KITÔ HỮU VÀ CẢ TÍN HỮU HỒI AI CẬP BIẾT ƠN LỜI KÊU GỌI HÒA BÌNH CỦA ĐỨC THÁNH CHA

KITÔ HỮU VÀ CẢ TÍN HỮU HỒI AI CẬP BIẾT ƠN LỜI KÊU GỌI HÒA BÌNH CỦA ĐỨC THÁNH CHA

CAIRO: Cha Rafiq Reiche, phát ngôn viên của Hội Đồng Giám Mục Ai Cập, cho biết lời Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình và đối thoại giữa mọi thành phần xã hội Ai Cập đã được công bố trên mọi nhật báo và địa chỉ liên mạng.

Các Kitô hữu và cả tín hữu Hồi đã rất vui mừng biết ơn Đức Thánh Cha Phanxicô về lời kêu gọi nói trên, nhất là các lời cầu nguyện của ngài và của Giáo Hội hoàn vũ cho các nạn nhân của bạo lực và gia đình họ. Cha cho biết đã có nhiều cuộc biểu tình của các Anh em hồi giáo yêu cầu tái lập quyền của tổng thống Morsi. Đã có 40 nhà thờ, trong đó có 10 nhà thờ của Giáo Hội công giáo và 30 nhà thờ của các Giáo Hội chính thống, tin lành và chính thống Hy lạp bị cướp bóc và đốt phá, vài nhà thờ bị đốt phá bình địa. Theo cha thật khó mà tái tạo hòa giải, bởi vì đảng Các anh em hồi giáo và các lực lượng hồi giáo khác không tìm kiếm một giải pháp chính trị. Đại đa số dân muốn có một quốc gia Ai Cập hòa bình, trong khi một nhóm thiểu số đang phổ biến bạo lực và khủng bố cho tới các làng mạc xa xôi hẻo lánh trong vùng Thượng Ai Cập.

Trong một cuộc điện đàm với tổ chức Trợ Giúp các Giáo Hội Đau Khổ, Đức Cha Kyrillos William Samaan, Giám Mục giáo phận Copte công giáo Assiut, cho biết sự kiện ông Ayman Al-Zawahiri, lãnh tụ Al Qaeda vu khống các Kitô hữu đã cùng quân đội âm mưu lật đổ tổng thống Morsi, đã khiến cho nhiều cơ sở Kitô bị tấn công. Bên cạnh đó các vụ đụng độ giữa lực lượng an ninh và các đoàn biểu tình phò tổng thống Morsi làm cho nhiều người chết và bị thương, đã khiến cho các lực lượng hồi giận dữ trả thù trên các Kitô hữu.

Danh sách các nhà thờ và tu viện của các Giáo Hội Kitô bị tấn công, cướp phá và thiêu rụi ngày 14-8 dài thêm. Chỉ nội trong giáo phận Assiut đã có khoảng 30 nhà thờ bị tấn công khiến Assiut là giáo phận phải gánh chịu nhiều thiệt hại nhất. Các tín hữu hồi cũng đã tấn công tu viện Chúa Chiên Lành, nhiều hàng quán Kitô và thư viện của Hiệp Hội Thánh Kinh tin lành. Tuy nhiên, cũng có nhiều tín hữu hồi đứng ra bênh vực các Kitô hữu, và họ diễn tả gương mặt thật của xã hội Ai Cập, trong đó tín hữu hồi đa số và Kitô hữu thiểu số chung sống hiệp nhất với nhau. Đức Cha cũng cho biết tình hình của Kitô hữu đã khả quan hơn sau khi tổng thống Morsi bị quân đội bãi nhiệm. Đức Cha rất tiếc là các Anh em hồi giáo đã không tiếp nhận lời quân đội mời gọi hòa giải, vì họ tiếp tục mong muốn một nhà nước hồi giáo. Nhưng đó là điều mà đa số dân Ai Cập không muốn. Đức Cha hy vọng các Giáo Hội Kitô Ai Cập có thể tiếp tục cộng tác và góp phần vào tiến trình dân chủ hóa đất nước (SD RG 16-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

TUẦN LỄ TOÀN QUỐC CHO NGƯỜI DI CƯ VÀ TỊ NẠN TẠI AUSTRALIA

TUẦN LỄ TOÀN QUỐC CHO NGƯỜI DI CƯ VÀ TỊ NẠN TẠI AUSTRALIA

SYDNEY: Trong sứ điệp gửi cho Tuần lễ toàn quốc cho người di cư và tị nạn 19-25 tháng 8 năm 2013, các Giám Mục Australia khẳng định rằng người di cư và tị nạn diễn tả một vấn đề luân lý đạo đức, chứ không phải là vấn đề kinh tế.

Tuần lễ toàn quốc cho người di cư và tị nạn năm nay có chủ đề do Đức Thánh Cha Biển Đức XVI chọn là ”Di cư: cuộc hành hương của đức tin và niềm hy vọng”. Sứ điệp của các Giám Mục Australia có đoạn viết: ”Cộng đoàn công giáo có bổn phận thảo luận về vấn đề của người di cư và tị nạn. Nó không phải là vấn đề kinh tế hay gắn liền với nền an ninh quốc gia, mà là vấn đề luân lý đạo đức, liên quan tới hạnh phúc và các quyền bất khả xâm phạm của con người. Sự tôn trọng đối với người di cư tị nạn bao gồm các trách nhiệm nặng nề. Chính vì thế các cá nhân, các giáo xứ và tất cả mọi tổ chức công giáo đều phải đưa ra các chương trình gây ý thức và bênh vực quyền của người di cư tị nạn. Cần phải có các giải pháp hữu hiệu từ phía chính quyền địa phương cũng như toàn quốc để đáp ứng các nhu cầu tôn giáo của người di cư tị nạn, bởi vì nó là yếu tố nền tảng trong cuộc sống của từng người. Các Giám Mục ghi nhận rằng nhiều người di cư tị nạn là tín hữu công giáo thuộc các cộng đoàn sinh động trẻ trung, và có người đã từng là giáo lý viên. Vì thế giờ đây cần làm sao để họ có thể chia sẻ với các tín hữu khác sự phong phú đức tin của họ.

Duyệt xét nhiều lý do đã khiến cho họ phải di cư tị nạn như chiến tranh, nghèo đói, thất nghiệp, tai ương dịch tễ, bách hại đàn áp các Giám Mục Australia đã đề nghị hai giải pháp. Thứ nhất là sự cộng tác giữa các chính quyền quốc gia gốc của người di cư tị nạn và chính quyền các nước tiếp đón họ. Nhưng sự cộng tác này chỉ có thể được, nếu phẩm giá con người với các quyền bất khả nhượng của nó được coi như giá trị ưu tiên không thể thương lượng tại quê hương họ cũng như tại các nước họ đi tới. Đồng thời quyền nền tảng xin tị nạn phải được chấp nhận cho những ai lo sợ cho mạng sống của họ, và không được bỏ tù họ. Giải pháp thứ hai do Hội Đồng Giám Mục Australia đề ra là câu hỏi mà mỗi người phải đặt ra cho chính mình: ”Tôi có thể làm gì cho người di cư tị nạn?” Khi đó chúng ta sẽ đặt mình trong hoàn cảnh của họ và hiểu biết các khó khăn, các hy vọng của họ và có thể trợ giúp họ hữu hiệu hơn. Suy tư về di cư tị nạn như một cuộc lữ hành có nghĩa là ý thức rằng các anh chị em này đã bỏ quê hương nhà cửa của họ với đức tin và niềm hy vọng. Trong Năm Đức Tin này cần phải cầu nguyện để đức tin và niềm hy vọng linh hứng các cộng đoàn công giáo sống hiệp nhất và hiệp thông với người di cư tị nạn (SD 16-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CÁC GIÁM MỤC NIGER KÊU GỌI BẢO VỆ THIÊN NHIÊN

CÁC GIÁM MỤC NIGER KÊU GỌI BẢO VỆ THIÊN NHIÊN

NIAMEY: Nhân kết thúc tháng chay tịnh Ramadan, các Giám Mục Niger đã gửi sứ điệp cho các tín hữu Hồi và mời gọi tín hữu của mọi tôn giáo bảo vệ thụ tạo và thăng tiến môi sinh.

Các Giám Mục viết trong sứ điệp: ”Tín hữu hồi giáo, Kitô và tín hữu mọi tôn giáo khác, chúng ta tất cả đều có bổn phận làm việc như là tôi tớ của Đấng Toàn Năng, Chúa của đất trời, để bảo vệ thụ tạo, là một ơn quảng đại tuyệt vời Thiên Chúa ban để làm cho chúng ta hạnh phúc. Lễ kết thúc tháng chay tịnh Ramadan được cử hành giữa mùa đông, khi nhiều người dân Niger đang nỗ lực làm việc trong các cánh đồng và tin tưởng nơi một mùa gặt phong phú và quảng đại. Xin Thiên Chúa ban cho mọi gia đình hoa trái của công việc làm vất vả, và ban cho chúng ta mưa thuận gió hòa.”

Tiếp tục sứ điệp các Giám Mục Niger khẳng định rằng: ”Thiên Chúa kêu mời chúng ta cộng tác chặt chẽ với thụ tạo, bằng cách tôn trọng thiên nhiên, che chở nó khỏi những người tàn phá xấu xa, không chú ý tới gì khác ngoài lợi nhuận ích kỷ. Chúng tôi chào mừng mọi sáng kiến giúp che chở thụ tạo khỏi bàn tay tàn phá của con người, và chúng tôi khích lệ tất cả các nỗ lực gây ý thức cho các thế hệ mới đối với việc bảo vệ môi sinh”. Các Giám Mục Niger kết luận sứ điệp như sau: ”Chúng ta hãy cùng nhau canh tân tình bạn và sự thiện cảm giữa chúng ta, chúng tôi hết lòng cầu chúc anh chị em một ngày lễ hạnh phúc. Xin Thiên Chúa của Lòng Thương Xót ban cho từng người trong anh chi em hòa bình của con tim” (FIDES 8-8-2013).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI ẤN ĐỘ CỬ HÀNH NGÀY CHÚA NHẬT CÔNG LÝ

GIÁO HỘI ẤN ĐỘ CỬ HÀNH NGÀY CHÚA NHẬT CÔNG LÝ

NEW DEHLI: Nhân kỷ niệm 50 năm Đức Chận phước Giáo Hoàng Gioan XXIII công bố thông điệp ”Hòa bình dưới thế”, Ủy ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ đã phát động Ngày Chúa Nhật Công Lý, mừng vào Chúa Nhật sau lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời năm nay 2013 là 18-8, cũng là ngày độc lập của Ấn Độ.

Đức Cha Yvon Ambroise, Chủ tịch Ủy ban Công Lý và Hòa Bình, cho biết mục đích ngày Chúa Nhật Công Lý là mời gọi tín hữu suy tư về một trật tự thế giới mới, dựa trên các cột trụ sự thật, công lý, tình yêu thương và sự tự do; và lấy hứng từ nền văn hóa hòa bình mà Thông điệp mời gọi thực thi. Đơn thuốc hòa bình mà thông điệp cống hiến cho chúng ta rất đơn sơ: đó là thừa nhận phẩm giá con người, tôn trong các quyền của mỗi người trong tất cả mọi tương quan với nhau, đối thoại như dụng cụ giải quyết các xung khắc, lo lắng đối với các vụ tàn sát và tàn phá do chiến tranh gây ra. Thông điệp cũng yêu cầu chấm dứt nạn thi đua vũ trang. Và lời mời gọi này cũng hướng tới Ấn Độ, vì Ấn Độ là một trong các nước nhập cảng nhiều khí giới nhất, và là một trong 24 nước đã không ký vào Thỏa hiệp về việc hạn chế buôn bán vũ khí, do Liên Hiệp Quốc đề ra. Cho đến nay thỏa hiệp này đã được 70 nước ký nhận. Nó đòi buộc sự trong sáng trong việc mua bán vũ khí, và từ chối bán vũ khí cho các nước có nguy cơ chiến tranh.

Nhắc lại sự kiện Hội Đồng Giám Mục Ấn đã thành lập Ngày Chúa Nhật Công Lý hồi năm 1983, Đức Cha Ambrose cho biết mục đích là gây thức cho các cá nhân và tổ chức xã hội bổn phận thăng tiến công lý xã hội. Con đường duy nhất dẫn tới hòa bình là sống công bằng và tha thứ, khước từ bạo lực và báo oán. Chỉ có tình yêu thương mới có sức mạnh biến đổi xã hội.

Các Giám Mục Ấn cũng bầy tỏ âu lo đối với tình trạng xã hội Ấn hiện nay, trong đó chính trị và kinh tế loại trừ người nghèo, không thăng tiến môi sinh, coi con người như các chủ thể tiêu thụ, và vi phạm các quyền con người. Chính vì thế Chúa Nhật Công Lý là lời mời gọi mọi thành phần và tổ chức xã hội dấn thân thăng tiến việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. Các Giám Mục cũng xin các linh mục giảng về công lý và các quyền con người trong các thánh lễ (SD 16-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Giám Mục Tôma Nguyễn Văn Tân về Nhà Cha

 Đức Giám Mục Tôma Nguyễn Văn Tân Giáo Phận Vĩnh Long về Nhà Cha

Duc cha Toma Nguyen Van Tan

Đức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân (Giám mục Chánh tòa Giáo phận Vĩnh Long) đã qua đời đột ngột vào lúc 21h00 tối ngày 17/08/2013, do bị đột quị, hưởng thọ 73 tuổi.

Ngài sinh ngày 27/12/1940 tại Đại Phước, Càng Long tỉnh Trà vinh thuộc họ đạo Bãi Xan, Giáo phận Vĩnh Long.

Ngài được thụ phong Linh mục ngày 21/12/1969 tại Nhà thờ Chánh tòa Vĩnh Long ở tuổi 29.

Sáng ngày 10/05/2000, Tòa Thánh Vatican loan báo quyết định của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Giám mục phó Giáo phận Vĩnh Long. Ngài được Đức Cha Giacôbê Nguyễn Văn Mầu tấn phong Giám mục tại Vĩnh Long ngày 15/08/2000 cùng 2 vị phụ phong là Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn và Đức Cha Raphael Nguyễn Văn Diệp.

Ngài chọn khẩu hiệu Giám mục là "Ambulate in Dilectione" (nghĩa là: "Hành trình trong Đức Ái").

Ngày 03/07/2001 ngài kế vị theo Giáo Luật và trở thành Giám mục Chánh tòa Giáo phận Vĩnh Long.

Cũng trong sáng ngày 17/08/2013, Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, SDB (Giám mục Chánh tòa Giáo phận Bùi Chu) cũng qua đời vì bị nhồi máu cơ tim.

Như vậy là trong một ngày 17/08/2013 có đến 2 vị Giám mục Chánh tòa đương chức của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam đã được Chúa gọi về.

Xin anh chị Legio, trong niềm tin tưởng vào Đức Kitô Phục Sinh, hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn Đức Cha Tôma.

Trích từ HĐGMVN

ĐỨC CHA GIUSE HOÀNG VĂN TIỆM, GIÁM MỤC BÙI CHU QUA ĐỜI

ĐỨC CHA GIUSE HOÀNG VĂN TIỆM, GIÁM MỤC BÙI CHU QUA ĐỜI

Đức Cha Hoàng văn Tiệm 1

BÙI CHU: Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, tu sĩ dòng Salesien, Giám Mục Bùi Chu, đã qua đời vì bị nhồi máu cơ tim sáng thứ bảy ngày 17-8-2013, thọ 75 tuổi.

Tin trên cũng đã được Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli Đại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam gửi cho Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và bộ Truyền Giáo. Đức Tổng Giám Mục Girelli cho biết thánh lễ an táng Đức Cố Giám Mục Hoàng Văn Tiệm sẽ được cử hành vào lúc 8 giờ rưỡi sáng ngày thứ tư 21 tháng 8 tại nhà thờ chính tòa Bùi Chu.

Đức Cha Hoàng Văn Tiệm sinh năm 1938 tại Hải Sơn, Hải Hậu, Nam Định. Ngài theo học tại Tiểu Chủng Viện Bùi Chu, gia nhập dòng Don Bosco, và vào nhà tập năm 1960, sau đó theo học Triết và Thần học tại Học viện Salesien ở Cremisan bên Italia và Bếtlehem bên Israel, rồi được thụ phong Linh Mục năm 1973. Sau khi về nước ngài làm giáo sư Thần học luân lý tại Học viện Don Bosco Đà Lạt, rồi làm chánh xứ Thanh Bình trong 20 năm. Năm 1995 ngài trở lại làm giáo sư Thần học luân lý tại đại chủng viện Hà Nội. Năm 2001 ngài được Đức Gioan Phaolô II chỉ định làm Giám Mục Bùi Chu.

Giáo phận Bùi Chu hiện có hơn 380 ngàn giáo dân, chiếm hơn 28% trên tổng số hơn 1.3 triệu dân.

Toàn ban Việt Ngữ xin chân thành phân ưu với Đức Cha Phó Tôma Vũ Đình Hiệu và toàn đại gia đình giáo phận Bùi Chu.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

ĐỨC THÁNH CHA CHIA BUỒN VỚI GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ ĐẮM PHÀ TẠI CẢNG CEBU BÊN PHILIPPINES

ĐỨC THÁNH CHA CHIA BUỒN VỚI GIA ĐÌNH CÁC NẠN NHÂN VỤ ĐẮM PHÀ TẠI CẢNG CEBU BÊN PHILIPPINES

VATICAN: Đức Thánh Cha Phanxicô bầy tỏ đau buồn trước tin đắm phà ngoài cảng Cebu bên Philippines khiến cho hơn 200 người bị mất tích. Ngài gần gũi gia đình các nạn nhân và phó thác cho lòng thương xót Chúa những người đã qua đời.

Trong điện tín, do Đức Hồng Y Tarcisio Bertone ký gửi Đức Cha Jose Palma Tổng Giám Mục Cebu, Đức Thánh Cha cầu xin Chúa ban ơn can đảm và an ủi gia đình các nạn nhân. Tai nạn đã xảy ra đêm 16-8-2013 khi chiếc phà đụng vào một chiếc tầu chở hàng đang vào cảng. Trên phà có 841 người, nhưng đã chỉ có 600 người sống sót.

Philippines là quốc gia có tới 7,000 đảo, và phương tiện di chuyển thông dụng nhất là phà. Trong quá khứ cũng đã xảy ra nhiều vụ đắm phà. Trầm trọng nhất là vụ đắm phà năm 1987 ngoài khơi Manila khiến cho 4,300 người thiệt mạng (RG 17-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

“Ta muốn lửa ấy cháy lên”

“Ta muốn lửa ấy cháy lên”

Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử dụng những từ ngữ mà xem ra có một ý nghĩa khác với ý nghĩa chúng ta thường hiểu. Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ và Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ qua được của Ngài khi xuống trần gian: “Thầy đến để mang lửa xuống thế gian và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng là đến đem sự chia rẽ”.

Thật là những quả quyết khó hiểu nếu không phải do chính chúa nói ra, và nếu chúng ta có quyền thay đổi Lời Chúa thì có lẽ chúng ta đành bỏ đi những lời khó hiểu này rồi. Chúa Giêsu nói đến lửa nào đây? Ngài nhắc đến phép rửa sắp phải chịu, Phép rửa nào đây? Con người khao khát hòa bình, nhưng Chúa lại nói sứ mạng của Ngài mang đến sự chia rẽ, vậy sự chia rẽ nào đây?

Trong vài phút chia sẻ này chúng ta không thể thực hiện một công việc bác họ chú giải, nhưng chỉ cố gắng nhìn tổng quát những Lời Chúa muốn nói với chúng ta. Lửa trong ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu ước chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Môisen được Thiên Chúa Toàn Năng hiện ra nơi bụi gai dưới hình thức lửa bốc cháy. Lửa này có sức mạnh biến đổi, thanh luyện con người để hình ảnh của Thiên Chúa được chiếu sáng rõ ràng hơn nơi chính mình.

Sức mạnh cứu rỗi của Chúa Giêsu trên trần gian này không khác gì hơn là làm cho Thiên Chúa được hiện diện trong cuộc sống con người, là biến đổi và thanh tẩy con người khỏi vết nhơ tội lỗi, để con người được tỏa chiếu sáng hơn hình ảnh của Thiên Chúa: “Thầy đến để mang lửa” hay đúng hơn “để gieo lửa”. Hành động gieo lửa nổi lên một sự tích cực nhiều hơn là từ ngữ “mang”. Chúa Giêsu không chỉ mang xuống mà Ngài còn ra sức tận dụng hết sức mình, tận dụng hết khả năng của Ngài để gieo rắc lửa đó xuống trần gian giữa những gian nan thử thách, chống đối không tin của con người. Sứ mạng này Chúa phải chu toàn, không thể nào tránh né được.

Chúng ta còn nhớ vào khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ma quỉ đã đến cám dỗ Chúa hãy quì xuống tôn thờ ma quỉ để rồi mọi vinh quang, mọi vương quốc trên trần gian này được trao cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ không để cho ma quỉ làm Ngài lạc hướng, vì mục đích đời Ngài chỉ làm cho con người tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Sứ mạng của Chúa lúc nào cũng phải là làm cho Thiên Chúa được nhìn nhận, được tôn thờ và được tôn vinh nơi con người, dù phải trả giá thật đắt là phải hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá.

Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Thầy còn một Phép Rửa phải chịu”. Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: “Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu”.

Rõ ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ “Phép Rửa”. Chúa Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người. Đây không phải là sứ mạng dễ dàng, một sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, một sứ mạng đòi Chúa phải hy sinh chính mạng sống mình và đổ máu mình ra trên thập giá và Ngài mời gọi các môn đệ hãy đi qua, đi ngang con đường này.

Trong một ngôn ngữ dễ hiểu hơn, Ngài đã mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai không vác lấy thập giá mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”. Thật là những lời vừa mời gọi, vừa cảnh tỉnh mà chúng ta không thể nào lơ là bỏ qua được.

Cuộc đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu. Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ khác đó a dua hoạt động cho ma quỉ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.

Người đồ đệ của Chúa không thể nào đi con đường khác con đường mà Chúa đã đi qua, và sứ mạng mà Chúa muốn cho mọi người đồ đệ thực hiện cũng là sứ mạng gieo lửa xuống trần gian qua cuộc đời chịu đóng đinh với Chúa, chịu Phép Rửa của Chúa. Thử hỏi chúng ta có sẵn sàng chưa? Chúng ta có đủ can đảm chưa? Và chúng ta muốn theo Chúa, chúng ta xin được theo Chúa trọn đời nhưng chúng ta có biết rõ điều chúng ta xin hay không?

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, cho mỗi người chúng ta được sẵn sàng hơn để đón nhận lửa Thiên Chúa đến trong tâm hồn và để cho lửa đó đốt cháy những tật xấu nơi con người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn, cho chúng ta được sẵn sàng chịu phép rửa của Chúa, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận chia rẽ, tách rời khỏi những gì cản trở ta theo Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

Veritas Radio

Ánh sáng và bóng tối

Ánh sáng và bóng tối

Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?”. Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?”. Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?”. Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.

Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?

Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới”. – Ông không thắp đèn lên sao?”. – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”. Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.

Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.

Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”. Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.

Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông… ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.

Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.

Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.

Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?

2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?

3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

NGỌN LỬA TÌNH YÊU (2)

NGỌN LỬA TÌNH YÊU (2)

Chúa Giêsu nói với các môn đệ về sứ mạng của Ngài là: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy cháy bùng lên!”.

Lửa ấy là gì?

Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).

Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).

Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).

Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.

Dùng hình ảnh lửa, Chúa Giêsu có ý nói đến nội dung và đặc điểm sứ mạng của mình. Lửa bừng cháy và tỏa sức nóng, lửa đem lại ánh sáng xua tan bóng tối, thiêu đốt thành tro, nung nấu tan chảy và làm cho biến đổi.

Bằng ẩn dụ lửa, Chúa Giêsu gợi lên nội dung sứ mạng của mình là mang ánh sáng chân lý từ trời cao ném vào mặt đất, để soi sáng con đường cứu nhân loại thoát khỏi bóng tối nô lệ tội lỗi, đồng thời thiêu hủy sự dữ và thanh luyện con người nên tinh tuyền.

Khởi đầu sứ vụ, trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng về lửa được Ngài ném vào thế gian. Đó là lửa của những mối phúc (x.Mt 5,3-12; Lc 6,20-26), đặc biệt lửa của những phép lạ, lòng khoan dung tha thứ tội lỗi và của trái tim nhân từ cảm hóa kẻ lầm lạc.

Người môn đệ cũng phải tiếp tục mang lửa của Chúa Giêsu vào trần gian bằng cách loan báo và làm chứng từ chính cuộc sống bừng lửa của mình. Lửa của những mối phúc thật. Lửa của sự sống phục sinh. Lửa đã tỏa sáng và thanh luyện những người bước theo Chúa Giêsu.

“Thầy ước mong ngọn lửa ấy bùng lên!”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.

Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.

Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.

Thế giới này được ví như một ngôi đền thờ rộng lớn, mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.

Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng trong tâm hồn chúng ta.Trách nhiệm mỗi người là thắp sáng ngọn lửa ấy bằng đời sống chứng nhân.

Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.

Thông điệp mới của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tựa đề “Ánh sáng đức tin” muốn nói truyền thống của Hội thánh, cho thấy hồng ân lớn lao do Chúa Giêsu mang đến, được trình bày trong Tin mừng thánh Gioan: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12, 46). Cả thánh Phaolô cũng diễn tả tương tự như sau: “Xưa Thiên Chúa đã phán: ‘Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm’, Ngài cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi” (2Cr 4, 6).

“Ai tin, sẽ thấy” vì ánh sáng đức tin xuất phát từ Thiên Chúa và vì nó có khả năng chiếu rọi mọi khía cạnh trong cuộc hiện sinh của con người, nên nó diễn tiến không những từ quá khứ, từ ký ức về cuộc đời Chúa Giêsu, mà còn từ tương lai khi nó mở ra nhiều chân trời rộng lớn.

Một vài trích dẫn sau đây từ Thông điệp “Ánh sáng đức tin” cho thấy Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng, ai tin vào Người sẽ sống trong ánh sáng của Sự Thật và Tình Yêu.

“Ánh sáng đức tin có một đặc tính khác thường, vì có thể soi sáng toàn thể hiện hữu của nhân sinh. Bởi có một năng lực như thế, nguồn cội của ánh sáng đức tin không thể phát xuất từ chính chúng ta, mà phải đến từ một Nguồn nguyên thủy nhất, xét cho cùng, là đến từ chính Thiên Chúa. Đức tin nảy sinh trong cuộc gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống, Đấng kêu gọi chúng ta và mạc khải Tình yêu của Ngài cho chúng ta, một tình yêu đi bước trước chúng ta và làm nền tảng cho ta đứng vững và xây dựng cuộc sống mình”.

“Các tác giả Phúc âm đã đặt giờ Chúa chịu treo trên Thánh Giá như là chóp đỉnh của cái nhìn đức tin, vì trong giờ ấy chiếu tỏa rực rỡ chiều cao và chiều rộng của Tình yêu Thiên Chúa. Thánh Gioan đưa ra lời chứng long trọng của ngài khi ngài cùng với Đức Mẹ, Mẹ của Đức Giêsu chiêm ngắm Đấng Bị Đâm Thâu (x. Ga 19, 37): “Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19, 35). Chính khi chiêm ngắm Đức Giêsu chịu chết mà đức tin của chúng ta được củng cố và có được một ánh sáng chói lọi, chính khi nó mạc khải cho chúng ta như một niềm tin vào Tình yêu không lay chuyển của Người dành cho chúng ta, một tình yêu có thể đi vào cái chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này, vốn không tự miễn chước sự chết để bộc lộ Người yêu thương ta dường nào, là một tình yêu có thể tin được. Tình yêu ấy bộc lộ ra trong toàn thể thắng vượt mọi nghi ngờ và cho phép ta đặt hoàn toàn tin cậy vào Đức Kitô.

“Nếu như tình yêu cần đến sự thật, thì sự thật cũng cần đến tình yêu. Tình yêu và sự thật không thể tách biệt nhau. Không có tình yêu, sự thật trở thành lạnh lùng, phi ngã vị, áp bức trên đời sống cụ thể của con người. Sự thật mà chúng ta tìm kiếm, sự thật đem lại ý nghĩa cho những bước đường ta đi, sự thật ấy sẽ soi chiếu chúng ta khi ta được tình yêu chạm đến. Ai yêu thương sẽ hiểu rằng tình yêu là kinh nghiệm sự thật, rằng chính tình yêu mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy toàn thể thực tại một cách mới mẻ, trong khi kết hiệp với người mình yêu”.

“Đức Chân phước Gioan Phaolô II, trong thông điệp Fides et Ratio, đã cho thấy đức tin và lý trí củng cố cho nhau như thế nào. Khi ta có ánh sáng viên mãn của tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra rằng trong mỗi tình yêu của ta đã có mặt một tia của ánh sáng ấy rồi và chúng ta hiểu đâu là cùng đích của nó”.

“Ánh sáng của đức tin vào Chúa Giêsu cũng soi sáng hành trình của tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, và góp phần mình cho Kitô giáo trong cuộc đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác”.

“Người tin thì hoàn toàn dấn thân sống đức tin mình tuyên xưng. Đức Maria nhờ kết hợp với Chúa Giêsu, sống sát với những gì mà chúng ta tin”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Maria, “mẫu mực hoàn hảo” của Đức Tin, Đấng, vì là Mẹ Chúa Giêsu, đã tượng thai “đức tin và niềm vui”.

Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những ai đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

TÔI CÓ NÊN QUỲ GỐI?

TÔI CÓ NÊN QUỲ GỐI?

Sự tận tụy với Chúa Giêsu, đôi khi đưa chúng ta vào vị thế đối nghịch với những người chúng ta yêu mến

Một khoảng thời gian trước đây, nhà bỉnh bút Arthur Jones của tờ National Catholic Reporter đã chia sẻ với độc giả một giây phút quan trọng xảy ra trong cuộc đời ông trước đây (March 28, 1986). Điều này xảy ra khi ông được chọn vào Không Lực Hoàng Gia và thấy mình ở trong một trại lính với 30 người khác.

Vào đêm đầu tiên ông có một quyết đinh lớn. Ông thường quỳ gối cầu nguyện. Bây giờ ông có nên tiếp tục quỳ gối như thế khi ở trong quân ngũ không? Ông suy nghĩ đôi chút và tự nhủ: “Tại sao tôi phải thay đổi chỉ vì người ta đang nhìn? Có phải tôi bắt đầu cuộc đời xa nhà của tôi bằng cách để cho người khác ra lệnh cho tôi những gì phải làm và không nên làm?” Ông quyết định quỳ cầu nguyện.

Vào lúc ông chấm dứt, ông biết mọi người đều để ý đến ông. Và khi ông làm dấu thánh giá, ông biết rằng mọi người đều biết ông là một người Công Giáo.

Thì ra ông là người Công Giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, ông quỳ gối cầu nguyện hàng đêm.

Ông nói rằng mười phút quỳ cầu nguyện đó thường đưa đến những cuộc tranh luận kéo dài hàng giờ đồng hồ.

Vào ngày cuối cùng trong trại lính, có người nói với ông, “Ông là một Kitô Hữu tốt lành nhất mà tôi chưa bao giờ gặp.”

Ông trả lời, “Có thể tôi là người Kitô Hữu công khai nhất mà bạn chưa từng gặp, nhưng tôi không nghĩ tôi là người tốt lành nhất. Dù vậy, tôi cảm ơn bạn về câu nói của bạn.”

Câu chuyện này minh họa một trong những điểm của bài phúc âm hôm nay. Sự tận tụy với Đức Giêsu Kitô có nghĩa giữ vững lập trường ở những điều nào đó. Và, nhiều khi, lập trường đó đưa chúng ta vào vị thế đối nghịch với người khác.

Nhưng chính sự đối nghịch này giúp chúng ta có thể trở nên một loại nhân chứng mà Chúa Giêsu nói trong Bài Giảng Trên Núi. Người nói:

“Các con là ánh sáng cho toàn thể thế gian. Một thành xây trên núi thì không thể giấu được. Ông ai đốt đèn và đặt nó dưới đáy thùng; nhưng họ đặt nó trên giá, để chiếu sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu tỏa trước mọi người, như vậy họ sẽ thấy những việc tốt lành con làm và ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt. 5:14-16).

Nhiều khi, sự tận tụy của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ khiến chúng ta bị bách hại, như ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc một hôm nay.

Nhiều khi nó sẽ khiến chúng ta phải cố gắng tranh đấu, như Thánh Phaolô nhận xét trong bài đọc hai.

Nhiều khi nó khiến chúng ta chống đối với ngay cả những người trong gia đình, như Chúa Giêsu cảnh giác trong bài phúc âm hôm nay.

Đây là một trong những lý do tại sao người La Mã xưa đã ghét bỏ Kitô Giáo đến thế. Nó đã tách biệt gia đình họ.

Một khi đứa con trở nên một Kitô Hữu, họ không còn có thể cùng với người khác thờ phượng tà thần.

Họ không có thể cùng với người khác cổ vũ hai người nô lệ giết nhau ở đấu trường.

Họ không còn có thể cùng với người khác khuyên em gái mình hãy để bé sơ sinh tật nguyền chết dần mòn thay vì để nói lớn lên và tàn tật.

Họ không còn có thể cùng với bạn bè tham dự các cuộc vui chơi trụy lạc và vô luân là đặc điểm của xã hội Rôma thời bấy giờ.

Hàng ngày, người Kitô Hữu ở Rôma phải quyết định là họ có nên yêu thương bà con thân thuộc hơn là yêu mến Chúa Kitô không.

Và thường thường điều này khiến họ ở vào tình trạng đối nghịch với gia đình mình.

Một thí dụ cho sự đối nghịch như thế xảy ra trong vở kịch Fiddler on the Roof. Câu chuyện xảy ra ở Nga vào năm 1905. Vở kịch tập trung vào một người tên là Tevye, người cha của một gia đình Do Thái nghèo. Tevye có năm cô con gái và không có con trai.

Cô gái lớn lấy một thợ may là người không được chọn cho cô theo truyền thống “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Sau khi vật lộn với lương tâm của mình, ông Tevye phải chấp nhận hôn nhân này.

Cô con gái kế kết hôn với một sinh viên, là người đã đạp đổ nhiều truyền thống của Do Thái Giáo. Lại một lần nữa phải vật lộn với lương tâm, ông Tevye cũng phải chấp nhận hôn nhân này.

Sau cùng, cô con gái thứ ba, Chava, kết hôn với một người không phải Do Thái, một quân nhân Nga còn trẻ. Khi bà Golde, vợ ông Tevye, báo tin này, ông nói, “Với chúng ta, con Chava đã chết! Chúng ta phải quên nó đi.”

Bà Golde biến dạng sau hậu trường, và ông Tevye bắt đầu cất tiếng ca bài được gọi là “Chavaleh”. Trong đó ông tâm sự với Thiên Chúa. Ông không hiểu tại sao Chava lại làm điều mà cô đã làm.

Vào lúc đó, Chava xuất hiện và bắt đầu nài nỉ ông Tevye chấp nhận cô và chồng cô. Ông Tevye ngước mắt lên trời và nói: “Làm thế nào con có thể chấp nhận chúng? Có thể nào con từ chối mọi điều con tin? Đằng khác, có thể nào con từ chối chính đứa con của con?… [Nhưng nếu con từ chối mọi điều con tin tưởng…] nếu con cố bẻ cong như thế, con sẽ gẫy… Không, Chava.”

Khi Chúa Giêsu mời người ta theo Người, Chúa biết điều mà Người yêu cầu nơi họ. Với một số người, điều đó có nghĩa phải thi hành điều mà cô Chava đã làm. Có nghĩa từ bỏ cha mẹ, và gia đình.

Nói cách khác, lời hứa với Chúa Giêsu thì phải ở vị thế ưu tiên trên mọi thứ khác, ngay cả lời hứa với gia đình mình.

Và đây là thông điệp của các bài đọc hôm nay. Đó là một thông điệp mà nó quan trọng trong ngày nay cũng như vào thời của Chúa Giêsu. Lời hứa của Kitô Hữu với Chúa Giêsu và Chúa Cha phải giữ ưu tiên trên mọi thứ khác. Lời hứa của Kitô Hữu đối với sự sáng và sự thật thì không thể tương nhượng bất cứ cách nào.

“Các con là ánh sáng cho toàn thể thế gian. Một thành xây trên núi thì không thể giấu được. Ông ai đốt đèn và đặt nó dưới đáy thùng; nhưng họ đặt nó trên giá, để chiếu sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu tỏa trước mọi người, như vậy họ sẽ thấy những việc tốt lành con làm và ngợi khen Cha các con ở trên trời” Mt. 5:14-16

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự can đảm để đi theo Chúa, dù rằng điều đó khiến chúng con phải tranh đấu, như Thánh Phaolô viết trong bài đọc hai hôm nay.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự can đảm để đi theo Chúa, dù rằng điều đó khiến chúng con bị bách hại, như ngôn sứ Giêrêmia đã bị trong bài đọc một hôm nay.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự can đảm để đi theo Chúa, dù rằng, đôi khi điều đó đưa chúng con vào thế đối nghịch với gia đình, như Đức Giêsu đã cảnh giác chúng con trong bài phúc âm hôm nay.

Lm. Mark Link, S.J.

CUỘC CHIẾN TRIỀN MIÊN

CUỘC CHIẾN TRIỀN MIÊN

Hậu quả của tội nguyên tổ thật là khủng khiếp! Satan thật giả dối, gian ngoa, quỷ quyệt! Con người khi đã chấp nhận theo sự hướng dẫn của Satan thì chắc hẳn phải đi vào chỗ chết, chết ngàn thu. Đáng buồn thay, cái chết ngàn thu ấy được Satan phát họa bằng một sự sống đầy tham vọng, giàu sang phú quí, đầy dư khoái lạc ở đời này.

Nếu Chúa Giê-su không xuống thế gian này để dùng Lời Ngài và chính cái chết của Ngài mà cứu con người được sống, thì con người vẫn mãi mãi chìm trong cái chết kinh hoàng ấy, trong cái vỏ bọc của một sự sống tưởng như là tuyệt vời!

Rõ ràng là Chúa Giê-su đã đến và khởi xướng một cuộc chiến tranh triền miên trong cõi đất này, cuộc chiến giữa Sự Sống Vĩnh Cửu và Sự Chết Ngàn Thu.

Trong khi Chúa Giê-su, Sự Sống Vĩnh Cửu, muốn cho tất cả con người được sống không chỉ đời này, mà còn đời sau nữa, và đời đời trong Nước Thiên Chúa, thì Sa-tan ‘Sự Chết Ngàn Thu’ lại lôi kéo con người ta về phía chỉ sống sung túc khoái lạc ở đời này, không cần có đời sau, đời đời. Càng nhiều người quên đi, hoặc không cần có đời sau, thì Satan càng mãn nguyện, vì chúng luôn là chống lại Thiên Chúa.

“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”.

Chính Lời Ngài đã mở lòng trí con người phân biệt Thiện, ác; sống, chết; thật, giả… và cũng chính Lời Người là sự Thiện, Sự Thật, Sự Sống làm cho cái ác, cái chết, cái giả dối phải hổ người bẽ mặt.

Cuộc chiến ấy, trước tiên ngay trong lòng mỗi người, và từng giây phút, từng ngày. Con người phải tự chia rẽ chính mình. Cũng trong một con người mà cái thiện cái ác, cái thật cái giả vẫn cùng nhau canh cánh. Bao lâu hãy còn sống đây, trên cõi đất này, thì dù là người có học cao, học rộng, có chức, có quyền, có nhiều đời nhiều năm theo đạo, sống đạo…, có ai dám vỗ ngực xưng tên rằng mình đang hoàn toàn thuộc về sự thiện, sự thật, sự sống đời đời.

Thăm viếng và giúp đỡ cụ Gia-cô-bê trong những ngày cụ lâm bịnh nặng, chúng tôi nghe rõ lời tâm sự của cụ với từng đứa con lúc riêng tư ngồi bên cha, chăm sóc cho cha, cũng chỉ một nội dung: “Hành trình Đức Tin là một cuộc chiến triền miên nghe con. Nhớ là: ma quỷ sàng con như sàng gạo. Ma quỷ rất ác độc nhưng cũng rất dễ thương, rất hung dữ nhưng cũng rất hiền lành, rất thô lỗ cộc cằn nhưng cũng rất ngọt ngào, nịnh nọt… Không cảnh giác, con rất dễ thua cuộc đó. Con phải chiến thắng. Nhưng phải nhờ đến tình yêu và sức mạnh của Chúa Giê-su mới chiến thắng được con à”.

Thiết nghĩ cụ đang nói đến cuộc chiến triền miên trong mỗi con người. Tôi vẫn tâm đắc nhất là câu kết của cụ: “Con phải chiến thắng. Nhưng phải nhờ đến tình yêu và sức mạnh của Chúa Giê-su mới chiến thắng được con à”.

Tôi có cảm giác đây là cả một kinh nghiệm chiến trường của cụ, khi cụ dùng hai từ “tình yêu và sức mạnh” của Chúa Giê-su.

Tình yêu ấy được Chúa Giê-su đề cập trong đoạn đầu Tin Mừng hôm nay: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!”.

Ngọn Lửa của Thiên Chúa Cha được Chúa Giê-su mang đến cho trần gian, là lửa của Thánh Thần Chân Lý, lửa của Thánh Thần Tình Yêu: “Ai yêu mến sự Thật, thì nghe tiếng tôi”. “Ai sống trong Tình Yêu là thực sống trong Chúa”.

Như vậy, phàm ai không yêu mến sự thật thì không nghe tiếng Chúa Giê-su, thì chống đối Chúa Giê-su. Từ đó, trong thế giới loài người xảy ra sự phân rẽ giữa những người theo Chúa và người không chấp nhận theo Chúa, theo giáo lý của Chúa, theo con đường của Chúa. Cũng vậy, ai không sống trong Tình Yêu đích thực của Thiên Chúa thì chống lại Thiên Chúa. Không phải là một sự phân chia rõ ràng, một cuộc chiến triền miên đấy sao. Cụ thể hơn, ngay chính trong lòng mỗi người, mỗi người luôn phải ra sức chiến đấu để được sống đời đời, thì hẳn nhiên phải sẵn sàng tuyên chiến với cái giả trá điêu ngoa, với cái ác tiềm ẩn trong lòng, do ma quỷ điều khiển. Không ai có thể ỡm ờ, lấp lững giữa thiện ác, giữa Thiên Chúa, và ma quỷ. Phải dứt khoát với điều Ác để đón nhận cái Thiện của Thiên Chúa.

Ghi nhận cảm nghiệm về một hành trình Đức Tin đã đi qua của một cụ già, thiết tưởng mỗi người chúng ta phải ngộ ra chúng ta đang là những người lính anh dũng trong cuộc chiến tranh triền miên và hơn thế nữa, phải chiến thắng để bảo vệ Đức Tin, làm chứng cho Sự Thật, cho Sự Sống đời đời. Và chỉ trong Giê-su, chúng ta mới chiến thắng trong cuộc chiến triền miên ở cõi đất này, để chúng ta dành lấy một nền hòa bình là chính sự bình an tâm hồn khi hãy còn sống và chiếm hữu một chỗ trong Nước Thiên Chúa, Nước Hòa Bình.

Lạy Chúa Giê-su, xin hãy đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, chân lý. Xin chính Ngài trở nên sức mạnh của mỗi chúng con trong cuộc chiến triền miên gian khó này. A men.

PM. Cao Huy Hoàng, 16-8-2013

NGỌN LỬA TÌNH YÊU

NGỌN LỬA TÌNH YÊU

Nghe ngọn lửa bùng cháy, ai cũng cảm thấy sợ sệt bởi vì lửa cháy bừng có thể thiêu rụi nhà cửa, ruộng vườn v.v… Nếu con người không ngăn chặn ngọn lửa kịp thời. Đọc Tin Mừng, chúng ta nhiều khi cũng cảm thấy lo âu, đặc biệt là đoạn Phúc Âm của thánh Luca hôm nay với những lời nguyền rủa của Chúa Giêsu: “Thầy đã đến để ném lửa vào mặt đất và Thầy ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Nghe những lời này của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ đâm ra sợ sệt, lo âu. Nhưng chúng ta phải thay đổi tư duy và hiểu rõ hơn ý của Chúa Giêsu muốn nói.

Trong đoạn Tin Mừng này, trước hết chúng ta phải hiểu chữ lửa theo ý Chúa. Lửa ở đây, giống như Việt Nam chúng ta có câu ca dao: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Lửa là đức tin, là đau khổ. Đức tin có được trui luyện, có được củng cố, thanh luyện, đức tin mới trở nên vững vàng vì “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Chúa Giêsu cũng nói: “Thầy phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”. Phép rửa trong bài Tin Mừng có nghĩa là đau khổ. Điều này nói đến cuộc khổ hình của Chúa Giêsu trên Thập giá. Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu đau khổ là con đường, là cách thức Chúa Giêsu đã chọn để cứu độ chúng ta, do đó, chúng ta cũng phải đi theo con đường của Chúa: “Tôi tớ không lớn hơn Thầy…”. Đây là cách thức duy nhất Chúa đã chọn để làm gương cho mọi người chúng ta.

Ý nghĩa khác nữa trong bài Phúc Âm của thánh Luca: “Chúa báo trước cho những ai tin theo Ngài là vì đức tin, vì theo đạo, vì theo Ngài, họ có thể bị chính những người thân yêu của mình khinh chê, ghen ghét, ruồng bỏ v.v… Đọc Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận thấy rất rõ cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã gặp khốn khó khi ở trong một gia đình có một hay hai người quyết định tin theo Chúa thì họ liền bị những người thân trong gia đình ngăn cản, ghen ghét, khó chịu, ruồng bỏ v.v… Còn trên bình diện rộng lớn hơn, lịch sử của đạo đã cho hay có nhiều Vị Thánh Tử Đạo đã bị Vua Chúa Quan Quyền ruồng rẫy, bắt bớ, giam cầm và kết án tử hình.

Lịch sử Hội Thánh cho thấy, đức tin rất cần thiết cho mọi người để người môn đệ Chúa có thể bền vững tới cùng. Lửa mà Chúa nói đến ở đây cho chúng ta hiểu về thứ lửa thiêng liêng mà Chúa thắp sáng trong tâm hồn chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận, lửa này sẽ gây nên trong chúng ta những hiệu quả tốt nhờ đó chúng ta luôn biết cảm tạ Chúa vì tất cả đều là hồng ân Chúa ban, rồi chúng ta luôn tìm Chúa, luôn hướng về Ngài, luôn nhìn lên cao để trái tim chúng ta đốt cháy ngọn lửa yêu mến Chúa. Sau đó, chúng ta luôn khao khát nói về Chúa bởi trái của chúng ta đầy ắp Chúa, thắp sáng cho mọi người thấy Chúa. Chính vì thế, dù đang sống nơi trần gian với những khó khăn thử thách, với những cám dỗ của ma quỷ bủa vây, giăng mắc, chúng ta vẫn luôn tin tưởng, phó thác vào Chúa.

Sống nơi gian trần, chúng ta đang bước từng bước trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta đã chọn Chúa, đã đến, xem, ở lại và đi theo Chúa trong Hội Thánh, dưới mái nhà tình thương là Đạo Công Giáo mà Chúa thiết lập. Và sự chọn lựa đi theo Chúa, sống cho Chúa, phục vụ anh em là nếp sống, tư duy và hành động của chúng ta… Nên, mọi thứ khác như tiền tài, vật chất, của cải, danh vọng phải là thứ yếu đối với chúng ta. Mọi thử thách, chông gai, đau khổ, thử thách gian nan không làm chùn bước chúng ta và không làm lung lay hành động tốt, tư duy chân chính của chúng ta. Chúng ta chọn Chúa hay chọn tiền tài, danh vọng. Đây là những vấn nạn đòi chúng ta nghiêm túc trả lời và giải đáp.

Thánh Augustinô viết: “Tốt đẹp biết bao vì Thiên Chúa là ngọn lửa bùng cháy làm cho chúng ta biết yêu mến Người”. Ngọn lửa của Chúa là ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đến để biến đổi con người của các tông đồ. Ngọn lửa ấy phải được chiếu tỏa rộng khắp nơi mỗi người và trên khắp cùng thế giới này.

Cha Vincent Cabanac đã nói: “…Chúng ta cũng có thể đốt cháy lên tình yêu vì Chúa và vì tha nhân, như ngọn nến cháy sáng đảm bảo sự sống đang tồn tại, và chiếu sáng vào nơi tối tăm hay một con tim rực cháy thúc đẩy chúng ta trao ban tất cả. Bằng những lời nói khiến cho người nghe ngạc nhiên, Chúa Giêsu không trở thành mối đe dọa, nhưng lời nói của Người làm cho đời sống của chúng ta nên thanh sạch bằng cách mạc khải cho chúng ta điều cần thiết này”.

Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu của Chúa. Xin Chúa Thánh Thần hãy đến để biến đổi tâm hồn cứng cỏi của chúng chúng con bằng chính lửa yêu mến Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Phép rửa ở đây có nghĩa là gì?

2. Lửa theo Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng này là gì?

3. Đạo Công Giáo là Đạo gì?

4. Lời nói của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm hôm nay có ý gì?

5. Đi theo Chúa chúng ta phải theo con đường nào?

LM. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

HỘI ĐỒNG ĐẠI KẾT CÁC GIÁO HỘI KITÔ KÊU GỌI HÒA BÌNH CHO AI CẬP

HỘI ĐỒNG ĐẠI KẾT CÁC GIÁO HỘI KITÔ KÊU GỌI HÒA BÌNH CHO AI CẬP

GENÈVE: Hôm 16-8-2013, mục sư Olav Fykse Tveit, Tổng thư ký Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô, có trụ sở tại Genève bên Thụy sĩ, đã kêu gọi cầu nguyện cho việc chữa lành, công lý và hòa bình cho nhân dân Ai Cập.

Lời kêu gọi của Mục sư tiếp theo lời kêu gọi Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra trong buổi đọc Kinh Truyền Tin sau thánh lễ cử hành cho hàng ngàn tín hữu và du khách hành hương tại Castel Gandolfo sáng ngày 15-8-2013. Thông cáo của Hội Đồng các Giáo Hội Kitô khẳng định rằng các vụ bạo động xảy ra tại Ai Cập, làm cho hàng trăm người chết và hàng chục nhà thờ và cơ sở của các Kitô hữu bị đốt phá, đã khiến cho các Giáo Hội Kitô rất đau buồn. Vì thế chúng tôi kêu gọi mọi phía chấm dứt ngay các bạo lực này. Dân nước Ai cập đang phải trải qua một giai đoạn lịch sử khó khăn kể từ các diễn tiến chính trị năm 2011. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác nhau người dân ai Cập đã chứng minh cho thấy họ tin vào một xã hội đa tôn giáo và đa văn hóa, nơi mọi phía có thể nắm tay nhau đương đầu với các thách đố và chung xây một tương lại tốt đẹp hơn. Mục sư Tveit hy vọng rằng những gì đang xảy ra bên Ai Cập không bị giải thích là một xung xột giữa các Kitô hữu và các tín hữu hồi. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ủi an và chữa lành các vết thương và đồng hành với nhân dân Ai Cập trên con đường công lý và hòa bình.

Các tin tức nhận được cho biết trong ngày 14-8-2013 các vụ đụng độ giữa các lực lượng an ninh và các đoàn người biểu tình ủng hộ ông Morsi và đảng các Anh em hồi giáo đã khiến cho 200 người bị chết trong đó cũng có nhiều cảnh sát. Số người chết trong ngày 15-8-2013 trên toàn nước Ai Cập đã lên tới 638 người.

Các người biểu tình và thành viên của đảng Anh em hồi giáo cũng đã đốt một dinh thự của chính quyền gần thủ đô Cairo, và đã có 17 nhà thờ Kitô bị cướp bóc và đốt phá. Tại Suez nhà thờ dòng Chúa Chiên Lành, trường học và nhà thương kế cận bị cướp phá. Tại miền băc Minya nhà thờ công giáo Copte Mar Guirgis bị đốt phá cùng với nhà thờ thánh Marcô của các cha dòng Tên và tu viện của các nữ tu dòng thánh Giuse. Ở mạn bắc Beni Souef trên sông Nil tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm của dòng Phanxicô cũng bị đốt phá. Trong khi ở miền trung Ai Cập tại Asyut nhà thờ thánh nữ Têrêxa của các cha dòng Phanxicô và tu viện của các nữ tu Phanxicô cũng bị đốt.

Trong thủ đô Cairo các kẻ tấn công đã ném đá và tấn công cửa nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Fatima. Tổng cộng có tới 25 vụ tấn công khác nhau chống lại các nhà thờ chính thống và Tin Lành. Trong số các Kitô hữu bị giết đặc biệt có bé gái Jessica Boulos, 10 tuổi bị một người vũ trang bắn chết tuần vừa qua trên đường từ lớp học Thánh Kinh ở nhà thờ tin lành Cairo về nhà.

Bà Nina Shea, giám đốc Trung tâm bảo vệ tự do tôn giáo của Học viện Hudson Washington DC, đã viết một bài trên báo điện tử và than phiền về thái độ dửng dưng của Hòa Kỳ đối với thảm cảnh của các Kitô hữu Ai Cập, bị đảng các Anh em hồi giáo và các nhóm ủng hộ ông Morsi biến thành con dê đền tội (SD, CNA 15-9-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

NGÀY TRẺ EM CÔNG GIÁO TOÀN QUỐC MADAGASCAR

NGÀY TRẺ EM CÔNG GIÁO TOÀN QUỐC MADAGASCAR

ANTANANARIVO: Hôm 13-8-2013 Ngày trẻ em công giáo toàn quốc lần đầu tiên đã kết thúc tại thủ đô Antananarivo của Madagascar. Tham dự ngày sinh hoạt này có 2,000 trẻ em tuổi từ 6 đến 14 thuộc 20 giáo xứ toàn nước.

Ngày này đã do Ủy ban Giám Mục tông đồ giáo dân tổ chức. Trong bốn ngày các em đã lắng nghe các bài giáo lý do các Giám Mục trình bày liên quan tới đề tài gặp gỡ gồm ba phần: trẻ em và đức tin, trẻ em và việc thế giới hóa, trẻ em và các quyền của trẻ em theo giáo huấn của Hội Thánh. Ngoài các sinh hoạt thiêng liêng các em cũng đã tham dự các hoạt động và trao đổi văn hóa.

Thánh lễ kết thúc đã do Đức Cha Jean Claude Randrianarisoa, Chủ tịch Ủy ban tông đồ giáo dân, chủ sự. Cùng đồng tế có Đức Cha Odon Marie Arsène Razanakolona, Tổng Giám Mục Antananarivo, Đức Cha Fidelis Rakotonarivo, Giám Mục Ambrositra, và Đức Cha Roger Victor, Giám Mục Mahajanga. Giảng trong thánh lễ Đức Cha Victor đã nhắc cho các em biết rằng gia đình là trường học đức tin đầu tiên nơi Chúa Kitô. Đức Cha đã mời gọi các bậc cha mẹ giáo dục con cái trong tình yêu, sự tha thứ và hòa giải.

Thánh lễ đã kết thúc với lời mời gọi các em trở thành các tông đồ tí hon đối với các bạn đồng trang lứa (SD 13-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

CỘNG ĐOÀN THÁNH EGIDIO VÀ CARITAS ROMA PHỐI HỢP CHƯƠNG TRÌNH YÊU THƯƠNG LIÊN ĐỚI MÙA HÈ

CỘNG ĐOÀN THÁNH EGIDIO VÀ CARITAS ROMA PHỐI HỢP CHƯƠNG TRÌNH YÊU THƯƠNG LIÊN ĐỚI MÙA HÈ

ROMA: Cũng như mọi năm trong mấy ngày giữa tháng 8 cộng đồng thánh Egidio và Caritas Roma đã tổ chức các bữa ăn và cuộc họp mặt liên đới cho người nghèo, người già, những người vô gia cư và thân nhân tại nhiều địa điểm khác nhau trong thành phố.

Ngoài các trung tâm cung cấp các bữa ăn như vẫn có, trong mùa hè còn thêm chương trình ”các bữa ăn tối lưu động” tại các nhà ga xe lửa, ở trung tâm thành phố và các vùng ngoại ô. Các sinh hoạt này được đảm trách bởi hàng trăm bạn trẻ thiện nguyện về Roma làm việc bác ái trong mùa hè, cộng tác với cộng đồng thánh Egidio để tỏ tình yêu thương liên đới săn sóc phục vụ người nghèo, theo gương Chúa Giêsu.

Trong tất cả mọi khu phố Roma đều có sự hiện diện và tình liên đới của cộng đồng thánh Egidio với các người già cô đơn tại tư gia cũng như trong các viện dưỡng lão, mà các thành viên thánh Egidio thăm viếng trong suốt năm. Đặc biệt có chương trình ”Hoan hô các cụ già” được tổ chức trong các khu phố Trastevere, Testaccio và Esquilino, cho các cụ già trên 75 tuổi.

Trong các ngày 14 đến 16 tháng 8 có hơn 2,000 người tham dự gồm các người nghèo lang thang trên đường phố, người di cư, các bạn bè của cộng đoàn và các người trẻ thiện nguyện đến từ khắp nơi trong nước Italia. Ngoài các bữa ăn trưa ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời 15-8 còn có các buổi chiều ăn dưa hấu và trái cây. Mục đích của các sinh hoạt này là đem lại một chút săn sóc yêu thương và tình bạn đối với những người bị lãng quên trong xã hội, đặc biệt trong mùa hè.

Tổ chức Caritas Roma thì phát động chiến dịch ”Có người đi nghỉ hè có người phải ở nhà” trong suốt tháng 8 để liên đới với người nghèo. Trưa ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời 250 thiện nguyện viên đã phục vụ tại

các trung tâm phân phát thực phẩm, các nhà trọ, các gia đình để phân phát hơn 1.800 phần ăn, đón tiếp 600 người trọ đêm và 400 người khác, đặc biệt là các người già. Họ đã có thể tham dự một ngày giải trí và nghỉ ngơi tại bãi biển Ostia. Trong khi các chương trình mừng lễ được tổ chức tại các trung tâm phân phát thực phẩm thường lệ, đặc biệt là trung tâm ”Gioan Phaolô II” ở đồi Oppio, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập. Trung tâm này đã khai mở ngày mùng 15 tháng 8 năm 1983 và đã được Đức Gioan Phaolô II đến thăm năm 1992 và Đức Biển Đức XVI thăm năm 2006 (SD 14-8-2013).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

GIÁO HỘI PHILIPPINES THƯỜNG XUYÊN THIẾU LINH MỤC

GIÁO HỘI PHILIPPINES THƯỜNG XUYÊN THIẾU LINH MỤC

MANILA: Giáo Hội Philippines thường xuyên thiếu các Linh Mục và các nhà thờ. Mặc dù số tân Linh Mục có gia tăng trong năm 2012, nhưng việc phân phối không theo kịp đà tiến của dân số trong nước.

Đức Cha Oscar Cruz, Tổng giám mục về hưu của giáo phận Lingayen Dagupan, đã cho biết như trên. Theo niên giám của Giáo Hội công giáo Philippines số dân trong nước năm 2012-2013 đã lên tới 76 triệu. Trong khi số linh mục từ 8,605 vị trong niên khóa 2010-2011 tăng lên 9,040 vị trong niên khóa 2012-2013. Nhưng số linh mục vẫn không đủ để đáp ứng các nhu cầu mục vụ và việc phân chia không đồng đều, khiến cho mỗi linh mục phải trông coi hàng ngàn giáo dân. Đức Cha Cruz cho biết trong qúa khứ đã có lần mỗi Linh Mục phải trông coi tới 27,000 giáo dân. Và nếu mọi giáo dân đều đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật, thì không đủ nhà thờ để tiếp đón họ. Chẳng hạn hồi năm 2009 trong tổng giáo phận Lingayen Dagupan có 1,2 triệu tín hữu công giáo, nhưng chỉ có 50 nhà thờ (SD 13-8-2013)

Linh Tiến Khải -Vatican Radio

ĐỨC THÁNH CHA ĐÓNG GÓP 100 NGÀN EUROS CHO CHIẾN DỊCH QUYÊN GÓP GIÚP NGƯỜI NGHÈO TẠI ARGENTINA

ĐỨC THÁNH CHA ĐÓNG GÓP 100 NGÀN EUROS CHO CHIẾN DỊCH QUYÊN GÓP GIÚP NGƯỜI NGHÈO TẠI ARGENTINA

VATICAN: Đức Thánh Cha Phanxicô đã đóng góp 100,000 Euros cho chiến dịch lạc quyên giúp người nghèo ”Người có nhiều hơn giúp kẻ có ít hơn” vào ngày mùng 8 tháng 9 tới đây tại Argentina.

Trong sứ điệp do Đức Hồng Y Tarcisio Bertone Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh ký ngày mùng 8-8-2013 gửi tín hữu Argentinaa trong địp này, Đức Thánh Cha thân ái gửi lời chào tất cả mọi tín hữu công giáo Argentina tham gia chiến dịch liên đới, do Hội Đồng Giám Mục Argentina phát động. Ngài khích lệ tất cả những ai dấn thân trong nỗ lực Kitô liên đới được gợi hứng bởi niềm tin nơi Thiên Chúa, là Đấng đã ban cho chúng ta mọi sự. Đức Thánh Cha nhắn nhủ tín hữu ngày càng trở nên đồng hình dạng với Chúa Kitô hơn, bằng cách vun trồng tình bạn với Chúa qua lời cầu nguyện và việc cử hành các Bí tích, để có các sức mạnh cần thiết phục vụ các người cần trợ giúp, đặc biệt là người nghèo.

Số tiền nói trên đã được trích từ qũy của Đức Thánh Cha quen gọi là ”Đồng xu của thánh Phêrô”, do tín hữu toàn thế giới đóng góp để tiếp tay Đức Thánh Cha trong việc trợ giúp các nạn nhân thiên tai, đói khát và các tai ương khác.

Năm 2012 cuộc lạc quyên bên Argentina thu được 2.9 triệu Mỹ kim. Số tiền này đã được dùng để tài trợ nhiều dự án và sáng kiến trong các giáo phận nghèo nhất Argentina (SD 8-8-2013 CNA 15-8-2013).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

Thánh lễ và buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha cử hành tại Castel Gandolfo

Thánh lễ và buổi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha cử hành tại Castel Gandolfo

Lúc 10 giờ rưỡi sáng thứ năm 15-8-2013 lễ trọng kính Đức Mẹ hồn xác lên Trời, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ và buổi đọc Kinh Truyền Tin cho tín hữu Castel Gandolfo, các thành phố lân cận và du khách hành hương.

Castel Gandolfo nằm bên bờ hồ Albano, là thành phố nhỏ có khoảng 5,000 dân cư, nơi có dinh thự nghỉ màt mùa hè của Đức Giáo Hoàng. Trong mùa hè các Đức Giáo Hoàng vẫn đến dinh thự này nghỉ mấy tháng và chỉ trở về Dinh Tông Tòa tại Roma vào đầu tháng 9. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khuyên Đức Phanxicô đi nghỉ hè ở đây. Còn Đức Phanxicô thì lại khuyên Đức Biển Đức XVI đi nghỉ hè ở Castel Gandolfo. Cuối cùng không có vị nào đi cả. Nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn duy trì truyền thống của các vị tiền nhiệm đến cử hành thánh lễ cho tín hữu thành phố ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.

Ngay từ 7 giờ sáng hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương đã tụ tập tại quảng trường Tự do, trước dinh nghỉ mát. Trong khi chờ đợi tham dự thánh lễ họ đã hát thánh ca và lần hạt kính Đức Mẹ. Một khán đài nhỏ rất đơn sơ đã được dựng ngay trước cửa vào dinh nghỉ mát.

Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có ba Hồng Y và Giám Mục trong đó có Đức Giám Mục giáo phận Albano, và 10 linh mục, gồm cả linh mục Pietro Diletti, cha sở giáo xứ thánh Toma thành Villanova Castel Gandolfo. Ca đoàn của giáo xứ đã đảm trách phần thánh ca. Các kinh Thương xót, Vinh Danh, Thánh Thánh Thánh và Lậy Chiên Thiên Chúa đã được hát bằng tiếng Latinh.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha đã khai triển ý nghĩa các bài đọc và tóm gọn trong ba từ chìa khóa thần học: chiến đấu, phục sinh và hy vọng. Mở đầu bài giảng ngài nói:

Vào cuối Hiến chế về Giáo Hội, Công Đồng Chung Vaticăng II đã để lại cho chúng ta một suy niệm rất đẹp về Đức Maria Rất Thánh. Tôi chỉ nhắc lại các kiểu diễn tả quy chiếu về mầu nhiệm mà chúng ta cử hành hôm nay. Thứ nhất là ”Đức Trinh Nữ vô nhiễm, được giữ gìn tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ” LG 59). Thế rồi vào cuối chương còn có một kiểu nói khác nữa: ”Ngày nay Mẹ Thiên Chúa đã được vinh hiển hồn xác trên trời, là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội phải hoàn thành đời sau; cũng thế dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến, Ngài chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG 68).

Quảng diễn thị kiến cuộc chiến đấu giữa người phụ nữ và con rồng trong bái đọc thứ nhất trích từ sách Khải Huyền, Đức Thánh Cha nói: gương mặt của người phụ nữ diễn tả Giáo Hội, một đàng vinh hiển, chiến thắng, đàng khác vẫn còn khổ đau. Đức Thánh Cha giải thích:

Thật ra Giáo Hội cũng thế: nếu từ Trời nó đã được kết hiệp với vinh quang của Chúa mình, thì trong lịch sử nó liên tục sống các thử thách và các thách đố của cuộc xung đột giữa Thiên Chúa và kẻ dữ, kẻ thù từ luôn mãi. Và trong cuộc chiến mà các môn đệ Chúa Giêsu phải đương đầu, Đức Maria không bỏ chúng ta một mình; Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội luôn luôn ở với chúng ta. Cả khi Mẹ Maria, trong một nghĩa nào đó, chia sẻ điều kiện hai mặt này với chúng ta. Dĩ nhiên Mẹ đã bước vào trong vinh quang của Trời một lần cho luôn mãi. Nhưng điều này không có nghĩa là Mẹ ở xa, tách biệt khỏi chúng ta; trái lại Đức Maria đồng hành với chúng ta, chiến đấu với chúng ta, nâng đỡ các Kitô hữu trong cuộc chiến chống lại các lực lượng của sự dữ. Lời cầu với Mẹ Maria, đặc biệt là Kinh Mân Côi. Kinh Mân Côi, mà tôi không biết anh chị em có lần hạt kính Đức Mẹ mỗi ngày không vậy? Có chắc thế không? Kinh Mân Côi cũng có chiều kích ”chiến đấu” này, một lời kinh nâng đỡ trận chiến chống lại kẻ dữ và các đồng bọn của nó.

Bước sang bài đọc thứ hai trích từ thư thứ I thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô nói về sự phục sinh, Đức Thánh Cha nói: là Kitô hữu có nghĩa là tin rằng Chúa Kitô đã sống lại tự cõi chết. Ngài giải thích thêm:

Tất cả đức tin của chúng ta dựa trên sự thật nền tảng này: nó không phải là một tư tưởng mà là một biến cố. Cả mầu nhiệm Đức Maria hồn xác lên trời cũng được viết tất cả trong sự Phuc Sinh của Chúa Kitô. Nhân tính của Mẹ đã được ”lôi kéo” bởi Con Mẹ trong việc đi qua cái chết. Chúa Giêsu đã bước vào trong cuộc sống vĩnh cửu một lần cho luôn mãi, với tất cả nhân tính của Người, nhân tính mà Người đã nhận lấy từ Mẹ Maria; như thế Mẹ là Đấng đã theo Chúa một cách trung thành trong suốt cuộc sống, đã theo Người với con tim, đã cùng với Người bước vào trong cuộc sống vĩnh cửu, mà chúng ta gọi là Trời, Thiên Đàng, Nhà Cha.

Cả Mẹ Maria cũng đã biết tới sự tử đạo của thập giá: cuộc Khổ Nạn của Con Mẹ. Mẹ đã sống nó cho tới tận cùng thẳm linh hồn. Mẹ đã hoàn toàn hiệp nhất với Người trong cái chết, và vì thế Mẹ đã nhận được ơn phục sinh. Chúa Kitô là hoa trái đầu mùa của những kẻ sống lại, và Mẹ Maria là của đầu mùa của những người được cứu rỗi, ”người đầu tiên giữa những người của Chúa Kitô”.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói: bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta niềm hy vọng. Hy vọng là nhân đức của người tin nơi sự Sống lại của Chúa Kitô, nơi chiến thắng cảu Tình Yêu, trong khi sống kinh nghiệm xung khắc, cuộc chiến đấu thường ngày giữa sự sống và cái chết, giữa sự thiện và sự dữ. Bài Thánh thi Magnificat là thánh thi của niềm hy vọng, là thánh thi của Dân Thiên Chúa bước đi trong lịch sử. Áp dụng vào cuộc sống các thành phần dân Chúa Đức Thánh Cha nói:

Đó là bài thánh ca của biết bao nhiêu vị thánh nam nữ, một số vị nổi tiếng, các vị khác, rất nhiều vị khác vô danh, nhưng được Thiên Chúa biết rõ: các bà mẹ, các người cha, các giáo lý viên, các thừa sai, các linh mục, nữ tu, người trẻ và cả các trẻ em nữa, là những người đã đương đầu với cuộc chiến đấu của sự sống đem theo trong tim niềm hy vọng của những người bé nhỏ và khiêm tốn. ”Linh hồn tôi chúc tụng Chúa”, ngày hôm nay Giáo Hội ở khắp nơi trên thế giới cũng hát lên như thế. Bài thánh thi này đặc biệt sâu đậm nơi đâu ngày nay Thân Mình Chúa Kitô phải chịu Khổ nạn. Và Mẹ Maria ở đó gần các cộng đoàn này, gần các anh chị em này, Mẹ bước đi với họ, đau khổ với họ và cùng họ hát lên bài Magnificat của niềm hy vọng.

Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng như sau: anh chị em thân mến, chúng ta cũng hãy hiệp ý với tất cả con tim với bài thánh thi của sự kiên nhẫn và chiến thắng, chiến đấu và niềm vui, kết hiệp Giáo Hội chiến thắng với Giáo Hội lữ hành, kết hiệp đất với Trời, lịch sử với vĩnh cửu.

Trong phần lời nguyện giáo dân tín hữu đã xin Mẹ hồn xác lên Trời bầu cử và đồng hành với Giáo Hội trong công tác rao truyền Tin Mừng và thánh hóa nhân loại; cầu cho Đức Thánh Cha Phanxicô được khỏe mạnh và nhiều ơn để hướng dẫn Giáo Hội; cho các Kitô hữu gặt hái nhiều hoa trái trong Năm Đức Tin; cho giới lãnh đạo biết chăm lo cho thiện ích của mọi người; cho công lý và hòa bình và tình bác ái huynh đệ ngự trị trong con tim của mọi người.

Vào cuối lễ trước khi đọc kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã xông hương tượng Đức Mẹ. Ngỏ lời với mọi người Đức Thánh Cha nói con đường về Trời của Mẹ Maria đã bắt đầu từ tiếng ”xin vâng” tại Nagiarét, trả lời cho Sứ Thần từ trời đến báo cho Mẹ biết ý muốn của Thiên Chúa. Và thật ra đúng như thế. Mỗi một tiếng ”xin vâng” với Thiên Chúa là môt bước tiến về Trời, về cuộc sống vĩnh cửu. Bởi vì đó là điều Chúa muốn: Ngài muốn rằng tất cả mọi con cái Ngài có được sự sống dồi dào. Thiên Chúa muốn tất cả mọi người ở với Ngài trong nhà Ngài!

Đức Thánh Cha cũng nhắc lại kỷ niệm 25 năm Đức Chân phước Gioan Phaolô II ban hành Tông thư ”Mulieris dignitatem” đề cao phẩm giá và ơn gọi của nữ giới. Tài liệu này có rất nhiều điểm đáng được lấy lại và khai triển. Ở nền tảng của tất cả những điều đó là gương mặt của Mẹ Maria, vì Tông thư đã được ban hành trong Năm Thánh Mẫu. Chúng ta hãy lấy lại lời cầu ở cuối Tông thư để khi suy niệm mầu nhiệm kinh thánh về nữ giới, được cô đọng nơi Mẹ Maria, tất cả mọi phụ nữ tìm thấy chính mình và ơn gọi tràn đầy của mình, và toàn Giáo Hội đào sâu và hiểu biết hơn vai trò quan trọng và vĩ đại của nữ giới.

Đức Thánh Cha đã không quên cám ơn tín hữu Castel Gandolfo cũng như các đoàn hành hương trong đó có đoàn hành hương Argentina.

Rồi ngài cất kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Người Bắc Hàn đầu tiên đang được cứu xét phong chân phước

Người Bắc Hàn đầu tiên đang được cứu xét phong chân phước

Văn phòng quốc vụ khanh Tòa Thánh công bố những phần điều chỉnh trong Niên Giám Tòa Thánh hai lần một tháng. Cuốn niêm giám phát hành ngày 1-7 vừa qua có một mẩu tin gây tò mò về một trong những quốc gia bí mật nhất trên thế giới là Bắc Hàn, quốc gia thường xuyên trở thành tin tức chính trên báo đài quốc tế vì đe dọa dùng vũ khí hạt nhân.

Mẩu tin đó nói cuối cùng Tòa Thánh cũng đang công nhận giáo phận Bình Nhưỡng trống tòa, sau khi Đức Giám mục Francis Borgia Hong Yong-ho qua đời. Ngài sinh ngày 12-10-1906, chịu chức linh mục ngày 25-5-1933, được Đức Piô XII bổ nhiệm làm đại diện tông tòa ngày 24-3-1944 và được tấn phong giám mục vào ngày 29-6 sau đó.

Nhưng tin đó không nói một vị giám chức qua đời ở tuổi đáng kính trên 106, vốn là một kỷ lục, mà là trong cuốn sách không còn cái tên Hong nữa, người được gọi là đấng bản quyền của Bình Nhưỡng và được nêu rõ là “mất tích” trong nhiều thập niên.

Thật ra, Đức cha Hong nằm trong số 166 giáo sĩ bị giết hoặc bị bắt cóc trong lúc diễn ra các cuộc bắt đạo khủng khiếp ở Bắc Hàn vào cuối thập niên 1940 khi chính quyền cộng sản của Kim Il-sung ra đời.

Do đó trong hơn 60 năm người ta không biết thêm gì về ngài, nhưng Tòa Thánh không hề quên ngài, và luôn nhớ tên ngài.

Không chỉ thế. Vào ngày 10-3-1962, Đức Gioan XXIII quyết định nâng hạt đại diện tông tòa Bình Nhưỡng lên hàng giáo phận, và bổ nhiệm Đức ông “mất tích” Hong làm giám mục tiên khởi.

Tòa Thánh kiên trì giữ tước hiệu giám mục “mất tích” trong nhiều thập niên, như Đức Hồng y Nicholas Cheong Jinsuk, hiện nay là giám mục danh dự của Seoul giải thích cách đây nhiều năm, đây là “cách Tòa Thánh kỷ niệm biến cố Giáo hội ở Triều Tiên đã trải qua và bây giờ vẫn còn”.

Nhưng quyết định công nhận Đức cha Hong đã chết được công bố trong năm nay không có nghĩa là “biến cố” này của Giáo hội Triều Tiên được xem là đã khép lại. Có động cơ khác. Nó liên quan đến việc các giám mục Triều Tiên yêu cầu bộ phong thánh công bố “không có ngăn trở gì” khi mở án phong chân phước cho Đức cha Hong và 80 bạn tử đạo của ngài. Và dĩ nhiên không có ai có thể là ứng viên được tôn phong thánh nếu chưa chết.

Nguồn: La Chiesa/EspressoOnline.net

UCANEWS