Toàn văn Sứ điệp hòa bình của Đức Thánh Cha

Toàn văn Sứ điệp hòa bình của Đức Thánh Cha

TÌNH HUYNH ĐỆ, NỀN TẢNG VÀ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI HÒA BÌNH
Trong sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình đầu tiên của mình, tôi ước ao gửi đến mọi người, cá nhân cũng như các dân tộc, ước mong về một đời sống được đổ đầy với niềm vui và hy vọng. Trong trái tim của mỗi người nam và người nữ luôn thường trực một nỗi khao khát về một đời sống sung mãn, bao gồm khao khát không thể kìm nén được về tình huynh đệ vốn là điều lôi kéo chúng ta đến với người khác và giúp chúng ta đối xử với họ không như là kẻ thù hay người đối địch, nhưng như là anh chị em được đón nhận và ôm ấp.

Vì chúng ta là một hữu thể tương quan, tình huynh đệ là một phẩm chất thiết yếu của con người. Một ý thức sống động về mối tương quan này giúp chúng ta nhìn và đối xử với nhau như là anh chị em đích thực. Không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã hội công bình và một nền hòa bình bền vững và viên mãn. Chúng ta nên nhớ rằng tình huynh đệ cách chung được học biết tại gia đình, trên hết là nhờ vào vai trò trách nhiệm và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, đặc biệt là người cha và người mẹ. Gia đình là nguồn mạch của tình huynh đệ, và như thế gia đình chính là nền tảng và là con đường đầu tiên dẫn đến hòa bình, vì ơn gọi của gia đình chính là thông truyền tình yêu cho thế giới xung quanh.

Việc gia tăng về các mối liên hệ nối kết với nhau và truyền thông trong thế giới hôm nay khiến chúng ta ý thức nhiều hơn về sự hiệp nhất và số phận chung của các quốc gia. Trong sự năng động của lịch sử, trong sự đa dạng của các nhóm chủng tộc, xã hội và văn hóa, chúng ta nhìn thấy những hạt giống, là ơn gọi hình thành một cộng đoàn gồm những anh chị em biết đón nhận và chăm sóc lẫn nhau. Nhưng ơn gọi này vẫn thường xuyên bị khước từ và lờ đi trong một thế giới bị ghi dấu bởi “sự toàn cầu hóa dửng dưng”, điều làm cho chúng ta dần quen với sự đau khổ của người khác và khép mình lại.

Tại nhiều nơi trên thế giới, những tội ác chống lại những quyền nền tảng của con người dường như không kết thúc, đặc biệt là quyền sống và quyền tự do tôn giáo. Những thảm cảnh về tệ nạn buôn bán người, mà trong đó đời sống và nỗi tuyệt vọng của người khác là miếng mồi ngon của những kẻ vô đạo đức, là một ví dụ điển hình cho vấn đề này. Cùng với các cuộc xung đột vũ trang công khai là các cuộc chiến tranh ít nhìn thấy hơn, nhưng không kém phần độc ác, đó là các cuộc chiến trong các lĩnh vực kinh tế và tài chính, chúng phá hủy cuộc sống, phá hủy gia đình cũng như doanh nghiệp.

Toàn cầu hóa, như ĐTC Biển Đức 16 chỉ ra, làm cho chúng ta trở thành “hàng xóm” nhưng không giúp chúng ta trở thành anh chị em của nhau.[1] Nhiều tình huống bất bình đẳng, nghèo đói và bất công không chỉ là dấu chỉ của việc thiếu tình huynh đệ sâu sắc mà còn là dấu chỉ của sự vắng mặt một nền văn hóa liên đới. Những ý thức hệ mới, được đặc trưng bởi sự lan tràn của chủ nghĩa cá nhân, việc tự coi mình là trung tâm và chủ nghĩa tiêu thụ vật chất, làm suy yếu đi các mối tương quan xã hội và làm nảy sinh não trạng “thải bỏ” dẫn đến thái độ xem thường và loại bỏ những người yếu đuối nhất và những người bị xem là “vô dụng”. Trong cách này, sự đồng tồn tại của con người ngày càng có xu hướng trở thành một hành vi “có qua có lại” (do ut des) đầy thực dụng và ích kỷ.

Đồng thời, rõ ràng là hệ thống đạo đức đương đại không có khả năng tạo ra những mối tương quan huynh đệ đích thực, vì tình huynh đệ này không muốn tham chiếu đến một vị Cha chung là nền tảng tội hậu giúp nó tồn tại.[2] Tình huynh đệ đích thực giữa con người giả thiết và đòi hỏi một Tình Phụ tử siêu vượt. Nếu đặt nền tảng trên việc thừa nhận tình phụ tử này, tình huynh đệ nhân loại sẽ được củng cố: Mỗi người trở thành một “bạn hữu” để chăm lo cho người khác.

Em ngươi đâu?” (St 4,9)

2. Để hiểu đầy đủ hơn về ơn gọi của con người đối với tình huynh đệ, để nhận ra một cách rõ ràng hơn những cản trở trên bước đường hiện thực hóa ơn gọi này và để nhận ra những con đường nhằm vượt qua những cản trở ấy, điều quan trọng nhất là chúng ta hãy để cho mình hiểu biết kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch được trình bày trong một cách thức trổi vượt trong Kinh Thánh.

Theo tường thuật Thánh Kinh về sáng tạo, tất cả con người có nguồn gốc từ một cha mẹ, Adam và Eve, đôi bạn được Thiên Chúa sáng tạo theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài (xem St 1,26), từ họ, Cain và A-ben được sinh ra. Trong lịch sử của gia đình đầu tiên này, chúng ta nhìn thấy nguồn gốc của xã hội và sự tiến triển của các mối tương quan giữa các cá nhân và dân tộc.

A-ben là một người chăn cừu, Cain là một người trồng trọt. Căn tính sâu sắc của họ và ơn gọi của họ chính là anh em bất chấp sự đa dạng trong hoạt động và văn hóa, trong cách thức họ tương quan với Thiên Chúa và tạo vật. Việc Cain đã giết em mình là A-ben cho thấy một thảm kịch của sự khước từ triệt để ơn gọi làm anh em của Cain. Câu chuyện của họ (xem. St 4,1-16) chỉ ra nhiệm vụ khó khăn mà mọi người nam và nữ được mời gọi, để sống như một, mỗi người phải quan tâm đến người khác. Cain vì không thể chấp nhận việc Thiên Chúa yêu mến A-ben hơn, vì A-ben đã dâng cho Ngài lễ vật tốt nhất, – “Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt (St 4,4-5) – nên đã giết A-ben vì ghen tị. Theo cách này, ông từ chối xem A-ben là anh em, có mối liên hệ đúng đắn với A-ben và sống trong sự hiện diện của Thiên Cháu bằng cách đón nhận trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ người khác. Khi Thiên Chúa hỏi Cain “Em ngươi đâu?” (St 4,9), Thiên Chúa muốn Cain giải thích điều ông đã làm. Ông trả lời: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao? "
. Sau đó, sách Sáng Thế nói cho chúng ta biết, “Ông Cain đi xa khuất mặt Ðức Chúa” (4:16).

Chúng ta tự hỏi đâu là lý do đích thực khiến Cain xem thường mối tương quan huynh đệ và, đồng thời, mối tương quan hỗ tương và huynh đệ nối kết ông với em mình là A-ben. Chính Thiên Chúa đã kết án và quở trách Cain vì ông đã thông đồng với sự dữ: “tội lỗi đang nằm phục ở cửa” (St 4,7). Nhưng Cain đã khước từ, ông đồng lõa với sự dữ và quyết định “xông đến giết A-ben, em mình.” (St 4,8), như thế là ông xem thường kế hoạch của Thiên Chúa. Và như thế, ông đã phá vỡ lời mời gọi ban sơ của mình để trở nên con cái Thiên Chúa và sống trong tình huynh đệ.

Câu chuyện của Cain và A-ben dạy cho chúng ta biết rằng chúng ta có một lời mời gọi huynh đệ, nhưng nó cũng có thể trở thành thảm kịch khi phản bội lại lời mời gọi này. Điều này được chứng thực bởi những hành động ích kỷ hàng ngày của chúng ta, chúng là nguồn gốc của quá nhiều chiến tranh và bất công: nhiều người nam và người nữ đã chết dưới bàn tay của anh chị em mình, những người không có khả năng để nhận ra nơi người khác như chính họ là, nghĩa là như là những hữu thể được dựng nên trong mối tương quan với người khác, trong sự hiệp thông và trao ban.

Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8)

3. Một câu hỏi tự nhiên nảy sinh là: Người nam và người nữ trên thế giới này có khả năng để đáp trả một cách trọn vẹn khao khát tình huynh đệ mà Thiên Chúa là Cha đã đặt để trong họ không? Họ sẽ tự mình nỗ lực bởi chính khả năng của họ để vượt qua sự khác biệt, ích kỷ và ghen ghét và đón nhận những khác biệt chính đáng nơi anh chị em mình không?

Nhờ vào việc diễn giải lời của Đức Giê-su, chúng ta có thể tóm tắt câu trả lời mà Ngài đã đưa ra: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "rápbi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (xem Mt 23,8-9). Nền tảng của tình huynh đệ được dựa trên tình phụ tử của Thiên Chúa. Chúng ta không nói về tình phụ tử giống loài, đầy mơ hồ và bất toàn trong lịch sử, nhưng đúng hơn là một tình yêu cụ thể đầy trổi vượt và đặc biệt của Thiên Chúa dành cho mỗi người nam và nữ (xem Mt 6,25-30). Vì thế, chính tình phụ tử ấy làm nảy sinh một cách hiệu quả tình huynh đệ, bởi vì tình yêu Thiên Chúa, một khi được đón nhận, trở thành một phương tiện lớn lao biến đổi đời sống chúng ta và các mối tương quan của chúng ta với người khác, giúp chúng ta mở mình ra với tình liên đới và sự chia sẻ đích thực.

Trong một cách cụ thể, tình huynh đệ nhân loại được tái tạo trong và qua Đức Giê-su Ki-tô, qua cái chết và phục sinh của Người. Thánh giá chính là điểm nền tảng cuối cùng mà con người không thể tự mình tái tạo nên. Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã mặc lấy bản chất con người để cứu độ nó, yêu mến Chúa Cha cho đến chết trên Thập Giá (xem Pl 2,8), qua sự phục sinh của mình đã biến chúng ta thành một nhân loại mới, trong sự hiệp thông trọn vẹn với ý muốn của Thiên Chúa, với kế hoạch của Người, bao gồm một sự hiện thực hóa trọn vẹn ơn gọi làm huynh đệ.

Từ khởi đầu, Đức Giê-su đã đón nhận kế hoạch của Cha, thừa nhận tính ưu việt của nó trên mọi sự. Nhưng Đức Ki-tô, khi từ bỏ chính mình cho đến chết vì tình yêu dành cho Cha, Ngài đã trở thành nguyên lý chung kết và mới mẻ dành cho tất cả chúng ta; trong Ngài, chúng ta được mời gọi để đối xử với nhau như anh chị em, bởi vì chúng ta là con cái của cùng một Cha. Chính Ngài là Giao ước; nơi Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau như anh chị em. Cái chết của Đức Giê-su trên Thập giá cũng chấm dứt sự chia cách giữa mọi người, giữa dân của Giao ước và Dân Ngoại, những người cho đến giây phút đó không còn hy vọng, vì họ không phải là một phần của Lời hứa. Như chúng ta đọc thấy trong thư gửi Tín hữu Ê-phê-sô, Đức Giê-su Ki-tô là Đấng hòa giải mọi người nơi chính Ngài. Ngài chính là sự bình an, vì Ngài làm hai người trở nên một, phá vỡ bức tường phân cách chia rẽ họ, là sự thù nghịch giữa họ. Ngài đã tạo nên nơi chính mình một dân, một con người mới, một nhân loại mới (xem 2,14-16).

Tất cả những ai đón nhận đời sống của Đức Ki-tô và sống nơi Ngài biết rằng Thiên Chúa là Cha và họ sẽ trao ban trọn vẹn thân mình cho Ngài, bằng cách yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Một người đã được hòa giải sẽ nhận ra Thiên Chúa là Cha của mọi người, và kết quả là, họ được mời gọi để sống đời sống đệ huynh dành cho hết mọi người. Nơi Đức Ki-tô, người khác được chào đón và được yêu thương như người con trai hay con gái của Thiên Chúa, như một người chị, một người anh, chứ không phải như người xa lạ, hay tệ hơn là như một kẻ đối địch và thậm chí là kẻ thù. Trong gia đình của Thiên Chúa, nơi mọi người con trai và con gái có cùng một Cha, và vì họ được tháp nhập vào Chúa Ki-tô, những người con trai và con gái này sẽ ở trong Người Con, không phải là “đời sống đáng vứt đi”. Tất cả người nam và nữ chung hưởng một phẩm giá như nhau và không ai có thể xâm phạm được. Mọi người đều được Thiên Chúa yêu mến. Mọi người đều được cứu chuộc bởi máu của Đức Ki-tô, Đấng đã chết trên Thập giá và đã sống lại vì hết thảy chúng ta. Đây chính là lý do tại sao không ai có thể tiếp tục dửng dưng trước số phận của anh chị em mình.

Tình huynh đệ, nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình

4. Điều này muốn nói rằng, thật dễ để nhận ra rằng tình huynh đệ chính là nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình. Liên quan đến vấn đề này, các thông điệp xã hội mà các vị tiền nhiệm của tôi đã viết trở nên hữu ích. Có lẽ chỉ cần trích dẫn lại những định nghĩa về hòa bình trong các Thông điệp Populorum Progressio của Đức Thánh Cha Phaolô VI và Sollicitudo Rei Socialis của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì đã khá đầy đủ. Qua thông điệp thứ nhất, chúng ta biết rằng sự phát triển hội nhất của các dân tộc là một danh xưng mới của nền hòa bình.[3] Từ thông điệp thứ hai, chúng ta kết luận rằng hòa bình là thành quả của sự liên đới (Opus solidaritatis pax).[4]

Đức Phaolô VI đã trình bày rằng, không chỉ cá nhân mà các quốc gia cũng phải gặp gỡ nhau trong tình huynh đệ. Ngài nói: “Trong tình bạn và trong sự hiểu biết lẫn nhau, trong sự hiệp thông thánh này, chúng ta cũng phải… cùng nhau lao tác để xây dựng tương lai chung cho nhân loại”.[5] Trước hết, nhiệm vụ này dành cho những người được ưu tuyển. Trách nhiệm của họ được cắm rễ sâu trong tình huynh đệ nhân loại và mang tính siêu vượt, và được biểu lộ trong ba cách: bổn phận liên đới, vốn đòi hỏi các nước giàu hơn trợ giúp các nước kém phát triển hơn; bổn phận công bình xã hội, cần tổ chức lại các mối tương quan giữa kẻ mạnh hơn và người yếu thế hơn để có sự công bằng hơn; và bổn phận đức ái chung, bao gồm sự thăng tiến một thế giới nhân bản hơn dành cho mọi người, một thế giới mà nơi ấy mỗi người có một điều gì đó để trao và nhận, mà không xem sự thăng tiến của người này là sự cản trở cho sự phát triển của người khác.[6]

Vậy, nếu chúng ta xem hòa bình là thành quả của sự liên đới, chúng ta không thể không ý thức rằng tình huynh đệ chính là nguyên lý nền tảng của nó. Hòa bình, như ĐTC Gioan Phaolô II khẳng định, là một sự thiện không thể phân chia. Nó là một sự thiện dành cho tất cả và nó cũng là một sự thiện không thuộc về ai. Hòa bình chỉ có thể đạt được và được hưởng dùng, như là một phẩm chất cao nhất của đời sống và một sự phát triển bền vững của nhân loại, nếu tất cả mọi người được hướng dẫn bởi tình liên đới như “là một quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ trong việc dấn thân cho lợi ích chung”.[7] Điều này có nghĩa là đừng để mình được hướng dẫn bởi “ham hố lợi nhuận” hay “khao khát quyền lực”. Điều cần thiết là khao khát “từ bỏ chính mình” vì lợi ích của người khác hơn là khai thác họ, và “phục vụ họ” thay vì áp bức họ vì lợi ích của bản thân mình. “Tha nhân” – cho dẫu là một người hay một quốc gia – không được xem như một loại công cụ, với khả năng làm việc hay sức mạnh thể lý được khai thác với chi phí rẻ mạt, và rồi loại bỏ khi không còn hữu dụng, nhưng là như “đồng loại của chúng ta”, một “trợ tá.”[8]

Tình liên đới Kitô giáo giả thiết rằng tha nhân cần được yêu mến không chỉ “là một con người với những quyền lợi và sự bình đẳng căn bản đối với mọi người, mà còn trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, được máu Đức Kitô cứu chuộc và là đối tượng hoạt động của Chúa Thánh Thần”,[9] như biết bao nhiêu anh chị em khác. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lưu ý: “Lúc đó ý thức về tình phụ tử chung của Thiên Chúa, về tình huynh đệ của mọi người trong Đức Kitô, ‘những người con trong Chúa Con’, về sự hiện diện và họat động ban sự sống của Chúa Thánh Thần, đem lại cho cái nhìn của chúng ta về thế giới một tiêu chuẩn mới để giải thích nó,”[10] để thay đổi nó.

Tình huynh đệ, một đòi hỏi cho cuộc chiến chống đói nghèo

5. Trong Thông Điệp Bác ái trong Chân Lý, vị tiền nhiệm của tôi đã nhắc nhở thế giới về sự thiếu hụt tình huynh đệ giữa các dân tộc và giữa người nam và nữ là một nguyên nhân quan trọng của nghèo đói.[11] Trong nhiều xã hội, chúng ta kinh nghiệm về một sự nghèo nàn về các mối tương quan là kết quả của việc thiếu các mối tương quan vững chắc trong gia đình và xã hội. Chúng ta bận tâm nhiều đến các khó khăn, bị gạt ra bên lề, cô lập và các chứng phụ thuộc bệnh lý ngày càng gia tăng. Loại nghèo khó này chỉ có thể vượt qua nhờ vào việc tái khám phá và tôn trọng các mối tương quan huynh đệ trong trái tim của các gia đình và cộng đoàn, thông qua sự chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, những thất bại cũng như thành công, vốn là một phần của đời sống con người.

Hơn nữa, nếu như một mặt chúng ta đang chứng kiến một sự giảm sút trong nghèo khó thuần túy, thì mặc khác, chúng ta cũng không thể không nhận ra rằng có một sự gia tăng rất nghiêm trọng về tình trạng nghèo đói tương đối, nghĩa là những bất công giữa những người và giữa các nhóm cùng chung sống trong một vùng cụ thể hay trong một bối cảnh văn hóa lịch sử xác định. Trong ý nghĩa này, các chính sách hiệu quả cần thăng tiến nguyên lý huynh đệ, nhằm đảm bảo cho con người – những người bình đẳng trong phẩm giá và trong các quyền nền tảng – có thể tiếp cận đến các nguồn vốn, các dịch vụ, hệ thống giáo dục, sức khỏe và kỹ thuật để mỗi người có cơ hội diễn tả và hiện thực hóa dự án đời sống mình và có thể phát triển một cách trọn vẹn như một con người.

Một người cũng thấy rất cần có những chính sách nhằm giảm thiểu một sự bất công quá lớn trong thu nhập. Chúng ta đừng quên rằng Giáo huấn của Giáo hội về điều được gọi là khế ước xã hội, mà cho rằng, như thánh Tôma Aquinô nói, điều hợp luật và thực sự cần thiết là “người ta có quyền sở hữu”,[12] trong những gì liên quan đến việc sử dụng của mình, “họ sở hữu chúng không giống như tài sản của mình nhưng cũng là tài sản chung cho người khác, nghĩa là chúng có thể mang lại lợi ích cho người khác cũng như chính bản thân họ”.[13]

Cuối cùng, có một cách thức khác để thăng tiến tình huynh đệ – và thực sự đánh bại sự nghèo đói – mà cũng là nền tảng của tất cả những điều khác. Nó là sự tách mình ra của những người chọn một lời sống đơn sơ và đích thực, của những người mà, bằng cách chia sẻ tài sản của mình, họ thực sự đang cố gắng để kinh nghiệm sự hiệp thông huynh đệ với người khác. Đây chính là nền tảng cho việc theo Đức Ki-tô và trở nên Ki-tô hữu đích thực. Đây không chỉ là trường hợp của những người sống đời sống thánh hiến, những người tuyên khấn lời khấn nghèo khó, nhưng là của biết bao nhiêu gia đình và người dân đầy trách nhiệm, những người xác tín rằng, chính mối tương quan huynh đệ của họ với tha nhân mới hình thành nên sự thiện quý giá nhất.

Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế

6. Các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính nghiêm trọng trong thời gian gần đây – mà nhận ra gốc rễ của chúng chính là con người dần lạc xa Thiên Chúa và tha nhân, một mặt là do việc theo đuổi những của cải vật chất, và mặt khác là do sự bần cùng hóa các mối tương quan liên vị và cộng đoàn – đã thúc đẩy con người tìm kiếm sự thỏa mãn, hạnh phúc và an toàn trong việc tiêu thụ và lợi lộc từ tất cả những gì liên quan đến các nguyên lý của một nền kinh tế vững mạnh. Vào năm 1979, ĐTC Gioan Phaolô II đã mời gọi mọi người lưu ý tới “một lối nhận thức thật sự nguy hại là, trong khi sự thống trị của con người trên thế giới sự vật đang có những bước tiến lớn lao, thì trong sự thống trị của mình, con người đang dần đánh mất những mối dây thiết yếu và trong những cách thế khác nhau, bản tính nhân loại đang bị lệ thuộc vào thế giới và tự mình trở nên một điều phụ thuộc và bị sử dụng, và thậm chí việc sử dụng này không được nhận thức một cách đúng đắn – thông qua toàn thể tổ chức đời sống cộng đoàn, qua hệ thống sản xuất và áp lực từ các phương tiện truyền thông xã hội.”[14]

Các cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau nói cho chúng ta biết chúng ta cần suy nghĩ lại về những khuôn mẫu phát triển kinh tế của chúng ta và tiến tới một sự thay đổi trong cách sống. Các cuộc khủng hoảng ngày nay, thậm chí với những hậu quả nghiêm trọng cho đời sống con người, cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội quý giá để tái khám phá các nhân đức khôn ngoan, tiết độ, công bình và can đảm. Các nhân đức này có thể giúp chúng ta vượt qua những thời khắc khó khăn để tái khám phá mối dây huynh đệ nối kết chúng ta với người khác, với một niềm tin tưởng sâu sắc rằng con người cần và có khả năng đạt được điều gì lớn hơn là việc tối đa hóa lợi ích cá nhân. Trên hết, các nhân đức này cần thiết để xây dựng và giữ gìn một xã hội hợp với phẩm giá con người.

Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh

7. Trong năm qua, nhiều anh chị em của chúng ta tiếp tục phải gánh chịu kinh nghiệm hủy hoại của chiến tranh, gây nên một vết thương sâu và nghiêm trọng ảnh hưởng đến tình huynh đệ. Nhiều cuộc xung đột đang diễn ra giữa sự thờ ơ chung. Với những anh chị em đang sống trong những vùng đất nơi đó vũ khí áp đặt khủng bố và sự hủy diệt, tôi đảm bảo sự gần gũi cá nhân tôi và sự gần gũi của toàn thể Giáo hội, sứ mạng của Giáo hội là mang tình yêu của Chúa Ki-tô đến với những nạn nhân không có khả năng tự vệ, bị lãng quên bởi chiến tranh thông qua lời cầu nguyện cho sự hòa bình, qua sự phục vụ cho những người bị thương tích, đói kém, di dân, những người phải thay đổi nơi ở và tất cả những người đang sống trong sợ hãi. Giáo hội cũng sẽ lên tiếng để giúp các vị lãnh đạo lắng nghe được tiếng khóc than của những người đang gặp đau khổ và đặt một dấu chấm hết cho mọi hình thức của hận thù, lạm dụng và bạo lực đối với các quyền nền tảng của con người.[15]

Vì lý do này, tôi mạnh mẽ khuyến cáo những ai gieo rắc bạo lực và cái chết bằng sức mạnh của vũ khí: Trong con người mà hôm nay bạn chỉ thấy đơn thuần là một kẻ thù bị đánh đập, hãy khám phá ra rằng họ là anh chị em của bạn, và hãy ôm họ vào vòng tay bạn! Hãy từ bỏ những con đường của vũ khí và đi ra ngoài để gặp gỡ người khác trong đối thoại, tha thứ và hòa giải, để tái xây dựng hòa bình, tin tưởng và hy vọng xung quanh bạn! “Từ quan điểm này, rõ ràng là, đối với các dân tộc trên thế giới, xung đột vũ trang luôn luôn là một sự phủ định có chủ ý đối với sự hòa hợp quốc tế, và tạo ra sự chia rẽ sâu sắc và những vết thương sâu đòi hỏi nhiều năm để chữa lành. Chiến tranh là một sự khước từ cụ thể trong việc theo đuổi các mục tiêu kinh tế và xã hội to lớn mà cộng đồng quốc tế đã đề ra".[16]

Dầu vậy, bao lâu vẫn còn lượng vũ khí rất lớn đang lưu hành như hiện nay, những cái cớ mới có thể luôn được tìm thấy để bắt đầu hận thù. Vì lý do này, chính bản thân tôi cũng như các vị tiền nhiệm của tôi khẩn khoản mời gọi hạn chế sử dụng vũ khí giết người hàng loạt và các bên cần giải trừ quân bị, bắt đầu với việc giải trừ vũ khí hạt nhân và hóa học.

Tuy chúng ta không thể không nhận ra rằng các thỏa thuận và các luật lệ quốc tế – là điều cần thiết và rất đáng ao ước – nhưng tự chúng không đủ để bảo vệ con người ra khỏi những rủi ro của xung đột vũ trang. Một cuộc hoán cải con tim cần thiết sẽ cho phép mỗi người nhận ra nơi người khác là người anh người chị cần chăm sóc, và để cùng làm việc với nhau trong việc xây dựng một đời sống viên mãn cho mọi người. Chính tinh thần này đã gợi hứng cho nhiều sáng kiến trong xã hội dân sự, bao gồm các tổ chức tôn giáo trong việc thăng tiến hòa bình. Tôi bày tỏ hy vọng rằng các cam kết hàng ngày sẽ tiếp tục đơm hoa kết trái và áp dụng hiệu quả trong luật pháp quốc tế về quyền đối với hòa bình, như là một quyền cơ bản của con người và điều kiện tiên quyết cần thiết cho tất cả các quyền khác.

Tham nhũng và tội ác có tổ chức đe dọa tình huynh đệ

8. Chiều kích huynh đệ là điều cần thiết cho sự hoàn thiện của mỗi người nam và nữ. Những tham vọng hợp lý của con người, đặc biệt nơi những người trẻ, không nên bị cản trở hay chống đối, người ta cũng không nên bị cướp đi niềm hy vọng hiện thực hóa những tham vọng này. Dầu vậy, tham vọng không được lẫn lộn với việc lạm dụng quyền lực. Trái lại, mọi người cần thương mến nhau với tình huynh đệ (xem Rm 12,10). Trong những bất đồng, là điều không thể tránh khỏi trong cuộc sống, chúng ta luôn nhớ rằng chúng ta là anh chị em, và do đó cần khuyên nhủ người khác và khuyên nhủ nhau để không xem tha nhân là kẻ thù hay một địch thủ cần bị loại trừ.

Tình huynh đệ tạo ra bình an cho xã hội bởi vì nó tạo ra một sự quân bình giữa tự do và công bình, giữa trách nhiệm cá nhân và liên đới, giữa lợi ích cá nhân và ích chung. Và vì thế, một cộng đồng chính trị cần hoạt động trong một cách thức rõ ràng và trách nhiệm để hỗ trợ cho điều này. Các công dân phải cảm thấy mình là người đại biểu của chính quyền công cộng liên quan đến tự do của mình. Nhưng lợi ích của các bên đã chen vào giữa công dân và các tổ chức và phá vỡ mối quan hệ đó, điều này đã thúc đẩy tạo ra một bầu khí xung đột lâu dài.

Một tình huynh đệ đích thực vượt qua sự ích kỷ cá nhân, điều vốn xung đột với khả năng con người sống trong tự do và hòa hợp với nhau. Sự ích kỷ như thế phát triển về mặt xã hội – cho dẫu nó ở dưới nhiều hình thức của tham nhũng, rất phổ biến ngày nay, hay trong sự huấn luyện của các tổ chức tội ác, từ những nhóm nhỏ đến những nhóm được tổ chức trên phạm vi toàn cầu. Các nhóm này phá vỡ các luật lệ và công bình, đụng chạm đến trái tim của phẩm giá con người. Các tổ chức này chống lại Thiên Chúa một cách nghiêm trọng, họ làm tổn thương người khác và làm hại đến công trình sáng tạo, điều này càng nghiêm trọng hơn khi chúng có âm điệu tôn giáo.

Tôi cũng nghĩ về thảm kịch đau lòng về việc lạm dụng thuốc nhằm mang về lợi nhuận mà xem thường các luật luân lý và dân sự. Tôi nghĩ về sự tàn phá các nguồn lực tự nhiên và sự ô nhiễm vẫn còn tiếp diễn, và thảm kịch bóc lột lao động. Tôi cũng nghĩ đến nạn buôn tiền bất hợp pháp và sự đầu cơ tài chính, là điều thường minh chứng cho việc bóc lột cũng như gây thiệt hại cho toàn thể hệ thống kinh tế xã hội. Tôi nghĩ về tệ nạn mãi dâm, mỗi ngày thu lợi từ những nạn nhân vô tội, đặc biệt là người trẻ, cướp đi tương lai của họ. Tôi nghĩ về sự kinh tởm của nạn buôn người, các tội ác, và lạm dụng chống lại các dân tộc thiểu số, nỗi kinh hoàng của tình trạng nô lệ vẫn con hiện diện ở nhiều nơi trong thế giới hôm nay; thảm kịch của người di dân thường bị xem nhẹ, họ là những nạn nhân thường xuyên của việc đối xử bất công và bất hợp pháp. Như Đức Thánh Cha Gioan 23 đã viết: “Con người không thể tồn tại trong một xã hội chỉ dựa trên các mối tương quan quyền lực. Thay vì khích lệ sự thành tựu và phát triển của con người như nó nên làm, quyền lực thường cản trở và hạn chế tự do của con người”.[17] Nhưng con người có thể hoán cải; họ sẽ không bao giờ phải thất vọng vì họ có thể thay đổi cuộc sống của mình. Tôi ước mong điều này trở thành một sứ điệp hy vọng và tin tưởng cho mọi người, kể cả những ai đang phạm những tội ác tày trời, vì Thiên Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ hoán cải và được sống (xem Ed 18,23).

Trong bối cảnh rộng lớn của các mối liên hệ xã hội, khi chúng ta nhìn vào tội ác và hình phạt, chúng ta không thể giúp gì ngoại trừ việc nghĩ về những điều kiện thiếu tình thương trong các nhà tù, nơi đó, những người bị giam giữ thường bị giản lược vào một tình trạng không giống người (subhuman status), vi phạm đến phẩm giá con người và cướp khỏi họ niềm hy vọng và khao khát phục hồi. Giáo hội đã dấn thân nhiều trong môi trường này, hầu như là trong thầm lặng. Tôi khích lệ mọi người tiếp tục dấn thân, và hy vọng rằng những nỗ lực được thực hiện trong môi trường này của biết bao nhiêu người nam và người nữ đầy can đảm sẽ dần được các chính quyền dân sự hỗ trợ trong sự công bằng và chân thật.

Tình huynh đệ giúp giữ gìn và nuôi dưỡng tự nhiên

9. Gia đình nhân loại đã đón nhận một quà tặng chung từ Đấng Sáng Tạo: đó là tự nhiên. Quan điểm Ki-tô giáo về sáng tạo bao hàm một lối đánh giá tích cực về những can thiệp hợp lý vào tự nhiên nếu những sự can thiệp này đem lại lợi ích và được thực thi với tinh thần trách nhiệm, nghĩa là ý thức về “ngữ pháp” được khắc ghi trong tự nhiên và sử dụng một cách khôn ngoan các nguồn lực để mang lại lợi ích cho hết thảy mọi người, trong sự tôn trọng vẻ đẹp, cùng đích và sự hữu ích của mọi hữu thể sống và vị trí của nó trong hệ sinh thái. Tóm lại, tự nhiên được dành sẵn cho chúng ta và chúng ta được mời gọi để trở nên một người quản lý đầy trách nhiệm trên nó. Nhưng quá thường xuyên, bị thúc đẩy bởi lòng tham và khao khát thống trị, sở hữu, sử dụng và khai thác; chúng ta không gìn giữ tự nhiên, chúng ta cũng không tôn trọng hay xem tự nhiên như một quà tặng nhưng không mà chúng ta cần phải chăm sóc và dành để phục vụ cho anh chị em mình, kể cả thế hệ tương lai.

Cụ thể, lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất quan trọng nhất, với ơn gọi quan trọng là nuôi dưỡng và bảo vệ các nguồn lực tự nhiên để nuôi sống con người. Trong lĩnh vực này, nỗi hổ thẹn về nạn đói vẫn tiếp diễn khiến tôi muốn chia sẻ với anh chị em câu hỏi này: Chúng ta đang sử dụng các nguồn lực của trái đất này như thế nào? Các xã hội đương đại cần phản tỉnh về trật tự ưu tiên mà sản phẩm hướng đến. Nó là một nhiệm vụ thực sự áp lực để sử dụng các nguồn lực trên trái đất này sao cho mọi người được giải phóng khỏi nạn đói. Các sáng kiến và các giải pháp khả thi thì rất nhiều, và không chỉ giới hạn trong việc gia tăng sản phẩm. Ai cũng biết rằng sản phẩm hiện nay đang đủ dùng, nhưng một tỉ người tiếp tục chịu đau khổ và chết vì đói, và đây là một điều đáng xấu hổ thực sự. Vì vậy, chúng ta cần tìm kiếm những con đường mà ngang qua đó mọi người có thể hưởng được ích lợi từ hoa trái của đất đai, không chỉ để tránh sự gia tăng khoảng cách giữa người có nhiều hơn và những người hài lòng với những mảnh vụn của mình, nhưng trên hết nó là vấn đề công bình, bình đẳng và tôn trọng mỗi người. Liên quan đến vấn đề này, tôi ước mong nhắc nhở mọi người về mục đích chung tất yếu của tất cả tài sản là một trong những nguyên lý nền tảng trong học thuyết xã hội của Giáo hội. Tôn trọng nguyên lý này chính là điều kiện thiết yếu giúp người ta dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những tài sản thiết yếu và quan trọng, là điều mọi người cần và là quyền lợi của mỗi người nam và người nữ.

Kết luận

10. Tình huynh đệ cần được khám phá, yêu mến, kinh nghiệm công bố và làm chứng. Nhưng chỉ có tình yêu, là một quà tặng từ Thiên Chúa, mới có thể giúp chúng ta đón nhận và kinh nghiệm một cách trọn vẹn tình huynh đệ này.

Chủ nghĩa duy thực thiết yếu là điều phù hợp với chính trị và kinh tế không thể được giảm thiểu đến những bí quyết kỹ thuật đầy lý tưởng mà không quan tâm đến chiều kích siêu việt của con người. Khi thiếu việc mở ra với Thiên Chúa, mỗi hoạt động của con người trở nên nghèo nàn và con người bị giản lược thành đối tượng có thể bị khai thác. Chỉ khi các thể chế chính trị và kinh tế mở ra để chuyển động trong một không gian rộng lớn được đảm bảo bởi Đấng duy nhất yêu mến mỗi người nam và người nữ, khi ấy chúng mới có thể đạt được một trật tự đặt nền tảng trên tinh thần đức ái đích thực và trở nên những khí cụ hữu hiệu trong việc phát triển hội nhất và hòa bình của nhân loại.

Chúng ta, những người Ki-tô hữu tin rằng trong Giáo hội, chúng ta là các chi thể của một thân thể duy nhất, hỗ trợ nhau, bởi vì mỗi người được trao ban một ân sủng theo tiêu chuẩn quà tặng của Đức Ki-tô, vì lợi ích chung (xem Eph 4,7.25; 1 Cor 12,7). Đức Ki-tô đã đến thế gian để mang cho chúng ta ân sủng thần linh, nghĩa là khả năng chia sẻ đời sống trong Ngài. Điều này đòi hỏi một sự thêu dệt một cơ cấu các mối tương quang huynh đệ được đánh dấu bởi mối tương quan hỗ tương, sự tha thứ và sự trao ban trọn vẹn, theo chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Thiên Chúa được trao ban cho con người nơi Đấng Duy Nhất, đã chịu chết và sống lại, để lôi cuốn mọi người đến với Ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 34-35). Đây chính là một tin tốt lành đòi hỏi mỗi người bước về phía trước, thực thi lòng thương xót vô hạn, lắng nghe những đau khổ cũng như hy vọng của người khác, kể cả những người ở xa tôi, và bước đi trên con đường đầy đòi hỏi của tình yêu, một tình yêu biết trao ban và tiêu tốn chính mình một cách tự do cho lợi ích của anh chị em chúng ta.

Đức Ki-tô ôm trọn tất cả nhân loại và mong muốn không ai bị hư mất. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Ngài làm điều ấy mà không đàn áp hay cưỡng bức bất cứ ai mở cánh cửa trái tim và tâm hồn ra với Ngài. “Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 26-27). Do đó, mọi hành động cần được nhận ra bởi thái độ phục vụ con người, đặc biệt là những người ở xa nhất và không được biết đến. Phục vụ chính là linh hồn của tình huynh đệ, điều xây dựng hòa bình.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giê-su, xin giúp chúng con hiểu và sống mỗi ngày tình huynh đệ xuất phát từ trái tim Con Mẹ, để chúng con mang bình an đến với mỗi người trên trái đất thân yêu của chúng con.

Từ Vatican, 8 tháng 12 năm 2013

Nguyễn Minh Triệu sj chuyển ngữ

[1] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng 6 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655.
[2] Xem ĐTC Phanxicô, Thông Điệp Lumen fidei (29 tháng 6 2013), 54: AAS 105 (2013), 591-592.
[3] Xem ĐTC Phaolô VI, Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 87: AAS 59 (1967), 299.
[4] Xem ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 39: AAS 80 (1988), 566-568.
[5] Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 43: AAS 59 (1967), 278-279).
[6] Xem ibid., 44: AAS 59 (1967), 279.
[7] Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 38: AAS 80 (1988), 566.
[8] Ibid., 38-39: AAS 80 (1988), 566-567.
[9] Ibid., 40: AAS 80 (1988), 569.
[10] Ibid.
[11] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng 5 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655.
[12] Summa Theologiae II-II, q. 66, art. 2.
[13] Conc. Ecum. Vat. II, Cost. past. sulla Chiesa nel mondo contemporaneo Gaudium et spes, 69. Cfr Leone XIII, Lett. enc. Rerum novarum (15 maggio 1891), 19: ASS 23 (1890-1891), 651; Giovanni Paolo II, Lett. enc. Sollicitudo rei socialis (30 dicembre 1987), 42: AAS 80 (1988), 573-574; Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della Dottrina sociale della Chiesa, n. 178.
[14] Thông Điệp Redemptor hominis (4 tháng 3 năm 1979), 16: AAS 61 (1979), 290.
[15] Ủy ban Công Lý và Hòa Bình, Tóm lược Giáo Thuyết xã Hội Công Giáo, số 159.
[16] ĐTC Phanxicô, Thử gửi Tổng thống Putin, 4 tháng 9 năm 2013: L’Osservatore Romano, 6 tháng 9 năm 2013, trang 1.
[17] Thông Điệp Pacem in terris (11 tháng 4 năm 1963), 17: AAS 55 (1963), 265.

 

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới

VATICAN. Sáng ngày 12-12-2013, Sứ điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô nhân ngày hòa bình thế giới lần thứ 47 đã được công bố về đề tài: ”Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường tiến tới hòa bình”.

ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã cùng với Đức Cha Tổng thư ký Mario Toso SDB, giới thiệu Sứ điệp của ĐTC trong cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh.

Văn kiện này được giới báo chí chào mừng như một tổng hợp đạo lý của ĐTC Phanxicô về xã hội, qua đó ngài kêu gọi tái khám phá tình huynh đệ trong gia đình, trong nền kinh tế và trong tương quan của các dân tộc với nhau. Ngài khẳng định rằng ”Nếu không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã hội công chính và một nền hòa bình liên đới và lâu bền”.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng mạnh mẽ kêu gọi những kẻ gieo rắc bạo lực và chết chóc hãy từ bỏ con đường võ khí, đồng thời ngài cũng lên án nạn tham nhũng, nạn mafia hay là tội phạm có tổ chức.

Sứ điệp được phổ biến bằng 11 thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Arập và Nga, Hindi và Tamil bên Ấn Độ, không kể các ngôn ngữ chính ở Tây Phương. Ngoài đoạn nhập đề và kết luận, Sứ điệp còn được chia làm 8 đoạn khác với những tiểu đề: ”Cain, em ngươi ở đâu?” (St 4,9) (1), ”Tất cả các con là anh em với nhau” (Mt 23,8) (2); Tình huynh đệ, nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình (3); Tình huynh đệ, tiền đề để chiến thắng nghèo đói (5); Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế (6); Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh (7); Nạn tham ô và tội ác có tổ chức cản trở Tình huynh đệ (8) và sau cùng: Tình huynh đệ giúp bảo tồn và vun trồng thiên nhiên (9).

Trình bày của ĐHY Turkson

ĐHY Turkson nhận xét rằng ”Trong sứ điệp này, ĐTC tự hỏi tại sao trong thế giới ngày nay có sự thiếu thốn trầm trọng tình huynh đệ như vậy? Tại sao lòng ích kỷ làm cho chúng ta trở nên mù quáng trước tình huynh đệ không thể thiếu được như thế? Phải chăng sự sợ hãi và cạnh tranh đã gây nhiễm độc cho phẩm giá khôn sánh của chúng ta là con cái Thiên Chúa, làm ô nhiễm quan hệ giữa anh chị em với nhau?

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và hòa bình nêu bật một số điểm trong sứ điệp của ĐTC Phanxicô. Ngài suy tư về người nghèo, về hòa bình, về thiên nhiên dưới một tựa đề bao quát và đầy ý nghĩa, đó là ”tình huynh đệ”. Ngài cũng mời gọi chúng ta suy tư, cầu nguyện và hành động theo xác tín và niềm tin. Những điều xúc phạm đến tình huynh đệ tạo thành một danh sách thật dài, danh sách đau buồn và ô nhục. Sau mỗi tội ác sát nhân của con người, Thiên Chúa kêu lên: ”Em ngươi ở đâu?”. Con tim ích kỷ và tội lỗi đáp lại: ”Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu!”. Trong khi đó con tim huynh đệ trả lời với lòng biết ơn: 'Cám ơn Cha, vì đã làm cho con trở thành người canh giữ các anh chị em con! Cám ơn Cha vì đã làm cho họ trở thành những người canh giữ con!”.

Đoạn thứ 5 và thứ 6 của Sứ điệp được ĐTC dành để nói về nền kinh tế, và trình bày một số phương dược thực sự để chữa trị nghèo đói. Ngài nhận xét rằng những chênh lệch kinh tế chính là kẻ thù của hòa bình. ”Những cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau phải làm cho những người hữu trách suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế”.

Sự cộng tác trong việc theo đuổi công ích phải thay thế sự cạnh tranh tai hại làm cho tất cả mọi người đều lâm vào tình trạng rủi ro nguy hiểm.

Các quan hệ huynh đệ cũng phải được biểu lộ trong các chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân được hưởng an sinh và sung túc; các quan hệ ấy cũng phải diễn tả trong một lối sống điều độ hơn, giới hạn vào những điều thiết yếu; và trên bình diện rộng lớn hơn, cần ”mau lẹ suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế của chúng ta”.

Trong đoạn thứ 7 và thứ 8 của Sứ điệp Hòa bình, ĐTC trình bày những ý tưởng nhắm giúp giảm bớt và loại trừ chiến tranh đủ mọi loại, cũng như loại trừ nạn tham ô và tội các có tổ chức. Tình huynh đệ chiến thắng thái độ dửng dưng lãnh đạm, dửng dưng đứng trước bao nhiêu chiến tranh. Tình huynh đệ chiến thắng xu hướng coi kẻ thù không phải là người, coi họ là ma quỉ. Tình huynh đệ thúc đẩy làm việc cam go cần thiết để đạt tới mục tiêu không làm cho võ khí lan tràn, giải giáp, kể cả việc giải trừ các võ khí hạt nhân, võ khí hóa học, qui ước và các võ khí gọi là 'thông minh' và võ khí nhẹ.

ĐTC viết: ”Tôi lập lại lời kêu gọi của các vị tiền nhiệm về việc không làm lan tràn võ khí và giải giáp từ phía tất cả mọi người, bắt đầu là võ khí hạt nhân và hóa học.. Bao lâu vẫn còn số lượng võ khí lớn như thế được lưu hành như ngày nay, thì người ta sẽ luôn tìm ra những cớ mới để khởi sự chiến tranh”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Tôi muốn mạnh mẽ kêu gọi những người đang dùng võ khí gieo rắc bạo lực và chết chóc: họ hãy tái khám phá người anh em nơi người mà ngày nay họ chỉ coi là một kẻ thù phải triệt hạ, và hãy dừng tay lại.. Hãy từ bỏ con đường võ khí, và đi gặp tha nhân trong cuộc đối thoại, tha thứ và hòa giải, để xây dựng công lý, sự tín nhiệm và hy vọng quanh chúng ta”.

Trong các cuộc xung đột xã hội, tình huynh đệ chống lại nạn tham nhũng, mafia, buôn bán ma túy, nạn nô lệ, buôn người, mại dâm và những hình thức gọi là 'chiến tranh kinh tế và tài chánh” hủy hoại sự sống, các gia đình, và các hoạt động doanh nghiệp”.

Trong đoạn số 9 của Sứ điệp, ĐTC nói đến một nhu cầu cấp thiết là phải bảo tồn và vun trồng thiên nhiên như thể đó là căn nhà trần thế của chúng ta và là nguồn mạch mọi thiện ích vật chất, bây giờ và cho các thế hệ tương lai. Trong tinh thần huynh đệ, chúng ta phải họ cách xử lý môi trường thiên nhiên như một món quà của Đấng Tạo Hóa, một món quà cần được hưởng chung, một cách nhưng không và công bằng. Canh nông sản xuất trong tinh thần trách nhiệm, và các xí nghiệp kiểm soát sự phân phối đúng đắn, và tránh phí phạm, đó là những cách biểu lộ tình huynh đệ cần thiết trong thế giới ngày nay.

Trình bày của Đức Cha Mario Toso, SDB

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo cũng có Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Ngài nêu nhận xét về những đoạn đầu của Sứ điệp, qua đó ĐTC khẳng định rằng tình huynh đệ nói lên liên hệ tính của con người, và hướng tới sự viên mãn của con người. Xét vì tình huynh đệ có tính chất nội tại nơi con người, ảnh hưởng lớn tới cuộc sống và hoạt động của con người, nên nó là điều tối quan trọng để kiến tạo một xã hội công chính và an bình. Nếu không có tình huynh đệ, thì thật là khó lòng chấp nhận và hòa hợp những khác biệt hợp pháp, sống sự tha thứ và hòa giải, và chắc chắn là rất khó bài trừ nạn tham những lan tràn, sự trốn thuế vì ích kỷ, sự loại trừ và bất công trong các cơ cấu xã hội, cũng vậy rất khó bài trừ sự ”hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng” và phá đổ thần tượng tiền bạc, chế độ độc tài của một nền kinh tế vô nhân đạo và không có mục tiêu thực sự là nhân bản. Đó cũng là những tai ương và tệ nạn mà ĐTC Phanxicô đã tố giác trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm”.

Đức Cha Toso cũng nhận xét rằng trong sứ điệp Hòa bình, ĐTC chỉ trình bày một số con đường có thể dẫn đến hòa bình, xuất phát từ sự đón nhận và liên kết nguyên tắc huynh đệ. Những con đường này đi qua các lãnh vực quan trọng như nạn nghèo đói, kinh tế, nạn tham nhũng, chiến tranh, và thiên nhiên. Trong các lãnh vực ấy, ĐTC chỉ đường, nêu lên phương pháp cần theo, và có thể áp dụng chúng cho một số vấn đề khác, nhờ đào sâu và nghiên cứu và thí nghiệm. ĐTC kêu gọi dấn thân mạnh mẽ về phương diện văn hóa, sư phạm và quan điểm, cần có sự động viên của cộng đoàn, khởi hànhtừ sự loan báo tin mừng, hoán cải và giáo dục ở mọi cấp độ, từ tiểu học cho đến đại học.

Trong Sứ điệp, ĐTC kêu gọi cảnh giác đối với thứ tình huynh đệ không tham chiếu siêu việt, thứ huynh đệ này sẽ không tồn tại được. Con người và xã hội nào loại bỏ Thiên Chúa và không nhìn nhận Ngài đang sống giữa họ, thì khó lòng nhìn nhận nhau và sống với nhau như con của cùng một Cha. Tiếp đến, ĐGH Phanxicô nêu rõ rằng đối với mỗi ngừơi và mỗi xã hội, việc đạt tới kinh nghiệm về tình phụ tử của Thiên Chúa, và từ đó đạt tới tình huynh đệ, sẽ trở nên dễ dàng hơn nhờ đón nhận Chúa Giêsu Kitô là Adong mới, được hòa giải với Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc mỗi người với mọi chiều kích của họ, kể cả lý trí được tăng cường hơn. Nhờ sự nhập thể, sự chết và sống lại, Chúa Giêsu gieo vãi trong lịch sử và nơi tâm hồn con người, một tình người huynh đệ hơn, vì hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa và nhờ đó có khả năng nhìn nhận và sống tình huynh đệ với những người đồng lại, và sống với cả thiên nhiên trên một bình diện khác.

Đức Cha Toso nêu rõ một nhận xét của ĐTC trong sứ điệp, đó là trong thế giới hoàn cầu hóa của chúng ta, có sự gia tăng giàu có và tài nguyên, nhưng đồng thời cũng có sự gia tăng sự chênh lệch và nghèo đói tương đối. Gia đình nhân loại bị chia thành những dân tộc và các nhóm, trong đó một thiểu số ngày càng giàu hơn, trong khi đa số khác ngày càng bị nguy cơ gạt ra ngoài lề. Tình trạng di cư gia tăng mạnh mẽ, kèm theo những hiện tượng đau buồn như nạn buôn người, một số kẻ lợi dụng tình trạng tuyệt vọng của những người khác để làm giàu không chút băn khoăn do dự, và nhiều khi gây ra cái chết cho các nạn nhân.

Ngoài những cuộc chiến bằng võ khí, còn có những cuộc chiến tranh khác ít tỏ tường hơn, nhưng không kém phần tàn ác: nó diễn ra trong lãnh vực kinh tế, tài chánh, bằng những phương thế tàn hạn không kém đối với con người, gia đình, xí nghiệp. Chế độ thực dân xưa kia nay được thay thế bằng những chế độ mới, buộc các nước khác phải tùng phục về kinh tế và chính trị, với những cuộc khai thác bóc lột đất đai và khoáng sản, từ phía các quốc gia hoặc các xí nghiệp nước ngoài, mà dân chúng địa phương không được hưởng các tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ; tệ hơn nữa, đất đai và môi trường sống của họ bị ô nhiễm. Tất cả sự chênh lệch, nghèo đói và bất công đó không những cho thấy sự thiếu nền văn hóa liên đới, nhưng còn là dấu hiệu chứng tỏ sự thiếu tình huynh đệ, tạo nên tình trạng nghèo nàn về quan hệ. Vì thế, để có thể sống trong hòa hợp và an bình, nhân loại chúng ta cần có thêm tình huynh đệ được cảm nghiệm, tôn trọng gia đình là tế bào của xã hội, vốn là một nguồn mạch vô tận (1).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐẤNG PHẢI ĐẾN, ĐÃ ĐẾN

ĐẤNG PHẢI ĐẾN, ĐÃ ĐẾN

Thánh Gioan Tiền Hô không thể không lên tiếng cảnh cáo cách sống vô luân của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê chung sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphê, anh ông ta. Và kết quả là ông bị giam trong tù.

Rõ ràng là Thánh Gioan không chỉ kêu gọi mọi người hãy sám hối, hãy dọn đường cho Chúa đến, mà còn chỉ rõ ra việc cần làm ngay, cần khắc phục chấn chỉnh ngay, mà không hề ngán sợ vòng ngục tù lao lý.

Việc Thánh Gioan ở tù, không phải là thất bại của vị ngôn sứ, nhưng là việc phải đến cho người dọn đường cho Chân Lý của Thiên Chúa. Thiên Chúa tôi luyện niềm tin và hy vọng của ngôn sứ của Ngài trong ngục tù trần gian.

Ngục tù trần gian có thể làm cho lòng người ta hoang mang nao núng, nhưng Thánh Gioan đã tìm được phương thế vượt qua điều ấy bằng cách sai các môn đệ mình gặp trực tiếp Chúa Giêsu. “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 3-6)

Nghe thuật lại thế nầy, thì chắc chắn Thánh Gioan sẽ liên hệ ngay tới lời tiên báo của Tiên Tri Is 35,1-6a, 10, và như thế, niềm tin của Ông và các môn đệ được Thánh Kinh soi dẫn và củng cố: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35, 4-6)

Đấng Cứu Thế, “Đấng Phải Đến, Đã Đến” là ông Giêsu quá tầm thường như thế, là một con người thật, sống giữa con người và sẻ chia những nỗi bi thương nhất của con người. Ngài đã sẻ chia cách cụ thể là đến thăm dân người, và thi thố quyền năng và tình thương của Thiên Chúa qua các phép lạ. Ở nơi Ngài, chúng ta gặp được bình an, niềm vui, và hạnh phúc mà con người trần gian không ban tặng được. Đó phải là niềm tin của mỗi chúng ta trong những ngày Mừng Đón Chúa Giáng Sinh.

Bởi vậy, Chúa nhật 3 mùa vọng là Chúa Nhật Hồng, một màu hồng của niềm vui Giao Duyên Trời với Đất, niềm vui của Đôi Tân Hôn mà chàng rể là Chúa Giêsu Kitô và hiền thê của Ngài là Giáo Hội, là chúng ta, là mỗi người. Một màu hồng hạnh phúc.

Niềm hạnh phúc là được sống với Chúa Giêsu “Đấng Phải Đến, Đã Đến”. Và cụ thể niềm hạnh phúc ấy, là được sống trong Giáo Hội của Ngài, nơi đây, không chỉ là dung mạo, là khuôn mặt là hình ảnh của Chúa Giêsu mà còn là chính Chúa Giêsu đang tác động trong và qua Giáo Hội.

Bạn và tôi đều có thể đã có hơn một lần cảm nghiệm tuyệt vời về nỗi mong đợi “Đấng Cứu Thế” đến trong Giáo Hội, nơi các Bí tích, và trong cuộc đời

– Hơn một lần bạn và tôi cùng với cả bà con trong Giáo Xứ ước mong và khẩn xin có một Linh Mục đến để dâng Thánh Lễ, và ban các bí tích. Nhất là ở các Giáo xứ vùng sâu, vùng xa thì nỗi khát mong càng mãnh liệt hơn. Một lần như thế, cho chúng ta mỗi cảm thông sâu sắc với những nơi, đến hôm nay, vẫn còn một Mùa Vọng dài đôi ba chục năm, năm bảy chục năm mà chưa thấy bóng dáng “Đấng phải đến, đã đến”.

Hơn một lần, cảm xúc sung sướng trào dâng khi được đón Linh Mục Quản xứ Tiên khởi như đón chính “Đấng phải đến, đã đến”. Có người mừng đến rơi lệ vì cảm nghiệm được ơn Chúa đã thương đáp lại nỗi khát mong của dân Ngài. Và từ cảm nghiệm ấy, chúng ta sống được niềm vui của bao nhiêu giáo xứ, bao nhiêu con người thỏa niềm khao khát

– Gần hơn, thường xuyên hơn, chúng ta đã hồi hộp đợi chờ gặp được Đấng Cứu Thế nơi tòa Giải tội, để xưng thú tội lỗi, để quyết tâm sám hối, để được thứ tha và nhất là để tình yêu nên trọn vẹn.

– Và gần hơn nữa, lòng chúng ta thấy đói, thấy khát của ăn của uống Thường Sinh là chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể.

– Hình ảnh “Đấng Phải Đến, Đã Đến” còn là hình ảnh của những con người đang đứng ngay trước cửa nhà mình, ngay trong cuộc sống thường ngày, nơi những người ta gặp, và nhất là nơi những người nghe và thực hiện công việc của Đấng Cứu Thế là yêu thương nhân loại. Cho dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân và kể cả những người bần cùng tội lỗi bệnh tật yếu đuối nhất trong nhân loại, khi đã đến với mỗi chúng ta, thì thiết nghĩ việc tiếp đón của chúng ta cũng phải đàng hoàng như tiếp đón “Đấng phải đến, đã đến”.

Một người bạn làm gương cho tôi việc nầy, là anh ta chọn cho mình câu “Đấng phải đến, đã đến” làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Và điều đã xảy ra là anh ta luôn sẵn lòng lịch sự, yêu thương và sẻ chia với hết mọi người. Anh ta có một cuộc sống bình an, hạnh phúc, vì anh ta không những tiếp đón “đấng phải đến đã đến” mà còn sống tinh thần của Đấng Cứu Thế là đem lại niềm vui cho mọi người.

Gần đây, trong Giáo Hội và ngay tại Giáo Hội Việt nam, lại trổ ra những tâm thức nghi hoặc, hoang mang, bất ổn, vẫn đặt câu hỏi với Giáo Hội rằng “Ông có phải đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi đấng khác”. Xảy ra điều ấy, vì có tư tưởng nghi hoặc rằng người này, người kia, không phải “Đấng Nhân Danh Chúa Mà Đến”, nhưng lại là nhân danh mình hoặc nhân danh nhà nước thế gian mà đến.

Đáng tiếc thay, vì thiếu cảnh giác hoặc vì chủ quan, đã tạo cơ hội cho những sự hỗn độn của trần gian len lõi vào bên trong nội thất của Giáo Hội để làm mất đi sự bình an hiệp nhất và cả sự thánh thiện cần có. Vì thế, thay vì “Đấng phải đến đã đến” đem niềm vui, niềm hy vọng cho dân Chúa thì “người đã đến” đem lại cho dân Chúa bao nỗi sầu thương thất vọng, thay vì giải thoát dân Chúa khỏi những bức bách thì lại đặt vào cổ dân đen những ách nặng nề.

Trong giai đoạn hỗn độn do những kịch bản của ma quỷ, làm chúng ta bán tín bán nghi về sự chân chính của sứ vụ mỗi người, tạo nên những thất vọng và mất kiên nhẫn, Thánh Giacôbê đã kịp thời gửi thông điệp đến chúng ta. “Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa” (Jac 5, 9-10)

Lời Chúa chúa nhật thứ ba mùa vọng mang đến cho chúng ta niềm vui nhưng cũng nhắc nhở cho mỗi chúng ta phải trở thành một niềm vui cho người khác.

Niềm vui ấy là làm cho “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Và cụ thể hơn trong toàn cảnh Việt Nam, niềm vui ấy là làm cho người xa rời nhà thờ trở về với Hội Thánh Chúa, người nghèo khổ bất hạnh có được niềm an ủi, được thăm viếng; người bệnh tật được giúp đỡ, người bị áp bức được đồng thanh tiếp cứu, công lý, sự thật được tôn trọng và nhất là nhân phẩm con cái của Thiên Chúa được bảo vệ đúng mức, không thể để cho thế lực gian tà chà đạp.

Lạy Chúa, chúng con được vui mừng tiếp đón Đấng Cứu Thế. Xin cho cuộc sống chúng con mang lại niềm vui cho mọi người. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

VỞ KỊCH CÒN DANG DỞ

VỞ KỊCH CÒN DANG DỞ

Chủ đề: Thánh Gioan tiền hô là sứ giả, còn Chúa Giêsu là Ðấng Thiên Sai (Mêsia). Chúng ta phải hoàn tất công việc của hai Ðấng.

Nathaniel hawthorne là một văn sĩ người Mỹ, vào năm 1864 ông mất đi mà trên bàn viết vẫn còn bản phác thảo của một vở kịch mà không may ông chưa hoàn tất được. Vở kịch này tập trung vào một nhân vật chưa hề xuất hiện trên sân khấu. Mọi người đều nói, đều mơ, đều chờ đợi nhân vật này đến nhưng vị ấy chẳng hề đến. Tất cả các nhân vật phụ đều đồng loạt mô tả nhân vật chính ấy. Họ kể cho mọi người nhân vật chính ấy sẽ như thế nào, sẽ làm những gì. Tuy nhiên nhân vật chính ấy đã chẳng xuất hiện.

Toàn bộ Cựu ước cũng giống như vở kịch của Nathaniel Hawthorne bỏi vì Cựu ước chấm dứt mà không có đoạn kết.

Trên dòng sông Giôđan có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ, đây là chỗ băng qua sống thuận tiện cho các đoàn tuần hành có xe ngựa kéo, các thương buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Ðây cũng là chỗ đại chúng thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại chỗ này, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo da thú giống như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc: “Ông này là ai vậy? Ông ta có phải là Ðấng Mesia được Chúa hứa không? Hay ông là vị sứ giả dọn đừơng cho Ðấng Mesia?”

Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu sẽ trả lời cho những câu hỏi này.

Ngài nói với dân chúng: “Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: “Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước con để mở đường cho con”. Chúa Giêsu cũng trả lời câu hỏi khác mà đám môn đệ của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Ngài: “Có phải Ngài là Ðấng mà Gioan bảo sẽ phải đến, hay chúng tôi còn phải mong chờ Ðấng khác?” Ðể trả lời câu hỏi này, Chúa Giêsu liền trưng ra những lời của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Khi nói về Ðấng Mesia, Isaia bảo rằng những dấu hiệu sau đây sẽ là bằng cứ xác nhận lai lịch vị ấy: “Người mù sẽ thấy được và người điếc sẽ nghe được. Kẻ què sẽ nhảy múa và người câm sẽ reo vui”.

Chủ ý của Giêsu thực là rõ ràng. Ngài trình bày ra những phép lạ Ngài đã làm – cho người mù thấy, kẻ điếc nghe, người què bước, kẻ câm nói được. Ðây là những dấu hịêu mà các lời tiên tri báo trước rằng sẽ phải ứng nghiệm khi Ðấng Mesia đến.

Như vậy, bài Phúc Âm hôm nay muốn nói gì cho anh chị em cũng như cho tôi? Xin thưa đó là sứ điệp sau: Chúa Giêsu là Ðấng Mesia đã được các vị ngôn sứ tiên báo và Ngài đã thiết lập vương quốc Thiên Chúa trên trần gian đúng như các tiên tri báo trước. Tuy nhiên Chúa Giêsu uỷ thác cho chúng ta nhiệm vụ hoàn tất vương quốc ấy. Ngài giao phó cho chúng ta việc xây dựng nước Chúa trên trần gian này. Vào lúc thế mạt, Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét chúng ta về công việc này.

Người Roma xưa có thời một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ January (tháng giêng). Vị thần này được các hoạ sĩ mô tả bằng hình đầu người có hai mặt: một mặt nhìn về đằng sau, mặt kia nhìn về đằng trước. Mùa vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn về hai phía: một đàng nhìn lại lần giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu trong lịch sử, đằng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.

Anh chị em cũng như tôi đang đứng ở giữa hai biến cố lịch sử trọng đại này. Phận vụ chúng ta không phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngoái cổ về đằng sau và ngóng trông về đằng trước, mà phải xăn tay áo lên dấn thân vào công việc Chúa Giêsu đã trao phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.

Nói một cách cụ thể, điều này có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta phải xây dựng nước Chúa trên trần gian, phải đem yêu thương lắp đầy ganh ghét, đem thứ tha che phủ hận thù, đem chân lý thay cho giả trá, đem sự cảm thông Kitô giáo thay cho sự vô cảm lạnh lùng. Tóm lại, chúng ta phải xây dựng một kiểu thế giới mà chính Chúa Giêsu sẽ dụng xây nếu Ngài ở vào vị trí chúng ta.

Ðó chính là sứ điệp trong các bài đọc hôm nay. Sứ điệp ấy minh chứng Chúa Giêsu là Ðấng Mesia, Ngài sẽ trở lại vào chung cục lịch sử và sẽ phán xét chúng ta về việc chúng ta đã xây dựng nước Chúa trên trần gian này như thế nào.

Vậy chúng ta hãy kết thúc với lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, là Ðấng Mêsia cũng là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin Chúa đã đến trần gian đầy ganh ghét này để giúp chúng con xây dựng nó thành thế giới của tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Chúa đã đến với chúng con để giúp chúng con cũng biết đến kẻ khác.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Chúa hiểu chúng con, ngay cả khi chúng con không hiểu được chính mình.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Chúa luôn luôn ở với chúng con cho dù chúng con không luôn luôn sống với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng con, bởi vì chính Chúa đã đối xử với chúng con như anh chị em của Chúa.

Lm. Mark Link, S.J.

ĐI ĐẾN CÙNG SỨ VỤ

ĐI ĐẾN CÙNG SỨ VỤ

Ngày 5/12, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong trào xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi, giúp cho người da đen được hưởng các quyền bình đẳng như thiểu số da trắng.

Bước ra ánh sáng sau 27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải một dân tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu rằng hòa giải không thể thiếu sự thật: nếu tội ác của chế độ Apartheid không được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam Phi sẽ sống trong một nền hòa bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố nhỏ là bạo lực sẽ lại bùng phát.

Ông biết rằng, nếu đi tìm công lý bằng một cuộc tắm máu khác, chắc chắn đất nước sẽ bị đẩy vào vòng nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung của mình để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một mặt ông đi gặp những nhà lãnh đạo của người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm quyền trong chế độ apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Mặt khác, ông tích cực thuyết phục quần chúng giận dữ phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.

Ông nói với những thành phần cực đoan muốn trả nợ máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm 1993: “Tôi là lãnh đạo của các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi sẽ lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh đạo, tôi phải lên tiếng rằng: điều chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó tự động giải tán.

Để xử lý vấn đề tội ác của chế độ Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà chưa từng một lãnh đạo nào trong hoàn cảnh của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn xét xử tội ác của chế độ như thông thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và Hòa giải” với mục đích đúng như tên gọi của nó: làm lành đi những vết thương quá khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà họ đã chứng kiến hoặc trải qua dưới chế độ apartheid, và những kẻ cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng nếu thừa nhận những tội ác mà họ gây ra.

Với tài năng của một chính trị gia, và hơn tất cả là một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã tạo ra sự khởi đầu cho điều kỳ diệu ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một “đất nước cầu vồng,” nơi tất cả màu da đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành quốc gia giàu nhất ở lục địa Đen, có mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới” BRICS, và xây dựng lên một xã hội tự do và hiện đại (x. Khắc Giang, tuanvietnam.net).

Ông Mandela đã trải qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu. Vị Tổng thống này đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.

Lên tiếng cho Sự thật và lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý bị nhốt vào tù ngục. Xã hội Do Thái thời Gioan có rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân, cướp vợ của em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình. Người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực và ham mê sắc dục, gian dìu với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính. Hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói. Chỉ có Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.

Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục, ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua Akháp và vua Giôakim, và cũng có thể dưới triều đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật cương nghị với lối sống không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý nên Gioan là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).

Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe.

Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.

Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).

Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ítraen cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?

Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù, Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.

Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn: ″Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).

Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Người là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.

Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo : “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.

Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.

Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

DUNG MẠO ĐỨC KITÔ

DUNG MẠO ĐỨC KITÔ

Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.

Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.

Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:

1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo

Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.

2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù

Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.

Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.

Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.

Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.

Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.

Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.

Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đức Thánh Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?

2) Bạn muốn một Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?

3) Bạn nghĩ gì về những lầm lỗi trong Giáo Hội?

4) Bạn phải làm gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng ngày?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Vững tâm

Vững tâm

Vào một ngày đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen: “Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này, ông đang chờ đợi ai vậy?” Ông nói: “Cháu còn quá nhỏ làm sao hiểu được điều ông mong đợi.” “Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ hơn.” Nghe cô bé nói thế, ông liền thổ lộ tâm tình: “Ông đang chờ đợi Chúa đến.” Cô bé kinh ngạc, ông già giải thích: “Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à.” Bấy giờ cô bé lên tiếng: “Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông dấu hiệu rồi: Mỗi khi ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi… Chúa cho ông dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện nơi đây.”

Thiên Chúa vô hình hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài đã chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được hé mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân chúng. Tiên tri Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan.” (Is 35,1). Hình ảnh cảnh hoang địa trơ trọi, khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia hy vọng của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm khổ ải qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.” (Is 35,4).

Trong bất cứ một dự kiến nào muốn đạt kết quả tốt, chúng ta đều phải kiên nhẫn đợi chờ mọi sự diễn tiến. Vấn đề niềm tin sống đạo cũng thế, chúng ta không thể cắt bớt thời gian. Sự gì đến ắt sẽ đến. Thánh Giacôbê nhắc nhở các tín hữu: “Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu.” (Gc 5,7). Hình ảnh của bác nông phu nơi ruộng rãy cày bừa và trồng trọt là hình ảnh rất đẹp và chính xác. Chính xác cả về phẩm lẫn lượng, cả về thời gian và không gian. Kiên nhẫn đợi chờ là một đức tính tốt trong đời sống đạo. Mọi sinh họat của đời sống Giáo Hội trên trần thế cần phải được thử thách, tôi luyện để phát triển và trưởng thành. Thời gian là của Chúa. Mầu nhiệm ơn cứu độ được lồng vào đời sống của con người theo sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể đi những bước nhảy vọt trong cuộc sống đạo nhưng phải kiên trì phấn đấu từng bước.

Sự kiên tâm sống đạo đòi hỏi mỗi tín hữu phải cố gắng không ngừng. Mời gọi tu tâm luyện tính và tập tành các nhân đức trong đời sống hằng ngày. Đời sống đạo, nếu chúng ta không gieo, lấy gì mà gặt. Trong Giáo Hội có biết bao nhiêu dòng tu, tu hội và hội đoàn, các tu sĩ nam nữ miệt mài thanh luyện đời sống trong cầu nguyện và tu thân để nên trọn lành. Là người tín hữu cũng thế, chúng ta cần trải nghiệm những thử thách, phấn đấu, kiên trì sống đạo và hành đạo. Không hy sinh khổ luyện, làm sao có thể vững bước trên đường nhân đức. Chúng ta đừng nhẹ dạ để rơi vào những hình thức kéo lôi phù phiếm và cảm xúc nhất thời. Muốn được lãnh nhận ân sủng của Chúa, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thanh sạch, sống đời ngay thẳng và thực hành tin yêu. Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào những nghi thức bề ngoài thì không thể sinh hiệu quả biến đổi nội tâm. Trong hiện tại có nhiều khuynh hướng hành đạo giống như kiểu ‘mì ăn liền’. Họ nghĩ rằng cứ thực hành đủ các thủ tục nghi thức là đương nhiên sẽ nhận ân sủng nhãn tiền. Sự kiên trì tin đạo, sống đạo và hành đạo trưởng thành đòi hỏi niềm tin và cam kết nhiệt thành. Chúng ta cần vun xới và củng cố lòng tin qua mọi biến cố cuộc đời.

Ông Gioan Tẩy Giả đang bị giam giữ cũng nóng lòng muốn biết Chúa Giêsu có chính thật là Đấng Cứu Thế hay không. Ông sai môn đệ đến thưa Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,2). Ông Gioan muốn các môn đệ của mình nhận biết Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa không chỉ cho riêng ông Gioan, nhưng cho các môn đệ của ông. Các ông đã an tâm nhận diện ra sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ qua các dấu chỉ: Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” (Mt 11,4-5). Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời mà các tiên tri đã loan báo về Ngài.

Các dấu hiệu từ trời cao với quyền năng của Chúa đã đem lại hiệu qủa thực sự biến đổi môi trường và chữa lành toàn diện con người. Suốt dọc lịch sử nhân loại, từ tạo thiên lập địa, ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có vị nào có thể trực tiếp thực hiện các phép lạ từ chính sức mạnh nội tâm của mình. Biết rằng đôi khi Thiên Chúa cũng trao ban các đặc sủng cho một số vị tổ phụ và các thánh như Thánh Gioan Vianney, Piô Năm Dấu quê ở Pietrelcina, Antôn Pađua, Vinh Sơn Ferrier…, các ngài có thể thực hiện một số việc lạ lùng trong giới hạn. Các thánh sống là những người có đời sống kết hợp sâu xa, chuyên tâm ăn chay, cầu nguyện và chìm đắm trong ân sủng của Chúa. Những trường hợp có sự lạ ngoại thường này cũng rất hiếm xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ của Tin Mừng cứu độ. Tuy nhiên, qua mọi thời, đều có những người tự thần thánh hoá chính mình để chiêu hồn người khác. Họ cũng không khác gì các tiên tri giả và những nhà làm ảo thuật đại tài dùng kỹ xảo để dễ dàng qua mắt mọi người. Chúng ta phải luôn cảnh giác và tỉnh thức học hỏi kỹ lưỡng những hình thức mị dân này. Họ không phải là Chúa có uy quyền biến đổi chữa lành thân xác và linh hồn, mà chỉ có thể tạo gây cảm giác thân, sinh, lý và xúc động tâm linh nhất thời chóng qua.

Chúa Giêsu xác nhận Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô dọn đường: “Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: ‘Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con.’” (Mt 11,10). Gioan được vinh dự giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Biết bao người đã nghe Chúa giảng, gặp gỡ và nhận lãnh các dấu lạ nhưng có mấy người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong đám đông theo Chúa, có người chỉ tò mò nhìn xem cho biết, có người chỉ muốn được nhận lãnh ân huệ và có người ùa theo đám đông vì hiếu kỳ. Đâu có mấy người thực sự muốn đi theo Chúa để thực sự đổi đời và canh tân cuộc sống. Xưa cũng như nay, tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì dân Dothái xưa. Chúng ta nghe, đọc, viết và suy gẫm thật nhiều lời của Chúa, các giáo huấn của Giáo Hội và chứng kiến biết bao sự lạ lùng trong cuộc sống nhưng mấy ai tin theo Chúa cho trọn.

Lạy Chúa, đời sống đạo của chúng con hầu như vẫn cứ dậm chân tại chỗ. Tinh thần thì nguội lạnh và mệt mỏi, còn thân xác nặng nề và yếu đuối kéo lôi chúng con lùi bước. Chúng con chỉ tìm kiếm sự hơn thua ở đời trọc này mà quên đi sứ mệnh cao cả là mong tìm ơn cứu độ. Thánh Giacôbê nhắc nhở: “Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa.” (Gc 5,9).

Giuse Trần Việt Hùng

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới

VATICAN. Sáng ngày 12-12-2013, Sứ điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô nhân ngày hòa bình thế giới lần thứ 47 đã được công bố về đề tài: ”Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường tiến tới hòa bình”.

ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã cùng với Đức Cha Tổng thư ký Mario Toso SDB, giới thiệu Sứ điệp của ĐTC trong cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh.

Văn kiện này được giới báo chí chào mừng như một tổng hợp đạo lý của ĐTC Phanxicô về xã hội, qua đó ngài kêu gọi tái khám phá tình huynh đệ trong gia đình, trong nền kinh tế và trong tương quan của các dân tộc với nhau. Ngài khẳng định rằng ”Nếu không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã hội công chính và một nền hòa bình liên đới và lâu bền”.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng mạnh mẽ kêu gọi những kẻ gieo rắc bạo lực và chết chóc hãy từ bỏ con đường võ khí, đồng thời ngài cũng lên án nạn tham nhũng, nạn mafia hay là tội phạm có tổ chức.

Sứ điệp được phổ biến bằng 11 thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Arập và Nga, Hindi và Tamil bên Ấn Độ, không kể các ngôn ngữ chính ở Tây Phương. Ngoài đoạn nhập đề và kết luận, Sứ điệp còn được chia làm 8 đoạn khác với những tiểu đề: ”Cain, em ngươi ở đâu?” (St 4,9) (1), ”Tất cả các con là anh em với nhau” (Mt 23,8) (2); Tình huynh đệ, nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình (3); Tình huynh đệ, tiền đề để chiến thắng nghèo đói (5); Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế (6); Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh (7); Nạn tham ô và tội ác có tổ chức cản trở Tình huynh đệ (8) và sau cùng: Tình huynh đệ giúp bảo tồn và vun trồng thiên nhiên (9).

Trình bày của ĐHY Turkson

ĐHY Turkson nhận xét rằng ”Trong sứ điệp này, ĐTC tự hỏi tại sao trong thế giới ngày nay có sự thiếu thốn trầm trọng tình huynh đệ như vậy? Tại sao lòng ích kỷ làm cho chúng ta trở nên mù quáng trước tình huynh đệ không thể thiếu được như thế? Phải chăng sự sợ hãi và cạnh tranh đã gây nhiễm độc cho phẩm giá khôn sánh của chúng ta là con cái Thiên Chúa, làm ô nhiễm quan hệ giữa anh chị em với nhau?

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và hòa bình nêu bật một số điểm trong sứ điệp của ĐTC Phanxicô. Ngài suy tư về người nghèo, về hòa bình, về thiên nhiên dưới một tựa đề bao quát và đầy ý nghĩa, đó là ”tình huynh đệ”. Ngài cũng mời gọi chúng ta suy tư, cầu nguyện và hành động theo xác tín và niềm tin. Những điều xúc phạm đến tình huynh đệ tạo thành một danh sách thật dài, danh sách đau buồn và ô nhục. Sau mỗi tội ác sát nhân của con người, Thiên Chúa kêu lên: ”Em ngươi ở đâu?”. Con tim ích kỷ và tội lỗi đáp lại: ”Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu!”. Trong khi đó con tim huynh đệ trả lời với lòng biết ơn: 'Cám ơn Cha, vì đã làm cho con trở thành người canh giữ các anh chị em con! Cám ơn Cha vì đã làm cho họ trở thành những người canh giữ con!”.

Đoạn thứ 5 và thứ 6 của Sứ điệp được ĐTC dành để nói về nền kinh tế, và trình bày một số phương dược thực sự để chữa trị nghèo đói. Ngài nhận xét rằng những chênh lệch kinh tế chính là kẻ thù của hòa bình. ”Những cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau phải làm cho những người hữu trách suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế”.

Sự cộng tác trong việc theo đuổi công ích phải thay thế sự cạnh tranh tai hại làm cho tất cả mọi người đều lâm vào tình trạng rủi ro nguy hiểm.

Các quan hệ huynh đệ cũng phải được biểu lộ trong các chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân được hưởng an sinh và sung túc; các quan hệ ấy cũng phải diễn tả trong một lối sống điều độ hơn, giới hạn vào những điều thiết yếu; và trên bình diện rộng lớn hơn, cần ”mau lẹ suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế của chúng ta”.

Trong đoạn thứ 7 và thứ 8 của Sứ điệp Hòa bình, ĐTC trình bày những ý tưởng nhắm giúp giảm bớt và loại trừ chiến tranh đủ mọi loại, cũng như loại trừ nạn tham ô và tội các có tổ chức. Tình huynh đệ chiến thắng thái độ dửng dưng lãnh đạm, dửng dưng đứng trước bao nhiêu chiến tranh. Tình huynh đệ chiến thắng xu hướng coi kẻ thù không phải là người, coi họ là ma quỉ. Tình huynh đệ thúc đẩy làm việc cam go cần thiết để đạt tới mục tiêu không làm cho võ khí lan tràn, giải giáp, kể cả việc giải trừ các võ khí hạt nhân, võ khí hóa học, qui ước và các võ khí gọi là 'thông minh' và võ khí nhẹ.

ĐTC viết: ”Tôi lập lại lời kêu gọi của các vị tiền nhiệm về việc không làm lan tràn võ khí và giải giáp từ phía tất cả mọi người, bắt đầu là võ khí hạt nhân và hóa học.. Bao lâu vẫn còn số lượng võ khí lớn như thế được lưu hành như ngày nay, thì người ta sẽ luôn tìm ra những cớ mới để khởi sự chiến tranh”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Tôi muốn mạnh mẽ kêu gọi những người đang dùng võ khí gieo rắc bạo lực và chết chóc: họ hãy tái khám phá người anh em nơi người mà ngày nay họ chỉ coi là một kẻ thù phải triệt hạ, và hãy dừng tay lại.. Hãy từ bỏ con đường võ khí, và đi gặp tha nhân trong cuộc đối thoại, tha thứ và hòa giải, để xây dựng công lý, sự tín nhiệm và hy vọng quanh chúng ta”.

Trong các cuộc xung đột xã hội, tình huynh đệ chống lại nạn tham nhũng, mafia, buôn bán ma túy, nạn nô lệ, buôn người, mại dâm và những hình thức gọi là 'chiến tranh kinh tế và tài chánh” hủy hoại sự sống, các gia đình, và các hoạt động doanh nghiệp”.

Trong đoạn số 9 của Sứ điệp, ĐTC nói đến một nhu cầu cấp thiết là phải bảo tồn và vun trồng thiên nhiên như thể đó là căn nhà trần thế của chúng ta và là nguồn mạch mọi thiện ích vật chất, bây giờ và cho các thế hệ tương lai. Trong tinh thần huynh đệ, chúng ta phải họ cách xử lý môi trường thiên nhiên như một món quà của Đấng Tạo Hóa, một món quà cần được hưởng chung, một cách nhưng không và công bằng. Canh nông sản xuất trong tinh thần trách nhiệm, và các xí nghiệp kiểm soát sự phân phối đúng đắn, và tránh phí phạm, đó là những cách biểu lộ tình huynh đệ cần thiết trong thế giới ngày nay.

Trình bày của Đức Cha Mario Toso, SDB

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo cũng có Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Ngài nêu nhận xét về những đoạn đầu của Sứ điệp, qua đó ĐTC khẳng định rằng tình huynh đệ nói lên liên hệ tính của con người, và hướng tới sự viên mãn của con người. Xét vì tình huynh đệ có tính chất nội tại nơi con người, ảnh hưởng lớn tới cuộc sống và hoạt động của con người, nên nó là điều tối quan trọng để kiến tạo một xã hội công chính và an bình. Nếu không có tình huynh đệ, thì thật là khó lòng chấp nhận và hòa hợp những khác biệt hợp pháp, sống sự tha thứ và hòa giải, và chắc chắn là rất khó bài trừ nạn tham những lan tràn, sự trốn thuế vì ích kỷ, sự loại trừ và bất công trong các cơ cấu xã hội, cũng vậy rất khó bài trừ sự ”hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng” và phá đổ thần tượng tiền bạc, chế độ độc tài của một nền kinh tế vô nhân đạo và không có mục tiêu thực sự là nhân bản. Đó cũng là những tai ương và tệ nạn mà ĐTC Phanxicô đã tố giác trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm”.

Đức Cha Toso cũng nhận xét rằng trong sứ điệp Hòa bình, ĐTC chỉ trình bày một số con đường có thể dẫn đến hòa bình, xuất phát từ sự đón nhận và liên kết nguyên tắc huynh đệ. Những con đường này đi qua các lãnh vực quan trọng như nạn nghèo đói, kinh tế, nạn tham nhũng, chiến tranh, và thiên nhiên. Trong các lãnh vực ấy, ĐTC chỉ đường, nêu lên phương pháp cần theo, và có thể áp dụng chúng cho một số vấn đề khác, nhờ đào sâu và nghiên cứu và thí nghiệm. ĐTC kêu gọi dấn thân mạnh mẽ về phương diện văn hóa, sư phạm và quan điểm, cần có sự động viên của cộng đoàn, khởi hànhtừ sự loan báo tin mừng, hoán cải và giáo dục ở mọi cấp độ, từ tiểu học cho đến đại học.

Trong Sứ điệp, ĐTC kêu gọi cảnh giác đối với thứ tình huynh đệ không tham chiếu siêu việt, thứ huynh đệ này sẽ không tồn tại được. Con người và xã hội nào loại bỏ Thiên Chúa và không nhìn nhận Ngài đang sống giữa họ, thì khó lòng nhìn nhận nhau và sống với nhau như con của cùng một Cha. Tiếp đến, ĐGH Phanxicô nêu rõ rằng đối với mỗi ngừơi và mỗi xã hội, việc đạt tới kinh nghiệm về tình phụ tử của Thiên Chúa, và từ đó đạt tới tình huynh đệ, sẽ trở nên dễ dàng hơn nhờ đón nhận Chúa Giêsu Kitô là Adong mới, được hòa giải với Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc mỗi người với mọi chiều kích của họ, kể cả lý trí được tăng cường hơn. Nhờ sự nhập thể, sự chết và sống lại, Chúa Giêsu gieo vãi trong lịch sử và nơi tâm hồn con người, một tình người huynh đệ hơn, vì hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa và nhờ đó có khả năng nhìn nhận và sống tình huynh đệ với những người đồng lại, và sống với cả thiên nhiên trên một bình diện khác.

Đức Cha Toso nêu rõ một nhận xét của ĐTC trong sứ điệp, đó là trong thế giới hoàn cầu hóa của chúng ta, có sự gia tăng giàu có và tài nguyên, nhưng đồng thời cũng có sự gia tăng sự chênh lệch và nghèo đói tương đối. Gia đình nhân loại bị chia thành những dân tộc và các nhóm, trong đó một thiểu số ngày càng giàu hơn, trong khi đa số khác ngày càng bị nguy cơ gạt ra ngoài lề. Tình trạng di cư gia tăng mạnh mẽ, kèm theo những hiện tượng đau buồn như nạn buôn người, một số kẻ lợi dụng tình trạng tuyệt vọng của những người khác để làm giàu không chút băn khoăn do dự, và nhiều khi gây ra cái chết cho các nạn nhân.

Ngoài những cuộc chiến bằng võ khí, còn có những cuộc chiến tranh khác ít tỏ tường hơn, nhưng không kém phần tàn ác: nó diễn ra trong lãnh vực kinh tế, tài chánh, bằng những phương thế tàn hạn không kém đối với con người, gia đình, xí nghiệp. Chế độ thực dân xưa kia nay được thay thế bằng những chế độ mới, buộc các nước khác phải tùng phục về kinh tế và chính trị, với những cuộc khai thác bóc lột đất đai và khoáng sản, từ phía các quốc gia hoặc các xí nghiệp nước ngoài, mà dân chúng địa phương không được hưởng các tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ; tệ hơn nữa, đất đai và môi trường sống của họ bị ô nhiễm. Tất cả sự chênh lệch, nghèo đói và bất công đó không những cho thấy sự thiếu nền văn hóa liên đới, nhưng còn là dấu hiệu chứng tỏ sự thiếu tình huynh đệ, tạo nên tình trạng nghèo nàn về quan hệ. Vì thế, để có thể sống trong hòa hợp và an bình, nhân loại chúng ta cần có thêm tình huynh đệ được cảm nghiệm, tôn trọng gia đình là tế bào của xã hội, vốn là một nguồn mạch vô tận (1).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Buổi tiếp kiến chung hằng tuần của Đức Thánh Cha: ngày 11-12-2013

Buổi tiếp kiến chung hằng tuần của Đức Thánh Cha: ngày 11-12-2013

VATICAN. Dù trời lạnh mùa đông, 40 ngàn tín hữu hành hương đã đến tham dự buổi tiếp kiến chung hằng tuần của ĐTC tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng ngày 10-12-2013.

Phần lớn các tín hữu hiện diện là người Ý thuộc rất nhiều hội hoàn và phong trào: đông nhất là nhóm 3 ngàn người thuộc hội Avis, Hiến máu, ở miền Basilicata, dưới sự hướng dẫn của Đức Cha Agostino Superbo, TGM giáo phận Potenza. Trong số các tín hữu đến từ nước ngoài, đông nhất là nhóm 185 người Pháp, 175 người Tây Ban Nha, cùng với hàng trăm người khác từ Mỹ châu la tinh.

Tuy giờ chính thức được ấn định cho buổi tiếp kiến là 10 giờ rưỡi, nhưng lúc 9 giờ 45, ĐTC đã xuất hiện tại quảng trường, trên chiếc xe díp mui trần màu trắng, tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu.

Bài huấn giáo

Trong bài huấn giáo sau phần tôn vinh Lời Chúa, ĐTC đã tiếp tục loạt bài giáo lý về đức tin và ngài quảng diễn đề tài ”Tôi tin sự sống đời đời: sự phán xét”. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, mến chào anh chị em,

Tôi muốn bắt đầu loạt cuối cùng trong các bài huấn giáo về sự tuyên xưng đức tin của chúng ta và bàn về câu ”Tôi tin sự sống đời đời”. Đặc biệt tôi nói về sự phán xét chung. Về vấn đề này, chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng theo thánh Mathêu: Bấy giờ Chúa Kitô ”sẽ ngự đến trong vinh quang, cùng với các thiên thần của Ngài.. Và mọi dân nước sẽ tập họp trước mặt Ngài, và Ngài sẽ phân họ như người mục tử tách chiên ra khỏi dê, và đặt chiên ở bên phải, còn dê ở bên trái… Và những kẻ này sẽ ra đi chịu khổ hình đời đời, còn những người công chính được hưởng sự sống đời đời” (Mt 25,31-33.46). Khi chúng ta nghĩ đến việc Chúa Kitô tái lâm và cuộc phán xét chung của Chúa, sẽ biểu lộ – cho đến những hậu quả cuối cùng – điều thiện mà mỗi người đã làm hay đã bỏ sót trong cuộc sống trần thế, chúng ta sẽ thấy mình đứng trước một mầu nhiệm ở trên chúng ta, mà chúng ta không tưởng tượng nổi. Một mầu nhiệm tự nhiên gợi lên trong chúng ta một sự sợ hãi, có thể làm cho chúng ta rùng mình. Nhưng nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về thực tại này, thì nó càng mở rộng con tim của Kitô hữu và là một động lực mạnh mẽ mang lại an ủi và tín thác.

Về vấn đề này, chứng tá của các cộng đồng Kitô tiên khởi âm vang đầy ý nghĩa hơn bao giờ hết. Thực vậy trong các buổi cử hành và kinh nguyện, các cộng đồng ấy thường kèm theo lời hô ”Maranathà”!, một thành ngữ gồm hai lời bằng tiếng Aramaico; tùy theo cách tung hô, thành ngữ này có thể hiểu như một lời khẩn cầu ”Lạy Chúa, xin hãy đến!”, hoặc như một xác tín chắc chắn được đức tin nuôi dưỡng: ”Đúng vậy! Chúa đang đến, Chúa đang ở gần!” Đó là một lời thốt lên, trong đó có tột đỉnh mạc khải của Kitô giáo, vào cuối sự chiêm ngắm tuyệt với mà Sách Khải Huyền của thanh Gioan cống hiến cho chúng ta (Xc Kh 22,20). Trong trường hợp ấy, chính Giáo Hội hôn thê, – nhân danh toàn thể nhân loại và trong tư cách là người đầu tiên -, ngỏ lời với Chúa Kitô, vị Hôn Phu, mà Giáo Hội chờ mong giờ được vòng tay của Chúa ấp ủ, vòng tay này là cuộc sống sung mãn và tình thương. Nếu chúng ta nghĩ đến sự phán xét chung trong viễn tượng ấy, thì mọi sợ hãi và chao đảo sẽ biến đi và nhường chỗ cho sự chờ đợi và niềm vui sâu xa: đó chính là lúc chúng ta sẽ được coi là sẵn sàng mặc lấy vinh quang của Chúa Kitô, như một áo cưới, và được dẫn đến bàn tiệc, là hình ảnh sự hiệp thông trọn vẹn và chung kết với Thiên Chúa.

ĐTC nói tiếp:

Một lý do tín thác thứ hai được trao tặng cho chúng ta qua nhận xét theo đó, trong lúc phán xét, chúng ta sẽ không bị bỏ rơi một mình. Chính Chúa Giêsu, theo Tin Mừng Mathêu, đã báo trước rằng vào thời sau hết, những người đã theo Chúa, sẽ nhận chỗ của mình trong vinh quang của Chúa, để cùng Ngài xét xử (Xc Mt 19,28). Rồi Thánh Phaolô tông đồ, khi viết cho cộng đoàn Corinto, đã quả quyết: ”Anh chị em không biết rằng các thánh sẽ xét xử thế gian sao?” .. Phương chi là những sự đời này!” (1 Cr 6,2-3). Thật là đẹp khi biết rằng trong tình trạng đau thương ấy, ngoài Chúa Kitô, là Đấng Bào Chữa, là Trạng Sư của chúng ta nơi Chúa Cha (Xc 1 Ga 2,1), chúng ta còn có thể trông cậy nơi sự chuyển cầu và sự lòng nhân từ của bao nhiêu anh chị em lớn hơn, đã đi trước chúng ta trong hành trình đức tin, đã hiến mạng sống vì chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta một cách khôn tả! Các thánh đang sống gần nhan Thiên Chúa, trong ánh quang vinh hiển của Ngài, các vị đang cầu cho chúng ta là những người đang còn sống trên trái đất này. Xác tín đó gợi lên nơi chúng ta niềm an ủi dường nào! Giáo Hội thực sự là một người mẹ, và như một người mẹ, Giáo Hội tìm thiện ích của các con cái, nhất là những người ở xa xăm hơn và sầu khổ, để họ tìm lại được sự sung mãn trong thân thể vinh quang của Chúa Kitô với tất cả các chi thể của Giáo Hội. Một gợi ý sau cùng được Tin Mừng theo Thánh Gioan cống hiến cho chúng ta, trong đó có khẳng định rõ ràng rằng: ”Thiên Chúa đã không sai Con của Ngài đến trần thế để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu thoát. Ai tin nơi Ngài thì không bị kết án, nhưng ai không tin thì đã bị kết án rồi, vì đã không tin nơi Con duy nhất của Thiên Chúa” (Ga 3,17-18).

Điều này có nghĩa là sự phán xét chung ấy đang diễn ra, đang bắt đầu bây giờ, qua dòng cuộc sống của chúng ta. Phán quyết ấy được tuyên bố trong mọi lúc của cuộc sống, xét xem chúng ta có đón nhận trong đức tin ơn cứu độ đang hiện diện và hoạt động trong Chúa Kitô hay không, hoặc chúng ta không tin tưởng gì, với hậu quả là chúng ta com cụm vào mình. Nếu chúng ta khép kín đối với tình thương của Chúa Giêsu, thì chính chúng ta tự kết án mình. Ơn cứu độ là cởi mở đối với Chúa Giêsu và chính Ngài cứu vớt chúng ta; nếu chúng ta là người tội lỗi, và tất cả chúng ta đều là người tội lỗi, chúng ta hãy xin lỗi Chúa và nếu chúng ta đến cùng Chúa với ước muốn nên tốt lành, thì Chúa tha thứ cho chúng ta. Nhưng để được như vậy thì chúng ta phải cởi mở đối với tình thương của Chúa Giêsu, tình thương mạnh hơn mọi sự khác. Tình thương của Chúa Giêsu thật là lớn lao, tình thương của Ngài là lòng từ bi, tha thứ. Nhưng ta phải cởi mở đón nhận, và cởi mở có nghĩa là thống hối, là xưng thú những gì không tốt mà chúng ta đã làm. Chúa Giêsu đã và tiếp tục hiến thân cho chúng ta, để cho chúng ta được tràn đầy lòng từ bi và ơn thánh của Chúa Cha. Vì thế có thể nói chính chúng ta có thể trở thành người phán xét chính mình, tự kết án mình loại mình ra khỏi tình hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em, với sự cô độc sâu đậm và buồn thảm từ đó mà ra. Vì vậy, chúng ta đừng mệt mỏi canh chừng tư tưởng và thái độ của chúng ta, để nếm hưởng trước ngay từ bây giờ sự nồng ấm và ánh quang rạng ngời của tôn nhan Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta sẽ chiêm ngưỡng với tất cả sự sung mãn trong đời sống đời đời.

Chào thăm và nhắn nhủ

Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý, các LM tại Tòa Thánh lần lượt tóm tắt bài này bằng cách thứ tiếng khác nhau bằng các ngôn ngữ chính và cả những lời chào và nhắn nhủ của ĐTC. Ngài mời gọi họ, trong mùa vọng này, hãy chuẩn bị tâm hồn để vui mừng đón nhận Chúa Cứu Thế đến trong đời sống bản thân và gia đình chúng ta.

Với các tín hữu nói tiếng Ý, hiện diện đông đảo tại Quảng trường, ĐTC đặc biệt nhắc đến các phái đoàn cho các GM giáo phận liên hệ hướng dẫn. Ngài cũng chào thăm các binh sĩ đến từ Penne và Lamezia Terme, nam Italia, các linh cứu hỏa từ Pescara. Ngài chào thăm các bạn trẻ các bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới.

Sứ điệp của ĐTC nhân l Đức Mẹ Guadalupe

Our-Lady-of-Guadalupe

Trong phần chào thăm các tín hữu, ĐTC cũng gửi sứ điệp nhân lễ Đức Mẹ Guadalupe bổn mạng Mỹ Châu, qua đó ngài mời gọi các tín hữu thuộc đại lục này hãy noi gương Mẹ Maria mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, nhất là những người di dân, người nghèo khổ và ở ngoài lề xã hội. ĐTC nói:

”Ngày mai (12-12) là Lễ Đức Mẹ Guadalupe, Bổn Mạng của toàn thể Mỹ Châu. Nhân dịp này, tôi muốn chào thăm tất cả các anh chị em thuộc đại lục này và tôi nghĩ đến Đức Mẹ ở đồi Tepeyac.

”Khi hiện ra với thánh Juan Diego, khuôn mặt của Mẹ là khuôn mặt của một phụ nữ lai và áo của Mẹ đầy những dấu hiệu của nền văn hóa thổ dân. Giống như Chúa Giêsu, Mẹ Maria gần gũi các con của Mẹ, như một người mẹ yêu thương tháp tùng hành trình của con, chia sẻ vui mừng và hy vọng, đau khổ và lo âu của những người của Thiên Chúa, được kêu gọi trở nên thành phần của mọi dân tộc trên trái đất. ”Sự xuất hiện của ảnh Đức Mẹ in trên áo khoác của thánh Juan Diego là một dấu hiệu ngôn sứ nói lên vòng tay của Mẹ Maria, vòng tay ôm lấy mọi người dân của các lãnh thổ Mỹ châu rộng lớn, những người đã và sẽ sống tại đó.

”Vòng tay của Mẹ Maria chỉ cho thấy con đường luôn là đặc tính của toàn Mỹ châu: đó là phần đất nơi các dân tộc khác nhau có thể chung sống, một phần đất có khả năng tôn trọng sự sống con người trong mọi giai đoạn, từ lúc mới sinh ra cho đến tuổi già, có khả năng đón nhận những người di dân cũng như những người nghèo và người ở ngoài lề xã hội trong mọi thời đại. Đó là một phần đất quảng đại”. ”Đó chính là sứ điệp của Đức Mẹ Guadalupe, và cũng là sứ điệp của tôi, sứ điệp của Giáo Hội. Tôi nhắn nhủ tất cả mọi người dân ở Mỹ châu hãy mở rộng vòng tay như Đức Trinh Nữ Maria, với tình yêu thương và dịu dàng.

”Anh chị em toàn Mỹ Châu thân mến, tôi cầu nguyện cho anh chị em, và cũng xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Ước gì niềm vui Phúc Âm luôn ở trong tâm hồn anh chị em. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Đức Mẹ gìn giữ anh chị em”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

50 ngàn tín hữu đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 8-12-2013

50 ngàn tín hữu đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha: 8-12-2013

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin trưa ngày 8-12-2013 với 50 ngàn tín hữu và đến cầu nguyện trước cột đài Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội ở Roma.

Theo lịch chung của Giáo Hội hoàn vũ, 8-12-2013 là chúa nhật thứ 2 mùa vọng, nên lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm được dời sang ngày thứ hai hôm sau, 9-12. Nhưng Bộ Phụng Tự đã đặc biệt cho phép tất cả các giáo phận tại Italia được mừng kính Lễ Đức Mẹ Vô nhiễm vào ngày chúa nhật 8-12 này.

Bài huấn dụ của ĐTC

Trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền Tin, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa mầu nhiệm Đức Mẹ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, dựa trên bài Tin Mừng của ngày lễ. Ngài nói:

Anh chị em thân mền, chào Anh Chị em!

Chúa nhật thứ hai mùa vọng này, trùng vào lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, và vì thế, cái nhìn của chúng ta bị thu hút vì vẻ đẹp của Mẹ Chúa Giêsu, là Mẹ chúng ta! Giáo Hội rất vui mừng chiêm ngắm Mẹ là ”Người đầy ơn phúc” (Lc 1,28), và khi bắt đầu bằng những lời này, tất cả chúng ta hãy kinh chào Mẹ: ”Đầy ơn phúc”. Chúng ta hãy nói ba lần: ”Đầy ơn phúc!”. Tất cả: ”Đầy ơn phúc… Thiên Chúa đã nhìn Mẹ ngay từ lúc đầu tiên trong kế hoạch yêu thương của Chúa. Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta trong hành trình hướng về Lễ Giáng Sinh, vì Mẹ dạy chúng ta cách sống Mùa Vọng này trong sự chờ đợi Chúa.

Tin Mừng theo thánh Luca trình bày cho chúng ta một thiếu nữ ở thành Nazareth, một thị trấn nhỏ bé của miền Galilea, ở vùng biên cương của đế quốc Roma và ở ngoài lề của Israel. Vậy mà Mẹ đã được Thiên Chúa đoái nhìn đến, đã chọn Mẹ làm mẹ của Chúa. Do chức phận làm mẹ ấy, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi mắc tội tổ tông truyền, nghĩa là khỏi sự rạn nứt trong tình hiệp thông với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên, vốn làm thương tổn sâu xa cho mỗi người. Nhưng sự rạn nứt ấy đã được chữa lành trước nơi Mẹ của Đấng đã đến để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội đã được ghi trong kế hoạch của Thiên Chúa; là kết quả của tình yêu Thiên Chúa Đấng cứu độ thế giới.

Và Đức Mẹ không bao giờ xa lìa tình yêu ấy; trọn cuộc sống, trọn con người của Mẹ là một lời ”xin vâng” đối với Thiên Chúa. Nhưng thực ra điều ấy không dễ dàng đối với Mẹ! Khi Sứ thần gọi Mẹ là “Người đầy ơn phúc” (Lc 1,28), Mẹ rất ”sao xuyến”, vì trong sự khiêm hạ, Mẹ cảm thấy mình không là gì cả trước Thiên Chúa. Sứ thần Chúa trấn an Mẹ: ”Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Trinh Nữ đã được ân phúc nơi Thiên Chúa. Và này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai một con trai.. và sẽ gọi Người là Giêsu” (v.30). Lời loan báo này càng làm cho Mẹ Maria giao động hơn nữa, vì Mẹ chưa thành hôn với Giuse; nhưng Sứ thần nói thêm: ”Thánh Linh sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ.. vì thế hài nhi sinh ra sẽ là thánh và được gọi là Con Thiên Chúa” (v.35). Mẹ Maria lắng nghe, trong tâm hồn vâng phục và thưa lại: ”Này tôi là nữ tỳ Chúa: xin xảy đến cho tôi theo lời ngài” (v.38).

”Mầu nhiệm về thiếu nữ thành Nazareth ấy là người ở trong con tim của Thiên Chúa, không phải là điều xa lạ đối với chúng ta. Thực vậy, Thiên Chúa yêu thương đoái nhìn mỗi người nam nữ! Thánh Phaolô Tông đồ quả quyết rằng Thiên Chúa ”đã chọn chúng ta trước khi tạo thành vũ trụ để chúng ta được nên thánh thiện và không tỳ ố” (Ep 1,4). Cả chúng ta, từ đời đời, đã được Thiên Chúa chọn để sống một cuộc đời thánh thiện, được giải thoát khỏi tội lỗi. Đó là một dự phóng yêu thương mà Thiên Chúa lập lại mỗi khi chúng ta đến cùng Ngài, nhất là qua các bí tích.

Vì thế, trong đại lễ này, khi chiêm ngắm Đức Mẹ vô nhiễm của chúng ta, chúng ta cũng nhìn nhận vận mệnh đích thực nhất của chúng ta, ơn gọi sâu xa nhất của chúng ta, đó là: được yêu mến, được tình thương biến đổi. Chúng ta hãy nhìn Mẹ, và để cho Mẹ nhìn ngắm chúng ta; để học cách trở nên khiêm nhường hơn, can đảm hơn trong việc sống theo Lời Chúa; để đón nhận vòng tay dịu dàng của Chúa Giêsu, Con của Người, vòng tay ban cho chúng ta sự sống, hy vọng và an bình.

Chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC chào thăm mọi người, ngài nêu tên nhiều phái đoàn ở Italia, và nói thêm rằng:

”Chúng ta hiệp ý với Giáo Hội sinh sống ở Bắc Mỹ, ngày hôm nay đang kỷ niệm 350 năm thành lập giáo xứ đầu tiên, đó là Giáo Xứ Đức Bà Québec. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì hành trình đã trải qua từ đó, nhất là các vị thánh và các vị tử đạo đã làm cho những lãnh thổ ấy được phong phú. Tôi thành tâm chúc lành cho tất cả các tín hữu đang cử hành lễ kỷ niệm này.”

ĐTC đặc biệt chào thăm các thành viên Phong trào Công Giáo tiến hành Italia, hôm nay lập lại quyết tâm gắn bó theo Phong trào. Ngài cầu chúc họ mọi sự tốt lành cho nỗ lực dấn thân huấn luyện và làm tông đồ.
Đức Thánh Cha cũng loan báo chương trình hoạt động ban chiều của ngài với mục đích cầu nguyện dưới chân tượng đài Đức Mẹ Vô nhiễm, như một hành vi sùng mộ con thảo đối với Đức Mẹ Maria, để phó thác cho Mẹ thành Roma, Giáo Hội và toàn thể nhân loại.

Kính viếng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm

Và thực vậy, lúc 4 giờ chiều cùng ngày 8-12-2013, tiếp nối một truyền thống từ lâu đời, ĐTC Phanxicô đã đến đặt vòng hoa tôn kính và cầu nguyện trước cột đài Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Quảng trường Tây Ban Nha và trước trụ sở của Bộ truyền giáo. Cột đài này được Đức Chân phước Giáo Hoàng Piô 9 khánh thành ngày 8-9 năm 1857, tức là 3 năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Cột cao 11,81 mét trên đó có tượng Đức Mẹ đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.

Khi ĐTC tiến vào con đường Condotti, đã có đông đảo các tín hữu chờ hai bên đường để chào đón ngài. Ngài đừng lại trước Nhà thờ Chúa Ba Ngôi của các cha dòng Đa Minh người Tây Ban Nha, để nhận sự chào đón của Hiệp hội các thương gia tại khu vực có những cửa tiệm nổi tiếng nhất của thành Roma.

Tại Quảng trường Tây Ban Nha, ĐTC đã được ĐHY Vallini, Giám quản Roma và ông đô trưởng Roma, Ignazio Marino, và ông chủ tịch miền Lazio, Nicola Zingaretti đón tiếp. Đặc biệt tại đây có sự hiện diện của 150 anh chị em bệnh nhân ngồi trên xe lăn, do tổ chức từ thiện Unitalsi giúp đưa từ đảo Sardegna tới đây, cùng với hàng ngàn tín hữu. Ngoài ra cũng có sự hiện diện của ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo và hai vị TGM Tổng thư ký của Bộ là Savio Hàn Đại Huy và Protase Rugambwa.

Sau lời nguyện mở đầu và đoạn sách Tông Đồ công vụ (12,1-6a), ĐTC đã đọc kinh nguyện dâng lên Mẹ Thiên Chúa:

”Lạy Đức Trinh Nữ thánh và vô nhiễm, với lòng tín thác và yêu mến, chúng con hướng về Mẹ, Mẹ là vinh dự của dân tộc chúng con và là người ân cần bảo vệ thành thị của chúng con.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Đấng tuyệt đẹp, chẳng có tội lỗi nơi Mẹ. Xin khơi dậy trong chúng con được một ước muốn mới được nên thánh: xin cho ánh quang chân lý rạng ngời trong lời nói của chúng con, cho bài ca bác ái vang dội trong các hoạt động của chúng con, và sự tinh tuyền và khiết tịnh ngự trị trong thân xác và tâm hồn chúng con, cho trọn vẹn vẻ đẹp của Tin Mừng hiện diện trong đời sống chúng con.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Đấng tuyệt đẹp! Lời của Thiên Chúa đã nhập thể làm người trong Mẹ.

Xin làm cho chúng con đừng đánh mất ý nghĩa hành trình trần thế của chúng con: xin cho ánh sáng dịu dàng của đức tin chiếu sáng những ngày đời của chúng con, cho sức mạnh an ủi của hy vọng hướng dẫn bước chân của chúng con, cho sức nóng lan tỏa của tình yêu linh hoạt con tim của chúng con, cho mắt của tất cả chúng con hướng nhìn về nơi Thiên Chúa, nơi có niềm vui đích thực.

Lạy Mẹ Maria là Đấng tuyệt đẹp, xin lắng nghe lời nguyện của chúng con, nghe lời khẩn cầu của chúng con: xin Mẹ là vẻ đẹp của tình yêu thương xót của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu trong chúng con, xin Mẹ là vẻ đẹp thần linh đến cứu thoát chúng con, thành thị của chúng con và toàn thế giới. Amen

Rồi ĐTC đã dâng vòng hoa tôn kính Đức Mẹ, trong khi cộng đoàn hát kinh cầu Đức Bà, rồi bài ca Ave Maria, trước khi ngài ban phép lành cho mọi người. Ngài chào thăm một số bệnh nhân ngồi trên xe lăn.

Rời đài Đức Mẹ, trên đường về, ĐTC còn đến Đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của Dân Roma. Thói quen này đã được Đức Gioan 23 khởi sự, rồi được Đức Gioan Phaolô 2 tiếp nối cho đến năm 1995, rồi Đức Giáo Hoàng Biển Đức năm 2006.

Đối với ĐTC Phanxicô, ngài đến kính viếng và cầu nguyện trước Ảnh Đức Mẹ tại đây ngay sáng hôm 14-3-2013 sau khi được bầu làm Giáo Hoàng.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh về giáo dân

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh về giáo dân

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 80 tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân, sáng ngày 7 tháng 12-2013, ĐTC Phanxicô khích lệ các tín hữu linh hoạt sự hiện diện của Giáo Hội trong lãnh vực truyền thông, theo tinh thần Tin Mừng.

Hội đồng Tòa Thánh về giáo dân nhóm họp trong 3 ngày qua về đề tài ”Loan báo Chúa Kitô trong thời đại kỹ thuật số”(Proclaiming Christ in the digital age), dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Stanislaw Rylko người Ba Lan. Trong số các tham dự viên có 12 HY, hơn 20 giáo dân thành viên cùng với một số chuyên gia cố vấn.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC nhắc đến truyền thống của Giáo Hội ngay từ những thế kỷ đầu tiên vẫn quan tâm đến vấn đề đức tin và văn hóa: tìm hiểu, đối thoại với nền văn hóa xung quanh, đón nhận và thăng hoa những yếu tố tích cực. Đó cũng là điều các giáo Phụ đã làm, đứng trước các nền triết học sâu xa. Các vị đã không thỏa hiệp với một số ý tưởng trái ngược với đức tin, nhưng biết nhìn nhận và hấp tục những ý niệm cao cả nhất, biến đổi chúng từ bên trong dưới ánh sáng Lời Chúa.

Cũng vậy đối với văn hóa truyền thông và kỹ thuật tân tiến ngày nay. ĐTC nói: ”Giữa những cơ may và nguy hiểm của các mạng internet, cần thẩm định giá trị của mọi sự, với ý thức rằng chắc chắn chúng ta sẽ thấy trong đó những 'đồng tiền giả', những ảo tưởng nguy hiểm và những cạm bẫy cần tránh. Nhưng được Thánh Linh hướng dẫn, chúng ta cũng sẽ khám phá những cơ may quí giá để dẫn đưa con người tới tôn nhan rạng ngời của Chúa”.

ĐTC nhận định rằng ”Trong số những khả thể mà ngành truyền thông kỹ thuật số cống hiến, điều quan trọng nhất liên hệ tới việc loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, thủ đắc những khả năng chuyên môn mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn cần gặp gỡ những con người nam nữ thực sự, nhiều khi bị thương tổn và ngỡ ngàng lạc hướng, để cống hiến cho họ những lý lẽ hy vọng chân thực. Việc loan báo còn phải có những quan hệ chân chính giữa con người với nhau và nhắm đến một cuộc gặp gỡ với Chúa.”

Vì thế, – ĐTC nói- Internet mà thôi thì chưa đủ, kỹ thuật cũng không đủ.. Cần làm sao để Giáo Hội hiện diện trên Internet với lối sống Tin Mừng; cần hiện diện trong các môi trường mà đối với bao nhiêu người, nhất là người trẻ, đó là một thứ môi trường sống của họ, để khơi dậy những thắc mắc không thể dồn nén được của con tim về ý nghĩa của cuộc sống, và chỉ dẫn con đường dẫn tới Đấng là câu trả lời, là Lòng Từ Bi Chúa nhập thể, là chính Chúa Giêsu Kitô” (SD 7-12-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

LỜI CẢNH TỈNH KHẨN THIẾT

LỜI CẢNH TỈNH KHẨN THIẾT

Sứ mệnh Đấng Cứu Thế

Đấng Cứu Thế mà dân Chúa mong đợi được Tiên Tri Isaia báo trước là một Đấng Xét Xử công bình cho người thấp cổ bé miệng. Người đến từ Gốc Gies-sê, thân phụ của Đavít, thuộc dòng dõi Đavít. Người tràn đầy bảy ơn Thánh Thần của Đức Chúa. Người sẽ kiến tạo một nền hòa bình viên mãn, mà trong đó, công lý làm tiêu tan bao thế lực gian tà. Luật ưu tiên sẽ không còn thuộc về số đông của những người thống trị nhờ tiền hay quyền lực, nhưng thuộc về những người cùng đinh bị trị, không tiền, không quyền. Thế lực của những gian tà sẽ không còn nơi dung thân và nền hòa bình vững chắc dựa vào công lý, tín thành tự nơi con người Đấng Cứu Thế.

Vâng, một tin vui cho toàn thể nhân loại, khi sói, khi beo không còn hung hãn dữ tợn, mà ngược lại, trở nên hiền lành vui với lũ chiên ngoan, bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang… (x. Is. 11,1-8) Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ làm cho mọi sự dữ, sự ác nơi vũ trụ này tan biến đi và trở thành những sự lành dễ thương như ngày sáng thế: Tất cả mọi sự đều tốt đẹp trước mặt Đức Chúa.

Như thế viễn cảnh hòa bình mà Isaia đề cập đến, chính là sự tái lập một địa đàng tuyệt đẹp trên trần gian, nơi ấy con người và Thiên Chúa chứa chan an vui trong mối tương quan mật thiết, mối giao hảo toàn vẹn của tình yêu và lòng thương xót…Tái lập tương quan với Thiên Chúa và nền hòa bình viên mãn lúc ban đầu tổ tiên nhân loại đã đánh mất, đó chính là sứ mệnh của Đấng Cứu Thế.

Dọn lòng đón Đấng Cứu Thế ngự trị

Để xứng đáng đón tiếp Đấng Cứu thế và ơn lộc hòa bình mà Ngài mang lại qua sứ mệnh của Ngài, Tiên tri Isaia đã báo trước: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Is 40,3).

Và hôm nay, lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm khi Thánh Gioan Tiền Hô xuất hiện và lớn tiếng hét lên cho nhân loại một mệnh lệnh khẩn cấp: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 3,2).

Như vậy, Nước Trời – hiểu theo nghĩa đã triển khai: Một đất nước của tình yêu thương và hòa bình viên mãn – đã đến, và việc “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa”, cho “Nước Trời” chính là “sám hối”.

Theo trình thuật Tin Mừng hôm nay, thì sám hối không chỉ là biết mình có tội, mà còn phải “thú tội”, nhận lấy “phép rửa”, và hơn thế nữa, còn phải “sinh hoa quả” các nhân đức.

Sám hối không thể là một hành vi đạo đức có tính cách dối trá lừa đảo theo kiểu vụ hình thức của nhóm Pharisieu và Sadu. Thiên Chúa không chấp nhận kiểu sám hối nhân danh nòi giống của những người công chính, của các tổ phụ; kiểu sám hối cho qua chuyện dựa trên thân thế của các thánh nhân. Một kiểu sám hối tự phụ của những con người sám hối công khai.

Một bài học về Đức Tin và lòng sám hối mà Thánh Gioan Tiền Hô thay lời cho Thiên Chúa cảnh cáo thật nghiêm nhặt: “Các anh đừng tự phụ mà cho rằng chúng ta đã có tổ phụ Abraham. Vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho loài sỏi đá trở thành con cháu ông Abraham”. Vì thế, “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 9-10).

Việc trổ sinh hoa quả của lòng sám hối theo lời dạy của Thánh Gioan Tiền hô nhắc đến tính tích cực của lòng sám hối là “Tin Vào Tin Mừng” và biến đổi thành “Con người mới của Tin Mừng”. Có như thế, mới được gọi là dọn lòng cho Đấng Cứu Thế ngự trị một cách đúng nghĩa.

Dẹp bỏ những rào cản bình an và hiệp nhất

Dọn đường cho Chúa đến, trước tiên dọn cõi lòng mình bằng một khát vọng hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, để khao khát ấy sôi sục lên trong lòng những thôi thúc hoán cải cho phù hợp với ý của Đấng Cứu Thế, Người mà ta mong đợi. Ý của Đấng Cứu Thế là tái lập một tương quan toàn vẹn với Thiên Chúa Cha. Vì thế, tất cả những rào cản làm trở ngại hoặc phá hủy tương quan này đều phải được dẹp bỏ. Ngoài những rào cản thông thường là “tội lỗi có thể thấy được”, nay còn thêm những rào cản tinh vi là “tội lỗi không thể thấy được” của những ảo tưởng tốt lành.

– Có thể nói việc bất tín nhiệm các thành phần quan trọng trong giáo hội là một khúc quanh co cần phải uốn cho ngay thẳng không những phía các thành phần bất tín nhiệm mà cả phía cần được tín nhiệm. Từ những sự bất tín nhiệm ấy, trổ sinh bao ảo tưởng “xây dựng giáo hội” theo cách ảo tưởng tốt chủ quan của mình, kéo theo cả một tầng tầng lớp lớp xa dần sự hiệp nhất cần có trong cùng một Đức Kitô, một Adam mới trong một Địa Đàng mới.

Thiết nghĩ, sự hoán cải tấm lòng của mỗi người và mọi người, của cá nhân và tập thể cộng đồng, sự hoán cải đồng bộ và phổ quát mới có sức làm nên một nền hòa bình viên mãn trong Nước Thiên Chúa thể hiện qua Giáo Hội trần gian. Nói như thế không có ý hàm chứa đặt điều kiện với nhau trong mọi thành phần, nhưng thiết nghĩ, đó chính là ước muốn của Thiên Chúa qua tiên tri Isaia và Thánh Gioan Tiền Hô.

Việc hoán cải tấm lòng và thay đổi chính mình theo tinh thần của Tin mừng luôn là một đòi buộc không miễn trừ ai. Và càng có trách nhiệm trong giáo hội càng phải trở nên gương soi, nên tiêu chuẩn cho tinh thần hoán cải này: Hoán cải để nên hiệp nhất, cần dẹp bỏ những ảo tưởng chủ quan, như Thánh Phaolô tha thiết: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (2Rm 15,5-6). Hoán cải để hiệp nhất, cụ thể, cũng theo Thánh Phaolô: “Vậy, anh em hãy đón nhận nhau như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa”. (2Rm 15,7)

– Đã có những người trong giáo hội nghiêng về những xu hướng chính trị một cách thái quá để bảo vệ cho một chân lý không thuộc về Đức Kitô với ảo tưởng là để làm chứng cho Đức Kitô, có thể nói là không quá cần thiết và cũng không mang lại một hiệu quả nào cho nền hòa bình viên mãn mà Đức Kitô mong muốn.

Không có một thế lực chính trị nào mà không có những thủ thuật nằm ngoài sự thật của Chúa Kitô. Dù là chủ thuyết nào, cũng đều có ước muốn duy trì một quyền lực trần thế. Cơn cám dỗ làm vui lòng nhân loại để an định thái độ chính trị đôi khi đành để Tin mừng Chúa Kitô phải chấp nhận nhường đường hay thua thiệt.

Bênh vực cho Chân Lý Chúa Kitô hay bênh vực cho một chủ trương trần thế đang là một thách đố dẫn con cái Chúa đi vào khúc vòng vo cần phải sửa lại cho ngay thẳng để đón Chúa đến. Lời hứa khi rửa tội “từ bỏ ma quỷ và các việc của ma quỷ” vẫn đòi buộc mỗi người suy nghĩ và thực hiện lời hứa ấy từng ngày. Nhưng để thấy được “các việc của ma quỷ” trong thời đại tinh vi này thì quả là một điều cần cảnh tỉnh: Ước vọng chủ quan truyền giáo cho thế lực không nhìn nhận Thiên Chúa, đôi khi phải chấp nhận dừng lại, để dành cho lòng thương xót của Thiên Chúa quyết định, như Thánh Phao lô dạy: “Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa thì đó là do lòng thương xót của Người” (2Rm 15, 9).

Như thế, khi đã nhận ra tính chủ quan mạo hiểm, thì việc “sám hối” không chỉ dừng lại ở việc nhìn thấy, mà còn phải dứt khoát, không thể tiếp tục làm công cụ cho một thế lực nào ngoài Tin mừng Chúa Kitô, vì không có một khuôn mẫu cứu thế nào khác hơn là Đức Kitô và Tin mừng của Ngài.

Lời Chúa Chúa Nhật 2 vọng là một lời cảnh tỉnh khẩn thiết cho tất cả những ai chưa tha thiết với một nền hòa bình tự bên trong là tương quan tốt đẹp giữa cá nhân với Thiên Chúa và cũng là lời cảnh tỉnh cho những người có trách nhiệm giới thiệu nền hòa bình mới này cho nhân loại. Không ai có thể làm cản trở hoặc dừng lại công cuộc cứu thế của Đấng Cứu Thế và ý định ngàn đời của Ngài. Và mỗi chúng ta, ngoài việc “hoán cải tấm lòng” “biến đổi chính mình” thì “hoa trái của lòng sám hối” khả thi nhất là lời cầu nguyện cho sự “hiệp nhất Giáo Hội” và sự “dứt khoát với những việc của ma quỷ”, để Thiên Chúa thật sự ngự trị trong mỗi cõi lòng, trong Giáo Hội Việt Nam và trong toàn thể nhân loại- một thế giới hòa bình viên mãn theo tinh thần của Tin Mừng.

Lạy Chúa, xin cho chúng con một quyết tâm thực hiện những ý định tốt đẹp bởi Thánh Thần soi dẫn. Xin giúp mọi thành phần dân Chúa luôn theo khuôn mẫu Tin Mừng Chúa Ki-tô mà thực hiện những điều tôt lành như lòng Chúa mong ước.

PM. Cao Huy Hoàng

Hãy dọn đường Chúa

Hãy dọn đường Chúa

Ba nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh được Giáo Hội nhắc đến trong Mùa Vọng để giúp chúng ta chuẩn bị đón chờ Chúa đến là tiên tri Isaia, thánh Gioan Tiền Hô và Mẹ Maria. Không những các Ngài đã đón Chúa đến trong cuộc đời mình, mà các Ngài còn giúp cho mọi người khác biết cách để đón chờ Chúa đến.

Bài đọc thứ nhất của cả bốn Chúa Nhật Mùa vọng đều trích lại sứ điệp tràn đầy hy vọng của tiên tri Isaia. Trong cảnh sống nhiều thử thách và bóng tối đau thương dường như thể Thiên Chúa không có mặt, như bỏ rơi con người. Tiếng nói đầy hy vọng của tiên tri Isaia vang lên loan báo Thiên Chúa sắp đến thực hiện lời Ngài đã hứa, là thiết lập lại sự công bằng và hòa bình.

Thời của chúng ta đang sống tuy cách xa thời của tiên tri Isaia, nhưng vẫn cần lắng nghe và hy vọng vào sứ điệp của tiên tri Isaia. Con người có âm mưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi con người, nhưng phần Thiên Chúa thì Ngài không thể vì thế mà bỏ mặc con người với những thảm cảnh do chính con người tạo nên, như họ muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Quyền năng vô cùng của Thiên Chúa luôn luôn có cách thế để vượt thắng những điều tiêu cực trong lịch sử con người và chương trình cứu rỗi vẫn được Ngài thực hiện.

Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân Israel đang gặp thử thách ngày xưa và cho chúng ta ngày nay về dung mạo của Thiên Chúa Cứu Chuộc sắp đến là vị Thiên Chúa mà con người cần đến, với những lời được trích lại trong bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng; “Chúa lấy công minh mà xét xử người nghèo” (x. Is 11,1-10). Đó là những đường nét chính của một vị Thiên Chúa cứu rỗi mà con người mọi thời đại cần đến, một vị Thiên Chúa công bằng trong xét đoán và giàu tình yêu thương, vì Ngài đến để thiết lập cuộc sống hoà bình và hoà hợp cho con người. Cuộc sống ấy được tiên tri Isaia loan báo bằng hình ảnh môi sinh, trong đó sói sống chung với chiên, trẻ nhỏ dám tiếp xúc với các thú dữ. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người được sống trong cảnh thái bình hoà hợp. Nhưng từ phía con người, họ không được sống ỷ lại để mặc Thiên Chúa muốn làm sao thì làm, nhưng họ phải biết thay đổi cuộc sống của mình mà trở về với Thiên Chúa, đón nhận hồng ân Ngài ban.

Trong viễn tượng này, bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Mùa vọng nhắc lại sứ điệp của thánh Gioan, kêu gọi con người hãy thực sự trở về với Thiên Chúa bằng hành động thiết thực, chứ không phải bằng lời nói suông cho qua lần. Qua đó chúng ta có thể lưu ý đến những lời sau đây ghi lại điểm chính của sứ điệp là: “Hãy ăn năn và sám hối”.

Sự ăn năn sám hối là bước đầu tiên không thể bỏ qua được trên con đường trở về với Thiên Chúa. Cần dứt khoát, không được chần chờ kéo dài thời gian mãi được: “Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây”. Hơn nữa, trong số những người đến nghe Gioan rao giảng và muốn thực hiện việc ăn năn trở lại, có những người biệt phái và các văn nhân thuộc phái Sadduceo, họ bị thánh Gioan trách nặng lời: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai bảo các ngươi trốn cơn thịnh nộ hòng đổ xuống trên đầu các ngươi. Hãy làm việc lành cho xứng với sự thống hối”.

Dù là ai hay trong địa vị nào đi chăng nữa, thì ai ai cũng là kẻ có tội và cần sự ăn năn thống hối, cần thật lòng trở về cùng Thiên Chúa. Chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống của mình xem trong ta còn có trở ngại nào ngăn cản không cho Chúa đến trong chính chúng ta và trong xã hội mà chúng ta đang sống.

Chúng ta hằng ngày hãy đọc kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến…”. Lời chúng ta cầu xin cho Nước Cha trị đến sẽ chỉ là lời nói suông hay chỉ là lời nói theo thói quen bao lâu chúng ta không thực sự canh tân đời sống mình: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến”.

Veritas Radio

MONG CHỜ

MONG CHỜ

Một vài năm trước đây tờ Chicago Tribune cho biết tia sáng laser có thể dùng để tẩy xoá các hình xăm dấu hiệu băng đảng trên thân thể của các phần tử.

Một chỗ thi hành công việc này là Trung Tâm Y Tế Sinai ở phía tây thành phố Chicago. Viên giám đốc điều hành trông coi chẩn y viện này nói rằng: Có một nhu cầu rất lớn cho chương trình này. Chúng tôi có trên 700 người đang chờ đợi để được hưởng dịch vụ này.

Vào một ngày thứ Bẩy mới đây, 45 người đã đến chẩn y viện này. Sử dụng một dụng cụ phát ra tia sáng laser, các bác sĩ tình nguyện đã hoàn toàn tẩy xoá được vết xăm chỉ trong vòng vài phút.

Một phụ nữ 25 tuổi cho biết một sự kiện xảy ra vào chiều Chúa Nhật đã khiến cô quyết định tẩy xoá các hình xăm trên thân thể. Khi cô đang đẩy đứa con gái nhỏ trên xích đu, một vài phần tử băng đảng nhìn thấy hình chĩa ba trên cánh tay và chân của cô, hình này là dấu hiệu của băng địch thủ, bọn chúng đã nổ súng. Thật may mắn, khi vội vàng nổ súng chúng đã không bắn trúng cô và đứa con gái.

Một người khác trước đây thuộc về băng đảng cũng đến chẩn y viện chiều hôm đó để tẩy xoá hình xăm ba giọt nước mắt bên mắt trái. Mỗi giọt nước mắt tiêu biểu cho một người bạn đã bị băng thù nghịch bắn chết. Anh ta nói: Bây giờ tôi đã có vợ và một đứa con nhỏ. Tôi muốn từ giã tất cả những thứ này. Nó là một điều ngu xuẩn mà tôi đã làm trước đây.

Câu chuyện của tờ Chicago Tribune cho thấy một điểm quan trọng. Trong cuộc đời, tất cả chúng ta đều đã thi hành những gì mà giờ đây chúng ta hối hận và muốn xoá bỏ chúng.

Điều này không chỉ đúng với người trẻ, nhưng còn đúng với người già. Thí dụ, nếu tôi ngưng nói ở đây khoảng nửa phút, tôi chắc rằng mọi người đều có thể nhớ lại một vài điều gì đó mà họ đã thi hành và giờ đây họ sẵn sàng đánh đổi lấy bất cứ gì để có thể đưa những điều ấy ra khỏi cuộc đời.

Điều bi thảm là rất nhiều người trên thế giới hối hận về những gì họ đã thi hành nhưng không biết cách nào để tẩy xoá chúng. Do đó họ phải chấp nhận sống với tình trạng như vậy. Bất cứ khi nào họ cảm thấy hối hận hay bứt rứt, họ cố gắng quên đi. Nhưng thường những tâm trạng ấy lại trở lại.

Tiểu thuyết gia Somerset Maugham đã viết nhiều cuốn tiểu thuyết và được dựng thành phim – tỉ như The Razor’s Edge, The Moon and Six Pence, và Of Human Bondage. Ông đã lên tiếng thay cho nhiều người khi nói rằng:

Tôi có một lương tâm bén nhậy và tôi từng thi hành một vài điều trong đời sống mà tôi không thể nào thực sự quên được.

Nếu may mắn tôi là một người Công Giáo, tôi có thể tự giải thoát mình khỏi những điều ấy qua việc xưng tội … lãnh nhận sự tha tội và có thể mãi mãi quên đi những điều ấy.

Lời phát biểu của ông giúp chúng ta thấy mình thật có phúc là chừng nào khi có được một phương cách để tẩy xoá tội lỗi khỏi cuộc đời.

Cũng như người cựu băng đảng thấy vui khi có thể tẩy xoá vết xăm thì người Công Giáo chúng ta cũng hân hoan khi Chúa Giêsu giúp chúng ta một phương cách để mãi mãi xoá bỏ tội lỗi của chúng ta.

Điều này đưa chúng ta đến mùa Vọng. Hàng năm Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta về món quà vĩ đại này mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta và thúc giục chúng ta hãy xử dụng nó để đưa tội lỗi ra khỏi cuộc đời.

Nó không chỉ đem lại cho chúng ta sự bình an lớn lao, nhưng còn chuẩn bị cho chúng ta về ngày giờ khi chúng ta phải đứng trước mặt Thiên Chúa để trả lời về những gì chúng ta đã làm và những gì không làm trong đời sống chúng ta.

Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta rằng lời của Thánh Gioan Tẩy Giả trong bài phúc âm hôm nay không chỉ nói với người thời đó, nhưng còn cho con người thuộc mọi thời đại. Những lời đó nói với tôi và anh chị em: Hãy thay đổi đời sống… Hãy chuẩn bị con đường của Chúa.

Một cách cụ thể, những lời này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngay bây giờ? Chúng cũng có cùng một ý nghĩa đối với những người thời Chúa Giêsu. Chúng có nghĩa hãy sám hối và tẩy xoá tội lỗi bằng bí tích hoà giải, là một trong những món quà vĩ đại của Thiên Chúa ban cho chúng ta.

Chúng có nghĩa thi hành điều mà phần tử băng đảng trước đây đã thi hành. Chúng có nghĩa hãy thi hành những gì mà người nghiện rượu thi hành trong bước đầu tiên của chương trình 12 bước chừa rượu. Bước quan trọng này nói: Chúng ta thú nhận với Thiên Chúa, với chính mình, và với người khác về bản chất sai lầm của những điều chúng ta làm.

Về bước này, cuốn cẩm nang AA, “12 Steps and 12 Traditions”, viết:
Một vài bước thì khó hơn để thi hành và … không có bước nào cần thiết hơn. Tuy sự sợ hãi của chúng ta thật lớn và chúng ta do dự thi hành, nhiều người AA bỏ qua Bước Năm…

Không biết tại sao, ở một mình với Thiên Chúa thì không có vẻ bối rối như khi đối diện với người khác… Khi chúng ta thành thật với người khác, điều đó xác nhận rằng chúng ta đã từng thành thật với chính mình và với Thiên Chúa.

Nhiều người AA, đã một lần vô thần hay bất khả tri, nói với chúng tôi rằng chính trong bước này mà lần đầu tiên họ cảm thấy được sự hiện diện của Thiên Chúa. Và ngay cả những người đã có đức tin họ cũng thường ý thức hơn về Thiên Chúa như chưa bao giờ có.

Và như vậy Mùa Vọng là một sự nhắc nhở rằng đó không chỉ là thời gian chuẩn bị mừng Chúa đến lần thứ nhất vào ngày Giáng Sinh đầu tiên.

Nó còn nhắc nhở rằng đây là thời gian chuẩn bị cho Chúa đến lần sau cùng vào lúc tận thế.

Chúng ta hãy vui mừng và cảm ơn Chúa Giêsu vì đã ban cho chúng ta một phương cách để tẩy xoá quá khứ và làm lại từ đầu.

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện của Origen, một tín hữu thời tiên khởi:

Lậy Chúa Giêsu, chân của con thì đầy bụi và dơ bẩn. Chúa hãy đổ nước vào bồn và đến rửa chân con như Chúa đã rửa chân các tông đồ trong bữa Tiệc Ly.

Con nhận ra rằng, con thật can đảm khi xin Chúa thi hành điều ấy. Nhưng con sợ lời cảnh cáo mà Chúa đã nói với ông Phêrô, “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con không thể làm bạn với Thầy.”

Vậy, lạy Chúa Giêsu, xin hãy rửa chân con, bởi vì con muốn được làm bạn với Ngài – hơn bất cứ gì khác trong đời.

Cha Mark Link

CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ

CÁC SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN TIỀN HÔ

Các nước đang phát triển có hướng đô thị hóa rất mạnh. Dân quê bỏ đồng ruộng ra thành thị. Chính phủ lo đô thị hóa nông thôn. Càng phát triển, người ta càng có khuynh hướng tiêu thụ rất mạnh: ăn sang, mặc đẹp. Vậy mà Phúc Âm hôm nay đưa ra hình ảnh thánh Gioan Tiền Hô, một người sống trong sa mạc, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo da thú. Phải chăng là Phúc Âm đã lỗi thời, đi ngược với đà tiến hóa của nhân loại?

Để trả lời cho vấn nạn này, trước hết ta hãy cùng nhau đào sâu những sứ điệp Phúc Âm được nhắn gửi qua đời sống của thánh Gioan Tiền Hô. Thánh Gioan Tiền Hô tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đây không phải là một tiếng kêu vô hồn vô nghĩa. Nhưng là tiếng kêu có nội dung, là những sứ điệp gửi đến loài người.

1) Sứ điệp thứ nhất mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy vào sa mạc.

Vào sa mạc là sống với thiên nhiên, sống hòa hợp với đất trời, bảo vệ cây cỏ, dã thú. Trong nền văn minh tiêu thụ hiện nay, người ta khai thác tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên mà không nghĩ đến tái tạo. Thiên nhiên đang bị hủy diệt, rừng xanh đang lâm nguy, súc vật đang kêu cứu. Trong bối cảnh ấy, sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô có giá trị như một thức tỉnh con người trước sức tàn phá của nền văn minh tiêu thụ.

Vào sa mạc là tìm nơi yên tĩnh mà nghỉ ngơi. Vì các đô thị lớn đã hoàn toàn bị ô nhiễm: ô nhiễm vì tiếng động, ô nhiễm vì khói xăng, ô nhiễm vì rác rưởi, ô nhiễm vì bụi bặm.

Thế nhưng sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô vượt lên trên những nhu cầu của xã hội, của sức khỏe để nhắm vào đời sống tâm linh con người. Nhịp sinh hoạt trong xã hội công nghiệp càng ngày càng tăng tốc độ. Con người luôn luôn vội vã đuổi theo công việc. Vì thế dễ rơi vào tình trạng sống hời hợt bề mặt. Không có thời giờ lắng xuống bề sâu. Vào sa mạc tâm linh, tức là tạo cho mình một thời gian và một không gian yên tĩnh. Dứt lìa những bận bịu lo toan trong cuộc sống để trở về với mình, đối diện với lòng mình.

Sa mạc không có đường đi. Nên người đi vào sa mạc sẽ đi theo con đường Chúa chỉ dẫn. Như xưa dân Do Thái lang thang 40 năm trong sa mạc, không biết đường đi, chỉ biết đi theo áng mây cột lửa nên đã tìm thấy đường đi về với Chúa, đã gặp được Chúa, đã thành dân của Chúa. Như tiên tri Êlia chạy trốn trong sa mạc đã chẳng tìm được đường thoát thân. Nhưng đã được Chúa chỉ cho con đường hy vọng. Như Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, nên đã tìm thấy con đường của Chúa Cha là hy sinh, khiêm nhường, sống trọn tình con thảo.

Cũng vậy, người vào sa mạc tâm linh sẽ gặp mình và trong sâu thẳm lòng mình sẽ gặp được Chúa. Vì Chúa còn thân thiết với ta hơn chính bản thân ta. Vì Chúa còn sâu xa hơn chính nội tâm ta.

2) Sứ điệp thứ hai mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sống khổ hạnh.

Ta tưởng sống khổ hạnh đã đi vào quá khứ. Thực ra các nước văn minh đang đi vào con đường của thánh Gioan Tiền Hô. Một trong các vấn đề lớn của người phương tây hiện nay là giữ sao cho khỏi lên cân, để khỏi bị cholesterol, để khỏi bị chứng bệnh xơ cứng động mạch, để ngăn chặn bệnh tiểu đường, để khỏi bị mỡ bao tim, người ta đã phải kiêng ăn, bớt uống.

Ăn uống đơn sơ đạm bạc không những có lợi cho sức khỏe mà còn giúp ta tiết kiệm để chia sớt với những vùng thiếu ăn, thiếu mặc. Nhưng vượt lên trên tất cả sức khỏe thân xác lẫn đạo đức liên đới xã hội, nếp sống khổ hạnh trước hết và trên hết nhắm phục vụ đời sống tâm linh. Ăn uống là nhu cầu căn bản của con người. Nó thuộc về bản năng sinh tồn. Ăn uống đứng đầu các khoái lạc. Khi làm chủ được ăn uống, người khổ hạnh cũng dễ tiến tới làm chủ được bản thân. Chế ngự được bản năng ăn uống, ta sẽ dễ chế ngự được tham, sân, si khác trong con người. Đó là bước khởi đầu trên con đường đức hạnh dẫn ta đến gặp Chúa và trở nên thân thiết với Chúa.

3) Sứ điệp thứ ba mà thánh Gioan Tiền Hô muốn nhắn gửi ta, đó là: hãy sám hối.

Phải sám hối vì con người là lầm lỗi, là xa lạc. Các thánh chính là những vị không ngừng sám hối để đổi mới bản thân cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng.

Phải sám hối vì đó là điều kiện tiên quyết để đón nhận Tin Mừng, để được vào Nước Trời.

Có hai đặc tính giúp xác định một sám hối đúng nghĩa:

Đặc tính thứ nhất là triệt để. Sám hối không phải là ngồi đó mà than khóc. Nhưng là thay đổi đời sống. Không phải thay đổi một phần mà thay đổi trọn vẹn. Là đổi mới hoàn toàn. Sám hối phải triệt để như dân thành Ninivê, bỏ hết việc ăn chơi, bỏ đàn hát, đọc kinh cầu nguyện, xức tro, mặc áo nhặm. Sám hối phải triệt để như Phaolô, bỏ hẳn ngựa, gươm, bỏ hẳn nếp sống cũ, bỏ hẳn con đường cũ, để tin nhận Đức Kitô, sống một nếp sống hoàn toàn mới. Sám hối phải triệt để như Giakêu, bán hết gia tài, đền bồi gấp bốn, chia sẻ với người nghèo…

Đặc tính thứ hai là cấp bách. Không từ từ do dự vì thời giờ đã tới hồi cấp bách. Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây. Cái sàng đã đặt sẵn ở sân lúa. Cây không sinh trái sẽ bị đốn ngay. Trấu sẽ bị sàng lọc ra ngoài.

Như vậy, con người và sứ điệp của thánh Gioan Tiền Hô không hề lỗi thời. Những sứ điệp sa mạc, sứ điệp khổ hạnh và sứ điệp sám hối vẫn luôn hiện thực. Những sứ điệp ấy soi sáng con đường ta đi, phải tu sửa để gặp được Thiên Chúa Cứu Độ. Cuộc đời gương mẫu của thánh nhân là sức nóng vừa lôi cuốn vừa thúc giục ta. Vì thế Chúa Giêsu đã khen Ngài là “ngọn đèn chiếu sáng và tỏa nóng”. Ánh sáng của Ngài báo hiệu một bình minh chói lọi huy hoàng. Sức nóng của Ngài dẫn ta đến tận nguồn lò lửa. Lò lửa ấy sẽ chiếu sáng, sẽ đốt cháy mọi trái tim trong tình yêu và sẽ thanh luyện ta nên tinh tuyền. Bình minh ấy, lò lửa ấy chính là Mặt Trời Công Chính, là Chúa Giêsu mà chúng ta đang chờ mong trong đêm tối cuộc đời này. Amen.

GỢI Ý SUY NIỆM

1) Thánh Gioan Tiền Hô chuyển đến ta những sứ điệp nào?

2) Đối với bạn, sứ điệp nào cấp bách hơn cả?

3) Cấp bách và triệt để là hai đặc tính của sám hối Phúc Âm. Bạn có quyết tâm làm lại cuộc đời của mình hoàn toàn và ngay hôm nay không?

4) Bạn đã bao giờ cảm nghiệm niềm vui thiêng liêng do cầu nguyện, sám hối và tự chế chưa?

 

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Thống hối

Thống hối

Bạn sẽ làm gì nếu bạn biết rõ bạn chỉ còn sống đúng một ngày nữa thôi? Đây là câu hỏi của một nhà giáo đã đặt cho 625 học sinh người Đức trong 12 trường học và có kết qủa như sau: 20% trả lời rằng các em sẽ dùng thời gian còn lại để vui chơi và ăn uống say sưa cho thoả thích. Có một số em muốn về gặp gỡ những người thân trong gia đình. Một số khác không thể quyết định sẽ thực hiện điều gì. Cuối cùng có một nữ sinh 18 tuổi trả lời: Tôi sẽ dành thời giờ còn lại để chuẩn bị cho giờ cuối cùng của tôi. Tôi sẽ dành buổi tối cuối cùng để đến gặp Chúa và cảm tạ Chúa đã ban cho tôi một đời sống hạnh phúc và đầy đủ.

Vào Mùa Vọng, mọi người tín hữu lại có cơ hội nghe lời Chúa khuyên dạy: “Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến.” (Mt 3,2). Ăn năn thống hối là một diễn tiến đi vào nội tâm của chính mình. Thống hối ăn năn là một trong những sự việc ngại ngùng và khó khăn nhất trong đời sống. Bước tới và lăn xả vào cuộc sống thì dễ dàng hơn là dừng lại và kiểm điểm xét mình. Tâm hồn của chúng ta rất dễ hướng ngoại và nhìn vào cuộc sống của người khác. Chúng ta nhận diện những sai lầm và tội lỗi của người khác rất nhạy bén. Sự phê bình chỉ trích và kết án tha nhân thật dễ dàng. Nhưng để nhìn lại mình và xét mình lại là điều không dễ thực hiện. Chúng ta có thể tán gẫu hằng giờ về những tật hư, thói xấu và truyện riêng của người khác nhưng dừng lại đôi chút để xét mình thì thật khó. Xét mình để nhận ra lỗi lầm của mình. Có lỗi mới có lời xin lỗi. Xin lỗi là tự biết mình đã làm một điều gì không đúng. Nhận lỗi và xin lỗi là bước đầu để tiến tới việc sửa lỗi.

Xét mình giúp chúng ta biết mình đang ở đâu và sống trong bậc thang nhân đức nào. Một người thánh thiện, tốt lành và kiên vững hệ tại đời sống nội tâm chân thành. Chúng ta khó có thể đo lường được sức mạnh của ý chí và đời sống tâm linh của người khác. Xét về diện mạo và cách cư xử bên ngoài thì nhiều người có vẻ giông giống nhau, nhưng đời sống nội tâm, người ta có thể khác nhau một trời một vực. Có sự khác biệt tâm linh giữa người đại tâm và tiểu tâm, giữa sự thánh thiện và tội lỗi, giữa sự quảng đại rộng lượng và bủn xỉn ích kỷ. Sự sâu thẳm của lòng người là một bí nhiệm không thể dò thấu. Mỗi con người là một huyền nhiệm. Đôi khi chúng ta thấy vậy mà không phải vậy. Tiên tri Isaia đã diễn tả sự xét đoán của Thiên Chúa: “Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở.” (Is 11,3-4). Thiên Chúa thấu suốt mọi tâm can. Chúng ta có thể đóng kịch lừa dối người khác, nhưng trước sự sáng láng của Thiên Chúa, chúng ta chỉ là thụ tạo trần trụi và yếu đuối tội lỗi.

Mỗi người chúng ta có kinh nghiệm bản thân cả về thân bệnh và tâm bệnh. Về thân bệnh, có nhiều người sợ hoặc ngại đi khám bác sĩ. Nói rằng tôi đang khỏe, cần gì đi khám bệnh. Đi khám, lại sinh ra đủ thứ bệnh và lo lắng. Có người than rằng bác sĩ chỉ bới ra bệnh để kiếm tiền của các bệnh nhân. Thế là chúng ta cứ khất lần để nuôi con bệnh trong người. Thực tế, ai trong chúng ta cũng có chút bệnh nào đó, không nặng thì nhẹ. Nếu được phòng ngừa hay chữa trị sớm sẽ mau bình phục. Đời sống tâm linh cũng giống như thế, đôi khi chúng ta ngại xét mình và sửa mình. Biết rằng chúng ta có tâm bệnh nhưng không muốn động chạm vào, sợ nó quấy rầy lương tâm. Và thế là chúng ta để tâm bệnh ngủ yên cho lòng bớt gợn sóng. Chúng ta cố gắng ẩn dấu những vết thương âm ỉ trong lòng. Đôi khi còn muốn phấn son lớp da non mịn màng bên ngoài để trình làng. Để rồi cứ tháng này qua tháng khác hoặc năm này qua năm kia, chúng ta chôn vùi, khoả lấp và che giấu những lỗi lầm và tội luỵ. Mùa Vọng, Giáo Hội quan tâm giới thiệu cho chúng ta nhiều phương thế, cơ hội và dược phẩm để chữa lành tâm linh.

Khi bắt đầu ra rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã gặp ông Gioan Tẩy Giả. Gioan là vị Tiền Hô đi trước dọn đường cho Chúa. Chính ông là người mà Tiên tri Isaia đã tiên báo: “Có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng.” (Mt 3,3). Văng vẳng bên tai lời mời gọi chuẩn bị dọn đường đón Chúa. Con đường nội tâm rẽ ra muôn nẻo. Đời sống nội tâm nơi mỗi người không khác gì những hình ảnh đồi núi của sự kiêu hãnh, những hố sâu của sự tham lam, gian tà và dâm ô, những quanh co của gian dối và những khúc mô gồ ghề của tị hiềm, ghen ghét. Hãy sửa đường cho ngay thẳng, có nghĩa là chúng ta phải bỏ công gắng sức lấp san cho bằng phẳng để trở nên hồn trong tâm sạch. Chúng ta có thể đã nhận biết, suy gẫm và thấu hiểu tình trạng nội tâm, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải thực sự bước vào sự phấn đấu tinh luyện. Đòi hỏi sự chiến đấu liên lỉ và bền tâm vì ngày tháng cuộc đời tiếp tục làm soi mòn và vỡ lở tâm can. Hãy nhắm hướng mà tiến tới trên con đường trọn lành. Đừng bỏ cuộc!

Trước mỗi thánh lễ, chúng ta cùng xưng thú các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót, và đấm ngực lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng, nhưng ra khỏi thánh đường, chứng nào lại hoàn tật đó. Có một sự thật không mấy vui là ý chí phấn đấu của chúng ta trên đường trọn lành còn quá non yếu. Chúng ta không thể dứt khoát ngay với các cơn cám dỗ hướng về đàng xấu và tội lỗi. Hình như có một ma lực nào đó luôn cuốn hút chúng ta đòi hỏi thoả mãn tham sân si và nhục dục. Chúng ta dễ dàng gieo mình vào những sự dối trá, bất công, ghen tương, hận thù, gièm pha, gây rối và dục tình. Mỗi ngày chúng ta đối diện với nhiều cám dỗ mới, mỗi dịp tội này lại mang một vẻ mặt mới và với sự hấp dẫn riêng. Hầu như khi đối diện với các cơn cám dỗ, tâm chúng ta lại yếu xìu và buông thả. Ý chí phấn đấu hầu như co cụm và đầu hàng. Thế là chúng ta lại rơi vào lỗi lầm. Ý chí quyết định của chúng ta quá mỏng giòn và yếu nhược.

Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta rơi vào nhiều thói hư và tật xấu. Nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Minh hoạ: Nếu bạn để một con nhái vào trong bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngoài. Nhưng nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy gì lạ cả vì nước âm ấm, cứ ở yên trong đó. Nó quen dần nên không cảm thấy nguy hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra, thì cần phải lấy một vật gì chọc vào thân nó. Đối với các dịp tội cũng thế, những cách tốt nhất có thể thắng được các cơn cám dỗ là tỉnh thức, cầu nguyện và đào vi thượng sách. Hãy tránh khỏi, chạy trốn, cắt ngang và dứt khoát không nhùng nhằng, không nhìn, không nghe và không nói thêm bớt những điều không đúng, không thật và không thanh lịch.

Thánh sử Matthêu đã viết: “Đây cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa.” (Mt 3,10). Lời nhắn nhủ này là một lời cảnh cáo mạnh mẽ và mời gọi mọi người hãy biết làm sinh lợi số vốn đã lãnh nhận. Mục đích của chủ vườn trồng cây là mong rằng cây sẽ sinh hoa kết trái tốt lành. Thiên Chúa cũng mong con người sinh hoa trái tốt qua việc thực hành các nhân đức, làm việc phúc thiện và sống đạo tốt. Ai trong chúng ta cũng có khả năng làm thiện và sống tốt lành. Hãy bước theo đường lối Chúa, Chúa Giêsu đã nêu gương sống hòa đồng, yêu thương và quan tâm đối với mọi người dù họ là những kẻ tội lỗi, nghèo hèn và cùng đinh trong xã hội. Thánh Phaolô đã khuyên dạy: “Vì thế, anh em hãy tiếp rước nhau như chính Chúa Giêsu đã tiếp nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” (Rm 15,7). Sinh hoa trái trong Chúa Kitô qua việc bái ái yêu thương lẫn nhau. Đức ái là đầu mối của tất cả các nhân đức.

Lạy Chúa, tâm hồn chúng con đã bị vương nhiễm bụi trần đời, xin giúp chúng con can đảm san bằng chỗ gồ ghề, lấp đầy nơi hố sâu vũng lầy và uốn ngay mọi khúc quanh co, gian xảo. Xin ban ơn phù trợ để chúng con dọn đường ngay thẳng đón Chúa.


Lm. Giuse Trần Việt Hùng

DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN

DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA ĐẾN

Nói đến Gioan Tẩy Giả, chúng ta phải biết đến con người của Ông. Gioan Tẩy Giả là Vị ngôn sứ nối Cựu Ước và Tân Ước. Ông xuất hiện trước mọi người với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Gioan là Vị ngôn sứ đặc biệt, Ngài được đánh giá như một Êlia mới, ngay trong lòng mẹ, Gioan Tẩy Giả đã được thánh hiến cho Thiên Chúa và được tràn đầy Chúa Thánh Thần.

Hôm nay, sau một thời gian dài ăn chay, hãm mình, cầu nguyện trong sa mạc, Ngài đã xuất hiện và công khai rao giảng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. Thực tế, có điều đó vì dân Do Thái từ lâu đã mong đợi một Vị Cứu Tinh, Một Đấng Cứu Thế đến, Vị Cứu Thế sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen, giải thoát dân khỏi ách nô lệ của ngoại xâm, đem lại hạnh phúc, phồn vinh cho dân tộc Israen, đồng thời mở rộng bờ cõi, đánh đông dẹp bắc v.v…Vương Quốc của Israen sẽ được tái thiết lập: muôn dân ấm no hạnh phúc theo trí ý của con người. Tuy nhiên, sự suy nghĩ của dân, cũng như cái nhìn trần tục của họ, không phải là ý của Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế sẽ đến để cứu độ con người, giải thoát loài người khỏi tội lỗi. Đấng Cứu Thế đến để phục vụ, chứ không đến để được hầu hạ, để được phục vụ.

Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối bởi vì Nước Trời đã đến gần.Đức Giêsu Kitô đã tới trần gian từ lâu, tuy nhiên Ngài vẫn tiếp tục đến để dẫn đưa chúng ta vào một Mùa Vọng, Mùa Vọng mới, chúng ta không còn chờ đợi một triều đại nào ở trần gian, vì mọi sự rồi cũng sẽ qua đi, tất cả rồi cũng biến tan, nhưng là một Mùa Vọng hướng về đời sau, hướng về Quê Trời, nơi sự sống và hạnh phúc sẽ tồn tại mãi mãi. Vâng, Chúa luôn luôn đứng gõ bên cửa hồn của chúng ta.Ý nghĩa mà thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng cũng hướng chúng ta về giờ chết, dù rằng chúng ta không biết được giờ chết, nhưng thực tế, giờ chết của chúng ta rất gần, bởi vì đối với Chúa một ngày cũng như ngàn năm và ngàn năm cũng như một ngày. Gioan Tẩy Giả có uy tín rất lớn đến nỗi lời rao giảng của Ngài thu hút được biết bao nhiêu người ăn năn sám hối và quay trở về với Chúa. Chúng ta thấy có biết bao hạng người đã đến để xin Gioan chỉ bảo cách sống cho phù hợp với ý Thiên Chúa.

Ở đây, chúng ta tự hỏi tại sao lời nói, việc rao giảng của Gioan đã cải hóa, đã thu hút được nhiều người. Sở dĩ, Gioan đã cảm hóa biết bao hạng người vì Người đã sống, đã làm gương rồi mới nói, mới loan báo, mới rao giảng.Gioan Tẩy Giả đã ăn năn, sám hối trước. Ngài đã sống những năm dài trong sa mạc, khắc khổ, hãm mình và sống thân tình với Chúa. Chính đời sống kham khổ trong ăn chay, cầu nguyện, trong sự khó nghèo, đơn sơ, phó thác đã thanh luyện Gioan Tẩy Giả. Ngài thành công trong việc giảng dạy vì Ngài đã sống rồi mới nói, việc làm không mâu thuẫn với lời nói và lời nói không mâu thuẫn với việc làm.Thánh Gioan luôn luôn có sự sống đích thực khác hoàn toàn với Pharisêu và Kinh sư. Pharisêu và Kinh sư nói mà không làm, ngôn hành bất nhất.

Chúng ta là sứ giả cho việc đến lại của Chúa Giêsu lần thứ hai, chúng ta cũng phải là một Gioan Tẩy Giả cho thế giới chúng ta đang sống. Ngày nay, nhân loại ít thích nghe nói mà thích thấy gương chúng ta sống. Lời nói của mỗi người chúng ta đừng mâu thuẫn với việc làm của chúng ta. Nói về Chúa, chúng ta phải sống, cảm nghiệm về Chúa để những ai nghe chúng ta nói, họ cũng nhận ra Chúa nơi chúng ta như thánh Phaolô đã nói : “Tôi sống không phải là tôi sống mà là đức kitô sống trong tôi”. Chúng ta phải trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.

Xin mượn lời của Bernadette Escaffre để kết luận bài suy niệm này : “Chúng ta không thể vào Nước Chúa bằng việc mua cho mình một tấm vé hay một vị trí trong đó. Cánh cửa Nước Chúa luôn rộng mở cho mỗi người chúng ta. Hãy đón nhận và lắng nghe những lời rao giảng của Gioan, như một lời mời gọi để dọn chỗ cho ta trước mặt Thiên Chúa với một trái tim và tâm hồn ao ước được biến đổi”.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một trái tim nhạy cảm, một tấm lòng nhiệt thành trước những con người đang khao khát được nghe lời Chúa và thực thi lời Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Gioan Tẩy Giả là ai?

2. “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” có nghĩa gì?

3. Gioan Tẩy Giả rao giảng làm sao?

4. Gioan Tẩy Giả lên án gì?

5. Đấng Cứu Thế là ai?

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

Chúa Giêsu phục sinh sẽ cho chúng ta sống lại với thân xác được biến đổi và hiển dung

Chúa Giêsu phục sinh sẽ cho chúng ta sống lại với thân xác được biến đổi và hiển dung

Chúa Giêsu phục sinh sẽ cho chúng ta sống lại với thân xác được biến đổi và hiển dung trong ngày sau hết, khi thân xác lại kết hiệp với linh hồn.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 50,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần sáng 4 tháng 12-2013, trong bầu khí Mùa Vọng bắt đầu, với hang đá khổng lồ đang được chẩn bị giữa quảng trường Thánh Phêrô. Đã có mấy ban nhạc liên tục thay phiên nhau trình tấu tạo bầu khi tươi vui cho mọi người. Bên cạnh các đoàn hành hương Bắc Mỹ và Âu châu, có các đoàn hành hương đến từ rất xa như Australia và các nước châu Mỹ Latinh như Argentina, Perù, Venezuela và Brasil.

Trong số các nhóm Ý có các lực lượng an ninh và binh sĩ khác nhau do Đức Tổng Giám Mục Boccardo cựu Tổng tư lệnh tuyên úy quân đội hướng dẫn; phái đoàn của Văn phòng tổ chức hành hương Roma sắp đi Irak, các thành viên của Hội bạn Người cùi Raoul Follereau.

Chào các bạn trẻ Đức Thánh Cha nhắc tới thánh Phanxicô Xaviê, Bổn mạng các vùng truyền giáo mà Giáo Hội mới kính nhớ hôm mùng 3 tháng 12. Ngài cầu mong các bạn trẻ là các chứng nhân can đảm của đức tin. Đức Thánh Cha khích lệ các bệnh nhân dâng thánh giá khổ đau mỗi ngày của họ cho Chúa để cầu nguyện cho ơn hoán cải của những người sống xa ánh sáng Phúc Âm. Ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới loan báo tình yêu của Chúa Kitô từ cuộc sống gia đình.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bầy đề tài giáo lý ”Tôi tin vào sự sống lại của thịt xác”. Ngài nói đây không phải là một sự thật đơn sơ, lại càng không phải là một sự thật hiển nhiên, vì chúng ta đang bị chìm ngập trong thế giới này. Thật không dễ hiểu các thực tại tương lai. Nhưng Tin Mừng soi sáng cho chúng ta: sự sống lại của chúng ta được gắn liền chặt chẽ với sự sống lại của Chúa Giêsu; sự kiện Người đã phục sinh là bằng chứng có sự sống lại từ cõi chết. Người đã sống lại! Và vì Người đã sống lại, nên chúng ta cũng sẽ sống lại.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã trình bầy ba khía cạnh của sự phục sinh. Trước hết chính Thánh Kinh chứa đựng một con đường tiến tới niềm tin tràn đầy vào sự sống lại của kẻ chết. Nó được diễn tả như niềm tin vào thiên Chúa Tạo Dựng con người, có hồn có xác, và như niềm tin vào Thiên Chúa giải thoát, Thiên Chúa của giao ước với dân Người. Trong một thị kiến ngôn sứ Edekiel chiêm ngắm các mồ mả của những kẻ bị đi đầy đươc mở ra và các xương khô sống lại nhờ một thần khí trao ban sự sống. Thị kiến này diễn tả niềm hy vọng vào sự sống lại trong tương lai của dân Israel, nghĩa là sự tái sinh của dân bị thua trận và bị hạ nhục (x. Ed 37,1-14).

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trong Tân Ước Chúa Giêsu đưa mạc khải đó tới chỗ thành toàn và cột buộc niềm tin vào sự sống lại vào chính con người Ngài: ”Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25). Thật thế, Chúa Giêsu sẽ cho những kẻ tin vào Ngài sống lại. Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta, đã làm người như chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi; trong cách thế đó Ngài đã đem chúng ta đi với Ngài trên con đương trở về với Thiên Chúa Cha. Ngài là Ngôi Lời nhập thể, đã chết vì chúng ta và đã sống lại, Ngài trao ban Thánh Thần cho các môn đệ như bảo chứng sự hiệp thông trong Nước vinh quang của Ngài, mà chúng ta chờ đợi trong tỉnh thức. Sự chờ đợi này là suối nguồn và là lý do niềm hy vọng của chúng ta: một niềm hy vọng, mà nếu được vun trồng và gìn giữ, nó trở thành ánh sáng soi chiếu lịch sử cá nhân của chúng ta và của cộng đoàn. Chúng ta hãy luôn nhớ điều này: chúng ta là môn đệ của Đấng đã đến, đang đến ngày hôm nay, và sẽ trở lại ngày sau hết. Nếu chúng ta thành công trong việc có được thực tại này, chúng ta sẽ bớt bị cuộc sống thường ngày làm cho mệt nhọc hơn, bớt là tù nhân của cái phù du, và sẵn sàng bước đi hơn trên con đường cứu độ với con tim thương xót.

Có một khía cạnh khác là ý nghĩa của việc sống lại, sự sống lại của chúng ta tất cả. Nó sẽ đến trong ngày sau hết, trong ngày tận thế do quyền năng của Thiên Chúa, là Đấng sẽ trả lại sự sống cho thân xác chúng ta, bằng cách tái kết hợp nó với linh hồn trong sức mạnh sự phục sinh của Chúa Giêsu. Đây là sự giải thích nền tảng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống lại, chúng ta sẽ sống lại. Chúng ta hy vọng nơi sự sống lại, bởi vì Người đã mở cửa sự sống lại cho chúng ta. Đức Thánh Cha giải thích sự biến đổi này như sau:

Sự biến đổi trong chờ đợi này, sự sống lại đang tiến bước, sự hiển dung này của thân xác chúng ta được chuẩn bị trong cuộc sống này bởi tương quan với Chúa Giêsu trong các Bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống này chúng ta được dưỡng nuôi bằng Mình và Máu Người, chúng ta sẽ sống lại như Người, với Người và nhờ Người. Như Chúa Giêsu đã sống lại với thân xác của Người, nhưng không trở lại với một cuộc sống trần gian, cũng thế chúng ta sẽ sống lại với thân xác của chúng ta, chúng sẽ được biến thành các thân xác vinh quang, các thân xác thiêng liêng.

Đây không phải là một lời nói dối. Nó thật. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài hiện sống trong lúc này đây. Anh chị em có tin Chúa Giêsu sống không? A, anh em chị em không tin hả? Tín hữu trả lời: ”Đạ có”. Anh chị em tin hay không tin? Tín hữu trả lời to hơn: ”Dạ tin.” Và nếu Chúa Giêsu sống thì anh chị em tưởng là Chúa Giêsu sẽ để cho chúng ta chết và không bao giờ sống lại hay sao? Không, Ngài chờ chúng ta. Và bởi vì ngài đã sống lại, sức mạnh sự sống lại của Ngài sẽ phục sinh chúng ta tất cả!

Ngay trong cuộc sống này chúng ta đã tham dự vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô. Nếu đúng thật là Chúa Giêsu sẽ cho chúng ta sống lại vào thời sau hết, thì cũng đúng là trong một khía cạnh nào đó, chúng ta đã sống lại với Người. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu trong lúc này. Nó bắt đầu trong suốt cuộc sống hướng tới lúc phục sinh cuối cùng. Và chúng ta đã sống lại! Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Thật vậy, qua bí tích Rửa Tội chúng ta đã được tháp nhập vào trong cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và chúng ta tham dự vào cuộc sống mới, là cuộc sống của Người. Vì thế trong khi chờ đợi ngày sau hết, chúng ta đã có trong mình một hạt giống của sự sống lại, nó diễn tả trước sự sống lại tràn đầy mà chúng ta sẽ nhận được như gia tài. Vì thế thân xác của từng người trong chúng ta là sự vang vọng của vĩnh cửu, vì thế phải luôn được tôn trọng, và nhất là tôn trọng và yêu thương sự sống của những người đau khổ, để họ cảm nhận được sự gần gũi của Nước Thiên Chúa, của điều kiện cuộc sống vĩnh cửu, nơi chúng ta đang tiến tới. Ý tưởng này trao ban hy vọng cho chúng ta. Chúng ta đang bước tới sự Phục Sinh. Đó là niềm vui của chúng ta: một ngày kia tất cả chúng ta cùng nhau tìm thấy Chúa Giêsu, gặp gỡ Chúa Giêsu, không phải ở quảng trường này, nhưng ở một nơi khác, vui sướng với Chúa Giêsu. Đó là số phận của chúng ta.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm khác nhau và chúc mọi người những ngày hành hương tươi vui bổ ích và Mùa Vọng sốt sắng.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Khóa họp thứ hai của Hội đồng 8 Hồng Y cố vấn

Khóa họp thứ hai của Hội đồng 8 Hồng Y cố vấn

VATICAN. Sáng ngày 3 tháng 12-2013, 8 vị Hồng Y cố vấn của ĐTC trong việc cải tổ các cơ quan trung ương Tòa Thánh và cai quản Giáo Hội hoàn vũ đã bắt đầu khóa họp thứ 2 kéo dài 3 ngày tại Vatican.

Khóa họp thứ I đã diễn ra từ ngày 1 đến 3 tháng 10 năm nay, dưới sự điều hợp của ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga, dòng Don Bosco, TGM giáo phận Tegucigalpa, Honduras. Cũng như lần trước, lần này ĐTC cũng hiện diện trong 3 ngày họp, trừ sáng thứ tư 4-12-2013 vì ngài bận tiếp kiến chung các tín hữu hành hương, hoặc khi ngài có công việc khẩn cấp khác.

Cha Lombardi, Giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết 8 HY đã đồng tế thánh lễ với ĐTC, rồi nhóm họp từ 9 đến 12 giờ rưỡi, sau đó từ 4 đến 7 giờ chiều. Trong thời gian qua, các HY đã làm việc riêng, thu thập các ý kiến, đề nghị và các dữ kiện hữu ích cho khóa họp này.

Trong khóa họp lần này, các HY cứu xét về các cơ quan trung ương Tòa Thánh, đặc biệt là về hoạt động và thẩm quyền của các Bộ tại Tòa Thánh. Trong phiên họp sáng ngày 3-12, các vị cứu xét Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích. Trong khóa họp thứ I hồi đầu tháng 10-2013, các vị đã trao đổi về việc cải tổ Thượng HĐGM và Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

Trong khóa họp lần này, Đức TGM Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cũng được mời tham dự.

Từ lâu vấn để điều chỉnh lại thẩm quyền của các cơ quan trung ương Tòa Thánh đã được đề cập đến, để đạt tới hiệu năng hơn và giảm bớt nhân sự và chi phí. Cho đến nay chỉ có 1 phần 3 các vị Tổng trưởng tại Tòa Thánh được ĐTC tái bổ nhiệm. Đó là các vị Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, Bộ truyền giáo, Bộ giáo dục Công Giáo, và Đức TGM Benjamino Stella được bổ làm tân Tổng trưởng Bộ giáo sĩ. Các vị khác tạm thời tiếp tục công việc và chờ đợi quyết định của ĐTC như ĐHY Tổng trưởng Bộ GM, Bộ các Giáo hội Công Giáo Đông Phương, Bộ Phụng Tự, Bộ Phong thánh và Bộ các dòng tu. Ngoài ra 10 trong số 12 vị Chủ tịch các Hội đồng Tòa Thánh vẫn chưa được chính thức tái bổ nhiệm.

Theo chương trình dự kiến, Hội đồng 8 HY Cố vấn sẽ có khóa họp thứ 3 trong hai ngày 17 và 18-2 năm tới, 2014, trước khi ĐTC tiến hành công nghị bổ nhiệm các Hồng y mới vào ngày 22-2-2014 lễ kính Tòa Thánh Phêrô.

Cha Lombardi cho biết sẽ có những thay đổi sâu rộng trong các cơ quan trung ương Tòa Thánh, một hiến chế mới thay thế hiến chế Pastor bonus hiện hành từ năm 1983 về giáo triều Roma. Tuy nhiên những thay đổi được đề ra là một chương trình dài hạn, vì thế không nên chờ đợi những kết luận ngay trong thời gian ngắn tới đây (SD 3-12-2013)

G. Trần Đức Anh OP
– Vatican Radio

Gặp Gỡ Đức Giáo Hoàng: Hướng Về Vương Quốc Thiên Chúa

Gặp Gỡ Đức Giáo Hoàng: Hướng Về Vương Quốc Thiên Chúa

VATICAN. Ngày 1-12-2013, Chúa Nhật thứ I mùa Vọng, tiết trời ở Rôma khá lạnh, nhưng các tín hữu hành hương vẫn tề tựu rất đông về quảng trường Thánh Phêrô, để nghe những giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô, đọc kinh Truyền Tin cùng ngài, cũng như nhận phép lành từ ngài.

Đúng 12h, Đức Thánh Cha xuất hiện ở cửa sổ như thường lệ, ngài đưa tay chào tất cả mọi người. Ngài chia sẻ rằng chúng ta đang bước vào “một năm phụng vụ mới, một hành trình mới của Dân Chúa với Đức Giêsu Kitô, mục tử của chúng ta, Đấng hướng dẫn chúng ta qua dòng lịch sử hướng về sự kiện toàn trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Vì thế, ngày hôm nay có một sức hút đặc biệt, làm cho chúng ta cảm nếm một cảm giác sâu xa ý nghĩa của lịch sử.” Đức Thánh Cha cũng mời gọi chúng ta hãy cùng nhìn lại hành trình của “Giáo Hội, với ơn gọi và sứ mạng của mình, và toàn thể nhân loại, dân tộc, nền văn minh, văn hóa, tất cả đều đang trong cuộc hành trình qua các chặng đường của thời gian.”

Nhưng Đức Thánh Cha cũng đặt vấn đề “Hành trình về đâu? Có một đích chung nào không? Đích ấy là gì? Thiên Chúa đã trả lời thông qua ngôn sứ Isaia: " Trong tương lai, núi Nhà Ðức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, Nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: "Ðến đây, ta cùng lên núi Ðức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ." (Is 2,2-3).

Đó là một cuộc hành hương của cả vũ trụ hướng về một cùng đích chung, chính là Giêrusalem của Cựu Ước, nơi có Đền Thờ Đức Chúa, vì từ đó, dung nhan của Thiên Chúa và giới luật của Người sẽ được ban truyền, và "đền thờ của Thiên Chúa" là chính Người, Ngôi Lời đã làm người: Người hướng dẫn và đặt đích đến cho cuộc hành hương của Dân Chúa; và là ánh sáng chiếu rọi dân Người để họ có thể tiến tới một Vương Quốc của công chính và bình an. Tiên Tri Isaia nói: "Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến." (Is 2,4).

Hành trình này vẫn chưa hoàn thành. Cuộc sống của chúng ta luôn cần những sẻ chia, nâng đỡ, khôi phục lại ý nghĩa của đích đến trong cuộc hiện hữu của chúng ta, gia đình nhân loại cũng cần làm mới lại chân trời chung mà chúng ta đang hướng về. Chân trời của hy vọng! Mùa vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay trao ban cho chúng ta chân trời hy vọng, một niềm hy vọng không bao giờ dối gạt vì nó được cắm sâu vào Lời Chúa.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha nhắc đến một kiểu mẫu của thái độ thiêng liếng là chính Đức Trinh Nữ Maria, một người nữ thôn quê đơn sơ, đã mang trong con tim của mình niềm hy vọng của Thiên Chúa. Trong dạ Mẹ, niềm hy vọng của Thiên Chúa đang mặc lấy xác phàm, làm người và bước vào lịch sử: Đức Giêsu Kitô. Bài ca Tạ Ơn của Mẹ là bài ca của Dân Chúa trong cuộc hành trình, và của tất cả những thiện nam tín nữ, những người đặt hy vọng vào Thiên Chúa, vào sức mạnh lòng thương xót ủa Người. Chúng ta hãy để Mẹ hướng dẫn chúng ta trong mùa chờ đợi và tỉnh thức này.

Sau kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha gợi nhắc mọi người về ngày thế giới chiến đấu chống lại căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Chúng ta hãy cùng nhau diễn tả sự gần gũi của chúng ta dành cho những người nhiễm bệnh, đặc biệt là các trẻ em, một sự gần gũi rất cụ thể trong việc dấn thân cách âm thầm của các nhà truyền giáo và nhà hoạt động. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu nguyện cho các y bác sĩ, các nhà nghiên cứu, sao cho từng bệnh nhân, không loại trừ ai, đều có cơ hội tiếp cận những biện pháp chữa trị mà họ cần.

Sau đó, ngài gửi lời chào đến tất cả các khách hành hương đang hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô: các gia đình, giáo xứ, đoàn hội, các tín hữu đến từ Madrid, ca đoàn "Florilège" từ Bỉ, nhóm "gia đình cùng nhau" ở Solofra và Hiệp Hội Nghệ Thuật làm việc ở Rôma, các tín hữu từ Bari, Sant' Elpidio và Mare, Polloch và Lump Nevano.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ