trong trả lời truyền thông trong nước có trích dẫn phát biểu của Giáo hoàng Bê nê đíc tô thức 16 và Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam trước đây ‘Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc’ ( ý nói giáo dân Mỹ Yên vừa qua không hoàn thành bổn phận công dân); theo Đức Giám mục họ có theo đúng tinh thần của những điều ấy không?

Đức giám mục Phao lô Nguyễn Thái Hợp: Họ trích dẫn bản văn theo cách nhìn của họ; thử hỏi rằng họ có tạo cơ hội để cho người Công giáo đồng thời cũng là người công dân không. Thật sự ra Nhà cầm quyền có tôn trọng những Bản Công ước quốc tế như Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền cũng như những bản tuyên ngôn về vấn đề chính trị mà Nhà cầm quyền đã ký hay không! Có lẽ người đòi hỏi cũng nên đặt tay lên trán để suy nghĩ và có lẽ càng ngày chúng ta càng hiểu rõ hơn. Tôi thấy Đức Giê Su đã nói ‘sự thật sẽ giải phóng các con’. Hiện tại chưa thể làm sáng tỏ hết nhưng vẫn tiếp tục làm sáng tỏ điều đó.

Gia Minh: Chân thành cám ơn Đức Giám mục tiếp tục dành cho Đài cuộc nói chuyện hôm nay.

Đức Thánh Cha gặp gỡ các linh mục Roma

Đức Thánh Cha gặp gỡ các linh mục Roma

ROMA. Trong cuộc gặp gỡ các LM đang làm việc mục vụ trong giáo phận Roma, ĐTC Phanxicô, trong tư cách là GM giáo phận này, nhắc nhở các vị rằng ”sự thánh thiện mạnh mẽ hơn những gương mù gương xấu”.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong hơn 2 tiếng đồng hồ sáng thứ hai, 16-9-2013 qua tại Đền thờ Thánh Gioan Laterano, cũng là nhà thờ chính tòa của giáo phận Roma. Phần đầu, ĐTC trả lời một thư mà ngài nhận được trước đó vài ngày từ một cha sở cao niên, kể lại những vất vả và cơ cực như một mục tử. Ngài nói: ”Lá thư này thật hay và tôi cảm động. Lá thư thật đơn sơ, và vị LM đã trưởng thành, chia sẻ với tôi một trong những cảm tưởng của cha, đó là sự mệt mỏi”.

ĐTC bày tỏ cảm thông với cha sở ấy và nói: kinh nghiệm này là điều không thể tránh được trong cuộc đời linh mục. Khi một LM tiếp xúc với dân, thì sẽ mệt mỏi. Nhưng khi một linh mục không tiếp tục với dân của mình thì cũng mệt mỏi, nhưng đây là một sự mệt mỏi không tốt, và để ngủ thì linh mục ấy cần uống thuốc ngủ.. Dân chúng có rất nhiều nhu cầu, nhưng đó là nhu cầu về Thiên Chúa, làm cho chúng ta thực sự mệt mỏi, nhưng đây là sự mệt mỏi không cần thuốc ngủ để ngủ”.

Trong phần thứ hai, ĐTC trả lời những câu hỏi do 5 LM nêu lên. Họ hỏi ngài về những thách đố mục vụ cụ thể. Cũng như trong nhiều trường hợp khác, ngài khuyến khích các LM làm cho thánh đường và giáo xứ của mình có đặc tính hiếu khách hơn, chọn những giờ thích hợp hơn cho các lớp dự bị hôn nhân.

ĐTC cũng kể lại kinh nghiệm về sự quyên tiền và nói: ”Một linh mục, không phải từ giáo phận tôi, nhưng từ một giáo phận khác, kể lại với tôi: Con không buộc giáo dân phải trả tiền, kể cả việc xin lễ. Con đặt một thùng tiền tại đó và họ bỏ bao nhiêu thì bỏ. Vậy mà con quyền được gần gấp đôi số tiền con quyên trước đây”.

ĐTC cũng nhắn nhủ các LM hãy luôn giữ cho ký ức về thời kỳ đầu trong ơn gọi của mình được luôn sống động, ơn gọi nảy sinh từ lòng yêu mến Chúa Giêsu, ký ức ấy chính là liều thuốc chống lại tinh thần thế tục”.

Ngài cũng trấn an các LM Roma rằng ”Giáo Hội tiếp tục sản xuất các vị thánh, một số vị được nhiều người biết đến như Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta, nhiều người khác ít được nói đến. ĐTC nhắc đến gương của một phụ nữ Tây Ban Nha mới đây đã viết thư cho ngài trên miếng giấy là khăn ăn, kể lại cố gắng của bà làm việc như một nhân viên vệ sinh tại Phi trường Buenos Aires để nâng đỡ đứa con trai nghiệm ma túy. Tôi dám nói rằng Giáo Hội chưa bao giờ tốt đẹp như ngày nay, mặc dù có những gương mù về giáo sĩ lạm dụng tính dục. Tôi chắc chắn rằng Giáo Hội sẽ không sụp đổ. Sự thánh thiện mạnh hơn những vụ xì căng đan” (CNS 16-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo dân Orange mừng tiến triển phong Thánh cố Hồng Y Nguyễn văn Thuận

Giáo dân Orange mừng tiến triển phong Thánh cố Hồng Y Nguyễn văn Thuận

SANTA ANA (NV) – Khoảng 500 giáo dân gốc Việt cùng dự thánh lễ giỗ và mừng hồ sơ chân phước Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã được đóng để chuyển sang giai đoan tiếp theo. Hội trường của Trung Tâm Công Giáo Việt Nam tại Santa Ana không còn một chỗ trống trước 9 giờ sáng Thứ Bảy, 14 Tháng Chín, giờ bắt đầu thánh lễ.
 

 

Buổi lễ do GM Mai Thanh Lương và sáu vị linh mục đồng tế. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Thánh lễ do Giám Mục Mai Thanh Lương, giám mục phụ tá Giáo Phận Orange, chủ tế cùng sáu vị linh mục. Hai nghĩa tử của Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là Linh Mục Nguyễn Đăng Đệ ở Tustin và Linh Mục Nguyễn Lợi ở Washington, DC, cùng có mặt để cử hành nghi thức phụng vụ.

Buổi lễ thêm phần cung kính với nghi thức dâng hương trong tiếng trống chiêng vang đều, đậm nét văn hoá Việt, và với đội ngự lâm quân theo nghi thức Công Giáo cho các lễ đặc biệt quan trọng.

Hồng Y Nguyễn Văn Thuận được cử vào chức vụ tổng giám mục Tổng Giáo Phận Sài Gòn, lãnh đạo giáo hội Việt Nam trong giai đoạn khó khăn nhất năm 1975.  Điều ngài làm thế giới nể phục chính là ý chí và đức tin vững vàng trong 13 năm bị tù Cộng Sản. Năm1994, tại Roma, Ý, Hồng Y Nguyễn Văn Thuận là giáo sĩ Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm vào chức vụ phó chủ tịch, và sau đó là chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hoà Bình.

Thay vì linh mục nghĩa tử của Hồng Y Thuận sẽ giảng thuyết bài giảng chính, Giám Mục Mai Thanh Lương giữ vai trò này. Ông nhắc lại những kỷ niệm có được với Cố Hồng Y Thuận và gửi đến người tham dự thông điệp từ Giám Mục giáo phận Kevin Vann đến cộng đồng Việt  Nam đang cầu nguyện cho vị cố hồng y. Giám Mục Lương gặp Hồng y Thuận khoảng thời gian hồng y đã ra tù Cộng Sản, làm việc tại Vatican.
 

 

Một số vị đại diện cộng đoàn giáo dân Việt Nam thắp hương cầu nguyện. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Trước giờ lễ, ban đại diện cộng đoàn cho chiếu lên màn hình lớn các thước phim quay từ Roma về quá trình phong thánh Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Giáo dân gốc Việt tại Quận Cam có thể thấy được không khí của đồng hương mình vào Tháng Bảy khi nhận được tin hồ sơ chân phước kết thúc và chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tiếp theo.

Các vị trong ban đại diện cộng đồng mặc áo dài truyền thống, phụ nữ lẫn đàn ông. Trống bên phải, chiêng bên trái, và giữa là bàn thờ có bức chân dung lớn của Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Những nén nhang trầm được cung nghiêm thắp lên. Phó chủ tịch ban chấp hành Cộng Đoàn Giáo Dân Việt Nam Giáo Phận Orange gửi lời chào mừng đến tất cả người tham dự.

Các giám mục và linh mục tiến vào cung thánh trong khi đội ngự lâm quân Thuỵ Sĩ xếp thành hai hàng hai bên. Giọng hát, tiếng đàn của dàn đồng ca khoảng 30 người cất lên, chính thức bắt đầu buổi lễ tưởng nhớ  Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.

Mở đầu cho bài giảng hôm đó, Giám Mục Mai Thanh Lương nhắc đến việc vị chủ chăn của giáo phận Orange đã từng đọc hai cuốn sách do Hồng Y Thuận viết. “Không chỉ giáo dân Việt Nam, linh đạo của Đức Hồng Y được loan truyền ra các sắc dân khác.” Giám Mục Lương nói. Pháp, Anh, hay Ý là một số ngôn ngữ mà sách của  Hồng Y Thuận đã được chuyển ngữ.

“Thánh thiện, đơn sơ, khiêm nhường, và sùng kính Đức Mẹ La Vang,” là những ấn tượng mà Giám Mục Lương có về Hồng Y Thuận sau 10 ngày tập huấn tại Roma. Ông cũng kể rằng vị cố hồng y từng mong giáo hội Việt Nam sẽ phát triển và đề cao người nghèo, phụ nữ nhiều hơn.

“Ngài chỉ muốn phục vụ người cùi, nhưng sau đó bị Cộng Sản lừa cho ra khỏi Việt Nam và không được phép về nữa.” Giám Mục Lương nhắc lại lý do cố hồng y từ chức vụ tổng giám mục coi sóc giáo phận lớn nhất Việt Nam lại không thể sống tại quê hương mình mà phải đến Vatican ở đến ngày qua đời.

“Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận là người duy nhất trong cương vị tại  Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hoà Bình đứng ra yêu cầu các nước giàu xoá nợ cho nước nghèo. Cho đến lúc bấy giờ, vẫn chưa có Đức Cha nào làm được điều này. Có lẽ vì tinh thần và đời sống thánh thiện, đơn sơ mà ngài nhanh chóng được trao cho chức vụ Hồng Y.”

Nhắc đến quãng thời gian 13 năm Hồng Y Thuận ở tù Cộng Sản từ 1975 đến 1988, ông nói: “Ngài đã dạy lại tiếng Latin cho người công an cai tù và cảm hoá anh ta theo đạo Công Giáo. Đó là một phép lạ.” Giám mục Lương cũng đề cập đến chiếc thánh giá làm bằng dây kẽm mà Hồng Y Thuận tự làm và đeo theo bên mình đến cuối đời.

Về việc chính quyền Việt Nam gây khó dễ quá trình phong thánh của Hồng Y Thuận, Giám mục Lương nói: “Họ phản đối công khai. Không cho cấp khán chiếu cho người công an kia đi làm chứng để phong thánh. Điều này cũng như thái độ đàn áp của họ đối với giáo dân giáo phận Vinh. Chúng ta hãy hợp tâm cầu nguyện. 'Không có gì là Thiên Chúa không làm được.'”

Bài giảng của ông kết thúc trong tràng pháo tay lớn của hàng trăm người tham dự.

Thánh lễ tưởng niệm tiếp tục với các nghi thức dâng lễ, cầu kinh khác của thánh lễ Công Giáo.

Ông Trọng Nguyễn, cư dân Garden Grove, thành viên của hội Liên Minh Thánh Tâm và giúp điều phối phía ngoài buổi lễ, chia sẻ: “Đây là một trong các sự kiện quan trọng của cộng đoàn giáo dân Việt Nam. Chúng ta đến đây để ca ngợi sự hy sinh và can đảm của Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.” Ông cũng so sánh vị hồng y với các thánh tử đạo năm xưa, hy sinh vì niềm tin tôn giáo trong sự áp bức của chính quyền.

Anh Tony Phạm, cư dân Santa Ana: cho biết: “Hồi nhỏ tôi chỉ biết chút ít về cha Thuận, nhưng sau này thì được nghe danh ngài nhiều hơn. Hôm nay tôi đến để được nghe giảng huấn về các nhân đức của ngài.”

Cả hai vị giáo dân trên cùng có cảm nghĩ chung của rất nhiều giáo dân gốc Việt rằng: “Việc Toà Thánh phong thánh Hồng Y Thuận sẽ là niềm tự hào chung của người Việt Nam.”

Sau thủ tục tuyên phong chân phước, Toà Thánh Vatican sẽ xét đến việc phong Á Thánh, và sau đó là phong Thánh. Nếu Hồng Y Thuận được phong thánh, ông sẽ là người Việt Nam đầu tiên được phong thánh mà không phải là thánh tử đạo.

Thiên An/Người Việt

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Chúa Nhật 15 tháng 9-2013

Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Chúa Nhật 15 tháng 9-2013

VATICAN. Tuy trời mưa, đã có hơn 50 ngàn tín hữu đến dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Phanxicô trưa Chúa Nhật 15-9-2013. Ngài đề cao lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa.

Trong bài huấn dụ ngắn, ngài đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Luca chúa nhật thứ 24 thường niên năm C nói về lòng từ bi và tha thứ của Thiên Chúa. ĐTC nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Trong phụng vụ hôm nay có đọc chương 15 của Tin Mừng theo thánh Luca, chứa đựng 3 dụ ngôn về lòng từ bi thương xót: dụ ngôn con chiên lạc, dụ ngôn đồng tiền bị mất và dụ ngôn dài nhất trong các dụ ngôn, tiêu biểu của thánh Luca, là dụ ngôn người cha và hai người con, người con ”hoang đàng”, và người con tưởng mình là công chính, tưởng mình là thánh. Cả 3 dụ ngôn đều nói về niềm vui của Thiên Chúa: nhưng đâu là niềm vui của Thiên Chúa? Thưa đó là tha thứ, niềm vui của Thiên Chúa là tha thứ! Đó là niềm vui của một mục tử tìm lại được con chiên của mình; niềm vui của một phụ nữ tìm lại được đồng tiền của mình; là niềm vui của một người cha đón nhận lại nơi nhà mình đứa con bị mất, như đã chết và nay được sống lại. Đó là tất cả Tin Mừng, là trọn Kitô giáo! Nhưng anh chị em hãy chú ý, đây không phải là tình cảm, là thái độ ”xuề xòa, cái gì cũng chấp nhận”! Trái lại, lòng từ bi là một sức mạnh thực sự có thể cứu vớt con người và thế giới khỏi bệnh ”ung thư” là tội lỗi, là sự ác luân lý và tinh thần. Chỉ có tình thương mới lấp đầy sự trống rỗng, những vực thẳm tiêu cực mà sự ác khơi lên trong các tâm hồn và trong lịch sử. Chỉ có tình yêu mới có thể làm điều này, đây là niềm vui của Thiên Chúa.

”Chúa Giêsu là tất cả từ bi, là tất cả tình thương: Ngài là Thiên Chúa làm người. Mỗi người chúng ta là con chiên lạc, là đồng tiền bị mất; mỗi người chúng ta là đứa con đã làm hư hỏng tự do của mình khi đi theo những thần tượng giả dối, ảo ảnh hạnh phúc, và đánh mất tất cả. Nhưng Thiên Chúa không quên chúng ta, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Là người Cha kiên nhẫn, luôn chờ đợi chúng ta! Chúa tôn trọng tự do của chúng ta, nhưng Ngài vẫn luôn trung tín, và khi chúng ta trở về cùng Chúa, Ngài đón tiếp chúng ta như những người con trong nhà Ngài, vì Ngài không bao giờ ngừng chờ đợi chúng ta trong tình yêu thương, dù là một giây phút. Con tim của Thiên Chúa mừng rỡ vì mỗi người con trở về. Ngài mở tiệc vì vui mừng! Thiên Chúa có niềm vui này, khi một trong những người tội lỗi như chúng ta đến với Ngài và xin tha thứ.

Vậy đâu là nguy hiểm? Nguy hiểm là chúng ta tự coi mình là người công chính và xét đoán người khác. Chúng ta xét đoán cả Thiên Chúa, vì chúng ta nghĩ rằng Ngài phải trừng phạt những kẻ tội lỗi, lên án tử cho họ, thay vì tha thứ. Và thế là chúng ta có nguy cơ bị ở ngoài nhà Cha! Như người con cả trong dụ ngôn, thay vì hài lòng vì đứa em trở về, anh ta giận dữ với cha vì đã đón tiếp đứa con ấy và mở tiệc ăn mừng. Nếu trong tâm hồn chúng ta không có lòng từ bi, không có niềm vui tha thứ, thì chúng ta không hiệp thông với Thiên Chúa, cho dù chúng ta tuân giữ mọi giới luật, vì chính tình thương cứu thoát, chứ không phải chỉ thực hành các giới luật. Chính lòng mến Chúa yêu người là sự chu toàn mọi giới răn. Đây chính là tình thương của Thiên Chúa, và niềm vui của Ngài: đó là sự tha thứ.

Nếu chúng ta sống theo luật ”mắt đền mắt, răng đền răng”, thì chúng ta không ra khỏi cái vòng sự ác. Ma quỷ là kẻ tinh ranh, hắn đánh lừa làm cho chúng ta tưởng rằng sự công chính phàm nhân của chúng ta có thể cứu thoát chúng ta và thế giới. Trong thực tế, chỉ có sự công chính của Thiên Chúa mới có thể cứu thoát chúng ta! Và sự công chính của Thiên Chúa được biểu lộ trong Thập Giá: Thập Giá là sự phán xét của Thiên Chúa trên tất cả chúng ta và trên thế giới này. Nhưng Thiên Chúa phán xét chúng ta như thế nào? Thưa bằng cách ban sự sống cho chúng ta! Đó là hành vi công chính tột đỉnh đã đánh bại quỷ vương của thế gian này một lần cho tất cả; và hành vi công chính tột đỉnh ấy cũng chính là lòng từ bi. Chúa Giêsu kêu gọi tất cả chúng ta hãy theo con đường ấy: ”Các con hãy có lòng từ bi như Cha các con trên trời là Đấng từ bi” (Lc 6,36).

Đến đây, ĐTC mời gọi tất cả mọi người, trong thinh lặng, hãy nghĩ đến người mà mình không có quan hệ tốt, những người mà chúng ta giận dữ họ, chúng ta không yêu thương họ. Chúng ta hãy nghĩ đến người ấy và trong thinh lặng, trong lúc này đây, cầu nguyện cho họ, và chúng ta trở nên từ bi đối với họ. Rồi ngài mời gọi mọi người: Giờ đâu chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria là Mẹ Từ Bi.

Lễ phong chân phước Brochero

Sau phép lành, ĐTC đã nhắc đến lễ phong Chân Phước hôm thứ bẩy 14 tháng 9 vừa qua và nói rằng:

”Anh chị em thân mến, hôm qua, tại Argentina, đã có lễ phong chân phước cho cha José Gabriel Brochero, linh mục thuộc giáo phận Córdoba, sinh năm 1840 và qua đời năm 1914. Được tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy, cha đã hoàn toàn hiến thân cho đoàn chiên, để mang mọi người vào Nước Thiên Chúa, với lòng từ bi vô biên và lòng nhiệt thành đối với các linh hồn. Cha ở với dân, tìm cách mang bao nhiêu người đi tham dự các cuộc linh thao. Sau cùng cha bị mù và phong cùi, nhưng đầy an vui, niềm vui của một mục tử tốt lành.

Bằng tiếng Tây Ban Nha, ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi muốn chia sẻ niềm vui của Giáo hội tại Argentina vì lễ phong chân phước cho vị mục tử gương mẫu này, Cha cưỡi lừa dong ruỗi không biết mệt mỏi trên những con đường khô cằn trong xứ đạo của cha, đi từng nhà tìm kiếm những người được ủy thác cho cha, để mang họ về với Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Kitô, nhờ lời chuyển cầu của vị tân Chân phước, gia tăng con số các linh mục, biết theo gương cha Brochero, hiến thân phục vụ công cuộc rao giảng Tin Mừng, quì gối trước Đấng chịu đóng đanh, để làm chứng cho các nơi về lòng yêu thương và từ bi của Thiên Chúa.

ĐTC cũng nhắc đến Tuần Lễ xã hội của các tín hữu Công Giáo Italia kết thúc hôm qua (15-9) tại thành Torino về chủ đề ”Gia đình, hy vọng và tương lai của xã hội Italia”. Tham dự Tuần lễ này có 1,300 đại biểu đến từ các nơi ở Italia. Ngài nói:

”Tôi chào thăm tất cả các tham dự viên và vui mừng vì sự dấn thân rất lớn trong Giáo Hội tại Italia cùng với các gia đình và cho các gia đình, và là một khích lệ lớn cho cả các tổc hức và toàn nước nửa. Hãy can đảm lên, hãy tiến bước trên con đường này.

Sau cùng ĐTC đã chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện: các gia đình, các nhóm thuộc các xứ đạo, các bạn trẻ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thương xót

Thương xót

Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ Abraham mời một lữ hành vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc tụng trước khi ăn, người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng, ông không thể chịu nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó Abraham đuổi ngay kẻ phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện Chúa nói với ông: “Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ ban cho ông ta lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta chỉ một bữa cơm sao?”.

Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật hôm nay vốn được mệnh danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và quả thực như vậy, bài Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra một mà tới ba dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày tỏ lòng nhân hậu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.

Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng được con chiên bị lạc, dù chỉ là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông vui mừng vác chiên trên vai, về đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui.

Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của nó chỉ bằng tiền lương của một ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều người trong chúng ta, nhưng nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn quét nhà moi móc tìm kiếm cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.

Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ vui mừng của người mục tử và của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường kinh tế chúng ta thấy thật phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc sống và là bản chất yêu thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị lạc hay đồng bạc bị mất không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng không đặt trong tỉ lệ phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong tương quan của người tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là sự vui mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.

Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha nhân hậu. Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.

Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng ta trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta trở về, và Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong lòng thương xót của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà Ngài là thương gia bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là chúng ta. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.

Veritas Radio

Hãy chia vui với tôi

Hãy chia vui với tôi

Khi nói đến “Con chiên lạc”, có thể bạn, tôi, chúng ta nghĩ ngay đến một số thành phần không mấy tốt đẹp, không mấy đàng hoàng trong Hội Thánh. Có người nghĩ ngay đến những người rối vợ, rối chồng công khai, hoặc nghĩ đến ả giang hồ ở cuối xóm, tên du thử du thực lang thang chè chén tối ngày ở đầu phố. Người khác lại nghĩ đến cụ già đôi ba vợ kia đã đến lúc sắp hết hơi rồi mà chưa chịu xưng tội rước lễ, hoặc nghĩ đến bao người nay ăn nên làm ra rồi, khá giả rồi, ở nhà thoải mái, bỗng trở nên cao ngạo, ươn lười, nguội lạnh với nhà thờ nhà thánh…

Nghĩ như thế là do bởi lòng kiêu ngạo xúi giục tự nhận mình là thánh thiện hơn bao nhiêu người khác và gắn cho mình con mắt, cõi lòng đầy thành kiến xấu xa về tha nhân.

Nghĩ như thế, thì thiết tưởng chính mình là… con chiên lạc trước tiên. Lạc mà không biết mình lạc. Còn lầm lạc hơn nữa, khi tỏ ra bất bình với một số người nhiệt thành trong Hội Thánh Chúa, mặc lấy tấm lòng nhân hậu của Chúa, luôn nghiêng về phía những người đau khổ, tội lỗi, thấp kém.

Nghĩ như thế thì có khác gì người Pharisêu đã từng suy nghĩ và lẩm bẩm về việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”

Cả hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng bạc bị đánh mất” được Chúa nói cho cả hai đối tượng: người Pharisêu và người thu thuế, kẻ tội lỗi.

Đối với người Pharisêu, hai dụ ngôn ấy là một lời cảnh tỉnh trực diện để họ phải nhận ra rằng chính họ mới là “con chiên lạc”, là “đồng bạc bị đánh mất”. Lạc vì họ đang sống kiêu căng, sống thiếu tình khoan dung, yêu thương; lạc vì họ không muốn hiểu đường lối của Chúa, vì không muốn mặc lấy tình thương của Chúa trong con tim mình… Bài học dành cho người Pharisêu là đừng lầm tưởng mình đạo đức, nếu không mặc lấy đức khiêm cung và lòng nhân hậu mà đối xử với tha nhân. Họ cần có cái nhìn mới mẻ hơn đối với người tội lỗi, cái nhìn của Thiên Chúa, cái nhìn của lòng thương xót xoáy vào sâu thẳm hơn, để cảm thông hơn vì bao nỗi bất hạnh, không phải cái nhìn nông cạn bề ngoài để rồi sinh ra ganh tỵ, xét đoán…

Còn đối với người tội lỗi, cả hai dụ ngôn là Lời rất vui mừng cho họ, vì:

– Lời mặc khải cho họ biết một Thiên Chúa vô cùng khiêm cung, và yêu thương. Lòng thương xót, khoan dung, nhân hậu của Ngài luôn luôn lớn hơn tội lỗi, thân phận của họ.

– Lời xoá tan nỗi ám ảnh bị khinh bỉ, phân biệt, có khi còn bị trừng phạt dã man cho đến chết vì luật xua đuổi khỏi cộng đồng, luật ném đá…

– Lời khơi dậy cho họ một niềm hy vọng, mở ra cho họ một con đường sống và nhất là tái lập cho họ một tương quan quí giá đối với Thiên Chúa, tái lập cho họ một nhân vị xứng đáng là con cái Thiên Chúa.

– Và cũng qua hai dụ ngôn, cả người Pharisêu và người tội lỗi có thể nhận ra một điều kỳ diệu là Thiên Chúa luôn đi bước trước đối với những tội nhân.

Đề cập đến bước trước, tôi nhớ câu chuyện về Đức Tin đơn sơ của cụ Biên ở phía sau nhà tôi. Cụ luôn là người khôi hài vui vẻ. Đến lúc gần chết cũng còn vui vẻ. Năm 1979, trong cơn hấp hối, khi nghe một anh Legio giữ kẻ liệt cầm sách mục lục đọc kinh cho cụ, đọc sai chỗ nào, cụ đập nhẹ bàn tay, bảo: “Đọc lại, đọc lại, đọc sai làm sao Chúa hiểu.” Đêm cuối cùng, cụ chỉ cho mọi người biết là cụ đang chết từ dưới chân lên đến giữa lưng rồi. Rồi cụ nói: “Còn nói được mấy câu nữa thôi, cho tôi nói với Chúa. Chúa đã lỡ bước xuống đời rồi, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới đây đưa con về với Chúa. Chúa ơi, con tin.” Rạng sáng hôm ấy, cụ đã về với Chúa.

“Chúa đã lỡ bước xuống, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới.” Câu nói đơn sơ mà cho thấy cả một xác tín. Hôm nay, nghe lại dụ ngôn “Con chiên lạc”, mới ngộ ra là không chỉ Chúa chẳng ngần ngại gì mà không bước tới, mà còn dám bước trước, và bước kiên trì nữa: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”

Vâng đó là một bước trước, và kiên trì “đi tìm cho kỳ được”. Quả là kỳ diệu! Nếu trước đây chưa ai dám tiếp xúc với những người thu thuế tội lỗi, vì sợ nhơ bẩn con người, thanh danh của mình, thì Chúa Giêsu đã bước một bước trước đến với họ.

Hai dụ ngôn hôm nay còn vén màn một chi tiết độc đáo của tình thương Thiên Chúa, đó chính Người đích thân đi tìm con chiên lạc, gọi đích danh, tha thứ vô điều kiện, âu yếm ẵm trong vòng tay, vui mừng vác chiên lên vai, mở tiệc tưng bừng. Thiên Chúa mời mọi người đến chia vui vì “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.

Người ta mở tiệc ăn mừng những dịp cưới hỏi, tân gia, sinh nhật, thi đỗ, thoát nạn… Trong đời tôi, lại được tham dự một bữa tiệc lạ thường. Chuyện là thế này: Giáo xứ tôi có một người tên là T. được rửa tội năm 1972 tại Thủ Đức khi anh lập gia đình với chị N. Anh kể với các anh chị Legio, anh đã giữ đạo sốt sắng hơn 7 năm. Đến năm 1979, anh sa đà đủ món ăn chơi trên trần gian này. Chị N. bỏ anh đi. Anh càng lún sâu vào con đường tội lỗi. Bỏ lễ, bỏ các Bí tích. Năm 1996, anh em Legio thăm và khuyên bảo anh xưng tội, anh nói: “Nhiều quá, làm sao xưng cho hết! Chúa không thể tha một lúc nhiều như vậy đâu!” Sau hơn 3 năm, cha sở và các anh chị Legio kiên trì cầu nguyện cho anh, năm 1999, anh quyết định đi xưng tội. Cha sở F.X. Lê Quang Diễn đã yêu thương lắng nghe anh nói chuyện toà ngoài với ngài hết một buổi sáng và thêm nửa buổi chiều. Chiều hôm đó, anh xưng tội. Ngày hôm sau, anh mở tiệc mừng. Có khoảng 3 bàn tiệc. Anh nói mấy câu trước khi vào tiệc: “Con cảm ơn cha, cảm ơn mọi người, xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA.” Từ đó, anh đổi mới hoàn toàn, thật sốt sắng với Chúa và dễ thương với mọi người. Anh đã qua đời năm 2008. Linh hồn Phaolô.

Mọi người bất ngờ về câu nói của anh: “Xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA.” Thiết tưởng, anh không chỉ cảm nghiệm được niềm vui của mình là được trở về, mà với Đức Tin, anh còn dám cảm nghiệm được “niềm vui của Chúa’, của Chúa Chiên, người đã bỏ chín mươi chín con chiên tốt lành kia trong ràn, mà đi tìm anh, con chiên lạc.

Cảm nghiệm được niềm vui của Chúa phải là người đang sống thông hiệp mật thiết với Chúa lắm, như hai người tình đang kết hợp toàn tâm toàn ý với nhau, và dĩ nhiên, niềm vui không của riêng chỉ một người. Suy tư ấy có thể là suy tư cách rất con người, rất chủ quan thôi. Nhưng rõ ràng, thử hỏi ai trong chúng ta, những người vỗ ngực xưng tên mình là đạo đức, đã có bao giờ có được cái cảm nghiệm “chia vui với Chúa” cách trọn vẹn, nếu không đặt trọn niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, nếu không mặc lấy tình thương xót ấy mà xót thương bao kẻ tội lỗi, khốn cùng.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con Đức Tin vào lòng thương xót của Chúa để biết mình là con chiên lạc được Chúa tìm về, và mặc lấy tình thương ấy mà cộng tác với Chúa, chia vui với Chúa khi có người anh em tìm được hạnh phúc được Chúa thứ tha. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.

1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ

Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.

Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.

Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.

Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.

Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.

Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.

Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.

2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.

Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.

Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.

3. Nét thứ ba của lòn thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.

Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.

Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.

Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.

Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.

Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Kể ra vài nét của lòng thương xót của Chúa.
2. Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất của tình yêu?
3. Cảm nhận được tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. bạn có coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

SỰ THA THỨ

SỰ THA THỨ

Thánh Patrick sinh khoảng năm 400 ở một chỗ nào đó dọc theo bờ biển phía tây của nước Tô Cách Lan hoặc nước Anh.

Trong cuốn Tự Thú, người cho biết gia đình của người là Công Giáo gốc. Nhưng trong thời niên thiếu, người đã từ bỏ Thiên Chúa.

Nói cách khác, người đối xử với Thiên Chúa giống như người con hoang đàng đối xử với cha mình trong bài Phúc Âm hôm nay.

Trong thời gian khoảng 16 tuổi, Patrick bị hải tặc bắt, đưa sang Ái Nhĩ Lan, và bị bán làm nô lệ.

Ở Ái Nhĩ Lan, người mất nhiều thời gian để chăm sóc các đàn chiên – giống như người con hoang đàng chăm sóc đàn heo.

Khi sống cuộc đời khổ cực, Patrick mới bắt đầu nhận thấy thật tuyệt vọng là chừng nào nếu không có Thiên Chúa.

Cũng như người con hoang đàng trong Phúc Âm, Patrick từ từ có ý thức và ăn năn sám hối tội lỗi của mình. Những gì xảy ra sau đó được người diễn tả trong cuốn Tự Thú. Người viết:

Thiên Chúa đã an ủi tôi như người cha an ủi đứa con… Và khi tình yêu của tôi dành cho Thiên Chúa ngày càng gia tăng… thì hoạt động của Chúa Thánh Thần trong tôi cũng vậy.

Được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, Patrick bắt đầu dành nhiều thời giờ khi chăm sóc đàn chiên để học cách cầu nguyện. Người viết:

Ngay cả khi tôi ngủ đêm ở triền núi hay trong rừng rậm để ở với đàn súc vật, tôi thường thức dậy sớm để cầu nguyện với Thiên Chúa.

Dù mưa hay tuyết lạnh giá, tôi không bị sao nhãng vì sức mạnh tinh thần của tôi rất mạnh mẽ.

Sau sáu năm nô lệ, Patrick tìm cách trốn thoát trên một chiếc ghe và về nhà. Sau cùng người đến Âu Châu và trở thành một linh mục và sau đó làm giám mục.

Một thời gian sau, Đức GM Patrick trở về Ái Nhĩ Lan rao giảng Phúc Âm cho chính những người mà trước đây đã bắt người làm nô lệ.

Câu chuyện của Thánh Patrick và người con hoang đàng không chỉ giống ở chi tiết nhưng còn giống ở hai điểm quan trọng của hai người.

Trước hết, cả hai cho chúng ta thấy Thiên Chúa rất muốn tha thứ cho chúng ta khi chúng ta có ý thức và muốn trở về với Người sau khi phạm tội.

Không những thế, hai người còn cho chúng ta thấy, khi trở lại với Chúa, Người sẵn sàng đối xử với chúng ta như chưa bao giờ chúng ta xa cách Người.

Điểm thứ hai của câu chuyện là khi một người tội lỗi trở về với Thiên Chúa, Người không chỉ đón nhận nhưng còn mời gọi họ hãy loan truyền tin mừng cho người khác về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Thánh Patrick trở về Ái Nhĩ Lan để rao giảng tin mừng này. Người thật thích hợp để thi hành điều này, bởi vì người đã sống giữa người Ái Nhĩ Lan và biết họ rất rõ.

Điều này rất có ý nghĩa với mỗi người chúng ta trong nhà thờ này. Chúng ta có thể áp dụng thế nào câu chuyện của Thánh Patrick và người con hoang đàng vào đời sống riêng tư của mỗi người?

Hoặc nói cách khác, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua hai câu chuyện này?

Với cá nhân tôi, các câu chuyện này nói với tôi hai điều.

Thứ nhất, Thiên Chúa không bao giờ ngừng tha thứ cho chúng ta khi chúng ta sám hối và trở về với Người. Thiên Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta, không chỉ bẩy lần, nhưng bẩy mươi lần bẩy—như Chúa Giêsu đã dậy.

Thứ hai, hai câu chuyện này cho thấy hiển nhiên rằng vì Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta một cách độ lượng, Người cũng muốn chúng ta tha thứ cho người khác giống như vậy.

Có câu chuyện của TT Lincoln thật thích hợp ở đây.

Có người hỏi ông là ông sẽ đối xử thế nào với người phương Nam sau khi cuộc Nội Chiến chấm dứt. Ông trả lời, “Tôi sẽ đối xử với họ như thể chưa bao giờ họ rời bỏ mái nhà.”

Đó là cách mà Thiên Chúa đối xử với Patrick. Đó là cách người cha đối xử với người con hoang đàng trong dụ ngôn. Đó là cách Thiên Chúa đối xử với chúng ta.

Và đó là cách Đức Giêsu đối xử với ông Phêrô khi ông chối bỏ Người. Đức Giêsu đã phục hồi ông Phêrô về tình trạng cũ, là “đá” mà trên đó Người sẽ xây hội thánh của Người.

Đức Giêsu đã có thể nói rằng, “Phêrô, như anh biết, Thầy có những kế hoạch lớn cho anh, nhưng anh đã phản bội Thầy. Phêrô, Thầy sẽ tha thứ cho anh, nhưng anh sẽ phải đảm nhận công việc kém hơn.”

Nhưng Đức Giêsu đã không nói như vậy. Người đối xử với ông Phêrô như thể chưa bao giờ ông từ bỏ mái nhà.

Đây cũng là cách mà chúng ta phải đối xử với người tội lỗi sám hối. Chúng ta phải đối xử với họ như thể chưa bao giờ họ từ bỏ mái nhà.

Chúng ta phải tha thứ cho họ và đưa họ trở về tâm hồn chúng ta theo cách mà Đức Giêsu đã tha thứ cho chúng ta và đưa chúng ta trở về với tâm hồn của Người.

Và nếu chúng ta thi hành như vậy, chúng ta có thể tin chắc rằng vào lúc cuối đời khi đến cửa thiên đường, Thiên Chúa sẽ đón mừng chúng ta trở về nhà giống như người cha trong Phúc Âm đón mừng đứa con trở về.

Chúng ta hãy kết thúc như khi bắt đầu. Chúng ta hãy chú ý đến cuộc đời của Thánh Patrick. Trong cuốn Tự Thú, Thánh Patrick giúp chúng ta thấy được điều gì đã thay đổi cuộc đời người một cách quyết liệt, từ một người tội lỗi trở nên một vị thánh.

Đó chính là quyết định tự học cách cầu nguyện và biến sự cầu nguyện trở nên đời sống hàng ngày. Qua sự cầu nguyện hàng ngày, người đã ý thức sâu đậm về sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời.

Và kết quả của nhận thức này là một suy tư đơn sơ nhưng thâm trầm. Người đã thuộc lòng và lập đi lập lại trong ngày. Một phần của suy tư đó viết như sau:

Thật tuyệt diệu chừng nào khi tôi đắm chìm trong sự hiện diện của Thiên Chúa:
Đức Kitô ở với tôi,
Đức Kitô ở trước tôi,
Đức Kitô ở sau tôi,
Đức Kitô ở trong tôi, Đức Kitô ở dưới tôi,
Đức Kitô ở trên tôi,
Đức Kitô ở bên phải của tôi,
Đức Kitô ở bên trái của tôi…

Đức Kitô ở trong tâm hồn của bất cứ ai nghĩ đến tôi,
Đức Kitô ở trong miệng của bất cứ ai nói đến tôi,
Đức Kitô ở trong mắt của bất cứ ai nhìn đến tôi,
Đức Kitô ở trong tai của bất cứ ai nghe tôi nói.

LM Mark Link

YÊU THƯƠNG TUYỆT VỜI

YÊU THƯƠNG TUYỆT VỜI

Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương nhân loại, nên đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu xuống trần gian để đem hạnh phúc cho con người và để nói lên trọn vẹn tình yêu cao vời của Chúa Giêsu qua cái chết trên thập giá.chính vì thế, khi Chúa Giêsu tiếp đón những người thấp cổ bé họng, những người thu thuế, những người tội lỗi thì các Kinh sư, Pharisêu lẩm bẩm kêu trách Người. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp họ nhưng Ngài đã dùng ba dụ ngôn để dạy họ và dạy mọi người.Dụ ngôn: Con Chiên Lạc, Đồng Bạc Đánh Mất và Người con Hoang Đàng, ba dụ ngôn này nói lên lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu đối với các tội nhân biết hối cải ăn năn.

Đối với những người Pharisêu, Kinh sư và Biệt phái người tội lỗi là người đáng khinh chê, là người phải đẩy ra bên lề xã hội, không được tiếp xúc, không được lại gần họ.Quan niệm như vậy, những Kinh sư, Pharisêu và Biệt phái luôn rình mò để bắt bẻ Chúa Giêsu.Họ coi những kẻ tội lỗi là nọc độc, là ghê tởm. Còn đối với Chúa Giêsu tuy chống đối tội lỗi, nhưng lại xót thương kẻ có tội. Bởi vì Ngài đến để tìm những gì đã mất. Chúa luôn để cơ hội cho tội nhân có dịp quay trở lại với Ngài. Con người dù thế nào đi nữa vẫn có cơ may trở lại với Chúa và Ngài luôn dành chỗ cho họ nơi trái tim vẹn sạch của Ngài. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu, ba mươi năm sống ở làng Nagiarét và ba năm đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã luôn gần gũi mọi lớp người, Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi. Nên, khi thấy Chúa Giêsu xót thương những người tội lỗi, những người cơ cực, khó nghèo, Ngài đã bị Kinh sư và Pharisêu chống đối khi thấy Chúa dùng cơm tại nhà ông Lêvi, một người dưới mắt họ là kẻ tội lỗi. Khi dùng bữa với những người tội lỗi theo quan điểm, theo cách nghĩ của họ, Chúa Giêsu đã bị họ ghen ghét và tìm cách mưu hại họ. Ba dụ ngôn ngày hôm nay là tiếng nói yêu thương cho nhân loại, cho con người thấy sáng kiến của Thiên Chúa : Ngài luôn yêu thương tội nhân, Ngài đi tìm họ và mời họ quay trở về, và hưởng nếm niềm vui.

Vâng, tội lỗi là điều đáng khinh bỉ, đáng xa tránh. Nhưng những ai lầm lỡ phạm tội, nếu biết quay gót trở về, nếu biết ăn năn sám hối, chắc chắn Chúa sẽ yêu thương tha thứ. Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ như người chăn chiên bỏ chín mươi chín con chiên để tìm con chiên lạc, như người đàn bà đánh mất đồng bạc, đốt đèn, quét tìm và khi tìm được đồng bạc đánh mất đã làm tiệc mời bạn bè chia vui với mình, như người trộm lành được Chúa yêu thương tha thứ. Tuyệt đỉnh của yêu thương là tha thứ. Cái chết trên thập giá là tuyệt đỉnh của yêu thương. Chết mới nói lên tất cả : “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Trên thập giá dù đau đớn, dù bị khinh khi, phỉ nhổ, Chúa Giêsu vẫn một lòng yêu thương, tha thứ : “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Lời này nói lên lòng nhân hậu, cao thượng tuyệt đối của Chúa Giêsu.

Con người luôn nhận được sự tha thứ của Chúa khi con người thật lòng sám hối ăn năn. Người trộm lành suốt cuộc đời tội lỗi nhưng trong giây phút ông đã nhận ra tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ. Chúa đã tha thứ cho ông và đưa ông vào Nước Thiên Chúa. Ông đại đội trưởng dù chưa là con Chúa, nhưng ông đã biết nhận uy quyền của Chúa và nhận ra mình là yếu hèn, là thua chúa, nên ông đã đươc Chúa chữa lành cho người đầy tớ của ông. Người con hoang đàng trở về thật lòng ăn năn, sám hối, nên anh đã nhận được tình thương tha thứ của người cha.

Là Thiên Chúa, Ngài đã tha thứ cho chúng ta dẫu tội lỗi chúng ta tầy trời. Chúa đã tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta… Chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúng ta chỉ dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi chúng ta nhận ra thân phận yếu hèn, tội lỗi của chúng ta. Người ta dễ nhìn ra cái rác trong mắt người khác mà không nhận ra cái sà trong mắt của mình. Xem ra tự tha thứ cho ta thì dễ dàng hơn tha thứ cho kẻ khác. Tuy nhiên, có nhận ra lỗi lầm của mình, con người mới dễ dàng cảm thông với tội lỗi, với khuyết điểm của kẻ khác. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn yêu thương mọi người và không bao giờ bỏ rơi ai. Ngài yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô điều kiện, tình yêu tuyệt vời. Do đó, trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng không được nản lòng, thất vọng, hãy tín thác vào Chúa, hãy đặt tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con không bao giờ nản chán giữa cuộc đời đầy chông gai thử thách và xin cho chúng con luôn biết tín thác vào tình yêu tha thứ của Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta điều gì?
2. Tại sao Kinh sư, Biệt phái và Pharisêu lại chống đối Chúa Giêsu?
3. Thiên Chúa là Đấng nào?

LM Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

“HÃY CHIA VUI VỚI TÔI”

“HÃY CHIA VUI VỚI TÔI”

Trong ba dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc và vác chiên lên vai rồi về nhà mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đồng bạc mất cũng mời lối xóm đến chia vui; người cha có đưa con đi hoang trở về liền mở tiệc ăn mừng.

Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

Chúa Giêsu bày tỏ niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, “trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải“; ở dụ ngôn thứ hai “các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải“; và ở dụ ngôn thứ ba “phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy“.

Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.

Hôm nay xin suy niệm về dụ ngôn thứ ba. “Dụ ngôn đứa con hoang đàng” được gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính là người cha.

Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.

Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.

1. Người con thứ

Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.

Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.

Động lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây ! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.

Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn ? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao ? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.

Đọc câu chuyện, tôi nhận thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa; mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.

2. Người con cả

Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “ không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.

Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.

Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.

Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.

3. Người cha

Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!

Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.

Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.

Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.

Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.

Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Ngài. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. Niềm vui đức tin là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.

Hãy chia vui với tôi”, Thiên Chúa vui mừng khi con người sống thân mật với Ngài trong tình cha con.

Hãy chia vui với tôi”, đó cũng là lời mời gọi mỗi kitô hữu chia sẻ niềm vui đức tin với anh em mình trong cuộc sống hàng ngày.

LM Giuse Nguyễn hữu An

ĐỨC THÁNH CHA NHẬN QUÀ CỦA MỘT CHA SỞ

ĐỨC THÁNH CHA NHẬN QUÀ CỦA MỘT CHA SỞ.

Hôm Thứ bảy Đức Bergoglio đã được ghi hình khi đang bước vào một chiếc Renault 4 do một linh mục quản xứ ở thành phố Verona, Ý trao tặng.

Popemobile Renault 4

Tấm hình cũng được phổ biến giống như tấm hình nổi tiếng chụp Đức Thánh Cha đang lên máy bay để bay đến Rio de Janeiro tay mang xách hành lý của mình. Chiều thứ bảy vừa qua (7-9) Đức Phanxicô được chụp hình khi đang bước vào một chiếc Renault 4 cũ màu trắng. Một chiếc popemobile (xe của giáo hoàng) đơn sơ khác của Đức Thánh Cha chăng? Tờ tuần báo Công giáo Famiglia Cristiana tiết lộ cho biết tại sao cảnh chụp Đức Bergoglio đang bước vào chiếc Renault được bấm máy.

Hôm Thứ bảy Đức Bergoglio đã được ghi hình khi đang bước vào một chiếc Renault 4 do một linh mục quản xứ ở thành phố Verona, Ý trao tặng.

Tấm hình cũng được phổ biến giống như tấm hình nổi tiếng chụp Đức Thánh Cha đang lên máy bay để bay đến Rio de Janeiro tay mang xách hành lý của mình. Chiều thứ bảy vừa qua (7-9) Đức Phanxicô được chụp hình khi đang bước vào một chiếc Renault 4 cũ màu trắng. Một chiếc popemobile (xe của giáo hoàng) đơn sơ khác của Đức Thánh Cha chăng? Tờ tuần báo Công giáo Famiglia Cristiana tiết lộ cho biết tại sao cảnh chụp Đức Bergoglio đang bước vào chiếc Renault được bấm máy.

Chiếc xe trong câu chuyện là một chiếc Renault 4 đời 1984, với bảng số đăng ký Ý Verona 779684. Tờ tạp chí viết, “Điều tuyệt vời là chiếc xe đó có lịch sử của những cuộc hành trình từ thiện dài 300 ngàn km trên đồng hồ”. Chiếc xe đó của cha Renzo Zooca, linh mục quản xứ họ Thánh Lucia thành Pescantina ở thành phố Verona miền Bắc Ý. “Nó đang nằm trong một ga-ra trông có vẻ hơi chợt vẹt, dầu vậy vị linh mục cũng đã cho nó được kiểm tra lại và được đăng ký như là một chiếc xe đời cũ”. Cha Renzo, người sẽ được 70 tuổi vào tháng 11 nầy, đã phục vụ với tư cách cha sở của một giáo xứ vùng ngoại vi, vị sáng lập của hợp tác xã Àncora Ý, cung cấp việc làm và sự giúp đỡ cho nhiều người dân. Vùng ngoại vi của ngài là khu ngoại ô của giới lao động của Saval ở Verona, ngài làm cha sở ở đó trong suốt thập niên 80.”

Cha Renzo đã đấu tranh không vũ khí chống lại những kẻ buôn bán ma túy đang hủy hoại đời sống của các thành viên trẻ tuổi trong đoàn chiên của ngài và họ đã gởi tới ngài những lời hăm dọa giết hại. Nhưng ngài vẫn tiếp tục, ngay cả khi đã bị chúng đâm bằng dao. “Tôi đã muốn là một hiện thân của khu chung cư trong giáo xứ ngoại vi đó, nó là cuộc sống của tôi: tôi đã sống 25 năm ở đó. Anh tôi và tôi đã sống trong căn nhà 9 tầng: tôi thường nói đùa rằng nhà xứ của tôi cao nhất trên toàn nước Ý.” Người ta tặng cho ngài Chiếc Renault 4 màu trắng. “Cha Renzo dùng chiếc xe 800 phân khối, 30 ngựa ít tốn xăng đó, với cần tay ga 4 số gần tay lái và các chổ ngồi như ghế bàn giấy, để lên xuống vùng ngoại ô, cũng như thăm viếng các khu vực ngoài giáo xứ của ngài: những cuộc cắm trại mùa hè của trường, những cuộc diễn thuyết, các trung tâm đón tiếp, thung lũng Aosta, Dolomites, Roma, v.v… Cuối cùng ngài có được 300 ngàn km trên đồng hồ” và ngài không bao giờ để nó chạy trên đường nữa…

Cha Zocca đã viết thư cho Đức Phanxicô để chia sẻ kinh nghiệm và tặng ngài một món quà: chiếc Renault 4. Đức Thánh Cha đã gọi điện cho vị linh mục lúc 10 giở 19 phút sáng 10 tháng 8. Các ngài nói chuyện về nhiệm vụ ở các khu ngoại vi một lúc. “Tôi nói với ngài tôi muốn ngài nhận chiếc xe đó. ‘Cha có chắc không?’ Ngài hỏi. ‘Có thật là cha muốn tặng tôi chiếc xe đó không? Có lẽ cha nên cho người nghèo thì thì tốt hơn chăng?’ Tôi nói với ngài chiếc xe đó đã làm rất nhiều việc cho người nghèo và nay đã đến lúc nó đến với Đức Thánh Cha và trong lúc cao hứng tôi đã lên tiếng mà không có ý gì. Ngài hỏi tôi ‘Cha có chiếc xe khác chưa?’ Khi tôi nói đã có một chiếc xe mới, Đức Thánh Cha đã đồng ý. Chúng tôi đồng thuận là tôi sẽ chuyển giao chiếc Renault cho ngài vào ngày Thứ bảy 7-9, ngày canh thức cho hòa bình ở Syria.”

Chiếc Renault 4 đã được đại tu và sáng bóng rất đẹp được chở tới Vatican trên một chiếc xe cần cẩu, cha Renzo và 100 khách hành hương cùng đi, họ di chuyển bằng xe buýt. Vì lý do an ninh, chỉ có 50 bổn đạo trong xứ được cho phép vào Vatican để hiện diện lúc chiếc xe được trao cho Đức Thánh Cha. Nhưng cha Renzo đã nói với Đức Phanxicô về 50 người đang chờ đợi ở bên ngoài. Đức Thánh Cha nói “Chúng ta hãy đi thôi!”. “Bốn người trong chúng tôi bước lên xe: Tôi ngồi lái, Đức Thánh Cha ở ghế hành khách kế bên và Teephanô, thợ máy cùng Luigi trợ lý của tôi ngồi ở ghế sau. Teephanô nói ‘Đi chậm thôi, chúng ta đang ở trong thành Vatican!’ Đồng hồ tốc độ chỉ 30 km/ giờ. Tôi không thể nói với bạn 50 tín hữu trong giáo xứ đã xúc động thế nào khi nhìn thấy chiếc Renault 4 tiến đến và Đức Thánh Cha bước ra ngoài.”

XT (theo Vaticaninsider) – Xuân Bích VN