Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

Đức Thánh Cha kêu gọi tín nhiệm người trẻ

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 mời gọi toàn thể Giáo Hội hãy tái bày tỏ lòng tín nhiệm nơi người trẻ.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 7 tháng 2-2013, dành cho các tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đang nhóm tại Roma từ ngày 6 đến 9-2-2013 về ”các nền văn hóa đang lên của người trẻ”. Tham dự khóa họp có lối 20 HY, hơn 10 GM thành viên, cùng với đông đảo các cố vấn và khách mời.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC đã trình bày một phân tích về thực trạng phức tạp của người trẻ ngày nay, với những điểm sáng và điểm tối, những khó khăn và những khía cạnh tích cực, như sự hăng say quảng đại và can đảm của bao nhiêu người trẻ thiện nguyện, những kinh nghiệm về đức tin chân thành và sâu xa của bao nhiêu người trẻ làm chứng họ được thuộc về Giáo Hội, những cố gắng tại nhiều nơi trên thế giới để kiến tạo những xã hội có khả năng tôn trọng tự do và phẩm giá của mọi người, bắt đầu từ những người bé nhỏ và yếu thế nhất… Xét cho cùng, chúng ta đang đứng trước một thực tại phức tạp nhưng cũng đầy sức thu hút của người trẻ ngày nay, một thực tại cần được hiểu sâu xa và yêu mến với tinh thần cảm thông sâu đậm.. Tuy ý thức về bao nhiêu tình trạng có vấn đề liên quan tới lãnh vực đức tin và sự thuộc về Giáo Hội, chúng ta hãy canh tân lòng tín nhiện nơi người trẻ, tái khẳng định rằng Giáo Hội nhìn đến hoàn cảnh, các nền văn hóa của người trẻ như một điểm tham chiếu quan trọng và không thể tránh né để hoạt động mục vụ”.

Trong chiều hướng trên đây, ĐTC đã nhắc lại Sứ điệp của Công đồng chung Vatican 2 gửi người trẻ, trong đó Công đồng khẳng định rằng: ”Hỡi các bạn trẻ, Giáo Hội nhìn các bạn với lòng tín nhiệm và yêu thương.. Giáo Hội có những gì mang lại sức mạnh và vẻ đẹp của người trẻ, đó là khẳ năng vì vui mừng vì những gì bắt đầu, hiến thân mà không đòi đáp trả, canh tân và tái ra đi để chinh phục”. Và Đức Phaolô 6 đã gửi lời kêu gọi các bạn trẻ trên thế giới: ”Nhân danh Thiên Chúa và Con của Ngài là Đức Giêsu, chúng tôi nhắn nhủ các bạn hãy mở rộng con tim theo chiều kích của thế giới, hãy hiểu lời kêu gọi của anh chị em các bạn, và dùng nghị lực của các bạn để hăng say phục vụ họ. Hãy từ khước, không chạy theo những bản năng bạo lực, oán thù, gây ra chiến tranh và bao nhiêu điều lầm than theo sau đó. Các bạn hãy quảng đại, thanh khiến, tôn trọng, chân thành. Và hăng hái xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn thế giới hiện nay”.

Và chính ĐTC Biển Đức 16 cũng mạnh mẽ tái khẳng định lòng tín nhiệm của Giáo Hội nơi người trẻ, hy vọng nơi nọ và những năng lực của họ, Giáo Hội cần người trẻ và sức sinh động của họ, để tiếp tục sống sứ mạng do Chúa Kitô ủy thác với một đà tiến mới”

Trong cuộc họp báo hôm 31-1-2013, ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đã bày tỏ mong ước lắng nghe những ngôn ngữ và văn hóa của các thế hệ trẻ. Và theo ngài, Khóa họp toàn thể của Hội đồng là một cơ hội quí giá và một đòi hỏi cho những người lớn cũng như cho các cộng đồng Kitô. ĐHY nói: dĩ nhiên ngôn ngữ của người trẻ khác với chúng ta, nhưng tiềm năng của các thế hệ trẻ là điều chắc chắn. Cách tốt nhất để Giáo Hội có thể được nghe và nhìn thấy giữa đại hồng thủy của thời đại thông tin ngày nay là mở một “trận chiến truyền thông chớp nhoáng với những câu trả lời đơn sơ cho những vấn nạn thâm sâu nhất của cuộc sống.”

Chương trình 3 ngày nhóm họp của Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa khá dầy đặc, và bàn về những thách đố khác nhau do các thế hệ trẻ nêu lên. Các bài thuyết trình đề cập đến các đề tài như xã hội hóa người trẻ, các ngôn ngữ và nghi thức kỹ thuật số, niềm tin của người trẻ, và các lối diễn tả cảm xúc của họ.

Để khai mạc hội nghị đã có một buổi hòa nhạc Rock vào ngày 6 tháng 2-2013 tại Đại Học Công Giáo Lumsa, gần Vatican, do nhóm nhạc sĩ ”The Sun”, Mặt Trời, ở Italia trình diễn. Có 4 nhạc sĩ trong nhóm này đã dần dần xích lại gần đức tin Kitô giáo trong những năm 2008 và 2009. Từ đó nhạc của họ chịu ảnh hưởng của cuộc hoán cải này. Các nhóm nhạc sĩ Rock này lan rộng trên toàn Italia và dấn thân nơi các tín hữu Kitô tại Thánh Địa mà họ hỗ trợ bằng nhiều sáng kiến. (SD 7-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Tin để cho Thiên Chúa làm cho chúng ta được tràn đầy tình yêu của Người

Sống đức tin có nghĩa là thừa nhận sự cao cả của Thiên Chúa và chấp nhận sự bé nhỏ của chúng ta, chấp nhận điều kiện là thụ tạo của chúng ta bằng cách để cho Chúa làm tràn đầy nó với tình yêu của Người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi găp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ thư 6 tháng 2-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về Kinh Tin Kính. Kinh Tin Kính bắt đầu bằng lời tuyên xưng ”Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo dựng nên trời đất”. Đây là câu lấy lại lời khẳng định của Thánh Kinh, câu đầu tiên trong sách Sáng Thế: ”Từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng nên trời và đất” (St 1,1): Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự và quyền năng của Người là Cha yêu thương trải dài trong vẻ đẹp của thụ tạo. Các hình ảnh Thánh Kinh dùng để miêu tả Thiên Chúa Tạo Hóa toàn năng rất gợi cảm (x. Is 40,12; 45,18; 48,13; Tv 104,2.5; 135,7; Cn 8,27-29; G 38-39). Như là người Cha quyền năng, Thiên Chúa săn sóc những gì Người đã tạo dựng với một tình yêu và lòng trung thành không suy giảm (x. Tv 57,11; 108,5; 36,6). Đức Thánh Cha định nghĩa thụ tạo như sau:

Như thế, thụ tạo trở thành nơi hiểu biết và thừa nhận sự toàn năng của Chúa và lòng lành của Người, và trở thành lời mời gọi lòng tin của chúng ta để chúng ta loan báo Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa… Đức tin như thế bao gồm việc biết thừa nhận sự vô hình bằng cách nhận ra dấu vết của nó trong thế giới hữu hình. Tín hữu có thể đọc cuốn sách vĩ đại của thiên nhiên và hiểu ngôn ngữ của nó (x. Tv 19,2-5); vũ trụ nói với chúng ta về Thiên Chúa (x. Rm 1,19-20), nhưng cần thiết có Lời mạc khải của Người, khơi dậy lòng tin, để con người có thể đạt ý thức tràn đầy về thực tại Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha. Chính trong sách Thánh Kinh mà dưới ánh sáng của đức tin, trí thông minh của con người có thể tìm thấy chìa khóa giải thích để hiểu thế giới. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế chiếm một chỗ đặc biệt với việc giới thiệu công trình tạo dựng của Thiên Chúa diễn ra trong bẩy ngày: trong các ngày đó Thiên Chúa hoàn thành việc tạo dựng, và ngày thứ bẩy Người ngưng mọi hoạt động và nghỉ ngơi. Cấu trúc này khiến cho văn bản lập đi lập lại 6 lần điệp khúc: ”Thiên Chúa thấy rằng đó đã là điều tốt lành” (cc. 4.10.12.18.21.25), để kết luận với lần thứ bẩy câu: ”Thiên Chúa đã thấy rằng tất cả những điều Người đã làm rất tốt lành” (c. 31).
Tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều xinh đẹp và tốt lành, đầy khôn ngoan và tình yêu; hành động tạo dựng của Thiên Chúa đem lại trật tự, hài hòa, trao ban vẻ đẹp. Thế rồi trong trình thuật của sách Sáng Thế còn nổi bật sự kiện Thiên Chúa tạo dựng với lời Người: chúng ta đọc thấy 10 lần rằng ”Thiên Chúa phán” (cc. 3.6.9.11.14.20.24.26.28.29), nó nhấn mạnh quyền năng hữu hiệu của Lời Chúa. Như tác giả thánh vịnh hát: ”Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú… Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Người ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33,6.9). Sự sống nảy sinh, thế giới hiện hữu, bởi vì tất cả đều vâng phục Lời Thiên Chúa.

Nhưng mà trong thời đại khoa học và kỹ thuật ngày nay nói về việc tạo dựng có nghĩa gì? Chúng ta phải hiểu các trình thuật sách Sáng Thế như thế nào? Thánh Kinh không muốn là một cuốn sách của các khoa học thiên nhiên; trái lại nó muốn làm cho chúng ta hiểu các chân lý đích thật và sâu xa của các sự vật. Các chân lý nền tảng mà các trình thuật của sách Sáng Thế vén mở cho chúng ta, đó là thế giới không phải là một tổng hợp các sức mạnh đối nghịch nhau, nhưng có nguồn gốc và sự ổn định nơi Lời, nơi Lý Trí vĩnh cửu của Thiên Chúa, tiếp tục nâng đỡ vũ trụ. Có một dự án về thế giới nảy sinh từ Lý Trí đó, từ Thần Khí tạo dựng. Tin rằng nền tảng của mọi sự là đó, nó soi sáng mọi khía cạnh của sự hiện hữu và trao ban can đảm giúp đương đầu với cuộc mạo hiểm của cuộc sống với lòng can đảm và niềm hy vọng.

Tột đỉnh của toàn công trình tạo dựng là người nam và người nữ, là con người, thụ tạo duy nhất ”có khả năng hiểu biết và yêu thương Đấng Tạo Hóa” (GS 12). Tác giả thánh vịnh 8 kêu lên: ”Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Con người được Thiên Chúa tạo dựng nên với tình yêu, là điều thật bé nhỏ trước sự mênh mông của vũ trụ… Con người chứa đựng sự mâu thuẫn này: cái bé nhỏ và mau qua của nó chung sống với sự cao cả của điều mà tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa đã muốn ban cho nó.

Các trình thuật trong sách Sáng Thế cũng dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực này bằng cách giúp chúng ta hiểu biết chương trình của Thiên Chúa đối với con người. Đức Thánh Cha giải thích điễm này như sau:

Trước hết các trình thuật ấy khẳng định rằng Thiên Chúa làm thành con người với bụi đất (x. St 2,7). Điều này có nghĩa chúng ta không phải là Thiên Chúa, chúng ta không tự mình làm ra mình, chúng ta là đất. Nhưng nó cũng có nghĩa là chúng ta đến từ đất tốt lành, do công trình của Đấng Tạo Hóa. Thêm vào đó còn có một thực tại nền tảng khác nữa: đó là tất cả mọi người đều là bụi, vượt ngoài các khác biệt đến từ văn hóa, lịch sử, vượt ngoài mọi khác biệt xã hội; chúng ta là một nhân loại duy nhất được nhào nặn với cùng đất duy nhất của Thiên Chúa. Thế rồi còn có một yếu tố thứ hai: con người có nguồn gốc bởi vì Thiên Chúa thở hơi sự sống vào trong thân xác được nhào nắn từ đất (x. St 2,7). Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa (St 1,26-27). Như thế chúng ta tất cả đều mang trong mình hơi thở sự sống của Thiên Chúa, và mỗi một sự sống con người đều ở dưới sự che chở của Thiên Chúa. Đây là lý do sâu xa nhất sự bất khả xâm phạm của nhân phẩm, chống lại mọi mưu toan đánh giá con người theo các tiêu chuẩn duy ích lợi và quyền bính. Việc là hình ảnh và giống Thiên Chúa cũng ám chỉ rằng con người không đóng kín trong chính mình, nhưng có một quy chiếu nòng cốt nơi Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đề cập đến hai hình ảnh ý nghĩa trong các chương đầu sách Sáng Thế: đó là hình ảnh ngôi vườn với cây biết lành biết dữ và con rắn (St 2,15-17; 3,1-5). Ngôi vườn nói rằng thực tại trong đó Thiên Chúa đã đặt để con người không phải là một rừng hoang dã, nhưng là nơi Người che chở, dưỡng nuôi và nâng đỡ; và con người phải thừa nhận thế giới không phải như là tư sản để cướp bóc và khai thác, nhưng như là ơn của Đấng Tạo Hóa, dấu chỉ ý muốn cứu độ của Người, ơn cần phải vun trồng và giữ gìn, làm cho lớn lên và phát triển trong sự tôn trọng, trong hài hòa theo các tiết nhịp của luận lý, theo chương trình của Thiên Chúa (x. St 2,8-15).

Con rắn là một hình ảnh bắt nguồn từ các việc phụng tự đông phương của sự phong phú, nó hấp dẫn dân Israel và là một cám dỗ liên tục bỏ giao ước nhiệm mầu với Thiên Chúa. Dưới ánh sáng của điều này Thánh Kinh trình bầy sự cám dỗ mà Ađam và Evà phải chịu như là nhân tố của cám dỗ và tội lỗi.

Con rắn không khước từ Thiên Chúa, nhưng đưa vào một câu hỏi xảo trá: ”Có thật là Thiên Chúa đã nói: ”Các ngươi không được ăn trái cây nào hết trong vườn không?” (St 3,1). Như thế con rắn khơi dậy sự nghi ngờ rằng giao ước với Thiên Chúa như là một dây xích cột buộc, đánh mất tự do và các điều xinh đẹp qúy báu của cuộc sống. Đức Thánh Cha giải thích cám dỗ như sau:

Cám dỗ trở thành cám dỗ xây dựng thế giới sống một mình, không chấp nhận các hạn chế của thụ tạo, các hạn chế của sự thiện và sự dữ, của luân lý; sự tùy thuộc tình yêu của Thiên Chúa bị coi như một gánh nặng cần phải giải thoát. Nhưng khi làm sai lạc tương quan với Thiên Chúa, bằng cách đặt mình vào chỗ của Người, thì tất cả mọi tương quan khác đều bị hư hỏng. Khi đó người khác trở thành một đối thủ, một sự đe dọa: sau khi nhượng bộ cám dỗ Ađam lập tức đổ tội cho Evà (x. St 3,12); hai người trốn sự hiện diện của vì Thiên Chúa mà họ đã chuyện vãn với tình bạn (x. 3,8-10); thế giới không còn là nơi sống với sự hài hòa nữa, mà là nơi khai thác và trong đó dấu ẩn các cạm bẫy (x. 3,14-19); ghen tương và thù hận đối với người khác bước vào trái tim con người: điển hình là vụ Cain giết em mình là Abel (x. 4,3-9). Thực ra, khi chống lại Đấng Tạo Hóa của mình con người chống lại chính mình, khước từ nguồn gốc của mình và như thế khước từ sự thật; và sự dữ bước vào thế giới, với dây xích nặng nề của khổ đau và cái chết.

Giáo huấn cuối cùng của các trình thuật là tội lỗi sinh ra tội lỗi và tất cả mọi tội lỗi của lịch sử đều bị cột buộc với nhau. Khía cạnh này thúc đẩy chúng ta nói tới ”tội tổ tông” là thực tại khó hiểu. Trước hết chúng ta phải xét rằng không có người nào là khép kín trong chính mính, có thể sống một mình và cho mình; chúng ta nhận được sự sống từ người khác và không phải chỉ trong lúc sinh ra, mà mỗi ngày. Con người là tương quan; tôi chỉ là chính mình trong ”anh” và qua ”anh”, trong tương quan của tình yêu đối với ”anh” của Thiên Chúa và ”anh” của các người khác.

Và tội lỗi là làm vẩn đục hay hủy hoại tương quan với Thiên Chúa, là đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định rằng với tội đầu tiên con người đã ”lựa chọn chính mình chống lại Thiên Chúa, chống lại các đòi buộc của điều kiện là thụ tạo của mình và hậu quả là chống lại sự thiện” (s. 398).

Khi tương quan nền tảng bị vẩn đục, thì các trục khác của tương quan cũng bị liên lụy hay phá hủy, tội lỗi làm hư hỏng tất cả. Giờ đây nếu cấu trúc tương quan của nhân loại bị vẩn đục ngay từ đầu, thì mỗi người đều bước vào trong một thế giới đã bị ghi dấu bởi sự vẩn đục các tương quan, bước vào trong một thế giới bị vẩn dục bởi tội lỗi và nó bị ghi dấu một cách riêng rẽ; Tội lỗi khởi đầu tấn công bản tính nhân loại và gây thương tích (x. SGLGHCG, 404-406). Và con người một mình thì không thể nào ra khỏi tình trạng này, và tự cứu rỗi mình. Chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể tái lập lại các tương quan đúng đắn mà thôi. Chỉ nếu Đấng mà chúng ta đã lìa xa đến với chúng ta và giơ tay ra cho chúng ta với tình yêu, thì các tương quan đúng đắn mới có thể được tái lập. Điều này xảy ra nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã đi ngược lại con đường của Ađam, như miêu tả trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philiphê (2,5-11). Trong khi Ađam không thừa nhận mình là thụ tạo và muốn chiếm chổ của Thiên Chúa, thì Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã tự hạ trở thành tôi tớ đi theo con đường tình yêu, hạ mình cho tới chết trên thập giá để tái lập trật tự các tương quan với Thiên Chúa. Thập giá Chúa Kitô trở thành cây mới của sự sống.

Sau khi chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và chúc họ các ngày hành hương sốt sắng, Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lạy Cha rồi ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha gặp gỡ công nghị các GM Công Giáo Canđê

Đức Thánh Cha gặp gỡ công nghị các GM Công Giáo Canđê

VATICAN. Sáng hôm 4 tháng 2-2013, ĐTC đã tiếp kiến Công nghị Giáo Hội Công Giáo Canđê gồm 20 vị, dưới sự hướng dẫn của Đức Tân Thượng Phụ Louis Sako.

Buổi tiếp kiến diễn ra trước thánh lễ hiệp thông do Đức Thượng Phụ và các GM Canđê cử hành tại Đền thờ thánh Phêrô. Đại diện ĐTC tại buổi lễ có ĐHY Leonardo Sandri Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương.

Trong thánh lễ, có đọc thư của ĐTC chúc mừng và ban sự hiệp thông Giáo Hội cho Đức tân Thượng Phụ Sako. Ngài viết:

”Tôi nồng nhiệt chúc mừng và cầu xin Chúa ban cho Đức Thượng Phụ dồi dào mọi ân sủng và phúc lành. Xin Chúa soi sáng cho Đức Thượng Phụ trong việc công bố Tin Mừng không biết mệt mỏi theo truyền thống sinh động có từ thời thánh Tômasô Tông Đồ. Ước gì Vị Mục Tử nhân lành và vĩnh cửu nâng đỡ Đức Thượng Phụ trong niềm tin của cha ông và ban cho Đức Thượng Phụ lòng nhiệt thành của các vị tử đạo xưa kia và ngày nay để bảo tồn gia sản linh đạo và phụng vụ của Giáo Hội Canđê đáng kính, trong tư cách Đức Thượng Phụ là Cha và là Thủ Lãnh. Ước gì sứ vụ của Đức Thượng Phụ là niềm an ủi cho các tín hữu Canđê tại quê mẹ cũng như tại hải ngoại, và cho cả toàn thể cộng đồng Công Giáo và các tín hữu Kitô đang sống tại quê hương của Tổ Phụ Abraham, như một khích lệ hòa giải, đón nhận nhau và hòa bình cho toàn thể nhân dân Iraq”.

Sau thánh lễ, Đức Thượng Phụ và các GM Công Giáo Canđê đã đến trước mộ thánh Phêrô Tông Đồ, lập lại lời tuyên xưng đức tin tông truyền.

Giáo Hội Công Giáo Canđê có 550 ngàn tín hữu tại Iraq trước khi Hoa Kỳ và đồng minh đánh chiếm nước này ngày 20 tháng 3-1993. Ở hải ngoại có 200 ngàn tín hữu, nhưng nay chỉ còn lại 200 ngàn tín hữu ở trong nước và phần còn lại phải di tản ra nước ngoài. (SD 4-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Tạ Ơn

Tôi tạ ơn Chúa vì chồng tôi cứ phàn nàn khi bữa cơm chưa dọn kịp,
bởi lẽ chàng đang ở ngay bên cạnh tôi, chứ không phải bên ai khác.


Tôi tạ ơn Chúa vì con tôi cứ càu nhàu khi phải phụ rửa chén đĩa cho tôi,
bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.


Tôi tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà tôi phải trả quá cao,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một công việc tốt để làm.


Tôi tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi luôn được bạn bè quý mến đến chơi.


Tôi tạ ơn Chúa vì quần áo tôi bỗng trở lên hơi chật,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có đủ ăn,


Tôi tạ ơn Chúa vì cái bóng của tôi cứ nhìn tôi làm việc,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang sống tự do ngoài nắng.

Tôi tạ ơn Chúa vì sàn phòng cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một mái nhà để cư ngụ.

Tôi tạ ơn Chúa vì tất cả những lời than phiền về chính phủ,
bởi lẽ như thế nghĩa là chúng ta đang được tự do ngôn luận.

Tôi tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền cho hệ thống sưởi thật cao,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang được ấm áp.

Tôi tạ ơn Chúa vì người phụ nữ ngồi phía sau tôi trong nhà thờ hát sai.
bởi lẽ như thế nghĩa tai tôi còn nghe được rất tinh tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì đống đồ phải giặt ủi,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì các cơ bắp của mình thấy mỏi mệt vào cuối ngày,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có sức để làm việc nhiều.

Tôi tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm ban mai,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi còn đi lại, hít thở và cười nói,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang còn sống.


và cuối cùng…

Tôi tạ ơn Chúa vì nhận quá nhiều thư từ gửi về,
bởi lẽ như thế nghĩa là tôi vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến tôi…

 

Tôi gửi bài này để các bạn hiểu rằng :

"Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương,
   cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào!"

Trần Duy Nhiên dịch

Chronicles16-34

 

Giám mục cao niên nhất Việt Nam qua đời

Giám mục cao niên nhất Việt Nam qua đời

Giám mục Giacôbê Nguyễ văn Mầu

Linh cữu Đức cha Mầu được quàn tại nhà thờ chính tòa Vĩnh Long – Ảnh: Gp. Vĩnh Long

Đức cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu vừa từ trần hôm thứ Năm tại tiểu chủng viện Vĩnh Long, sau 73 năm linh mục và 45 năm giám mục. Hưởng thọ 99 tuổi.

Đức cha Mầu là vị giám mục thứ ba của giáo phận Vĩnh Long. Ngài được ca ngợi là vị giám mục có đời sống cương nghị, sâu đậm tình nghĩa, ứng xử hài hoà đã giúp giáo phận vượt qua nhiều thử thách trong thời kỳ khó khăn.

Trang website giáo phận Vĩnh Long viết rằng: “Trong hoàn cảnh khó khăn của những năm sau 1975, Đức cha Giacôbê đã âm thầm nâng đỡ tinh thần của đoàn dân Chúa. Ngài đã tích cực đào tạo hàng giáo sĩ, tu sĩ và hoạt động Công giáo tiến hành của giáo dân. Ngài đã thành lập nhiều giáo xứ mới và số giáo dân trong giáo phận tăng cao”.

Từ 1968-2001, giáo dân của giáo phận đã tăng từ 40.000 lên đến 168.000 người.

Trong suốt thời gian coi sóc giáo phận, ngài luôn được ca ngợi là vị giám mục nhân hậu và gần gũi với tất cả mọi người.

“Đức cha luôn gần gũi và thương yêu mọi người. Ngài không chỉ là người cha nhân hậu mà ngài còn là người cha rất vui tính và hài hước” – Thầy Phaolô Phan Thanh Duy nhận xét.

Thầy Duy nói rằng trong thời gian ngài nghỉ hưu mỗi khi có người đến thăm, ngài đều kể chuyện hài và chọc cười mọi người. “Ngài rất hóm hỉnh. Mỗi khi ai đó nói hút thuốc là có hại cho sức khỏe và chết sớm ngài đều phản bác và nói rằng nhờ hút thuốc mà ngài mới sống thọ như vậy” – thầy Duy kể.

Đức cha Mầu sinh ngày 21-1-1914 tại Bà Rịa, 12 tuổi ngài học tại Chủng viện Thánh Giuse. Đến năm 1940 ngài chịu chức linh mục và dấn thân phục vụ rất nhiều giáo xứ trong địa phận Sài Gòn lúc bấy giờ bao gồm cả Đà Lạt, Xuân Lộc, Mỹ Tho và Vĩnh Long.

Ngày 12-7- 1968, ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Vĩnh Long. Trước đó, ngài từng là giám đốc Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.

Tháng 7-2001, ngài được Tòa Thánh chấp thuận cho nghỉ hưu ở tuổi 87, sau 33 năm làm giám mục giáo phận.

Thánh lễ an táng sẽ được cử hành vào ngày 4-2. Thi hài ngài sẽ được an táng trong khuôn viên nhà thờ chính tòa Vĩnh Long.

UCANEWS VN

Đầu tư cho sự sống và gia đình là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay

Đầu tư cho sự sống và gia đình là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay

Trưa Chúa Nhật hôm qua là ”Ngày cho sự sống” tại Italia Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã dọc Kinh Truyền Tin với hàng chục ngàn tín hữu tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô, trong đó có hàng ngàn thành viên của các phong trào bảo vệ sự sống. Ngỏ lời chào họ Đức Thánh Cha nói:

Anh chi em thân mến, Chúa Nhật thứ nhất tháng Hai là ”Ngày cho sự sống” tại Italia. Tôi hiệp ý với các Giám Mục Italia mời gọi đầu tư cho sự sống và gia đình, như là câu trả lời hữu hiệu cho cuộc khủng hoảng hiện nay, như các vị đã viết trong sứ điệp gửi ngày này. Tôi chào mừng Phong trào bảo vệ sự sống và cầu chúc thành công cho sáng kiến mang tên gọi ”Một người trong chúng ta”, để cho âu châu luôn luôn là nơi mọi người được bảo vệ trong nhân phẩm của mình.

Đức Thánh Cha cũng chào đại diện các phân khoa Y khoa và Giải phẫu của các đại học ở Roma, cách riêng các giáo sư ngành Sơ sinh và Sản khoa được tháp tùng bởi Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản Roma. Ngài khích lệ họ nỗ lực đào tạo các nhân viên y tế cho nền văn hóa sự sống.

Trước đó trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa bài Phúc Ân thánh lễ Chúa Nhật, kể lại biến cố một ngày thứ bẩy Chúa Giêsu đọc và giải nghĩa Sách Thánh trong hội đường Nagiarét, nơi Người đã lớn lên và ai cũng biết gia đình Người. Đức Thánh Cha nói:

Giờ đây sau một thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu đã trở lại Nagiarét trong một cách thức mới mẻ: trong buổi phụng vụ ngày thứ bẩy Người đọc một lời tiên tri của ngôn sứ Isaia và loan báo việc thành toàn của nó bằng cách để cho người nghe hiểu rằng lời tiên tri ấy quy chiếu về Người. Điều này khơi dậy sự bất bình của dân làng Nagiarét: một đàng, mọi người đều làm chứng và thán phục các lời ân phúc thốt ra từ miệng Người” (Lc 4,22). Thánh sử Máccô kể rằng ”nhiều người hỏi: ”Bởi đâu ông ta được những điều này? Và ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?” (Mc 6,2). Nhưng đàng khác, các người đồng hương biết Người qúa rõ. Họ nói: ”ông ta là một người trong chúng ta. Yêu sách của ông chỉ có thể là sự tự phụ” (Đức Giêsu thành Nagiarét, 11). ”Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4,22), như thể nói rằng: một bác thợ mộc làng Nagiaret có thể có các khát vọng nào đây?

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: chính vì biết sự khép kín này xác nhận châm ngôn: ”Không có ngôn sứ nào lại được chấp nhận trong quê hương mình” Đức Giêsu nói với dân chúng trong hội đường các lời vang lên như một khiêu khích. Người kể lại hai phép lạ mà các ngôn sứ lớn Elia và Eliseo đã làm cho các người không phải dân Do thái, để chứng minh rằng đôi khi ngoài dân Israel có nhiều đức tin hơn. Tới đây thì phản ứng đồng nhất: mọi người đều đứng lên đuổi Chúa Giêsu ra khỏi hội đường, và còn tìm cách xô Ngươi xuống một vực sâu, nhưng với sự bình tĩnh tột độ Người băng qua đám dân chúng phẫn nộ và bỏ đi. Tới đây người ta phải tự hỏi: tại sao Đức Giêsu lại đã muốn khơi dậy sự đổ bể ấy? Ban đầu dân chúng thán phục Người và có lẽ Người đã có thể có được một sự đồng ý nào đó của họ… Nhưng đây mới là điểm đáng nói. Đức Thánh Cha giải thích lý do sự kiện này như sau:

Đức Giêsu đã không tới để tìm sự đồng ý của loài người, nhưng – như sau cùng Người sẽ nói với quan Philatô – để ”làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Vị ngôn sứ thật không vâng lời ai khác ngoài Thiên Chúa, và phục vụ chna lý, sẵn sàng trả giá cho việc đó. Có đúng thật là Đức Giêsu là vị ngôn sứ của tình yêu, nhưng tình yêu cũng có chân lý của nó. Còn hơn thế nữa, tình yêu và chân lý là hai tên gọi của cùng một thực tại, là hai tên gọi của Thiên Chúa. Trong phụng vụ hôm nay cũng vang lên các lời của thánh Phaolô: ”Đức mến không vênh vang, không tự đắc, không thiếu tôn trọng, không tìm tư lợi, không nóng giận, không chý ý đến sự dữ nhận được, không vui vì bất công, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,4-6). Tin nơi Thiên Chúa có nghĩa là khước từ các thành kiến riêng, và tiếp nhận gương mặt cụ thể, trong đó Người tự mạc khải ra: đó là con người Đức Giêsu thành Nagiarlet. Và con đường này cũng dẫn tới chỗ nhận biết Người và phục vụ Người nơi tha nhân.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Ở đây thái độ của Đức Maria soi sáng chúng ta. Ai là người thân thiết với nhân tính của Chúa Giêsu hơn Mẹ? Nhưng Mẹ đã không bao giờ lấy làm gương mù gương xấu như các người đồng hương Nagiarét. Mẹ giữ gìn trong tim mầu nhiệm ấy và luôn luôn ngày càng biết tiếp nhận nó hơn, trên con đường lòng tin, cho tới cái chết của Thập Giá và ánh sáng tràn đầy của sự Phục Sinh. Xin Mẹ Maria cũng giúp chúng ta trung thành và tươi vui bước đi trên con đường ấy.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ngài đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong tiếng Pháp Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu cảm tạ Chúa và cầu nguyện cho tất cả những người sống đời thánh hiến, để họ lờn lên trong sự thánh thiện. Gương sống của họ lôi kéo chúng ta dành cho Thiên Chúa một chỗ rộng rãi trong đời sống, qua lời cầu nguyện, qua việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật và đọc Lời Chúa.

Bằng tiếng Đức ngài nói sứ điệp Phúc Âm hôm nay đòi buộc chúng ta phải quyết định, không phải cho một người nhưng cho Chúa Kitô, như là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Cả ngày nay nữa Phúc Âm cũng vấp phải sự khứơc từ của thế giới, đẩy Thiên Chúa ra bên lề và muốn hài lòng cho mình các câu trả lời dễ dãi và không ràng buộc.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

Tiếp tục thương thuyết giữa Israel và Tòa Thánh

JERUSALEM. Hôm 29 tháng 1-2013, Tòa Thánh và Israel đã có một cuộc họp ”nghiêm túc và xây dựng” trong khuôn khổ cuộc thương thuyết về các vấn đề kinh tế tài chánh của Giáo Hội Công Giáo tại Thánh Địa.

Trên đây là nội dung thông cáo chung sau cuộc họp của Ủy ban làm việc thường trực song phương giữa Tòa Thánh và Israel. Ủy ban đã ghi nhận có những tiến bộ đáng kể và cầu mong sớm đạt tới một hiệp định”.

Phái đoàn Tòa Thánh tại cuộc họp do Đức Ông Ettore Balestrero, Thứ trưởng ngoại giao, hướng dẫn, và phái đoàn Israel do thứ trưởng ngoại giao Daniel Ayalon làm trưởng đoàn.

Đối tượng cuộc thương thuyết là điều số 10 triệt 2 trong hiệp định cơ bản ký kết giữa Israel và Tòa Thánh hồi cuối năm 1993.

Cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm nhưng chưa đạt kết quả. Nhà nước Israel muốn bãi bỏ các qui luật có từ thời Osman cai quản Thánh Địa, miễn thế cho các cơ sở của các tôn giáo như nhà thương, nhà trọ và trường học. Chính phủ Israel muốn chấm dứt các qui luật này nhưng Tòa Thánh tiếp tục đòi duy trì, vì nếu không các cơ sở của Giáo hội sẽ không thể tồn tại.

Giới báo chí quốc tế nhận xét rằng: giống như những lần trước đây, thông cáo chung sau cuộc họp hôm 29-1-2013 cũng nói đến ”những tiến bộ trong cuộc thương thuyết, phần lớn các vấn đề đã được giải quyết và thỏa hiệp chung kết đến gần”.

Phía Tòa Thánh không có tuyên bố nào ngoài thông cáo chung, nhưng phía Israel nói đến những tiến bộ tích cực. Ví dụ Đại sứ Zion Evrony của Israel cạnh Tòa Thánh nói với hãng tin Asia News hôm 30-1-2013 rằng ”Đã có những tiến bộ ý nghĩa về nhiều điểm trong Hiệp định cơ bản giữa Tòa Thánh và Israel, nhất là về những điểm đã thảo luận trong các cuộc gặp gỡ trước đây. Tuy một số vấn đề vẫn chưa được giải quyết, nhưng từ cả hai phía đều có ý chí tiếp tục tiến bước để lấp đầy sự dị biệt này, đây sẽ là đối tượng cuộc họp tới đây của Ủy ban”.

Hai bên đã thỏa thuận sẽ nhóm khóa họp toàn thể của Ủy ban vào tháng 6 năm nay tại Vatican.

Đại sứ Evrony nói thêm rằng ”Có nhiều lý do để lạc quan, vì chúng tôi đã nhận thấy rằng những chia cách có thể được khắc phục”. Tuy nhiên ông nhận rằng ”Vẫn chưa có những dữ kiện chính xác về lịch trình để tiến tới một hiệp định chung kết”.

Theo Ông Đại Sứ, có sự cải tiến rõ ràng trong quan hệ giữa Tòa Thánh và Israel. Các quan hệ tốt đẹp và thấm đượm tinh thần tín nhiệm lẫn nhau.

Một nguồn tin từ Vatican cho biết sở dĩ cuộc thương thuyết đã kéo dài hơn 15 năm mà chưa đạt kết quả là vì phía Israel, mỗi khi thay đổi chính phủ, chính phủ đến sau thường không chấp nhận những gì Ủy ban song phương đã đạt được và lại bắt đầu. (SD 30-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican
 

Đức Thánh Cha cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến

Đức Thánh Cha cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến

VATICAN. ĐTC mời gọi những người thánh hiến hãy nuôi dưỡng và canh tân đức tin để có thể chiếu sáng ơn gọi của mình.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 2 tháng 2-2013, lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, cũng là Ngày đời sống thánh hiến, trước sự hiện diện của hàng ngàn tu sĩ nam nữ trong Đền thờ thánh Phêrô.

Ngày Đời sống thánh hiến được Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cử hành lần đầu tiên hồi năm 1997, với mục đích chúc tụng Thiên Chúa về hồng ân đời sống thánh hiến, là điều vốn thuộc về sự thánh thiện của Giáo Hội, đồng thời ngày càng đề cao chứng tá cũng những người chọn theo Chúa Kitô qua việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm, và đây cũng là cơ hội quí giá để mọi người thánh hiến lập lại quyết tâm đã và đang khích lệ họ hiến thân phụng sự Chúa.

Đây là lần đầu tiên từ 7 năm nay, ĐTC Biển Đức 16 cử hành thánh lễ nhân Ngày Đời Sống thánh hiến. Những năm vừa qua, ngài chỉ chủ sự Kinh Chiều nhân ngày này.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Tổng trưởng Bộ các dòng tu João Braz de Aviz, người Brazil, LM Sebastiano Paciolla, thuộc dòng Xitô, Phó tổng thư ký của Bộ, 4 Bề Trên Tổng quyền thành viên, và hàng chục các LM phục vụ tại Bộ.
Mở đầu buổi lễ có nghi thức làm phép nến do ĐTC chủ sự ở cuối Đền Thờ, rồi ngài cùng với đoàn đồng tế và 50 bề trên nam nữ, đại diện cho các hình thái khác nhau của đời sống Thánh Hiến, đi rước tiến lên Bàn thờ chính.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, sau khi quảng diễn ý nghĩa trình thuật Phúc Âm về việc dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, ĐTC nhắc đến cuộc rước nến sáng vào đầu thánh lễ với sự tham dự của các bề trên nam nữ. Ngài nói:

”Đề tài ánh sáng, vang vọng trong bài ca thứ I và thứ II của Người Tôi Tớ Chúa, trong II-Isaia (Xc 42,6; 49,6) hiện diện mạnh mẽ trong phụng vụ này. Thực vậy phụng vụ được mở đầu với cuộc rước đầy ý nghĩa mà các Bề trên nam nữ của các Hội dòng đời sống thánh hiến có mặt tại đây đã tham dự, tay cầm nến sáng. Dấu hiệu này, đặc biệt trong truyền thống phụng vụ của lễ hôm nay, biểu lộ vẻ đẹp và giá trị của đời thánh hiến như một phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô; một dấu hiệu gợi lại biến cố Mẹ Maria tiến vào Đền Thánh: Đức Trinh Nữ Maria, người Thánh Hiến tuyệt hảo, tay bồng chính Ánh Sáng là Ngôi Lời nhập thể, đến để xua tan bóng đêm ra khỏi trần thế bằng tình thương của Thiên Chúa”.

”Anh chị em thánh hiến thân mến, tất cả em chị em được diễn tả trong cuộc lữ hành tượng trưng, – trong Năm Đức Tin, cuộc lữ hành này càng diễn tả sự hợp nhau của anh chị em trong Giáo Hội, để được củng cố trong đức tin và canh tân sự dâng hiến của anh chị em cho Thiên Chúa. Tôi thân ái gửi đến mỗi người và hội dòng của anh chị em lời chào thăm thân ái nhất và cám ơn anh chị em vì sự hiện diện nơi đây. Trong ánh sáng của Chúa Kitô, với nhiều đoàn sủng khác nhau của đời chiêm niệm và tông đồ, anh chị em cộng tác vào cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới. Trong tinh thần biết ơn và hiệp thông ấy, tôi muốn gửi đến anh chị em ba lời mời gọi, để anh chị em có thể hoàn toàn tiến vào ”cánh cửa đức tin” luôn mở rộng cho chúng ta (Xc Tông thư ”Cánh cửa đức tin”, 1).

– Trước tiên tôi mời gọi anh chị em hãy nuôi dưỡng đức tin để có thể chiếu sáng ơn gọi của mình. Để được vậy, tôi nhắn nhủ anh chị em hãy làm một cuộc lữ hành nội tâm, nhớ lại ”mối tình đầu” qua đó Chúa Giêsu Kitô đã sưởi ấm tâm hồn anh chị em, không phải để hoài tưởng, nhưng để nuôi dưỡng ngọn lửa ấy. Vì thế cần phải ở với Chúa, trong sự thinh lặng thờ lạy, và nhờ đó khơi dậy ý muốn và niềm vui được chia sẻ cuộc sống, những chọn lựa, sự vâng phục đức tin, mối phúc của người thanh bần, tình yêu quyết liệt của Ngài. Luôn luôn tái khởi hành từ cuộc gặp gỡ yêu thương ấy, anh chị em từ bỏ mọi sự để ở với Chúa và như Chúa, anh chị em dấn thân phụng sự Thiên Chúa và anh chị em đồng loại (Xc Tông Huấn ”Đời sống thánh hiến”, 1).

– Thứ hai tôi mời gọi anh chị em hãy có một đức tin biết nhận ra sự khôn ngoan của yếu đuối. Trong những vui mừng và sầu muộn của thời nay, khi những cam go và sức nặng của thánh giá đè nặng, anh chị em đừng nghi ngờ về sự hạ cố (kenosis) của Chúa Kitô, vốn đã là một chiến thắng phục sinh. Chính trong giới hạn và yếu đuối của con người, chúng ta được mời gọi sống đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, hướng đến sự trọn hảo mai hậu, một sự trọn hảo được diễn tả trước phần nào ngay từ bây giờ (ibid., 16). Trong một xã hội luôn tìm kiến hiệu năng và thành công, cuộc sống của anh chị em, như của một ”số nhỏ”, của một nhóm người nhỏ bé yếu thế, cảm thông với những người không có tiếng nói, trở thành một dấu chỉ mâu thuẫn như Phúc âm đã nói.

– Sau cùng tôi mời gọi anh chị em hãy canh tân đức tin, làm cho anh chị trở thành những người lữ hành hướng về tương lai. Tự bản chất, đời sống thánh hiến là một cuộc lữ hành tinh thần, tìm kiếm một Tôn Nhan khi ẩn khi hiện: ”Faciam tuam, Domine, requiram” (Thánh nhan Ngài lạy Chúa, con tìm kiếm) (Tv 26,8). Ước gì điều này trở thành sự liên lỷ khao khát của tâm hồn, thành tiêu chuẩn cơ bản hướng dẫn hành trình của anh chị em, trong những bước tiến nhỏ của cuộc sống hàng ngày cũng như trong những quyết định quan trọng của Giáo Hội ngày nay. Anh chị em đừng hùa theo những tiên tri tai ương, những người loan báo sự cáo chung hoặc sự vô nghĩa của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội ngày nay, trái lại, anh chị em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, mang lấy những võ khí của ánh sáng, như thánh Phaolô nhắn nhủ (Xc Rm 13,11-14), luôn tỉnh thức canh chừng”. Thánh Cromazio đi Aquileia đã viết: ”Xin Chúa đẩy xa khỏi chúng con nguy hiểm như thế để không bao giờ chúng con bị giấc ngủ bất trung đè nặng; nhưng xin ban ơn thánh và lòng từ bi cho chúng con, để chúng con có thể luôn tỉnh thức trong sự trung thành với Người. Thực vậy lòng trung thành của chúng ta có thể tỉnh thức trong Chúa Kitô” (Bài giảng 32,4).

”Anh chị em thân mến, niềm vui của đời thánh hiến nhất thiết tiến qua sự tham phần vào Thập Giá của Chúa Kitô. Mẹ Maria Chí Thánh đã từng trải qua như thế. Sự đau khổ của Mẹ là sự đau khổ của một con tim trở nên một với Con Tim của Con Thiên Chúa, bị đâm thâu qua vì yêu thương. Từ vết thương ấy, vọt ra ánh sáng của Thiên Chúa, và từ những đau khổ, hy sinh, hiến thân mình mà những người thánh hiến sống vì yêu Thiên Chúa và tha nhân chiếu tỏa cùng ánh sáng, loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Trong lễ này, tôi đặc biệt cầu chúc tất cả những người thánh hiến có một cuộc sống thấm đượm Tin Mừng chân chính, để ”nơi anh chị em Tin Mừng được sống thực, được làm chứng, loan báo và chiếu tỏa rạng ngời như Lời chân lý (Xc Porta fidei, 6). Amen”. (SD 2-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

Công bố sứ điệp mùa chay 2013 của Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong sứ điệp mùa chay nhân dịp Năm Đức Tin, ĐTC mời gọi các tín hữu suy tư về mối quan hệ chặt chẽ giữa đức tin và đức mến, đồng thời làm sao để trong mỗi hoạt động bác ái có phản ánh tình thương của Chúa Kitô đối với con người.

Sứ điệp của ĐTC đã được ĐHY Robert Sarah, người Guinée équatoriaele, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm), giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo sáng 1 tháng 2-2013, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Sứ điệp mang tựa đề ”Tin trong đức mến khơi dậy lòng bác ái.” ”Chúng tôi đã nhìn nhận và tin rằng tình yêu Thiên Chúa ở giữa chúng ta” (1 Ga 4,16).

Sứ điệp được chia làm 4 phần lần lượt nói về:
1. ”Đức tin như một lời đáp lời tình yêu Thiên Chúa”
2. ”Đức mến như một cuộc sống trong đức tin”
3. ”Mối liên hệ không thể phân ly giữa đức tin và đức mến”
4. ”Vị thế ưu tiên của đức tin, chỗ đứng thứ nhất của đức mến”

ĐTC nhấn mạnh sự kiện chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước (Xc 1, Ga 4,10), nên tình yêu không còn chỉ là ”một giới răn”, nhưng là lời đáp trả hồng ân tình thương qua đó Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta” (Deus caritas est, 1)… Kitô hữu là người được tình thương của Chúa Kitô chinh phục, và vì thế, được tình thương ấy thúc đẩy, họ cởi mở một cách cụ thể và sâu sắc đối với tình yêu tha nhân” (Xc. ibd., 33)… Toàn thể đời sống Kitô là một lời đáp lại tình thương của Thiên Chúa. Và câu trả lời đầu tiên chính là đức tin như một sự đón nhân, đầy ngỡ ngàng và biết ơn, đối với một sáng kiến chưa từng có của Thiên Chúa, đi trước và gọi hỏi chúng ta” (2).
Dưới ánh sáng những sự kiện đó, ĐTC nhắc nhở rằng ”Hiển nhiên là chúng ta không bao giờ có thể tách rời, hoặc đối nghịch giữa đức tin và đức mến. Hai nhân đức hướng thần này liên hệ mật thiết với nhau và thật là điều sai lầm khi coi hai nhân đức ấy đối nghịch nhau”.

Từ sự kiện đó, ĐTC cảnh giác chống lại thái độ của người quá nhấn mạnh đến sự ưu tiên và tầm quan trọng quyết định của đức tin đến độ coi nhẹ và hầu như khinh rẻ những công việc bác ái cụ thể, coi chúng chỉ là những hành vi nhân đạo tổng quát mà thôi.. Cũng vậy, ngài chống lại thái độ của người quá đề cao đức mến và các hoạt động bác ái đến độ cho rằng những hành động đó thay thế đức tin. Để có một đời sống thiêng liêng lành mạnh, cần phải xa tránh thuyết duy tín (fidéisme) cũng như thái độ duy hoạt động dạy đời.”

ĐTC nhận xét ”Đời sống Kitô hệ tại liên tục tiến lên núi gặp gỡ Thiên Chúa để rời hạ san, mang tình thiêng và sức mạnh từ cuộc gặp gỡ ấy, phục vụ anh chị em với cùng tình yêu thương của Thiên Chúa”.

Người tín hữu Kitô hoạt động bác ái biết rằng không phải những cố gắng riêng của mình mang lại hoa trái, nhưng đúng hơn là ”sáng kiến cứu độ” đến từ Thiên Chúa, từ ân sủng của Ngài. Ân sủng không giới hạn tự do và trách nhiệm của chúng ta, nhưng quí hướng chúng về những hoạt động bác ái”.

Trong các hoạt động bác ái mà các tín hữu Kitô được mời gọi thi hành, ĐTC đề cao công trình bác ái lớn nhất là việc rao giảng Tin Mừng, mang Lời Chúa đến cho tha nhân: ”Không có hoạt động nào hữu ích hơn, nghĩa là bác ái hơn đối với tha nhân cho rằng bẻ Bánh Lời Chúa, giúp tha nhân được tham dự vào Tin Mừng, dẫn họ đi vào trong tương quan với Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng chính là sự thăng tiến nhân bản cao cả nhất và đầy đủ nhất” (3).

ĐHY Robert Sarah

Trong cuộc họp báo, ĐHY Sarah nhắc đến những hoạt động bác ái rất bao quát của Giáo Hội trợ giúp người nghèo, các nạn nhân chiến tranh, các gia đình gặp khó khăn, các bệnh nhân, v.v. Ngài cũng loan báo sẽ gửi một phái bộ sang Giordani từ 19 đến 21-2 tới đây để phối hợp công tác cứu trợ trong vùng, đặc biệt là cho dân chúng Siria. Phái bộ do chính ĐHY hướng dẫn. Tại thủ đô Amman, ngài sẽ gặp vua Abdallah và các đại biểu của Caritas Trung Đông, Bắc Phi, để thảo luận về tình trạng khó khăn đặc biệt tại Siria, và tìm cách trợ giúp cụ thể cho những người tị nạn. Tình hình địa phương thật là bi thảm vì giá lạnh, thieu lương thực, thuốc men, v.v. Có lẽ chúng tôi sẽ không tìm được giải pháp, nhưng chúng tôi muốn tìm cách ngưng cuộc chiến tranh ở Siria”.

ĐHY cho biết trong năm vừa qua, ĐTC đã dành 3 triệu rưỡi Euro để giúp đỡ các nạn nhân và người nghèo, điều này chứng tỏ sự gần gũi của ĐTC Biển Đức 16 với nhiều thứ đau khổ trên thế giới.

ĐHY Sarah cũng nói: ”Trong Giáo hội có 165 tổ chức Caritas trên toàn thế giới và họp thành một liên hiệp là Caritas quốc tế. Hoạt động của Giáo Hội dành cho người nghèo thật là mênh mông”.

Hiện diện trong cuộc họp báo cũng có Ông Michael Tio, Chủ tịch Liên đoàn quốc tế các Hội bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô. Ông cho biết Hội này hiện diện tại 148 quốc gia, với 780 ngàn thành viên và 1.3 triệu người thiện nguyện, phục vụ 30 triệu người nghèo. Ông Tio khẳng định rằng ”Đức bác ái Kitô là tình yêu đối bới Thiên Chúa được biến thành việc phục vụ tha nhân” (SD 1-2-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 01-28 đến 02/03/2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 01-28 đến 02/03/2013

Trích từ Xuân Bích VN

  • Đức Giám Mục xác nhận NCR không phải là tờ báo “Công Giáo”
  • TIN VẮN CUỐI TUẦN QUA.
  • Các Tự Sắc mới tác động đến các chủng viện, dạy giáo lý.
  • Đối thoại giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống.
  • Thiếu hụt trầm trọng ơn thiên triệu buộc Giáo Hội tính đến những lựa chọn khác.
  • Đức Biển Đức XVI ủng hộ các cuộc diễn hành bảo vệ Sự Sống.
  • Sống Ngày Chúa Nhật như là Ngày của Chúa.
  • “Ước gì tên của các nạn nhân Holocaust không bao giờ tàn lụi”.
  • BỔ NHIỆM MỚI.
  • Các ân xá cho Ngày Thế Giới Bệnh Nhân.
  • Giáo Hội và các bệnh nhân phong cùi : 547 trại phong trên thế giới.
  • Cuba: Hoàn trả cho Giáo Hội Công giáo hai trường học và một vùng đất bị tịch biên.
  • Đám đông kỷ lục tại Cuộc Đi Bộ Diễn Hành Vì Sự Sống ở Washington.
  • Một thượng hội đồng để bầu Tân Thượng phụ Can-đê.
  • Dự luật Hôn nhân đồng tính có thể dẫn tới những thay đổi khác trong luật về ngoại tình, ly dị.
  • Uỷ Ban Israel – Toà Thánh.
  • Một số GM Hoa Kỳ sẵn sàng thách thức sắc lệnh HHS, có nguy cơ đi tù.
  • Chim bồ câu của Đức Thánh Cha bị mòng biển tấn công khi mới cất cánh.
  • Thoả thuận giữa Vatican và Palestine hướng tới ký kết “nhanh chóng”.
  • Thánh Đường [nơi Chúa] Giáng Sinh nhận món quà lớn từ Vatican.
  • Giới trẻ bị “ngắt ra” khỏi nền văn hoá của họ.

Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁÓ 01-28-2013 đến 02-03-2013

 

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ – CHÚA NHẬT IV TN C

HÀNH TRÌNH KHÔNG CÔ LẺ

CHÚA NHẬT IV TN C

Thiên Chúa luôn tác động, song hành và quan phòng gìn giữ các Ngôn Sứ của Người để họ can đảm rao truyền Lời Chúa, dù gặp khó khăn, trắc trở, bách hại. Giê-rê-mi-a tự thuật Lời Thiên Chúa về ơn gọi làm Ngôn Sứ của mình như sau:

“Trước lúc tượng hình trong dạ mẹ, Ta biết ngươi và thánh hiến ngươi rồi. Ta đặt Ngươi làm ngôn sứ. Hãy đi khắp muôn nơi và nói cho thế giới Lời Ta truyền dạy. Đừng nhát đảm hay chùn chân, khiếp hãi, Bởi nơi ngươi Ta xây vững thành trì. Cột sắt đúc, vách thành đồng, thì sá chi, vì kẻ chống đối không mảy may thắng được. Vì Ta ở cùng Ngươi, đi cùng trong từng bước, để giải thoát ngươi khỏi mưu chước gian tà”.

Thân phận Ngôn Sứ của Đức Giêsu cũng vậy, nếu không nói là còn bi tráng hơn. Cả trình thuật lần về quê hương Nadarét để rao giảng Tin Mừng hôm nay, đã cho thấy gần như toàn bộ hành trình Ngôn Sứ của Ngài.

Nghe Chúa Giêsu giảng, phút đầu, kẻ thán phục, người ngỡ ngàng rằng kiếm ở đâu ra một con người tài ba xuất chúng thế. Thế nhưng, khi nhận ra con người ấy là Giêsu, con trai ông thợ mộc trong làng, thì họ tỏ ra xem thường Người, phẫn nộ, đuổi xua và thậm chí, còn muốn ám hại Người nữa.

Vâng chuyện xưa nay vẫn vậy. Con mắt trần gian vẫn nhìn người qua thân thế, nguồn gốc. “Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống”. “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Há lẽ ông thợ mộc Giuse nghèo hèn thinh lặng kia lại có thể có một đứa con tuyệt vời như vậy sao ? Tính ganh tỵ của con người vẫn không ưa ai hơn mình, có khi ngay cả người nhà: “Người nhà chẳng thích người nhà, lắm tài nhiều đức khôn ra với đời”. Đáng lý phải tự hào, phải hãnh diện về người nhà, người làng mình chứ. Người cùng quê hương, làng xóm với Chúa Giêsu không thể chấp nhận trong làng quê mình lại có người tài giỏi, xuất chúng hơn người. Họ quên rằng, nếu không có cái gốc rạ, thì chẳng có cây lúa, nếu không có cây lúa, thì chẳng có hạt lúa, hạt cơm.

Vâng, còn đó, cái gốc rạ, một đời làm chân cho cây lúa, một đời nặng nhọc, vất vả, rồi tàn úa, từ thuở lúa trổ đòng đòng, đến chắc hạt vàng bông. Thử hỏi ai đã từng quí hạt gạo trắng trong, thì quên sao những đêm mưa, bềnh bồng cây lúa ? Ai đã từng nức nở khen cánh đồng mướt xanh như lụa, lại có thể vô tình xem gốc rạ vô công ?

Cũng vậy, Con Chúa xuống làm người, và làm người con trong gia đình có cái gốc rạ là cô thợ may, anh thợ mộc. Về Nadarét, nghe ai đó mắng vốn thật đau, hẳn thiếu điều Người bật khóc thương cho họ đã không hiểu thấu mầu nhiệm kiếp người của Con Thiên Chúa là được sinh ra vì hạnh phúc cuộc đời, được sai đi ban Lời tình muôn thuở. Và vì thế, họ không đón nhận, họ từ chối, phẫn nộ, đuổi xua. Họ không biết “cái gốc rạ” của Đức Giêsu ở trên Trời.

Trước thái độ của người Do Thái ở làng Nadarét, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa Cha, chương trình cứu chuộc nhân loại. “Người  băng qua giữa họ mà đi”, vì Tin Mừng không chỉ dành riêng cho Người ở quê hương Ngài, ở Do Thái, mà là Tin Mùng cho muôn dân tộc, cho cả và thiên hạ.

Chúa Giêsu đã rẽ lối, đi về phía xa vời, cho muôn nước, cho mọi thời rạng ngời Lời Cứu Thế. Người vẫn biết số phận Ngôn Sứ là không ai có thể được vinh dự gì nơi cắt rốn chôn nhau. Hẳn là, Người cũng bỏ lại đằng sau bao kỷ niệm luyến thương nơi quê hương ngày thơ bé để bước vào đường thênh thang mà hành trình không cô lẻ, bởi Thánh Linh cùng Người hiên ngang bước Cứu Thế rạng ngời.

Vâng,

Tin Mừng không ưu tiên cho đồng hương, nhưng ưu tiên cho người hân hoan đón nhận. Tin Mừng không ưu tiên cho trí thức, nhưng ưu tiên cho kẻ thành tâm khiêm cung.

Chiếc áo của Tin Mừng không sang trọng lụa là gấm vóc, nhưng là tình yêu thương che ấm những cuộc đời tang tóc điêu linh. Lời thân thưa của Tin Mừng không chuốt ngót, cũng chẳng rẻ khinh, nhưng chân thật tự tấm lòng yêu không hề gian dối.

Bước đi của Tin Mừng không ngại dấn thân vào trong hẻm tối, nhưng can đảm thắp lên niềm tin nơi chán chường, lầm lỗi, diệt vong. Niềm vui của Tin Mừng không chỉ một lóe sáng cõi hư không, nhưng chiếu dọi vạn hào quang rực hồng muôn năm hằng hữu.

Thời gian của Tin Mừng không tính năm tính tuổi, nhưng là vĩnh cửu, là vô hạn vô biên

Ai có thể cầm chân Tin Mừng trong thánh thất, trong đền thiêng, mà không ngộ ra Tin Mừng đã bước đến muôn miền thế giới ? Ai có thể bắt bớ, bỏ tù ngàn ngàn Ngôn Sứ, mà che mắt nhìn cánh đồng vàng muôn tín hữu thành tâm ?

Con Thiên Chúa đến trần gian rất đỗi âm thầm, rồi hiên ngang bước đi gieo Tin Mừng nguồn sống mới. Người đã đi giữa mũi đạn làn tên chống đối, vẫn hùng anh chết để phục sinh cho nên trọn Tin Mừng.

Lạy Chúa, chúng con, những tín hữu thi hành sứ vụ Ngôn Sứ trong đời thường cũng không tránh khỏi bao làn tên mũi đạn. Xin cho chúng con lòng kiên vững làm chứng rằng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa đang dành cho tất cả những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng, đón nhận Đức Giêsu. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng, 30.1.2013

Để đón tiếp Chúa

 Để đón tiếp Chúa

Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabát, ngày lễ nghỉ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.

Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và Thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì?”.
 
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nadarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
 
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài “mất trí”. Kinh sư chụp mũ Ngài “nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ”. Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: “Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh”. Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên…
 
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là  Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
 
Dân làng Nadarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói: "Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi."
 
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
 
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm  ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
 
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
 
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nadarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nadarét đánh mất hồng ân vô giá.
 
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (ĐTGM. GiuseNgô Quang Kiệt).
 
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
 
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và  đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
  
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

 Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa

Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội Đường Nazaret, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.

1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính thần linh

Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.

Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazaret không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4, 22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.

Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?

2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính nhưng không

Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.

Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.

Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).

3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô – ơn cứu độ mang tính phổ quát

Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.

Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Apraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.

Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).

Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?

Lm. Giuse Nguyễn Thành Long

Chúa Nhật 4, QN năm C

Chúa Nhật 4, QN năm C

Kính thưa qúi ông bà anh chị em, hàng ngày chúng ta hay nói với nhau: “Người đó giỏi thật, họ biết đủ mọi điều”. Khi nói thế là hàm ý ta khâm phục họ và chớ gì ta cũng  có được những hiểu biết tài giỏi như họ. Phải chăng, con người dù có sự hiểu biết đến đâu thì nó cũng có một giới hạn của nó; còn đối với Thiên Chúa thì cái biết của Ngài là cái biết vô cùng và sâu thẳm. Chính vì thế mà trong bài đọc 1 của Chúa Nhật tuần 4 năm C này cho ta thấy, Thiên Chúa biết tiên tri Giêrêmia thế nào? Ta thử xem: “Trước khi tạo thành ngươi trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi.” (Gr 1,5). Thiên Chúa biết Giêrêmia là như thế, và Ngài muốn dùng tiên tri làm công việc của Ngài, cho dẫu ông rất sợ hãi sứ mệnh Chúa giao, nên ông nói: “Ôi! lạy Đức Chúa, con đây còn trẻ qúa, con không biết ăn nói” (Gr 1,6).

     Quả thật lạ lùng, trong lịch sử cứu độ, phần lớn ai cũng sợ Chúa gọi và giao cho một sứ mạng nào đó; phải chăng vì con người quá thấp hèn tội lỗi trước mặt Chúa, trong khi sứ mạng Chúa đòi hỏi thật lớn lao và đầy khó khăn. Đúng vậy, nhưng một khi Thiên Chúa đã giao cho ai công việc gì thì Người ban cho họ một khả năng để thi hành sứ mạng, như trường hợp của  Môisê, ông đưa ra lý do với Chúa là ông nói ngọng. Đavit, người chăn chiên. Isaia sợ mà kêu lên rằng: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế”. … rồi đến các Tông Đồ là những người chài lưới quê mùa… Và mãi mãi Thiên Chúa có cách của Ngài trong việc chọn lựa, nhưng tất cả những người được gọi đều có mẫu số chung là: họ cần một sự đáp trả  và bước theo đường Ngài chỉ dạy.

     Xưa kia, Chúa đã quả quyết với Giêrêmia đừng sợ người đời cho dẫu họ là ai đi chăng nữa, vì: “Chính Ta  làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ. Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được ngươi, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” (Gr1,18-19). Quả thật, là người ngôn sứ của Chúa thì không thể nào nói khác những lời của Chúa được. Vai trò của ngôn sứ thì không thể tránh khỏi những hệ lụy đau thương đến bản thân như: bị chống đối, bỏ rơi, loại trừ, hay bị giết chết. Giêrêmia cũng suýt chết vì nói sứ điệp cho dân. Phao lô cũng bị ném đá chết giấc, và hầu hết các ngôn sứ đều chịu cảnh đau khổ liên lụy đến bản thân.
 
     Và hơn ai hết vị ngôn sứ cao cả nhất là Đức Kitô mà qua bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người chống đối không ai xa lạ, mà là người quê hương của Ngài, họ đã lôi Ngài ra khỏi  thành, dẫn lên triền núi và để xô Ngài xuống vực thẳm.
 
     Đến đây ta thử đặt vấn đề, tại sao lại như vậy? Tại sứ điệp của Chúa dở hay tại con người không chấp nhận chân lý sự thật? Chắc chắn là tại con người; vì con người thường thích nghe những điều dễ dãi, tâng bốc, con người muốn vẽ cho mình một con đường luân lý, giữ đạo theo ý của mình, cho nên khi có một lời mời gọi khác, một kiểu sống khác đi ngược lại với những cái xấu và đòi hỏi họ phải từ bỏ. Điều này như Chúa Giêsu đã từng đề ghị qua lời giảng dạy của Ngài, thì người ta không chấp nhận. Và xem ra, càng nói thẳng, nói thật bao nhiêu thì càng bị người ta phản ứng mạnh mẽ bấy nhiêu, có khi dẫn đến cái chết, như vụ án của Chúa Giêsu cho ta thấy rất rõ.
 
     Ngày hôm nay hơn bao giờ hết, Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi những môn đệ của Chúa hãy rao giảng và sống những lời Chúa truyền dạy, hãy nói thẳng, nói thật “Có thì nói có, không thì nói không, thêm lời đặt điều là bởi ma qủi”. Như vậy người ngôn sứ cần phải rao giảng lời của Chúa, cho dẫu có gặp khó khăn đến mấy đi chăng nữa, thì vẫn rao giảng, miễn làm sao đem lại lợi ích cho người khác. Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người mở lòng đón nhận sứ điệp của Chúa qua những con người mà Chúa đã trao sứ vụ cho họ.
 
     Trên hết mọi sự, để mọi việc đều tốt lành và hữu ích thì, chi bằng mỗi người hãy thực hiện lời của Thánh Phaolo truyền dạy trong bài đọc 2, đó là phải yêu mếnĐức Mến là điều hết sức quan trọng, bởi vậy mà thánh nhân quảng diễn một loạt hoa quả của đức mến như sau: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. Trên đây thánh Phaolô liệt kê cho chúng ta một loạt những gì mà đức mến đòi hỏi và cần phải có nơi mỗi người; vì nếu không có đức mến thì như thánh nhân quả quyết. Dù tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần, hay được ơn nói tiên tri, biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lý lẽ cao siêu, hay chuyển núi dời non, hoặc bán hết gia tài đem bố thí, hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì chẳng ích gì cho tôi.
 
     Nghe  những điều trên đây ta phải run sợ, bởi nhiều khi ta làm được chút đạo đức hay giúp đỡ được điều gì đó thì vênh vang. Hay nhiều khi chỉ một chút bất bình, một lỗi nhỏ người ta xúc phạm đến mình… mà ta không bỏ qua, không tha thứ được thì qủa thật chiếu theo lời của thánh Phaolo, thì ta ăn nói sao đây khi đến trình diện với Chúa. Cho nên qua lời của thánh Phaolo hôm nay là tiêu chuẩn cho ta biết được ai là người đạo đức thánh thiện thực sự, thì cứ xem qua cách cư xử với người khác. Đó là chuẩn mực của sự đạo đức hay thánh thiện; chứ đừng căn cứ qua sự đọc kinh nhiều, giữ luật lệ nghiêm ngặt; vì có ai giữ luật bằng những người Biệt Phái, Pharisêu, thế mà hạng người đó lại bị Chúa lên án nặng nề nhiều lần như: “ Khốn thay cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và Pharisêu…” ( Mt 23,13-32). Vấn đề giữ đạo bằng hình thức luật lệ qua kinh kệ thì, Chúa Giêsu đã chẳng nói thế này sao: “Không phải những ai nói với Ta:  Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào nước trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời” (Mt 7,21).
 
     Vậy, ngày hôm nay mỗi người chúng ta đang bước theo Chúa, ta hãy kéo Chúa vào lòng chúng ta, chứ đừng kéo Chúa ra khỏi lòng ta để đưa Chúa lên triền núi và xô Ngài xuống vực thẳm như dân quê hương của Ngài xưa kia. Xin Mẹ Maria, thánh cả Giuse và muôn vàn thần thánh trên trời cầu bầu cho chúng con, để chúng con luôn lắng nghe và thực hành lời của Chúa. Amen.

Linh mục Phaolo Cao Thế Bình, SDD

Tin Thiên Chúa là Cha toàn năng là tin nơi quyền năng tình yêu thương cứu độ của Người

Tin Thiên Chúa là Cha toàn năng là tin nơi quyền năng tình yêu thương cứu độ của Người

Khi chúng ta nói ”Tôi tin nơi Thiên Chúa toàn năng” là chúng ta diễn tả niềm tin của mình nơi quyền năng tình yêu thương của Thiện Chúa, là Đấng nơi Người Con chết và phục sinh của Người đã đánh bại thù hận, sự dữ, tội lỗi và mở ra cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, cuộc sống của con cái ước mong luôn mãi được ở trong ”Nhà Cha”.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 8,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 30 tháng 1-2013.

Trong số các phái đoàn hiện diện có một nhóm 12 chị Việt Nam thuộc tu hội ”Nước Hằng Sống” Bỉ mặc áo dài. Trong bài huấn dụ ngài đã suy tư về lời tuyên xưng đầu tiên trong Kinh Tin Kính ”Tôi tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng”. Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:

Ngày nay nói về chức làm cha thật không luôn luôn dễ dàng. Nhất là trong thế giới Tây phương, nơi có nhiều yếu tố có thể ngăn cản một tương quan an bình và xây dựng giữa các người cha và con cái như cảnh các gia đình bị tan rã, các dấn thân của công việc ngày càng thu hút, các lo lắng và thường khi sự mệt mỏi phải quân bình các chi tiêu trong gia đình, sự xâm lấn của các phương tiện truyền thông trong cuộc sống thường ngày của gia đình.

Đôi khi việc truyền thông trở thành khó khăn, sự tin tưởng giảm sút và tương quan với gương mặt người cha có thể gặp vấn đề; và cả hình ảnh về Thiên Chúa như một người cha cũng trở thành vấn đề, vì không có các mô thức quy chiếu. Đối với ai đã có kinh nghiệm về một người cha qúa quyền bính và cứng cỏi, hay lãnh đạm và ít trìu mến hoặc còn vắng bóng, thì không dễ mà thanh thản nghĩ tới Thiên Chúa như một người Cha và tín thác nơi Người.

Nhưng mạc khải kinh thánh, đặc biệt là Tân Ước, giúp chúng ta thắng vượt được các khó khăn này, khi giới thiệu với chúng ta Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương loài người đến độ ban chính Con của Người cho ơn cứu rỗi của nhân loại. Trong các giáo huấn của Người Đức Giêsu cho chúng ta hiểu biết một chút về gương mặt và tình yêu thương hiền phụ của Thiên Chúa, là Đấng vô cùng cao cả hơn, trung tín hơn và toàn vẹn hơn bất cứ người cha nào.

Khi chỉ cho các môn đệ gương mặt của Chúa Cha, Đức Giêsu nói: ”Có người nào trong các con khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc khi nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu các con vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha các con, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những ai kêu xin Người sao?” (Mt 7,9-11; x. Lc 11,11-13).

Thiên Chúa là Cha bởi vì Người đã chúc phúc cho chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ (x. Ep 1,3-6) và cho chúng ta được trở thành con cái của Người trong Đức Giêsu (x. Ga 3,1). Và như là Cha, Thiên Chúa đồng hành với tình yêu trong cuộc sống chúng ta, bằng cách ban cho chúng ta Lời Người, giáo huấn của Người, ơn thánh và Thần Khí của Người.

Như Đức Giêsu mạc khải Thiên Chúa là Cha, Đấng nuôi dưỡng chim trời là loài không gieo không gặt, và mặc cho hoa đồng nội các mầu sắc tuyệt vời còn đẹp hơn cả áo của vua Salomon (x. Mt 6,26-32; Lc 12,24-28). Và chúng ta là người thì còn giá trị hơn hoa đồng nội và chim trời rất nhiều. Thiên Chúa tốt lành, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành người dữ và cho mưa rơi trên người công chính và người không công chính (Mt 5,45). Vì thế chúng ta sẽ luôn luôn có thể hoàn toàn tín thác nơi sự tha thứ của Thiên Chúa Cha khi lầm đường, mà không phải sợ hãi. Thiên Chúa là Cha nhân lành tiếp đón và ôm hôn người con đã mất và sám hối (x. Lc 15,11 tt.), Người ban nhưng không cho những ai xin Người (x. Mt 18,19; Mc 11,24; Ga 15,23), Người cống hiến bánh từ trời và nước hằng sống khiến cho con người được sống đời đời (x. Ga 6,32.51.58).

Cũng chính vì thế người cầu nguyện trong Thánh Vịnh 27, bị bao vây bởi các thù địch và tấn công bởi các kẻ gian ác và vu khống, tìm kiếm sự trợ giúp từ Chúa, khẩn cầu Người và có thể cống hiến chứng tá niềm tin tràn đầy và khẳng định rằng: ”Dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì vẫn còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27,10). Thiên Chúa là một người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái Người, một người Cha yêu thương nâng đỡ, trợ giúp, tiếp đón, tha thứ, và cứu vớt với lòng trung tín vô cúng vượt xa sự trung tín của con người, để rộng mở cho các chiều kích vĩnh cửu. ”Vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”, như thánh vịnh 136 tiếp tục lập lại ở mỗi câu khi đi lại con đường lịch sử của dân Israel. Tình yêu của Thiên Chúa Cha không bao giờ suy giảm, không mệt mỏi đối với chúng ta. Đó là tình yêu trao ban cho tới cùng tận, cho tới hiến tế của Người Con. Đức tin trao ban cho chúng ta xác tín trở thành một đá tẳng vững chắc trong việc xây dựng cuộc sống: chúng ta có thể đương đầu với tất cả mọi lúc khó khăn và nguy hiểm, kinh nghiệm của khủng hoảng đen tối và thời gian đau khổ, vì được nâng đỡ bởi sự tin tưởng Thiên Chúa không để chúng ta một mình; Người luôn luôn gần gũi chúng ta để cứu vớt và đem chúng ta đến sự sống vĩnh cửu.

Chính nơi Chúa Giêsu tỏ lộ tràn đầy gương mặt nhân lành của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Và khi biết Người và trông thấy Người là chúng ta cũng có thể biết và trông thấy Thiên Chúa Cha (x. Ga 8,19; 14,7), bởi vì Người ở trong Cha và Cha ở trong Người (x. Ga 14,9.11). Người là ”hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” như thánh Phaolô định nghĩa trong thư gửi tín hữu Côlôxê, là ”Trưởng Tử trước mọi loài thọ tạo… là Trưởng Tử của những kẻ từ cõi chết sống lại”, ”nhờ Người chúng ta được ơn cứu rỗi, và sự tha thứ tội lỗi”, và sự hòa giải mọi sự ”nhờ máu Người đổ ra trên thập giá Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất cũng như trên trời” (Cl 1,13-20).

Niềm tin nơi Thiên Chúa Cha đòi hỏi tin nơi Chúa Con, dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần, bằng cách thừa nhận nơi Thập Giá cứu độ việc vén mở vĩnh viễn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha chúng ta, khi ban Con của Người cho chúng ta; khi tha thứ tội lỗi chúng ta và đưa chúng ta tới niềm vui của cuộc sống phục sinh; khi ban Thần Khí làm cho chúng ta trở thành con cái và cho phép chúng ta gọi Người là ”Abba, Cha ơi” (x. Rm 8,15). Vì thế khi dậy chúng ta cầu nguyện, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nói ”Lạy Cha chúng con” (Mt 6,9-13; Lc 11,2-4).

Như vậy chức làm cha của Thiên Chúa là tình yêu vô tận, là sự dịu hiền cúi xuống trên chúng ta là những đứa con yếu đuối cần mọi sự. Thánh vịnh 103 là bài ca vĩ đại của lòng xót thương của Thiên Chúa kêu lên: ”Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. Người qúa biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ ta chỉ là cát bụi” (Tv 103,12-14). Chính sự bé bỏng, chính bản chất nhân loại yếu đuối, chính sự giòn mỏng của chúng ta kêu gọi lòng thương xót của Chúa, để Người biểu lộ sư cao cả và hiền dịu là Cha của Người bằng cách trơ giúp, tha thứ và cứu rỗi chúng ta.

Thiên Chúa đáp trả lời kêu gọi của chúng ta bằng cách gửi Con của Người đến chết và sống lại vì chúng ta; bước vào trong sự giòn mỏng của chúng ta và làm điều mà con người một mình sẽ không bao giờ có thể làm được: đó là mang lấy trên mình tội lỗi của thế giới, như chiên con vô tội, tái mở con đường sự hiệp thông với Thiên Chúa và khiến cho chúng ta trở thành con cái Chúa. Và chính trên Thập Giá vinh quang xảy ra việc biểu lộ tràn đầy sự cao cả của Thiên Chúa như ”Cha toàn năng”.

Nhưng làm sao chúng ta có thể nghĩ đến một Thiên Chúa toàn năng khi nhìn lên Thập Giá Chúa Kitô? khi nhìn quyền năng của sự dữ đi tới độ giết chết Con Thiên Chúa? Chúng ta muốn một sự quyền năng của Thiên Chúa theo các lược đồ tâm trí và ước muốn của chúng ta: một Thiên Chúa toàn năng giải quyết các vấn đề, can thiệp để tránh cho chúng ta các khó khăn, chiến thắng các quyền lực đối nghịch, thay đổi dòng chảy của các biến cố và xóa bỏ khổ đau. Ngày nay nhiều thần học gia nói rằng Thiên Chúa không thể toàn năng, nếu không thì đã không có biết bao khổ đau, biết bao sự dữ trong thế giới. Thật ra đứng trước sự dữ và khổ đau, đối với nhiều người, đối với chúng ta, tin vào một Thiên Chúa Cha và toàn năng là một vấn nạn, là điều khó khăn. Một số người tìm ẩn náu tong các ngẫu trượng bằng cách nhượng bộ cám dỗ tìm câu trả lời trong một quyền năng ”ma thuật” và trong các hứa hẹn ảo tưởng của nó.

Nhưng niềm tin nơi Thiên Chúa toàn năng thúc đẩy chúng ta đi theo các con đường khác, học biết rằng tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của chúng ta, và các đường lối của Thiên Chúa khác với các đường lối của chúng ta, và cả quyền năng của Người cũng khác.

Sự toàn năng của Thiên Chúa không được diễn tả ra trong bạo lực, trong tàn phá một quyền lực đối nghịch như chúng ta mong muốn, nhưng được diễn tả ra trong tình yêu, trong lòng thương xót, trong sự tha thứ, trong việc chấp nhận sự tự do của chúng ta, và trong lời không mệt mỏi mời gọi chúng ta hoán cải con tim, trong một thái độ xem ra yếu đuối. Thiên Chúa xem ra yếu đuối, nếu chúng ta thấy Đức Giêsu Kitô cầu nguyện, mời gọi, làm cho chúng ta bị giết, nhưng đó là thái độ xem ra yếu đuối được làm bằng sự kiên nhẫn, hiền dịu và tình yêu, chứng minh cho thấy đó mới là kiểu quyền bính và sức mạnh đích thật. Và quyền bính ấy sẽ chiến thắng…

Chỉ có ai quyền năng mới có thể chịu đựng sự dữ và tỏ ra thương xót; chỉ có ai thực sự quyền năng mới có thể thực thi sức mạnh của tình yêu một cách tràn đầy. Và Thiên Chúa, mà mọi sự đều tùy thuộc Người vì tất cả đều do Người tạo dựng, vén mở sức mạnh của Người bằng cách yêu mến mọi sự và tất cả mọi người trong sự chờ đợi kiên nhẫn mọi người hoán cải, mà Người ước ao như con của Người. Thiên Chúa chờ đợi sự hoán cải của chúng ta.

Tình yêu quyền năng của Thiên Chúa không biết ranh giới, đến độ đã không tha Con của Người, nhưng trao nộp vì tất cả chúng ta” (Rm 8,32). Quyền năng tình yêu của Thiên Chúa không phải là quyền năng của thế giới, mà là quyến năng của sự cho đi hoàn toàn, và Đức Giêsu Con Thiên Chúa vén mở cho thế giới thấy quyền năng đích thực của Thiên Chúa Cha, bằng cách hiến sự sống cho chúng ta là những kẻ tội lỗi. Đó chính là quyền năng đích thực và toàn vẹn của Thiên Chúa: đáp trả sự dữ không phải băng sự dữ nhưng bằng sự thiện, đáp trả lăng nhục bằng tha thứ, hận thù sát nhân bằng tình yêu trao ban sự sống. Và như thế sự dữ bị thua thực sự, vì được tình yêu của Thiên Chúa tẫy rửa; cái chết vĩnh viễn thất bại vì được biến đổi thành ơn sự sống.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài chúc họ những ngày hành hương bổ ích, sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Radio Vatican

Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân

Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân

VATICAN. Nhân dịp Ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 21 sắp tới, ĐTC ban ơn toàn xá cho các bệnh nhân và những người chăm sóc và cầu nguyện cho họ.

Ân xá là sự tha thứ hình phạt tạm thời mà một người phải chịu để đền bù những tội đã được tha thứ.

Trong Sắc lệnh công bố hôm 28 tháng 1-2013, ĐHY Monteiro de Castro, Chánh Tòa Ân Giải tối cao, và Đức Ông Krzyssztof Nykiel, Phó Chánh Tòa, cho biết ĐTC Biển Đức 16 ban ơn toàn xá để ”Các tín hữu, thành tâm thống hối và do đức bác ái cũng như tấm gương người Samaritano nhân lành thúc đẩy, trong tinh thần đức tin và từ bi, dấn thân phục vụ những anh chị em đang chịu đau khổ”. Ngài đã quyết định rằng:

– Các tín hữu, với lòng thống hối chân thành, có thể được hưởng ơn toàn xá mỗi ngày một lần, với những điều kiện thường lệ là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý ĐTC, và có thể chỉ ơn này cho các linh hồn quá cố, nếu trong những ngày từ mùng 7 đến 11-2 tới đây, tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting bên Đức, hoặc tại bất kỳ nơi nào do Giáo quyền chỉ định, họ sốt sắng tham gia một buổi lễ được cử hành để cầu xin Chúa cho những ý chỉ của Ngày Thế Giới các bệnh nhân, và họ đọc Kinh Lạy Chúa, kinh Tin Kính và khẩn cầu Đức Trinh Nữ Maria.

– Các tín hữu làm việc tại các nhà thương công cộng hoặc tại bất kỳ nhà tư nào, trợ giúp các bệnh nhận theo tinh thần bác ái như người Samaritano nhân lành, và vì công việc phục vụ ấy, họ không thể tham gia cac buổi lễ nói trên, thì họ cũng được hưởng ơn toàn xá, nếu trong những ngày ấy, họ quảng đại trợ giúp trong vài giờ như thể làm cho chính Chúa Kitô (Xc Mt 25,40) và họ đọc Kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, khẩn cầu Đức Mẹ, với tinh thần xha tránh mọi tội lỗi, và với ý hướng chu toàn vừa khi có thể các điều kiện được yêu cầu để hưởng ơn toàn xá.

– Những tín hữu vì bệnh tật, già yếu hoặc vì lý do khác tương tự, bị ngăn trở không thể tham dự các lễ nghi nói trên, cũng sẽ được ơn toàn xá, miễn là với tâm hồn xa tránh bất kỳ tội lỗi nào và quyết tâm chu toàn vừa khi có thể những điều kiện thường lệ, tham dự trong tinh thần các buổi lễ thánh trong những ngày đã định, đặc biệt là trong các buổi lễ phụng vụ và Sứ điệp của ĐTC được truyền đi qua truyền hình hoặc đài phát thanh, sốt sắng cầu nguyện cho tất cả các bệnh nhân, và dâng những đau khổ thể lý và tinh thần, nhờ Mẹ Maria là Sức khỏe của các bệnh nhân.

Sau cùng, ĐTC ban ơn xá bán phần cho tất cả các tín hữu, mỗi khi họ hướng về Thiên Chúa từ bi, với tâm hồn thống hối, trong những ngày từ 7 đến 11-2 nói trên, sốt sắng cầu nguyện trợ giúp những người đau yếu trong tinh thần của Năm Đức Tin hiện nay.

Ngày 11 tháng 2-2013, lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Đức TGM Zygmunt Zimowski Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ các nhân viên y tế, Đặc Sứ của ĐTC, sẽ chủ sự thánh lễ trọng thể tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting, nam Đức, và cuối lễ, ngài sẽ ban bí tích xức dầu bệnh nhân.

Altoetting, cách thành phố Munich 100 cây số về hướng đông, là nơi có Đền thánh Đức Mẹ nổi tiếng nhất nước Đức và thuộc giáo phận Passau. Thị trấn Altoetting, tuy chỉ có 13 ngàn dân cư, nhưng vẫn được coi là ”Con tim tôn giáo của miền Bavière”. Mỗi năm có hơn 1 triệu tín hữu từ các nơi ở Đức và các nước Trung Âu, đến hành hương trước tượng Đức Mẹ Đen cao 65 centimet, bồng Chúa hài đồng, được đặt trong Nhà Nguyện Ân Phúc của Đền Thánh này. Pho tượng bằng gỗ, bị ám khói nến qua dòng thời gian. Nhà nguyện này có từ khoảng năm 1300, nhưng trở nên nổi tiếng từ năm 1489, với hai cuộc hiện ra của Đức Mẹ. Trong nhà nguyện có rất nhiều bảng tạ ơn Đức Mẹ. Trước tượng Đức Mẹ, có một hòm bằng bạc đựng trái tim của tất cả các vua miền Bavière và các nhân vật nổi bật khác thuộc gia tộc Wittelsbach.

Riêng đối với ĐTC Biển Đức 16, Đền thánh này đã giữ một vai trò quan trọng trong các kỷ niệm thời thơ ấu. Ngài kể: ”Tôi được may mắn sinh ra gần Altoetting. Và các cuộc hành hương của tôi với thân nhân tại đây thuộc vào những kỷ niệm đẹp nhất của tôi trong thời thơ ấu”… Hồi tháng giêng năm 2005, tức là 3 tháng trước khi được bầu làm Giáo Hoàng, ĐHY Ratzinger cùng với bào huynh của ngài đã đến hành hương riêng cũng tại Đền thánh Đức Mẹ Altoetting”. (SD 28-1-2013)


G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều 25 tháng 1-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, để bế mạc tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Tuần này đã tiến hành từ 18 đến 25 tháng 1-2913 với chủ đề “Điều mà Chúa đòi hòi chúng ta” (Mikea 6,6-8).

Hiện diện tại buổi cầu nguyện, ngoài 20 HY, còn có các GM, giáo sĩ và giáo dân Roma, nhiều đại diện của các cộng đoàn Kitô khác.

Trước khi kinh chiều bắt đầu, ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã đại diện mọi người hiện diện chào mừng và cám ơn ĐTC đã đến chủ sự Kinh Chiều này. Ngài cũng giới thiệu đại diện các Giáo Hội Kitô khác có mặt trong Đền thờ: Đức TGM Gennadios, Đại diện tòa Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo; vị kinh sĩ đại diện Đức Giáo Chủ Anh giáo, các vị trong Ủy ban quốc tế hỗn hợp đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống Đông phương; các sinh viên Học viện đại kết ở Bossey gần Genève.

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến thách đố chung đang được đề ra cho Kitô giáo và kêu gọi mọi tín hữu Kitô đoàn kết để đáp ứng. Ngài nói:

”Trong xã hội ngày nay, dường như sứ điệp Kitô ngày càng ít ảnh hưởng trên đời sống cá nhân và cộng đoàn, và đây là thách đố đối với tất cả các Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội. Sự hiệp nhất tự nó là một phương thế ưu tiên, hầu như một điều tiên quyết phải có để loan báo đức tin ngày càng đáng tin cây cho những người chưa biết Đấng Cứu Thế, hoặc tuy đã được loan báo Tin Mừng, nhưng hầu như đã quên hồng ân quí giá này. Gương mù chia rẽ làm thương tổn hoạt động truyền giáo đã thúc đẩy khởi sự phong trào đại kết mà chúng ta đang biết ngày nay. Sự hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình giữa các tín hữu Kitô phải được hiểu như một đặc tính cơ bản để làm chứng tá rõ ràng hơn.”

”Trong khi chúng ta tiến bước về sự hiệp nhất trọn vẹn, cần phải theo đuổi một sự cộng tác cụ thể giữa các môn đệ Chúa Kitô, để phục vụ chính nghĩa thông truyền đức tin cho thế giới ngày nay. Ngày nay có một nhu cầu rất lớn về sự hòa giải, đối thoại, cảm thông nhau, trong một viễn tượng không phải vì luân lý, nhưng vì sự chân chính của Kitô giáo để hiện diện một cách quyết liệt hơn trong thực tại thời nay”.

ĐTC nói thêm rằng ”Sự tìm kiếm hiệp nhất của chúng ta trong chân lý và tình thương không bao giờ được quên ý thức rằng sự hiệp nhất Kitô là công trình và là hồng ân của Chúa Thánh Linh, và vượt quá những cố gắng của chúng ta. Vì thế, đại kết linh đạo, nhất là việc cầu nguyện, chính là trọng tâm của những dấn thân đại kết (Xc Sắc Lệnh Unitatis redintegratio, 8). Tuy nhiên, phong trào đại kết sẽ không mang lại hoa trái lâu bền nếu không có kèm theo những cử chỉ cụ thể về sự hoán cải, đánh động lương tâm và tạo điều kiện cho sự chữa lành những ký ức và quan hệ.

ĐTC cũng nhắc nhở rằng: ”Một sự hòa giải đích thực, như sự hòa giải mà Ngôn Sứ Mikea đã gợi ý, và thánh Phaolô Tông đồ đã nêu gương, sẽ đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa, ở trung tâm cuộc sống chúng ta, đến độ ngày càng xích lại gần nhau hơn. Đó là một yếu tố cơ bản trong nỗ lực đại kết của chúng ta. Sự canh tâm đời sống nội tâm, của tâm trí chúng ta, phản ánh trong đời sống thường nhật, chính là điều thiết yếu trong mọi cuộc đối thoại và hành trình hòa giải, biến phong trào đại kết thành một sự quyết tâm cảm thông, tôn trọng và yêu thương nhau, ”để thế gian tin” (Ga 17,21). (SD 25-1-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Sống Ngày “Hôm Nay” Trong Chúa

Sống Ngày "Hôm Nay" Trong Chúa

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu trưa Chúa nhật 27-01-2013, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy đón nhận Ơn cứu độ và sự hiện diện của Thiên Chúa trong ngày sống của mình bằng cách lắng nghe lời của Ngài.

Trong một ngày nắng đẹp, hàng chục ngàn tín hữu hành hương quần tụ tại Quảng trường Thánh Phêrô để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh Cha. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài đã giải thích ý nghĩa của đoạn Tin Mừng theo Thánh Luca(Lc 1,1-4; 4,14-21) và nhắn nhủ các tín hữu hãy sống ngày hôm nay như là ngày hồng ân cứu độ. Giải thích về ý nghĩa của đoạn Tin Mừng, Đức Thánh Cha nói rằng:

Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta hai đoạn trích khác nhau trong Tin Mừng theo thánh Luca. Đoạn thứ nhất là lời tựa, là một lời nhắn nhủ tới một con người cụ thể có tên là “Thêôphilô”; vì tên này trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là Yêu mến Thiên Chúa, nên chúng ta có thể nhận ra nơi ông hình ảnh của những người tín hữu biết mở ra với Thiên Chúa và khao khao hiểu biết về Tin Mừng. Trong khi đó, đoạn thứ hai trình bày cho chúng ta sự kiện Đức Giê-su, “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy”, đi vào hội đường Na-da-rét. Nhìn kỹ ta thấy rằng Thiên Chúa đã không xem thường những nghi lễ phụng vụ hàng tuần và Ngài vẫn thường quây quần bên những người đồng hương để cầu nguyện và lắng nghe Kinh Thánh. Nghi thức này bao gồm việc đọc một đoạn văn trong Kinh Torah hay Ngôn sứ và sau đó là một vài diễn giải. Vào ngày này, Đức Giê-su đã đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần khí của Ðức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Ðức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61, 1-2). Origen diễn giải rằng: “Không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Ngài mở sách và tìm thấy đoạn ngôn sứ Isaia nói về Ngài, nhưng đây chính là hành động quan phòng của Thiên Chúa”. Sau khi đọc xong đoạn Sách Thánh, Đức Giê-su đã thinh lặng, rồi Ngài nói: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,21). Thánh Cirillo Alessandria xác nhận rằng, “hôm nay” được đặt giữa lần đến đầu tiên và cuối cùng của Đức Giê-su, được nối kết với khả năng của người tín hữu trong việc lắng nghe và hoán cải. Nhưng trong ý nghĩa cụ thể hơn, Đức Giê-su chính là “hôm nay” trong lịch sử cứu độ, bởi vì ng”ài đã đến và hoàn tất công trình cứu độ. Thuật ngữ “hôm nay” có ý nghĩa rất phong phú trong Tin Mừng thánh Luca, nó gợi nhắc cho chúng ta chủ đề Kitô học rất được ưa thích bởi Thánh sử Luca. Trong tường thuật về việc sinh hạ, chủ đề này đã được trình bày trong lời của các Thiên Thần: “Hôm nay, một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ðavít, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,11).

Sau khi diễn giải bài Tin Mừng, Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tín hữu phải sống cụ thể ngày “hôm nay” trong đời sống thường ngày. Ngài nói:

Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng này đòi chúng ta phải chất vấn về chính ngày “hôm nay” của chúng ta. Trên hết chúng ta phải nghĩ về cách chúng ta sống ngày Chúa Nhật: ngày để nghỉ ngơi, ngày của gia đình, và trên hết là ngày dành cho Chúa, bằng cách tham dự Thánh Lễ, nơi đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh Chúa Kitô và Lời sự sống của Ngài. Thứ đến, trong thời đại đầy xáo trộn và đổi thay này, bài Tin Mừng hôm nay cũng mời gọi chúng ta chất vấn chính mình về khả năng lắng nghe của chúng ta. Trước khi có thể nói về Thiên Chúa và nói với Thiên Chúa, chúng ta cần lắng nghe Ngài, và phụng vụ của Giáo Hội chính là “trường học” lắng nghe Thiên Chúa, Đấng luôn nói với chúng ta. Cuối cùng, bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta rằng mọi khoảnh khắc đều có thể trở thành hôm nay để chúng ta có thể hoán cải. Mỗi ngày có thể trở thành ngày cứu độ, bởi vì ơn cứu độ là một lịch sử được tiếp nối bởi Giáo Hội và bởi mỗi một người môn đệ của Đức Giê-su. Đây chính là ý nghĩa Kitô giáo của thuật ngữ “Hãy sống với ngày hôm nay" (carpe diem), hãy nắm bắt khoảnh khắc Thiên Chúa kêu gọi bạn để trao ban ơn cứu độ.

Đức Trinh Nữ Maria chính là mẫu gương cho chúng ta và là Đấng hướng dẫn chúng ta trong việc mở ra để đón nhận mỗi ngày trong đời sống chúng ta sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng cứu độ của chúng ta và của tất cả nhân loại.

Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắn nhủ một cách đặc biệt vì hôm nay cũng là ngày tưởng niệm các nạn nhân của thảm họa diệt chủng Phát-xít. Ngài nói:
Hôm nay cũng là “Ngày tưởng niệm” những nạn nhân của Holocaust của Phátxít. Việc kỷ niệm thảm họa kinh hoàng này phải là một lời nhắc nhở dành cho mọi người rằng, chúng ta không nên lặp lại những lỗi lầm trong quá khứ. Và chúng ta phải nỗ lực để vượt qua mọi thái độ ghen ghét và các hình thức phân biệt chủng tộc, đồng thời phải thăng tiến và tôn trọng phẩm giá con người.

Sau Angelus, Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng hôm nay cũng là ngày Thế Giới bệnh nhân. Ngài nhắn nhủ tới mọi người như sau:

Tôi muốn diễn tả sự gần gữi của tôi tới những người phải chịu đau khổ vì bệnh tật, những nhà nghiên cứu đầy can đảm, các nhà thiện nguyện, những người hoạt động trong lĩnh vực y tế và cụ thể là biết bao nhiêu người đang tham gia vào các tổ chức Công giáo và Tổ chức những người bạn của Raoul Follereau. Tôi cũng nguyện xin Thánh Damien de Veuster và thánh Marianna Cope, những người đã hiến trao đời mình cho những người phải chịu đau khổ vì bệnh phong, xin các ngài cầu bầu cho tất cả các bạn.

Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng, Chúa nhật hôm nay là ngày đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình trên Đất Thánh. Và Ngài cảm ơn tất cả những ai đang nỗ lực để thăng tiếng hòa bình trên mọi miền của thế giới và ngài đặc biệt chúc mừng những người hiên diện nơi đây. Sau đó, Ngài cũng chào mừng khách hành hương bằng các thứ tiếng khác nhau: tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, Phần Lan và Tây Ban Nha. Và cuối cùng, Đức Thánh Cha ban phép lành tòa thánh cho toàn thể mọi người hiện diện.

Nguyễn Minh Triệu sj – Radio Vatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 01-21 đến 01-27-2013

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 01-21 đến 01-27-2013

Trích từ XBVN

 

  • Tín hữu Công giáo chỉ trích ý kiến bộ trưởng nội vụ về Đức Thánh Cha.

  • BỔ NHIỆM MỚI.

  • Tấn phong giám mục người bản xứ tiên khởi ở Santa Cruz, Bolivia.

  • ĐHY Ravasi được chọn giảng tĩnh tâm Mùa Chay ở Vatican.

  • Đối thoại với SSPX : sáng kiến của ĐGM Noia.

  • Nhà nguyện Byzantin được lộ ra sau nhiều thế kỷ dưới đất bùn,

  • Đức Thánh Cha chúc lành cho những con chiên nhân ngày lễ Thánh Agnes.

  • Ankara hoàn trả đất đai bị tịch thu từ Trường Thần Học Halki.

  • Ước gì mỗi giáo dân cho 2 bản Kinh Thánh mỗi tháng để rao giảng Phúc Âm.

  • Lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam thăm viếng Vatican.

  • Chấm dứt những thánh lễ đồng tính nam Soho.

  • Toà Thánh làm Tân quan sát viên Hệ Thống Hoà Nhập Trung Mỹ (SICA).

  • Sai một linh mục Giáo phận Czestochowa đi truyền giáo ở Kazakhstan .

  • Lãnh đạo phái Luther không vui với đề xuất về Giáo hạt tòng nhân cho phái Luther.

  • Bộ Giáo Luật được coi là thực hiện nguyện vọng của Công Đồng Vatican II.

  • Giới chức Vatican điểm lại tiến bộ đại kết với các cộng đồng Tin lành.

  • Cầu nguyện cho hoà bình tại Thánh Địa trong 3.000 thành phố trên thế giới.

  • NHỮNG VỤ TỰ THIÊU.

  • Các nữ tu xin lỗi về những lạm dụng phạm phải giữa các năm 1928 – 1970.

  • Các trường Công giáo ở Tây Sydney sẽ rung chuông Truyền Tin mỗi ngày.

  • Liệu pháp tiếng cười của Soeur Lee.

  • 500 Năm Cải Cách: “Từ mâu thuẫn xung đột đến hiệp thông”.

  • Lãnh đạo DCCT lấy làm tiếc về những hành động của một linh mục Dòng.

(Xin xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 01-21-2013 đến 01-27-2013)