Đức giáo hoàng thương tiếc cái chết của Đức Hồng Y Stanislas Nagy

Đức giáo hoàng thương tiếc cái chết của Đức Hồng Y Stanislas Nagy

(Vatican Radio) Đức Giáo Hoàng Francis hôm thứ Tư đã gửi một bức điện thư chia buồn cho Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám Mục Krakow, Ba Lan ngay sau khi hay tin sự qua đời của Đức Hồng Y Stanislas Nagy.

Đức Hồng Y Stanislas Nagy, là linh mục của Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (Dehonians), sinh ngày 30 tháng 9 năm 1921 tại Bieruń Stary, Tổng Giáo Phận Katowice (Ba Lan). Ngài bước vào nhà dòng Dehonian vào năm 1937. Ngày 08 tháng bảy năm 1945 ngài thụ phong chức linh mục của Dòng.

Ngài từng là Giám đốc của Tiểu Chủng viện Dehonian tại  Kraków-Płaszów và Đại Chủng viện tại Tarnów. Ngài cũng là giảng dạy tại Đại học Công giáo Lublin, là  nơi  Ngài trở thành giảng sư đại học năm 1972.

Từ năm 1973 đến 1974, Ngài là một thành viên của Ủy ban Công giáo-Lutheran (Joint Catholic-Lutheran Commission). Ngài cũng từng là thành viên của Ủy ban thần học quốc tế và là giám đốc của bộ phận thần học của ban biên tập Bách khoa Công giáo của Đại học Lublin. Ngài  đã tham gia trong Thượng Hội Đồng năm 1981 và năm 1985. Quan tâm đến các vấn đề hiệp nhất, ông đã viết về sự cởi mở của Giáo hội của hậu công đồng Vatican để cùng nhau hòa giải.

Ngài là tác giả của nhiều cuốn sách về Đức Gioan Phaolô II, là một cộng tác viên lâu năm.

Đức Hồng Y bổ nhiệm, ông được đề cử vào nhà thờ của Hólar (nhà thờ được bổ nhiệm với một Hồng Y), với danh hiệu riêng của Đức Tổng Giám mục vào ngày 07 Tháng 10 năm 2003 và sau đó được thánh hiến vào ngày 13 tháng 10. Đức Gioan Phaolô II đã thiết lập nên, tuyên bố Đức Hồng Y trong hội nghị công giáo năm 2003.


Dưới đây, xin vui lòng xem bức điện văn của Đức Thánh Cha Phanxicô chia buồn về sự ra đi của Đức Hồng Y Stanislas Nagy:

Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz
Đức Tổng Giám Mục của Krakow

Khi nghe tin về cái chết của Đức Hồng y Stanislaw Nagy đáng kính, tôi muốn bày tỏ với ngài, đến toàn thể cộng đồng giáo phận, đến các gia đình của vị giám chức xứng đáng, và dòng tu Dehonian, sự chia sẻ chân thành của tôi trong nỗi buồn của họ, ghi nhớ với tình yêu thương người anh em mến yêu này mà người đã phục vụ Tin Mừng và Giáo Hội, đặc biệt là trong thế giới học thuật, được đánh giá là một giảng sư chuyên môn rất chăm chỉ của các ngành thần học. Tôi nhớ lại, với lòng biết ơn sự hợp tác hiệu quả và thâm tình ấm áp với Chân Phước Gioan Phaolô II, và sự hổ tương lẫn nhau của họ, cũng như các sinh hoạt cùng nhau hiệp nhất của mình. Tôi dâng lên những lời cầu nguyện nhiệt thành của tôi với Thiên Chúa, rằng, nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, người tôi tớ trung thành được mời gọi, một người ưu tú của Giáo Hội, vào trong sự vui mừng và bình an vĩnh cửu, và tôi sẵn sàng truyền đạt cho tất cả những ai thương tiếc sự ra đi của Ngài, Xin an ủi ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người.

Phỏng dịch Vatican Radio

Thái Trọng
 

Bài trừ nền văn hóa phung phí gạt bỏ để thăng tiến nền văn hóa liên đới gặp gỡ

Bài trừ nền văn hóa phung phí gạt bỏ để thăng tiến nền văn hóa liên đới gặp gỡ

Tôi ước mong tất cả chúng ta nghiêm chỉnh dấn thân tôn trọng và giữ gìn thụ tạo, chú ý tới mọi người, chống lại nền văn hóa phung phí và gạt bỏ, để thăng tiến một nền văn hóa liên đới và gặp gỡ.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bẫy tỏ như trên với khoảng 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 5 tháng 6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Vì hôm qua là ”Ngày quốc tế môi sinh” do Liên Hiệp Quốc phát động nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đề cập tới tầm quan trọng phải tôn trọng môi sinh, tiết kiệm không phung phí thực phẩm, vì trên thế giới hiện có hàng tỷ người phải sống trong cảnh đói khát và thiếu dinh dưỡng.

Đức Thánh Cha nói: Khi chúng ta đề cập tới môi sinh, tôi nghĩ tới các trang đầu tiên của Thánh Kinh, tới sách Sáng Thế, trong đó có khẳng định rằng Thiên Chúa đặt người nam và người nữ trên trái đất để họ vun trồng và giữ gìn nó (St 2,15). Và nổi lên trong tôi các câu hỏi: Vun trồng và giữ gìn trái đất có nghĩa là gì? Chúng ta có thật sự ”vun trồng” và giữ gìn thụ tạo hay không? Hay chúng ta đang tàn phá và lơ là với nó? Động từ ”vun trồng” gợi lên trong trí tôi việc săn sóc của nhà nông đối với đất đai của mình, để nó cho hoa trái và hoa trái đó được chia sẻ: biết bao nhiêu là chú ý, đam mê và tận tụy! Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Vun trồng và gìn giữ thụ tạo là một chỉ dẫn Thiên Chúa ban cho không phải chỉ ngay từ đầu lịch sử, mà còn cho từng người trong chúng ta nữa; nó là một phần chương trình của Người; nó muốn nói rằng đó là làm cho thế giới này lớn lên với tinh thần trách nhiệm, biến đổi nó để nó là một ngôi vườn có thể ở đối với tất cả mọi người. Và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhắc lại nhiều lần rằng nhiệm vụ này do Thiên Chúa Tạo Hóa giao cho chúng ta đòi hỏi phải tiếp nhận tiết nhịp và luận lý của việc tạo dựng.

Chúng ta trái lại thường khi được hướng dẫn bởi sự kiêu căng của thống trị, chiếm hữu, lèo lái và khai thác; chúng ta không ”giữ gìn”, không tôn trọng, không coi thụ tạo như là một ơn nhưng không cần phải săn sóc. Chúng ta đang đánh mất đi thái độ của sự kinh ngạc, của sự chiêm niệm, của việc lắng nghe thụ tạo; và như thế chúng ta không thành công trong việc đọc được nơi đó điều mà Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gọi là ”tiết nhịp cảu lịch sử tình yêu của Thiên Chúa đối với con người”. Tại sao lại xảy ra điều ấy? Bởi vì chúng ta nghĩ và sống theo chiều ngang, chúng ta xa rời Thiên Chúa, chúng ta không đọc ra các dấu chỉ của Người nữa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định: Nhưng mà ”vun trồng và gìn giữ” không chỉ bao gồm tương quan giữa con người với môi sinh, giữa con người với thụ tạo, mà cũng liên quan tới các tương quan nhân bản nữa. Các Giáo Hoàng đã nói tới môi sinh nhân bản, gắn liền chặt chẽ với môi sinh thiên nhiên. Chúng ta đang sống một thời điểm khủng hoảng; chúng ta trông thấy nó trong môi sinh, nhưng nhất là chúng ta trông thấy nó nơi con người. Con người đang gặp nguy hiểm, và chăc chắn là như vậy. Ngày nay con người đang gặp nguy hiểm. Vì thế môi sinh nhân bản là sự cấp bách! Và nguy hiểm nghiêm trọng, bởi vì lý do của vấn đề không hời hợt, mà sâu đậm; Nó không chỉ là một vấn đề kinh tế, nhưng là vấn đề luân lý và nhân chủng. Giáo Hội đã nhấn mạnh nhiều lần; và nhiều người nói rằng: vâng đúng vậy, thật thế. Nhưng tình hình không thay đổi và Đức Thánh Cha giải thích lý do tại sao:

Nhưng hệ thống tiếp tục như trước, bởi vì điều thống trị là các năng động của một nền kinh tế và của một nền tài chánh thiếu luân lý đạo đức. Cái chỉ huy con người ngày nay không phải là con người mà là ”tiền bạc”, ”tiền bạc”, tiền bạc chỉ huy! Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã cho chúng ta nhiệm vụ giữ gìn chứ không phải giữ gìn tiền bạc. Chúng ta, các người nam nữ, chúng ta có nhiệm này! Như thế các người nam nữ bị sát tế cho các thần tượng của lợi nhuận và tiêu thụ: đó là ”nền văn hóa của sự gạt bỏ”. Nếu một máy vi tính bị bể, nó là một thảm cảnh, nhưng sự nghèo túng, các nhu cầu, các thảm cảnh của biết bao nhiêu người thì lại là chuyện bình thường.

Nếu trong một đêm mùa đông tại đây, tại quảng trường Ottaviano chẳng hạn, có một người chết, thì đó không phải là tin tức. Nếu trong biết bao nhiêu vùng trên thế giới có các trẻ em không có ăn, sự kiện đó không phải là tin. Xem ra là điều bình thương thôi! Nhưng điều đó không thể như vậy được! Và các điều này bước vào trong sự bình thường: có vài người không nhà chết ngoài đường vì lạnh, không có tin gì cả… Trái lại thị trường chứng khoán trong các thành phố sụt 10 điểm, thì đó là một thảm cảnh. Người chết thì không là tin tức, nhưng thị trường chứng khoán mất 10 điểm thì là thảm họa. Như vậy con người bị ”vứt bỏ”. Chúng ta là người, chúng ta bị vứt bỏ như thể là rác rưởi.

”Nền văn hóa vứt bỏ” hướng tời chỗ trở thành tâm thức chung, lây nhiễm tất cả mọi người. Sự sống con người, bản vị con người không còn được cảm nhận như giá trị đầu tiên cần phải tôn trọng và bảo vệ nữa, đặc biệt nếu đó là sự sống nghèo túng hay tàn tật, nếu nó không phục vụ nữa – như trẻ em sẽ sinh ra – hay không còn cần thiết nữa – như người già.

Đức Thánh Cha nhận xét về hậu qủa của nền văn hóa gạt bỏ này như sau:

Nền văn hóa vứt bỏ này đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với cả các phung phí và vứt bỏ thực phẩm, nó còn đáng khinh bỉ hơn nữa, khi trong mọi miền trên thế giới này rất tiếc có nhiều người và nhiều gia đình phải đau khổ vì đói khát và thiếu dinh dưỡng.

Xưa kia các thế hệ ông bà chúng ta đã rất chú ý không vất bỏ đồ ăn còn thừa. Chế độ tiêu thụ đã dẫn đưa chúng ta tới chỗ quen với sự thừa thãi và phung phí thực phẩm mỗi ngày, mà đôi khi chúng ta không còn biết đánh giá đúng đắn nữa, và nó vượt xa các tham số thuần túy kinh tế. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng thực phẩm mà chúng ta vất bỏ đi, thì cũng như thể là chúng ta ăn trộm từ bàn ăn của người nghèo, của người đói! Tôi mời gọi tất cả mọi người suy tư về vấn đề đánh mất và phung phí thực phẩm để nhận diện ra các con đường và phương thế giúp đối đầu một cách nghiêm chỉnh với vấn đề đó, ước chi chúng là phương tiện của tình liên đới và chia sẻ với các anh chị em cần được trợ giúp nhất.

Cách đây mấy ngày trong lễ Mình Thánh Chúa chúng ta đã đọc trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu cho đám đông ăn với năm chiếc bánh và hai con cá. Và kết luận văn bản thật quan trọng: ”Mọi người ăn no nê và những mảnh vụn còn thừa, người ta thu lại còn được mười hai thúng.” (Lc 9,17).

Chúa Giêsu xin các môn đệ đừng để cho những gì còn thừa bị mất đi: không vứt bỏ cái gì cả! Và có sự kiện mười hai thúng. Tại sao lại mười hai thúng? Nó có nghĩa là gì? Mười hai là con số 12 chi tộc Israel, biểu tượng cho toàn dân Chúa. Và điều này nói rằng khi lương thực được chia sẻ đồng đều, với tình liên đới, thì không ai bị lấy mất đi điều cần thiết, mỗi cộng đoàn có thể đáp ứng các nhu cầu của những người nghèo nhất. Môi sinh nhân bản và môi sinh thiên nhiên luôn đi đôi với nhau.

Như thế tôi ước mong rằng tất cả chúng ta nghiêm chỉnh dấn thân tôn trọng và giữ gìn thụ tạo, chú ý tới mọi người, chống lại nền văn hóa phung phí và gạt bỏ, để thăng tién một nền văn hóa liên đới và gặp gỡ.

Sáng thứ tư 5 tháng 6-2013 Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã dành ra hơn nửa tiếng để chào tín hữu. Một em bé khi được ngài hôn đã nắm chặt lấy mảnh áo choàng của ngài và không muốn rời ra nữa. Có một cặp tín hữu đã tặng Đức Thánh Cha chiếc mũ calốt trắng, ngài nhận đội ngay lên đầu và lấy cái ngài đang đội tặng lại họ. Một tín hữu Mehicô tặng ngài cái poncho mầu đỏ và quàng lên vai Đức Thánh Cha. Sau buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha cũng dành ra gần một giờ để chào tín hữu, các cặp vợ chồng mới cưới và người tàn tật.

Ngài cũng đã chào các tín hữu đến từ các đảo Antille, Maurizius, và Côte d'Ivoire, cũng như một nhóm các imam hồi giáo dấn thân trong cuộc đối thoại liên tôn, và các đoàn hành hương đến từ các nước châu Mỹ Latinh như Colombia, Uruguay, Argentina, Mêhicô và Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng A rập Đức Thánh Cha nhắn nhủ như sau: ”Chúng ta đừng để cho mình quen với thảm cảnh của nghèo túng, các thảm cảnh của biết bao nhiêu người không nhà cửa chết trên đường phố, hay thấy biết bao nhiêu trẻ em không đựơc giáo dục và săn sóc y tế. Chúng ta hãy nhớ rằng thực phẩm mà chúng ta vứt đi thì như là chúng ta ăn trộm từ bàn tay của người nghèo và người đói.

Chào một nhóm tân linh mục và chủng sinh Ba Lan Đức Thánh Cha khuyến khích họ cảm tạ Chúa Giêsu vì ơn gọi linh mục, và vun trồng nó dưới ánh sáng và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, để luôn là các thừa tác viên hăng say của ơn thánh Chúa.

Đức Thánh Cha cũng chào phái đoàn hành hương các giáo phận Aversa, Macerata và Matera cùng với các Giám Mục cũng như phái đoàn công nhân các hãng đưởng Venezia với Đức Thượng Phụ.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng tháng 6 là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức thánh Cha xin Chúa dậy giới trẻ hiểu biết vẻ đẹp của tình yêu và cảm thấy được yêu. Ngài xin Chúa an ủi các anh chị em đau yếu trong nổi khổ đau thử thách của họ, và nâng đỡ các cặp vợ chồng mới cưới trên con đường cuộc sống hôn nhân.

Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

 

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU

 

ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTUS XVI

Anh Chị Em thân mến,

Hôm nay chúng ta đặc tâm chú ý đến một nhà truyền giáo cao cả của thế kỷ VIII, đã loan truyền Ki Tô giáo cho miền Trung Âu Châu, chính trên quê hương của tôi: đó là Thánh Boniface được lịch sử xem là " vị tông đồ của Nước Đức". Chúng ta có được không ít các tin tức về cuộc đời của ngài nhờ vào lòng chuyên cần các nhà viết tiểu sử về ngài.

Được sinh ra trong một gia đình người Anh ở Wessex khoản năm 675 và được rửa tội với tên là Winfrid.
Lúc còn rất trẻ đã gia nhập tu viện, vì cậu được thu hút bởi lý tưởng của đời sống tu viện.
Nhờ vào có được khả năng trí thức đáng kể, dường như cuộc đời của cậu Winfrid được khởi đầu để tiến đến nghề nghiệp một học giả yên tĩnh và sáng lạn: chàng đã trở thành giáo sư dạy văn phạm La Tinh, viết một vài bản văn và nhiều thi phú bằng La Tinh.

Được truyền chức Linh Mục vào khoảng ba mươi tuổi, Cha Winfrid cảm nhận mình được kêu gọi làm tông đồ giữa các dân ngoại ở lục địa. Lúc đó, nước Anh, quê cha đất tổ của Cha chỉ mới được truyền giáo một trăm năm trước đó, bởi các tu sĩ dòng Biển Đức ( Benedictini) do Thánh Agostino thành lập. Nước Anh cảm thấy mình có được đức tin thật vững chắc và lòng bác ái nồng cháy để gởi các nhà truyền giáo của mình vào Trung Âu để rao giảng Phúc Âm.
Năm 716 Winfrid cùng với một vài bạn đồng hành đến được Frisia ( Hoà Lan hiện nay), nhưng chạm trán phải sự đối kháng của người lãnh đạo địa phương và như vậy ý định rao giảng Phúc Âm ở đó bị thất bại.

Trở về quê hương, nhưng vẫn không nãn chí, hai năm sau Cha Winfrid đến Roma để hầu chuyện với Đức Giáo Hoàng Gregory II và nhận chỉ thị của ngài liên quan đến vấn đề. Đức Giáo Hoàng, theo những gì một tác giả tiểu sử gia thuật lại, đón nhận Cha " bằng khuôn mặt tươi cười và cái nhìn đầy âu yếm", và trong những ngày kế tiếp đã có " những cuộc thảo luận quan trọng với Cha" ( Willibaldo, Vita s. Bonifatii, ed. Levisonl pp. 13-14).
Và sau cùng, sau khi đặt tên cho Cha là Boniface, Đức Giáo Hoàng ủy thác cho Cha với các chứng minh thư chính thức sứ mạng rao giảng Phúc Âm giữa các dân tộc trên nước Đức.

1 – Đươc Đức Thánh Cha trợ lực và nâng đỡ, Boniface dấn thân vào việc rao giảng Phúc Âm trong các vùng vừa kể ( trên lãnh thổ Đức), chống lại các cách phượng tự ngoại giáo và củng cố nền tảng luân lý nhân bản và Ki Tô giáo. Với tinh thần trách nhiệm cao cả, Cha viết ở một trong những lá thư như sau:
" Chúng ta hãy vững mạnh trong việc chiến đấu trong ngày của Chúa, bởi vì các ngày phiền muộn và khốn cùng đã đến…Chúng ta không phải là những con chó câm, cũng không phải là những kẻ bàng quang thinh lặng, hay hạng thương gia trục lợi trốn chạy trước đoàn chó sói ! Trái lại, chúng ta là những Chủ Chăn tỉnh thức canh chừng trên đoàn chiên Chúa Ki Tô, rao giảng cho những nhân vật quan trọng cũng như cho người dân đơn sơ tầm thường, cho người giàu và người nghèo thánh ý Thiên Chúa…trong các thời điểm thuận tiện cũng như bất lợi…" ( Epistulae, 3, 352: MGH).

Với động tác không mệt nhọc ngừng nghỉ của Cha, với tài năng thiên phú để tổ chức, với tính mềm dẻo và dễ thương nhưng vững chắc, Boniface đạt được nhiều kết quả trọng đại.
Bởi đó Đức Thánh Cha " tuyên bố muốn đặt lên Cha địa vị của một Giám Mục, bởi vì như vậy Cha khả năng hơn để quyết định sửa chữa và dẫn dắt các người lầm lạc trở lại trên con đường chân lý, Cha có thể cảm nhận được uy quyền cao cả hơn của phẩm trật tông đồ nâng đở và cũng sẽ được tất cả mọi người chấp nhận trong trách vụ rao giảng, khi thấy được chính vì đó mà ngài được truyền chức vị lãnh đạo tông đồ cho" ( Otloho, Vita s. Bonifatii, ed. Levison, lib. I, p. 127).

Cũng chính Đức Thánh Cha Gregory II truyền chức " Giám Mục Vùng" ( = Tổng Giám Mục), nghĩa là Giám Mục cho cả nước Đức, cho Boniface. Đức Giám Mục Boniface trở về và tiếp tục lại các động tác cực nhọc tông đồ trong các lãnh địa được giao phó cho và kế đến mở rộng hoạt động của mình đến cả Giáo Hội nước Gallia ( nước Pháp): cùng với sự thận trọng và khôn ngoan, Đức Giám Mục Boniface
– tu chính lại quy luật Giáo Hội,
– tổ chức nhiều phiên nhóm Thượng Hội Đồng Giám Mục để bảo đảm cho quyền lực giáo luật,
– tăng cường thêm mối thông hiệp cần thiết với Đức Giáo Hoàng ở Roma: đó là điểm mà Đức Giám Mục Boniface luôn luôn canh cánh trong lòng.
Cả những vị kế nghiệp Đức Giáo Hoàng Gregory II cũng rất qúy trọng Đức Giám Mục Boniface: Đức Gregory III
– bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục cho cả nước Đức,
– gởi áo choàng Giám Mục cho ngài
– và trao cho ngài quyền tổ chức phẩm trật Giáo Hội trong các vùng đó ( cf Epist, 28; S. Bonifatii Epistulae, ed. Tangl, Berolini 1916).
Đức Thánh Cha Zaccaria xác nhận chức vụ đó của ngài và khen ngợi tin thần chuyên cần dấn thân của ngài ( cfr. Epist. 51, 57, 58, 60, 68, 77, 80, 86, 87, 89:op. cit.).
Đức Thánh Cha Stefano III , khi vừa được tuyển chọn, đã nhận được một bức thư của Đức Tổng Giám Mục Boniface, trong đó ngài bày tỏ mối hân hoan con cái của mình đối với Đức Thánh Cha ( cfr Epist. 108, op. cit.).

2 – Đức Tổng Giám Mục Boniface cao cả,
– ngoài việc rao giảng Phúc Âm
– và tổ chức Giáo Hội qua việc thành lập các giáo phận
– và nhóm họp các Thượng Hội Đồng Giám Mục,
– ngài cũng không quên thiết lập các tu viện, nam và nữ, để cho đó là những ngọn đèn pha chiếu toả ánh sáng đức tin, văn hoá con người và văn hoá Ki Tô giáo ra khắp lãnh thổ.
Từ các cộng đồng tu viện Biển Đức ( Benedittini ) trên xứ sở của mình, Đức Tổng Giám Mục Boniface kêu gọi các nam nữ tu sĩ đến trợ lực với ngài bằng động tác vững chắc và qúy báu để
– giúp ngài trong việc rao giảng Phúc Âm
– và phổ biến khoa học nhân loại và nghệ thuật cho dân chúng.
Bởi vì ngài có lý nghĩ rằng việc làm để rao giảng Phúc Âm cũng phải là động tác để truyền bá văn hoá con người.
Nhứt là tu viện ở Fulda , được thiết lập năm 743, là trái tim và là trung tâm từ đó chiếu toả ra cách sống đạo đức thiêng liêng và văn hoá tôn giáo: ở đó, các tu sĩ,
– trong kinh nguyện,
– trong việc làm và trong hoán cải đền tội, tìm cách cố gắng tiến đến sự thánh thiện,
– các vị còn được giáo dục trong các lãnh vực tôn giáo và trần thế, các vị đang chuẩn bị mình để ra đi rao giảng Phúc Âm, để trở thành những nhà truyền giáo.
Nhờ công lao của Đức Tổng Boniface, của các vị tu sĩ nam – nữ của ngài – ngay cả các nữ tu sĩ cũng góp phần quan trọng vào việc rao giảng Phúc Âm – mà việc đâm hoa kết quả cả nền văn hoá nhân loại, là những gì không thể tách rời đức tin và cho thấy vẻ đẹp của đức tin.
Bonifacio cũng viết ra tác phẩm chú giải Ars grammatica ( Nghệ thuật văn phạm), trong đó ngài giải thích
– các biến hoá danh từ ( declinazioni),
– cách chia động từ ( coniugazione),
– lối phân chia mệnh đề ( sintassi)
của tiếng La tinh,
và đó đối với ngài cũng là một dụng cụ để phổ biến đức tin và văn hoá.
Người ta cũng gán cho ngài là tác giả của Ars metrica ( Nghệ thuật phân chia nhịp điệu), nghĩa là phần dẫn nhập làm sao để có thể viết một bài thi phú , và các các sắp xếp các phần cân đối của bài thơ và sau cùng là một loạt thu tóm các bài giảng, gồm 15 bài.

Và mặc dầu đã đến tuổi già – gần 80 tuổi – Đức Tổng Boniface cũng chuẩn bị một sứ mạng truyền bá Phúc Âm mới: với khoản năm mươi tu sĩ, ngài trở lại miền Frisia ( Hoa Lan), nơi ngài đã khởi đầu công trình rao giảng.
Như có linh tính báo trước về cái chết gần kề, khi đề cập đến chuyến hành trình của cuộc sống, ngài đã viết cho người đệ tử và là vị kế nhiệm ngài ở tông toà Magonza ( Wuerburg), Đức Giám Mục Lullo như sau:
" Ta mong ước được hướng dẫn đến lúc kết thúc mục đích của chuyến đi nầy; ta không thể nào khước từ lòng ước muốn khởi hành chuyến đi. Ngày cuối cuộc đời của ta đã gần kề và cái chết của ta đã đến gần; khi xác chết của ta được chôn xuống, ta sẽ lên để lãnh lấy phần thưởng đời đời. Nhưng con, con rất qúy mến của ta, con hãy không ngừng nghỉ kêu gọi dân chúng xa lìa đều sai lạc cứng cỏi của họ, con hãy thực hiện việc xây cất công trình đã khởi sự kiến trúc đại thánh đường Fulda và đặt xác già nua với năm tháng dai dẳng với cuộc sống của ta ở đó" ( Willibaldo,Vita S. Bonifatii, ed. cit., p. 46).

Trong khi ngài sắp cử hành Thánh Lễ ở Dokkum ( ở miền Bắc Hoà Lan hiện nay), ngày 5 tháng 6 năm 754, Thánh Boniface bị một nhóm người ngoại đạo ám sát. Ngài tiến đến trước mặt họ với khuôn mặt tươi tỉnh,
" ngăn cấm các bổn đạo của mình chiến đấu chống lại bằng cách nói: " các con hãy dừng lại, dừng lai, đừng chiến đấu, hãy dẹp bỏ chiến tranh, bởi vì nhân chứng Thánh Kinh cảnh cáo chúng ta đùng lấy sự ác để trả sự ác, nhưng hãy lấy việc thiện trả cho ác. Đây là ngày mà từ lâu ta đang mong đợi, đây là thời điểm cuối cùng của ta đã đến; hãy can đảm trong Thiên Chúa" ( Ibid., pp. 49-50).
Đó là những lời cuối cùng của ngài trước khi ngã gụt xuống dưới trận đánh đập của những kẻ tấn công.
Xác của vị Giám Mục tử đạo được mang vào thánh đường Fulda, nơi mà ngài được chôn cất tương xứng.
Một trong những tác giả viết tiểu sử ngài đã nói về ngài bằng nhận xét như sau:
" Chúng ta có thể nói là Vị Thánh Giám Mục Boniface là cha của mọi người dân Đức, bởi vì ngài là người đầu tiên đã sinh ra họ trong Chúa Ki Tô bằng lời của ngài qua việc giảng dạy, đã làm cho họ trở nên vững chắc bằng gương sống của ngài, và sau cùng, đã hy sinh mạng sống của ngài cho họ, đó là đức bác ái, mà không ai có thể ban cho một đức bác ái nào cao cả hơn được" ( Otloho, Vita S. Bonifatii, ed. cit., lib. I., p.158).

3 – Sau hai thế kỷ, sứ điệp nào chúng ta có thể đón nhận được từ lời giảng dạy và động tác tuyệt diệu của nhà truyền giáo cao cả và tử đạo nầy?

a ) Điều hiển nhiên thứ nhứt mà ai muốn đến gần Thánh Boniface cũng thấy được: lời Chúa là trung tâm điểm, được đem ra thực hiện trong cuộc sống và giải thích trong đức tin của Giáo Hội, đó là Lời mà vị Thánh đã sống, đã giảng dạy và nhân chứng đến việc hy sinh tột độ, hy sinh chính mình trong tử đạo.
Ngài đã say sưa Lời Chúa đến độ cảm thấy khẩn cấp và có bổn phận phải đem đến cho người khác, ngay cả phải chấp nhận nguy hiểm cho chính mình.
Ngài đặt đức tin của mình trên Lời Chúa như là nền tảng, Lời mà ngài đã long trọng tuyên bố dấn thân trong lúc mình được phong chức Giám Mục:
" Con tuyên xưng hoàn toàn tính cách trong sáng của đức tin thánh thiện công giáo và được Chúa giúp đở con muốn được trung thành ở lại hiệp nhứt trong đức tin nầy, trong đó không có gì nghi ngờ, là tất cả sự cứu rỗi của người tín hữu Chúa Ki Tô" ( Epist. 12, in S. Bonifatii Epistolae, ed. cit., p.29).

b) Điều hiển nhiên thứ hai, rất quan trọng, mà chúng ta thấy được trong đời sống của Thánh Boniface là lòng thông hiệp trung thành với Tông Toà.
Đó là một định điểm bất di dịch và là trung tâm điểm động tác truyền giáo của ngài. Ngài luôn luôn giữ vững mối thông hiệp đó như là khuôn thước của động tác truyền giáo mình và đã để lại như là lời di chúc của mình.
Trong một thư gởi cho Đức Thánh Cha Zaccaria, ngài xác quyết:
" Con đừng bao giờ ngừng nghỉ kêu gọi và đặt ho dưới sự vâng lời đối với Tông Toà, những ai muốn trung thành với đức tin công giáo và hợp nhứt với Giáo Hội Roma và cả những ai mà Thiên Chúa đã ban cho con trong cộng cuộc truyền giáo nầy như là những người nghe con giảng dạy và là môn đệ " ( Epist. 50: ibid., p. 81).

Kết quả của cuộc dấn thân chuyên cần nầy là tinh thần vững chắc khắn khít với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô mà Đức Giám Mục Boniface chuyển đến các cộng đồng Giáo Hội trong lãnh thổ truyền giáo của ngài, nối kết Anh Quốc, Đức Quốc, Pháp Quốc với Roma.
Và như vậy ngài góp phần một cách quyết định gây dựng gốc rễ Ki Tô giáo cho Âu Châu, làm cho Âu Châu có khả năng đâm hoa kết quả trong những thế kỷ kế tiếp.

) c ) Về đặc tính thứ ba mà Thánh Boniface muốn nhắc nhở chúng ta nên lưu ý: đó là việc ngài tạo cơ hội cho việc gặp gỡ giữa nền văn hoá Roma – Ki Tô giáo và văn hoá Đức Quốc.
Thật vậy, Thánh Boniface biết rằng trong việc thăng tiến nhân phẩm con người và loan báo Phúc Âm, phổ biến văn hoá là phần chính yếu của sứ mạng của một vị Giám Mục. Trong khi chuyển đạt đến dân chúng kho tàng cổ của các giá trị Ki Tô giáo, Thánh Boniface tháp ghép vào dân chúng Đức một cách sống tôn trọng phẩm giá con người hơn, nhờ đó mà các quyền bất khả nhượng của con người được dễ kính trọng hơn.

Với tư cách là người con chính danh của Thánh Benedett, Thánh Boniface biết liên kết cầu nguyện và làm việc ( việc làm tay chân và làm việc bằng trí óc), bằng ngòi viết và bằng lưỡi cày.

Nhân chứng can đảm của Thánh Boniface là một lời mời gọi đối với tất cả chúng ta biết đón nhận lời Chúa trong cuộc sống của mình, như là định điểm chính yếu cho các động tác,
– mời gọi chúng ta biết tha thiết yêu thương Giáo Hội,
– biết cảm thấy mình cũng có bổn phận đối với tương lai của Giáo Hội,
– tìm cách kết hợp liên kết nhau chung quanh Đấng Kế Vị Thánh Phêrô.
Đồng thời Thánh Boniface cũng nhắc nhớ chúng ta rằng Ki Tô giáo, bằng cách phát huy việc phổ biến văn hoá, khuyến khích sự tiến bộ con người.
Bây giờ đến lược chúng ta, hãy hành xử tương xứng với một kho tàng cao cả như vậy và làm cho kho tàng đó đâm hoa kết quả ích lợi cho những thế hệ sắp đến.

Tôi luôn luôn cảm thấy thán phục nhiệt tâm nóng bỏng của ngài đối với Phúc Âm:
– lúc bốn mươi tuổi ngài ra đi từ một cuộc sống tót đẹp và đầy kết quả của một dòng tu, từ giả ra đi để lại sau lưng một cuộc sống của vị tu sĩ và của một giáo sư để rao giảng Phúc Âm cho những kẻ tầm thường, cho dân còn có cuộc sống man rợ ( barbari)
– lúc tám mươi tuổi, lại một lần nữa, ngài khởi đầu một cuộc hành trình vào một vùng mà đoán trước rằng mình sẽ phải chịu tử đạo.
Sánh đức tin đầy nhiệt huyết, lòng hăng say của ngài đối với Phúc Âm, so với đức tin nhiều lúc hâm hẩm vậy vậy và đức tin theo thủ tuc bàn giấy của chúng ta, chúng ta hãy tự hỏi
– phải làm gì và phải làm thế nào để cải đổi hoá đức tin,
– để chính chúng ta cũng có thể cống hiến cho thệ hệ chúng ta viên ngọc qúy Phúc Âm.

Phỏng dịch tư nguyên bản Ý Ngữ: Nguyễn Học Tập.

Kẻ đồi bại làm tổn hại Giáo Hội Công Giáo, Các Thánh là ánh sáng cho tất cả: Lời ĐTC Phanxicô

Kẻ đồi bại làm tổn hại Giáo Hội Công Giáo, các Thánh là ánh sáng cho tất cả: Lời ĐTC Phanxicô

Các người tội lỗi, kẻ đồi bại và các Thánh là đề tài gồm ba nhóm mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên trong buổi thánh lễ sáng ngày thứ Hai 06/03/2013 tại nhà trú Martha. Đức Thánh Cha nói các kẻ đồi bại xấu xa đã làm tổn hại đến Giáo Hội Công Giáo bởi vì họ là những người chỉ biết sùng ái tôn thờ chính họ. Ngược lại các Thánh làm các việc tốt lành, là những ngọn đèn sáng trong Giáo Hội Công Giáo.

Việc gì xảy ra khi chúng ta muốn trở thành các chủ của vườn nho? Dụ ngôn của các tá điền gian ác trong bài đọc phúc âm là một điểm bắt đầu cho bài giảng ĐTC Phanxicô mà Ngài nhấn mạnh đến “ Ba nhóm người đặc trưng cho người công giáo trong Hội Thánh: Người tội lỗi, Kẻ đồi bại và các Thánh”. ĐTC ghi chú thêm rằng “không cần bàn thêm nhiều về “người tội lỗi” bởi vì chúng ta tất cả là người tội lỗi. Chúng ta đã thấy trong chính chúng ta và biết rằng tội là gì. Nếu bất cứ ai trong chúng ta không cảm nhận việc này, thì người ấy cần phải đi đến bác sĩ tinh thần” bởi vì “có cái gì không đúng”. Tuy nhiên, dụ ngôn cho chúng ta một cái hình ảnh khác, cho những ai muốn sở hữu vườn nho và ai mất sự liên hệ với Chủ của vườn nho mà Chủ vườn nho là người thương yêu, bảo vệ chúng ta, là người cho chúng ta sự tự do. ” Những kẻ muốn chiếm hữu vườn nho, “tự cho là họ mạnh mẻ, và cho rằng không trực thuộc vào Thiên Chúa”:

“Những kẻ này, dần dần sẽ rơi vào tự chủ mình, độc lập với sự liên kết với Thiên Chúa “Chúng tôi không cần Ông Chủ đó, ông ta không nên đến và quấy rầy chúng tôi!” Họ là những kẻ đồi bại, Đây là những kẻ có tội giống chúng ta, nhưng họ đã làm một bước tiến vượt quá sự kiện này, nếu như họ xác nhận tội lỗi của họ, họ không cần đến Thiên Chúa. Nhưng dường như  là như vậy, trong tính di truyền của họ có sự liên kết với Thiên Chúa và từ đấy họ không thể chối bỏ điều này, họ tự tạo một thần linh đặc biệt, chính họ là thần linh. Họ là kẻ đồi bại.

Đức Thánh Cha tiếp: “Đây cũng là một sự nguy hiểm cho chúng ta. Trong các cộng đồng Kitô hữu, kẻ đồi bại chỉ nghĩ đến riêng nhóm của họ: “Tốt, tốt lắm, đó là của chúng ta – họ nghĩ như vậy – nhưng thực ra, ‘họ chỉ lo cho chính họ mà thôi”:

“Giuđa [là kẻ thứ nhất]: từ một người tội lỗi tham lam, cuối cùng trở thành đồi bại. Con đường tự chủ là một con đường hiểm nguy: họ rất dễ quên, quên sự yêu thương, mà Thiên Chúa tạo dựng lên vườn nho và chính họ. Họ cắt đứt sự liên hệ với sự yêu thương này và họ trở thành những người tự tôn tự đại. Thật là sự đồi bại trong cộng đồng Kitô giáo. Cầu xin Thiên Chúa cứu thoát chúng ta con đường đồi bại ấy.

ĐTC cũng nói về các Thánh, tưởng niệm ngày hôm nay là lần thứ 50 ngày mất của Chân Phước Gioan XXIII, “một mẫu thánh thiện”. Ngài tiếp: “Trong Phúc Âm hôm nay, các Thánh là những người đi thu tiền các tá điền thuê mướn vườn nho. Họ biết họ có bổn phận gì, họ phải làm bổn phận của họ”:

Các Thánh là những người vâng theo Thiên Chúa, những người tôn thờ Thiên Chúa, họ không mất sự yêu thương  mà Thiên Chúa đã ban khi tạo dựng ra vườn nho. Những kẻ tham nhũng đã gây bao nhiêu tai hại cho Giáo Hội, nhưng các Thánh lại làm biết bao nhiêu điều tốt lành. Cũng như kẻ đồi bại làm tổn hại đến Hội Thánh  nhưng các Thánh làm rất nhiều việc tốt lành. Thánh Gioan Tông đồ nói những kẻ đồi bại là những kẻ chống lại Chúa, họ ở giữa chúng ta, nhưng họ không phải là chúng ta. Còn các Thánh, Lời Chúa phán rằng họ giống như ánh sáng, ‘họ sẽ thờ phượng ở trước ngai tòa Thiên Chúa.’ Hôm nay chúng ta xin Thiên Chúa ban cho ân sủng để hiểu rằng chúng ta là kẻ tội lỗi, thực sự có tội,  tội lỗi không bao quát, nhưng người tội lỗi liên quan đến chỗ này, chỗ đó và chỗ khác, tội lỗi cụ thể, với sự cụ thể của tội lỗi. Ân sủng sẽ không trở thành đồi bại: người tội lỗi thì được, nhưng đồi bại thì không. Và hồng ân sẽ đi trên con đường thánh thiện. Amen.

Phỏng dịch từ Vatican Radio

Thái Trọng

Thông báo về buổi lễ kết thúc giai đoạn điều tra cấp giáo phận án phong chân phước cho ĐHY Nguyễn Văn Thuận

Thông báo về buổi lễ kết thúc giai đoạn điều tra cấp giáo phận án phong chân phước cho ĐHY Nguyễn Văn Thuận

ROMA. Ngày 5 tháng 7-2013, ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Giáo phận Roma, sẽ chủ tọa buổi lễ kết thúc cuộc điều tra ở cấp Giáo phận trong án phong chân phước cho vị Tôi Tớ Chúa, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận.

Buổi lễ này sẽ diễn ra lúc 11 giờ 30 sáng tại Hội trường ”Hòa Giải” trong dinh thự Latarano cũng là Tòa Giám quản của giáo phận Roma. Bắt đầu là thánh ca, tiếp đến là đọc biên bản, rồi diễn văn của ĐHY Vallini, và lời cám ơn của ĐHY Turkson, sau cùng là thánh ca kết thúc.

Trong thư mời tham dự buổi lễ này, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, và ĐHY Vallini cũng cho biết trước đó, vào lúc 9 giờ rưỡi sáng cùng ngày thứ sáu, 5 tháng 7, sẽ có thánh lễ đồng tế tại Vương cung Thánh Đường Thánh Antôn Padova của dòng Phanxicô, ở đường Merulana, 124.


Ngoài ra, vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày, sẽ có buổi giới thiệu cuốn sách của ĐHY Nguyễn Văn Thuận với tựa đề ”Các thư mục vụ – theo vết Công đồng chung Vatican 2”; trình bày các bản sao Thánh Giá của ĐHY Nguyễn Văn Thuận; tuyên bố cấp học bổng về đạo lý xã hội của Hội Thánh, để kính nhớ Đức Cố Hồng Y. Sau cùng là buổi hòa nhạc.

Ngày thứ bẩy, 6 tháng 7, lúc 12 giờ sẽ có buổi tiếp kiến của ĐTC và thánh lễ tạ ơn được cử hành tại Nhà Thờ Đức Mẹ Cầu Thang nơi có mộ của ĐHY Nguyễn Văn Thuận (Santa Maria della Scala – Piazza S. Maria della Scala, 23).

Thư mời của ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình đặc biệt cám các tổ chức ân nhân như: Ngân Quỹ ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận ở Hoa Kỳ; Ngân Quỹ Thánh Mathêu, tưởng niệm ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận ở Vatican, Hiệp Hội các cựu Chủng sinh Huế ở Mỹ, Ngân Quỹ Antica Zecca ở Lucca, Italia, Phong trào Canh tân trong Thánh Linh ở Tampa, Florida, và sau cùng là Giáo đoàn Công Giáo Việt Nam ở Đức.

Sau buổi lễ tại Tòa Giám Quản Roma, toàn bộ hồ sơ thu thập được trong cuộc điều tra, được niêm phong và gửi về Bộ Phong Thánh. Tại đây, Bộ sẽ cứu xét giá trị cuộc điều tra đã thực hiện trước khi chỉ định vị Tường trình viên (Relatore) để cùng với vị Thỉnh nguyện viên soạn tập Hồ sơ đúc kết (Positio) và các nhân đức anh hùng của vị Tôi Tớ Chúa. Hồ sơ này sẽ được giao cho 9 vị chuyên gia cố vấn của Bộ cứu xét và cho ý kiến. Nếu mọi giai đoạn của việc cứu xét này là tích cực, ĐTC sẽ cho phép công bố sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng và vị Tôi Tớ Chúa được gọi là Đấng Đáng Kính.

Giai đoạn kế tiếp và cứu xét phép lạ. Nếu có phép lạ được chứng thực qua các giai đoạn cứu xét của Hội đồng giám định y khoa, Ủy ban thần học và hội đồng Hồng Y, ĐTC sẽ cho phép công bố sắc lệnh nhìn nhận, và việc phong chân phước có thể tiến hành sau đó (TPN 3-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ðại sứ Mỹ gặp cộng đồng Việt vùng Little Saigon cuối tuần ngày 1 và 2 tháng 6 -2013

Ðại sứ Mỹ gặp cộng đồng Việt vùng Little Saigon cuối tuần ngày 1 và 2 tháng 6 -2013

WESTMINSTER, California (NV) Trong lần đầu tiên gặp gỡ cộng đồng Việt Nam tại vùng Little Saigon, ông David Shear, đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, cho biết kết quả vận động nhân quyền của tòa đại sứ tại Việt Nam có kết quả “khiêm tốn.”

 

Ðại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông David Shear (phải), nghe một cử tọa đặt câu hỏi tại buổi gặp gỡ cộng đồng Việt Nam tại Little Saigon. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Tại cả ba buổi gặp gỡ trong ngày Thứ Bảy vừa qua, một tại Trung Tâm Le-Jao Center của Ðại Học Cộng Ðồng Coastline, một tại nhà hàng Làng Ngon, và một tại Trung Tâm Phục Vụ Cộng Ðồng, Ðịa Hạt 1, ông David Shear lập đi lập lại nhiều lần chữ “khiêm tốn” (modest) khi nói về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam.

“Kể từ khi làm đại sứ tại Việt Nam, mỗi khi gặp các lãnh đạo cao cấp như ông Trọng, ông Sang, ông Dũng, hoặc Ngoại Trưởng Minh, cũng như những người khác, tôi không chỉ nói nhân quyền quan trọng như thế nào trong quan hệ Việt-Mỹ, mà tôi yêu cầu họ thả tù nhân, tôn trọng tự do nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do tụ tập, và tự do tín ngưỡng. Thế nhưng, chúng tôi chỉ đạt một kết quả 'khiêm nhường,'” nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ tại Việt Nam nói trước cử tọa bao gồm nhiều người Việt Nam và nhiều vị dân cử địa phương trong vùng.

Ông dẫn chứng: “Ví dụ như trường hợp thả Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân.”

Rồi ông mời ông Quân đứng lên và nói: “Tôi mừng là ông có mặt ở đây, chứ không còn ở trong tù nữa.”

“Như vụ thả Luật Sư Lê Công Ðịnh,” ông David Shear nói tiếp. “Tháng Hai vừa qua, lần đầu tiên Việt Nam tiếp ông phó chủ tịch tổ chức Amnesty International. Tôi hy vọng đây sẽ là bước mở đầu trong quan hệ giữa Việt Nam và các tổ chức nhân quyền.”

 

Từ trái, Dân Biểu Alan Lowenthal, Luật Sư Nguyễn Ðỗ Phủ, ông Ðỗ Hoàng Ðiềm (chủ tịch đảng Việt Tân) và Ðại Sứ David Shear tại nhà hàng Làng Ngon. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)


Ông nói tiếp: “Tuy nhiên, như tôi nói, đây chỉ là những kết quả 'khiêm tốn.' Chúng ta còn nhiều việc phải làm, không thể thay đổi mọi chuyện qua một đêm. Và để làm được điều này, chúng ta phải tiếp tục nêu lên những quan tâm của cộng đồng Việt Nam và chúng ta có điều kiện ảnh hưởng họ (chính quyền Việt Nam).”

Ông cũng cho biết ảnh hưởng của cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ rất lớn, và có thể gây ảnh hưởng tại Việt Nam.
“Tiếng nói của cộng đồng Việt Nam rất mạnh, và chúng tôi, tại Hà Nội, lắng nghe quý vị một cách nghiêm túc,” ông nói. “Ngoài ra, quý vị có những vị dân cử liên bang luôn biết lắng nghe và sẵn sàng lên tiếng cho quý vị, ví dụ như các dân biểu Alan Lowenthal, Loretta Sanchez và Ed Royce.”

Ông cũng không quên đề cập đến mục tiêu của Hoa Kỳ.

Ông nói: “Hoa Kỳ muốn Việt Nam là một quốc gia giàu mạnh và độc lập, nhưng phải tôn trọng luật lệ.”
Trong quan hệ giữa hai quốc gia cựu thù, Ðại Sứ David Shear cho biết Washington theo đuổi bốn mục tiêu: (1) Quan hệ kinh tế và thương mại. (2) Hợp tác ngoại giao và an ninh. (3) Giúp đỡ giáo dục và môi trường. (4) Kêu gọi họ – một cách mạnh mẽ và liên tục – tôn trọng nhân quyền.

“Tại sao tôi lại đề cập nhân quyền cuối cùng?” ông đại sứ đặt câu hỏi.

“Vì nhân quyền có liên quan đến ba mục tiêu trên,” ông David Shear giải thích.

 

Về mục tiêu số một, ông David Shear cho biết trao đổi thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam nay lên đến $20 tỉ/năm. Nếu Việt Nam được vào TPP (Trans-Pacific Panership) với Hoa Kỳ và các quốc gia khác ở Thái Bình Dương, Hoa Kỳ sẽ gia tăng xuất cảng vào Việt Nam.

Trong mục tiêu số hai, Hoa Kỳ và Việt Nam có cùng quyền lợi với các quốc gia khác trong Biển Ðông. Và Hoa Kỳ đã có hợp tác quân sự với Việt Nam ở mức khiêm nhường.

Ông nêu ví dụ: “Trong năm 2011, hai nước đã ký hiệp định hợp tác cứu hộ trên biển, hàng hải, và tìm kiếm người mất tích trong trường hợp thiên tai trên Biển Ðông.”

Với mục tiêu số ba, ông David Shear cho biết hiện có 15,000 sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ.

Ông nói thêm: “Hoa Kỳ cố gắng rất nhiều trong việc đẩy mạnh nhân quyền tại Việt Nam, nhưng chính 15,000 sinh viên khi trở về sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.”

Ông cũng nhắc đến các hoạt động của Mỹ giúp Việt Nam chống bệnh AIDS, các bệnh tật khác, cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là khi dòng sông này bị “tấn công từ phía trên” và mực nước biển dâng lên ở phía dưới, cùng với sự thay đổi khí hậu.

Về mục tiêu số bốn – nhân quyền – ông David Shear cho biết ông và ông Lê Thành Ân, tổng lãnh sự tại Sài Gòn, coi đây là vấn đề rất quan trọng.

Ông nói: “Hồi Tháng Tám, 2011, khi Việt Nam muốn vào TPP, chúng tôi nói thẳng họ phải cải thiện nhân quyền.”
“Nhân quyền là một cái gì đó nằm sâu trong máu của người Mỹ,” ông nói tiếp. “Tuy nhiên, rất dễ cho tôi nói chuyện với Việt Nam về phát triển kinh tế, nhưng không dễ khi nói chuyện nhân quyền với họ.”

Ông cũng cho biết, ông đã đi nhiều nơi tại Việt Nam, từ đồng bằng đến vùng núi, đến vùng cao nguyên, khoảng 24 tỉnh, nhưng vẫn bị hạn chế khi muốn đi đến một số nơi khác.

Về tự do tôn giáo, ông David Shear cho biết cũng đang làm việc cật lực để vấn đề được tốt hơn.

 

 

Giám Sát Viên Janet Nguyễn (trái) và Ðại Sứ David Shear (thứ hai từ trái) nói chuyện với đại diện tôn giáo và cộng đồng tại Trung Tâm Phục Vụ Cộng Ðồng, Ðịa Hạt 1, Westminster. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)

Ông kể, và có chiếu một số hình ảnh để minh họa, là từng gặp một nhà bất đồng chính kiến như Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ, Bác Sĩ Nguyễn Ðan Quế, vài giám mục Công Giáo, Thánh Ðịa La Vang và một số nơi khác.

Nhưng có một lần ông bị “cản trở” khi muốn gặp giám mục Giáo Phận Vinh.

Ông kể: “Hôm đó, tôi dự trù đến Vinh hai ngày, có lấy hẹn gặp vị giám mục, nhưng khi đến nơi, tôi được biết không thể gặp ngài được. Tôi rất bực bội và nói thẳng với Ban Tôn Giáo của tỉnh Nghệ An là tôi rất không hài lòng. Tôi trở lại Hà Nội ngay lập tức.”

Về chuyện đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC (Countries of Particular Concern), vì không tôn trọng tự do tôn giáo, ông Shear giải thích: “Chúng ta đưa Việt Nam ra khỏi danh sách này năm 2006. Sau đó, chúng ta thấy điều lệ để đưa một quốc gia vào CPC quá giới hạn, và Việt Nam không đủ tiêu chuẩn.”

Trong phần hỏi đáp với cử tọa, nhiều người đề cập đến chuyện một viên chức Mỹ từng làm việc ở Tổng Lãnh Sự Sài Gòn bị bắt vì bị tình nghi bán visa, ông David Shear đáp: “Tôi không thể trả lời vấn đề này vì sự việc đang được điều tra. Nhưng tôi muốn nói rõ, chúng tôi không chấp nhận chuyện này, và khi biết ai làm, chúng tôi sẽ trừng phạt họ.”

Ông cũng cho biết vụ bán visa không ảnh hưởng việc cấp visa cho du học sinh cũng như khách du lịch từ Việt Nam vào Hoa Kỳ.

 

Ðại Sứ David Shear (trái) trả lời câu hỏi của giới truyền thông Việt Ngữ sau buổi gặp gỡ cộng đồng Việt Nam. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Nhiều người cũng đặt câu hỏi về quan điểm của Mỹ trong tranh chấp ở Biển Ðông, giữa Việt Nam và Trung Quốc, giữa khối ASEAN và Trung Quốc, ông David Shear khẳng định: “Hoa Kỳ không đứng về phía nào, nhưng cũng phản đối bất cứ hình thức nào đơn phương tuyên bố chủ quyền Biển Ðông, vì đây là hải lộ quốc tế quan trọng.”

“Hoa Kỳ muốn mọi khác biệt được giải quyết qua phương thức ngoại giao, tôn trọng lẫn nhau, nhất là qua Quy Tắc Ứng Xử (Code of Conduct-COC),” ông David Shear nói.

Buổi gặp gỡ giữa Ðại Sứ David Shear và cộng đồng Việt Nam ở Trung Tâm Le-Jao do ba dân biểu Alan Lowenthal, Loretta Sanchez và Ed Royce đồng bảo trợ, tuy nhiên, chỉ có ông Lowenthal có mặt, còn hai vị kia bận việc khác.

Trước khi mở đầu, Dân Biểu Lowenthal giới thiệu ông Trí Tạ, thị trưởng Westminster, và bà Janet Nguyễn, giám sát viên Orange County, phát biểu chào mừng vị đại sứ và đồng hương.

Sau đó, Ðại Sứ David Shear có một buổi gặp gỡ và ăn trưa với một số nhân vật trong cộng đồng và đại diện một số đảng phái tại nhà hàng Làng Ngon, Westminster. Buổi gặp gỡ này do năm cá nhân đài thọ. Ðó là nhạc sĩ Trúc Hồ (tổng giám đốc SBTN), Luật Sư Nguyễn Ðỗ Phủ (phó tổng giám đốc SBTN), Luật Sư Nguyễn Anh Tuấn (thành viên HÐQT SBTN), Tiến Sĩ Susie Xuyến-Ðông Matsuda (thành viên đảng Việt Tân) và ông Trần Trung Dũng (đại diện Ðảng Bộ Việt Tân Bắc Mỹ).

Sau đó, ông David Shear gặp và nói chuyện với một số đại diện tôn giáo và cộng đồng, và một số vị dân cử, trong một buổi tiếp tân do Giám Sát Viên Janet Nguyễn tổ chức tại Trung Tâm Phục Vụ Cộng Ðồng, Ðịa Hạt 1, Westminster.

 

––
Liên lạc tác giả: DoDzung@nguoi-viet.com

PHÉP LẠ THÁNH THỂ

PHÉP LẠ THÁNH THỂ

Trong chuyến hành hương Fatima tháng 4 vừa qua, tôi có đến thăm Nhà Thờ Phép Lạ Thánh Thể ở Santarem. Santarem là một thị trấn cách Fatima chừng 60km.

 

http://www.206tours.com/tour37/church-santarem1a.jpg
 

Vào khoảng giữa năm 1225 hay 1247, có  một phụ nữ Công giáo cư ngụ tại Santarem. Bà ta là người quá bất hạnh vì luôn yên trí rằng: người chồng không thương yêu mình và đã thất tín, nên bà ta dùng mọi mánh khoé để lôi kéo chồng, nhưng không thành công. Đau khổ quá, bà ta tìm đến với một mụ phù thủy như giải pháp cuối cùng. Mụ phù thủy hứa sẽ làm cho người chồng quay trở lại yêu thương bà với điều kiện bà mang cho mụ ta một tấm Bánh Thánh với ý đồ xúc phạm Mình Thánh Chúa.

Điều kiện quái gở này đã làm cho người phụ nữ rất lo sợ, vì đây là việc phạm sự thánh. Tuy nhiên, vì quá đau khổ, cuối cùng bà ta liều mình chấp nhận. Bà đi dự lễ và lên rước Mình Thánh Chúa tại Nhà thờ Thánh Stêphanô. Nhưng thay vì nuốt Mình Thánh, bà ta lấy Mình Thánh ra khỏi miệng và gói vào một chiếc khăn, rồi lập tức rời khỏi Nhà thờ để đem giao Mình Thánh Chúa cho mụ phù thủy.  

Dọc đường, Mình Thánh Chúa bắt  đầu rỉ máu. Tuy nhiên, bà ta không hề hay biết, cho đến khi những người qua đường nhìn bà  ta chằm chằm, vì họ tưởng bà bị xuất huyết. Quá hoảng sợ, bà ta vội vã trở  về nhà, bỏ khăn ra và đặt Mình Thánh Chúa vào một đáy rương. Suốt ngày hôm đó cho đến tối, bà chờ đợi chồng trong sự lo sợ. Đến khuya người chồng về nhà nhưng bà ta giấu không hề hé môi nói về chuyện đó, sau cùng cả hai vợ chồng đi ngủ. Cả đêm hôm đó, bà không sao ngủ được, tâm hồn bị dày vò vì tội phạm sự thánh và bà luôn nghĩ rằng, không biết Mình Thánh có còn chảy máu nữa hay không?

Tảng sáng, hai vợ chồng tỉnh giấc, những tia sáng chói loà từ chiếc rương phát ra. Không giấu nổi, bà đành thú tội với chồng về tội phạm sự thánh. Thế rồi cả hai đã quì thờ lạy Thánh Thể Chúa cho tới sáng. Sáng sớm, ánh sáng càng rực rỡ từ chiếc rương đã thu hút bao khách qua đường đến chật ních ngôi nhà của bà. Tất cả mọi người đã chứng kiến phép lạ cách tỏ tường. Thế rồi tin phép lạ Thánh Thể đã đến tai cha xứ. Ngài vội vã đến nơi xảy ra phép lạ và nghe bà trình lại tỉ mỉ sự việc. Sau đó, cha xứ long trọng rước Thánh Thể về Nhà thờ. Ngài đặt Thánh Thể vào trong hộp tráng sáp và để trong Nhà Tạm.

Rồi một phép lạ khác lại xảy ra sau đó. Lần kia, khi cha xứ mở cửa Nhà Tạm, hộp tráng sáp đựng Thánh Thể đã bị vỡ tung thành trăm mảnh. Thế vào đó, ngài đã phải làm một hộp pha lê đựng Mình Thánh Chúa. Hộp đó đã được lưu giữ cẩn thận ở ngôi thánh đường này cho đến ngày nay. Từ đó, ngôi Thánh đường được đổi tên là “Nhà thờ Phép Lạ Thánh Thể”.

Từ ngày phép lạ xảy ra, hằng năm, vào Chúa Nhật thứ hai trong tháng 4, dân địa phương đã diễn lại sự kiện trên, và Phép Lạ Thánh Thể đã được long trọng cung nghinh từ ngôi nhà xảy ra phép lạ về Nhà thờ chính.

Từ năm 1684, căn nhà này đã trở thành nhà nguyện để cho khách thập phương kính viếng. Phép Lạ Thánh Thể Santarem chỉ rời thành phố một lần vào lúc quân đội Napolêon chiếm đóng Bồ Đào Nha vào năm 1810. Vì dân làng lo sợ quân Pháp xúc phạm đến Mình Thánh Chúa, nên Đức Giám Mục Lisbon đã chuyển Thánh Thể đi khỏi Santarem. Ngài đã đặt Thánh Thể để các tín hữu ở Lisbon tôn kính. Có người cho rằng ngài muốn lưu giữ Thánh Thể vĩnh viễn tại Thánh đường Pacao. Dân thành Santarem hay tin đã nổi giận và mở một cuộc biểu tình quá gây cấn. Thế rồi, Phép Lạ Thánh Thể lại được đem về Santarem cách bí mật trong ngày 2-12-1811 và ở lại đó cho đến ngày nay.
 

http://2.bp.blogspot.com/-FOHzl4hBv18/UTnKXEYUeYI/AAAAAAAAC54/NLQF0GMKGXQ/s1600/Hostia-Santarem.jpg
 

Bánh Thánh Thể có hình khác thường với những đường máu chảy từ trên xuống dưới và người ta đã thu được một số lượng máu  ở hộp đựng Bánh Thánh.

Bác sĩ Hoagland ở New Jersey đã đến viếng Bánh Thánh Thể nhiều lần và nhận thấy có nhiều lúc máu có màu như máu tươi. Máu Thánh vẫn còn ở thể lỏng cho tới 750 năm sau khi Phép Lạ xảy ra vào đầu thế kỷ XIII.

Sau khi được sự chuẩn nhận của Giáo quyền, Nhà Thờ Thánh Têphanô ở Santarem được đổi tên là “Nhà Thờ Phép Lạ Thánh Thể”. Trong thinh lặng, chúng tôi lần lượt từng người đi theo lối phía sau cung thánh, ngay phía sau Nhà Tạm có 5 bậc tam cấp để bước lên và hôn kính Thánh Thể được đặt trong một mặt nhật bằng vàng. Sau đó chúng tôi đi ra Nhà thờ quỳ gối thờ lạy Chúa Giêsu ngự trong Bánh Thánh Thể.

Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và thần tính của Đức Kitô.Chúng ta có  Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Khi Linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà Linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như Linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của Linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa Linh mục và Đức Kitô, khiến Lời Truyền Phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của Lời trở thành hiện thực.

Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa.Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể”. Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là Linh mục. Vì ý thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc Linh mục Truyền Phép: “Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể II); “Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III); “Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).

Thánh Thể mầu nhiệm  đức tin. Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của Đức Giêsu. Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con người Ngài. Ngài muốn trở thành đồ  ăn thức uống cho nhân loại: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy. Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu Thầy".

Vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa mạc: “Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Chúa Giêsu không nhằm thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống”. Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu Ngài. Cụm từ “Thịt Máu” ở đây không những bao gồm tất cả những gì nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.

Vì lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”. Không bí tích nào giúp chúng ta sống “với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa” bằng bí tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Rước lễ là  gắn bó với một ngôi vị: Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy.

Rước lễ là  gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và đã phục sinh : Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy.

Rước lễ là  đón lấy sự sống từ Đấng đang sống, cũng là  sự sống duy nhất bắt nguồn từ Chúa Cha.

Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối hiện diện mới mẻ. Ngài hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa  đã ban bí tích Thánh Thể, chúng con được rước Mình và Máu Thánh Chúa là lãnh nhận sự sống của Chúa, xin cho chúng con mỗi ngày trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

(Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ)

60 ngàn tín hữu đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha

60 ngàn tín hữu đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha

VATICAN. 60 ngàn tín hữu đã tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha Phanxicô tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa chúa nhật 2 tháng 6-2013.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, theo lịch chung tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Ngài cũng tái lên tiếng kêu gọi chấm dứt các cuộc xung đột đẫm máu kéo dài từ 2 năm nay ở Siria, trả tự do cho những người bị bắt cóc.

Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, mến chào anh chị em!

”Thứ năm vừa qua, chúng ta đã cử hành lễ kính Mình Thánh Chúa, lễ này tại Italia và các nước khác được dời vào chúa nhật hôm nay. Đây là Lễ Thánh Thể, Bí tích Mình và Máu Thánh Chúa Kitô.

”Bài Tin Mừng đề nghị với chúng ta trình thuật phép lạ bánh hóa nhiều (Lc 9,11-17); tôi muốn dừng lại ở một khía cạnh vẫn luôn gây ấn tượng mạnh cho tôi và làm cho tôi suy nghĩ. Chúng ta đang ở bên bờ hồ Galilea, chiều tối đến gần; Chúa Giêsu lo âu vì dân chúng ở với Ngài từ lâu giờ: hàng ngàn người, và họ đang đói. Làm sao đây? Cả các môn đệ cũng đặt vấn đề và nói với Chúa Giêsu: 'Xin Thầy giải tán dân chúng” để họ vào các làng mạc lân cận tìm thức ăn. Trái lại Chúa Giêsu nói: ”Chính các con hãy cho họ ăn đi” (v.13) Các môn đệ ngỡ ngàng và trả lời: ”Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và hai con cá”, như thể nói: chỉ vừa đủ cho chúng ta.

”Chúa Giêsu biết rõ phải làm sao, nhưng muốn các môn đệ can dự vào, Ngài muốn giáo dục họ. Thái độ của các môn đệ thật là thái độ thường tình của con người, vốn tìm một giải pháp thực tiễn nhất, và không gây quá nhiều vấn đề: đó là giải tán đám đông, mỗi người tự lo liệu lấy, vả lại Thầy đã làm quá nhiều cho họ rồi, Thầy đã giảng giải, đã chữa lành các bệnh nhân.. Xin Thầy hãy giải tán đám đông!

”Thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn, và thái độ ấy do sự kết hiệp của Ngài với Chúa Cha và do sự cảm thông với dân chúng, và cũng do ý chí muốn gửi đến các môn đệ một sứ điệp. Đứng trước 5 chiếc bánh đó, Chúa Giêsu nghĩ: đây thực là điều quan phòng! Từ số lượng bé nhỏ ấy, Thiên Chúa có thể rút ra những gì cần thiết cho mọi người. Chúa Giêsu hoàn toàn tín thác nơi Cha trên trời, Ngài biết rằng đối với Chúa Cha tất cả đều có thể. Vì thế, Chúa Giêsu bảo các môn đệ cho dân chúng ngồi xuống thành từng nhóm 50 người – không phải là tình cờ; điều này có nghĩa là họ không còn là đám đông nữa, nhưng trở thành một cộng đoàn, được nuôi dưỡng bằng bánh của Thiên Chúa. Rồi Chúa cầm lấy những chiếc bánh và những con cá ấy, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng – hiển nhiên đây là sự ám chỉ tới Phép Thánh Thể -, rồi Ngài bẻ ra và bắt đầu phân phát cho các môn đệ, và các môn đệ phân phát … bánh và cá ấy không hết! Đó là phép lạ: đây không phải là sự hóa bánh ra nhiều cho bằng một sự chia sẻ, được đức tin và kinh nguyện linh hoạt. Tất cả đều ăn và vẫn còn thừa: đó là dấu chỉ Chúa Giêsu, bánh của Thiên Chúa cho nhân loại.

”Các môn đệ đã thấy, nhưng họ không lãnh hội rõ sứ điệp. Giống như đám đông, họ phấn khởi vì sự thành công. Một lần nữa họ theo lý luận phàm nhân chứ không phải lý luận của Thiên Chúa, đó là sự phục vụ, yêu thương và tin tưởng. Lễ Mình Thánh Chúa yêu cầu chúng ta trở về với niềm tin nơi sự Quan Phòng của Chúa, biết chia sẻ điều ít ỏi mà chúng ta có và chính bản thân chúng ta, và đừng bao giờ khép kín co cụm trong chính mình. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Maria của chúng ta giúp đỡ chúng ta trong cuộc hoán cải này, để thực sự theo Chúa Giêsu một cách chân thực hơn, Đấng mà chúng ta thờ lại trong Thánh Thể. Amen

Kêu gọi và chào thăm

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nói thêm rằng:

”Anh chị em thân mến, tôi vẫn rất lo âu và đau buồn vì cuộc xung đột kéo dài từ hơn hai năm nay làm cho Siria ở trong tình trạng máu lửa và gây tổn thương đặc biệt cho dân chúng vô phương tự vệ, họ đang khao khát một nền hòa bình trong công lý và cảm thông. Tình trạng chiến tranh đau thương này kéo theo những hậu quả bi thảm: chết chóc, tàn phá, thiệt hại lớn lao về kinh tế và môi sinh, cũng như tệ nạn bắt cóc người. Trong khi lên án những sự kiện đó, tôi muốn cam đoan về kinh nguyện và tình liên đới của tôi đối với những người bị bắt cóc và thân nhân họ, và tôi kêu gọi tình người của những kẻ bắt cóc hãy trả tự do cho các nạn nhân. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho Siria yêu quí”.

Quốc gia này tiếp tục ở trong tình trạng bất an và vô chính phủ do chiến tranh gây ra, nhiều vụ bắt cóc có động lực kinh tế để đòi tiền chuộc mạng, một số vụ bắt cóc khác dường như là do sự trả đũa giữa các nhóm Hồi giáo khác nhau hoặc do trào lưu cực đoan cuồng tín. Trong số những nhân vật được biết đến nhiều nhất giữa những người bị bắt cóc từ hơn một tháng nay có Đức GM Yohanna Ibrahim, thuộc Giáo Hội Chính Thống Siriac ở Aleppo, và Đức GM Boulos Yaziji, TGM giáo phận Chính Thống Hy Lạp cũng tại Aleppo, thành phố lớn thứ hai của Siria. Thêm vào đó cũng có 1 ký giả người Italia là ông Domenico Quirico.

ĐTC nói: ”Trên thế giới hiện có bao nhiêu tình trạng xung đột, nhưng cũng có bao nhiêu dấu hiệu hy vọng. Tôi muốn khích lệ những bước tiến gần đây tại nhiều nước Mỹ châu la tinh hướng về sự hòa giải và hòa bình. Chúng ta hãy tháp tùng họ trong kinh nguyện.

Trước khi kết thúc buổi đọc kinh, ĐTC kể lại rằng:

”Sáng hôm nay tôi đã cử hành thánh lễ với một số quân nhân và thân nhân của một số người đã ngã gục trong các sứ vụ hòa bình nhắm thăng tiến sự hòa giải và hòa bình tại những nước đang còn có máu đổ ra giữa những người anh chị em với nhau đang gặp chiến tranh, vốn là điều điên rồ.”

và ĐTC trích dẫn câu nói của ĐGH Piô 12, được Đức Gioan Phaolô 2 lấy lại: ”Với chiến tranh tất cả đều mất mát. Với hòa bình ta được tất cả”. Tôi xin anh chị em cầu nguyện cho những người tử nạn, những người bị thương và gia đình họ. Và giờ đây, chúng ta cùng nhau cầu nguyện trong thinh lặng, trong tâm hồn chúng ta, một kinh nguyện cho những người đã ngã gục, những người bị thương và gia đình họ”.

Sau một phút thinh lặng cầu nguyện, ĐTC còn ngỏ lời chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện hôm nay: các gia đình, các tín hữu thuộc bao nhiêu giáo xứ Italia và các nước khác, các hội đoàn và phong trào. Ngài nói: ”Tôi đặc biệt chào các tín hữu đến từ Canada, từ Croát và Bosni Erzegovine, cũng như một nhóm thuộc tổ chức Cottolengo nhỏ ở Genova, Hội thánh Orione. Tôi chào tất cả và cầu chúc tất cả chúa nhật tốt đẹp và dùng bữa trưa ngon!

Thánh lễ ĐTC cử hành ở nguyện đường Nhà Trọ thánh Marta lúc 9 giờ rưỡi sáng chúa nhật hôm qua có khoảng 80 người tham dự dưới sự hướng dẫn của Đức TGM Vincenzo Pelvi, Giám mục giáo hạt quân đội Italia và một số LM tuyên úy quân đội. Trong số các tín hữu hiện diện có 55 thân nhân, đặc biệt là cha mẹ của 24 binh sĩ Italia tử trận trong vòng 4, 5 năm nay, đặc biệt tại Afganistan, và ngoài ra có 13 quân nhân bị thương đã từng tham gia các sứ vụ hòa bình như vậy.

Hôm 2 tháng 6-2013 cũng là lễ Cộng hòa của Italia, nên vào cuối lễ có đọc kinh cầu nguyện cho Italia do Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 soạn hồi năm 1994. Sau thánh lễ, ĐTC đã thân ái chào thăm từng người tham dự.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha chủ sự chầu Thánh Thể hoàn vũ

Đức Thánh Cha chủ sự chầu Thánh Thể hoàn vũ

VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi chầu Thánh Thể trọng thể từ 5 đến 6 giờ chiều chúa nhật 2 tháng 6-2013 tại Đền Thờ Thánh Phêrô.

Đây là lần đầu tiên trong lịch sử giờ chầu này được cử hành đồng thời tại các nhà thờ chính tòa và nhiều giáo xứ, cộng đoàn và tu viện trên thế giới, bất kể các múi giờ khác nhau. Như tại quần đảo Samoa trong Thái Bình Dương là 4 giờ sáng, Seul Nam Hàn là nửa đêm, Việt Nam là 10 giờ tối.

Đền thờ Thánh Phêrô đông chật các tín hữu. Trong số này có gần 20 Hồng Y và 20 GM, rất đông các nữ tu.
Giờ chầu bắt đầu bằng thánh ca Năm Đức Tin trong khi ĐTC tiến vào Đền Thờ. Tiếp đến một thầy Phó Tế mang Mình Thánh Chúa có các thầy giúp lễ tháp tùng lên bàn thờ chính và đặt vào Mặt Nhật, trong khi ca đoàn và cộng hát bài Adoro te devote (Lạy Chúa Giêsu, con sùng kính thờ lạy Chúa).

Buổi chầu được xen lẫn giữa những phút thinh lặng cầu nguyện riêng, những đoạn sách thánh, các đoạn sách trích lời ĐGH Gioan Phaolô 2, Gioan 23 và Biển Đức 16, cùng với những lời khẩn nguyện, sau cùng là bài ca Tantum Ergo và ĐTC ban phép lành Mình Thánh Chúa cho tất cả mọi người.

Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, cũng là Chủ tịch Ban tổ chức, cho biết ĐTC Phanxicô đã thêm những ý nguyện mà ngài mong muốn các tín hữu hiệp ý cầu trong giờ chầu Thánh Thể chung:

Ý nguyện thứ I là: ”Cầu cho Giáo Hội rải rác khép thế giới và ngày hôm nay được liên kết với nhau trong việc Thờ Lạy Mình Thánh Chúa. Xin Chúa ban cho Giáo Hội luôn vâng phục lắng nghe Lời Chúa để xuất hiện trước mặt thế giới ”ngày càng xinh đẹp, không vết nhăn và tỳ ố, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,28). Qua việc loan báo trung thành, ước gì Lời cứu độ của Chúa tái vang dội như Lời từ bi và thúc giục các tín hữu tái dấn thân trong tình thương để mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho đau khổ và tái lập niềm vui tươi và thanh thản”.

Ý nguyện thứ hai ĐTC đề nghị là:

”Cầu cho những người ở các nơi trên thế giới đang chịu đau khổ vì những thứ nô lệ mới và các nạn nhân của chiến tranh, của nạn buôn người, buôn bán ma túy, phải làm việc như nô lệ, cầu cho cac trẻ em và phụ nữ đang phải chịu mọi hình thức bạo hành. Ước gì tiếng kêu cứu âm thầm của họ được Giáo Hội tỉnh thức lắng nghe, để Giáo Hội ngắm nhìn Chúa Kitô chịu đóng đanh, nhưng không quên bao nhiêu anh chị em bị bỏ mặc cho bạo lực. Ngoài ra chúng ta hãy cầu cho tất cả những người ở trong tình trạng kinh tế bấp bênh, nhất là những người thất nghiệp, người già, người nhập cư, người không gia cư, các tù nhân và những người đang bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ước gì kinh nguyện và hoạt động tích cực của Hội Thánh an ủi và nâng đỡ họ trong hy vọng, là sức mạnh giúp họ can đảm bênh vực phẩm giá con người”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kết thúc tháng 5 kính Đức Mẹ

Đức Thánh Cha kết thúc tháng 5 kính Đức Mẹ

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương Mẹ Maria trong việc lắng nghe Lời Chúa, quyết định và phục vụ tha nhân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong bài suy niệm ngắn vào cuối buổi đọc kinh Mân Côi trọng thể tối ngày 31-5-2013 qua tại Quảng trường Thánh Phêrô nhân dịp kết thúc tháng 5 kính Đức Mẹ.

Hiện diện tại Quảng trường có lối 30 HY, GM và khoảng 40 ngàn tín hữu cùng với các tu sĩ nam nữ.

ĐTC đã quảng diễn bài Tin Mừng của ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng và nhấn mạnh đến gương Mẹ Maria đối diện với hành trình cuộc sống trong tinh thần thực tế, đầy tình người và đúng đắn. Ngài tóm gọm mẫu gương của Đức Mẹ trong 3 từ: lắng nghe, quyết định và hành động.

1. ĐTC nhận xét rằng hành động của Mẹ Maria lên đường viếng thăm bà Elisabeth xuất phát từ sự lắng nghe Lời Chúa. Đó không phải là nghe hời hợt, nhưng là chăm chú lắng nghe, đón nhận và sẵn sàng đối với Thiên Chúa. Mẹ Maria lắng nghe cả những sự kiện, nghĩa là đọc các biến cố trong cuộc sống, đi sâu vào ý nghĩa của chúng. Thái độ này cũng có giá trị trong cuộc sống chúng ta: lắng nghe Chúa nói với chúng ta, lắng nghe thực tại cuộc sống thường nhật, quan tâm đến con người và sự kiện vì Chúa đứng ở cửa đời sống chúng ta và gõ cửa bằng nhiều cách, đặt những dấu hiệu trên hành trình của chúng ta. Chúng ta cần có khả năng nhìn thấy những dấu hiệu ấy.
2. Từ thứ hai là ”Quyết định”. ĐTC giải thích rằng Mẹ Maria không sống ”vội vã”, cơ cực, nhưng như thánh Luca đã nhấn mạnh, ”Mẹ suy niệm tất cả những điều đó trong lòng” (Xc Lc 2,19.51)… Mẹ Maria không để mình bị các biến cố lôi đi, không tránh né những nỗ lực vất vả cần phải làm khi quyết định. Và điều đó diễn ra không những trong chọn lựa căn bản thay đổi cuộc sống của Mẹ: ”Này tôi là tôi tớ Chúa..” (Xc Lc 1,38), nhưng cả trong những chọn lựa thường nhật nhất..

Từ mẫu gương của Mẹ Maria, ĐTC nhắn nhủ các tín hữu hãy can đảm đề ra những quyết định trong cuộc sống, đừng trì hoãn hoặc dồn cho người khác quyết định thay chúng ta, hoặc để cho mình bị lôi kéo vì những biến cố hay chạy theo các mốt thịnh hành nhất thời. Ngài nói:

”Nhiều khi chúng ta biết điều mình phải làm, nhưng không có can đảm làm, hoặc chúng ta thấy đó là điều quá khó khăn vì phải đi ngược dòng. Mẹ Maria đã đi ngược dòng trong biến cố truyền tin, trong cuộc thăm viếng, cũng như tại tiệc cưới Cana. Mẹ lắng nghe Lời Chúa, suy nghĩ và tìm hiểu thực tại, và quyết định hoàn toàn tín thác nơi Chúa, quyết định đi thăm bà chị họ già mặc dù mình đang có thai…”

3. Sau cùng là từ ”hành động”. Mẹ Maria ”vội vã lên đường” đi thăm bà chị họ Elisabeth (Xc Lc 1,39). ĐTC nhận xét rằng ”Trong kinh nguyện, trước mặt Thiên Chúa đang nói, trong suy nghĩ và suy niệm về những sự kiện của cuộc sống, Mẹ Maria không vội vã, không để mình bị các biến cố lôi đi. Nhưng khi đã rõ về điều Chúa muốn, nghĩa là về những gì phải làm, thì Mẹ không do dự chần chừ, lần lữa, nhưng ra đi ”vội vã”. Thánh Ambroxio bình luận rằng ”ơn Thánh Linh không bao hàm sự chậm trễ” (Expos. Evang. sec. Lucan, II, 19: PL 15,1560).

ĐTC nói: ”Nhiều khi chúng ta dừng lại ở việc lắng nghe, suy tư về điều mình phải làm, có lẽ chúng ta cũng có quyết định rõ ràng phải đề ra, nhưng chúng ta không đi tới hành động. Và nhất là chúng ta không ”mau lẹ” đến với người khác để giúp đỡ họ, để tỏ bày sự cảm thông và tình bác ái của chúng ta; để như Mẹ Maria, mang cho tha nhân những gì quí giá nhất đối với chúng ta là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa bằng lời nói và nhất là bằng chứng tá cụ thể trong hành động của chúng ta”. (SD 31-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ

Dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ

Trong ngày lễ kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Phúc Âm thuật lại. Đây cũng là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư mười hai thúng miếng vụn. Thánh sử Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm Mười Hai trong phép lạ này. Chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này tìm chỗ ăn, chỗ ở. Và Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm Mười Hai: “Chính các con hãy cho họ ăn”. Hãy lo cho họ sau khi đã được nghe giảng về Nước Thiên Chúa, được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng và chữa bệnh vàđã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng: “Ở nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh”. Chúa cần các môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc nuôi sống dân chúng. Các môn đệ, theo lệnh của Chúa Giêsu, đã chia đám đông thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi nhận lại từ tay Ngài và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh này khi Chúa Giêsu chúc tụng và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép lạ nhân lên không ngừng.

Có thể hôm nay chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hàng giờ có biết bao trẻ em chết đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa những cố gắng nhỏ bé của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tac của Thầy Giêsu đến phục vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.

Chúng ta đọc lại câu 16 đoạn Tin Mừng trên: “Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đm đông”. Khi kể lại cử chỉ của Chúa Giêsu làm lúc lập bí tích Thánh Thể, thánh Maccô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Và trong biến cố hai môn đệ về Emaus, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ”. Cử chỉ quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội thời khai sinh hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và bí tích Thánh Thể. Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều dùng một cử chỉ mà mời người khác ăn tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể được khơi mào từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất như đã giảm cơn đói cho một số người nhất định trong một thời gian nhất định. Mana ngày xưa trong sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết.

Bữa tiệc ly không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: “Này là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Này là chén máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con”. Chúa Giêsu mời chúng ta ăn tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để có dịp tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Ngài; vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến của một tình yêu biết tìm kiếm.

Cựu ước đã hứa rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật. Chúa Giêsu đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh với hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự bữa tiệc ở Nước Trời, nơi chúng ta thông hiệp trọn vẹn với Ngài, không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa tiệc ly đã trở thành tấm thân Ngài được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Giáo Hội thời khai sinh đã không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ bẻ bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần.

Xin Chúa giúp chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ bánh.

Radio Veritas

Mình Máu Chúa Kitô

Mình Máu Chúa Kitô

Đức Giêsu đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để thêm sức cho những người đã theo và nghe Ngài giảng dạy. Phép lạ hoá bánh ra nhiều, là dấu chỉ của bí tích Thánh Thể sau này.

Đức Giêsu như gương mẫu

Các tông đồ nhắc nhở Đức Giêsu: “xin Thầy cho dân chúng về để họ tìm chỗ trọ quanh đây và kiếm thức ăn vì ngày đã tàn”. Dường như dân chúng ham mê nghe Đức Giêsu giảng, và chính Đức Giêsu cũng rất thích giảng dạy dân chúng đến quên cả thời gian.

Điều các tông đồ có thể làm được, là nhắc nhở Đức Giêsu về nhu cầu thể lý của con người. Và Đức Giêsu nói: “Anh em hãy cho họ ăn”. Cho dân chúng ăn, đâu phải là nhiệm vụ của các tông đồ, và cũng vượt khả năng của chính các ông: “chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Hãy bảo họ ngồi thành nhóm khoảng năm mươi người. Và Đức Giêsu đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho dân chúng. Đức Giêsu không chỉ quan tâm đến khát vọng thiêng liêng của dân chúng, nhưng Ngài còn thông cảm và để ý đến cả nhu cầu thể xác của con người nữa.

Đức Giêsu: “cầm lấy, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn…”. Những việc bình thường hằng ngày, ngay cả như “ăn uống”, Đức Giêsu cũng vẫn làm với ý thức sâu xa về Thiên Chúa. Và cũng chính thói quen này giúp hai môn đệ Emmau nhận ra Đức Giêsu. Đây là điều mỗi người cần học nơi Đức Giêsu: đối diện với thực tại, hướng lên Thiên Chúa, chúc tụng và xin Ngài giúp để biết phải làm gì và làm như thế nào trong mọi hoàn cảnh.

Đức Giêsu nuôi dưỡng con người bằng chính Mình Máu Ngài

Đức Giêsu trong đêm Ngài bị bắt, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: này là mình thầy, hiến tế vì anh em. Đức Giêsu đã bị trao nộp và bị giết vì tội con người, Ngài trở nên của ăn của uống cho con người của mọi thời đại.

Ngày xưa dân Do Thái đi trong hoang địa được nuôi bằng manna, người thời Đức Giêsu được Ngài hoá bánh ra nhiều để nuôi họ, còn ngày nay Ngài nuôi con người bằng chính thịt máu Ngài. Con người ngày nay còn hạnh phúc hơn cả con người ngày xưa và ngay cả con người thời Đức Giêsu nữa. Tuy vậy, mấy ai nhận ra diễm phúc này?

Qua bí tích Thánh Thể, con người nhận ra tình yêu vô cùng của chính Đức Giêsu đối với con người. Ngài sẵn sàng trở thành của nuôi con người, để được tan biến trong con người, để làm con người được thần hoá, được thông phần bản tính Thiên Chúa. Của ăn vật chất con người dùng, trở thành thịt máu con người; còn bí tích Thánh Thể con người dùng, làm con người được “trở nên thịt máu Đức Giêsu”, được “thánh hoá”, được thần hoá, được trở nên con Thiên Chúa.

Dâng hiến chính mình

Đức Giêsu đã dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và cho con người qua cái chết trên thập giá và được thể hiện trước cách bí tích qua bí tích Thánh Thể. Và qua điều này Ngài mời gọi con người của mọi thời đại trở nên giống Ngài: yêu thương đến quên mình, đến dâng hiến chính mình cho con người.

Trong lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều người đã anh dũng dâng hiến chính mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ở Việt Nam đã có cả hơn một trăm ngàn người dám chết để làm chứng cho đức tin, cho Thiên Chúa. Các thánh và chân phước tử đạo là nhân chứng hùng hồn cho tình yêu Thiên Chúa và con người.

Những người dâng mình cho Chúa, cũng là những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Ơn gọi không khởi đầu với con người và cũng không được kết thúc bởi con người. Chính Thiên Chúa là sáng kiến của mọi ơn gọi và đặc biệt của ơn gọi dâng hiến; cũng chính Thiên Chúa là Đấng bảo vệ và phát triển ơn gọi dâng hiến. Ơn gọi dâng hiến là ơn gọi của tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Tình yêu không triển nở, sẽ bị chết. Mỗi người sống đời dâng hiến hãy luôn cầu xin, để tình yêu của họ với Thiên Chúa và con người luôn phát triển. “Xin Chúa làm cho con yêu Chúa và yêu con người”.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bí tích và phép lạ khác nhau như thế nào?
2. Bạn có năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể không? Tại sao?
3. Xin bạn chia sẻ tâm tình và kinh nghiệm thiêng liêng của bạn với Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.

LM Phạm thanh Liêm

ĐGH Phanxicô chọn sống trong Nhà khách Thánh Martha để không bị cách biệt

 ĐGH Phanxicô chọn sống trong Nhà khách Thánh Martha để không bị cách biệt

Thư ĐTC Phanxicô gửi cho một người bạn

 

(Vatican, 31-5-2013, CNA/EWTN News) – ĐGH Phanxicô kể cho bạn của ngài là Lm. Enrique Rodriguez rằng ngài sống một cuộc sống bình thường trong cương vị giáo hoàng và việc ngài quyết định không chuyển đến căn hộ Giáo hoàng là để không bị cách biệt.

“Tôi để mọi người trông thấy tôi và tôi sống một cuộc sống bình thường; tôi dâng Thánh lễ chung vào buổi sáng, dùng bữa trong phòng ăn với mọi người,…”, ngài viết cho bạn của ngài là trong lá thư đề ngày 15-5.

“Điều này rất tốt cho tôi và tránh cho tôi khỏi bị xa cách”, ngài giải thích.

ĐGH Phanxicô cũng kể cho bạn của ngài rằng ngài cố gắng giữ bản tính và cách ứng xử mà ngài đã có từ hồi ở Buenos Aires, vì cho dù tuổi tác ngài có thay đổi, ngài chắc chắn sẽ không lừa dối chính mình.

"Và cho dù tất cả có làm thay đổi cuộc sống của tôi", Đức Thánh Cha nói, "tôi vẫn thấy tốt và không đánh mất sự bình an sau sự kiện hoàn toàn ngạc nhiên, và tôi coi đây là món quà của Chúa".

Theo Nhật báo Argentina El Clarín, tờ báo đăng lá thư bằng tiếng Tây Ban Nha hôm 28-5, Cha Rodriguez nói trong một cuộc phỏng vấn trên Đài Phát thanh La Red La Rioja rằng Cha đã nhận được lá thư mà không có địa chỉ hồi âm.

“Điều đó làm tôi chú ý và tôi mở nó ngay lập tức, nó đem đến cho tôi một bất ngờ thú vị vì đó là thư của Đức Giáo hoàng, người tôi đã biết từ lâu”, Cha nói.

Cha Rodriguez đã nhận được lá thư ngay trước lúc cử hành Thánh lễ và Cha quyết định đọc nó sau khi kết thúc giờ chầu Thánh Thể, theo tờ El Clarín.

“Lá thư làm cho cộng đoàn vui đến nỗi mọi người đồng loạt vỗ tay sau khi tôi đọc xong lá thư”, Cha nói.

Đức Thánh Cha cũng nói với Cha Rodriguez rằng lá thư Cha viết cho ngài hôm 1-5 “đem lại cho ngài nhiều niềm vui” và rằng mô tả của Cha về ngày lễ quốc gia mang đến cho ngài một “làn gió mới”.

ĐGH Phanxicô giải thích rằng ngài không muốn sống trong Căn hộ Giáo hoàng vì nó làm cho ngài trở nên xa cách và rằng ngài chỉ đến đó để làm việc và thực hiện các cuộc tiếp kiến chung.

“Tôi vẫn sống trong Nhà khách Thánh Martha, là nhà khách dành cho các giám mục, linh mục và giáo dân.”

“Xin bạn cầu nguyện cho tôi và xin mọi người cầu nguyện cho tôi”, ngài viết.

Đức Thánh Cha cũng gửi lời chào của mình tới Carlos và Miguel.

“Xin Chúa Giêsu chúc lành cho các bạn và xin Đức Thánh Trinh Nữ gìn giữ các bạn.”

“Trong tình huynh đệ, Phanxiô.”

 

Jos. Tú Nạc, NMS

Trích từ Emty

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa

Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa

ROMA. Lúc 7 giờ chiều thứ năm 30-5-2013, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ đầu tiên kính Mình Máu Thánh Chúa tại thềm Đền thờ thánh Gioan Laterano và sau đó là cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa sau đó tiến về Đền thờ Đức Bà Cả.

Tham dự thánh lễ, có gần 20 HY, đông đảo các GM, cùng với các vị Giám Chức, LM và hàng ngàn tín hữu.

Trong bài giảng, ĐTC đặc biệt quảng diễn câu Chúa Giêsu nói với các môn đệ khi thấy đám đông dân chúng không có gì để ăn: ”Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9,13). Ngài nhận xét rằng:

”Đứng trước nhu cầu của đám đông, giải pháp của các môn đệ là mỗi người hãy nghĩ đến mình; giải tán dân chúng! Bao nhiêu lần các tín hữu Kitô chúng ta cũng bị cám dỗ như thế! Chúng ta không đảm trách những nhu cầu của người khác, để họ ra đi với câu nói đạo đức: ”Xin Chúa giúp đỡ bạn!”. Nhưng giải pháp của Chúa Giêsu đi theo một hướng đi khác, một hướng đi làm cho các môn đệ ngạc nhiên: 'chính các con hãy cho họ ăn đi”.

ĐTC giải thích rằng ”Lời mời gọi của Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ là ”chính các con hãy cho, hãy chia sẻ.”. Và họ đã chia sẻ 5 chiếc bánh và hai con cá. Nhưng chính những chiếc bánh và cá ấy, trong tay Chúa, đã làm cho đám đông được ăn no nê… Điều này có nghĩa là trong Giáo Hội, và cả trong xã hội, lời chủ yếu là chúng ta không được sợ hãi, nhưng hãy ”liên đới”, biết đặt những gì chúng ta có để Chúa sử dụng, đặt những khả năng khiêm hạ của chúng ta, vì chỉ trong sự chia sẻ, trao ban, cuộc sống chúng ta mới được phong phú, và mang lại nhiều hoa trái”.
Sau thánh lễ, ĐTC đã chủ sự cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa cùng với hàng ngàn tín hữu tiến bước trên quãng đường Merulana dài hơn 1 cây số, hướng về Đền thờ Đức Bà Cả. Đi đầu đoàn rước là thánh giá nến cao, rồi tới các huynh đoàn, Hiệp sĩ Thánh Mộ Jerusalem và Hiệp sĩ Malta, các nữ tu, tu sĩ, các Phó tế, LM, các giám chức, kinh sĩ Đền thờ Gioan Laterano GM, Hồng Y, các em bé mới rước lễ lần đầu, đoàn giúp lễ rồi tới chiếc xe có mặt nhật Mình Thánh Chúa với hai thầy Phó Tế quì chầu. ĐTC đầu trần, đi bộ theo sau cùng với hàng ngàn tín hữu, mặc dù trời gió lạnh.

Dọc đường, ca đoàn đảm trách các bài thánh ca, xen lẫn những lời cầu nguyện. Đoàn rước tiến hành trong 45 phút tới Đền thờ Đức Bà Cả. Tại đây, ĐTC và mọi người đã hát kinh Tantum ergo và ngài ban Phép lành Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. Trước khi rời lễ đài, ĐTC còn quì cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma.

Sau công đồng Vatican 2, thói quen rước kiệu Mình Thánh Chúa bị nhiều nơi bỏ qua vì chỉ muốn tập trung vào Thánh Lễ và coi nhẹ việc sùng kính Mình Thánh Chúa ngoài Thánh Lễ. Đức Gioan Phaolô 2 đã tái lập ở Roma việc rước kiệu Mình Thánh Chúa nhân lễ kính Mình Máu Thánh Chúa và các vị kế nhiệm ngài vẫn tiếp tục. (SD 30-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà thờ trên toàn thế giới sẽ cùng chầu Thánh Thể với Đức Giáo hoàng

Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà thờ trên toàn thế giới sẽ cùng chầu Thánh Thể với Đức Giáo hoàng

EMTY (Vatican City, 28-5-2013, AsiaNews) – “Hàng ngàn ngàn” nhà thờ chính toà, giáo xứ và dòng tu khắp các châu lục trên toàn thế giới “lần đầu tiên trong lịch sử” sẽ cùng lúc tham dự giờ chầu Thánh Thể với ĐGH Phanxicô vào chiều Chúa Nhật 2-6 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Giờ chầu sẽ bắt đầu lúc 5 giờ chiều giờ Roma, tức 5 giờ sáng tại quần đảo Cook, Samoa và Honolulu; 3 giờ chiều tại Reykiavik, Iceland; 10 giờ đêm tại Việt Nam; nửa đêm tại Hàn Quốc; rạng sáng ngày 3-6 tại Papua New Guinea, quần đảo Solomon, Agana in Guam của Châu Đại Dương…

“Đây sẽ là một giờ cầu nguyện dành cho mọi thành phần và nâng đỡ niềm tin cho tất cả mọi người”, một “Giờ chầu Thánh Thể Toàn cầu” cho Năm Đức Tin, theo Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella và Đức Tổng Giám mục José Octavio Ruiz Arenas, là Chủ tịch và Thư ký Hội đồng Giáo hoàng về Tái Truyền giảng Tin Mừng, khi các ngài giới thiệu sự kiện này hôm 28-5 tại Vatican.

Hai vị giám chức cũng giới thiệu một sự kiện thứ hai, “Ngày Cử hành Tin Mừng Sự Sống”, với tiêu đề “Tin tưởng có thể giúp họ có được sự sống” (Believing May They Have Life), tập trung vào việc thăng tiến, tôn trọng và bảo vệ phẩm giá sự sống con người.

Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ ý cầu nguyện cho giờ chầu này. Đó là:

1. Cầu cho Giáo Hội trên toàn thế giới và đang hiệp nhất ngày hôm nay trong giờ chầu Thánh Thể này như là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Xin Chúa giúp Giáo Hội biết vâng phục lắng nghe hơn bao giờ hết Lời của Ngài để có thể đứng trước thế giới bằng vẻ đẹp chưa từng có, không vết nhơ hay tì vết, nhưng là sự thánh thiện và không vương tội lỗi. Để qua sự loan báo trung thành của Giáo Hội, Lời Chúa vẫn có thể tạo âm vang như người mang lòng thương xót và có thể làm gia tăng tình yêu để mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho sự đau đớn và khổ cực, mang lại niềm vui và sự thanh thản.

2. Cầu cho những người trên thế giới đang sống trong cảnh nô lệ và là nạn nhân của chiến tranh, nạn buôn người, ma tuý và lao động nô lệ. Cầu cho những trẻ em và phụ nữ đang phải chịu tất cả các loại bạo lực. Xin cho tiếng kêu cứu trong câm lặng của họ có thể được nghe thấu bởi một Giáo Hội bén nhạy, để đang lúc trông lên Chúa Kitô chịu đóng đinh, Giáo Hội không quên những anh chị em bị bỏ rơi dưới sức nặng của bạo lực. Đồng thời, xin cho tất cả những ai đang gặp những tình huống bất ổn về kinh tế, nhất là những người thất nghiệp, già yếu, di dân, người vô gia cư, các tù nhân và những người bị gạt ra bên lề xã hội. Để lời cầu nguyện và sự quan tâm của Giáo Hội có thể làm họ được an ủi và nâng đỡ trong niềm hy vọng, sức mạnh và lòng can đảm khi bảo vệ phẩm giá con người.”

Tương tự, các sự kiện khác nhau liên quan đến Năm Đức Tin, cho đến nay “đã thu hút 4,3 triệu người hành hương”, bao gồm một “hội nghị về Tin Mừng Sự Sống” trong 2 ngày 15 và 16-6. Vào Chúa Nhật ngày 16-6, ĐGH Phanxicô sẽ cử hành Thánh lễ lúc 10:30 sáng với tất cả “những người của sự sống”.

Hội nghị sẽ cung cấp, cùng với sự kiện khác, bài giáo lý tại các nhà thờ khác nhau của Roma vào sáng thứ bảy với sự tham dự của những người thuộc 15 nhóm ngôn ngữ khác nhau.

Vào lúc 8:30 tối cùng ngày, một “cuộc rước nến trong thinh lặng sẽ được tổ chức tại Via della Conciliazione về vấn đề sự sống con người và giá trị vô hình của nó. Cuộc rước sẽ kết thúc tại Quảng trường Thánh Phêrô cùng với những chứng từ quan trọng. Cho đến nay, các nhóm quan trọng đã cam kết tham gia, đến từ Ý, Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản, Hungary, Romania, Tây Ban Nha, Pháp, Canada, New Zealand, Argentina, Anh, Bỉ, Slovakia, Costa Rica, Bồ Đào Nha và Úc.

Sẽ có các gia đình, các hội đồng giám mục, các giáo phận, các giáo xứ, các dòng tu, các chủng sinh, các tổ chức nhân đạo và các tổ chức y tế như Dòng Malta, các phong trào Giáo Hội, các nhóm sinh viên của các trường đại học, các hiệp hội khác nhau, từ Unitalsi cho đến Hội Chữ Thập Đỏ, các nhóm phò sự sống cũng như nhiều người quan tâm đến việc thăng tiến và bảo vệ sự sống không liên kết với bất cứ tổ chức cụ thể hoặc tôn giáo nào.”

Mai Trang

Giáo Hội là đại gia đình của Thiên Chúa, trong đó tín hữu sống kinh nghiệm tình yêu và lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa

Giáo Hội là đại gia đình của Thiên Chúa, trong đó tín hữu sống kinh nghiệm tình yêu và lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa

Giáo Hội là đại gia đình của Thiên Chúa, trong đó tín hữu sống kinh nghiệm tình yêu và lòng xót thương và luôn luôn tha thứ của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với hơn 100,000 tín hữu v du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 29 tháng 5-2013.

Như thường lệ xe díp đã chở Đức Thánh Cha đi một vòng qua các lối đi giữa quảng trường để ngài chào tín hữu và du khách. Sau khi làm dấu thánh giá Đức Thánh Cha đã khen ngợi mọi người can đảm đương đầu với trời mưa. Tuy nhiên sau đó trời từ từ sáng hơn và có nắng. Trong số các nhóm tín hữu cũng một vài tín hữu Việt Nam đến từ Hoa Kỳ, Pháp và Thụy Sĩ, trong đó có cả các anh chị em không công giáo. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu loạt bài giáo lý về sứ vụ của Giáo hội, là mầu nhiệm mà chúng ta tất cả sống mỗi ngày và chúng ta là thành phần. Trước hết Giáo Hội như là gia đình của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha nói: Trong các tháng qua, hơn một lần tôi đã quy chiếu dụ ngôn người con hoang đàng, hay đúng hơn người cha thương xót (x. Lc 15,11-32). Người con thứ bỏ nhà cha, và phung phí tất cả rồi quyết định trở về, bởi vì anh nhận ra rằng mình đã sai lầm, nhưng anh không coi mình xứng đáng là con nữa và nghĩ rằng mình chỉ có thể được tiếp nhận như là tôi tớ thôi. Người cha, trái lại, chạy ra gặp anh, ôm hôn anh và trả lại cho anh phẩm giá là con và làm lễ mừng anh trở về. Giống như các dụ ngôn khác của Phúc Âm, dụ ngôn này chỉ cho chúng ta thấy rõ dự định của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đức Thánh Cha đưa ra câu hỏi và giải thích dự án đó như sau: Dự án đó của Thiên Chúa là gì? Đó là làm cho chúng ta tất cả trở thành con cái của Ngài trong một gia đình duy nhất, trong đó từng người trong chúng ta cảm thấy Ngài gần gũi và được Ngài yêu thương, như trong dụ ngôn của Phúc Âm, cảm thấy hơi ấm gia đình của Thiên Chúa. Trong chương trình vĩ đại này chúng ta tìm thấy nguồn gốc của Giáo Hội. Giáo Hội không phải là một tổ chức nảy sinh từ sự thỏa thuận của vài người, nhưng – như Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhắc lại nhiều lần – Giáo Hội là công trình của Thiên Chúa, nảy sinh từ chính chương trình tình yêu đó và được thực hiện từ từ trong dòng lịch sử. Giáo hội nảy sinh từ ước muốn của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người bước vào sự hiệp thông với Người, bước vào tình bạn của Người, còn hơn thế nữa tham dự vào chính sự sống thiên linh của Người như là con cái Người. Chính từ ”Giáo Hội” tiếng Hy lạp là ”ekklesia” có nghĩa là ”triệu mời”. Thiên Chúa triệu vời chúng ta, thúc đẩy chúng ta ra khỏi khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa, ra khỏi khuynh hướng khép kín trong chính mình, và Người mời gọi chúng ta là thành phần gia đình của Người. Việc mời gọi ấy có nguồn gốc trong chính sự tạo dựng. Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta để chúng ta sống trong một tương quan tình bạn sâu xa với Người, và cả khi tội lỗi đã bẻ gẫy tương quan đó với Người, với tha nhân và với các thụ tạo, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Đức Thánh Cha định nghĩa lịch sử cứu độ như sau: Toàn lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa đi kiếm tìm con người, cống hiến cho con người tinh yêu của Ngài và tiếp nhận con người. Thiên Chúa đã kêu gọi ông Abraham là cha của một đám đông, Người đã chọn dân Israel để ký kết một giao ước bao gồm tất cả mọi người, và đến thời viên mãn đã gửi Con của Người đến để chương trình tình yêu thương va ơn cứu độ của Người được thực hiên trong một giao ước mới và vĩnh cửu với toàn nhân loại. Khi đọc các sách Phúc Âm, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu quy tụ chung quanh Người một cộng đoàn nhỏ tiếp đón lời Người, theo Người, chia sẻ con đường của Người, trở thành gia đình của Người, và với cộng đoàn ấy Người chuẩn bị và xây dựng Giáo Hội Người. Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha hỏi tiếp: Như thế Giáo Hội nảy sinh ở đâu? Giáo Hội nảy sinh từ cử chỉ tột đỉnh tình yêu thương của Thập Giá, từ cạnh sườn rộng mở của Chúa Giêsu, từ đó máu và nước chảy ra, biểu tượng cho các Bí Tích Thánh Thể và Rửa Tội. Trong gia đình của Thiên Chúa, trong Giáo Hội nhựa sống là tình yêu thương của Thiên Chúa, được cụ thể hóa trong việc mến Chúa và yêu người, yêu tất cả mọi người không phân biệt và đong đếm. Giáo Hội là gia đình trong đó người ta yêu thương nhau và được yêu thương. Khi nào Giáo Hội được biểu lộ ra? Chúng ta đã cử hành cách đây hai Chúa Nhật rồi: Giáo Hội được biểu lộ ra, khi ơn Chúa Thánh Thần tràn đầy con tim của các Tông Đồ và thúc đẩy các vị đi ra khỏi Nhà Tiệc Ly và bắt đầu con đường loan báo Tin Mừng, phổ biến tình yêu của Thiên Chúa. Gợi lại sự kiện nhiều người ngày nay chấp nhận Chúa Kitô nhưng lại không muốn chấp nhận Giáo Hội, Đức Thánh Cha nói: Cả ngày nay nữa cũng còn có người nói: ”Chúa Kitô thì được, nhưng Giáo Hội thì không”. Cũng như những người nói ”Tôi tin Thiên Chúa nhưng không tin các linh mục”. Nhưng mà chính Giáo Hội đem chúng ta tới với Chúa Kitô, và Chúa Kitô đưa chúng ta tới với Thiên Chúa; Giáo Hội là đại gia đình các con cái của Thiên Chúa. Chắc chắn cả Giáo Hôi cũng có các khía cạnh nhân loại: nơi những người tạo thành Giáo Hội, các Chủ chăn và các giáo dân có các khuyết điểm, bất toàn, tội lỗi. Cả Đức Giáo Hoàng cũng có các tội lỗi và biết bao nhiêu tội lỗi, nhưng điều xinh đẹp đó là khi chúng ta nhận ra mình là những người tội lỗi, thì chúng ta tìm thấy lòng thương xót của Thiên Chúa, là Đấng luôn tha thứ. Chúng ta đừng quên điều đó: Thiên Chúa luôn luôn tha thứ và tiếp nhận chúng ta trong tình yêu tha thứ và xót thương của Người. Có người nói rằng tội lỗi là việc xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng cũng là một cơ may khiêm nhường để nhận ra một điều xinh đẹp khác nữa: đó là lòng xót thương của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nghĩ tới điều đó. Rồi Đức Thánh Cha kết thúc bài huấn dụ như sau: Ngày nay chúng ta hãy tự vấn: tôi yêu Giáo Hội bao nhiêu rồi ? Tôi có cầu nguyện cho Giáo Hội không? Tôi có cảm thấy mình là thành phần của gia đình Giáo Hội không? Tôi làm gì để cho cộng đồng, trong đó mỗi người cảm thấy được tiếp đón và hiểu biết, cảm thấy lòng xót thương và tình yêu của Thiên Chúa canh tân cuộc sống? Đức tin là một ơn và là một hành động liên quan tới chúng ta một cách riêng rẽ, nhưng Thiên Chúa mời gọi chúng ta cùng nhau sống đức tin ấy như gia đình, như Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu xin Chúa một cách đặc biệt trong Năm Đức Tin này để cho các cộng đòàn của chúng ta, để toàn thể giáo Hội, luôn ngày càng là các gia đình đích thật sống và đem hơi ấm của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chào các đoàn hành hương nói tiếng Pháp Đức Thánh Cha khuyến khích họ yêu mến Giáo Hội như Chúa Giêsu đã yêu thương, hiến mạng sống cho Giáo Hội, thông truyền tình yêu của Người cho Giáo Hội, và đừng ngần ngại bênh vực Giáo Hội, xả thân cho Giáo Hội, phục vụ Giáo Hội và khiến cho Giáo Hội trở thành huynh đệ và biết tiếp đón hơn. Với các tín hữu nói tiếng Anh ngài cầu chúc họ luôn lớn lên trong tình yêu đối với Chúa Kitô và đại gia đình của Người là Giáo Hội. Với các tín hữu Ba Lan Đức Thánh Cha đặc biệt chào các bạn trẻ tham dự buổi canh thức tại trại hè Lednica ngày mùng 1 tháng 6 này về đề tài tình hiền phụ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là mẫu gương của mọi tình hiền phụ trần gian. Đức Thánh Cha khuyến khích người trẻ cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho mình một người cha trần thế sinh ra, dưỡng dục, nuôi nấng, yêu thương mình, vì thế phải cầu nguyện cho các vị, cả khi các tương quan giữa cha con không đựơc tốt đẹp. Đặc biệt Đức Thánh Cha nhắn nhủ các bạn trẻ đừng sợ hãi là cha gia đình, sinh con cái, và cũng là cha tinh thần cho các anh chị em khác. Vì ngày thứ năm là lễ kính Mình Màu Thánh Chúa Giêsu Đức Thánh Cha mời gọi mọi người tham dự thánh lễ ngài cử hành lúc 7 giờ chiều tại thềm đền thờ thánh Gioan Laterano là nhà thớ chính tòa của giáo phận Roma, và cuộc kiệu và chầu Thánh Thể sau đó tại đền thờ Đức Bà Cả. Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người. Trong số các Hồng Y và Giám Mục lên chào Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Paolo Romeo Tổng Giám Mục Palermo. Đức Hồng Y đã tặng Đức Thánh Cha một mặt nhật có thánh tích của tân Chân phưởc Linh Mục Giuseppe Puglisi mới được tôn phong ngày 25 tháng 5 vừa qua. Linh Tiến Khải- Vatican Radio

XÓA BỎ « CÁC TRẠM HẢI QUAN MỤC VỤ »

XÓA BỎ « CÁC TRẠM HẢI QUAN MỤC VỤ »

Xảy ra điều gì nếu một bà mẹ độc thân muốn xin rửa tội cho con mình ? Không tính đến những phí tổn của các nghi thức, cung cấp giấy tờ : nhiều ngăn trở, tệ hơn, nhiều « trạm hải quan » mục vụ, Đức Thánh Cha đã lấy làm tiếc như thế trong thánh lễ hôm 25 tháng 5/2013. Đối với ngài, Kitô hữu không được là « người kiểm soát đức tin », nhưng là « người tạo điều kiện dễ dàng » cho đức tin.

Đức Thánh Cha đã giải thích đoạn Tin Mừng của ngày, trong đó các môn đệ ngăn không cho các trẻ em đến với Chúa. Các ông muốn « một sự chúc lành chung chung và rồi xin mọi người ra ngoài ». Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã bực mình : « Hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy. Đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng ».

Trạm hải quan mục vụ

Các Tông đồ không làm điều đó « do tính hung dữ » : họ chỉ muốn giúp Chúa Giêsu, như ở Giêricô họ đã tìm cách làm cho người mù im miệng. Thái độ của họ có nghĩa : « nghi thức lễ tân không cho phép điều đó : đây là Ngôi Hai của Ba Ngôi Thiên Chúa ! » Đối với Đức Thánh Cha, « nhiều Kitô hữu » đã hành động như thế.

Đức Thánh Cha đã đưa ra ví dụ về đôi bạn sắp cưới đến trình diện ở văn phong thư ký của một giáo xứ để xin kết hôn và, thay vì « sự nâng đỡ hay lời chúc mừng », họ lại nghe nói đến « phí tổn của nghi thức » hay « giấy tờ ».

Cũng thế, một người mẹ độc thân đến một giáo xứ, xin rửa tội cho con mình và rồi được nghe câu trả lời từ « một người Kitô hữu » : không, « bà không thể, ba phải kết hôn ».

« Hãy nhìn người phụ nữ trẻ này đã can đảm đi đến cùng việc mang thai của mình… Chị ta gặp được gì ? Một cánh cửa khép kín ». Đối với Đức Thánh Cha, « đó không phải là một nhiệt thành mục vụ tốt. Nó làm xa rời Chúa, điều đó không mở ra những cánh cửa ».

« Chúa Giêsu đã thiết lập bảy phép Bí Tích » và bằng thái độ này, người Kitô hữu « thiết lập bí tích thứ tám, bí tích hải quan mục vụ ».

Đức Thánh Cha lấy làm tiếc vì nhiều khi người Kitô hữu trở nên « người kiểm soát đức tin thay vì trở thành người tạo điều kiện dễ dàng cho đức tin của người khác ». Đó là « cám dỗ chiếm hữu Chúa », một cám dỗ đã bắt đầu từ thời Chúa Giêsu, với các Tông đồ.

Đối với Đức Thánh Cha, thái độ hải quan mục vụ này « không giúp ích cho người ta, cho dân Chúa ». Trái lại, thái độ tốt lành, đó là phục vụ đức tin : « tạo điều kiện dễ dàng cho đức tin, làm nó lớn lên, giúp nó tăng trưởng ».

Đức tin của dân Chúa là « một đức tin đơn sơ » : có lẽ họ không biết giải thích Đức Maria là ai, « điều này cần hỏi thần học gia ». Nhưng ai muốn « biết làm thế nào yêu mến Đức Maria », thì chính « dân Chúa » sẽ dạy cho biết điều đó « cách tốt nhất và đẹp nhất ».

Dân Chúa « luôn biết đến gần để xin Chúa Giêsu điều gì đó ». Đức Thánh Cha kể câu chuyện về một người phụ nữ Argentina đến gặp một linh mục và xin chúc lành. Linh mục nói : bà hãy đi lễ ! Và ngài đã giải thích cho bà tất cả thần học về phép lành trong thánh lễ. Bà đáp : « À, cám ơn cha, vâng, thưa cha ». Nhưng khi vị linh mục đó đi rồi, thì bà ta đến  gặp một linh mục khác : Xin cha  chúc lành cho con ». « Tất cả những lời này đã không đi vào lòng của bà, vì bà có một sự cần thiết khác, sự cần thiết được Chúa chạm đến ».

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo ZENIT

Đức Thánh Cha phê bình nền văn hóa chỉ tìm an sinh thoải mái

Đức Thánh Cha phê bình nền văn hóa chỉ tìm an sinh thoải mái

VATICAN. Trong thánh lễ sáng thứ hai, 27-5-2013 tại Vatican, ĐTC Phanxicô phê bình thứ văn hóa chỉ tìm kiếm an sinh thoải mái và bị thu hút vì những gì làm tạm thời.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Nguyện đường nhà trọ Thánh Marta có ĐHY Philippe Barbarin, TGM giáo phận Lyon bên Pháp và Đức TGM Zygmunt Zimowski, người Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, với sự tham dự của các nhân viên Hội đồng này và sở kinh tế của Phủ Thống đốc Vatican.

ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm nói về chàng thanh niên giàu có không muốn bỏ mọi sự giàu sang để đi theo Chúa Giêsu, và ngài nhận định rằng sự giàu sang và của cải là một cản trở, làm cho hành trình tiến về nước Thiên Chúa trở nên khó khăn. Mỗi người chúng ta cũng có những thứ giàu sang, của cải ngăn trở chúng ta đến gần Chúa Giêsu trên đường đời. Vì thế chúng ta phải xét mình xem đâu là những thứ giàu sang ấy. ĐTC đặc biệt nói đến hai thứ ”giàu sang văn hóa”, trước tiên là thứ văn hóa tìm kiếm an sinh thoải mái, làm cho chúng ta bớt can đảm, trở nên lười biếng và ích kỷ hơn. Sự an sinh thoải mái này là một thứ ‘thuốc mê’. Trong não trạng đó, người ta không muốn có hơn 1 đứa con vì sợ không thể đi nghỉ hè, không thể đi nơi này nơi kia, hoặc không mua được nhà cửa hay tìm kiếm các thứ tiện nghi khác. Tiếp đến là sự thu hút của những gì là tạm bợ, tránh né những dấn thân chung kết. Người ta thích những gì là tạm bợ và không thích những đề nghị chung kết mà Chúa Giêsu đề ra. ĐTC nói: ”Tôi đã nghe có người muốn làm linh mục, nhưng không muốn kéo dài quá 10 năm.. Hoặc nhiều cặp kết hôn, tuy không nói ra, nhưng họ chỉ muốn kết hôn bao lâu tình yêu còn kéo dài, rồi sẽ tính sau”. Hai thứ giàu sang đó cản trở chúng ta tiến bước..Tôi nghĩ đến bao nhiêu người nam nữ đã bỏ quê hương của họ để đi làm thừa sai trọn đời: đó là một điều chung kết.. Nhưng tôi cũng nghĩ đến bao nhiêu người nam nữ đã bỏ nhà mình để kết hôn trọn đời; đây cũng là sự theo Chúa Giêsu cận kề! Đó là một điều chung kết!”. (SD 27-5-2013) G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đại Diện Tòa Thánh tố giác các vụ bách hại Kitô hữu

Đại Diện Tòa Thánh tố giác các vụ bách hại Kitô hữu

GENÈVE. Đại diện Tòa Thánh cạnh các tổ chức LHQ ở Genève, Đức TGM Silvano Tomasi, tố giác các cuộc bách hại các tín hữu Kitô trên thế giới.

Trong bài tham luận hôm 27-5-2013 tại khóa họp thứ 23 của Hội đồng đối thoại đối tác về nhân quyền của LHQ, Đức TGM Tomasi nói rằng ”Tòa Thánh và nhiều chính phủ dân chủ có dân chúng theo nhiều tôn giáo và truyền thống văn hóa khác nhau, rất quan tâm về những vụ vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo nói chung và những vụ tấn công liên tục và nhất loạt gần đây chống lại một số cộng đoàn Kitô. Những nghiên cứu đáng tin cậy đi tới kết luận kinh hoàng này là mỗi năm có hơn 100 ngàn Kitô hữu đã bị giết hại tàn bạo vì những liên hệ với tín ngưỡng của họ. Các tín hữu Kitô và tín đồ khác phải chịu những vụ cưỡng bách di cư, nơi thờ phượng của họ bị phá hủy, có những tín hữu bị hãm hiếp, lãnh tụ của họ bị bắt cóc như mới xảy ra tại Aleppo, Siria trong trường hợp ĐGM Yohanna Ibrahim và Boulos Yaziji”.

Đức TGM Tomasi cũng tố giác rằng nhiều vụ trong số những hành động nói trên xảy ra tại Trung Đông, Phi và Á châu, do thái độ cuồng tín, bất bao dung, khủng bố và do những đạo luật có tính chất loại trừ. Thêm vào đó một số nước Tây phương vốn có sự hiện diện của truyền thống Kitô giáo, người ta thấy có xu hướng nhắm gạt Kitô giáo ra ngoài lề đời sống công cộng, cố tình không biết đến những đóng góp của Kitô giáo về mặt xã hội và lịch sử, thậm chí họ còn cấm cản các cộng đồng tín ngưỡng không được thi hành những công tác xã hội”. Sau khi nhắc lại sự nhìn nhận của Hội đồng nhân quyền LHQ về sự đóng góp của tôn giáo, linh đạo và tín ngưỡng cho sự thăng tiến phẩm giá của con người, Đức TGM Tomasi khẳng định rằng Kitô giáo, cũng như các cộng đồng tín ngưỡng khác, đang phục vụ thiện ích đích thực của nhân loại. Thực vậy, các cộng đồng Kitô, với gia sản các giá trị và các nguyên tắc của mình, đã góp phần nhiều để giúp các cá nhân và dân tộc ý thức về căn tính và phẩm giá của họ”. Trong bối cảnh trên đây, Phái đoàn Tòa Thánh tại khóa họp đã nhắc lại một vài con số thống kê về sự phục vụ của Giáo Hội Công Giáo dành cho gia đình nhân loại không phân biệt chủng tộc hoặc tôn giáo. Trong lãnh vực giáo dục Giáo Hội đảm trách 70,544 vườn trẻ với 6,478,627 trẻ em; 92,847 trường tiểu học với 31,151,170 học sinh; 43,591 trường trung học với 17,793,559 học sinh. Ngoài ra Giáo hội cũng giáo dục 2,304,171 học sinh trung học cấp 3, và 2,338,455 sinh viên đại học. Trên thế giới, Giáo Hội đảm trách 5,305 nhà thương, 18,179 bệnh xá, 547 trại phong cùi, 17,223 nhà dưỡng lão, hoặc nhà dành cho người khuyết tật; 9,882 cô nhi viện, 11,379 ký nhi viện; 15,327 văn phòng tư vấn hôn nhân; 34,331 trung tâm phục hồi xã hội. (SD 28-5-2013) G. Trần Đức Anh OP –  Vatican Radio

Đức Thánh Cha phê bình nền văn hóa chỉ tìm an sinh thoải mái

Đức Thánh Cha phê bình nền văn hóa chỉ tìm an sinh thoải mái

VATICAN. Trong thánh lễ sáng thứ hai, 27-5-2013 tại Vatican, ĐTC Phanxicô phê bình thứ văn hóa chỉ tìm kiếm an sinh thoải mái và bị thu hút vì những gì làm tạm thời.

Đồng tế với ĐTC trong thánh lễ tại Nguyện đường nhà trọ Thánh Marta có ĐHY Philippe Barbarin, TGM giáo phận Lyon bên Pháp và Đức TGM Zygmunt Zimowski, người Ba Lan, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, với sự tham dự của các nhân viên Hội đồng này và sở kinh tế của Phủ Thống đốc Vatican.

ĐTC đã quảng diễn bài Phúc Âm nói về chàng thanh niên giàu có không muốn bỏ mọi sự giàu sang để đi theo Chúa Giêsu, và ngài nhận định rằng sự giàu sang và của cải là một cản trở, làm cho hành trình tiến về nước Thiên Chúa trở nên khó khăn. Mỗi người chúng ta cũng có những thứ giàu sang, của cải ngăn trở chúng ta đến gần Chúa Giêsu trên đường đời. Vì thế chúng ta phải xét mình xem đâu là những thứ giàu sang ấy.

ĐTC đặc biệt nói đến hai thứ ”giàu sang văn hóa”, trước tiên là thứ văn hóa tìm kiếm an sinh thoải mái, làm cho chúng ta bớt can đảm, trở nên lười biếng và ích kỷ hơn. Sự an sinh thoải mái này là một thứ ‘thuốc mê’. Trong não trạng đó, người ta không muốn có hơn 1 đứa con vì sợ không thể đi nghỉ hè, không thể đi nơi này nơi kia, hoặc không mua được nhà cửa hay tìm kiếm các thứ tiện nghi khác.

Tiếp đến là sự thu hút của những gì là tạm bợ, tránh né những dấn thân chung kết. Người ta thích những gì là tạm bợ và không thích những đề nghị chung kết mà Chúa Giêsu đề ra. ĐTC nói: ”Tôi đã nghe có người muốn làm linh mục, nhưng không muốn kéo dài quá 10 năm.. Hoặc nhiều cặp kết hôn, tuy không nói ra, nhưng họ chỉ muốn kết hôn bao lâu tình yêu còn kéo dài, rồi sẽ tính sau”. Hai thứ giàu sang đó cản trở chúng ta tiến bước..Tôi nghĩ đến bao nhiêu người nam nữ đã bỏ quê hương của họ để đi làm thừa sai trọn đời: đó là một điều chung kết.. Nhưng tôi cũng nghĩ đến bao nhiêu người nam nữ đã bỏ nhà mình để kết hôn trọn đời; đây cũng là sự theo Chúa Giêsu cận kề! Đó là một điều chung kết!”. (SD 27-5-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio