Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam kết thúc cuộc gặp gỡ tại Vatican

Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam kết thúc cuộc gặp gỡ tại Vatican

VATICAN. Trưa ngày 14-6-2013, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố thông cáo chung về cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm việc chung Việt Nam và Tòa Thánh tại Vatican.

Nguyên văn thông cáo chung như sau:

”Thực hiện thỏa thuận đã đạt được trong cuộc gặp gỡ lần thứ 3 của Nhóm Làm Việc chung Tòa Thánh và Việt Nam tại Hà Nội hồi tháng 2 năm 2012, cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm việc chung đã diễn ra tại Vatican trong hai ngày 13 và 14-6-2013. Đức Ông Antoine Camilleri, Thứ Trưởng ngoại giao Tòa Thánh và Ông Bùi Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao, Trưởng đoàn Việt Nam, đã đồng chủ tọa cuộc gặp gỡ.

Hai bên đã trao đổi tin tức về tình trạng liên hệ, duyệt qua và thảo luận về những quan hệ giửa Việt Nam và Tòa Thánh, và về những vấn đề liên hệ tới Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.

Phái đoàn Việt Nam đã nhấn mạnh sự kiên trì thực thi và những cải tiến liên tục trong chính sách của Đảng và Nhà Nước Việt Nam về việc tôn trọng và bảo đảm tự do tôn giáo và các tín ngưỡng cũng như luôn khích lệ các tôn giáo khác và đặc biệt là Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tích cực tham gia tiến trình xây dựng đất nước và phát triển kinh tế và xã hội.

Phía Tòa Thánh đánh giá cao và cám ơn sự quan tâm của chính quyền các cấp đối với hoạt động của Giáo Hội Công Giáo, đặc biệt là Đại Hội kỳ 10 của Liên HĐGM Á châu nhóm tại Xuân Lộc và Thành Phố Hồ chí Minh hồi tháng 12 năm 2012, cũng như các cuộc viếng thăm mục vụ của Đại diện không thường trú của Tòa Thánh, Đức TGM Leopoldo Girelli. Tòa Thánh nêu bật ước muốn phát triển thêm các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh, nhấn mạnh nhu cầu cần có một vị Đại Diện Tòa Thánh thường trú tại Việt Nam, có lợi ích cho tất cả những phe liên hệ.

Cả hai bên nhìn nhận việc rao giảng của Giáo Hội về việc ”sống Tin Mừng giữa lòng Đất Nước” và về sự kiện ”là một người Công Giáo tốt cũng có nghĩa là một công dân tốt”. Tòa Thánh đã khẳng định ý chí của Giáo Hội Công Giáo góp phần theo cách thế đặc thù của mình vào công ích của xã hội, thông truyền và thực thi các giáo huấn liên lục của các vị Giáo Hoàng về vấn đề này.

Cả hai bên đã đồng ý rằng các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh đã tiến triển tích cực trong tinh thần thiện chí, trao đổi tích cực và tôn trọng các nguyên tắc trong quan hệ giữa hai bên. Trong tinh thần này, và đứng trước cam kết phát triển thêm các quan hệ hỗ tương, công việc của vị Đại Diện Tòa Thánh không thường trú sẽ được dễ dàng hơn để Ngài có thể chu toàn sứ vụ một cách phong phú hơn.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong một bầu không khí chân thành thân mật, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau.
Hai bên đã thỏa thuận sẽ gặp lại nhau tại Hà Nội trong cuộc gặp gỡ thứ năm của Nhóm Làm việc chung Việt Nam và Tòa Thánh. Ngày giờ cuộc gặp gỡ sẽ được thiết định qua đường ngoại giao.

Nhân dịp này, Phái đoàn Việt Nam cũng đã thăm Ngoại Trưởng Tòa Thánh, Đức TGM Dominique Mamberti (SD 14-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công bố một văn kiện

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công bố một văn kiện

VATICAN. ĐTC Phanxicô cho biết ngài sẽ viết tiếp văn kiện của Đức Biển Đức 16 về đức tin và sẽ công bố.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 13 tháng 6-2013, dành cho Hội đồng Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, cùng với chức sắc khác tổng cộng 25 vị, nhóm họp tại Roma trong những ngày này dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Tổng thư ký Nikola Eterovic, với mục đích giúp ĐTC soạn Tông Huấn đúc kết thành quả của Thượng HĐGM năm ngoái về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”, đồng thời cũng để giúp ĐTC chọn chủ đề cho Thượng HĐGM kỳ thứ 14.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC Phanxicô đã ứng khẩu tóm tắt bài diễn văn dọn sẵn và loan báo ngài sẽ công bố văn kiện về đức tin đã được ĐGH Biển Đức 16 khởi sự: ”Bây giờ sẽ có một thông điệp 'viết bằng 4 tay' như người ta vẫn nói. Đó là văn kiện ĐGH Biển Đức 16 đã bắt đầu và đã trao cho tôi. Đó là một văn kiện mạnh mẽ và công việc lớn chính Người đã làm và tôi sẽ tiếp tục”.

ĐTC Biển Đức 16 dự định công bố một thông điệp về đức tin nhân dịp kết thúc Năm Đức Tin, nhưng vì tình hình sức khỏe ngài từ chức và Văn kiện chưa được hoàn thành.

ĐTC xác nhận ngài đã nhận được dự thảo Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM thứ 13 nhóm tại Vatican hồi tháng 10-2012, nhưng e rằng việc công bố văn kiện này đồng thời với Thông Điệp về đức tin thì Tông Huấn sẽ bị mất hút. Vì thế ngài này ra ý định công bố một tông huấn về truyền giảng Tin Mừng nhân dịp kết thúc Năm Đức Tin, nhưng trong đó có du nhập những đề nghị của Thượng HĐGM trong một bối cảnh truyền giáo rộng lớn hơn.

ĐTC tiết lộ: ”Tôi đã viết phần nào, nhưng tháng 8 tới đây tôi sẽ ở nhà, công việc yên hàn hơn và tôi sẽ tiếp tục”.
ĐTC đã trao diễn văn soạn sẵn để mọi người đọc sau đó. Trong Văn kiện này ngài nhận xét rằng thành ngữ ”nuova evangelizzazione”, tái truyền giảng Tin Mừng, làm nổi bật ý thức ngày càng rõ ràng rằng cả nơi những quốc gia có truyền thống Kitô kỳ cựu, người ta thấy cần phải canh tân việc rao giảng Tin Mừng, để dẫn đưa con người trở lại gặp gỡ Chúa, Đấng thực sự biến đổi cuộc sống, chứ không hời hợt do thói quen. Điều này có hậu quả trong hoạt động mục vụ, như Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 đã nhân xét: ”Những hoàn cảnh xã hội bó buộc chúng ta phải xét lại các phương pháp, dùng mọi phương thể để tìm cách nghiên cứu xem làm để nào để đưa sứ điệp Kitô cho người tân tiến ngày nay, vì chỉ trong sứ điệp này con người mới có thể tìm được câu trả lời cho những vấn nạn của họ và tìm được sức mạnh để dấn thân liên với với nhân loại” (Diễn văn trước Hồi y đoàn 22-6-1973).

Trong chiều hướng đó, ĐTC viết thêm rằng ”Tôi muốn khích lệ toàn thể cộng đoàn Giáo Hội hãy rao giảng Tin Mừng, đừng sợ ”ra khỏi chính mình” để loan báo, nhất là tín thác nơi sự hiện diện từ bi của Thiên Chúa Đấng hướng dẫn chúng ta. Các kỹ năng tuy quan trọng, nhưng dù những kỹ năng hoàn hảo nhất vẫn không thể thay thế hoạt động âm thần nhưng hiệu quả của Đấng là tác nhân chính của công cuộc rao giảng Tin Mừng, nghĩa là Chúa Thánh Linh (Xc ibid. 75). Cần để mình được Chúa hướng dẫn, dù Ngài dẫn chúng ta đi trên những con người mới; cần phải để Chúa biến đổi chúng ta để việc rao giảng của chúng ta được diễn ra luôn luôn được đi kèm bằng đời sống đơn sơ, tinh thần cầu nguyện và lòng bác ái đối với mọi người, nhất là những người bé nhỏ và nghèo khổ, bằng tinh thần khiêm tốn, từ bỏ chính mình, và bàng đời sống thánh thiện (Xc ibid. 76). Chỉ như thế việc rao giảng mới thực sự có những thành quả phong phú”.

Sau cùng, ĐTC ca ngợi thành quả của các Thượng HĐGM như một trong những kết quả của Cộng đồng chung Vatican 2 và nói thêm rằng ”Cởi mở đối với ơn của Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội, chúng ta tín thác rằng Thượng HĐGM sẽ được phát triển thêm để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự đối thoại và cộng tác giữa các GM với nhau và với GM Roma”.

Trong cuộc đối thoại với các thành viên Hội đồng của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, ĐTC cho biết có thể là ngài sẽ biến Hội đồng thành một cơ quan thường trực và ngài triệu tập cơ quan này khi cần để hỏi ý kiến.

G. Trần Đức Anh, O.P – Vatican Radio
 

 

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa có luật lệ là tình yêu thương đại đồng

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa có luật lệ là tình yêu thương đại đồng

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa bao gồm mọi dân tộc, có luật lệ là tình yêu thương đại đồng, có sứ mệnh loan báo Chúa Kitô, là dấu chỉ, muối men và áng sáng dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa và tiến về quê hương thiên quốc.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với khoảng 90,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 12 tháng 6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Giáo Hội dân của Thiên Chúa”, như Công Đồng Chung Vaticăng II và Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa (LG 9; GLGHCG 782). Đức Thánh Cha đã khai triển bài giáo lý bằng các câu hỏi. Trả lời câu hỏi Giáo Hội là gì Đức Thánh Cha nói:

Trước hết nó có nghĩa là Thiên Chúa không thuộc riêng một dân tộc nào; bởi vì chính Người mời gọi chúng ta, triệu tập chúng ta, mời gọi chúng ta là thành phần dân của Người, và lời mời gọi này hướng tới tất cả mọi người, không phân biệt, bời vì lòng thương xót của Thiên Chúa ”muốn ơn cứu rỗi cho mọi người” (q Tm 2,4). Chúa Giêsu không nói với các Tông Đồ và chúng ta làm thành một nhóm độc hữu, một nhóm ưu tú. Chúa Giêsu nói: Hãy đi và lam cho mọi dân tộc trở thành môn đệ (x. Mt 28,19). Thánh Phaolô khẳng định rằng trong dân của Thiên Chúa, trong Giáo Hội ”không còn do thái hy lạp… bởi vì anh em tất cả là một trong Chúa Kitô Giêsu” (Gl 3,28). Tôi cũng muốn nói với người cảm thấy xa Thiên Chúa và Giáo Hội, với người sợ hãi hay thờ ơ, với người nghĩ rằng không còn có thể thay đổi được nữa: Chúa cũng mời gọi bạn là thành phần của dân Người, và Chúa làm điều này với lòng kính trọng lớn và tình yêu thương! Người mời gọi chúng ta làm thành phần của dân này, dân của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đưa ra câu hỏi thứ hai: Làm thế nào để trở thành chi thể của dân Thiên Chúa? Và ngài trả lời: Không phải qua việc sinh ra thể lý, mà qua một cuộc sống mới. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo rằng cần phải sinh ra từ bên trên, từ nước và từ Thần Khí để vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-5). Chính qua bí tích Rửa Tội mà chúng ta được đưa vào dân tộc này, qua niềm tin nơi Chúa Kitô, là ơn Thiên Chúa ban, và nó phải được dưỡng nuôi và làm cho lớn lên bằng toàn cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem: tôi làm thế nào để cho đức tin mà tôi đã nhận trong bí tích Rửa Tội được lớn lên? Tôi làm thế nào để đức tin mà tôi đã nhận và dân Chúa được lớn lên? Tôi làm thế nào để cho nó lớn lên? Đó là một câu hỏi khác.

Câu hỏi thứ ba là: Đâu là luật của dân Thiên Chúa? Đức Thánh Cha trả lời:

Đó là luật yêu thương, yên mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân theo giới răn mới Chúa ban cho chúng ta (x. Ga 13,34). Tuy nhiên, một tình yêu không phải là thuyết duy tình cảm cằn cỗi hay là một cái gì mơ hồ, mà là việc nhận biết Thiên Chúa như là Chúa duy nhất của cuộc sống, đồng thời là việc tiếp nhận tha nhân như là người anh em thật, bằng cách thắng vượt các chia rẽ, các tranh đua, các hiểu lầm, các ích kỷ; cả hai đi chung với nhau. Chúng ta còn phải đi biết bao nhiêu đường để sống luật mới này một cách đúng đắn, luật của Chúa Thánh Thần, Đấng hành động trong chúng ta, luật của tình bác ái, của tình yêu thương! Khi chúng ta nhìn thấy trên báo chí hay truyền hình, chúng ta thấy biết bao nhiêu chiến tranh giữa các tín hữu kitô. Làm sao có thể hiểu được điều này? Nhưng trong các khu phố, trong các nơi làm việc có biết bao nhiêu chiến tranh vì thèm muốn, ghen tương. Cả trong chính gia đình cũng có biết bao nhiêu chiến tranh bên trong. Chúng ta phải xin Chúa làm cho chúng ta hiểu rõ ràng luật của tình yêu này. Thật là tốt lành, xinh đẹp biết bao, khi chúng ta yêu nhau như anh em đích thật. Điều đó thật đẹp biết bao! Hôm nay chúng ta hãy làm một điều: Có lẽ tất cả chúng ta đều có thiện cảm hay không thiện cảm và có lẽ có nhiều người trong chúng ta giận dữ với vài người. Ít nhất chúng ta hãy nói với Chúa: Lậy Chúa, con giận ông này, bà này qúa. Con cầu nguyện cho ông ấy, cho bà ấy. Con xin Chúa”. Cầu nguyện cho những người chúng ta giận. Đó là một bước tiến đẹp trong luật yêu thương này. Hôm nay chúng ta hãy làm điều đó nhé!

Câu hỏi thứ tư liên quan tới dân Chúa. Dân Chúa có sứ mệnh đem niềm hy vọng và ơn cứu độ của Thiên Chúa vào trong thế giới: là dấu chỉ tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng mời gọi tất cả vào tình bạn với Người; là men làm dậy tất cả bột, là muối trao ban hương vị và giữ cho khỏi hư thối, là ánh sáng chiếu soi.

Chung quanh chúng ta, chỉ cần mở báo ra, tôi đã nói, là chúng ta thấy rằng có sự hiện diện của sự dữ, Qủy hành động. Nhưng tôi muốn nói lớn tiếng rằng: Thiên Chúa mạnh hơn! Anh chị em có tin điều này không? Tin rằng Thiên Chúa mạnh hơn không? Nhưng chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Thiên Chúa mạnh hơn! Tất cả nào! Và tín hữu tại quảng trưởng, đặc biệt là các trẻ em cùng nói to ” Thiên Chúa mạnh hơn”. Rồi Đức Giáo Hoàng nói tiếp: Và anh chị em có biết tại sao Chúa mạnh hơn không? Bởi vì Người là Chúa, là Chúa duy nhất. Thiên Chúa mạnh hơn. Tốt lắm! Và tôi cũng muốn thêm rằng thực tại đôi khi đen tối, bị ghi dấu bởi sự dữ, nhưng có thể thay đổi, nếu chúng ta là những người đầu tiên đem ánh sáng Phúc Âm vào, nhất là với cuộc sống chúng ta. Nếu trong một sân thế vận, chúng ta hãy nghĩ tới sân thế vận Roma, hay sân thế vận Thánh Lorenzo ở Buenos Aires, trong một đêm tối trời có một người thắp lên một ánh sáng, thì người ta chỉ thấy một chút, nhưng nếu cả 70.000 khán giả mỗi người đều thắp lên ánh sáng của mình, thì sân vận động sáng lên. Chúng ta hãy làm cho cuộc sống của chúng ta là một ánh sáng của Chúa Kitô; cùng nhau chúng ta sẽ mang ánh sáng Phúc Âm vào trong toàn thực tại.

Câu hỏi sau cùng đâu là mục đích của dân Chúa? Mục đích là Nước Thiên Chúa, đã được chính Thiêm Chúa bắt đầu trên trái đất và phải được trải rộng cho tới ngày thành toàn, khi Chúa Kitô, sự sống của chúng ta sẽ tái xuất hiện (LG 9). Khi đó mục đích là sự hiệp thông tràn đầy với Chúa, gia đình cùng với Chúa bước vào trong chính cuộc sống của Thiên Chúa, nơi chúng ta sẽ sống niềm vui tình yêu vô cùng của Người. Niềm vui tràn đầy.

Anh chị em thân mến, là Giáo Hội, là dân của Thiên Chúa, theo chương trình tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa Cha, có nghĩa là men của Thiên Chúa trong nhân loại này, có nghĩa là loan báo và đem ơn cứu rỗi của Thiên Chúa vào trong thế giới này của chúng ta, thường lạc đường, cần đến các câu trả lời khích lệ trao ban hy vọng, trao ban sức mạnh mới cho con đường cuộc sống. Ườc chi Giáo Hội là nơi của lòng thương xót và niềm hy vọng của Thiên Chúa, nơi mỗi người có thể cảm thấy mình được tiếp nhận, yêu thương và khích lệ sống theo cuộc sống tốt lành của Tin Mừng. Và để cảm thấy mình được tiếp đón, yêu thương, tha thứ và khích lệ, các cánh cửa của Giáo Hội phải luôn luôn rộng mở, để mọi người có thể đến và chúng ta phải ra khỏi các cửa ấy và loan báo Tin Mừng.

Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào Ủy Ban quốc tế Hiệp hội thánh Vinh Sơn Phaolô nhân kỷ niệm 200 năm ngáy sinh của người sáng lập là ông Frederic Ozanam. Ngài cũng chào các phái đoán đến từ Nhật Bản, Nam Hàn và Việt Nam cũng như Úc, Argentina, Mexico, Puerto Rico, Costa Ricca, Colombia và Brasil.

Ngài cũng chào nhóm các tân Linh Mục giáo phận Brescia và thân nhân cũng như đoàn hành hương các giáo phận Assisi, Nocera Umbria, Gualdo Tadino, Liên hiệp nông nghiệp và món qùa họ tặng ngài cho các công tác trợ giúp bác ái.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Cũng như các lần trước hôm qua Đức Thánh Cha cũng dành ra một giờ rưỡi để chào tín hữu và những người tàn tật. Việc tặng mũ calốt trắng cho ngài đã trở thành mốt, nên hầu như lần nào Đức Thánh Cha cũng có mũ mới và ngài tặng mũ đang đội lại cho tín hữu làm kỷ niệm. Hôm qua có một em gái tàn tật ôm hôn Đức Thánh Cha đến mấy lần. Còn các trẻ em nhớ lời ngài nói trong một buổi tiếp kiến khi Đức Thánh Cha tiến đến chào, các em không gọi tên Francesco nữa, gân cổ lên mà gọi tên Giêsu.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi chống nạn bóc lột lao động trẻ em

Đức Thánh Cha kêu gọi chống nạn bóc lột lao động trẻ em

VATICAN. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ lên án nạn bóc lột sức lao động trẻ em đang lan tràn tại nhiều nơi, nhất là tại các nước nghèo.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 12 tháng 6-2013, tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Hôm nay trên toàn thế giới có cử hành 'Ngày Thế Giới chống nạn lao động trẻ em', đặc biệt nói về nạn bóc lột trẻ em trong công việc trong nhà: đây là một hiện tượng đáng lên án đang liên tục gia tăng, nhất là tại các nước nghèo. Hàng triệu trẻ vị thành niên, nhất là các trẻ nữ, nạn nhân của nạn bóc lột âm thầm này, nhiều khó có cả những vụ lạm dụng tính dục, ngược đãi và kỳ thị. Đây thực là một sự nô lệ.

”Tôi nhiệt liệt cầu mong Cộng đồng quốc tế có thể đề ra những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để đương đầu với tai ương đích thực này. Tất cả các trẻ em phải được chơi đùa, học hành, cầu nguyện và tăng trưởng, trong gia đình của các em, trong một khung cảnh hòa hợp, yêu thương và thanh thản. Những người ấy, thay vì để các em chơi đùa, thì lại biến các em thành nô lệ. Thực là một tai ương. Đây là một quyền của các em và cũng là một nghĩa vụ của chúng ta. Một tuổi thơ thanh thản giúp các em tin tưởng nhìn về cuộc sống và tương lai. Khốn cho kẻ nào bóp nghẹt nơi các em niềm hy vọng vui tươi!” (SD 12-6-2013)

Lời kêu gọi của Đức TGM Thissen

Mặt khác, Đức Cha Werner Thissen, TGM giáo phận Hamburg ở miền bắc Đức, kêu gọi phát động một cuộc chiến quyết liệt chống lại lao động trẻ em.

Tuyên bố hôm 12-6-2013 tại Hamburg, Đức TGM Thissen đặc biệt tố giác nạn bóc lột sức lao động trẻ em tại Ấn độ, nhất là trong kỹ nghệ sản xuất thảm. Tình trạng bóc lột này gây thiệt hại cho sức khỏe của các em.
Đức TGM Thissen cũng là Chủ tịch cơ quan bác ái Misereor của HĐGM Đức chuyên trợ giúp phát triển. Ngài cho biết ”Những người cộng tác với các dự án của tổ chức Misereor ở bang Uttar Pradesh báo động rằng tệ nạn bóc lột sức lao động trẻ em tại bang này lại gia tăng”.

Đức TGM Thissen kêu gọi hoàn toàn áp dụng Hiệp ước của LHQ về quyền của các trẻ em. Hiệp ước này bắt đầu có hiệu lực tại Đức từ năm 1992. Hiệp ước cấm bóc lột sức khỏe trẻ em trong lãnh vực kinh tế, để bảo vệ các em về mặt sức khỏe và tâm lý. Ngoài ra, Đức Cha yêu cầu du nhập quyền của các trẻ em vào trong Hiến Pháp nước Đức và nói rằng: ”Chúng tôi hy vọng nhờ biện pháp này có sự củng cố ý thức của mọi người về quyền của các trẻ em, tại Đức cũng như trên toàn thế giới”.

Theo tổ chức Misereor, có khoảng 190 triệu trẻ em nam nữ, từ 5 đến 14 tuổi phải làm việc trong những điều kiện như bị bóc lột và có hại cho sức khỏe” (KNA 12-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh và Việt Nam tiếp tục đàm phán, vòng thứ tư.

Tòa Thánh và Việt Nam tiếp tục đàm phán, vòng thứ tư.

Nhằm mục đích tăng cường và phát triển quan hệ song phương giữa Việt Nam và Tòa Thánh, Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam – Tòa Thánh sẽ nhóm họp vòng 4 vào ngày 13 và 14 tháng Sáu tại Vatican. Sáng nay thứ Ba 11-06, Hôm thứ Ba, Cha Federico Lombardi, giám đốc Văn phòng báo chí của Tòa Thánh, đã đưa ra lời tuyên bố

Cuộc họp này đã được quyết định tại cuộc họp vòng 3 vào tháng Hai năm 2012 tại Hà Nội. Thông cáo chung chính thức cho biết cuộc họp lần trước đã diễn ra “trong bầu khí thân ái, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau”. Hai bên đều đề cao những phát triển tích cực, thiện chí và đối thoại xây dựng. Phái đoàn Tòa Thánh mong muốn vai trò và sứ mạng của Vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Girelli, được củng cố và mở rộng, và công việc của ngài được thuận lợi. Đoàn đại biểu Việt Nam đã khuyến khích Giáo hội Công giáo tích cực tham gia phát triển đất nước.Cuộc họp thứ tư sẽ đi vào sâu hơn và phát triển những sự quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh.

Ngoài ra, theo Thông tấn xã Việt Nam, tại cuộc họp vòng 4, Đoàn Việt Nam sẽ do Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn làm Trưởng đoàn và Đoàn Tòa Thánh Vatican do Thứ trưởng Ngoại giao Antonio Camilleri làm Trưởng đoàn.

Theo Vatican Radio

 

 

 

Thánh Tâm Chúa Giêsu là tình yêu tinh tuyền và lòng thương xót thứ tha

Thánh Tâm Chúa Giêsu là tình yêu tinh tuyền và lòng thương xót thứ tha

Thánh Tâm Chúa Giêsu diễn tả tột đỉnh tình yêu và lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa đối với con người. Nó là suối nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới. Chúng ta hãy học biết sống khiêm nhường và thương xót đối với tha nhân.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với gần 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin chung với Đức Thánh Cha tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 9 tháng 6-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về tháng 6 là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, là kiểu loài người diễn tả tột đỉnh tình yêu thương của Thiên Chúa. Ngài nói thật thế, thứ sáu vừa qua chúng ta đã cử hành lễ trọng Thánh Tâm Chúa Kitô, và ngày lễ này trao ban cung điệu cho toàn tháng 6. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa biểu tượng Thánh Tâm Chúa như sau:

Lòng đạo đức bình dân đánh gía rất cao các biểu tượng, và Trái tim Chúa Giêsu là biểu tượng tuyệt diệu lòng thương xót của Thiên Chúa: nhưng nó không là một biểu tượng tưởng tượng, nó là biểu tượng thực sự, diễn tả trung tâm, diễn tả suối nguồn, từ đó vot ra ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Trong các Phúc âm chúng ta tìm thấy các quy chiếu khác nhau về Trái Tim Chúa Giêsu, chẳng hạn trong văn bản trong đó Chúa Kitô nói: ”Các con tất cả là những kẻ mệt nhọc và bị áp bức, hãy đền cùng Thầy, và Thầy sẽ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của Thầy và học nơi Thầy, là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,28-29). Thế rồi nền tảng là trình thuật cái chết của Chúa Kitô theo thánh Gioan. Thật thế, thánh sử làm chứng điều thánh nhân đã trông thấy trên núi Sọ, nghĩa là sự kiện khi Chúa Giêsu đã chết, một người lính lấy đòng đậm cạnh sườn Người và từ vết thương đó máu và nước chảy ra (x. Ga 19,33-34). Thánh Gioan nhận ra trong dấu chỉ ấy, xem ra là tình cờ, việc thành toàn các lời tiên tri: từ tim của Chúa Giêsu, là Chiên Con bị sát tế trên thập giá, nảy sinh ra ơn tha tội và sự sống cho tất cả mọi người. Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dự:

Nhưng lòng thương xót của Chúa Giêsu không chỉ là một tâm tình, còn hơn thế nữa, nó là một sức mạnh trao ban sự sống, làm cho con người sống lại! Tin Mừng hôm nay cũng nói với chúng ta về điều này, trong giai thoại bà góa làng Naim (Lc 7,11-17). Với các môn đệ Chúa Giêsu đang đến Naim, một làng trong vùng Galilea, chính trong lúc diễn ra một đám tang: người ta đem chôn một thanh niên, con trai duy nhất của một bà góa. Cái nhìn của Chúa Giêsu lập tức dán chặt trên bà mẹ đang khóc. Thánh sự Luca nói rằng: ”Khi trông thấy bà, Chúa cảm thấy một sự xót thương lớn đối với bà” (c. 13). Sự xót thương này là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, là sự thương xót, nghĩa là thái độ của Thiên Chúa tiếp xúc với sự khốn cùng của con người, với sự nghèo nàn của chúng ta, với khổ đau và sự âu lo của chúng ta. Từ xót thương trong Thánh Kinh gợi lại lòng dạ của bà mẹ: thật vậy, người mẹ cảm nhận một phản ứng hoàn toàn là của bà trước nỗi khổ đau của con cái. Thánh Kinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế.

Và đâu là hoa trái của tình yêu thương, của lòng thương xót của Thiên Chúa? Đó là sự sống! Chúa Giêsu nói với bà góa thành Naim: ”Đừng khóc!”, rồi Người gọi thanh niện đã chết, và đàmh thức anh ta dậy như từ một giấc ngủ (x. cc. 13-15). Đức Thánh Cha chú thích cử chỉ này của Chúa Giêsu như sau:

Chúng ta hãy nghĩ tới điều này, thật là đẹp: lòng thương xót của Thiên Chúa trao ban sự sống cho con người, cho nó sống lại từ cái chết. Chúa luôn luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, chúng ta đừng quên điều này, Người luôn luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, Người chờ đợi chúng ta với lòng thương xót. Chúng ta đừng sợ đến gần Người! Người có một con tim thương xót! Nếu chúng ta cho Người thấy các vết thương nội tâm của chúng ta, tội lỗi của chúng ta, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta. Người là lòng thương xót tinh tuyền. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu!

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Chúng ta hướng lên Đức Trinh Nữ Maria: con tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, con tim bà mẹ, đã chia sẻ tột đỉnh lòng thương xót của Thiên Chúa, đặc biệt trong giờ của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết khiêm nhường và thương xót với các anh chị em khác.

Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin chào các tín hữu Đức Thánh Cha nói hôm nay tại Cracovia có hai nữ tu Ba Lan được tôn phong Chân phước: đó là chị Sofia Czeska Maciejowska, là người hồi tiền bán thế kỷ XVII đã thành lập Dòng các Trinh nữ dâng Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc, và chị Margherita Lucia Szewczyk, là người hồi thế kỷ XIX đã thành lập Dòng các Nữ tử Trinh Nữ Maria Sầu Bi Diễm Phúc. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa với Giáo Hội tại Cracovia.

Tôi xin thân ái chào tất cả các khách hành hương hiện diện hộm nay: các nhóm giáo xứ, các gia đình, các học sinh, các hội đoàn, các phong trào. Tôi xin chào tất cả mọi người. Tôi cũng xin chào một đoàn hành hương đến từ Mombay bên Ấn Độ. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào các nhóm đến từ nhiều nơi trong nước Italia, Cuối cùng ngài nhắc lại: Hôm nay chúng ta đừng quên tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu của Chúa Giêsu: Người luôn nhìn chúng ta, yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta. Người là tất cả con tim và lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu với lòng tin tưởng, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

HÃY TRỖI DẬY

HÃY TRỖI DẬY

Một số người cho rằng Đức Giê-su đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng bận tâm. Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Đức Ki-tô còn luôn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa. Một bằng chứng cụ thể là Người luôn đến với kẻ nghèo hèn, tật bệnh để an ủi và chữa lành cho họ. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Người đã dạy: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 7-8). Và Người đã thực hiện đúng như Lời Người đã giảng dạy. Ấy cũng bởi vì con người là một hữu thể có nhị nguyên tính luôn tồn tại trong nhau: thân xác (vật thể) và tâm hồn (linh thể).

Thật thế, khi dựng nên con người, “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2, 7). Điều đó cho thấy, con người là một hữu thể bao gồm cả tâm linh và thân xác. Hiến chế về Mục Vụ (“Gaudium et Spes”, số 14) đã khẳng định: “Con người duy nhất với xác hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất… Nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật… Như vậy, khi nhìn nhận mình có một linh hồn thiêng liêng, bất tử, con người không phải là bị mê hoặc bởi một thứ ảo tưởng phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội. Trái lại, nhìn nhận như thế là con người đã đạt tới chính chân lý sâu xa.” Đức Giê-su Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi, đương nhiên Người không bao giờ chỉ chú trọng tới phần tâm linh, mà còn chú ý tới cả phần thể xác của các tín hữu nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.X/TN-C – Lc 7, 11-17) là một minh hoạ: Trước hoàn cảnh bi thương của một bà goá ở thành Na-in khóc tiễn đứa con trai duy nhất, mặc dù bà mẹ không cầu xin, nhưng Đức Ki-tô vẫn chạnh lòng thương, sờ vào quan tài và phán: “Hãy trỗi dậy!”, tức thì người chết sống lại. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Phải chân nhận rằng ngay từ khi bắt đầu khai mạc sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng tỏ Người không những chỉ lo cho phần rỗi (tâm linh) của con người, mà Người còn lo cho cả phần xác của họ nữa (câu chuỵên “Tiệc cưới Ca-na” – Ga 2, 1-12). Tương tự như phép lạ cho con trai bà goá ở Na-in được sống lại, Chúa Giê-su đã truyền cho La-da-rô (em của Mac-ta và Maria) chết chôn trong mồ đã 4 ngày được sống lại; nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui (Ga 11, 32-43). Và rất nhiều phép lạ khác Đức Giê-su đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, người đói được ăn…

Tất cả những biện giải trên minh hoạ cho Lời dạy của Đức Ki-tô: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4). Nghĩa là con người sống trên đời cần cả cơm bánh (nuôi dưỡng thể xác) và Lời Chúa (dưỡng nuôi tâm hồn). Và vì thế, song song với việc lo cho thể xác những người đi theo, Đức Giê-su còn lo cả về đời sống tâm linh của họ nữa. Người không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn; nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt trên nền tảng tình yêu (“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” – Ga 13, 34). Như vậy, đem lại niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu cho những người chung quanh là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giê-su. Vì thế, Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể làm lương thực trường tồn cho mọi tín hữu, cho Giáo Hội lữ hành đang trên đường tiến về quê Trời vĩnh cửu.

Đức Giê-su Ki-tô đã vì tình yêu mà chữa lành thân xác cho những kẻ đui mù câm điếc, phong hủi què quặt, kể cả những thân xác không còn sinh khí (đã chết). Song song với việc chữa lành thân xác cho con người, Người vẫn tiến hành sứ vụ chữa lành chứng bệnh đui mù câm điểc, phong hủi què quặt về đường tâm linh và nhất là sự chết trong tội lỗi của nhân loại. Ấy cũng bởi vì Người chính là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, dùng chính thân mình làm của lễ toàn thiêu tiêu diệt sự chết, giải thoát con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại. Lời Đức Ki-tô gọi con của bà goá ở thành Na-in “Hãy trỗi dậy”, cũng là Lời Chúa gọi từng mỗi người Ki-tô hữu hôm nay.

Vâng, người Ki-tô hữu hôm nay đã được cùng chết với Đức Ki-tô và cùng được trỗi dậy với Người “nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3, 1-4). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới bằng chính cuộc sống thực hành Lời Chúa nơi hạ giới, ấy mới là những kẻ khôn ngoan. Một cách cụ thể là chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui.

Tóm lại, Đấng Ban Sự Sống đến trần gian ban cho nhân loại không chỉ sự sống mau qua (như trường hợp con trai bà goá ờ thành Na-in, trường hợp anh La-da-rô hoặc những phép lạ hoá bánh ra nhiều, phép lạ chữa cho những người đui, què, câm, điếc được khỏi…), mà nhất là còn ban cho nhân loại sự sống đời đời. Người luôn kêu gọi con người “Hãy trỗi dậy” từ cõi chết, để được chung hưởng hồng ân Phục Sinh nơi Cõi Phúc Trường Sinh. Nào, xin mời “Hãy trỗi dậy hỡi ai ngủ mê. Hãy trỗi dậy từ cõi chết, Chúa sẽ chiếu ngời ánh quang vinh trên đầu ngươi. TK: Ðã bao năm qua gian trần miệt mài sống trong vòng u tối. Giờ được Chúa dẫn vào nguồn sống, ta hãy bước theo đường quang vinh.” (TCCĐ “Hãy trỗi dậy”). Ước được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD

Tổng thống Italia viếng thăm chính thức Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Tổng thống Italia viếng thăm chính thức Đức Giáo Hoàng Phanxicô

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến Tổng thống Giorgio Napolitano của Italia sáng 8 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô nhấn mạnh nghĩa vụ bênh vực tự do tôn giáo, và kêu gọi giữ vững hy vọng trong nỗ lực vượt thắng các cuộc khủng hoảng hiện nay.

Đây là cuộc viếng thăm chính thức của Tổng thống Napolitano sau lần gặp gỡ ĐTC Phanxicô vào cuối buổi lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ngài. Tháp tùng ông có phu nhân và đoàn tùy tùng gồm 13 người.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC ca ngợi quan hệ tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Italia cũng như sự cộng tác chặt chẽ giữa hai bên. Ngài nhắc đến sự kiện năm nay là dịp kỷ niệm 1.700 năm, sắc chỉ Milano được Hoàng đế Constantino ban hành năm 313 để tha bách hại Kitô giáo. Nhiều người coi đây là biểu tượng sự khẳng định đầu tiên về nguyên tắc tự do tôn giáo.

ĐTC nói: ”Trong thế giới ngày nay, tự do tôn giáo thường được khẳng định hơn là được thực hiện. Thực vậy, tự do tôn giáo phải chịu nhiều loại đe dọa và nhiều khi bị vi phạm. Những vụ chà đạp trầm trọng quyền tự do cơ bản này là nguồn mạch gây ra lo âu và phải được các nước trên thế giới đồng thuận phản ứng, tái khẳng định phẩm giá bất khả nhượng của con người, chống lại mọi vi phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ bảo vệ tự do tôn giáo và thăng tiến tự do này cho mọi người. Trong việc cùng nhau bảo vệ thiện ích luân lý ấy, có một sự bảo đảm cho việc tăng trưởng và phát triển toàn thể cộng đồng”.

ĐTC cũng đề cập đến những cuộc khủng hoảng hiện nay tại Italia cũng như nhiều nước trên thế giới, làm cho các vấn đề kinh tế và xã hội thêm trầm trọng, đè nặng đặc biệt trên các thành phần yếu thế nhất trong xã hội. Nhất là có những hiện tượng đáng lo âu như gia đình và các liên hệ xã hội bị suy yếu, dân số giảm sút, lợi lộc được coi trọng hơn lao công, sự lưu tâm không đủ đối với các thế hệ trẻ và việc huấn luyện cho họ để có một tương lai thanh thản và chắc chắn hơn”.

ĐTC nói: ”Trong thời điểm khủng hoảng như hiện nay, một điều cấp thiết là, trong các nỗ lực chính trị, cần có sự quan tâm nhiều hơn đối với người trẻ, và các tín hữu cũng như những người không tí ngưỡng càn cộng tác với nhau để thăng tiến một xã hội trong đó bất công được khắc phục và mỗi người được đón nhận, cũng như có thẻ góp phần vào công ích theo phẩm giá của mình”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi đừng đánh mất hy vọng và nói rằng: ”Bao nhiêu tấm gương trong chiều hướng này đã được các ông bà chúng ta nêu lên, khi đương đầu với những thử thách cam go trong thời đại các ngài, với lòng can đảm và tinh thần hy sinh. Nhiều lần ĐGH Biển Đức 16 đã lập lại rằng cuộc khủng hoảng hiện nay phải là cơ hội để canh tân các quan hệ nhân bản trong tình huynh đệ. Cả dân tộc Italia, kín múc từ truyền thống Kitô rất phong phú của mình trong tinh thần tín thác và sáng tạo, cũng như từ tấm gương của các vị thánh bổn mạng Phanxicô Assisi và Catarina Siena và nhiều nhân vật đạo đời, từ chứng tá âm thầm của bao nhiêu người nam nữ, Italia có thể và phải khắc phục mọi chia rẽ và tăng trưởng trong công lý và hòa bình, nhờ đó tiếp tục giữ vai trò đặc thù trong bối cảnh Âu Châu và trong gia đình các dân nước”.

Sau khi gặp ĐTC, Tổng thống Napolitano và đoàn tùy tùng đã gặp ĐHY Bertone Quốc vụ khanh, và ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh (SD 8-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

VATICAN. Sáng 7 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến hơn 8 ngàn học sinh và giáo chức, phụ huynh các trường trung tiểu học của Dòng Tên tại Italia và Albani.

Trong số các học sinh hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, đông nhất là 2,030 em thuộc trường Massimo ở Roma, 1.800 em từ trường Lêô 13 ở Milano, 1.500 em từ trường Sociale ở Torino. Ngoài ra cũng có 60 em học sinh từ trưởng Mashkalla ở thành phố Scutari, bắc Albani.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC tóm tắt bài huấn từ dọn sẵn dài 5 trang, và trả lời các câu hỏi do các em học sinh nêu lên như về ơn gọi dòng Tên, về cuộc khủng hoảng kinh tế với căn cội là khủng hoảng con người; về sự dấn thân của giáo dân trong chính trị để phục vụ công ích, v.v.

Trả lời một em bé, ĐTC cho biết đã quyết định không ở trong dinh Tông Tòa vì những lý do tâm lý, muốn ở giữa dân chúng, không muốn ở một mình, chứ không phải vì căn hộ Giáo Hoàng là sang trọng.

ĐTC cho biết sở dĩ ngài đi tu dòng Tên vì đặc tính truyền giáo của dòng. Ngài đã viết thư xin cha Bề trên Tổng quyền Arupe cho đi truyền giáo bên Trung Quốc, nhưng bị BT từ chối vì lý do sức khỏe (đau phổi)..

Trong bài huấn từ dọn sẵn, mà ĐTC khuyên các học sinh đọc sau đó, ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các em học sinh hãy có tâm hồn đại đảm, ước muốn những lý tưởng cao thượng, mong ước thực hiện được những công việc lớn lao để đáp lại điều Chúa muốn, chu toàn tốt đẹp những công việc hằng ngày, làm những công tác nhỏ bé thường nhật với một con tim cởi mở đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để có tâm hồn đại đảm với tự do nội tâm và tinh thần phục vụ thì cần được huấn luyện về linh đạo. Các bạn trẻ thân mến, hãy yếu mến Chúa Kitô ngày càng nồng nhiệt hơn! Đời sống chúng ta là một lời đáp trả tiếng Chúa gọi và các bạn sẽ hạnh phúc và kiến tạo cuộc sống tốt đẹp nếu các bạn biết đáp lại tiếng gọi của Chúa. Hãy cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong đời sống các bạn. Chúa gần gũi với mỗi người trong các bạn như một người bạn đồng hành, biết giúp đỡ và cảm thông, khuyến khích các bạn trong những lúc khó khăn và không bao giờ bỏ rơi các bạn”.

ĐTC không quên nhắc nhở các tu sĩ dòng Tên, các nhà giáo dục và phụ huynh đừng nản chí trước những khó khăn mà thách đố giáo dục đang đề ra! Ngài nói:

”Giáo dục không phải là một nghề, nhưng là một thái độ, một lối sống; để giáo dục, cần phải ra khỏi chính mình và ở giữa các bạn trẻ, tháp tùng họ trong những giai đoạn tăng trưởng của họ, đứng cạnh họ. Hãy mang lại hy vọng, lạc quan cho hành trình của các học sinh giữa lòng thế giới. Hãy dạy họ nhìn vẻ đẹp và sự tốt lành của công trình tạo dựng và của con người, vốn luôn mang vết tích của Đấng Tạo Hóa. Nhưng nhất là anh chị em hãy làm chứng bằng chính cuộc sống những gì anh chị em truyền đạt”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Một nhà giáo dục – là tu sĩ dòng Tên, là giáo chức, phụ huynh – thông truyền các kiến thức, các giá trị bằng lời nói, nhưng những lời này sẽ ảnh hưởng quyết định trên người trẻ nếu có chứng tá cuộc sống đi kèm lời nói, nếu cuộc sống đi đôi với lời nói, nếu không thì không thể giáo dục. Anh chị em là những nhà giáo dục, và không có sự ủy quyền trong lãnh vực này” (SD 7-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

NIỀM VUI GÓA PHỤ

NIỀM VUI GÓA PHỤ

“Trông thấy bà, Chúa động lòng thương”.

Ôi, con mắt của Thiên Chúa, cái nhìn thấy của Thiên Chúa có khác con mắt và cái nhìn của con người trần gian.

Trước cái chết của một con người, ai cũng ngậm ngùi thương tiếc người đã ra đi, ai cũng thở than cuộc người sao ngắn ngủi. Có người lại còn suy luận rằng: “Ta rồi cũng phải chết. Thế thì không hưởng thụ cho hết cuộc đời này trước khi chết, thì thật là dại dột”. Họ còn tự cho cái suy luận của mình như thế là có khoa học, là văn minh, là kim chỉ nam cho mình, là chủ trương, là đường lối cho những thuộc hạ mình noi theo! Thật tồi tệ!
 
Trong Tin Mừng hôm nay, trước cái chết của thanh niên, con trai duy nhất của bà góa thành Naim, điều mà Chúa Giê-su thấy trước tiên lại là nỗi đau của người mẹ đã mất chồng, nay lại mất con, nỗi đau của người sẽ cô độc trong đời. Và Chúa động lòng thương bà ấy.

Người đã chết rồi còn đau khổ gì không?
Kẻ góa bụa tan nát lòng, đứt ruột
Một đời yêu trên dương trần cơ cực
Được mấy ngày thực hạnh phúc bên nhau
 
Chút con trai niềm vui sống ngọt ngào
Lấp khoảng trống trước sau căn nhà nhỏ
Tình mẹ con sớm chiều thương bày tỏ
Cũng vội vàng từ  bỏ mẹ mà đi….
(“Chúa  đã viếng thăm” – Ba Chuông)

Không chỉ động lòng thương theo kiểu của người thường là một chút xúc động hời hợt bất thường, một tình cảm tự nhiên chóng qua, Chúa Giê-su còn thể hiện tình thương ấy bằng việc “đưa tay chạm vào quan tài” người thanh niên, một việc mà thời bấy giờ người ta cho là ô uế, nhớp nhúa. Ngay cả thời nay, lúc hãy còn sống, thì thân người ôi thơm tho, người muốn nắm tay người, người muốn hôn lên môi người, người muốn ôm lấy thân người để biểu tỏ tình cảm với người, nhưng khi người đã nhắm mắt xuôi tay, nào ai dám đến gần vuốt mặt, cầm tay….nghĩ cũng đáng buồn cho kiếp người.

Chúa chạm tay vào quan tài, và Lời Chúa tuyên phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Nắp áo quan bỗng mở ra. Một thi hài bất động bỗng ngồi lên cười nói trước mắt mọi người, trước mắt nhóm người theo Chúa và trước mắt nhóm người đi trong đám tang.

“Thanh niên hỡi, hãy chỗi dậy rỡ ràng”
Tấm nắp mở toang, người chết đang ngồi dậy
“Này góa phụ, con trai bà sống lại”
Thật diệu kỳ, mẹ  ôm lấy con yêu
(“Chúa  đã viếng thăm” – Ba Chuông)

Tất cả mọi người sững sờ trước chuyện xưa nay chưa từng có. Có thể họ đã bàn tán xôn xao: Con mắt của Người nhìn thấu tận tâm can, thấu từng nỗi đau mà người đời khó  thấy. Bàn tay của Người thực hiện bao việc lạ lùng. Lòng thương của Người thật vĩ đại. Lời Người thật quyền năng. Thánh Luca ghi rõ tâm trạng của những người chứng kiến việc thanh niên kia sống lại là “sợ hãi và ngợi khen”. Đây hẳn không phải sự sợ hãi trước một sự dữ khủng khiếp kinh hoàng, nhưng là sự nghiêng mình kính phục trước quyền năng và lòng từ ái vô biên của Thiên .

“Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người".

Và  khi đã mục kích, đã hết lòng khâm phục, đã yên tâm tin tưởng vào quyền năng và lòng từ ái ấy, họ trở thành chứng nhân cho Thiên Chúa:

“Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận”.

Cho mọi người hiểu biết về Thiên Chúa qua Đức Ki-tô, kính phục tôn thờ mến yêu tin tưởng Thiên Chúa nơi Người, và loan truyền ơn cứu độ của Người khắp cùng thiên hạ, là mục đích của Người qua phép lạ làm cho con trai bà góa thành Naim sống lại.

“Xin ngợi ca lòng nhân Chúa tỏ tường
Vinh hiển Chúa khắp mười phương thiên hạ
Hằng hà sao hằng hà ơn phước cả
Vạn niềm đau, muôn phép lạ lẫy lừng”
(“Chúa đã viếng thăm”  – Ba Chuông)

Qua trang Tin Mừng hôm nay, ước gì mỗi chúng ta được:

– Mặc lấy cái nhìn yêu thương, thông cảm của Chúa, để biết chạnh lòng xót thương những mảnh đời đau khổ.

– Không ngại khiêm cung cúi thấp mình xuống để chạm vào nỗi đau của anh em, không ngại tanh hôi, thối vữa, không ngại những lời chỉ trích phê phán của những kẻ chỉ thích ăn trên, ngồi trước, sống chết mặc ai dưới chân mình.

– Tin tưởng Lời Chúa có sức làm cho chính mình được  ơn Phục Sinh, ơn đổi mới, ơn công chính và cũng dùng chính Lời Chúa làm động lực thi thố lòng thương xót của Chúa đối với tất cả mọi người.

– Tạ ơn Chúa, tôn vinh Chúa trong cuộc sống chúng ta bằng cách sống trọn vẹn ơn công chính để trở thành lời chứng cho Tin Mừng, lời chứng cho danh Thiên Chúa trên khắp vũ hoàn.
 
Lạy Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa Uy Quyền và Giàu Lòng Thương Xót, xin cứu sống linh hồn chúng con, và cho chúng con ca tụng danh Chúa đến muôn đời. A men.

PM. Cao Huy Hoàng

ĐỪNG KHÓC NỮA

ĐỪNG KHÓC NỮA

Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì  không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen.

Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại.

Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra.

Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa.Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết.

Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nổi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”. Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng.

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại.Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại” (1V 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại…Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35).

Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv 20, 7-12).

So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc Âm kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)…

Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết.

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại đón các con…”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời:”Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người.
 
Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ : R. I. P. Ðây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh : requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu ! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi.
 
Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mạn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

VATICAN. Sáng 7 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến hơn 8 ngàn học sinh và giáo chức, phụ huynh các trường trung tiểu học của Dòng Tên tại Italia và Albani.

Trong số các học sinh hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, đông nhất là 2.030 em thuộc trường Massimo ở Roma, 1.800 em từ trường Lêô 13 ở Milano, 1,500 em từ trường Sociale ở Torino. Ngoài ra cũng có 60 em học sinh từ trưởng Mashkalla ở thành phố Scutari, bắc Albani.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC tóm tắt bài huấn từ dọn sẵn dài 5 trang, và trả lời các câu hỏi do các em học sinh nêu lên như về ơn gọi dòng Tên, về cuộc khủng hoảng kinh tế với căn cội là khủng hoảng con người; về sự dấn thân của giáo dân trong chính trị để phục vụ công ích, v.v.

Trả lời một em bé, ĐTC cho biết đã quyết định không ở trong dinh Tông Tòa vì những lý do tâm lý, muốn ở giữa dân chúng, không muốn ở một mình, chứ không phải vì căn hộ Giáo Hoàng là sang trọng.

ĐTC cho biết sở dĩ ngài đi tu dòng Tên vì đặc tính truyền giáo của dòng. Ngài đã viết thư xin cha Bề trên Tổng quyền Arupe cho đi truyền giáo bên Trung Quốc, nhưng bị BT từ chối vì lý do sức khỏe (đau phổi)..

Trong bài huấn từ dọn sẵn, mà ĐTC khuyên các học sinh đọc sau đó, ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các em học sinh hãy có tâm hồn đại đảm, ước muốn những lý tưởng cao thượng, mong ước thực hiện được những công việc lớn lao để đáp lại điều Chúa muốn, chu toàn tốt đẹp những công việc hằng ngày, làm những công tác nhỏ bé thường nhật với một con tim cởi mở đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để có tâm hồn đại đảm với tự do nội tâm và tinh thần phục vụ thì cần được huấn luyện về linh đạo. Các bạn trẻ thân mến, hãy yếu mến Chúa Kitô ngày càng nồng nhiệt hơn! Đời sống chúng ta là một lời đáp trả tiếng Chúa gọi và các bạn sẽ hạnh phúc và kiến tạo cuộc sống tốt đẹp nếu các bạn biết đáp lại tiếng gọi của Chúa. Hãy cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong đời sống các bạn. Chúa gần gũi với mỗi người trong các bạn như một người bạn đồng hành, biết giúp đỡ và cảm thông, khuyến khích các bạn trong những lúc khó khăn và không bao giờ bỏ rơi các bạn”.

ĐTC không quên nhắc nhở các tu sĩ dòng Tên, các nhà giáo dục và phụ huynh đừng nản chí trước những khó khăn mà thách đố giáo dục đang đề ra! Ngài nói:

”Giáo dục không phải là một nghề, nhưng là một thái độ, một lối sống; để giáo dục, cần phải ra khỏi chính mình và ở giữa các bạn trẻ, tháp tùng họ trong những giai đoạn tăng trưởng của họ, đứng cạnh họ. Hãy mang lại hy vọng, lạc quan cho hành trình của các học sinh giữa lòng thế giới. Hãy dạy họ nhìn vẻ đẹp và sự tốt lành của công trình tạo dựng và của con người, vốn luôn mang vết tích của Đấng Tạo Hóa. Nhưng nhất là anh chị em hãy làm chứng bằng chính cuộc sống những gì anh chị em truyền đạt”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Một nhà giáo dục – là tu sĩ dòng Tên, là giáo chức, phụ huynh – thông truyền các kiến thức, các giá trị bằng lời nói, nhưng những lời này sẽ ảnh hưởng quyết định trên người trẻ nếu có chứng tá cuộc sống đi kèm lời nói, nếu cuộc sống đi đôi với lời nói, nếu không thì không thể giáo dục. Anh chị em là những nhà giáo dục, và không có sự ủy quyền trong lãnh vực này” (SD 7-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhà ngoại giao tương lai của Tòa Thánh

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhà ngoại giao tương lai của Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 6 tháng 6-2013, dành cho các sinh viên trường ngoại giao Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các Linh mục sinh viên luôn vun trồng tự do nội tâm và đời sống thiêng liêng.

Trong số 45 người hiện diện tại buổi tiếp kiến, ngoài hơn 30 LM sinh viên, còn có ban giám đốc, và các nữ tu phục vụ tại trường, dưới sự hướng Đức TGM Giám đốc Benjamin Stella.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói: ”Công việc phục vụ tại các Sứ quán của Tòa Thánh là một công việc đòi phải có một tự do nội tâm sâu xa, giống như mọi loại sứ vụ linh mục. Các con hãy sống những năm chuẩn bị cho sứ vụ ấy với tinh thần dấn thân, quảng đại và tâm hồn cao thượng, để tự do nội tâm ấy thực sự hình thành nơi các con!”.

ĐTC giải thích các khía cạnh khác nhau của tự do nội tâm. ”Trước tiên có nghĩa là tự do khỏi các dự phóng cá nhân, khỏi một số cách thức cụ thể mà có lẽ các con đã nghĩ ra để sống chức LM của mình, khỏi khả thể hoạch định tương lai.. Tự do nội tâm cũng có nghĩa là trở nên tự do một cách nào đó đối với nền văn hóa và não trạng xuất xứ của các con, để cởi mở, cảm thông với các nền văn hóa khác, trong tinh thần bác ái.. Nhất là tự do nội tâm có nghĩa là cảnh giác để tránh những tham vọng hoặc mục tiêu cá nhân, chúng có thể gây thiệt hại rất nhiều cho Giáo Hội. Tóm tắt một lời, sứ vụ mà chúng con đang chuẩn bị đòi các con phải ra khỏi chính mình, một sự tách biệt chỉ có thể đạt được nhờ một hành trình thiêng liêng khẩn trương, nghiêm túc liên kết cuộc sống của các con với mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa và kế hoạch khôn lường trong ơn gọi của Chúa”.

ĐTC không quên nhắn nhủ các LM sinh viên trường ngoại giao Tòa Thánh hết sức chăm sóc đời sống thiêng liêng là nguồn mạch tự do nôi tâm, vun trồng đời sống cầu nguyện, công việc hằng ngày thành môi trường thánh hóa bản thân. Ngài nêu bật tấm gương của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 trong khi phục vụ như một nhà ngoại giao của Tòa Thánh, tại Bulgari, rồi Thổ nhĩ kỳ và Pháp (SD 6-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thư ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩ gửi các chủng sinh nhân Ngày Thánh Hóa các Linh Mục

Thư ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩ gửi các chủng sinh nhân Ngày Thánh Hóa các Linh Mục

Thứ Sáu 7 tháng 6-2013, Lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày Thánh Hóa các Linh Mục, do ĐTC Gioan Phaolô 2 thiết lập ngày 25 tháng 3 năm 1995. Trong thư gửi các LM nhân ngày Thứ năm Tun Thánh năm đó, ngài viết: ”Dưng như là điều thích hợp hơn bao giờ hết, đề nghị do Bộ giáo sĩ đưa ra về việc cử hành trong mỗi giáo phận một Ngày Thánh Hóa các linh mục, nhân dịp lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu”.

Lễ này do Đức Giáo Hoàng Piô 9 ấn định cho Giáo Hội hoàn vũ hồi năm 1856.
Nhân dịp Ngày Thánh Hóa các LM năm nay, ĐHY Mauro Piacenza, Tng trưởng Bộ giáo sĩ, đã công bố một thư gửi các chủng sinh trên thế giới, với nội dung như sau:

Các chủng sinh rất thân mến,

Với lễ trọng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, ngày Thánh Hóa các linh mục cũng được cử hành với đầy ý nghĩa, và vì các thầy ở trong chủng viện là để đáp lại ơn gọi một cách thích hợp tối đa, tôi thân ái gửi đến các thầy lá thư này để các thầy cảm thấy được can dự và được nhớ đến trong dịp ý nghĩa này.

Chúng ta cùng nhau suy niệm về thực tại nguyên thủy của ơn Chúa gọi. Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh về tính chất cụ thể của tình yêu mà tất cả các linh mục của Chúa Kitô và của Giáo Hội phải thực hành. Trong bài giảng nhân dịp thánh lễ dầu đầu tiên ngài cử hành (28-3-2013), Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: ”Đây là điều tôi xin anh em: anh em hãy trở thành những mục tử ”với mùi của đoàn chiên”. Qua hình ảnh xúc tích này, Người Kế Nhiệm thánh Phêrô mời gọi chúng ta hãy có một tình yêu nồng nhiệt và cụ thể đối với Dân Chúa, tình yêu này, như chính ĐGH đã nhận xét, không được nuôi dưỡng bằng những động lực hoàn toàn phàm nhân, cũng chẳng được củng cố nhờ những kỹ năng tự kỷ ám thị. Chính cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa, sự luôn ý thức sinh động chúng ta được Ngài kêu gọi, mang lại sức mạnh thực sự trổi vượt, siêu nhiên, để trở thành Linh Mục theo hình ảnh Vị Mục Tử nhân lành của mọi người, là Chúa Giêsu Kitô. Nhưng để được như thế trong tương lai, ngay từ bây giờ các thầy phải chuẩn bị. Với những lời rất rõ ràng, ĐGH Phanxicô nhắc nhở về chỗ đứng tối thượng của ơn thánh trong đời sống linh mục: ”Không phải nhờ tự cảm nghiệm, hoặc nhờ liên tục nhìn vào nội tâm mà chúng ta gặp gỡ Chúa: các khóa học về cách tự giúp đỡ mình trong cuộc sống có thể là hữu ích, nhưng sống đời sống linh mục của chúng ta bằng cách đi từ khóa học này đến khóa học khác, từ phương pháp này sang phương pháp khác, sẽ thúc đẩy linh mục trở thành những người chỉ cậy trông vào sức riêng và coi nhẹ sức mạnh của ơn thánh” (Ibidem).

Đối với người môn đệ, đồng hành với Chúa Kitô, bước đi trong ơn thánh, có nghĩa là mang trên vai gánh nặng của thánh giá Linh Mục với một niềm vui thiêng liêng. Chúng ta hãy nghe tiếp giáo huấn của Đức Thánh Cha về vấn đề này. Ngài viết: ”Khi chúng ta tiến bước mà không có thánh giá, khi chúng ta xây dựng mà không có thánh giá, và khi chúng ta tuyên xưng một Đức Kitô không có thánh giá, thì chúng ta không phải là môn đệ của Chúa, chúng ta là người của thế gian” (Bài giảng Thánh lễ với các Hồng Y ngày 14-3-2013). Trái lại, sống sứ vụ của chúng ta như một sự phục vụ Chúa Kitô của thập giá, làm cho chúng ta không coi Giáo Hội như một tổ chức phàm nhân, ”một tổ chức phi chính phủ (ONG) có màu sắc tôn giáo, chứ không phải là Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa” (Ibidem).

”Dưới ánh sáng những giáo huấn đầu tiên của ĐGH Phanxicô, tôi mời gọi các thầy hãy coi cuộc sống của mình như một hồng ân của Thiên Chúa, và đồng thời, như một nghĩa vụ được ủy thác cho các thầy, không phải như do con người mà thôi, nhưng xét cho cùng -qua sự trung gian cần thiết của Giáo Hội,- sự ủy nhiệm ấy là do chính Chúa, Đấng đã có một chương trình cho đời sống của các thầy và đời sống của những anh chị em mà các thầy sẽ được kêu gọi phục vụ”.

”Cần đọc lại toàn thể cuộc sống chúng ta như một ơn gọi của Chúa, chứ không phải chỉ là một sự quảng đại đáp trả của con người. Vấn đề ở đây là vun trồng nơi chúng ta sự ”nhạy cảm về ơn gọi”, giải thích cuộc sống như một cuộc đối thoại liên tục với Chúa Giêsu, Đấng phục sinh và hằng sống. Trong mọi thời đại, Chúa Kitô đã và đang kêu gọi một số người theo sát Ngài, cho họ tham gia vào chức Linh Mục của Ngài – điều này ngụ ý rằng, trong mỗi thời đại của lịch sử Giáo Hội, Chúa đã dệt lên một cuộc đối thoại ơn gọi với các tín hữu mà Chúa chọn, để họ trở thành những đại diện của Ngài giữa lòng Dân Chúa, và là những người trung gian giữa Trời và đất, đặc biệt là qua việc cử hành phụng vụ và bí tích. Thực vậy, chúng ta có thể nói, phụng vụ mở rộng cho chúng ta Trời trên trái đất này”.
”Trong viễn tượng đó, các thầy được kêu gọi, qua việc truyền chức, mà không có công trạng gì từ phía ta,- để trở thành những người trung gian giữa Thiên Chúa và dân, và làm cho cuộc gặp gỡ cứu độ có thể diễn ra nhờ việc cử hành các mầu nhiệm của Chúa. Mặc dù có những giới hạn, các thầy đã quảng đại và vui mừng đáp lại tiếng gọi ấy. Điều cần là các thày luôn giữ cho tâm hồn trẻ trung của các thầy được luôn sinh động: một con tim trẻ trung, dù 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung! Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua” (ĐGH Phanxicô, bài giảng Chúa nhật lễ lá, 24-3-2013, n.3).

”Sự trẻ trung của tinh thần linh mục, kiên trì trong ơn gọi, được bảo đảm nhờ kinh nguyện, nghĩa là nhờ thái độ liên tục giữ thinh lặng nội tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lắng nghe lời Chúa hằng ngày. Sự cởi mở liên tục của tâm hồn như thế, dĩ nhiên diễn ra trong một sự ổn định, – sau khi đã đi tới những quyết định nền tảng của cuộc sống – có khả năng trung thành cho đến chết, với những lời cam kết long trọng, nhờ ơn Chúa. Tuy nhiên, sự vững chắc cần thiết như thế không có nghĩa là khép kín con tim đối với những tiếng gọi của Chúa, vì mặc dù luôn củng cố chúng ta mỗi ngày trong ơn gọi cơ bản, Chúa luôn đứng ở cửa tâm hồn chúng ta và gõ (Xc Kh 3,20), chờ đợi chúng ta mở cửa cho Ngài với cùng một lòng quảng đại như khi chúng ta thưa ”xin vâng” lần đầu tiên với Ngài, noi gương thái độ luôn sẵn sàng của Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa (Xc Lc 1,38). Vì thế, không bao giờ chúng ta có thể đặt ra những giới hạn cho kế hoạch mà Thiên Chúa đề xướng và được thông báo cho chúng ta, ngày qua ngày, suốt trong cuộc đời chúng ta.

”Sự cởi mở đối với ơn gọi như thế cũng là con đường chắc chắn nhất để sống niềm vui Tin Mừng. Thực vậy, chính Chúa làm cho chúng ta được hạnh phúc thực sự. Niềm vui của chúng ta không phát xuất từ sự thỏa mãn phàm tục, làm cho ta hân hoan một lúc ngắn ngủi và tan biến mất, như thánh Ignatio Loyola đã nhận xét trong sự phân định đầu tiên của Ngài (Xc Phụng vụ các Giờ Kinh, Giờ độc vụ ngày 31-7, Bài đọc 2). Niềm vui của chúng ta là Chúa Kitô! Trong cuộc đối thoại hằng ngày với Chúa, tinh thần được sảng khoái và đà tiến cũng như lòng nhiệt thành đối với các linh hồn liên được đổi mới.

”Chiều kích cầu nguyện này của ơn gọi linh mục nhắc nhở chúng ta những khía cạnh khác có tầm quan trọng đặc biệt. Trước kiên là sự kiện chúng ta có được những ơn gọi, cốt yếu không phải nhờ một chiến lược mục vụ, nhưng nhất là bằng việc cầu nguyện. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: ”Các con hãy xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Ngài” (Lc 10,2). Khi bình luận những lời này, ĐGH Biển Đức 16 nhận xét rằng: ”Chúng ta không thể 'sản xuất' ơn gọi, ơn gọi phải đến từ Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm như trong các nghề nghiệp khác, nhờ sự tuyên truyền quảng cáo nhắm đúng đích, nhờ các chiến lược thích hợp, tuyển mộ được nhiều người. Ơn gọi, xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, phải luôn tìm được con đường dẫn đến tâm hồn con người” (Cuộc gặp gỡ với hàng giáo sĩ miền Baviera, 14-9-2006).

Hỡi các chủng sinh quí mến,

Các thầy được Chúa kêu gọi, nhưng có nhiều người rải rác trên thế giới đã và đang cộng tác vào câu trả lời của các thầy qua lời cầu nguyện và hy sinh của họ. Các thầy hãy có tâm hồn biết ơn và hiệp với những người ấy để tạo điều kiện dễ dàng cho việc đáp lại ơn gọi. Tiếp đến, cùng với vị thế tối thượng của việc cầu nguyện, cũng có hoạt động lành mạnh và hăng say do công việc mục vụ ơn gọi từ phía Giáo Hội, trong tư cách là máng chuyển ơn thánh Chúa. Về sự cộng tác này của Giáo Hội với việc Chúa ban các vị mục tử cho Dân Chúa và Nhiệm Thể Chúa Kitô, cũng nên nhắc lại vắn tắt ở đây vài khía cạnh phải làm nổi bật sự cộng tác ấy, nghĩa là lòng quí chuộng đối với ơn gọi linh mục, cuộc sống chứng tá của các linh mục, hoạt động chuyên biệt của các nhà đào tạo trong các chủng viện.

Điều cần thiết trước tiên là trong Giáo Hội phải có sự quí chuộng ơn gọi Linh Mục, xét vì sự kiện Cộng đồng các môn đệ của Chúa Kitô không thể hiện hữu nếu không có công tác phục vụ của các thừa tác viên thánh chức. Vì thế, cần phải chăm sóc, lưu tâm và tôn trọng chức linh mục. Thứ đến, các ơn gọi được nâng đỡ rất nhiều nhờ tấm gương và sự chăm sóc mà các LM dành cho ơn gọi. Một linh mục gương mẫu không thể không gợi lên nơi tâm trí các bạn trẻ câu hỏi: phải chăng tôi cũng được kêu gọi sống một cuộc sống tươi đẹp và hạnh phúc như thế? Chính qua cách thức đó các linh mục là những máng qua đó Thiên Chúa, làm cho tiếng gọi của Chúa tái vang dội trong tâm hồn của những người mà Ngài đã chọn! Rồi các Linh mục hãy chăm sóc những mầm mống ơn gọi qua bí tích giải tội, linh hướng, giảng thuyết và linh hoạt mục vụ. Tôi nghĩ rằng nhiều người trong các thầy đã chứng kiến và được hưởng những điều ấy.

”Ngoài ra tôi muốn nói một lời về vai trò quan trọpg của các linh mục mà các GM ủy thác việc huấn luyện các thầy. Các nhà đào tạo trong chủng viện được kêu gọi tiếp tục và đào sâu việc chăm sóc các ơn gọi linh mục, trong khi cung cấp tất cả những trợ giúp thích hợp cho sự phân định bản thân cần thiết của mỗi ứng sinh. Về điểm này, cần nhắc lại hai nguyên tắc phải hướng dẫn việc thẩm định ơn gọi: đó là sự đón tiếp nồng nhiệt và sự nghiêm khắc đúng đắn. Trong khi cần phải tránh mọi thành kiến, cũng như mọi thái độ ngặt nghèo khi đón nhận các chủng sinh, một điều rất quan trọng là cẩn thận tránh thái độ cẩu thả và lơ là trong phán đoán. Chắc chắn Giáo Hội cần các linh mục, nhưng không phải bất kỳ loại linh mục nào! Vì thế tình thương đón nhận phải đi kèm sự thật phán đoán một cách rõ ràng để xem nơi ứng sinh có những dấu hiệu ơn gọi và những yếu tố nhân bản cần thiết để có câu trả lời đáng tin cậy hay không. Nhu cầu mục vụ cấp thiết của các Giáo Hội địa phương không thể đưa tới sự vội vã trong việc truyền chức thánh. Khi có hồ nghi, thì tốt hơn nên dành thời giờ cần thiết và lượng định thích hợp, và loại trừ những ứng sinh không có những bảo đảm đầy đủ.

”Các chủng sinh rất thân mến, với những chỉ dẫn vắn tắt trên đây, tôi muốn tái lưu ý về hồng ân vô biên và mầu nhiệm, hoàn toàn nhưng không của ơn gọi đặc biệt của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh và thánh Giuse hồng ân trung thành và bền đỗ trong ơn gọi của Chúa, mà Ngài rộng ban cho chúng ta và tìm cách đáp lại lòng quảng đại của Chúa, Đấng luôn gửi các mục tử đến chăm sóc đoàn chiên của Ngài, với đà tiến tông đồ được đổi mới. Các thầy hãy kiên trì, luôn nhớ rằng danh xưng của tình yêu trong thời gian là ”lòng trung thành”.

Tôi nhớ đến các thày mỗi ngày trong kinh nguyện với lògn quan tâm và quí mến, và tôi thành tâm khẩn cầu phúc lành của Chúa trên các thầy.Hồng Y Mauro Piacenza
Tổng trưởng Bộ giáo sĩ

(G. Trần Đức Anh O.P chuyển ý) – Vatican Radio

Công bố văn kiện Tòa Thánh về mục vụ người tị nạn và tản cư

Công bố văn kiện Tòa Thánh về mục vụ người tị nạn và tản cư

VATICAN. Hôm 6 tháng 6-2013, Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động, đã công bố Văn kiện dài 72 trang với tựa đề ”Đón tiếp Chúa Kitô nơi những người tị nạn và những người bị cưỡng bách di cư. Những đường hướng mục vụ”.

Văn kiện được ĐHY Antonio Mario Vegliò, Chủ tịch Hội đồng mục vụ di dân và người lưu động, cùng với ĐHY Robert Sarah, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum, Đồng Tâm, giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh, và hai chuyên gia khác.

ĐHY Vegliò cho biết Văn kiện này được soạn thảo để đáp ứng

những biến chuyển trong bản chất của hiện tượng cưỡng bách di cư những năm gần đây, đặc biệt từ sau khi Hội đồng Tòa Thánh công bố văn kiện hồi năm 1992 với tựa đề ”Những người tị nạn, một thách đố đối với tình liên đới”.

Tiếp đến, cần để ý đến nhiều lý do bó buộc con người phải rời bỏ gia cư của họ. Và đối lại với hiện tượng này là các luật lệ nghiêm ngặt hơn do các chính phủ ban hành để đối phó với làn sóng người tị nạn và di dân. Nhiều khi cả dư luận quần chúng cũng chống lại hiện tượng này.

Vì thế, cần phải có những suy tư mới, cũng vì trong các trong các cuộc thảo luận chính trị trên bình diện quốc gia và quốc tế, càng ngày các chính quyền càng đưa ra những biện pháp làm cho con người sợ mà không dám di cư hoặc tị nạn, thay vì các biện pháp khích lệ mưu an sinh cho con người, bảo vệ nhân phẩm và thăng tiến vị thế trung tâm của con người. Dường như vấn đề ở đây là làm sao để những người tị nạn và di dân đừng bén mảng tới đất nước liên hệ, thay vì tìm hiểm những lý do tại sao họ buộc lòng phải rời bỏ quê hương. Nguyên sự hiện diện của người tị nạn và xuất cư bị coi là như vấn đề. Tất cả những điều đó đe dọa việc bảo vệ họ”.

ĐHY Vegliò cho biết Văn kiện mới của Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động nhấn mạnh sự cấp thiết cần bảo đảm ít là các quyền được liệt kê trong Hiệp Ước quốc tế năm 1951 về người tị nạn, tuy rằng văn kiện quan trọng này chỉ có tính chất tối thiểu, có thể được cải tiến. Vấn đề ở đây là canh tân tinh thần Hiệp Ước năm 1951 để đi tới những chính sách sáng suốt, có thể đáp ứng hoàn toàn các vấn đề ngày nay và những vấn đề manh nha trong tương lai.

Văn kiện cho thấy Giáo Hội cảm thấy nghĩa vụ phải biểu lộ sự gần gũi với những người tị nạn và những người buộc lòng phải rời bỏ quê hương căn cội của mình. Công tác mục vụ của Giáo Hội là biểu hiện cụ thể đức tin của hội Thánh. Chính vì thế, từ cấp giáo xứ và những cơ cấu cơ bản, cho tới những thành phần khác nhau ở cấp miền, đại lục và hoàn vũ, Giáo Hội không sợ dấn thân bênh vực người di dân, tị nạn và tản cư, cũng như những nạn nhân của nạn buôn người trong mọi miền trên thế giới.

Sự dấn thân của Giáo Hội được cụ thể hóa dưới nhiều hình thức khác nhau, như lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói, cứu giúp trực tiếp và trợ giúp vật chất trong những tình trạng khủng hoảng và cấp thời, giúp đỡ trong những nhu cầu thiêng liêng, ban các bí tích va thăng tiến tất cả những gì có thể góp phần chữa lành, củng cố và gây ý thức trách nhiệm cho cá nhân và các gia đình”.

Dàn bài

Văn kiện mới của Tòa Thánh về đường hướng mục vụ người tị nạn và cưỡng bách di cư dài 72 trang gồm 124 đoạn, ngoài phần nhập đề và kết luận, được chia làm 4 phần:
– Phần thứ I nói về ”sứ mạng của Giáo Hội bênh vực những người bị cưỡng bách rời bỏ quê hương”
– Phần thứ II mang tựa đề: ”Những người tị nạn và những người khác bị cưỡng bách rời bỏ quê hương”.
– Phần thứ III bàn về ”những quyền lợi và nghĩa vụ: hướng nhìn về tương lai”
– Phần thứ IV nói về ”việc mục vụ chuyên biệt cho người tị nạn và những người bị cưỡng bách rời quê hương.”

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Chương trình mùa hè của Đức Thánh Cha

Chương trình mùa hè của Đức Thánh Cha

VATICAN. Hôm 6 tháng 6-2013, Phủ Giáo Hoàng công bố chương trình mùa hè của ĐTC, theo đó trong tháng 7, tất cả 4 cuộc tiếp kiến chung của ngài vào những ngày thứ tư (3, 10, 17, 31) đều bị hủy bỏ.

Các cuộc tiếp kiến chung sáng thứ tư sẽ được mở lại tại Vatican từ ngày thứ tư 7 tháng 8-2013.

Từ 22 đến 29-7, ĐTC sẽ đi Brazil nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ lần thứ 28 tại thành phố Rio de Janeiro.
Trưa chúa nhật 14 tháng 7, ĐTC sẽ chủ sự buổi đọc kinh truyền tin với các tín hữu tại Dinh thự Giáo Hoàng ở Castel Gandolfo.

Tuy nhiên, ĐTC vẫn tiếp tục ở nhà trọ Thánh Marta trong nội thành Vatican vào mùa hè chứ không đi nghỉ tại Castel Gandolfo.

ĐTC sẽ chấm dứt thánh lễ lúc 7 giờ sáng với bài giảng dành cho các nhóm kể từ ngày 8 tháng 7-2013. Thánh lễ này sẽ được mở lại sau mùa hè. (SD 6-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Đức giáo hoàng thương tiếc cái chết của Đức Hồng Y Stanislas Nagy

Đức giáo hoàng thương tiếc cái chết của Đức Hồng Y Stanislas Nagy

(Vatican Radio) Đức Giáo Hoàng Francis hôm thứ Tư đã gửi một bức điện thư chia buồn cho Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám Mục Krakow, Ba Lan ngay sau khi hay tin sự qua đời của Đức Hồng Y Stanislas Nagy.

Đức Hồng Y Stanislas Nagy, là linh mục của Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (Dehonians), sinh ngày 30 tháng 9 năm 1921 tại Bieruń Stary, Tổng Giáo Phận Katowice (Ba Lan). Ngài bước vào nhà dòng Dehonian vào năm 1937. Ngày 08 tháng bảy năm 1945 ngài thụ phong chức linh mục của Dòng.

Ngài từng là Giám đốc của Tiểu Chủng viện Dehonian tại  Kraków-Płaszów và Đại Chủng viện tại Tarnów. Ngài cũng là giảng dạy tại Đại học Công giáo Lublin, là  nơi  Ngài trở thành giảng sư đại học năm 1972.

Từ năm 1973 đến 1974, Ngài là một thành viên của Ủy ban Công giáo-Lutheran (Joint Catholic-Lutheran Commission). Ngài cũng từng là thành viên của Ủy ban thần học quốc tế và là giám đốc của bộ phận thần học của ban biên tập Bách khoa Công giáo của Đại học Lublin. Ngài  đã tham gia trong Thượng Hội Đồng năm 1981 và năm 1985. Quan tâm đến các vấn đề hiệp nhất, ông đã viết về sự cởi mở của Giáo hội của hậu công đồng Vatican để cùng nhau hòa giải.

Ngài là tác giả của nhiều cuốn sách về Đức Gioan Phaolô II, là một cộng tác viên lâu năm.

Đức Hồng Y bổ nhiệm, ông được đề cử vào nhà thờ của Hólar (nhà thờ được bổ nhiệm với một Hồng Y), với danh hiệu riêng của Đức Tổng Giám mục vào ngày 07 Tháng 10 năm 2003 và sau đó được thánh hiến vào ngày 13 tháng 10. Đức Gioan Phaolô II đã thiết lập nên, tuyên bố Đức Hồng Y trong hội nghị công giáo năm 2003.


Dưới đây, xin vui lòng xem bức điện văn của Đức Thánh Cha Phanxicô chia buồn về sự ra đi của Đức Hồng Y Stanislas Nagy:

Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz
Đức Tổng Giám Mục của Krakow

Khi nghe tin về cái chết của Đức Hồng y Stanislaw Nagy đáng kính, tôi muốn bày tỏ với ngài, đến toàn thể cộng đồng giáo phận, đến các gia đình của vị giám chức xứng đáng, và dòng tu Dehonian, sự chia sẻ chân thành của tôi trong nỗi buồn của họ, ghi nhớ với tình yêu thương người anh em mến yêu này mà người đã phục vụ Tin Mừng và Giáo Hội, đặc biệt là trong thế giới học thuật, được đánh giá là một giảng sư chuyên môn rất chăm chỉ của các ngành thần học. Tôi nhớ lại, với lòng biết ơn sự hợp tác hiệu quả và thâm tình ấm áp với Chân Phước Gioan Phaolô II, và sự hổ tương lẫn nhau của họ, cũng như các sinh hoạt cùng nhau hiệp nhất của mình. Tôi dâng lên những lời cầu nguyện nhiệt thành của tôi với Thiên Chúa, rằng, nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, người tôi tớ trung thành được mời gọi, một người ưu tú của Giáo Hội, vào trong sự vui mừng và bình an vĩnh cửu, và tôi sẵn sàng truyền đạt cho tất cả những ai thương tiếc sự ra đi của Ngài, Xin an ủi ban phép lành Tòa Thánh cho mọi người.

Phỏng dịch Vatican Radio

Thái Trọng
 

Bài trừ nền văn hóa phung phí gạt bỏ để thăng tiến nền văn hóa liên đới gặp gỡ

Bài trừ nền văn hóa phung phí gạt bỏ để thăng tiến nền văn hóa liên đới gặp gỡ

Tôi ước mong tất cả chúng ta nghiêm chỉnh dấn thân tôn trọng và giữ gìn thụ tạo, chú ý tới mọi người, chống lại nền văn hóa phung phí và gạt bỏ, để thăng tiến một nền văn hóa liên đới và gặp gỡ.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bẫy tỏ như trên với khoảng 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư 5 tháng 6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Vì hôm qua là ”Ngày quốc tế môi sinh” do Liên Hiệp Quốc phát động nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đề cập tới tầm quan trọng phải tôn trọng môi sinh, tiết kiệm không phung phí thực phẩm, vì trên thế giới hiện có hàng tỷ người phải sống trong cảnh đói khát và thiếu dinh dưỡng.

Đức Thánh Cha nói: Khi chúng ta đề cập tới môi sinh, tôi nghĩ tới các trang đầu tiên của Thánh Kinh, tới sách Sáng Thế, trong đó có khẳng định rằng Thiên Chúa đặt người nam và người nữ trên trái đất để họ vun trồng và giữ gìn nó (St 2,15). Và nổi lên trong tôi các câu hỏi: Vun trồng và giữ gìn trái đất có nghĩa là gì? Chúng ta có thật sự ”vun trồng” và giữ gìn thụ tạo hay không? Hay chúng ta đang tàn phá và lơ là với nó? Động từ ”vun trồng” gợi lên trong trí tôi việc săn sóc của nhà nông đối với đất đai của mình, để nó cho hoa trái và hoa trái đó được chia sẻ: biết bao nhiêu là chú ý, đam mê và tận tụy! Đức Thánh Cha giải thích thêm như sau:

Vun trồng và gìn giữ thụ tạo là một chỉ dẫn Thiên Chúa ban cho không phải chỉ ngay từ đầu lịch sử, mà còn cho từng người trong chúng ta nữa; nó là một phần chương trình của Người; nó muốn nói rằng đó là làm cho thế giới này lớn lên với tinh thần trách nhiệm, biến đổi nó để nó là một ngôi vườn có thể ở đối với tất cả mọi người. Và Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhắc lại nhiều lần rằng nhiệm vụ này do Thiên Chúa Tạo Hóa giao cho chúng ta đòi hỏi phải tiếp nhận tiết nhịp và luận lý của việc tạo dựng.

Chúng ta trái lại thường khi được hướng dẫn bởi sự kiêu căng của thống trị, chiếm hữu, lèo lái và khai thác; chúng ta không ”giữ gìn”, không tôn trọng, không coi thụ tạo như là một ơn nhưng không cần phải săn sóc. Chúng ta đang đánh mất đi thái độ của sự kinh ngạc, của sự chiêm niệm, của việc lắng nghe thụ tạo; và như thế chúng ta không thành công trong việc đọc được nơi đó điều mà Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gọi là ”tiết nhịp cảu lịch sử tình yêu của Thiên Chúa đối với con người”. Tại sao lại xảy ra điều ấy? Bởi vì chúng ta nghĩ và sống theo chiều ngang, chúng ta xa rời Thiên Chúa, chúng ta không đọc ra các dấu chỉ của Người nữa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định: Nhưng mà ”vun trồng và gìn giữ” không chỉ bao gồm tương quan giữa con người với môi sinh, giữa con người với thụ tạo, mà cũng liên quan tới các tương quan nhân bản nữa. Các Giáo Hoàng đã nói tới môi sinh nhân bản, gắn liền chặt chẽ với môi sinh thiên nhiên. Chúng ta đang sống một thời điểm khủng hoảng; chúng ta trông thấy nó trong môi sinh, nhưng nhất là chúng ta trông thấy nó nơi con người. Con người đang gặp nguy hiểm, và chăc chắn là như vậy. Ngày nay con người đang gặp nguy hiểm. Vì thế môi sinh nhân bản là sự cấp bách! Và nguy hiểm nghiêm trọng, bởi vì lý do của vấn đề không hời hợt, mà sâu đậm; Nó không chỉ là một vấn đề kinh tế, nhưng là vấn đề luân lý và nhân chủng. Giáo Hội đã nhấn mạnh nhiều lần; và nhiều người nói rằng: vâng đúng vậy, thật thế. Nhưng tình hình không thay đổi và Đức Thánh Cha giải thích lý do tại sao:

Nhưng hệ thống tiếp tục như trước, bởi vì điều thống trị là các năng động của một nền kinh tế và của một nền tài chánh thiếu luân lý đạo đức. Cái chỉ huy con người ngày nay không phải là con người mà là ”tiền bạc”, ”tiền bạc”, tiền bạc chỉ huy! Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã cho chúng ta nhiệm vụ giữ gìn chứ không phải giữ gìn tiền bạc. Chúng ta, các người nam nữ, chúng ta có nhiệm này! Như thế các người nam nữ bị sát tế cho các thần tượng của lợi nhuận và tiêu thụ: đó là ”nền văn hóa của sự gạt bỏ”. Nếu một máy vi tính bị bể, nó là một thảm cảnh, nhưng sự nghèo túng, các nhu cầu, các thảm cảnh của biết bao nhiêu người thì lại là chuyện bình thường.

Nếu trong một đêm mùa đông tại đây, tại quảng trường Ottaviano chẳng hạn, có một người chết, thì đó không phải là tin tức. Nếu trong biết bao nhiêu vùng trên thế giới có các trẻ em không có ăn, sự kiện đó không phải là tin. Xem ra là điều bình thương thôi! Nhưng điều đó không thể như vậy được! Và các điều này bước vào trong sự bình thường: có vài người không nhà chết ngoài đường vì lạnh, không có tin gì cả… Trái lại thị trường chứng khoán trong các thành phố sụt 10 điểm, thì đó là một thảm cảnh. Người chết thì không là tin tức, nhưng thị trường chứng khoán mất 10 điểm thì là thảm họa. Như vậy con người bị ”vứt bỏ”. Chúng ta là người, chúng ta bị vứt bỏ như thể là rác rưởi.

”Nền văn hóa vứt bỏ” hướng tời chỗ trở thành tâm thức chung, lây nhiễm tất cả mọi người. Sự sống con người, bản vị con người không còn được cảm nhận như giá trị đầu tiên cần phải tôn trọng và bảo vệ nữa, đặc biệt nếu đó là sự sống nghèo túng hay tàn tật, nếu nó không phục vụ nữa – như trẻ em sẽ sinh ra – hay không còn cần thiết nữa – như người già.

Đức Thánh Cha nhận xét về hậu qủa của nền văn hóa gạt bỏ này như sau:

Nền văn hóa vứt bỏ này đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với cả các phung phí và vứt bỏ thực phẩm, nó còn đáng khinh bỉ hơn nữa, khi trong mọi miền trên thế giới này rất tiếc có nhiều người và nhiều gia đình phải đau khổ vì đói khát và thiếu dinh dưỡng.

Xưa kia các thế hệ ông bà chúng ta đã rất chú ý không vất bỏ đồ ăn còn thừa. Chế độ tiêu thụ đã dẫn đưa chúng ta tới chỗ quen với sự thừa thãi và phung phí thực phẩm mỗi ngày, mà đôi khi chúng ta không còn biết đánh giá đúng đắn nữa, và nó vượt xa các tham số thuần túy kinh tế. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng thực phẩm mà chúng ta vất bỏ đi, thì cũng như thể là chúng ta ăn trộm từ bàn ăn của người nghèo, của người đói! Tôi mời gọi tất cả mọi người suy tư về vấn đề đánh mất và phung phí thực phẩm để nhận diện ra các con đường và phương thế giúp đối đầu một cách nghiêm chỉnh với vấn đề đó, ước chi chúng là phương tiện của tình liên đới và chia sẻ với các anh chị em cần được trợ giúp nhất.

Cách đây mấy ngày trong lễ Mình Thánh Chúa chúng ta đã đọc trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu cho đám đông ăn với năm chiếc bánh và hai con cá. Và kết luận văn bản thật quan trọng: ”Mọi người ăn no nê và những mảnh vụn còn thừa, người ta thu lại còn được mười hai thúng.” (Lc 9,17).

Chúa Giêsu xin các môn đệ đừng để cho những gì còn thừa bị mất đi: không vứt bỏ cái gì cả! Và có sự kiện mười hai thúng. Tại sao lại mười hai thúng? Nó có nghĩa là gì? Mười hai là con số 12 chi tộc Israel, biểu tượng cho toàn dân Chúa. Và điều này nói rằng khi lương thực được chia sẻ đồng đều, với tình liên đới, thì không ai bị lấy mất đi điều cần thiết, mỗi cộng đoàn có thể đáp ứng các nhu cầu của những người nghèo nhất. Môi sinh nhân bản và môi sinh thiên nhiên luôn đi đôi với nhau.

Như thế tôi ước mong rằng tất cả chúng ta nghiêm chỉnh dấn thân tôn trọng và giữ gìn thụ tạo, chú ý tới mọi người, chống lại nền văn hóa phung phí và gạt bỏ, để thăng tién một nền văn hóa liên đới và gặp gỡ.

Sáng thứ tư 5 tháng 6-2013 Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã dành ra hơn nửa tiếng để chào tín hữu. Một em bé khi được ngài hôn đã nắm chặt lấy mảnh áo choàng của ngài và không muốn rời ra nữa. Có một cặp tín hữu đã tặng Đức Thánh Cha chiếc mũ calốt trắng, ngài nhận đội ngay lên đầu và lấy cái ngài đang đội tặng lại họ. Một tín hữu Mehicô tặng ngài cái poncho mầu đỏ và quàng lên vai Đức Thánh Cha. Sau buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha cũng dành ra gần một giờ để chào tín hữu, các cặp vợ chồng mới cưới và người tàn tật.

Ngài cũng đã chào các tín hữu đến từ các đảo Antille, Maurizius, và Côte d'Ivoire, cũng như một nhóm các imam hồi giáo dấn thân trong cuộc đối thoại liên tôn, và các đoàn hành hương đến từ các nước châu Mỹ Latinh như Colombia, Uruguay, Argentina, Mêhicô và Brasil.

Chào các tín hữu nói tiếng A rập Đức Thánh Cha nhắn nhủ như sau: ”Chúng ta đừng để cho mình quen với thảm cảnh của nghèo túng, các thảm cảnh của biết bao nhiêu người không nhà cửa chết trên đường phố, hay thấy biết bao nhiêu trẻ em không đựơc giáo dục và săn sóc y tế. Chúng ta hãy nhớ rằng thực phẩm mà chúng ta vứt đi thì như là chúng ta ăn trộm từ bàn tay của người nghèo và người đói.

Chào một nhóm tân linh mục và chủng sinh Ba Lan Đức Thánh Cha khuyến khích họ cảm tạ Chúa Giêsu vì ơn gọi linh mục, và vun trồng nó dưới ánh sáng và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, để luôn là các thừa tác viên hăng say của ơn thánh Chúa.

Đức Thánh Cha cũng chào phái đoàn hành hương các giáo phận Aversa, Macerata và Matera cùng với các Giám Mục cũng như phái đoàn công nhân các hãng đưởng Venezia với Đức Thượng Phụ.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng tháng 6 là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Đức thánh Cha xin Chúa dậy giới trẻ hiểu biết vẻ đẹp của tình yêu và cảm thấy được yêu. Ngài xin Chúa an ủi các anh chị em đau yếu trong nổi khổ đau thử thách của họ, và nâng đỡ các cặp vợ chồng mới cưới trên con đường cuộc sống hôn nhân.

Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

 

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU

CHÂN DUNG THÁNH BONIFACE: GỐC RỄ THIÊN CHÚA GIÁO CHO ÂU CHÂU

 

ĐỨC THÁNH CHA BENEDICTUS XVI

Anh Chị Em thân mến,

Hôm nay chúng ta đặc tâm chú ý đến một nhà truyền giáo cao cả của thế kỷ VIII, đã loan truyền Ki Tô giáo cho miền Trung Âu Châu, chính trên quê hương của tôi: đó là Thánh Boniface được lịch sử xem là " vị tông đồ của Nước Đức". Chúng ta có được không ít các tin tức về cuộc đời của ngài nhờ vào lòng chuyên cần các nhà viết tiểu sử về ngài.

Được sinh ra trong một gia đình người Anh ở Wessex khoản năm 675 và được rửa tội với tên là Winfrid.
Lúc còn rất trẻ đã gia nhập tu viện, vì cậu được thu hút bởi lý tưởng của đời sống tu viện.
Nhờ vào có được khả năng trí thức đáng kể, dường như cuộc đời của cậu Winfrid được khởi đầu để tiến đến nghề nghiệp một học giả yên tĩnh và sáng lạn: chàng đã trở thành giáo sư dạy văn phạm La Tinh, viết một vài bản văn và nhiều thi phú bằng La Tinh.

Được truyền chức Linh Mục vào khoảng ba mươi tuổi, Cha Winfrid cảm nhận mình được kêu gọi làm tông đồ giữa các dân ngoại ở lục địa. Lúc đó, nước Anh, quê cha đất tổ của Cha chỉ mới được truyền giáo một trăm năm trước đó, bởi các tu sĩ dòng Biển Đức ( Benedictini) do Thánh Agostino thành lập. Nước Anh cảm thấy mình có được đức tin thật vững chắc và lòng bác ái nồng cháy để gởi các nhà truyền giáo của mình vào Trung Âu để rao giảng Phúc Âm.
Năm 716 Winfrid cùng với một vài bạn đồng hành đến được Frisia ( Hoà Lan hiện nay), nhưng chạm trán phải sự đối kháng của người lãnh đạo địa phương và như vậy ý định rao giảng Phúc Âm ở đó bị thất bại.

Trở về quê hương, nhưng vẫn không nãn chí, hai năm sau Cha Winfrid đến Roma để hầu chuyện với Đức Giáo Hoàng Gregory II và nhận chỉ thị của ngài liên quan đến vấn đề. Đức Giáo Hoàng, theo những gì một tác giả tiểu sử gia thuật lại, đón nhận Cha " bằng khuôn mặt tươi cười và cái nhìn đầy âu yếm", và trong những ngày kế tiếp đã có " những cuộc thảo luận quan trọng với Cha" ( Willibaldo, Vita s. Bonifatii, ed. Levisonl pp. 13-14).
Và sau cùng, sau khi đặt tên cho Cha là Boniface, Đức Giáo Hoàng ủy thác cho Cha với các chứng minh thư chính thức sứ mạng rao giảng Phúc Âm giữa các dân tộc trên nước Đức.

1 – Đươc Đức Thánh Cha trợ lực và nâng đỡ, Boniface dấn thân vào việc rao giảng Phúc Âm trong các vùng vừa kể ( trên lãnh thổ Đức), chống lại các cách phượng tự ngoại giáo và củng cố nền tảng luân lý nhân bản và Ki Tô giáo. Với tinh thần trách nhiệm cao cả, Cha viết ở một trong những lá thư như sau:
" Chúng ta hãy vững mạnh trong việc chiến đấu trong ngày của Chúa, bởi vì các ngày phiền muộn và khốn cùng đã đến…Chúng ta không phải là những con chó câm, cũng không phải là những kẻ bàng quang thinh lặng, hay hạng thương gia trục lợi trốn chạy trước đoàn chó sói ! Trái lại, chúng ta là những Chủ Chăn tỉnh thức canh chừng trên đoàn chiên Chúa Ki Tô, rao giảng cho những nhân vật quan trọng cũng như cho người dân đơn sơ tầm thường, cho người giàu và người nghèo thánh ý Thiên Chúa…trong các thời điểm thuận tiện cũng như bất lợi…" ( Epistulae, 3, 352: MGH).

Với động tác không mệt nhọc ngừng nghỉ của Cha, với tài năng thiên phú để tổ chức, với tính mềm dẻo và dễ thương nhưng vững chắc, Boniface đạt được nhiều kết quả trọng đại.
Bởi đó Đức Thánh Cha " tuyên bố muốn đặt lên Cha địa vị của một Giám Mục, bởi vì như vậy Cha khả năng hơn để quyết định sửa chữa và dẫn dắt các người lầm lạc trở lại trên con đường chân lý, Cha có thể cảm nhận được uy quyền cao cả hơn của phẩm trật tông đồ nâng đở và cũng sẽ được tất cả mọi người chấp nhận trong trách vụ rao giảng, khi thấy được chính vì đó mà ngài được truyền chức vị lãnh đạo tông đồ cho" ( Otloho, Vita s. Bonifatii, ed. Levison, lib. I, p. 127).

Cũng chính Đức Thánh Cha Gregory II truyền chức " Giám Mục Vùng" ( = Tổng Giám Mục), nghĩa là Giám Mục cho cả nước Đức, cho Boniface. Đức Giám Mục Boniface trở về và tiếp tục lại các động tác cực nhọc tông đồ trong các lãnh địa được giao phó cho và kế đến mở rộng hoạt động của mình đến cả Giáo Hội nước Gallia ( nước Pháp): cùng với sự thận trọng và khôn ngoan, Đức Giám Mục Boniface
– tu chính lại quy luật Giáo Hội,
– tổ chức nhiều phiên nhóm Thượng Hội Đồng Giám Mục để bảo đảm cho quyền lực giáo luật,
– tăng cường thêm mối thông hiệp cần thiết với Đức Giáo Hoàng ở Roma: đó là điểm mà Đức Giám Mục Boniface luôn luôn canh cánh trong lòng.
Cả những vị kế nghiệp Đức Giáo Hoàng Gregory II cũng rất qúy trọng Đức Giám Mục Boniface: Đức Gregory III
– bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục cho cả nước Đức,
– gởi áo choàng Giám Mục cho ngài
– và trao cho ngài quyền tổ chức phẩm trật Giáo Hội trong các vùng đó ( cf Epist, 28; S. Bonifatii Epistulae, ed. Tangl, Berolini 1916).
Đức Thánh Cha Zaccaria xác nhận chức vụ đó của ngài và khen ngợi tin thần chuyên cần dấn thân của ngài ( cfr. Epist. 51, 57, 58, 60, 68, 77, 80, 86, 87, 89:op. cit.).
Đức Thánh Cha Stefano III , khi vừa được tuyển chọn, đã nhận được một bức thư của Đức Tổng Giám Mục Boniface, trong đó ngài bày tỏ mối hân hoan con cái của mình đối với Đức Thánh Cha ( cfr Epist. 108, op. cit.).

2 – Đức Tổng Giám Mục Boniface cao cả,
– ngoài việc rao giảng Phúc Âm
– và tổ chức Giáo Hội qua việc thành lập các giáo phận
– và nhóm họp các Thượng Hội Đồng Giám Mục,
– ngài cũng không quên thiết lập các tu viện, nam và nữ, để cho đó là những ngọn đèn pha chiếu toả ánh sáng đức tin, văn hoá con người và văn hoá Ki Tô giáo ra khắp lãnh thổ.
Từ các cộng đồng tu viện Biển Đức ( Benedittini ) trên xứ sở của mình, Đức Tổng Giám Mục Boniface kêu gọi các nam nữ tu sĩ đến trợ lực với ngài bằng động tác vững chắc và qúy báu để
– giúp ngài trong việc rao giảng Phúc Âm
– và phổ biến khoa học nhân loại và nghệ thuật cho dân chúng.
Bởi vì ngài có lý nghĩ rằng việc làm để rao giảng Phúc Âm cũng phải là động tác để truyền bá văn hoá con người.
Nhứt là tu viện ở Fulda , được thiết lập năm 743, là trái tim và là trung tâm từ đó chiếu toả ra cách sống đạo đức thiêng liêng và văn hoá tôn giáo: ở đó, các tu sĩ,
– trong kinh nguyện,
– trong việc làm và trong hoán cải đền tội, tìm cách cố gắng tiến đến sự thánh thiện,
– các vị còn được giáo dục trong các lãnh vực tôn giáo và trần thế, các vị đang chuẩn bị mình để ra đi rao giảng Phúc Âm, để trở thành những nhà truyền giáo.
Nhờ công lao của Đức Tổng Boniface, của các vị tu sĩ nam – nữ của ngài – ngay cả các nữ tu sĩ cũng góp phần quan trọng vào việc rao giảng Phúc Âm – mà việc đâm hoa kết quả cả nền văn hoá nhân loại, là những gì không thể tách rời đức tin và cho thấy vẻ đẹp của đức tin.
Bonifacio cũng viết ra tác phẩm chú giải Ars grammatica ( Nghệ thuật văn phạm), trong đó ngài giải thích
– các biến hoá danh từ ( declinazioni),
– cách chia động từ ( coniugazione),
– lối phân chia mệnh đề ( sintassi)
của tiếng La tinh,
và đó đối với ngài cũng là một dụng cụ để phổ biến đức tin và văn hoá.
Người ta cũng gán cho ngài là tác giả của Ars metrica ( Nghệ thuật phân chia nhịp điệu), nghĩa là phần dẫn nhập làm sao để có thể viết một bài thi phú , và các các sắp xếp các phần cân đối của bài thơ và sau cùng là một loạt thu tóm các bài giảng, gồm 15 bài.

Và mặc dầu đã đến tuổi già – gần 80 tuổi – Đức Tổng Boniface cũng chuẩn bị một sứ mạng truyền bá Phúc Âm mới: với khoản năm mươi tu sĩ, ngài trở lại miền Frisia ( Hoa Lan), nơi ngài đã khởi đầu công trình rao giảng.
Như có linh tính báo trước về cái chết gần kề, khi đề cập đến chuyến hành trình của cuộc sống, ngài đã viết cho người đệ tử và là vị kế nhiệm ngài ở tông toà Magonza ( Wuerburg), Đức Giám Mục Lullo như sau:
" Ta mong ước được hướng dẫn đến lúc kết thúc mục đích của chuyến đi nầy; ta không thể nào khước từ lòng ước muốn khởi hành chuyến đi. Ngày cuối cuộc đời của ta đã gần kề và cái chết của ta đã đến gần; khi xác chết của ta được chôn xuống, ta sẽ lên để lãnh lấy phần thưởng đời đời. Nhưng con, con rất qúy mến của ta, con hãy không ngừng nghỉ kêu gọi dân chúng xa lìa đều sai lạc cứng cỏi của họ, con hãy thực hiện việc xây cất công trình đã khởi sự kiến trúc đại thánh đường Fulda và đặt xác già nua với năm tháng dai dẳng với cuộc sống của ta ở đó" ( Willibaldo,Vita S. Bonifatii, ed. cit., p. 46).

Trong khi ngài sắp cử hành Thánh Lễ ở Dokkum ( ở miền Bắc Hoà Lan hiện nay), ngày 5 tháng 6 năm 754, Thánh Boniface bị một nhóm người ngoại đạo ám sát. Ngài tiến đến trước mặt họ với khuôn mặt tươi tỉnh,
" ngăn cấm các bổn đạo của mình chiến đấu chống lại bằng cách nói: " các con hãy dừng lại, dừng lai, đừng chiến đấu, hãy dẹp bỏ chiến tranh, bởi vì nhân chứng Thánh Kinh cảnh cáo chúng ta đùng lấy sự ác để trả sự ác, nhưng hãy lấy việc thiện trả cho ác. Đây là ngày mà từ lâu ta đang mong đợi, đây là thời điểm cuối cùng của ta đã đến; hãy can đảm trong Thiên Chúa" ( Ibid., pp. 49-50).
Đó là những lời cuối cùng của ngài trước khi ngã gụt xuống dưới trận đánh đập của những kẻ tấn công.
Xác của vị Giám Mục tử đạo được mang vào thánh đường Fulda, nơi mà ngài được chôn cất tương xứng.
Một trong những tác giả viết tiểu sử ngài đã nói về ngài bằng nhận xét như sau:
" Chúng ta có thể nói là Vị Thánh Giám Mục Boniface là cha của mọi người dân Đức, bởi vì ngài là người đầu tiên đã sinh ra họ trong Chúa Ki Tô bằng lời của ngài qua việc giảng dạy, đã làm cho họ trở nên vững chắc bằng gương sống của ngài, và sau cùng, đã hy sinh mạng sống của ngài cho họ, đó là đức bác ái, mà không ai có thể ban cho một đức bác ái nào cao cả hơn được" ( Otloho, Vita S. Bonifatii, ed. cit., lib. I., p.158).

3 – Sau hai thế kỷ, sứ điệp nào chúng ta có thể đón nhận được từ lời giảng dạy và động tác tuyệt diệu của nhà truyền giáo cao cả và tử đạo nầy?

a ) Điều hiển nhiên thứ nhứt mà ai muốn đến gần Thánh Boniface cũng thấy được: lời Chúa là trung tâm điểm, được đem ra thực hiện trong cuộc sống và giải thích trong đức tin của Giáo Hội, đó là Lời mà vị Thánh đã sống, đã giảng dạy và nhân chứng đến việc hy sinh tột độ, hy sinh chính mình trong tử đạo.
Ngài đã say sưa Lời Chúa đến độ cảm thấy khẩn cấp và có bổn phận phải đem đến cho người khác, ngay cả phải chấp nhận nguy hiểm cho chính mình.
Ngài đặt đức tin của mình trên Lời Chúa như là nền tảng, Lời mà ngài đã long trọng tuyên bố dấn thân trong lúc mình được phong chức Giám Mục:
" Con tuyên xưng hoàn toàn tính cách trong sáng của đức tin thánh thiện công giáo và được Chúa giúp đở con muốn được trung thành ở lại hiệp nhứt trong đức tin nầy, trong đó không có gì nghi ngờ, là tất cả sự cứu rỗi của người tín hữu Chúa Ki Tô" ( Epist. 12, in S. Bonifatii Epistolae, ed. cit., p.29).

b) Điều hiển nhiên thứ hai, rất quan trọng, mà chúng ta thấy được trong đời sống của Thánh Boniface là lòng thông hiệp trung thành với Tông Toà.
Đó là một định điểm bất di dịch và là trung tâm điểm động tác truyền giáo của ngài. Ngài luôn luôn giữ vững mối thông hiệp đó như là khuôn thước của động tác truyền giáo mình và đã để lại như là lời di chúc của mình.
Trong một thư gởi cho Đức Thánh Cha Zaccaria, ngài xác quyết:
" Con đừng bao giờ ngừng nghỉ kêu gọi và đặt ho dưới sự vâng lời đối với Tông Toà, những ai muốn trung thành với đức tin công giáo và hợp nhứt với Giáo Hội Roma và cả những ai mà Thiên Chúa đã ban cho con trong cộng cuộc truyền giáo nầy như là những người nghe con giảng dạy và là môn đệ " ( Epist. 50: ibid., p. 81).

Kết quả của cuộc dấn thân chuyên cần nầy là tinh thần vững chắc khắn khít với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô mà Đức Giám Mục Boniface chuyển đến các cộng đồng Giáo Hội trong lãnh thổ truyền giáo của ngài, nối kết Anh Quốc, Đức Quốc, Pháp Quốc với Roma.
Và như vậy ngài góp phần một cách quyết định gây dựng gốc rễ Ki Tô giáo cho Âu Châu, làm cho Âu Châu có khả năng đâm hoa kết quả trong những thế kỷ kế tiếp.

) c ) Về đặc tính thứ ba mà Thánh Boniface muốn nhắc nhở chúng ta nên lưu ý: đó là việc ngài tạo cơ hội cho việc gặp gỡ giữa nền văn hoá Roma – Ki Tô giáo và văn hoá Đức Quốc.
Thật vậy, Thánh Boniface biết rằng trong việc thăng tiến nhân phẩm con người và loan báo Phúc Âm, phổ biến văn hoá là phần chính yếu của sứ mạng của một vị Giám Mục. Trong khi chuyển đạt đến dân chúng kho tàng cổ của các giá trị Ki Tô giáo, Thánh Boniface tháp ghép vào dân chúng Đức một cách sống tôn trọng phẩm giá con người hơn, nhờ đó mà các quyền bất khả nhượng của con người được dễ kính trọng hơn.

Với tư cách là người con chính danh của Thánh Benedett, Thánh Boniface biết liên kết cầu nguyện và làm việc ( việc làm tay chân và làm việc bằng trí óc), bằng ngòi viết và bằng lưỡi cày.

Nhân chứng can đảm của Thánh Boniface là một lời mời gọi đối với tất cả chúng ta biết đón nhận lời Chúa trong cuộc sống của mình, như là định điểm chính yếu cho các động tác,
– mời gọi chúng ta biết tha thiết yêu thương Giáo Hội,
– biết cảm thấy mình cũng có bổn phận đối với tương lai của Giáo Hội,
– tìm cách kết hợp liên kết nhau chung quanh Đấng Kế Vị Thánh Phêrô.
Đồng thời Thánh Boniface cũng nhắc nhớ chúng ta rằng Ki Tô giáo, bằng cách phát huy việc phổ biến văn hoá, khuyến khích sự tiến bộ con người.
Bây giờ đến lược chúng ta, hãy hành xử tương xứng với một kho tàng cao cả như vậy và làm cho kho tàng đó đâm hoa kết quả ích lợi cho những thế hệ sắp đến.

Tôi luôn luôn cảm thấy thán phục nhiệt tâm nóng bỏng của ngài đối với Phúc Âm:
– lúc bốn mươi tuổi ngài ra đi từ một cuộc sống tót đẹp và đầy kết quả của một dòng tu, từ giả ra đi để lại sau lưng một cuộc sống của vị tu sĩ và của một giáo sư để rao giảng Phúc Âm cho những kẻ tầm thường, cho dân còn có cuộc sống man rợ ( barbari)
– lúc tám mươi tuổi, lại một lần nữa, ngài khởi đầu một cuộc hành trình vào một vùng mà đoán trước rằng mình sẽ phải chịu tử đạo.
Sánh đức tin đầy nhiệt huyết, lòng hăng say của ngài đối với Phúc Âm, so với đức tin nhiều lúc hâm hẩm vậy vậy và đức tin theo thủ tuc bàn giấy của chúng ta, chúng ta hãy tự hỏi
– phải làm gì và phải làm thế nào để cải đổi hoá đức tin,
– để chính chúng ta cũng có thể cống hiến cho thệ hệ chúng ta viên ngọc qúy Phúc Âm.

Phỏng dịch tư nguyên bản Ý Ngữ: Nguyễn Học Tập.

Kẻ đồi bại làm tổn hại Giáo Hội Công Giáo, Các Thánh là ánh sáng cho tất cả: Lời ĐTC Phanxicô

Kẻ đồi bại làm tổn hại Giáo Hội Công Giáo, các Thánh là ánh sáng cho tất cả: Lời ĐTC Phanxicô

Các người tội lỗi, kẻ đồi bại và các Thánh là đề tài gồm ba nhóm mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu lên trong buổi thánh lễ sáng ngày thứ Hai 06/03/2013 tại nhà trú Martha. Đức Thánh Cha nói các kẻ đồi bại xấu xa đã làm tổn hại đến Giáo Hội Công Giáo bởi vì họ là những người chỉ biết sùng ái tôn thờ chính họ. Ngược lại các Thánh làm các việc tốt lành, là những ngọn đèn sáng trong Giáo Hội Công Giáo.

Việc gì xảy ra khi chúng ta muốn trở thành các chủ của vườn nho? Dụ ngôn của các tá điền gian ác trong bài đọc phúc âm là một điểm bắt đầu cho bài giảng ĐTC Phanxicô mà Ngài nhấn mạnh đến “ Ba nhóm người đặc trưng cho người công giáo trong Hội Thánh: Người tội lỗi, Kẻ đồi bại và các Thánh”. ĐTC ghi chú thêm rằng “không cần bàn thêm nhiều về “người tội lỗi” bởi vì chúng ta tất cả là người tội lỗi. Chúng ta đã thấy trong chính chúng ta và biết rằng tội là gì. Nếu bất cứ ai trong chúng ta không cảm nhận việc này, thì người ấy cần phải đi đến bác sĩ tinh thần” bởi vì “có cái gì không đúng”. Tuy nhiên, dụ ngôn cho chúng ta một cái hình ảnh khác, cho những ai muốn sở hữu vườn nho và ai mất sự liên hệ với Chủ của vườn nho mà Chủ vườn nho là người thương yêu, bảo vệ chúng ta, là người cho chúng ta sự tự do. ” Những kẻ muốn chiếm hữu vườn nho, “tự cho là họ mạnh mẻ, và cho rằng không trực thuộc vào Thiên Chúa”:

“Những kẻ này, dần dần sẽ rơi vào tự chủ mình, độc lập với sự liên kết với Thiên Chúa “Chúng tôi không cần Ông Chủ đó, ông ta không nên đến và quấy rầy chúng tôi!” Họ là những kẻ đồi bại, Đây là những kẻ có tội giống chúng ta, nhưng họ đã làm một bước tiến vượt quá sự kiện này, nếu như họ xác nhận tội lỗi của họ, họ không cần đến Thiên Chúa. Nhưng dường như  là như vậy, trong tính di truyền của họ có sự liên kết với Thiên Chúa và từ đấy họ không thể chối bỏ điều này, họ tự tạo một thần linh đặc biệt, chính họ là thần linh. Họ là kẻ đồi bại.

Đức Thánh Cha tiếp: “Đây cũng là một sự nguy hiểm cho chúng ta. Trong các cộng đồng Kitô hữu, kẻ đồi bại chỉ nghĩ đến riêng nhóm của họ: “Tốt, tốt lắm, đó là của chúng ta – họ nghĩ như vậy – nhưng thực ra, ‘họ chỉ lo cho chính họ mà thôi”:

“Giuđa [là kẻ thứ nhất]: từ một người tội lỗi tham lam, cuối cùng trở thành đồi bại. Con đường tự chủ là một con đường hiểm nguy: họ rất dễ quên, quên sự yêu thương, mà Thiên Chúa tạo dựng lên vườn nho và chính họ. Họ cắt đứt sự liên hệ với sự yêu thương này và họ trở thành những người tự tôn tự đại. Thật là sự đồi bại trong cộng đồng Kitô giáo. Cầu xin Thiên Chúa cứu thoát chúng ta con đường đồi bại ấy.

ĐTC cũng nói về các Thánh, tưởng niệm ngày hôm nay là lần thứ 50 ngày mất của Chân Phước Gioan XXIII, “một mẫu thánh thiện”. Ngài tiếp: “Trong Phúc Âm hôm nay, các Thánh là những người đi thu tiền các tá điền thuê mướn vườn nho. Họ biết họ có bổn phận gì, họ phải làm bổn phận của họ”:

Các Thánh là những người vâng theo Thiên Chúa, những người tôn thờ Thiên Chúa, họ không mất sự yêu thương  mà Thiên Chúa đã ban khi tạo dựng ra vườn nho. Những kẻ tham nhũng đã gây bao nhiêu tai hại cho Giáo Hội, nhưng các Thánh lại làm biết bao nhiêu điều tốt lành. Cũng như kẻ đồi bại làm tổn hại đến Hội Thánh  nhưng các Thánh làm rất nhiều việc tốt lành. Thánh Gioan Tông đồ nói những kẻ đồi bại là những kẻ chống lại Chúa, họ ở giữa chúng ta, nhưng họ không phải là chúng ta. Còn các Thánh, Lời Chúa phán rằng họ giống như ánh sáng, ‘họ sẽ thờ phượng ở trước ngai tòa Thiên Chúa.’ Hôm nay chúng ta xin Thiên Chúa ban cho ân sủng để hiểu rằng chúng ta là kẻ tội lỗi, thực sự có tội,  tội lỗi không bao quát, nhưng người tội lỗi liên quan đến chỗ này, chỗ đó và chỗ khác, tội lỗi cụ thể, với sự cụ thể của tội lỗi. Ân sủng sẽ không trở thành đồi bại: người tội lỗi thì được, nhưng đồi bại thì không. Và hồng ân sẽ đi trên con đường thánh thiện. Amen.

Phỏng dịch từ Vatican Radio

Thái Trọng