THÁNH LỄ BẾ MẠC ĐẠI HỘI – THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

THÁNH LỄ BẾ MẠC ĐẠI HỘI
THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

“Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” Chúa Nhật 20/10”

SONY DSC


“Cuộc gặp gỡ nào thì cũng có lúc phải chia tay, cuộc vui nào thì cũng có lúc phải chấm dứt”, câu nói trong bài giảng thánh lễ Bế Mạc năm ngoái (2012) của Đức Cha Vũ Văn Thiên như vẫn còn lảng vảng trong tâm trí tôi. Thật đúng như vậy, ba ngày Đại Hội qua thật mau, mọi người đều cảm nhận sự ngọt ngào và tràn đầy ân huệ khi đến với Mẹ La Vang để được tắm gội trong ơn thánh ba ngày Đại Hội. Chúng ta còn cảm nhận sự liên đới trong tình đồng hương, tình gia đình Giáo Hội và tình bằng hữu đã quen lâu hay mới quen khi mới chỉ gặp gỡ nhau trong ba ngày Đại Hội đã vội chia tay với địa chỉ, số phone hay email của nhau để lại có hy vọng gặp gỡ nhau vào những dịp hội ngộ, tao phùng bên Mẹ La Vang.

Mới 8:00 a.m. giáo dân đã tụ họp quanh Linh Đài như lời mời gọi hôm qua của hai MC. Cha Quang và thầy Hưởng để cùng tham dự thánh lễ Bế Mạc Đại Hội do Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh chủ tế và thuyết giảng, đông đảo quí linh mục đồng tế. Đúng 9:30 a.m. một hồi chiêng trống nổi lên linh thiêng để bắt đầu thánh lễ, ca đoàn cất lời ca nhập lễ: “Chung Lời Cảm Tạ” của nhạc sĩ Nguyễn Duy: “Trong hân hoan chúng con về đây, mang tin yêu mơ ước nồng say, cùng hợp tiếng ca tạ ơn Chúa lời thiết tha”. Nằm trong chủ đề Đại Hội năm nay: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” nên những lời ca, tiếng hát hay dâng lời cầu nguyện đều hàm chứa lời cảm tạ Hồng Ân Thiên Chúa tuôn đổ qua Mẹ La Vang để có thành quả hôm nay qua 10 năm Thánh hiến.

Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Las Vegas kỳ VICourtesy Photo Reporter William Nguyen

Trong bài giảng thánh lễ Bế Mạc, Đức Cha Oanh chia sẻ: “Chúng ta đang sống trong năm Đức Tin và chỉ còn ít ngày nữa là kết thúc, cùng Mẹ Maria chúng ta hãy lên đường đi loan báo Tin Mừng như lời Thánh Phaolô, thư gửi cho ông Timôthê: ‘Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện’(TM 3:14-4,2). Sau lời dặn dò chí thân, chí thiết, hãy sống những lời học hỏi từ nhỏ, lời của Thiên Chúa. Ngài nhắc lại các lời của Chúa phán: ‘Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em’, ‘Anh em ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.’”

Đến đây ngài kể câu chuyện truyền giáo của Người Dân Tộc là hình ảnh cụ thể mà ngài mục kích, họ nghe radio nói về Đấng Christ và họ đi bộ hàng bao cây số tìm đến linh mục để học hỏi biết về Đấng Christ. Khi về họ loan truyền cho nhau và bị cấm đoán, bắt giữ. Nhưng cả buôn Dân Tộc xúm lại tương trợ và cuối cùng họ cùng quay về với Chúa. Hay việc hôm nay tôi nghe biết như một thói quen tốt đẹp là tr ước khi ra về kết thúc thánh lễ Bế Mạc, mỗi người tự động xếp lại ghế mình ngồi, không để rác rơi rớt, vì không muốn làm phiền người khác, hoặc góp phần một chút với bao người hy sinh đến đây giúp tổ chức Đại Hội.

Chúng ta hãy loan báo Tin Mừng bằng lời cầu nguyện, bằng gương sang và lời rao giảng. Đó là mệnh lệnh truyền của Thiên Chúa để chúng ta thể hiện một đại gia đình nơi có Chúa Giêsu Kitô, Ngài luôn yêu thương chúng ta. Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt vời, Mẹ sẽ giúp chúng ta, vì Mẹ đã ra đi loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy noi gương Mẹ, hãy ra đi như Mẹ, hãy lên đường cùng Mẹ khởi đầu cuộc hành trình mới. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng, xin Mẹ Maria hướng dẫn phụ giúp chúng ta….

Sau thánh lễ là phép lành của Đức Thánh Cha Phanxicô ban cho tất cả những ai tham dự Đại Hội Thánh Mẫu La Vang tại Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas trong ba ngày 18,19,20 tháng 10 năm 2013. Phép lành này do Đức Cha Hoàng Đức Oanh đại diện và là chủ sự đọc, ban phép lành cho mọi khách hành Hương đến tham dự Đại Hội với Mẹ La Vang tại Linh Địa Mẹ tại Las Vegas.

Sau đó là nghi thức bế mạc, anh Đại Diện JB. Trần Xuân Huân lên cám ơn sự hiện diện của quí Đức Cha, quí linh mục và quí tu sĩ nam nữ cùng quí ân, thân nhân và khách hành hương khắp nơi đã vì lòng yêu mến Chúa, sùng kính Mẹ La Vang và mến thương Cộng Đoàn sum họp về đây để cùng chung vai tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Kỳ VI. Anh mong mỏi Đại Hội năm tới cũng sẽ gặp lại những khuôn mặt thân thương hôm nay. Anh kính chúc quí Đức Cha, quí cha và quí tu sĩ thượng lộ bình an và mang theo về tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa qua Mẹ La Vang chuyển cầu. Dứt lời cám ơn của anh Đại Diện, hàng ngàn bong bóng nước được phun lên quanh tháp chuông Đền Thánh. Năm nay để tri ân những người có công khai phá buổi ban đầu Đền Thánh, nên cha Giám Đốc và anh Đại Diện mời những người này lên trên Linh Đài, mỗi người được phát một con chim bồ câu để thả lên như ý nói nhờ những người đi trước khai phá để những người đến sau được thừa hưởng tiện nghi thanh bình an lạc của Đền Thánh Mẹ và hướng về quê hương cầu nguyện cho đất nước được tự do tôn giáo, nhân quyền và độc lập dân tộc. Có tất cả 30 chim câu, Đức Cha Oanh, cha Sáng Lập, cha Giám Đốc mỗi người thả một con, số còn lại dành cho những người có công khai phá buổi ban đầu. Chim thả bay lên và lượn vòng quanh Đền Thánh như không muốn dời xa trong tiếng vỗ tay của mọi người. Sau đó cha Quang gửi lời cám ơn đến quí Đức Cha, linh mục, tu sĩ nam nữ, các đoàn thể, mọi ân thân nhân và các gian hàng đã góp phần v ào việc tổ chức Đại Hội. Ngài lưu ý mọi người hướng nhìn về Linh Đài để ngài giới thiệu logo Đại Hội năm tới: “Cùng Mẹ Sống Ánh Sáng Đức Tin” sẽ diễn ra trong 3 ngày 24,25,26 tháng 10, 2014. Ban kỹ thuật cuốn logo cũ và logo mới từ từ hiện ra qua tiếng vỗ tay reo hò của khách hành hương.

Kết lễ, ca đoàn hát bài: “Mẹ Ở Con Về” của nhạc sĩ Khang Phong, bài ca réo rắt, gieo nhiều nhớ thương với Mẹ La Vang đối với khách hành hương, khiến nhiều người rưng rưng ngấn lệ: “Mẹ ở con về, Mẹ La Vang ơi, Mẹ ở con về, lòng con thương nhớ…Mẹ ở con về, nhớ thương trăm bề, Mẹ nghỉ con đi!”. Lời ca làm chùn bước bao khách hành hương lưỡng lự nửa ở nửa về trong luyến nhớ.

Từng chiếc xe bus nối đuôi nhau đậu dài trước cổng Đền Thánh, từ từ đón khách hành Hương ra đi với lời từ giã cùng những cánh tay vẫy chào trong luyến nhớ, mong hẹn ngày tái ngộ./.

Bế Mạc Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Las Vegas tháng 10/2013
Phan Văn SỹTrích từ Thánh Mẫu La Vang Las Vegas

ĐẠI HỘI THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

 ĐẠI HỘI THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

“Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa”
Thứ Bảy 19/10, Ngày Thứ Hai Của Đại Hội.

19oct013

Đến hẹn lại lên theo lời mời gọi của hai MC: cha Quang và thầy Hưởng, mới tờ mờ sáng, trời còn ôm cuộn cái lạnh của mùa Thu tháng 10, nhiệt độ khoảng 65 F, giáo dân đã tuôn đổ về Đền Thánh sau một đêm nghỉ ngơi tại các khách sạn quanh Đền Thánh hay tại các Casino đã có giá ủng hộ cho khách hành Hương về tham dự Đại Hội theo yêu cầu của Ban Tổ Chức Đại Hội đã thương lượng trước với các cơ sở này.

7:00 a.m. Khởi đầu giờ chầu Thánh Thể tại thánh đường La Vang Las Vegas do cha Phêrô Chu Quang Minh, Sáng Lập Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình kiêm Phó Tổng Linh Hướng Đạo Binh Hồn Nhỏ Việt Nam Hải Ngoại hướng dẫn. Các anh chị em trong CTTTHN/GĐ và Hội Hồn Nhỏ đã tề tựu cùng khách hành Hương trong thánh đường. Chủ đề cho buổi chầu hôm nay là: “Bí Tích Tình Yêu”. Thật thế, Bí Tích Thánh Thể là tình yêu Chúa đã hiến tặng cho nhân loại để nuôi sống con cái Ngài nơi trần thế đang dong duổi trên đường hướng về quê vĩnh cửu. Phần chia sẻ Phúc Âm, cha Minh đã chia sẻ đoạn Lời Chúa theo thánh Gioan “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau…” (Gioan 13:33-35). Sau giờ chầu thật trang nghiêm, thật sốt sắng để phạt tạ Chúa về những lỗi phạm, những thiếu xót, để dâng lên Chúa một ngày mới thứ hai của Đại Hội, và để cảm tạ Chúa qua một ngày Đại Hội an lành và một đêm nghỉ ngơi bình yên.

8:00 a.m. Thánh lễ cầu nguyện cho bệnh nhân và chữa lành cho khánh hành hương tham dự Đại Hội tại Linh Đài do linh mục Joachim Lê Quang Hiền chủ tế, cha Phêrô Hoàng Văn Thi thuyết giảng sau phần Lời Chúa, trong bài giảng thánh lễ chữa lành, cha Thi kể câu chuyện cổ tích vui giữa ông phú hộ và thằng Bờm. Phú hộ giàu có nhưng luôn sống trong tâm trạng bất an, còn thằng Bờm nghèo nhưng luôn sống an vui, niềm vui đơn sơ giản dị, chất phát. Đối với nó chỉ có nắm xôi, cái quạt mo là nó có niềm vui “Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười!”. Có nắm xôi Bờm cười sung sướng, hãnh diện, nụ cười đầy đủ tròn trịa, không muốn tiền bạc nhiều nó chi phối đời sống đơn sơ bình dị của nó. Vì thế của cải thường ám ảnh lòng trí con người.

Là người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi chịu đau khổ, chịu vác Thánh Giá như Chúa đã đi trước, đã vác Thánh Giá. Đời sống con người theo triết thuyết Khổng Giáo xa xưa được chi phối bởi: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Biết như vậy, có người vui long nhận đau khổ, có người gặp đau khổ thì than trách. Tất cả chúng ta đến đây đều đi bao dặm đường để được xin ơn chữa lành bệnh tật cùng bao nguyện ước khác muốn dâng lên Mẹ để Mẹ chuyển cầu xin Chúa chữa lành. Nếu được như ý thì tốt đẹp, nếu không được ta có biết đó là thánh ý Chúa không? Ta phải hiểu ý Chúa theo ba ý:
1- Yes, được vì ý con đẹp lòng Ta, Chúa ban ơn.
2- No, không được vì điều con xin, không lợi ích cho linh hồn con.
3- Not Yet, chưa được, Ta nghĩ con chưa sẵn sang đón nhận con ta.
Chúa luôn sẵn sang đáp trả lời ước nguyện xin của chúng ta. Cái quan trọng là chúng ta có nhận ra những ơn ấy không? Nếu chúng ta không nhạy bén, không nhận ra, nhiều khi Chúa muốn để chúng ta gặp khó khan để chúng ta nhận ra thánh ý Ngài, đối với Ngài: “Với Chúa không có gì là không có thể”. Mt 8:14-17 “Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta”…
Sau lời chia sẻ của cha Thi, giáo dân lần lượt sắp hàng lên Linh Đài để được vị chủ tế và các linh mục đồng tế xức dầu chữa lành. Tiếp theo sau thánh lễ là cuộc xổ số hào hứng trước khi nghỉ giải lao để giáo dân vào các hội trường hầu chuẩn bị nghe thuyết giảng.

9:15 a.m. Cha Martino Nguyễn Bá Thông qua đề tài: “Tạ Ơn Chúa Trong Đau Khổ”, cha Thông có lối giảng thuyết dí dỏm, linh hoạt, vui tươi nhưng rất thực tế và thật đánh động tâm hồn mọi người nên số giáo dân tham dự rất đông, chật ních cả hội trưởng, cha Thông cho xem vài bức hình minh họa để nói lên lời khuyên răn con cái đối với cha mẹ là đầu mối của những xung đột trong gia đình, minh họa số một: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”; minh họa số hai: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ cũng là đi tu”.

a. Cha mẹ đối với con cái: Ngài nói đến Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên đền thờ theo luật người Do Thái: Mười hai tuổi ở Do Thái thời đó được coi như trưởng thành, tự mình dâng của lễ. Vì trưởng thành nên Chúa ngồi nói chuyện với các nhà Luật Sĩ. Khi Thánh Giuse và Đức Mẹ tìm thấy Chúa, Mẹ Maria trách khéo, thì Chúa nói: “Đây là công việc của con phải làm”, muốn nói lên sự tự do của con cái khi đến tuổi trưởng thành vì vậy:
1- Cha mẹ cần tôn trọng con cái.
2- Cha mẹ phải biết lắng nghe.
3- Thăm hỏi việc yêu thương, hòa nhã, nói xây dựng trước mặt không quát mắng tra hỏi hằn học.
4- Đừng so sánh con mình với con hang xóm làm chúng mất tự tin.
5- Kiên nhẫn với con cái như gương Mẹ Maria, đừng chửi phủ đầu.
6- Tạo tình thương cho con thấy không cần nói.
7- Tập cầu nguyện với con cái trong gia đình.

b. Con cái đối với cha mẹ:
1- Chấp nhận lắng nghe lời bố mẹ khuyên.
2- Đặt mình vào cái chân của bố mẹ, có nghĩa là hy sinh, tự thu mình bé nhỏ như luôn cần đến cha mẹ.
3- Tạo niềm tin nơi bố mẹ, tránh nói dối.
4- Phải có giờ cho cha mẹ thay cho giờ chơi games hay nhắn tin trên điện thoại.
5- Tạo niềm vui cho cha mẹ ở tuổi già.
Vậy đừng sợ sự thật, đừng sợ sửa chữa, ngã bao nhiêu lần cũng cố đứng dậy như Chúa vác Thánh Giá té xuống, Ngài đứng dậy hay nhờ ông Simon vác đỡ Thánh Giá. Hãy cầu nguyện, nhờ Chúa biến đổi, và chỉ có Chúa mới thay đổi được ta. Vì Người có quyền tạo dựng, thì Người cũng có quyền thay đổi. Hãy dâng cho Chúa để xin Chúa thay đổi chúng ta hầu gia đình chúng ta thành gia đình noi gương Thánh Gia Thất. Và nhất là luôn tạ ơn Chúa dù gặp hoàn cảnh nào, vì hoàn cảnh nào đưa đến cũng không ngoài thánh ý Chúa muốn tạo điều kiện để có lợi ích cho sự sống linh hồn chúng ta.

10:45 a.m. Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám Mục Địa Phận Kontum tiếp tục chia sẻ đề tài: “Cùng Mẹ Tạ Ơn Chúa”, ngài nói về những biến cố cuộc đời xảy đến cho chúng ta như biến cố 54, biến cố 75 sợ mà chạy qua Mỹ và các nước khác, sợ mà chạy vào Nam. Chính nhờ những khó khăn như cái dằm đâm vào như để nhắc nhở cho chúng ta phải đi đúng đường chúa muốn ta đi. Nhìn ra mới thấy sự kỳ diệu của việc Chúa làm. Nay những nơi này vùng Dân Tộc, 20 năm về trước chỉ có 5 hay 7 người theo đạo, nay lên đến 4 hay 5 ngàn người theo đạo.
Nhiều khi có những điều mình xin không được như ý thì ngã lòng, không đến sinh hoạt với cộng đoàn.

Chúng ta đang sống trong năm đức tin, sứ mạng của chúng ta là được sai đi và phải cố gắng giữ 3 điều.
1- Một đức tin.
2- Một giới luật.
3- Một lệnh truyền
Sau đề tài do Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh chia sẻ, mọi người nghỉ ngơi ăn trưa, để chiều tiếp tục tham dự thêm những đề tài lợi ích cho đời sống đạo hầu làm hành trang cho mỗi người khi quay về với nếp sống gia đình hầu tiếp nối đời sống đức tin thêm trọn hảo.

01:15 p.m. Cha Martino Nguyễn Bá Thông, tuy đã mang hết tâm huyết để chia sẻ đề tài: “Tạ Ơn Chúa Trong Đau Khổ”, nhưng được nhiều người yêu cầu và muốn được nghe cha thuyết giảng thêm nên ngài lại hy sinh tiếp tục trình bày thêm đề tài: “Tạ Ơn Chúa Trong Đời Sống Đạo”. Những ý chính qua phần thuyết trình đề tài của cha Thông: Tình dục và tiền bạc trong đời sống hôn nhân rất quan trọng, nó ảnh hưởng rất nhiều đến hạnh phúc gia đình.

Ít tiền hay nhiều tiền đều dễ gây sứt mẻ đời sống gia đình nếu chúng ta không biết tính toán chi tiêu hợp lý.

Về tình dục cần biết hòa hợp, trao đổi, nói chuyện. tình dục rất quan trọng trong đời sống hôn nhân, và xác thịt luôn là một phần của đời sống hôn nhân…đời sống đích thực là trở nên một như lời Chúa phán…đời sống vợ chồng cần luôn có Chúa. Cần cầu nguyện chung – thì hạnh phúc gia đình được bền vững.

03:00 p.m. là giờ: “Tạ Ơn Lòng Chúa Thương Xót” do cha Phaolô Phạm Quang Cường chủ sự và hướng dẫn, kèm theo là ban phát ơn Hòa Giải. Tất cả các linh mục đã ngồi vây quanh khuôn viên bên 14 Chặng Đàng Thánh Giá để cùng ban Phép Hòa Giải cho mọi giáo dân hành Hương xa gần về tham dự Đại Hội.

Sau giây phút Hòa Giải, nghỉ ngơi, ăn tối, mọi người sẵn sàng cho giờ văn nghệ để tâm hồn được thoải mái sau những giờ phút căng thẳng ngồi nghe những đề tài liên tiếp từ sáng đến giờ. Buổi văn nghệ hôm nay mang nhiều nét đặc biệt đi theo nội dung của chủ đề: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” để nói lên lòng cảm tạ tình thương vô biên của Chúa qua Mẹ La Vang chuyển cầu để Cộng Đoàn có ngày hôm nay được thừa hưởng ngôi Đền Thánh khang trang, hầu có thể đón tiếp đông đảo con cái Mẹ từ khắp nơi về tham dự Đại Hội. Do đó buổi văn nghệ lấy chủ đề: “Tạ Ơn Chúa 10 Năm Thánh Hiến Đền Thánh”. Trong chương trình văn nghệ có những ca khúc như: Hợp ca “Khúc Cảm Tạ” do chị Tuyền phụ trách, hay “Bên Dòng Thời Gian”, nói lên những giai đoạn từ ngày khởi đầu xây dựng và phát triển Đền Thánh, Thánh Hiến và nối tiếp đến nay. Bài ca: “Trong Tình Yêu” do chị Thủy Phạm dàn dựng nói lên qua tình yêu Chúa và chỉ có tình yêu Chúa mới vượt thắng ba thù và cùng nhau siết chặt vòng tay cùng xây dựng Cộng Đoàn Mẹ La Vang. Sau đó hai bài vũ “Here I Am Lord” do 8 em trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể do Sơ Quyên đạo diễn và 8 em khác cũng trong Đoàn TNTT do Sơ Ngọc đạo diễn qua vũ khúc: “Tạ Ơn Chúa Với Mẹ”, nhìn các em vũ mọi người thật vui với lối diễn xuất ngây thơ nhưng chân thật của các em. Kết thúc buổi văn nghệ, Lm. ca sĩ Đồng Minh Quang song ca với ca sĩ Liêu Trinh bài; “Bao La Tình Chúa” để ngợi khen bao kỳ công Chúa đã ban xuống cho Cộng Đoàn Mẹ La vang và khách hành Hương trong mười năm qua.

7:30 p.m. Rước kiệu trọng thể kính Đức Mẹ La Vang. Đường rước kiệu của các Hội Đoàn và giáo dân tham dự năm nay đi đông hơn, sắp hàng rộng hơn và đường kiệu kéo dài hơn, lời ca thắm thiết sau những chục kinh Mân Côi vang rộng hơn xa hơn trên không trung để dâng lời chúc tụng ngợi khen Mẹ, cảm tạ Mẹ La Vang trong Tháng Mân Côi vì những ơn huệ Mẹ đã luôn luôn tuôn đổ xuống cho mọi giáo hữu về đây hành Hương kính viếng Mẹ. Mấy câu thơ nồng thắm của một giáo dân vẫn còn vang vọng ở Linh Địa La Vang Las Vegas đã đi vào ký ức mọi người đến tham dự Đại Hội:

“Lòng kính Mẹ, hay muốn cầu xin Mẹ,
Con tìm về với Đại Hội La Vang.…
“Sa Mạc Tình Yêu!” như áng mây chiều,
Che bớt nắng cho đời con …bão lửa!” (TBT).

Kiệu hoa năm nay thật rực rỡ với ánh đèn, với khói bay lên nghi ngút và luồng nước chảy từ Thập Giá Tình Yêu đổ xuống quanh xe hoa như luồng thác ân sủng Mẹ tuôn xuống qua Chúa. Mọi người trầm trồ khen ngợi công trình kiệu hoa năm nay do các anh Hùng, Đài, Thái và kỹ thuật phối trí, trang trí hoa, cây cảnh của chị Thy thật tuyệt vời, thật nghệ thuật, đã trang trí đúng ý của Lm. Nghệ sĩ Đồng Minh Quang phác họa ra logo hình cho xe hoa Đại Hội năm nay qua chủ đề: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa”. Cám ơn những hy sinh đóng góp thật công phu của các tay nghề đã liên tục làm việc trong mấy tháng trời nay để có một xe hoa thật tuyệt vời khó có xe hoa nào sánh nổi.

Sau buổi rước kiệu trọng thể, sốt sắng, trang nghiêm và linh thánh là thánh lễ do Đức Cha Joseph A. Pepe, Giám Mục Giáo Phận Las Vegas chủ tế, cha Tổng Quản Bob Stoeckig thuyết giảng sau phần Phúc Âm, ngài nói: “Tôi rất hân hạnh được đến tham dự Đại Hội Thánh Mẫu La Vang kỷ niệm 10 năm tạ ơn ngày Thánh Hiến. Cộng Đoàn Mẹ La Vang đây đã đóng góp rất nhiều trong việc phát huy và duy trì đời sống đạo trong Giáo Phận Las Vegas, mặc dù bên cuộc sống bận rộn, nhiều những biến cố, thử thách khó khăn. Chúng ta cần luôn cảm tạ chúa dù qua bao nhiêu biến cố. Biết ơn là điều phải đạo đối với người thụ ơn. Thói thường người biết ơn thì ít, vô ơn thì nhiều.

Chúng ta học hỏi lòng biết ơn của Chúa Giêsu như là một bài ca cảm tạ vì bất cứ biến cố nào Chúa Giêsu cũng nhớ cảm tạ Đức Chúa Cha. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mọi người. Xin Đức Mẹ Maria chuyển lời để chúng con luôn biết tạ ơn Chúa và những ai làm ơn cho chúng ta…”

Sau thánh lễ, kết thúc ngày thứ hai của Đại Hội trong an bình và linh thánh. MC. cha Quang và thầy Hưởng chào hẹn gặp mọi người vào ngày mai trong thánh lễ bế mạc, ngài mời gọi và nhắc nhở mọi người đừng quên hiện diện trong thánh lễ bế mạc để nhận lãnh phép lành toàn xá của Đức Thánh Cha Phanxicô và hy vọng nhận lãnh lô độc đắc của vé xổ số cuối cùng.

Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Las Vegas Tháng 10/2013

Joseph Phan văn Sỹ – Trích từ Thánh Mẫu La Vang Las Vegas

Cầu nguyện

Cầu nguyện

Đây là một dụ ngôn dễ hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai tình ảnh trái ngược. Một bên là bà goá nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan toà bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà goá, cầu nguyện luôn không được nản chí. Bà goá nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4 thái độ sau:

1. Thái độ khiêm nhường. Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ nghèo hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khoẻ để chống lại người ác. Không người bênh vực chống lại bất công. Không có cả tiền bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả. Chẳng còn gì. Chẳng có gì. Nói gương bà, khi cầu nguyện ta phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo nàn yếu đuối, biết mình chỉ là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã cùng đường, không còn nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực không thể thoát khỏi hoàn cảnh bi đát này.

2. Thái độ phó thác. Bà goá này không còn nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan toà như lối thoát duy nhất. Bà đặt niềm tin vào ông quan toà. Đó là niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng. Bà bám víu lấy ông quan toà. Bà phó thác vận mạng trong tay ông quan toà. Sự sống của bà ở nơi ông quan toà. Cũng thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh cho Chúa. Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta. Hơn nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa con bé nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng Chúa sẽ sắp xếp cho ta những gì tốt đẹp nhất.

3. Thái độ kiên trì. Chỉ còn một con đường duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng. Thất bại không làm bà nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc. Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế, khi cầu nguyện ta hãy kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác trong tay Chúa. Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng thương ta.

4. Thái độ khao khát. Bà khao khát vì đó là con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không ngồi đó chờ đợi. Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao khát đó. Bà không chán nản an nghỉ. Nhưng bà làm việc liên lỉ cho ước nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu nguyện ta phải có lòng khao khát cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ trong hành động. Ta không ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động. Không lùi bước trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng khao khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng với nỗ lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.

Chiêm ngắm tấm gương của bà goá, ta nhận thấy rất nhiều khi ta chưa cầu nguyện cho đủ. Chưa thực hiện sự khiêm nhường nhận biết sự thực về mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận mệnh trong tay Chúa. Chưa biết kiên trì đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức ta tích cực làm hết sức mình cho nguyện ước đó. Hôm nay với bài học của Chúa, ta sẽ biết cầu nguyện hơn. Khi biết cầu nguyện hơn, chắc chắn lời cầu nguyện của ta sẽ đẹp lòng Chúa và đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn ta hơn.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Kể ra những thái độ của bà goá mà ta cần noi theo khi cầu nguyện.
2. Đối với bạn Chúa là gì? Có phải là nguồn hy vọng duy nhất? Hay chỉ là một chỗ cậy nhờ như những chỗ khác?
3. Bạn có phấn đấu làm việc cho ước nguyện của mình không? Hay bạn chỉ ngồi chờ Thiên Chúa ban tặng?
4. Trong 4 thái độ cần có, bạn thiếu thái độ nào nhất?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

CHÚA GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆN

CHÚA GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆN

Theo tục lệ của người Do thái, Chúa Giêsu cầu nguyện một ngày 3 lần: buổi sáng khi mặt trời mọc, buổi chiều vào lúc cử hành hy tế trong đền thờ Giêrusalem (3giờ chiều) và ban tối khi màn đêm buông xuống. Trước và sau bữa ăn còn có những lời kinh tạ ơn. Các giờ cầu nguyện đó là thói quen hàng ngày của bất cứ người Do thái đạo đức nào. Nhưng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu còn có một cái gì đó vượt cao hơn mô hình truyền thống Do thái.

1. Chúa Giêsu cầu nguyện

Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Ga Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.

Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.

Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21).

Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).

Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42).

Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.

Chiêm ngắm Chúa Giêsu cầu nguyện, ta có thể hiểu rằng:

– Tư thế cầu nguyện rất linh động: có thể quỳ, có thể đứng, có thể ngồi… Ánh mắt ngước lên trời cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Cha trong cõi vô biên, hoặc nhắm mắt lại để cho hồn xoáy vào vô biên ấy.

– Nội dung cầu nguyện là ngỏ bày tâm tình của mình cho Chúa Cha. Tâm tình có khi là ngợi khen, chúc tụng, cảm tạ, có khi là thống hối, cầu xin. Luôn luôn kết thúc bằng hai ý nguyện: xin đừng theo ý con mà là theo ý Cha và con xin phó thác hồn con trong tay Cha.

– Nơi chốn cầu nguyện có thể là một nơi thanh vắng (Lc 5,16), trên núi (Lc 6,12;9,28), mà cũng có thể là nơi chỗ đông người (Ga 12,28).

– Thời gian cầu nguyện là bất cứ lúc nào, nhưng tốt nhất là sáng sớm tinh mơ hay lúc đêm về.

– Đỉnh cao của cầu nguyện chính là “xin đừng theo ý con mà theo ý Cha”.

2. Chúa Giêsu dạy cầu nguyện

Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.

Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy về sự cần thiết và hiệu nghiệm của lời cầu xin. Phải cầu nguyện liên lỉ, đừng bao giờ nhàm chán, đừng ngã lòng. Chúa dùng Dụ ngôn minh hoạ, ông quan toà bất lương gặp bà goá kêu nài.

Bà góa cô thân cô thế nhưng lại kiên trì cương quyết, bà tin chắc cứ kêu nài, cứ van xin, thế nào quan tòa cũng chịu xét xử. Quan tòa là người chẳng sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng cũng chịu thua bà góa. Ông minh xử cho bà goá không phải vì yêu thương, chẳng phải vì trách nhiệm mà là vì sợ bị quấy rầy. Một quan tòa vô đạo, bất công mà còn xét xử cho người van xin thì huống là Thiên Chúa, Đấng công minh chính trực, thưởng phạt công bằng, Đấng giàu lòng xót thương, luôn bênh đỡ những kẻ bé mọn kêu cầu Ngài!

Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý nói phải cầu xin thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhậm lời, nhưng Người muốn chúng ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, bởi vì “Có người cha nào, khi con mình xin cái bánh mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,9-11).

3. Sự cần thiết của đời sống cầu nguyện

Sống lời Chúa Giêsu dạy, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu cầu nguyện liên tục, không ngừng, ngày đêm. Ngài nói lên sự cần thiết của cầu nguyện bằng những lời tâm tình mời gọi: “Hãy chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12,12); “Anh em hãy bền đỗ cầu nguyện, tỉnh thức cầu nguyện và tạ ơn” (Co 14,2), “Đừng ngớt cầu nguyện” (1Thes 5,7; Rm 8,26-27).

Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết, tối quan trọng, là một vấn đề sinh tử. Thánh Gioan Kim Khẩu so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu cá bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên cần phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu việt không khác nào cá phải chết vì không có nước.

Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ thành tiều tuỵ, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, linh hồn ta sẽ chết đi trước mặt Chúa.

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của người Kitô hữu. Một đức tin không có cầu nguyện thì chỉ là một niềm tin vô ngã, vật chất.

Cầu nguyện là lẽ sống. Lời cầu nguyện có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động.

4. Đỉnh cao cầu nguyện

Phần đông người tín hữu chúng ta ít khi biết cầu nguyện trong thinh lặng. Hễ cầu nguyện là chỉ biết đọc kinh. Đọc kinh ở nhà thờ, đọc kinh ở nhà. Có khi đọc kinh nhiều mà cầu nguyện chẳng bao nhiêu. Nhưng phút giây thinh lặng là những phút giây quan trọng để lắng nghe Chúa nói. Đỉnh cao của cầu nguyện là thinh lặng kính thờ Chúa.

Cầu nguyện không phải là vấn đề của kiến thức hay kỹ thuật. Cầu nguyện luôn đi đôi với đức tin và lòng mến. Vì thế phải cầu nguyện trong Thánh Thần (Rm 8,1), đơn sơ (Lc 18,15-17), khiếm tốn (Lc 18,14), trong thầm kín (Mt 6,6).

Khi cầu nguyện tâm trí được nâng lên cùng Thiên Chúa hầu suy tôn, tán tụng, cảm mến, tạ tội, xin ơn. Trình độ cầu nguyện cao nhất là : xin đừng theo ý con mà theo ý Cha.

Trong một thế giới ồn ào náo động như hiện nay, một thế giới bị ô nhiễm về môi sinh và bị ô nhiễm về tinh thần, người Kitô hữu phải là chứng nhân cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện vì muốn nên giống Chúa Giêsu, Đấng hằng cầu nguyện liên lỉ với Cha và dạy chúng ta cách thức cầu nguyện.

Lạy Chúa Giêsu, chiêm ngắm Chúa cầu nguyện, lắng nghe Chúa dạy cầu nguyện, chúng con nhận thấy đời sống cầu nguyện thật cần thiết cho đời tâm linh. Xin cho chúng con luôn yêu mến đời sống cầu nguyện; xin cho chúng con xác tín rằng, tự sức riêng, chúng con không làm được gì cả, nhưng với ơn Chúa, chúng con làm được nhiều điều tốt lành trong cuộc sống hàng ngày. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh lễ và nghi thức phó thác cho Đức Mẹ Fatima do Đức Thánh Cha cử hành

Thánh lễ và nghi thức phó thác cho Đức Mẹ Fatima do Đức Thánh Cha cử hành

Our Lady Fatima at Rome

VATICAN. 200 ngàn tín hữu đã tham dự thánh lễ ĐTC Phanxicô cử hành sáng ngày 13 tháng 10-2013 với nghi thức phó thác cho Đức Mẹ Fatima vào cuối thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Lúc 8 giờ sáng, Tượng Đức Mẹ Fatima nguyên bản đã được trực thăng của không lực Italia chở từ Đền Thánh Đức Mẹ Tình Yêu Thiên Chúa (Divino Amore) từ ngoại ô Roma, nơi diễn ra buổi canh thức suốt đêm, về Vatican, và sau đó được rước ra Quảng trường Thánh Phêrô, trong khi chờ đợi thánh lễ ĐTC cử hành từ lúc 10 giờ rưỡi. Giống như chiều thứ bẩy hôm trước, Tượng Đức Mẹ đã được rước qua các lối đi để các tín hữu chào kính.

Thánh lễ sáng hôm qua là cao điểm trong hai Ngày Thánh Mẫu được tổ chức tại Roma trong khuôn khổ Năm Đức tin. Các tín hữu hiện diện tại Quảng trường, tràn ra đến gần cuối đường Hòa Giải, trong số này có 48 phái đoàn chính thức đại diện các Hội đoàn Thánh Mẫu tại 48 nước trên thế giới, kể cả một số nước ở xa như Australia, Ấn độ, Argentina, Nhật Bản, Hoa Kỳ và nhiều nước Nam Mỹ. Đồng tế với ĐTC có hơn 1 ngàn LM và một số GM trong áo lễ màu xanh lá cây.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng Thánh Lễ, dựa vào các bài đọc của chúa nhật thứ 28 thường niên năm C, ĐTC nêu bật tấm gương của Mẹ Maria để cho Chúa làm kinh ngạc, trung thành với Chúa và xác tín Chúa là sức mạnh của chúng ta. Ngài nói:

”Hãy hát mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện những việc diệu kỳ” (Tv 97,1).

Ngày hôm nay chúng ta đứng trước một trong những điều kỳ diệu của Chúa: đó là Đức Maria! Một thụ tạo khiêm hạ và yếu đuối như chúng ta, được chọn để làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Tạo Hóa.

Chính khi nhìn Mẹ Maria, dưới ánh sáng các bài đọc chúng ta đã nghe, tôi muốn cùng với anh chị em suy tư về 3 thực tại: Thiên Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên, Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trung thành, Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta.

1. Thứ I: Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên. Sự tích Naaman, tư lệnh quân đội của vua Aram, thật là đặc biệt; để được khỏi bệnh phong cùi, ông ngỏ lời với vị Ngôn Sứ của Thiên Chúa là Eliseo, nhưng Người không làm những nghi thức ma thuật, cũng chẳng yêu cầu ông tướng những điều ngoại thường, nhưng chỉ tín thác với Thiên Chúa và dìm mình trong nước sông; nhưng không phải là những sông cả của thành Damasco, mà là dòng sông Giordan bé nhỏ. Đó là một lời yêu cầu làm cho tướng Naaman ngỡ ngàng, kinh ngạc; phải chăng Thiên Chúa có thể là vị yêu cầu những chuyện đơn giản như vậy sao? Ông muốn trở lui, nhưng rồi ông cũng đi dìm mình trong sông Giordan và tức thì ông được lành mạnh. Ta thấy Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên; chính trong sự nghèo hèn, yếu đuối, khiêm hạ mà Chúa tỏ mình ra và ban cho chúng ta tình yêu cứu độ của Ngài, chữa lành và ban sức mạnh cho chúng ta. Chúa chỉ yêu cầu chúng ta ngheo lời và tín thác nơi Ngài.

Đó là kinh nghiệm của Đức Trinh Nữ Maria: trước lời loan báo của Thiên Thần, Trinh Nữ không giấu sự ngạc nhiên. Đó là sự ngỡ ngàng khi thấy rằng Thiên Chúa, để làm người, đã chọn một thiếu nữ tầm thường ở Nazareth, không sống trong các dinh thự của những người quyền thế và giàu sang, không thi hành những công trình ngoại thường, nhưng cởi mở đối với Thiên Chúa, biết tín thác nơi Ngài, cho dù không hiểu tất cả: ”Này tôi là tôi tớ Chúa: xin xảy đến cho tôi theo lời Sứ Thần” (Lc 1,38). Đó là câu trả lời của Người. Thiên Chúa luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên, Ngài phá vỡ những khung nền của chúng ta, làm cho những dự phóng của chúng ta bị khủng hoảng, và Chúa nói với chúng ta: con hãy tín thác nơi Cha, đừng sợ, hãy để cho con được ngạc nhiên, hãy ra khỏi chính mình và theo Cha!

Hôm nay tất cả chúng ta cũng hãy tự hỏi xem mình có sợ điều mà Thiên Chúa có thể yêu cầu chúng ta hoặc điều mà chúng ta xin Chúa hay không. Tôi có để cho Chúa làm cho ngạc nhiên, như Chúa đã làm với Mẹ Maria hay không, hoặc tôi khép kín mình trong những điều an toàn của tôi, an toàn vật chất, an toàn trí thức, an toàn ý thức hệ, an toàn các dự phóng của tôi? Tôi có để cho Chúa thực sự đi vào trong cuộc sống của tôi hay không? Tôi trả lời Chúa như thế nào?

2. Trong đoạn thư thánh Phaolô chúng ta đã nghe, thánh Tông Đồ ngỏ lời với môn đệ Timôthêo và nói rằng: ”con hãy nhớ Chúa Giêsu Kitô, nếu chúng ta kiên trì với Ngài, chúng ta sẽ được cùng Ngài hiển trị” (Xc 2 Tm 2,8-13). Và đây là điểm thứ hai: hãy luôn nhớ đến Chúa Kitô, kiên trì trong đức tin: Thiên Chúa làm cho chúng ta ngạc nhiên bằng tình thương của Ngài, nhưng Chúa yêu cầu chúng ta hãy trung thành theo Ngài. Chúng ta có thể ”không trung thành”, nhưng Chúa thì không, Chúa là Đấng Trung Thành, và Ngài yêu cầu chúng ta hãy trung thành như vậy. Chúng ta hãy nghĩ đến bao nhiêu lần chúng ta hăng hái phấn khởi vì một điều gì, vì một sáng kiến, một sự dấn thân nào đó, nhưng rồi, trước những vấn đề đầu tiên xảy ra, chúng ta tháo lui. Và rất tiếc là điều này cũng xảy ra trong những chọn lựa cơ bản như hôn phối. Người ta khó kiên trì bền chí, khó trung thành với những quyết định đã đề ra, với những cam kết đã quyết tâm. Nói ”xin vâng”, ”đồng ý' thì dễ, nhưng rồi người ta không lập lại được quyết tâm đồng thuận như vậy.

Mẹ Maria đã thưa ”xin vâng” với Thiên Chúa, một lời ”xin vâng” đã đảo lộn cuộc sống khiêm hạ của Mẹ ở Nazareth, nhưng không phải là lời thưa 'xin vâng' duy nhất, nhưng đó là lời đầu tiên trong bao nhiêu lời thưa 'xin vâng' được xướng lên trong tâm hồn những lúc vui tươi, cũng nhưng trong những lúc đau khổ, bao nhiêu lời thưa ”xin vâng đạt tới đột đỉnh trong lời “xin vâng' dưới cây Thập Giá. Hôm nay, ở đây có bao nhiêu bà mẹ; chị em hãy nghĩ đến lòng trungthành của Mẹ Maria với Thiên Chúa tới mức độ nào: khi thấy Con duy nhất của Mẹ trên Thập Giá. Mẹ là phụ nữ trung thành, đứng đó, lòng tan nát, nhưng trung thành và can đảm.

Tôi có phải là một Kitô hữu tùy lúc hay là một Kitô hữu luôn luôn? Nền văn hóa tạm bợ, tương đối, cũng lẻn vào cuộc sống đức tin. Thiên Chúa yêu cầu chúng ta trung thành với Ngài, mỗi ngày, trong những hoạt động thường nhật và Ngài thêm rằng cả khi chúng ta không trung thành với Chúa, Chúa vẫn luôn trung thành, và với lòng từ bi, Ngài không ngừng giơ tay cho chúng ta để nâng chúng ta dậy, khuyến khích chúng ta hãy tiếp tục hành trình, trở về cùng Ngài và thưa với Ngài về sự yếu đuối để Ngài ban sức mạnh cho chúng ta.

3. Điểm sau cùng: Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta. Tôi nghĩ đến 10 người phong cùi trong Phúc Âm được Chúa Giêsu chữa lành: họ đến gặp Ngài, dừng lại từ xa xa và kêu lên: ”Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con!” (Lc 17,13). Họ là những người bệnh, đang cần được thương yêu, được sức mạnh và tìm kiếm người chữa trị họ. Và Chúa Giêsu đáp lại, giải thoát tất cả khỏi bệnh tật của họ. Nhưng thật là điều ngạc nhiên khi thấy chỉ có một người trở lại để lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và cảm tạ Chúa. Chính Chúa Giêsu nhận xét điều đó: 10 người đã kêu lớn tiếng để được chữa lành và chỉ có một người trở lại để kêu lớn tiếng cảm tạ Thiên Chúa và nhìn nhận rằng Chúa là sức mạnh của chúng ta. Biết cảm tạ, chúc tụng vì những gì Chúa làm cho chúng ta.

”Chúng ta hãy nhìn Mẹ Maria: sau khi được truyền tin, cử chỉ đầu tiên Mẹ thực hiện là cử chỉ bác ái đối với bà chị họ cao niên Elisabeth; và những lời đầu tiên Mẹ nói lên là: ”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, bài ca chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa, không những vì điều Chúa đã làm nơi Mẹ, nhưng vì hoạt động của Chúa trong toàn thể lịch sử cứu độ. Tất cả là hồng ân; Nếu chúng ta có thể hiểu tất cả là hồng ân của Chúa, thì tâm hồn chúng ta sẽ được hạnh phúc dường nào! Tất cả là hồng ân.

Chúa chính là sức mạnh của chúng ta! Cảm tạ thật là điều dễ dàng, nhưng cũng rất khó khăn! Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn trong gia đình? Đó là một trong những lời chủ yếu của cuộc sống chung. ”Xin phép”, ”xin lỗi”, ”cám ơn”: nếu trong một gia đình, có 3 lời ấy được người ta nói lên, thì gia đình tiếp tục tiến bước. Bao nhiêu lần chúng ta nói cám ơn người giúp đỡ chúng ta, người ở gần chúng ta, tháp tùng chúng ta trong cuộc sống. Nhiều khi chúng ta coi đó là điều dĩ nhiên! Và điều này cũng xảy ra đối với Thiên Chúa.

”Tiếp tục Thánh Lễ, chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng ta để cho mình được Thiên Chúa làm ngạc nhiên, không kháng cự, trung thành với Chúa hằng ngày, chúc tụng và cảm tạ Chúa vì Ngài là sức mạnh của chúng ta.

Nghi thức phó thác

Cuối thánh lễ, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, cũng là trưởng ban tổ chức đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC.

Rồi ĐTC tiến đến trước Tượng Đức Mẹ Fatima và đọc kinh phó thác:

”Lạy Đức Trinh Nữ Fatima diễm phúc, với lòng biết ơn được đổi mới vì sự hiện diện từ mẫu của Mẹ, chúng con hợp tiếng với tất cả mọi thế hệ đã chúc tụng Mẹ là người diễm phúc.

Nơi Mẹ chúng con ngợi khen những công trình bao la của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ mệt mỏi, từ bi cúi mình trên nhân loại sầu muộn vì sự ác và tổn thương vì tội lỗi, để chữa lành và cứu vớt loài người!

Xin Mẹ vui lòng đón nhận hành động phó thác mà hôm nay, với lòng tin tưởng chúng con thực hiện trước ảnh tượng này của Mẹ mà chúng con rất quí mến.

Chúng con chắc chắn rằng mỗi người chúng con đều quí giá trước mắt Mẹ và không điều gì trong tâm hồn chúng con xa lạ đối với Mẹ. Chúng con để cái nhìn rất dịu dàng của Mẹ đi tới chúng con và đón nhận sự âu yếm an ủi qua nụ cười của Mẹ.

Xin Mẹ giữ gìn cuộc sống của chúng con trong vòng tay của Mẹ: xin chúc phúc và củng cố mọi ước muốn làm điều thiện; xin khơi dậy và nuôi dưỡng đức tin, nâng đỡ và soi sáng đức cậy, khích động và linh hoạt đức ái; xin Mẹ hướng dẫn tất cả chúng con trên con đường thánh thiện.

Xin dạy chúng con tình yêu thương của Mẹ ưu tiên dành cho những người bé nhỏ nghèo hèn, những người bị loại trừ và đau khổ, các tội nhân và những người có tâm hồn lạc hướng, xin tập họp tất cả dưới sự che chở của Mẹ và giao phó tất cả cho Con Yêu Dấu của Mẹ là Chúa Giêsu của chúng con. Amen

Sau kinh phó thác ĐTC xông hương trước tượng Đức Mẹ. Trước khi đọc Kinh Truyền Tin, ĐTC đã nhắc mọi người về phong chân phước chúa nhật hôm qua 13-10, tại thành Tarragona, Tây Ban Nha cho khoảng 500 vị tử đạo trong thời nội chiến, thập niên 1930. Ngài nói: ”Chúng ta hãy chúc tụng Chúa vì những chứng nhân can đảm của Ngài và nhờ lời chuyển cầu của các vị, chúng ta hãy cầu xin Chúa giải thoát thế giới khỏi mọi bạo lực”.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người, ĐTC còn bắt tay chào thăm rất nhiều người, các phái đoàn chính thức, đông đảo các LM, trước khi đi xe jeep màu trắng mui trần tiến qua các lối đi và đến tận gần cuối đường Hòa Giải để chào thăm các tín hữu.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM Đại Hội Lần Thứ XII

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM Đại Hội Lần Thứ XII

B i ê n  B ả n
 
1. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã họp Đại hội lần thứ XII từ chiều thứ Hai ngày 07/10/2013 đến trưa thứ Sáu ngày 11/10/2013, tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng giáo phận Thành phố HCM
 
2. Về tham dự Đại hội có sự hiện diện đông đủ các vị chủ chăn của 26 giáo phận: Đức Hồng Y, các Đức Tổng giám mục, các giám mục và linh mục giám quản giáo phận Vĩnh Long.
 
3. Hội Đồng Giám Mục vui mừng chào đón Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam; đồng thời chúc mừng Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, giám mục giáo phận Mỹ Tho, vừa được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Tổng giám mục Phó Tổng giáo phận Thành phố HCM; chúc mừng Đức tân giám mục chính tòa giáo phận Bùi Chu; vui mừng và chào đón các thành viên mới của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đó là Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên, tân giám mục phụ tá giáo phận Vinh, Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long, tân giám mục phụ tá giáo phận Hưng Hóa.
 
4. Hội Đồng Giám Mục lắng nghe những sinh hoạt phong phú trong Năm Đức Tin được diễn ra ở nhiều lãnh vực.
 
5. Đại hội tiếp tục trao đổi về dự án kiến thiết Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang.
 
6. Hội Đồng Giám Mục dành nhiều thời gian soạn thảo Thư Chung với những định hướng mục vụ cụ thể cho những năm sắp tới.
 
7. Đại hội đã bầu ra Ban Thường vụ và Chủ tịch của các Ủy Ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhiệm kỳ 2013-2016.
 
Ban Thường vụ gồm có:
 
Chủ tịch: Đức Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc
 
Phó Chủ tịch: Đức Tổng giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng
 
Tổng thư ký: Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt
 
Phó Tổng thư ký: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm
 
 
 
Các Ủy Ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gồm có:
 
1/ Ủy Ban Giáo lý đức tin
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Nguyễn Năng
 
2/ Ủy Ban Kinh Thánh
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Võ Đức Minh
 
3/ Ủy Ban Phụng tự
 
Chủ tịch: Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ
 
4/ Ủy Ban Nghệ thuật thánh
 
Chủ tịch: Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi
 
5/ Ủy Ban Thánh nhạc
 
Chủ tịch: Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
 
6/ Ủy Ban Loan báo Tin mừng
 
Chủ tịch: Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long
 
7/ Ủy Ban Giáo sĩ-Chủng sinh
 
 Chủ tịch: Đức cha Antôn Vũ Huy Chương
 
8/ Ủy Ban Tu sĩ
 
Chủ tịch: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ
 
9/ Ủy Ban Giáo dân
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Trần Xuân Tiếu
 
10/ Ủy Ban Truyền thông xã hội
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước
 
11/ Ủy Ban Giáo dục công giáo
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo
 
12/ Ủy Ban Mục vụ giới trẻ
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên
 
13/ Ủy Ban Văn hóa
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Vũ Duy Thống
 
14/ Ủy Ban Công lý-Hòa bình
 
Chủ tịch: Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp
 
15/ Ủy Ban Mục vụ Gia đình
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri
 
16/ Ủy Ban Bác ái xã hội- Caritas
 
 Chủ tịch: Đức cha Tôma Aquinô Vũ Đình Hiệu
 
17/ Ủy Ban Mục vụ di dân
 
Chủ tịch: Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh.
 
8. Đại hội cũng trao đổi về một số vấn đề khác như tình trạng các dòng tu chưa rõ nguồn gốc, vai trò linh mục chánh văn phòng của văn phòng Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục, việc xướng tên thánh Giuse trong các Kinh Nguyện Thánh Thể.
 
9. Đại hội bế mạc trong niềm vui cùng với Tổng giáo phận Thành phố HCM mừng kỷ niệm 150 năm thành lập Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn.
 
Trung Tâm Mục Vụ TGP.TP. HCM ngày 11/10/2013
 
Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
 
(Đã ký)
 
+ Cosma Hoàng Văn Đạt
 
Giám mục giáo phận Bắc Ninh
 
 
Hội đồng Giám mục Việt Nam

Đức tin của con đã cứu con

Đức tin của con đã cứu con

Có câu chuyện kể rằng, một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai thiên thần trở về, một vị đeo cái giỏ nặng trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ tênh, hầu như không có gì bèn nói: Chúa sai tôi xuống trần gian thâu tất cả những lời cầu xin, nhưng nhiều quá nên cái giỏ của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài đã làm gì mà sao cái giỏ của ngài nhẹ quá vậy? Vị kia trả lời: Tôi xuống trần gian để thu tất cả những lời tạ ơn, nhưng chẳng có bao nhiêu.

Câu chuyện phần nào nói lên một thực tế của con người và giúp chúng ta hiểu được bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc, thì ra người ta hầu như biết cầu xin hơn là biết đón nhận và tạ ơn. Thánh Luca thuật lại sự kiện có mười người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu và khẩn khoản cầu xin Chúa thương xót, Chúa đã chữa lành bệnh cho họ, nhưng chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa. Người quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa lại là một người ngoại, vậy thì chẳng lẽ những người kia không được lành bệnh sao?

Đọc bài Tin Mừng này tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi nhớ rất rõ, đó là trưa ngày mùng 3 tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của Dòng Đaminh, có một phụ nữ ôm một bó hoa tươi đang phân vân đi đi lại lại trước các tượng thánh Đaminh, thánh Vinh sơn Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên nhà thờ. Tôi tiến lại gần và hỏi hình như bà muốn đặt hoa trước vị thánh nào đó phải không? Bà thú nhận bà là người ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu cầu của đứa con trai của bà. Nhưng thật đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh Martinô, rồi bà tiếp tục tâm sự: gia đình bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm đứa con trai của bà học lớp 9, theo các bạn bè Công giáo đến khấn xin thánh Martinô cho học hành tốt đẹp và tất cả chúng đã đạt được như ý. Kể từ đó, hàng năm vào ngày 3/11 lễ thánh Martinô nó vẫn mang bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng bởi vì năm nay nó đi xa, nó vẫn nhớ việc này và nhờ bà làm giúp cho nó.

Một người ngoại đạo họ không biết Chúa, không đón nhận Phép Rửa, không cùng tuyên xưng đức tin với chúng ta nhưng họ đã nhận ra nguồn hạnh phúc thật của sự sống. Họ ý thức rất rõ và xác tín những gì họ đã đón nhận. Họ hiểu ra rằng tất cả cuộc đời của họ đều là hồng ân. Họ chưa bao giờ tuyên xưng đức tin, nhưng họ đã luôn sống và thể hiện đức tin: “Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Có thể nói, người biết tạ ơn đó là người có thái độ biết cầu xin và biết đón nhận, hay là người có thái độ tạ ơn Thiên Chúa, đó là người có đức tin.

Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến cầu xin và luôn luôn cầu xin cho chúng ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng, tạ ơn là một trong những yếu tố quan trọng trong đời sống cầu nguyện. Cùng với chúc tụng, sám hối, chúng ta cầu nguyện hình như là để cầu xin Thiên Chúa thực hiện theo ý của chúng ta hơn là để chúng ta nhận ra thánh ý Chúa và thực hành ý Ngài.

Chính thái độ đó mà chúng ta cứ quay quắt trong ý định riêng tư và dằn vặt trong tính toán nên không thể nào nhận ra được hồng ân cao cả đầy yêu thương của Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta ý thức một chút, chúng ta sẽ nhận ra cuộc đời của chúng ta là cả một cuộc đời đầy những hồng ân. Vì vậy, chúng ta phải chúc tụng, tạ ơn cả cuộc đời và cả một cuộc đời của chúng ta phải là một cuộc đời tạ ơn liên lỉ.

Xin cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này Thiên Chúa vẫn đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho mỗi người chúng ta cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn Chúa.

Veritas Radio

BIẾT ƠN

BIẾT ƠN

“Sự biết ơn phải chân thành và được thành tâm bày tỏ”

Bà Dorothy Day là một người trở lại Công Giáo khi đã lớn tuổi. Cuộc đời bà đáng được Hollywood dựng thành phim. Khi bà từ trần năm 84 tuổi, tờ New York Time đã không do dự gọi bà là người có ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ.

Sau cái chết của bà, đã có một phong trào vận động để phong thánh cho bà, nhất là vì những gì bà đã làm cho người nghèo và người tuyệt vọng ở Nữu Ước.

Cách đây không lâu, tờ America đã phỏng vấn bà Eileen Egan, một người bạn thân của bà Dorothy. Một trong những câu hỏi mà người phóng viên đặt ra với bà Eileen là “Điều gì đặc biệt nhất khi bà nghĩ đến bà Dorothy?”

Không chút do dự, bà Eileen đáp, “Đó là tinh thần biết ơn.” Và bà đã đưa ra một thí dụ.

Vào một ngày trời lạnh, cả hai đang ở trên xà lan. Bà Dorothy chỉ mặc chiếc áo khoác mỏng. May mắn, bà có mang theo tờ báo nên bà lấy quấn quanh người bên dưới áo khoác. Khi làm như vậy, bà mỉm cười và nói, “Tôi cám ơn những người vô gia cư đã dạy tôi cách này để giữ người cho ấm.”

Bà Eileen nói thêm, “Bất cứ ở đâu, bà Dorothy đều tìm lấy lý do nào đó để cảm tạ. Thí dụ, có lần bà nói, tôi biết ơn Chúa Giêsu đã đến sống trên mặt đất này đến độ đôi khi tôi cảm thấy muốn quỳ xuống hôn đất, chỉ vì chân của Chúa đã chạm đến nó.”

Trên mộ bia của bà Dorothy ở Staten Island, hai chữ đi liền với tên của bà là: Deo Gratias, đó là “Tạ ơn Chúa.” Chính bà đã yêu cầu khắc dòng chữ này.

Câu chuyện của bà Dorothy đã dẫn chúng ta đến câu chuyện của mười người phong hủi trong bài Phúc Âm hôm nay vì câu chuyện của bà nhấn mạnh đến hai điểm quan trọng về sự biết ơn.

Thứ nhất, nó phải chân thành. Thứ hai, nó phải được thành tâm bày tỏ. Thái độ biết ơn người vô gia cư vì đã dạy bà cách giữ người cho ấm, và bà biết ơn Chúa Giêsu vì đã xuống thế làm người, cả hai đều chân thành và được thành tâm bày tỏ.

Trong Phúc Âm hôm nay sự biết ơn của chín người phong hủi không trở lại cám ơn có lẽ thành tâm. Chúng ta không biết.

Nhưng chúng ta biết chỉ có một người trở lại bày tỏ sự biết ơn trong một phương cách chân thành. Ông ta phủ phục dưới chân Chúa Giêsu.

Một lớp học sinh trung học đang chuẩn bị thảo luận về bài Phúc Âm hôm nay. Để bắt đầu, thầy giáo yêu cầu họ trả lời trên giấy hai câu hỏi sau:

Thứ nhất, đã bao lâu bạn chưa cám ơn cha mẹ vì điều gì đó?

Thứ hai, bạn cám ơn các ngài vì điều gì?

Tôi muốn chia sẻ với các bạn hai câu trả lời của hai học sinh. Câu trả lời thứ nhất viết:

Lần sau cùng tôi nhớ đã cám ơn cha mẹ vào khoảng một tuần trước đây.Tôi cám ơn mẹ tôi đã giúp tôi làm bài tập. Tôi nhớ là bà đã tốn vài giờ đồng hồ. Một tuần sau khi tôi đã nộp bài, bà còn đem về nhà các tài liệu liên quan đến đề bài và nói, “Những cái này cốt để cho con biết thêm.”

Câu trả lời của học sinh thứ hai như sau:

Tôi nhớ lần sau cùng cám ơn cha mẹ thì cách đây vài tuần. Tôi sửa soạn đi chơi tối thứ Bẩy và để cha tôi ở nhà một mình, vì mẹ tôi đã từ trần hồi mùa hè qua. Trước khi rời nhà, tôi đến với ông và đặt tay lên vai ông một cách thân mật. Tôi không nói gì, nhưng tôi biết ông hiểu là tôi cám ơn ông vì đã cho phép tôi đi chơi.

Tôi không biết các bạn nghĩ sao, nhưng tôi thấy hai câu trả lời này thật cảm động.

Cả hai trường hợp, sự biết ơn của các học sinh thật chân thành. Và trong cả hai trường hợp, sự biết ơn được bầy tỏ trong một phương cách nồng hậu và thành tâm.

Điều đó đưa chúng ta đến việc cử hành Thánh Lễ hôm nay.

Các câu chuyện của bà Dorothy Day, của các học sinh, và mười người phong hủi đã mời gọi chúng ta kiểm điểm lại thái độ biết ơn của chúng ta và cách bày tỏ sự biết ơn ấy.

Thí dụ, có một chi tiết đáng kể trong câu chuyện Phúc Âm khiến chúng ta phải để ý. Đó là nhận xét của Chúa Giêsu về người phong hủi trở lại cám ơn lại là người Samaritan.

Qua chi tiết này, Chúa Giêsu muốn nói chín người kia là Do Thái. Có thể nói, họ là người đồng hương của Chúa. Bạn mong đợi họ tỏ lòng biết ơn nhau, nhưng họ đã không làm như vậy.

Điều này cũng thường đúng với chúng ta. Khi cần phải biết ơn gia đình, chúng ta thường cho đó là hành động đương nhiên khỏi phải nói lên. Và, thật không may, chúng ta cũng thường hành động như vậy khi đối với Thiên Chúa.

Có người nói khi coi sự biết ơn là đương nhiên–không bày tỏ ra bên ngoài–thì cũng giống như chúng ta nháy mắt ra hiệu cho nhau trong bóng tối. Bạn biết khi bạn nháy mắt với họ, nhưng họ không thấy điều đó.

Và vì thế, khi chúng ta trở về với bàn thờ, có lẽ chúng ta cần dành thời giờ để cảm tạ Thiên Chúa vì đã sai Con của Người xuống trần gian.

Và chúng ta có thể tỏ lòng biết ơn qua việc cử hành Thánh Lễ một cách sốt sắng, một cách thành tâm.

Chúng ta hãy kết thúc bài giảng hôm nay với lời của ngôn sứ Isaia:

Hãy cảm tạ Thiên Chúa!…
Hãy nói với mọi dân tộc về những điều Người đã thực hiện.
Hãy nói với họ Người thật vĩ đại dường bao!
Hãy hát lên ca tụng Thiên Chúa vì những việc trọng đại Người đã thực hiện
.” Is 12:4-5

Cha Mark Link

Thể hiện của tự do thực sự

Thể hiện của tự do thực sự

Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Để đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Đó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.

Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.

Đó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.

Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.

Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Đền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Đấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Đó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.

Asia Veritas Radio

Đón nhận ơn cứu độ

Đón nhận ơn cứu độ

Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.

Ơn cứu độ là phổ quát.

Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.

Ơn cứu độ là nhưng không.

Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.

Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.

Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin đã chữa họ.

Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.

Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.

Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3) Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

ƠN NGƯỜI, ƠN ĐỜI

ƠN NGƯỜI, ƠN ĐỜI

Nhờ ơn người, nhờ ơn đời

Có vẻ như chữ “nhơn” do chữ “nhờ ơn” mà thành. Là người, ai cũng nhờ ơn:

– ơn Cha Mẹ sinh thành dưỡng dục trong suốt một cuộc đời lam lũ nghèo khó;

– ơn giáo hội qua các bí tích để tôi được gọi là Thiên Chúa là Cha, và tôi là nghĩa tử của Ngài;

– ơn Thầy cô miệt mài hun đúc tôi từ chữ đến nghĩa, từ học đến hành;

– ơn người thân- bà con, anh em- thương yêu đùm bọc nâng niu giúp đỡ;

– ơn người dưng nước lã cho tôi nghĩa tình quê hương, nhân loại;

– ơn người đạo đức mỗi ngày cầu nguyện hy sinh cho mọi người, trong đó có tôi, được bình an;

– ơn người lành cho tôi bao bài học phải giữ;

– ơn kẻ dữ cho tôi bao bài học phải tránh;

– ơn người trung tín, ơn người phản bội, ơn người yêu, ơn người ghét, ơn người dối trá, ơn người thành thật, ơn người có đạo, ơn người vô thần, ơn người cho vay, ơn người đòi nợ, ơn người mắng nhiếc sỉ nhục, ơn người an ủi cảm thông, ơn ốm đau bệnh tật, ơn tai nạn bất ngờ, kể cả sự chết…

Làm sao kể hết những ơn lộc mà tôi đã nhận được qua những con người, những biến cố. Vì thế, có thể nói, mỗi người quanh tôi, gần tôi, xa tôi, người biết tôi, chưa biết tôi,  người ở Texas, người ở Cali, người ở tận châu Phi, có người ở Sài gòn, có người Hà Nội…có người giàu có, cũng có người  nghèo khó… tất cả đều là ân nhân của tôi một cách nào đó.

Mỗi người trở nên một phần trong cuộc sống của nhau, không thể thiếu.

 Mỗi biến cố cũng vậy, dù tốt hay xấu, dù có lợi hay không có lợi, tôi cũng nhận được một ơn đặc biệt. “Thất bại là mẹ thành công”. Chẳng hạn, nếu không có một cái nhìn mới mẻ dưới ánh sáng đức tin, thì tôi không thể chấp nhận sự thua thiệt, cảnh tang thương hay thất bại là một ân huệ. Và đợi đến lúc tôi cảm nghiệm được rằng: tôi đã nhờ ơn đau khổ mà thành nhơn, thì tôi không còn đủ thời gian để xin lỗi những đau khổ vì đã nặng lời trách móc.

Vì thế, tôi muốn xác tín rằng: mỗi con người đang là cánh tay của Thiên Chúa nối dài để thi ân; mỗi biến cố là công cụ, là phương cách Chúa đã dùng  để ban ơn cho  tôi, cho mọi người.

Quả thật đời sống con người cần có nhau để tô đẹp cho nhau và cho cuộc đời, như có người nói:

“Nói với lá rằng hoa chưa đẹp nhất,

nếu không chen vào giữa lá nhung xanh,

nói với anh rằng em chưa đẹp nhất,

nếu không chen vào giữa trái tim anh”.

Hoa đẹp nhờ có lá, tôi đẹp nhờ có người xấu. Tôi biết tôi giàu nhờ có người nghèo quanh tôi. Tôi biết tôi mạnh khỏe nhờ có người đau yếu…

Hãy mở lòng ra để đón nhận nhau, chấp nhận nhờ ơn nhau, như một người cần có trái tim để sống.

Bác Trần Duy Nhiên trong thư gửi các cháu mổ tim có đoạn “một trái tim bị mổ, ngàn trái tim mở ra.  Ngàn trái tim mở ra,  vì có Một Trái Tim đã mở toang ra vì yêu nhân loại”.

Vâng, sống trong cuộc sống là sống với, sống vì, sống cho người khác sống. Tôi có thể cảm nhận trái tim tôi đập được là nhờ trái tim của nhiều người khác.Vâng, tất cả chúng ta đang “nhờ ơn” mà thành “nhơn”.

Nguồn ơn ấy, chính là sự quan phòng tuyệt vời của Thiên Chúa tình yêu.

Biết ơn 

Biết mình cần “nhờ ơn” người khác là một điều đã khó; biết ơn người khác lại là một điều khó hơn. Để biết ơn, phải cảm nhận được ơn mình đã nhận. Và đối với tín hữu của Chúa, để cảm nhận được ân huệ của Thiên Chúa qua các biến cố, qua tha nhân, nhất thiết người thọ ơn phải có lòng khiêm tốn sâu xa và một đức tin chân thành mà sâu sắc.

Tướng Naaman trong sách các vua 5,14-17 quả thật đã có một niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nên mới có được một niềm xác tín vững chắc để nghe lời của Tiên tri Elise mà đi dìm mình bảy lần trong sông Giodan Cũng vậy, mười người phung hủi trong Tin Mừng Lc 17,11-14 có niềm tin khiêm tốn sâu thẳm, nghe lời Đức Giêsu mà đi trình diện các tư tế.

Cả một đất nước Aram không có con sông nào sạch sao và chắc gì sông Giodan sạch bằng? Hoặc có thầy thuốc nào bảo chỉ cần đi trình diện với ông nầy ông kia thì sẽ được khỏi bệnh?

Quả là một điều lý trí không thể chấp nhận được. Nhưng điều lý trí không chấp nhận được ấy lại là đức tin.

Như vậy sự khiêm tốn ở đây chính là bằng lòng hy sinh lý trí, hy sinh cái suy luận theo tài năng hiểu biết của mình, để đón nhận điều sẽ xảy ra với lòng tin tưởng tuyệt đối. Việc chấp nhận dìm mình trong song Giodan của Naaman cũng như chuyện chấp nhận thực hiện điều trái ý, chấp nhận điều chẳng lành trong cuộc đời, không dễ dàng tí nào đối với người không có đức tin.

 Việc chấp nhận đến với Giodan còn mang một ý nghĩa khác,  là chấp nhận đến với Đất Nước của Thiên Chúa, đến với Giáo Hội.

Cũng vậy, “đi trình diện với các tư tế” trong trình thuật Luca 17,11-19  cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận đến với những người của Thiên Chúa, trong Giáo Hội.  Và khi đến, phải khiêm tốn và xác tín rằng, tôi đến là tôi sẽ được nhận ơn.

“Trong khi đi trình diện với các tư tế, họ đã được sạch phung hủi”. Điểm nầy, tôi liên tưởng đến người có lòng khao khát được sạch những vết phung hủi của tâm hồn do tội lỗi, trên đường đi đến tòa cáo giải với lòng khiêm tốn và đức tin, thiết nghĩ, họ đã được sạch tội rồi nếu họ chết khi chưa kịp xưng thú các tội.

Chấp nhận dìm mình trong dòng sông Giodan  hay đến với Đức Giêsu để nhận được ơn sự sống đòi hỏi một đức tin cao nhất, như Thánh Phaolô xác quyết: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta cùng kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2Tm 2,11-12)

 Rất tiếc, rất tiếc, vẫn còn có nhiều người luôn tuyên bố: “Từ nhỏ đến giờ tôi chẳng nhờ ơn ai cả, tôi tự lập mà nên”. Có người không chấp nhận nhờ vả vì sỉ diện, một cách tránh né do lòng kiêu ngạo. Vậy, không chấp nhận nhờ ơn thì làm gì nói đến chuyện biết ơn.

Ngay cả đối với sự hiện hữu tốt đẹp của chính mình trên trần gian, có người theo chủ nghĩa duy vật vô thần không đủ khiêm tốn để chấp nhận đó là một ơn huệ, còn to tiếng phủ nhận; và cho là một việc tự nhiên do chuyện giải trí của cha mẹ mà có! Thế thì làm gì có lòng biết ơn ai! Rồi từ đó, kéo theo một thế hệ con cháu vô ơn với trời đất, với tổ tiên, với nòi giống. Cái chủ nghĩa duy vật dạy cho họ cuộc sống con người bắt đầu từ con vật, sống và lớn lên như con vật, rồi chết đi như con vật.

Và khái niệm đó đóng khung lý trí của họ mà họ xem như một chân lý. Họ không thể khiêm tốn hy sinh cái lý trí què quặt ấy để đón nhận ánh sáng của đức tin. Họ không chấp nhận dìm mình trong dòng sông cứu rỗi mà người của Thiên Chúa giới thiệu. Họ cố tình không biết những ơn cao trọng mà dòng sông cứu rỗi mang lại. Chẳng trách gì mà họ không những không khiêm tốn đến với Chúa Giêsu mà còn không muốn ai đến với Ngài.

Rất tiếc hơn nữa, những con cái của Chúa cũng không thiếu những con người vô ơn như vậy. Khi cuộc sống vất vả, đau yếu, bệnh tật, nghèo túng thì sốt sằng tìm đến Chúa để kêu la cầu cứu; đến khi có của ăn của để, nhà cao cửa rộng, phương tiện  tiện nghi đầy đủ thì xem tất cả những gì mình có là do sức mình, rồi tỏ ra bất cần đến Thiên Chúa nữa, bất cần đến ơn cao trọng hơn cả là ơn cứu rỗi, tự gieo mình vào một cuộc sống mỗi ngày thêm sa đọa. Chúa Giêsu nói: “không phải cả mười người đều được sạch cả sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”(Lc.17,17-18)

Với tôi, bài học của tướng Naaman và mười người phung hủi, cho thấy sự cần thiết của lòng khiêm tốn, của một đức tin vững chắc để đón nhận và biết ơn Thiên Chúa đang tràn lan trong đời mình qua mọi người và qua mọi biến cố.

Hãy khiêm tốn đến với dòng sông Bí tích, dòng sông Giodan ngày xưa, và dòng sông của Đức Giêsu hôm nay, trong dó có dòng sông của bí tích hòa giải với xác tín chính Chúa Giêsu cũng đang nói với ta “Đức tin con đã chữa con” mọi thứ bệnh trầm kha nhất của tâm hồn. Và rồi,  hãy thể hiện lòng biết ơn cách cụ thể qua việc đền đáp công ơn của Người.

Đền ơn 

 Đối với người Việt Nam, có thể nói  có lòng biết ơn là đã đủ sống với đạo làm người, vì có những ơn Trời ban mà con người không bao giờ đáp đền cho cân xứng.

Với chúng ta, sống tâm tình biết ơn, thiết nghĩ, là chưa đủ. Phải thiết thực đáp đền ơn Chúa bằng việc thờ phượng tôn vinh Thiên Chúa cho xứng đáng. Biết việc đền ơn không phải là lễ vật như “món quà” của Naaman dâng cho Thiên Chúa qua Elise. Naaman đã chọn cách đền ơn bằng việc “chở một ít đất ở Giodan về mà lập bàn thờ Thiên Chúa trên đất ấy”.(2V 5,15-17). Cũng như người Samari “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại mà lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn” (Lc 17,15-16).

Như vậy, đáp đền ơn Thiên Chúa là tôn vinh Thiên Chúa bằng cách:

sống trọn tình con thảo trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, tin tưởng vào Chúa Giêsu và Giáo Hội của Ngài: “hãy trình diện với các tư tế”.

Về điểm nầy, tôi không đồng tình với quan điểm “Giêsu-Yes”, “Giáo Hội- No”. Vì như thế là chúng ta tự mâu thuẫn với đức tin của mình. Chúng ta đã nhận muôn ơn Chúa qua Giáo Hội. Phủ nhận Giáo hội cũng chính là phủ nhận đức tin vào Thiên Chúa. Ta vẫn tuyên tín “ tôi tin Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” kia mà. Hãy tin tưởng vào Giáo Hội của Chúa. Không vì một vài phần tử bội tín hoặc phá phách trong giáo hội mà ta phủ nhận sự thánh thiện của Giáo Hội, rồi trở thành người vô ơn một cách oan uổng. Hãy tin tưởng Giáo Hội.

sống và trở nên nguồn sống cho tha nhân – nguồn sống ấy có thể là một nụ cười, một niềm vui, một chia sẻ như làm cánh tay nối dài của Thiên Chúa. Ta vẫn thường nhận ơn của một người và không bao giờ đáp trả nổi, nhưng ta lại thi ân cho người khác như một nghĩa cử đền đáp  cho người mình đã nhận. Hãy sống chứng nhân tôn vinh thờ phượng Chúa bằng đức bác ái.

Để kết

Tôi có nghe các em mổ tim nhờ Hội Bác ái Phanxicô hỗ trợ- sau khi mổ tim thành công, hát mấy câu trọn vẹn ba ý nghĩa: nhờ ơn, biết ơn và đền ơn, như sau:

“Em có một trái tim nhưng là trái tim của nhiều người

Em sống nhờ trái tim, nhờ tình yêu thương người mọi nơi

Em suốt đời biết ơn người cho em sự sống nầy

Sẽ sống và sẻ chia tình yêu thương cho muôn người.”

 Lạy Chúa xin cho chúng con lòng khiêm tốn và đức tin vững chắc, để đón nhận tất cả là hồng ân Chúa.  Và xin cho chúng con biết sẻ chia sự sống cho tha nhân. A men.

 PM. Cao Huy Hoàng

LÒNG BIẾT ƠN

LÒNG BIẾT ƠN

Đọc Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, tôi cảm thấy thật buồn về thái độ vô ơn của chín người được ơn. Trong số mười người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành, chỉ có một người quay trở lại để tạ ơn. Mười người được ơn, chỉ có một người biết ơn. Tỷ lệ một phần mười. Một tỷ lệ quá thấp. Như vậy, kẻ vô ơn thì thật nhiều, còn người biết ơn có lẽ thật ít. Người biết ơn ấy lại là người ngoại đạo.

Chúa Giêsu hỏi người ngoại giáo: “Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao ? còn chín người kia đâu ? không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này ?”. Chúa Giêsu buồn không phải vì bị phụ ơn mà vì trong số mười người chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.

Trong cuốn sách “Nói với chính mình” Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lại là chuyện bình thường.

Chuyện phiếm 7 “Hai chữ cám ơn”, Gã Siêu xót xa: Một tác giả nào đó đã viết : Một sự kiện làm chúng ta phải ngạc nhiên không ít, đó là một số người Việt Nam từ nước ngoài trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau. Dầu có cố gắng che dấu đến đâu cái tông tích Việt kiều của mình, họ vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài, hay là phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng “cám ơn”. Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quí hiếm trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì phải chăng đó là một lời báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu chỉ của sự khô cạn tình người trong xã hội Việt Nam chúng ta. Khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc về tình người cũng trở thành mong manh. Và khi tình người bị chối bỏ, thì nhiều lãnh vực khác cũng sẽ bị lung lay và sụp đổ.

Sở dĩ như vậy là vì những người Việt Nam sống ở nước ngoài tiếp xúc thường xuyên với người phương tây, nên cũng lây nhiễm phần nào nét đẹp văn hóa của họ. Đúng thế, những tiếng vốn được người phương tây xử dụng nhiều nhất là “xin lỗi” và “cám ơn”. Dân Pháp thì luôn miệng nói “pardon” và “merci”. Còn dân Ăng lê thì động một tí là “sorry” và “thank you”. Thói quen tốt đẹp này có được là do sự giáo dục từ trong gia đình. Có người đã tổng kết được mười mấy chữ quan trọng trong việc giáo dục trẻ em ở phương tây, đó là cám ơn, chào ông bà, xin lỗi, phiền ông bà, tạm biệt, xin mời…Trong đó đứng đầu là hai tiếng “cám ơn”, Như vậy, họ đã dạy cho con em biết cảm động, không được thờ ơ nhìn sự giúp đỡ và làm ơn của người khác.Từ đó, gã suy ra rằng lòng biết ơn và tình yêu mến luôn đi song song và tỷ lệ thuận với nhau . Lòng biết ơn sẽ sinh ra tình yêu mến và tình yêu mến lại sinh ra lòng biết ơn.(dunglac.org).

Tác giả Nguyễn Văn Tuấn, trong bài “Văn hóa cám ơn” viết chua chát: Cám ơn và xin lỗi đôi khi trở thành một đề tài xã hội. Khoảng 2 năm trước đây, viết trên báo Tuổi Trẻ, một người Hàn Quốc đang làm việc tại Việt Nam “phàn nàn” rằng người Việt Nam ít nói xin lỗi. Tiếp theo đó là một thư khác của bạn đọc người Việt chỉ ra rằng chẳng những ít nói xin lỗi, mà người Việt còn ít nói cám ơn. Điều này có vẻ mâu thuẫn với truyền thống đạo lý của người Việt, vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo, ghi ơn tiền nhân. Nhưng có lẽ trong cuộc sống bề bộn của thời thực dụng kinh tế, không ít người Việt, trong đó có cả những quan chức, quên nói lời cám ơn. Và, sự thiếu sót này có thể ảnh hưởng đến quốc thể và gây ấn tượng không đẹp ở người nước ngoài về người Việt. Câu chuyện mà tôi sắp kể sau đây còn cho thấy hình như trong một số quan chức, thể hiện sự tri ân vẫn còn khá khó khăn. Anh là một kỹ sư người Đức, do cơ duyên nào đó, lấy vợ Việt Nam và quê vợ ở một làng nghèo thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Có lẽ để làm một nghĩa cử đẹp cho quê vợ, anh về Đức quyên tiền, và đem số tiền đó về quê vợ xây một bệnh xá cho người dân nghèo. Người dân trong làng ai cũng nhớ anh ta trực tiếp chỉ huy việc xây dựng, rất quan tâm đến chất lượng đến nổi cẩn thận gõ từng viên gạch để đánh giá xem thật hay dỏm. Kết quả là một bệnh xá khang trang và có chất lượng cao. Đến ngày khai mạc, các quan chức trong làng đua nhau cám ơn Đảng và Nhà nước, nhưng không có đến một lời cám ơn chàng rể người Đức dù anh có mặt trong buổi lễ khánh thành bệnh xá. (saigonecho.com).

Vô ơn chẳng làm cho người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn thêm chật hẹp. Đúng như John Hery Jowett đã viết: “Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị lực. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật khập khiễng trên con đường thiêng liêng”.

Văn hóa cám ơn được thể hiện trong xã hội văn minh. Mọi người luôn nói cám ơn mỗi khi được người khác giúp đỡ, dù chỉ là nhỏ bé thôi. Hai tiếng cám ơn làm ấm lòng người nghe. Hai tiếng cám ơn làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn được đánh giá là người văn hoá, văn minh.

Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Chúa đã ban cho anh ơn phần xác. Chúa lại ban thêm cho anh ơn phần hồn nữa: “Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh“. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.

Sống trên đời này mọi người cần biết ơn nhau. Biết ơn là thái độ cần thiết cần phải có đối với người ban ơn. Trong cuộc sống, tiếng “cám ơn”, “xin lỗi” luôn có sẵn trên môi miệng những người có giáo dục, lịch sự, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành luôn làm vui lòng mọi người. Chính lòng biết ơn Thiên Chúa, biết ơn cha mẹ là nền tảng cho mọi thứ biết ơn khác.

Có hai thứ chịu ơn: vật chất và tinh thần.

Vật chất thì có thể tính bằng con số, đo lường bằng mức độ như một cây vàng, một ngàn đồng, một sào đất… Tất cả những thứ ấy đều có thể trả được.

Chịu ơn về tinh thần thì khó định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Khi một người thất vọng, chán chường, cô đơn, đau khổ, bệnh tật… nếu có được một chút lửa ấm tình thương nâng đỡ sẻ chia giúp cho người đó ra khỏi đêm tối, tìm lại ánh sáng, niềm vui, bình an, hy vọng, thì lòng biết ơn đó là mãi mãi.Kẻ nghĩ rằng trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn.

Thật là dễ nếu cảm ơn những điều tốt đẹp. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng tạo cơ hội mới cho mọi người cảm ơn cả những thứ chưa hoàn hảo nữa. Suy nghĩ luôn có thể chuyển tiêu cực thành tích cực. Nếu bạn biết cách biết ơn những thứ rắc rối của bạn thì chúng có thể giúp ích nhiều cho bạn!

Bạn thân mến.

Hãy cảm ơn vì bạn chưa có tất cả những thứ bạn muốn. Vì nếu bạn có rồi thì bạn còn có gì để trông chờ và hy vọng nữa đâu.

Hãy cảm ơn vì còn nhiều điều bạn chưa biết. Vì nếu bạn biết hết rồi thì bạn chẳng còn gì để học hỏi nữa sao?

Hãy cảm ơn những lúc khó khăn. Vì nếu không có một lúc khó khăn thì liệu bạn có trưởng thành được không?

Hãy cảm ơn vì bạn còn có những nhược điểm. Vì nếu không còn nhược điểm gì thì bạn sẽ chẳng còn cơ hội để tiến bộ, để cải thiện bản thân.

Hãy cảm ơn những thử thách. Vì nếu không có thử thách nào thì liệu cái gì có thể xây dựng nên sức mạnh và cá tính của bạn?

Hãy cảm ơn những lỗi lầm bạn đã có. Vì nếu bạn không có lỗi lầm gì thì cái gì sẽ dạy cho bạn những bài học đáng giá như thế đây?

Hãy cảm ơn những khi bạn mệt mỏi. Vì nếu bạn không khi nào mệt mỏi tức là bạn không làm việc gì hay sao?

Suốt cuộc đời, bạn và tôi đều mang ơn rất nhiều. Cám ơn về tất cả, tri ân về tất cả. Bắt đầu mầm sống trong lòng mẹ, nơi ngôi nhà ấm cúng, thầm kín đầu tiên đó, tôi được mẹ lấy máu thịt nuôi dưỡng lớn dần từng ngày.Từ ngày đó tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuối và cần đến mọi người. Rồi tôi lớn lên nhờ dòng sữa mẹ, nhờ hơi ấm, nhờ những bàn tay nuôi nấng dẫn dắt. Công cha, nghĩa mẹ, thầy cô giáo dục. Vào đời, tôi cần tình yêu, cần tình bạn, cần thông cảm. Cuộc đời được dệt nên bằng những ơn nghĩa nối tiếp nhau. Sự sống là ân ban cao cả nhất, thiêng liêng nhất mà tôi được đón nhận từ Thiên Chúa. Ngài tạo thành tôi và còn ban Con Một của Ngài chịu chết thập giá để cứu chuộc và ban cho tôi Sự Sống Mới.

Nói đến trả ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Thời gian sau, có thể khá hơn tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn, vì mọi sự đều đến từ Chúa. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và lời mời gọi làm con của Ngài. Bởi đó phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân mình, yêu con người và yêu cuộc đời. Ghét bỏ chính mình, không yêu người là sự vô ơn đối với người ban tặng. Mọi sự đều đến từ Thiên Chúa. Ngài sắp xếp hoà điệu để con người tham gia vào chương trình đón nhận ân sủng Ngài trao tặng. Những gì tôi đón nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn đối với tha nhân cũng chính là lòng biết ơn đối với Chúa.

Mỗi sáng khi vừa thứa dậy, tâm tình đầu tiên là tôi Tạ Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa. Cùng cộng đoàn hiệp dâng Thánh Lễ chung lời Tạ Ơn Chúa, một ngày mới tràn đầy bình an và ơn thánh.

Tạ ơn để đón nhận thêm ơn lành cho cuộc sống, lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rôma: “Thật ra, Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời“.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sống tâm tình biết ơn, biết ơn Chúa, biết ơn người để cuộc đời chúng con là bài ca tri ân tình thương của Chúa. Amen.

LM Giuse Nguyễn hữu An

CÁM ƠN

CÁM ƠN

Một trong những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng rất ngắn nhưng đưa đi rất xa, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn, chân tình. Đó là tiếng “cám ơn”. Nhưng trong thực tế, dường như người ta còn quá dè dặt và tiết kiệm tỏ lòng biết ơn nhau và cám ơn nhau.

Bài Tin Mừng Chúa Giêsu lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy. Chúa đã làm phép lạ chữa lành cho cả mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung sướng, thỏa mãn, chỉ có một người nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi người ấy: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?” Chỉ là vì họ quên cám ơn. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố tình quên hoặc vô tình quên như thế.

Có phải chúng ta vẫn thường coi việc người khác làm cho chúng ta hay phục vụ chúng ta như là những chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm? Chẳng hạn khi có người lưu ý một ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của người thừa hành hay người giúp việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: “Họ đã được trả lương để làm việc ấy mà”. Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng phẳng.

Chúng ta nên suy nghĩ tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người được gói ghém trong tiếng “cám ơn”, dù khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết bao nhiêu chuyện mà người ta không thể thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng bằng một nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này: “Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền “puộc boa”, tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.

Chúng ta phải biết cám ơn những người sống chung quanh mình, bắt đầu từ những người gần gũi nhất, đó là những người trong gia đình. Người ta nói: hạnh phúc của mái gia đình tùy thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ ơn nhau. Cuộc sống của chúng ta được dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, thế mà hạnh phúc gia đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều chẳng đáng kể gì đó, là tiếng “cám ơn” bé nhỏ nói cho đúng lúc.

Thực vậy, hạnh phúc thay gia đình nào có những người con biết nói cám ơn người cha người mẹ vẫn tận tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt ngày tảo tần mưu ích cho chúng. Và cũng thật hạnh phúc cho gia đình nào người chồng biết nói cám ơn đối với người vợ và người vợ biết nói cám ơn đối với người chồng. Tiếng cám ơn người chồng nói với người vợ đáng giá hơn tất cả mọi thứ vật chất, vì nó chứng tỏ người chồng lưu ý tới những gì người vợ làm cho mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn người vợ nói với người chồng sẽ động viên cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm, thêm sức mạnh để hăng say với công việc đều đều cực nhọc vất vả hằng ngày.

Sau hết nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn Thiên Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang che chở chúng ta, cái bàn kia, cái giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách đó, cái đèn đang cháy sáng kia, những người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc sống, và hàng trăm hàng ngàn điều khác đang ở trong tầm tay chúng ta… Chính Thiên Chúa ban cho chúng ta những điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc. Vì thế, chúng ta phải luôn dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối với nguyên nhân tối hậu, từ đó phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.

Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123, 124, 125…Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi: “Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”.

Hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ lại quá khứ cuộc đời mình và gia đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa mà rất ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân Ngài không? Đó là một thiếu sót lớn lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ mọi người thực là nhiều: từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ một nụ cười đến một tình thương, từ một lời chào đến những lời an ủi, khích lệ, trao đổi, gặp gỡ… tất cả và bất cứ sự gì chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng đời chúng ta và gia đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn mọi người. Tạ ơn Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày với Chúa, để rồi Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: “Một lần cám ơn là hai lần xin ơn”.

Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa”. Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với chúng ta, đều là những ân nhân của chúng ta.

Nguồn: Sưu tầm

Thông Điệp Của Đức Thánh Cha Phanxicô Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2013

Thông Điệp Của Đức Thánh Cha Phanxicô Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2013

Anh chị em thân mến,

Năm nay, chúng ta cử hành Ngày Truyền Giáo Thế Giới trong khi chuẩn bị kết thúc Năm Đức Tin. Đây quả là một cơ hội quan trọng để chúng ta thắt chặt hơn tình bằng hữu giữa chúng ta với Thiên Chúa và hành trình của chúng ta xét như một Giáo Hội truyền giảng Tin Mừng với lòng can đảm. Trong viễn cảnh này, tôi xin chia sẻ một vài suy tư của mình.

1. Đức tin là một tặng phẩm vô cùng quý giá của Thiên Chúa, giúp mở tâm trí chúng ta ra để hiểu biết và yêu mến Ngài. Ngài muốn đi vào trong tương quan với chúng ta để làm cho chúng ta thông dự vào sự sống của riêng Ngài và làm cho cuộc sống của chúng ta thêm ý nghĩa hơn, tốt hơn và tươi đẹp hơn. Thiên Chúa yêu thương chúng ta! Tuy nhiên, đức tin cần phải được đón nhận, nó cần lời đáp trả cá vị của chúng ta, sự can đảm tín thác hoàn toàn cho Chúa, sống tình yêu của Ngài và cảm tạ vì lòng nhân ái vô lượng của Ngài. Đó là một tặng phẩm, không phải dành cho một số ít người nhưng là dành cho tất cả với lòng quảng đại. Mọi người đều phải có thể cảm nghiệm được niềm vui vì được Thiên Chúa yêu thương, niềm vui ơn cứu độ! Đó là một tặng phẩm mà người ta không thể giữ cho riêng mình, nhưng phải được sẻ chia. Nếu chúng ta muốn giữ nó cho riêng mình, chúng ta sẽ trở thành những người Kitô hữu cô lập, cằn cỗi và ốm yếu. Rao giảng Tin Mừng là một phần của việc là môn đệ Đức Kitô và đó là một dấn thân liên lỉ làm sống động trọn vẹn đời sống trong Giáo Hội. “Tầm vươn xa của việc truyền giáo là dấu chỉ rõ ràng cho thấy mức độ trưởng thành của một cộng đoàn giáo hội” (BENEDICT XVI, Verbum Domini, 95). Mỗi cộng đoàn sẽ “trưởng thành” khi nó tuyên xưng đức tin, cử hành đức tin với niềm vui sướng trong phụng vụ, sống đức ái, rao giảng Lời Chúa một cách không ngừng nghỉ, rời bỏ chốn an toàn của mình để mang đức tin ấy đến những “vùng ngoại biên”, đặc biệt là đến với những ai chưa có cơ hội biết Đức Kitô. Sức mạnh của đức tin chúng ta, ở cấp độ cá nhân và cộng đoàn, có thể được đo lường bởi khả năng thông truyền đức tin ấy cho những người khác, khả năng lan tỏa và sống đức tin ấy trong tình bác ái, trong việc làm chứng cho nó trước những ai chúng ta gặp gỡ và những người cùng chia sẻ với chúng ta hành trình cuộc sống.

2. Năm mươi năm sau khi Công Đồng Vatican II bắt đầu, Năm Đức Tin thúc đẩy toàn thể Giáo Hội hướng tới một sự ý thức mới về sự hiện diện của nó trong thế giới đương đại và về sứ mạng của nó giữa muôn dân nước. Tinh thần truyền giáo không chỉ là vấn đề về những vùng lãnh thổ địa lý, nhưng còn về các dân tộc, nền văn hóa và các cá nhân, bởi vì “các ranh giới” của đức tin không chỉ vượt qua các nơi chốn và truyền thống con người, nhưng còn là con tim của mỗi người nam nữ. Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh cách đặc biệt đến việc nhiệm vụ truyền giáo, nhiệm vụ mở rộng các biên giới đức tin, thuộc về những người đã chịu phép rửa và tất cả cộng đoàn Kitô hữu như thế nào; vì “dân Chúa sống trong các cộng đoàn, đặc biệt là trong các giáo phận và giáo xứ, và cách nào đó đức tin trở nên hiển hiện trong họ, việc làm chứng cho Đức Kitô cho mọi dân nước là tùy thuộc vào họ” (Ad Gentes, 37). Vì thế, mỗi cộng đoàn được khuyến khích, và được mời gọi biến lời mời gọi của Đức Giê-su dành cho các Tông Đồ thành của mình, để trở thành “nhân chứng của Người ở Giêrusalem, qua miền Giuđêa và Samaria và đến tận cùng trái đất”(Cv 1:8) và điều này không phải là điều thứ yếu trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, nhưng là điều chính yếu: tất cả chúng ta được mời gọi để bước đi trên mọi nẻo đường thế giới với các anh chị em của chúng ta, tuyên xưng và làm chứng cho đức tin vào Đức Kitô và biến chúng ta thành những sứ giả Tin Mừng. Tôi mời gọi các Giám Mục, Linh Mục, Hội Đồng Mục Vụ, các cá nhân và nhóm có trách nhiệm trong Giáo Hội hãy giữ một vị thế nổi bậc cho chiều kích truyền giáo này trong các chương trình mục vụ và huấn luyện, với một sự hiểu biết rằng dấn thân tông đồ của họ sẽ không hoàn thành trừ phi nó nhắm đến “việc làm chứng cho Đức Kitô trước muôn dân muôn nước.” Việc truyền giáo này không đơn thuần là một chiều kích mang tính chương trình trong đời sống Kitô hữu, nhưng nó còn là một chiều kích mang tính kiểu mẫu, ảnh hưởng đến toàn bộ các phương diện khác trong đời sống Ki-tô hữu.

3. Công việc loan báo tin mừng thường gặp phải những khó khăn, không chỉ bên ngoài, nhưng có khi nằm trong chính cộng đoàn giáo hội. Đôi khi chúng ta thiếu nhiệt thành, niềm vui, cam đảm và hy vọng trong việc rao giảng Thông Điệp của Đức Kitô cho tất cả mọi người và trong việc giúp đỡ con người trong thời đại chúng ta gặp gỡ Ngài. Đôi khi, vẫn còn có tư tưởng cho rằng rao giảng chân lý Tin Mừng là một xâm hại đến tự do. Đức Phaolô VI đã nói rất hùng hồn về điều này: “Sẽ là … một sai lầm khi áp đặt cái gì đó lên lương tâm của người anh chị em. Nhưng mang đến cho lương tâm của họ chân lý của Tin Mừng và ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, với một sự rõ ràng tuyệt đối và sự tôn trọng hoàn toàn chọn lựa tự do của họ… là một bằng chứng cho thấy sự tự do này.” (Evangelii Nuntiandi, 80). Chúng ta phải luôn luôn can đảm và vui mừng khi giúp người ta, với lòng tôn trọng, gặp gỡ Đức Kitô, và khi trở nên sứ giả của Tin Mừng. Đức Giêsu đến giữa chúng ta để cho chúng ta thấy con đường cứu độ và ngài giao phó cho chúng ta sứ mạng chiếu tỏa con đường ấy đến tật cùng thế giới. Thông thường, chúng ta vẫn hay thấy người ta nhấn mạnh và nói nhiều đến bạo lực, dối trá và sai phạm. Trong thời đại này của chúng ta, thật là cấp thiết để loan báo và làm chứng cho sự tốt đẹp của Tin Mừng, và chúng ta làm điều này trong lòng Giáo Hội. Bởi vì, về phương diện này, điều quan trọng là không bao giờ được quên một nguyên lý căn bản dành cho từng người đi rao giảng Tin Mừng: ta không thể rao giảng về Đức Kitô mà không có Giáo Hội. Công cuộc rao giảng Tin Mừng không phải là hành vi riêng lẽ hay mang tính cá nhân tách biệt; đó luôn luôn mang tính giáo hội. Đức Phaolo VI đã viết rằng, “khi một nhà giảng thuyết, giáo lý viên hay Linh Mục vô danh nào rao giảng Tin Mừng, quy tụ thành một cộng đoàn nhỏ với nhau, thông truyền đức tin cho nhau, cử hành một Bí Tích, dù là làm một mình, người ấy vẫn đang thực thi một hành vi mang tính giáo hội.” Người ấy cử hành “không bởi một sứ mạng mà người ấy dấn mình vào hay bởi một sự gợi hứng cá nhân nào, nhưng trong sự liên đới với sứ mạng của Giáo hội và nhân danh giáo hội.” (ibid. 60). Và chính điều này đã thêm sức cho sứ mạng và khiến cho mỗi thừa sai và người đi rao giảng Tin Mừng không bao giờ cảm thấy cô đơn, nhưng là một phần của Thân Thể độc nhất do Thánh Thần thúc đẩy.

4. Trong kỷ nguyên của chúng ta, sự lưu động rộng khắp và sự dễ dàng của việc truyền thông nhờ các phương tiện tân tiến đã nối kết con người, tri thức, kinh nghiệm lại với nhau. Vì lý do công việc, các gia đình phải di chuyển từ châu lục này đến châu lục khác; những trao đổi về chuyên môn và văn hóa, du lịch và các hiện tượng khác cũng đã dẫn đến những phong trào lớn của con người. Điều này đã gây ra những khó khăn, thậm chí cho các cộng đoàn giáo xứ, để biết người nào sống vĩnh cư hay tạm thời trong một khu vực. Ngoài ra, trong những lãnh địa rộng lớn đã một thời theo Công Giáo, số người trở nên xa lạ với đức tin hay thờ ơ với chiều kích tôn giáo hay bị những mê tín khác lôi kéo càng lúc càng gia tăng. Vì thế, rất thường khi một số người đã lãnh bí tích rửa tội có những chọn lựa cho lối sống của mình xa lạc với đức tin, khiến họ cần một “cuộc truyền giảng Tin Mừng mới”. Tất cả những vấn nạn này càng làm sáng tỏ một sự thật là có một bộ phận lớn trong cộng đồng nhân loại chưa nắm bắt được tin mừng của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cũng sống trong một thời đại khủng hoảng vốn đụng chạm đến các chiều kích khác nhau của sự hiện hữu, không chỉ về kinh tế, tài chính, an toàn thực phẩm, hay môi trường, nhưng còn cả những chiều kích liên quan đến ý nghĩa sâu xa của sự sống và những giá trị nền tảng tác động đến nó. Thậm chí, việc con người đồng hiện hữu cũng được đánh dấu bởi những căng thẳng và mâu thuẫn, gây ra những bất an và khó khăn trong việc tìm ra một con đường đúng đắn cho một nền hòa bình vững chắc. Trong hoàn cảnh phức tạp này, nơi mà phạm vi của hiện tại và của tương lai dường như đang trải qua những bóng đêm đe dọa, thật cần thiết biết bao để chúng ta rao giảng một cách can đảm và trong mọi tình huống Tin Mừng của Đức Kitô, một thông điệp của hy vọng, hòa giải, hiệp thông, và một cuộc loan truyền sự gần gũi của Thiên Chúa, lòng thương xót, ơn cứu độ của Người, và một cuộc rao giảng rằng quyền năng của tình yêu Thiên Chúa có thể vượt qua bóng đêm sự dữ và dẫn dắt chúng ta trên đường lành. Anh chị em trong thời đại chúng ta cần một ánh sáng chắc chắn soi chiếu đường đi của họ và ánh sáng ấy chỉ có được nhờ gặp gỡ được Đức Kitô. Chúng ta hãy mang đến cho thế giới, qua chứng tá của chúng ta, với lòng yêu mến, niềm hy vọng mà đức tin mang lại! Tinh thần truyền giáo của Giáo Hội không phải là lôi kéo người theo tôn giáo khác vào tôn giáo của mình, nhưng là chứng từ của một đời sống tỏa chiếu con đường ngập tràn hy vọng và tình yêu. Giáo Hội – tôi nhắc lại lần nữa – không phải là một tổ chức cứu trợ, không phải là một xí nghiệp, hay một tổ chức phi chính phủ, nhưng là một cộng đoàn những người được Thánh Thần gợi hứng, những người đã và đang sống kinh nghiệm tuyệt vời của việc gặp gỡ Đức Giêsu Kitô và muốn chia sẻ cho người khác kinh nghiệm vui mừng thẳm sâu này, là thông điệp cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội đi trên hành trình này.

5. Tôi khuyến khích mỗi người hãy trở thành một người mang tin mừng Đức Kitô và tôi đặc biệt tri ân các nhà truyền giáo, các linh mục sống tinh thần Fidei Donum, các tu sĩ nam nữ và giáo dân – rất đông – những người đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, rời bỏ quê hương của mình để phục vụ Tin Mừng trong những miền đất và văn hóa khác. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng cũng cùng các Giáo Hội trẻ đó đang dấn thân cách quảng đại như thế nào trong việc sai gửi các nhà truyền giáo đến các Giáo Hội đang gặp khó khăn – thường là những Giáo Hội có truyền thống Kitô giáo lâu đời – và vì thế mang luôn cả sự tươi tắn và lòng nhiệt thành của đức tin mà họ đang sống, một đức tin có khả năng làm mới lại đời sống và trao ban hy vọng. Để có thể sống chiều kích phổ quát này, đáp lại lệnh truyền của Đức Giêsu: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28:19) là một sự phong phú cho mỗi Giáo Hội địa phương, mỗi cộng đoàn, và việc gửi các thừa sai ra đi không bao giờ là một điều thua thiệt, nhưng là một mối lợi. Tôi mời gọi hết thảy những ai cảm nghiệm được lời mời gọi này hãy đáp lại tiếng nói của Chúa Thánh Thần cách quảng đại, tùy theo bậc sống của mình, và không ngại tỏ ra hào phóng với Thiên Chúa. Tôi cũng mời gọi các Giám Mục, gia đình công giáo, các cộng đoàn và toàn thể các nhóm Kitô, với sự nhận định cẩn thận và rộng lớn, hãy nâng đỡ các nhà truyền giáo gọi là ad gentes và trợ giúp các Giáo Hội đang cần các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân, hầu có thể thắt chặt hơn cộng đoàn Kitô hữu. Và mối bận tâm này cũng cần phải có trong các Giáo Hội vốn là một phần của cùng một Hội Đồng Giám Mục và một Vùng, bởi vì thật là quan trọng khi những giáo hội giàu ơn gọi giúp đỡ cách rộng lượng hơn những giáo hội thiếu ơn goi.

Đồng thời, tôi cũng xin các nhà truyền giáo, đặc biệt là các linh mục sống theo Fidei Donum và giáo dân, hãy vui sống việc phục vụ quý giá của mình trong các giáo hội mà họ được sai đến và mang niềm vui cũng như kinh nghiệm của họ về những Giáo Hội quê hương của mình, hãy nhớ Phaolo và Banaba ở cuối hành trình truyền giáo thứ nhất của họ đã “tường thuật thế nào những điều Thiên Chúa đã cùng làm với họ và Ngài đã mở cánh cửa đức tin cho các dân ngoại như thế nào” (Cv 14:27). Họ có thể trở thành con đường cho một loại “quay trở lại” của đức tin, mang sự tươi tắn của các Giáo Hội trẻ đến với các Giáo Hội có truyền thống Ki-tô giáo lâu đời, và nhờ đó giúp họ tái khám phá ra sự nhiệt thành và niềm vui của việc san sẻ đức tin trong một cuộc trao đổi làm phong phú cho nhau trên hành trình theo Chúa.

Mối bận tâm dành cho tất cả các giáo hội mà Giám Mục Rôma chia sẻ với anh em Giám Mục của mình tìm thấy một sự diễn tả quan trọng trong hoạt động của Hội Đồng Truyền Giáo Giáo Hoàng (Pontifical Mission Societies), một cơ quan nhằm thúc đẩy và đào sâu ý thức truyền giáo của mỗi người Ki-tô hữu đã được rửa tội, và mỗi cộng đoàn, bằng việc nhắc nhở họ nhớ đến nhu cầu đào luyện việc truyền giáo một cách sâu sắc hơn cho toàn thể Dân Chúa và bằng việc khuyến khích các cộng đoàn Ki-tô hữu đóng góp cho việc lan toàn Tin Mừng trên thế giới.

Cuối cùng, tôi muốn diễn ra một suy nghĩ về các Kitô hữu, những người sinh sống trên khắp mọi miền của thế giới, đang trải nghiệm những khó khăn trong việc tuyên xưng cách công khai niềm tin và trong việc hưởng các năng quyền pháp lý để có thể tuyên xưng đức tin của mình. Họ là những anh chị em của chúng ta, những chứng nhân can trường – thậm chí còn đông hơn các vị tử đạo trong các thế kỷ đầu – họ là những người đang chịu đựng nhiều hình thức bách đạo đương đại với một sự ngoan cường mang tính tông đồ. Một số người đã liều mình quyết giữ lòng trung tín với Tin Mừng của Đức Kitô. Tôi thành thực xác quyết lại lần nữa sự gần gũi của tôi trong lời cầu nguyện đối với các cá nhân, gia đình và cộng đoàn đang phải chịu đựng những bạo lực và thù hằn, và tôi lặp lại với họ những lời an ủi của Đức Giêsu: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16:33)

Đức Biển Đức XVI đã diễn tả niềm hy vọng rằng: “Lời Chúa sẽ lan tỏa nhanh chóng và được tôn vinh khắp nơi” (2 Tx 3:1). Ước gì năm đức tin này không ngừng gia tăng mối tương quan giữa chúng ta với Đức Chúa Giê-su Ki-tô, vì chỉ trong Người, ta mới có được một sự chắc chắn để nhìn về tương lai và một đảm bảo của tình yêu chân thực và kéo dài mãi” (Porta fidei, 15). Đây là mong ước của tôi cho Ngày Truyền Giáo Thế Giới năm nay. Tôi ưu ái ban phép lành cho các nhà truyền giáo và tất cả những ai đồng hành và nâng đỡ công cuộc dấn thân nền tảng này của Giáo Hội trong việc rao giảng Tin Mừng cho khắp mọi người ở tận cùng trái đất. Nhờ đó, chúng ta, xét như những thừa tác viên và nhà truyền giáo của Tin Mừng, cảm nghiệm được “niềm vui dịu ngọt và an ủi của việc loan báo tin mừng” (PAUL VI, Evangelii Nuntiandi, 80)
Từ Vatican, 19.5.2013, Lễ Trọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Phanxicô, Giáo Hoàng

Chuyển ngữ: Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ

LM Lý được giải thưởng ‘Truman-Reagan Medal of Freedom”

LM Lý được giải thưởng 'Truman-Reagan Medal of Freedom”

WASHINGTON DC (NV) .- Sáng hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản trên thế giới vinh danh và trao giải thưởng năm nay cho linh mục Nguyễn Văn Lý hiện đang bị tù tại Việt Nam.

Linh mục Nguyễn Văn Lý bị một Công an CSVN bịt miệng khi ngài lên tiếng đả kích Cộng Sản tại phiên tòa ở Huế ngày 30/3/2007. Tấm hình này được coi như biểu tượng của sự vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. (Hình: AFP/Getty Images)

Theo nguồn tin từ Hoa Thịnh Đốn, Sáng Hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial Foundation) vừa quyết định vinh danh và trao huy chương  “Truman-Reagan Medal of Freedom” năm nay cho linh mục Nguyễn Văn Lý vì đã đấu tranh không ngừng nghỉ cho nhân quyền, tự do tôn giáo, bất chấp tù tội, nguy hiểm bản thân nên đã bị nhà cầm quyền CSVN kết án tù.

Giải thưởng và huy chương “Truman-Reagan Medal of Freedom” dành cho linh mục Nguyễn Văn Lý sẽ được tổ chức trao tặng tại Hoa Thịnh Đốn vào ngày 1/11/2013 tới đây.

Linh mục Nguyễn Văn Lý, 67 tuổi, đã bị nhà cầm quyền Việt Nam bỏ tù 3 lần mà thời gian ở tù tổng cộng đã gần 20 năm, chưa kể các năm tháng bị quản chế. Hiện ông đang bị giam giữ ở nhà tù Ba Sao tỉnh Nam Hà với bản án 8 năm với cáo buộc “Tuyên truyền chống nhà nước”.

Dù đã bị tai biến mạch máu ít nhất 3 lần trong nhà tù, nhiều lúc không thể tự di chuyển đi đứng và gần với cái chết, ông vẫn không được nhà cầm quyền CSVN trả tự do dù có sự vận động mạnh mẽ của các chính phủ và quốc hội các nước Tây phương, đặc biệt là Hoa Kỳ.

Linh mục Lý đã tố cáo nhà cầm quyền CSVN thi hành các chính sách cai trị ngược lại với những cam kết quốc tế về nhân quyền, đòi chế độ trả lại cho nhân dân các quyền tự do căn bản như quyền tự do báo chí, tự do phát biểu, tự do hội họp lập hội, tự do tôn giáo, tuy có ghi trong bản hiến pháp của chế độ nhưng bị hạn chế nghiêm ngặt trong thực tế. 

Linh mục Nguyễn Văn Lý là một trong những người sáng lập Khối 8406, một tổ chức công dân vận động dân chủ hóa đất nước, đòi CSVN bỏ điều 4 hiến pháp dành độc quyền cai trị cho đảng Cộng Sản và đòi bầu cử quốc hội trực tiếp, tự do ứng cử và bầu cử.

 

Tượng nữ thần Dân Chủ tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nhắc nhở mọi người về hơn 100 triệu nạn nhân bị Cộng Sản sát hại khắp trên thế giới. (Hình: Wikipedia)


Bất cứ người dân nào đi ra ngoài khuôn khổ của nhà cầm quyền độc tài tại Việt Nam, đều bị bắt bỏ tù dựa trên những điều luật hình sự mơ hồ. Khi còn là quản xứ họ đạo An Truyền gần thành phố Huế, linh mục Lý đã cùng giáo dân treo biểu ngữ “Tự do tôn giáo hay là chết” quanh nhà thờ.

Sáng hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản có cựu tổng thống George W. Bush là chủ tịch danh dự.

Sáng Hội Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản là một tổ chức vô vị lợi mang tính giáo dục ở Hoa Kỳ. Tổ chức được thành lập theo một đạo luật năm 1993 với mục đích tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân đã bị Cộng Sản sát hại trên thế giới.

Linh mục Nguyễn Văn Lý từng được nhiều vị dân cử tại Hoa kỳ và quốc hội Liên Âu đề cử giải thưởng Nobel Hòa Bình. (TN).

Nguồn: Người Việt

Giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013

Giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013

Vào trưa Chủ Nhật, ngày 6-10-2013, một buổi lễ vinh danh và trao tặng "Giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013" cho nhà báo J.B. Nguyễn Hữu Vinh và Mục Sư Phạm Ngọc Thạch, tại thành phố Houston, do Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại tổ chức.

Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại thành lập vào năm 1992 tại Rome, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người Công giáo Việt Nam tị nạn Cộng sản tại hải ngoại. Đến năm 2010, phong trào thiết lập Giải Tự Do Tôn Giáo (TDTG) Nguyễn Kim Điền, để hỗ trợ và vinh danh những cá nhân hay tổ chức đã đóng góp tích cực vào việc tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam. Lần đầu tiên, Giải TDTG-Nguyễn Kim Điền vinh danh Tu viện và Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Năm kế tiếp, 2011, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo Nguyễn văn Lía và Linh mục Nguyễn hữu Giải, thuộc Tổng giáo phận Huế, được chọn để trao giải này. Sang đến năm 2012, ông Võ văn Thanh Liêm, cũng là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và Giáo điểm Con Cuông thuộc giáo phận Vinh được vinh danh.

Ông Đỗ Như Điện, đại diện Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại, giải thích rằng những cá nhân và đoàn thể được chọn để trao giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền là những người đã vì tranh đấu cho tự do tôn giáo mà bị nhà nước Việt Nam đối xử không công bằng:

"Những người được chọn là những người đã từng vào tù ra khám. Đã bị hành hạ, hành hạ về thân xác, về gia đình, về thể lực. Tất cả những gì họ (nhà nước) có thể đổ lên đầu những người đó là họ làm. Do đó chúng tôi thấy cần phải vinh danh những người đã can trường để tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo trong nước."

RFA_TDTonGiao2-305.jpg

Năm nay, Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại chọn Mục Sư Phạm Ngọc Thạch và blogger J.B. Nguyễn Hữu Vinh để trao giải TDTG-Nguyễn Kim Điền. Trong thông báo gửi báo chí, ban tổ chức cho biết:

Nhà báo JB Nguyễn Hữu Vinh đã kiên cường tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam trên nhiều hình thức, đặc biệt trên mặt truyền thông. Ông đã bị đánh trọng thương trong vụ Cộng sản Việt Nam triệt hạ thánh giá tại Đồng Chiêm và liên tục bị khủng bố, hạch sách, bao vây kinh tế nhưng vẫn hiên ngang xông xáo, không lùi bước.

Mục Sư Phạm Ngọc Thạch đã bị bắt bớ, đánh đập, vào tù, đuổi nhà và đang trở thành kẻ vô gia cư trên chính quê hương Việt Nam, nên ông coi giang sơn đất nước là nhà, và vẫn kiên cường tiếp tục sứ mạng rao giảng sự thật, và tranh đấu cho tự do tôn giáo, nhân quyền cho đồng bào Việt Nam.

Mục sư Phạm Ngọc Thạch và blogger Nguyễn Hữu Vinh không đến được Hoa Kỳ để nhận giải thưởng nhưng đã cử người đại diện nhận thay cho mình.  Trong dịp này, qua điện thoại, Mục Sư Phạm Ngọc Thạch đã phát biểu cảm tưởng cũng như lời cảm ơn ban tổ chức và đồng hương tham dự:

"Khi nhận được tin tôi được chọn là người trúng giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền năm nay, tôi hết sức bỡ ngỡ, sung sướng lẫn hãnh diện nhưng đồng thời lại cảm thấy vô cùng ái ngại khi được Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại đánh giá cao việc đấu tranh cho tự do tôn giáo của tôi. Tôi ái ngại vì nghĩ rằng có nhiều người đấu tranh hơn tôi, xứng đáng lãnh giải này hơn tôi.

Tôi hy vọng tất cả những người đấu tranh can trường đó cũng sẽ được vinh danh trong tương lai. Vì thế, khi lãnh nhận sự vinh danh lẫn giải thưởng ngày hôm nay, tôi muốn nhận lãnh với tư cách đại diện cho tất cả những người đấu tranh cho tự do tôn giáo nói riêng và cho những người đang đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ở trong nước, nói chung, chứ không phải chỉ nhận lãnh cho riêng tôi… Trước khi dứt lời, tôi ước nguyện tất cả chúng ta, dù ở bất cứ đâu, cũng đều đoàn kết đấu tranh không mệt mỏi cho quê hương Việt Nam thoát khỏi chế độ độc tài cộng sản để được thanh bình, tự do và hạnh phúc."

Và ông Phạm Hồng Lam, thay mặt blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, đọc điện thư của nhà báo này, gửi đến từ Việt Nam.

"… Thật khó nói hết được sự xúc động khi tôi được Phong Trào Giáo Dân Hải Ngoại chọn vinh danh trao tặng giải thưởng Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013, cùng với mục sư Phạm Ngọc Thạch. Vinh dự này đối với tôi là một phần thưởng lớn lao. Đây là điều tôi chưa bao giờ nghĩ tới, kể từ khi bắt đầu cất tiếng nói nhỏ bé của mình cho quyền cơ bản nhất của con người, đó là quyền tự do tôn giáo, quyền được làm người có niềm tin, trong một đất nước độc tài, theo chủ nghĩa Cộng sản vô thần. Đây không phải chỉ là vinh dự riêng của cá nhân tôi mà là nguồn cổ vũ, động viên tất cả anh chị em cùng có chung nguyện ước, chung ý chí và hành động, chung một tấm lòng muốn cho đất nước, người dân, được tự do, ấm no hạnh phúc…"

Hiện diện trong buổi vinh danh và trao giải Tự Do Tôn giáo Nguyễn Kim Điền 2013, nha sĩ Chu Văn Cương, chủ tịch Tổ chức Phục Hưng Việt Nam, chia sẻ là ông rất tâm đắc với việc làm của Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại.

"Biết về Phong Trào Giáo Dân, tìm hiểu được cương lĩnh của Phong Trào Giáo dân, chúng tôi rất tâm đắc vì chúng tôi nhận thấy rằng tín đồ của các tôn giáo, nếu chỉ đấu tranh cho tôn giáo mà không nghĩ đến đất nước Việt Nam là một sự thiếu sót rất lớn. Chúng tôi nhận thấy được rằng, ngoài đời sống tâm linh, những sự nghiên cứu về siêu nhân, về đạo … và những công tác thường làm của một tín đồ là công tác từ thiện, bác ái, xã hội …thì Phong trào Giáo dân còn đặt rất nặng về vấn đề chính trị."

Xin mượn lời phát biểu của cư sĩ Nguyễn Anh Dũng trong buổi vinh danh và trao giải Tự Do Tôn Giáo Nguyễn Kim Điền 2013, để kết thúc phóng sự này:

"Đất nước Việt Nam được diễm phúc có được đức cố TGM Nguyễn Kim Điền là một công dân yêu nước. Giáo Hội có một đức TGM, vì phúc âm mang đến quyền lợi cho đồng bào, cho dân tộc Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, phong trào giáo dân đã đi song hành với đất nước, và thực tế là giải nhân quyền. Nhà báo Nguyễn hữu Vinh đã dùng ngòi bút của mình, những ngòi bút mềm trở thành những ngòi bút sắt, viết lên sự thật; sự đau khổ của đất nước, viết lên sự thật; sự tàn ác của cộng sản Việt Nam. Và chúng ta, 90 triệu dân trong và ngoài nước, hãy đồng hành với nhà báo Nguyễn Hữu Vinh, là những cây bút sắt, 90 triệu cây bút, viết lên sự tàn ác của CSVN."

Hiền Vy, thông tín viên RFA

Hơn 1,000 người thắp nến cầu nguyện cho giáo dân Mỹ Yên tối ngày 5 tháng 10-2013

Hơn 1,000 người thắp nến cầu nguyện cho giáo dân Mỹ Yên tối ngày 5 tháng 10-2013

GARDEN GROVE (NV) – Ðêm thắp nến cầu nguyện cho nạn nhân giáo xứ Mỹ Yên và các nhà tranh đấu tại Việt Nam, diễn ra từ 7 đến 10 giờ tối Thứ Bảy, tại bãi đậu xe trường Bolsa Grande High School, Garden Grove, với cả ngàn người, thuộc mọi lứa tuổi, tham dự.
 

Hội Ðồng Liên Tôn và nhân sĩ cộng đồng giơ cao những ngọn nến hiệp thông với giáo dân Mỹ Yên. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

Sau phần nghi thức chào quốc kỳ Việt, Mỹ và phút mặc niệm, các thành viên Hội Ðồng Liên Tôn Việt Nam và các đại diện giáo dân hiệp thông trong nghi thức cầu nguyện. Các vị lãnh đạo tôn giáo thay phiên cầu nguyện đặc biệt cho các nạn nhân giáo xứ Mỹ Yên và các nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền trong nước đang gặp khó khăn.

Buổi lễ thắp nến được xen lẫn với những màn văn nghệ rực lửa đấu tranh do nhiều ca nghệ sĩ của Trung Tâm Asia thực hiện. Ðiều khiển chương trình là hai MC Việt Dzũng và Minh Phượng của đài Radio Bolsa.

Bài hát “Việt Nam Tôi Ðâu?” của nhạc sĩ Việt Khang, do Mai Thanh Sơn, Trúc Hồ và Ðoàn Phi trình bày, làm nổ tung sân khấu và khiến hàng ngàn cánh tay của người tham dự đưa lên, ngả nghiêng theo tiếng hát da diết và sống dậy với hùng khí của bài nhạc.
 

Các bạn trẻ hưởng ứng bài hát “Việt Nam Tôi Ðâu?” của nhạc sĩ Việt Khang, hiện đang bị giam giữ trong nhà tù ở Việt Nam. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

Phát biểu của Linh Mục Nguyễn Văn Khải, từ Rome sang, một vị linh mục trẻ nổi danh của giáo xứ Thái Hà, lại càng thu hút mọi người hơn nữa, qua cách nói độc đáo và dí dỏm của ông.

“Chúng ta phải mạnh mẽ hơn nữa để phát huy tinh thần mấy chục năm đấu tranh ở hải ngoại. Ðể tố cáo tội ác của cộng sản trước quốc tế, làm cho những kẻ tay sai cộng sản đi theo con đường dữ, chúng ta tố cáo để chúng không ngửng mặt lên được với quốc tế, phải đi cửa hậu. Hèn với giặc, ác với dân như Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang hay gần nhất là Nguyễn Tấn Dũng,” Linh Mục Khải nói, trong khi những tràng pháo tay nổi lên.

Vị linh mục nói thêm: “Ðối với cộng sản, không thể dùng đối thoại mà phải đối đầu vì bản chất của chúng là dối trá. Chúng ta phải dùng 'Lý-Lì-Liều'!”

Các tiếng vỗ tay xen với lời ca ngợi lại nổi lên.

“Chống cộng không phải là giết người mà là giết chủ thuyết và cơ chế giết người. Cộng sản là cơ chế của tội ác, là hiện thân của quỷ dữ,” vị linh mục nói.
 

Từ trái, Mai Thanh Sơn, Trúc Hồ và Ðoàn Phi với nhạc phẩm “Việt Nam Tôi Ðâu?” được tất cả mọi người hưởng ứng nhiệt liệt. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)

“Những nhà tranh đấu trong nước nói rằng lúc nào họ cũng sẵn sàng để đi tù vì chỉ vào tù mới gặp người tốt và thử thách là quà tặng của tổ quốc dành cho họ,” Linh Mục Khải lên giọng thu hút đám đông.

Linh mục nói năm 2007 mới có phong trào chống Tàu Cộng, thế mà năm 2013, Hà Nội mỗi Chủ Nhật đều có người xuống đường chống Tàu Cộng.

“Ðiếu Cày Nguyễn Văn Hải, một cựu cán binh Việt Cộng xuống đường, nữ sinh Phương Uyên chưa đầy 20 tuổi, xuống đường là những gì trong nước đang làm,” ông giải thích.
“Hải ngoại chúng ta phải nỗ lực dùng quốc tế vận. Cộng sản sợ các tôn giáo và mọi người hiệp thông, đoàn kết như chúng ta tối hôm nay!” vị linh mục khẳng định.

Sân khấu được dựng trong bãi đậu xe hướng về phía Tây, góc Westminster và Bushard. Phía trước sân khấu là hàng trăm chiếc ghế màu trắng được ban tổ chức thuê để đồng hương ngồi.

“Lúc đầu chỉ định có 500 ghế, nhưng sau đã phải tăng lên 800 ghế vì sự hưởng ứng quá nồng nhiệt của đồng hương,” anh Nguyễn Thiện Thành, một trong những người tổ chức, nói.
Người tham dự đứng phía sau các hàng ghế, hai bên và sau sân khấu cũng rất đông.

Một cặp vợ chồng trẻ thích nhất là mấy câu thơ mà Linh Mục Khải trích và cô vợ che tay cười thú vị.

“Ðánh cho chế độ cộng nô, làm ăn lương thiện cũng vô nhà tù. Tương lai dân tộc tối hù, chỉ vì Việt Cộng cầm cu giặc Tàu!” người chồng đọc lên các lời thơ một cách thích thú.

Qua buổi thắp nến, nhạc sĩ Trúc Hồ, tổng giám đốc đài truyền hình SBTN, nhận xét: “Hy vọng đêm thắp nến hôm nay sẽ cho những người bị cầm tù trong nước, cũng như gia đình họ, không cảm thấy cô đơn, vì những người Việt hải ngoại yêu chuộng tự do sẽ đồng hành với họ cho tới cuối con đường.”

Về mặt tổ chức, ông Nguyễn Mạnh Chí, một người tham gia tổ chức buổi thắp nến, nói: “Buổi thắp nến tối nay do 30 hội đoàn đứng ra tổ chức.”

Ông Ngô Thiện Ðức, một người khác tham gia tổ chức sự kiện này, nói thêm: “Ðặc biệt lần này là các đoàn thể trẻ ngồi lại tổ chức, nên không có ban tổ chức, mà chỉ có ban phối hợp thôi.”

Hôm 5 Tháng Chín, Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh đặt ở Xã Ðoài ra thông báo cho biết: “Tòa Giám Mục Xã Ðoài cực lực lên án việc chính quyền tỉnh Nghệ An dùng bạo lực đàn áp quần chúng nhân dân, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, sức khỏe và tính mạng của người dân, xúc phạm niềm tin tôn giáo.”

“Chúng tôi mạnh mẽ phản đối việc chính quyền không tôn trọng sự thật trong vụ việc ngày 22 Tháng Năm 2013, xuyên tạc và phủ nhận thiện chí đối thoại của Tòa Giám Mục giáo phận Vinh trong việc bênh vực quyền lợi người dân, bảo vệ công lý xã hội…”

Ðồng thời, bản thông cáo của Tòa Giám Mục Xã Ðoài “khẩn thiết kêu gọi mọi tín hữu giáo phận Vinh và những người yêu chuộng hòa bình hiệp thông cầu nguyện cho các nạn nhân của vụ đàn áp này và lên tiếng bênh vực cho công lý.”

Trước đó một ngày, thân nhân của hai ông Ngô Văn Khởi và Nguyễn Văn Hải đến trụ sở xã Nghi Phương chờ đón các ông về nhà theo sự cam kết của ông chủ tịch xã Nguyễn Trọng Tạo mà hạn chót là 4 giờ chiều.

Hai ông, là giáo dân giáo xứ Mỹ Yên, đã bị công an bắt cóc ngày 27 Tháng Sáu, rồi sau mới thông báo cho gia đình họ là “gây rối trật tự công cộng.”

Ðứng trước trụ sở xã Nghi Phương ngày 4 Tháng Chín, ngoài thân nhân, còn có hàng trăm giáo dân đứng ủng hộ tinh thần. Tuy nhiên, không thấy hai ông Khởi và Hải được trả tự do như ông Tạo viết giấy cam kết một ngày trước đó, mà một rừng cảnh sát cơ động, công an, bộ đội trang bị súng ống, lựu đạn cay, lựu đạn khói, dùi cui điện kéo tới.

Vụ đàn áp đã xảy ra, theo bản tin của Giáo Phận Vinh cho biết, giáo dân “đã bị lực lượng công an và bộ đội đánh đập nặng nề và bắt đi nhiều người. Một số giáo dân bị đánh đập trọng thương đã được chuyển về phòng khám đa khoa Tòa Giám Mục Xã Ðoài cấp cứu, một số khác đang được cấp cứu tại bệnh viện 115, thành phố Vinh.”


Liên lạc tác giả: LinhNguyen@nguoi-viet.com

 

Đức Thánh Cha cảnh giác trước cám dỗ ”chạy trốn Thiên Chúa”

Đức Thánh Cha cảnh giác trước cám dỗ ”chạy trốn Thiên Chúa”

VATICAN. ĐTC Phanxicô cảnh giác các tín hữu trước cám dỗ muốn ”trốn chạy khỏi Thiên Chúa”.

Trong bài giảng thánh lễ lúc 7 giờ sáng 7 tháng 10-2013, tại Nhà Trọ Thánh Marta ở Nội Thành Vatican, ĐTC diễn giải về chuyện ông Giona chăm chỉ giữ luật và làm điều thiện, nhưng khi Chúa bảo ông đến giảng cho dân thành Nivive thì ông xuống thuyền chạy trốn. Ngài cũng nhắc đến sự tích người bị cướp đánh trọng thương và bỏ mặc bên vệ đường. Thầy tư tế và thầy Levi đi đang ngang qua đó, tránh sang bên kia đường, trong khi người Samaritano, vốn bị người Do thái coi là người tội lỗi, đã dừng lại cứu giúp người bị thương.

ĐTC khẳng định rằng: ”Sự trốn chạy khỏi Thiên Chúa như thế cũng có thể là thái độ của Kitô hữu, của người Công Giáo, của LM, GM hay Giáo Hoàng. Tất cả chúng ta đều có thể chạy trốn khỏi Thiên Chúa. Đó là một cám dỗ hằng ngày. Đó là thái độ không lắng nghe tiếng Chúa, không nghe đề nghị và lời mời gọi của Chúa trong con tim chúng ta. Có những cách trốn chạy khỏi Thiên Chúa một cách tinh vi hơn như thái độ của thầy tư tế và thầy Levi, viện cớ sợ trễ giờ lễ, để không cứu giúp người bị thương”.

ĐTC đề cao thái độ của người Samaritano nhân lành, ”ông ta không quen với những việc thực hành tôn giáo, với đời sống luân lý, và sai lầm về phương diện thần học, vì người xứ Samaria tin rằng phải thờ lạy Thiên Chúa ở nơi khác, chứ không phải tại nơi Chúa muốn… Nhưng ông đã hiểu Thiên Chúa đang gọi ông và ông không chạy trốn. Ông đến gần người bị thương, băng bó săn sóc vết thương rồi vác lên ngựa, chở đới nhà trọ và săn sóc.”
ĐTC nhận xét rằng vị tư tế và thầy Levi trốn chạy Thiên Chúa vì họ có con tim khép kín. Khi bạn có con tim khép kín, thì không thể nghe tiếng Chúa. .. Trái lại người Samaritano, kẻ tội lỗi, đã có tâm hồn mở rộng, tâm hồn nhân bản.. ông để cho Chúa viết lên cuộc sống: Ông đã thay đổi tất cả tối hôm đó, vì Chúa đã dẫn ông đến gần người bị thương đó nằm bên vệ đường..

”Tôi tự hỏi, và tôi cũng hỏi anh chị em: chúng ta có để cho Thiên Chúa viết lên cuộc sống chúng ta hay chúng ta muốn tự mình viết ra cuộc sống ấy? Chúng ta có ngoan ngoãn đối với Lời Chúa hay không?.. Bạn có khả năng tìm thấy Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày hay không hoặc những ý tưởng của bạn là những điều nâng đỡ bạn, và không để cho sự ngạc nhiên của Chúa nói với bạn?

”3 người đã trốn chạy khỏi Thiên Chúa và một người khác ở trong tình trạng bất hợp lệ, nhưng lại có khả năng lắng nghe, cởi mở tâm hồn và không chạy trốn.. Tôi chắc chắn rằng tất cả chúng ta đều thấy rằng người Samaritano, kẻ tội lỗi, không chạy trốn khỏi Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta được nghe tiếng Chúa, Đấng nói với chúng ta: Con hãy đi và làm như vậy!” (SD 7-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Kinh Truyền Tin với Đức Giáo Hoàng tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Kinh Truyền Tin với Đức Giáo Hoàng tại Quảng Trường Thánh Phêrô

Chúa Nhật, ngày 6 tháng 10-2013, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô với các tín hữu hành hương diễn ra vào lúc 12h (giờ Rôma) tại quảng trường thánh Phero diễn ra trong một bầu khí thật nồng ấm. Chưa đến giờ, nhưng các tín hữu từ khắp nơi đã tụ về quảng trường, để chờ diện kiến và nghe những lời giáo huấn của ngài, cũng như cùng ngài cầu nguyện và nhận phép lành từ ngài.

Đúng 12h, từ cánh cửa sổ, vẫn như thường lệ, ngài lớn tiếng chào các khách hành hương.

“Anh chị em thân mến,
Trước hết, tôi muốn dâng lợi tạ ơn Thiên Chúa vì ngày tôi đã trải qua ở Assisi, mới hôm qua thôi. Các bạn biết là đây là lần đầu tiên tôi đến Assisi và đó là một hồng ân to lớn khi làm chuyến hành hương nhân ngày lễ kính Thánh Phanxicô”. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể người dân Assisi vì dự đón tiếp nồng hậu: cảm ơn tất cả.

Sau đó, ngài bắt đầu với nội dung đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay:

“Hôm nay, đoạn Tin Mừng bắt đầu với câu: “Khi ấy, các tông đồ nói với Chúa Giê su: “Xin hãy gia tăng niềm tin cho chúng con! (Lc 17: 5-6). Tôi nghĩ chúng ta có thể lấy câu này thành lời cầu xin của mình, đặc biệt là trong năm đức tin này. Chúng ta cũng giống như các tong đồ, nói với Chúa Giê su: “Xin hãy gia tăng niềm tin cho chúng con.” Vâng, lạy Chúa, đức tin của chúng con nhỏ bé, đức tin của chúng con yếu ớt, mỏng dòn nhưng con dâng lên Chúa đức tin ấy như nó là, vì Ngài sẽ làm cho nó lớn lên. Chúng ta hãy cùng lặp lại với nhau: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin cho chúng con!

Và Chúa đã trả lời thế nào? Ngài nói: “ Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể bảo cây dâu này ‘hãy nhổ rễ và xuống biển mà nằm’, nó cũng sẽ vâng lời các con (c 6).” Hạt cải rất nhỏ bé, nhưng Đức Giê su nói rằng nếu các con có đức tin nhỏ như thế thôi, nhưng chân thực, thành thực, thì cũng có thể làm những điều không thể đối với con người, những điều không thể nghĩ tới. Và đó là sự thật! Tất cả chúng ta biết rằng những con người đơn sơ, khiêm tốn nhưng có một đức tin mạnh mẽ thì có thể dời núi chuyển non! Hãy nghĩ đến, ví dụ như, những người cha người mẹ, những người phải đối mặt với những khó khăn rất nặng nề hay những bệnh nhân nào đó, có khi đang rất nặng, nhưng vẫn mang đến cho những ai đến thăm sự thanh thản bình an. Những người đó, nhờ đức tin của họ, đã không tự hào về những gì mình làm, nhưng, như Đức Giê-su nói trong đoạn Tin Mừng, họ nói: “Chúng con chỉ là những người tôi tớ. Chúng con chỉ làm những điều phải làm” (Lc 17,10)” Bao nhiêu người trong chúng ta có được đức tin mạnh mẽ như thế, làm được những điều như thế.

Đức Thánh Cha cũng đề cập đến ý hướng của tháng 10, tháng cầu nguyện cho việc truyền giáo và tháng kính Đức Mẹ Mân Côi. Ngài khuyên mọi người hãy cầu nguyện vì chỉ có cầu nguyện, ta mới có thể có được sức mạnh để đối diện với những thử thách, để có đức tin vững mạnh.

“Trong tháng 10 này, tháng dành riêng cách đặc biệt cho việc truyền giáo, chúng ta hãy nhớ đến các nhà truyền giáo, cả nam lẫn nữ, những người để có thể mang Tin Mừng đến cho ngườ khác, họ đã phải vượt qua những khó khăn đủ loại, đã thực sự trao ban sự sống, như thánh Phaolo nói với Timotheo: “con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa. (2 Tm 1:8) Điều này tác động đến tất cả chúng ta rằng: mỗi người trong chúng ta, trong đời sống hằng ngày của chúng ta, có thể làm chứng cho Chúa, với sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh của niềm tin. Đức tin của chúng ta nhỏ bé nhưng mạnh mẽ: với sức mạnh đó chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, là những người Kitô hữu bằng đời sống, bằng chứng ta của chúng ta.

Và làm thế nào để chúng ta có được sức mạnh ấy? Chúng ta có được sức mạnh ấy từ Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện là hơi thở của đức tin: trong một sự gắn kết với lòng tin tưởng, tình yêu, và cả đối thoại vốn là điều không thể thiếu, và lời cầu nguyện là một cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Tháng 10 cũng là tháng Mân Côi, và trong Chúa Nhật đầu tiên này, vẫn có truyền thống đọc kinh cầu Đức Mẹ Pompei, Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh Mân Côi. Chúng ta cũng hiệp ý với nhau trong bầu khí thiêng liêng để cùng cử hành hành vi đức tin này với Mẹ chúng ta, và nhận lãnh từ tay Mẹ tràng hoa Mân Côi: đó là trường cầu nguyện, trường đức tin!”

Sau Kinh Truyền Tin

Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói về việc phong chân phước cho một chủng sinh ở Modena và gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, các nhóm đoàn đã đến đây. Và Ngài ban phép lành cho tất cả.

Anh chị em thân mến,

Hôm qua, ở Modena, có lễ phong chân phước cho Rolando Rivi, một chủng sinh của vùng đất này, Emilia, người đã bị giết vào năm 1945 khi mới 14 tuổi, do người ta đã thù ghét đức tin của anh, cho rằng anh phạm lỗi khi mặc áo dòng trong thời gian người ta có xu hướng bài giáo sĩ. Vị chủng sinh này đã cất cao giọng nói kết án những cuộc tàn sát nhân danh Chúa ngay sau thời chiến. Nhưng đức tin vào Đức Giê su của anh đã vượt qua tinh thần thế gian! Chúng ta cùng tạ ơn Thiên Chúa vì vị tử đạo trẻ tuổi này, một chứng nhân anh dũng cho Tin Mừng. Và có bao nhiêu bạn trẻ 14 tuổi dám noi gương này. Một người trẻ dũng cảm, biết nơi nào cần, nhận thấy được tình yêu Giesu trong con tim và traoban sự sống cho Ngài, một mẫu gương tuyệt vời cho giới trẻ. Tôi muốn gợi nhớ lại cho tất cả các bạn, những người đã mất mạng ở Lampedusa thứ 5 tuần trước, những người nam nữ, trẻ em… Hãy để con tim của chúng ta than khác. Chúng ta hãy cầu nguyện trong thinh lặng.

Một cách nồng nhiệt, tôi gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương, đặc biệt là các gia đình và nhóm giáo xứ. Tôi xin gửi lời chào đến các tín hữu của thành phố Mede, Poggo Rusco, các bạn trẻ ở Zambana và Caserta.

Tôi cũng có một suy nghĩ đặc biệt dành cho cộng đoàn Peruvian ở Roma, đã có cuộc diễu hành ảnh thánh của Senor de los Milagros. Từ đây tôi thấy hình ảnh đó, giữa quảng trường, tôi cũng chào đón các tín hữu từ Chile và nhóm Burgerwache Mengen của Giáo Phận Rottenburg – Stuttgart, Đức.

Tôi xin gửi lời chào đến nhóm các phụ nữ đến từ Gubbio, gọi là “Via Francigena Francescana”; những lãnh đạo của Cộng đoàn Thánh Egidio trong một số nước ở Châu Á. Họ thật tuyệt vời, những người trong cộng đoàn Egidio; những người hiến máu của tổ chức ASFA ở Verona và những người của tổ chức AVIS ở Carpinone; Hội đồng quốc gia AGESCI, nhóm hưu của bệnh viện thánh Anna, ở Como, Học Viện Canossiano ở Brescia và Hiệp Hội Mission Effatà.”

Xin cầu chúc cho mọi người một ngày Chúa Nhật an lành.

Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

Blogger bị cầm tù: Việt Nam đàn áp những người bất đồng chính kiến

Blogger bị cầm tù: Việt Nam đàn áp những người bất đồng chính kiến

Catherine Barton từ Hà Nội

Các nhóm nhân quyền nói có hàng trăm người bị cầm tù nhưng chính quyền phủ nhận

Blogger bị cầm tù: Việt Nam đàn áp những người bất đồng chính kiến thumbnail

Các nhà hoạt động blogger nói họ bị đối xử giống như những kẻ khủng bố quốc tế, bị bí mật chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị biệt giam, còn gia đình thì không ngừng bị quấy rối.

Trong khi Việt Nam khẳng định nước này không có tù nhân chính trị, và vì vậy sẽ không bình luận về vấn đề này, các nhóm nhân quyền ước tính có hàng trăm nhà hoạt động bị bỏ tù vì lên tiếng chống chế độ Cộng sản độc đảng, trong đó có ít nhất 46 người bị bỏ tù trong năm nay.

Các nhà hoạt động nói trong khi tội phạm bình thường đã gặp những điều kiện khó khăn rồi, các tù nhân lương tâm còn chịu cảnh đối xử đặc biệt tàn nhẫn trong tù.

Các nhà tù có khu dành riêng cho tù nhân chính trị và ở đó “bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra và không một ai biết”, theo Nguyễn Trí Dũng, con trai của blogger nổi tiếng Điếu Cày, người đang thụ án 12 năm tù giam vì tội tuyên truyền chống phá nhà nước.

Giống như nhiều nhà bất đồng chính kiến khác, Điếu Cày có tên thật là Nguyễn Văn Hải từ chối nhận tội.

Hiện nay người thân của anh tin rằng anh đang bị phạt tù vì thái độ công khai kháng cự này.

Từ khi bị giam vào năm 2008 vì tội trốn thuế, Điếu Cày được chuyển tù 10 lần, theo gia đình anh, nhưng gia đình chưa bao giờ được báo trước.

Nhà bất đồng chính kiến bị cầm tù này, trường hợp của anh đã được Tổng thống Mỹ Barack Obama nêu lên, liên tục bị ép ký giấy nhận tội cũng như bị hạn chế lượt khách viếng thăm, người thân của anh kể.

Con trai anh cho biết cũng đã nhiều lần bị chính quyền bắt giam, lúc nào cũng dưới 24 tiếng đồng hồ, làm anh bị gián đoạn việc học hành và bỏ thi.

Dùng những lời buộc tội mập mờ và vu cáo là cách mà chính quyền dùng để cảnh báo các nhà hoạt động cần từ bỏ vận động, các chuyên gia nói.

Một blogger nổi tiếng nữa là luật sư Công giáo Lê Quốc Quân bị xét xử hôm thứ tư vì tội trốn thuế.

“Rõ ràng Lê Quốc Quân bị kết tội là vì anh là một người chỉ trích chính quyền Việt Nam có ảnh hưởng trong công chúng”, tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) đặt trụ sở ở New York nói hôm thứ ba, trong khi kêu gọi trả tự do cho luật sư 41 tuổi này.

Ở trong tù, chính quyền Việt Nam luôn bất khoan dung với các tù nhân không nhận tội, theo một nhà hoạt động bị cầm tù 5 năm trước đây.

“Chính quyền sợ họ sẽ tác động đến các tù nhân khác và gây chuyện”, anh nói.

Tù nhân chính trị và hình sự bị giam riêng và bị đối xử khác nhau”, anh nói với điều kiện giấu tên.

“Tù nhân hình sự trong các nhà tù Việt Nam có thể mua bất cứ thứ gì từ thức ăn đến thuốc lá và cả hêrôin”, anh cho biết, nhưng tù nhân chính trị thường không được phép mua sách hay giấy viết và bị giam trong phòng riêng.

Chính quyền độc tài Việt Nam không cho phép thanh tra độc lập các nhà tù.

Nhưng các chuyên gia nói thời gian biệt giam tùy hứng, một biện pháp được dành cho các tù nhân chính trị, có thể là hình thức tra tấn theo Công ước chống Tra tấn được Việt Nam nói sẽ thông qua trong năm nay.

“Theo các báo cáo chúng tôi nhận được cho thấy đây là việc làm thường gặp và quyết định biệt giam một người nào đó là tùy hứng, dựa theo quyết định của giám thị cai tù”, phó giám đốc khu vực châu Á của HRW Phil Robertson nói.

‘Cô lập các nhà hoạt động’

Các cựu tù nhân chính trị và người thân của họ được phỏng miêu tả cảnh gia đình bị quấy rối dữ dội: từ việc ép bạn bè cắt đứt liên lạc đến từ chối cấp giấy phép kinh doanh dùng để kiếm sống.

Làm như thế là để “cô lập các nhà hoạt động chính trị … và đe dọa gia đình và bạn bè”, nhà hoạt động từng bị giam trước đây nói.

“Họ tìm nhiều cách khác để kiểm soát, thuyết phục hay làm mất uy tín của các nhà hoạt động”, họ nói.

Áp lực dành cho gia đình và bạn bè khiến cho nhiều nhà bất đồng chính kiến rốt cuộc bị tách ly khỏi cuộc sống bình thường ở Việt Nam, và việc này vốn thường làm họ quyết tâm hơn.

“Những người khó khăn là những người sẵn sàng kháng cự và rồi bị khai trừ và lúc đó họ sẽ hành động còn kiên quyết hơn”, Bill Hayton, tác giả cuốn Rising Dragon bị cấm tại Việt Nam, nói.

Phản ứng thái quá của chính quyền phản tác dụng, theo Hương Nguyễn, sinh viên Việt Nam sống lưu vong tại Mỹ.

“Gia đình của các nhà hoạt động biết nhiều về bản chất của chế độ chính trị này”, chị nói và thêm rằng nhiều người thân tự “bất đồng”.

Nguyễn có chồng chưa cưới bị bỏ tù năm 2010, nói lãnh sự quán Việt Nam ở Washington từ chối đổi hộ chiếu cho chị trừ khi chị hứa từ bỏ “các hoạt động phản đối”.

Chị đã từ chối và đã được cấp phép tị nạn chính trị gần đây.

Đấu tranh từ trong tù

Được tổ chức Reporters Without Borders cho là “kẻ thù của internet”, Việt Nam cấm các phương tiện truyền thông tư nhân và tất cả báo chí và kênh truyền hình đều do nhà nước quản lý.

Tuy nhiên, internet và phương tiện truyền thông xã hội đang thay đổi bản chất của cuộc chiến này. Facebook thỉnh thoảng bị chặn nhưng rất phổ biến nơi người dùng Việt Nam.

“Kết nối mạng xã hội và các mạng lưới nhà hoạt động có kinh nghiệm và rộng lớn đang đảm bảo tiếng nói từ các nhà tù được truyền ra ngoài và lan rộng khắp”, Robertson của HRW nói.

Hồi tháng 6, sau khi chính quyền từ chối trả lời đơn kiện và cố tình biệt giam anh trong ba tháng, Điếu Cày liền tuyệt thực.

“Bố tôi đáng cố thắp sáng số phận thực sự của các tù nhân chính trị Việt Nam, vốn đang nằm trong bóng tối”, con trai anh nói.

Hồi tháng 5, nhà hoạt động bị cầm tù Cù Huy Hà Vũ, con trai của một lãnh tụ cách mạng, cũng nhịn ăn trong 25 ngày.

Cuối cùng cả hai người bị cầm tù này cũng chấm dứt tuyệt thực sau khi có được sự nhượng bộ, một chiến thuật được một số người xem là một trong những chiến lược xử lý vấn đề bất đồng chính kiến của các nhà cầm quyền Cộng sản.

“Trung Quốc và Nga thanh trừng tàn nhẫn các đối thủ, giết hại nhiều người, đày ải họ”, nhà hoạt động bị giam trước đây nói.

“Đảng Cộng sản Việt Nam xảo quyệt và ma lanh,  họ không xem giết chết hay giam tù là giải pháp tốt nhất mà là phương kế cuối cùng. Vì thế họ có thể nắm quyền lâu hơn”.

Tin từ AFP – UCANSVIETNAM