Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: Giáo Hội thánh thiện theo nghĩa nào?

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: Giáo Hội thánh thiện theo nghĩa nào?

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung hơn 50 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư 2-10-2013, ĐTC Phanxicô quảng diễn bài giáo lý ”Giáo Hội thánh thiện”, qua đó ngài xác định Giáo Hội thánh thiện theo nghĩa nào, và ơn gọi nên thánh của tất cả các tín hữu.

Trên thềm trước Đền thờ, ở bên tay trái nhìn xuống, có gần 50 GM, trong đó nhiều vị đã tham dự cuộc gặp gỡ về hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio ở Roma tổ chức trong những ngày qua. Từ gần 10 giờ sáng, trong lúc ĐTC bắt đầu đi xe díp trắng mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài, thì xướng ngôn viên lần lượt giới thiệu tên các phái đoàn hành hương.

Sau nửa tiếng chào thăm như thế, xe chở ĐTC dừng lại gần trước thềm lễ đài, và ngài đi bộ tiến lên, làm thánh giá với lời chào phụng vụ bắt đầu buổi tiếp kiến.

Huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, chào anh chị em

Trong kinh Tin Kính, sau khi tuyên xưng: ”Tôi tin Giáo Hội duy nhất”, chúng ta thêm tĩnh từ ”thánh thiện”; nghĩa là chúng ta khẳng định sự thánh thiện của Giáo Hội, và đây là một đặc tính hiện diện ngay từ đầu trong ý thức của các tín hữu Kitô tiên khởi, họ được gọi một cách đơn thuần là ”các thánh” (Xc Cv 9,13.32.41; Rm 8,27; 1 Cr 6,1), vì họ xác tín rằng chính hoạt động của Thiên Chúa, Chúa Thánh Linh thánh hóa Giáo Hội.

Nhưng Giáo Hội là thánh thiện theo nghĩa nào, khi chúng ta thấy rằng Giáo Hội lịch sử, trong hành trình qua bao thế kỷ, đã gặp bao nhiêu khó khăn, có nhiều vấn đề và trải qua những thời kỳ đen tối? Làm sao một Giáo Hội gồm những phàm nhân, những người tội lỗi lại có thể là Giáo Hội thánh thiện được? Những người nam nữ tội lỗi, các linh mục, nữ tu, giám mục, hồng y, Giáo Hoàng tội lỗi.. Tất cả như thế? Vậy làm sao Giáo Hội có thể là thánh thiện được?

1. Để trả lời cho câu hỏi này, tôi muốn để cho mình được một đoạn thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Ephêsô hướng dẫn. Thánh Tông Đồ đã lấy ví dụ về tương quan gia đình và khẳng định rằng ”Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hiến mình vì Giáo Hội, để làm cho Giáo Hội trở nên thánh thiện” (5,25-26). Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội, hiến trọn thân mình trên thánh giá. Điều này có nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là Giáo Hội là thánh thiện vì xuất phát từ Thiên Chúa là Đấng thánh, Chúa trung tín với Giáo Hội và không bỏ mặc Giáo Hội cho quyền lực của sự chết và sự ác (Xc Mt 16,18). Giáo Hội là thánh thiện vì Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa (Xc Mc 1,24) kết hiệp với Giáo Hội một cách không thể tách rời (Xc Mt 28,20); Giáo Hội là thánh vì được Chúa Thánh Linh hướng dẫn, Ngài thanh tẩy, biến đổi, canh tân Giáo Hội. Giáo Hội thánh thiện không phải vì công trạng của chúng ta, nhưng vì Thiên Chúa làm cho Giáo Hội nên thánh, đó là hoa trái của Thánh Linh và các Hồng ân của Chúa. Không phải chúng ta làm cho Giáo Hội thánh thiện: nhưng là Thiên Chúa, là Chúa Thánh Linh, trong tình thương, Ngài làm cho Giáo Hội thánh thiện!

2. Có thể anh chị em nói với tôi: nhưng Giáo Hội do những người tội lỗi họp thành, chúng ta thấy điều đó hằng ngày!. Đúng vậy: chúng ta là một Giáo Hội gồm những người tội lỗi; và trong tư cách là những người tội lỗi, chúng ta được kêu gọi để cho mình được Thiên Chúa biến đổi, canh tân và thánh hóa. Trong lịch sử đã có những người bị cám dỗ nói rằng: Giáo Hội chỉ là Giáo Hội của những người tinh tuyền, những người hoàn toàn sống phù hợp với niềm tin, còn những người khác cần phải bị gạt bỏ. Thực vậy, đây là một sự rối đạo. Giáo Hội là thánh thiện, nhưng không từ khước những người tội lỗi; Giáo Hội không từ khước tất cả chúng ta, vì Giáo Hội kêu gọi tất cả; Giáo Hội đón nhận người tội lỗi, Giáo Hội cũng mở rộng đối với những người xa xăm nhất, kêu gọi tất cả hãy để cho mình được lòng từ bi, sự dịu hiền và tha thứ của Chúa Cha ấp ủ, Chúa trao tặng mọi người cơ hội được gặp gỡ ngài, tiến bước về sự thánh thiện. ”Nhưng thưa cha, con là một kẻ tội lỗi, con có những tội tầy đình, làm sao con có thể cảm thấy mình là thành phần của Giáo Hội?”. Anh chị em thân mến, chính đó là điều Chúa muốn; Chúa muốn anh chị em nói: ”Lạy Chúa con đây, với những tội lỗi của con. Xin Chúa tha thứ, xin giúp con tiến bước, xin biến đổi tâm hồn con!”. Trong Giáo Hội, Thiên Chúa mà chúng ta gặp không phải là một quan án không biết thương xót, nhưng như Người Cha trong dụ ngôn Tin Mừng. Bạn có thể như người con đã bỏ nhà, đã tụt xuống thẳm sâu của sự xa lìa Thiên Chúa. Khi bạn có can đảm nói: Tôi muốn trở về nhà, thì bạn sẽ thấy cánh cửa mở rộng. Thiên Chúa đến gặp bạn vì Ngài luôn chờ đợi bạn, Ngài ôm lấy bạn, hôn bạn và tổ chức mừng lễ. Chúa muốn chúng ta là thành phần của một Giáo Hội biết mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, Giáo Hội không phải là căn nhà của vài người, nhưng là nhà của tất cả, trong đó tất cả đều có thể được đổi mới, biến đổi, thánh hóa bằng bình yêu Chúa, những người mạnh nhất cũng như người yếu nhất, người tội lỗi, những người dửng dưng, những người cảm thấy thất vọng và lạc loài. Giáo Hội trao tặng tất cả mọi người cơ hội tiến bước trên con đường thánh thiện, là con đường của tín hữu Kitô: Giáo Hội làm cho chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô trong các bí tích, nhất là trong bí tích giải tội và Thánh Thể; Giáo Hội thông truyền cho chúng ta Lời Chúa, làm cho chúng ta sống trong tình bác ái, trong tình thương của Thiên Chúa đối với mọi người. Vì thế chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có để cho mình được thánh hóa hayt không? Chúng ta có phải là một Giáo Hội kêu gọi và mở rộng vòng tay đón nhận những người tội lỗi, mang lại can đảm, hy vọng hay chúng ta là một Giáo Hội khép kín vào mình? Chúng ta có phải là một Giáo Hội trong đó ta sống tình thương của Thiên Chúa, trong đó có sự quan tâm đối với tha nhân, trong đó mọi người cầu nguyện cho nhau hay không?

3. Câu hỏi cuối cùng: vậy tôi có thể làm gì, tôi cảm thấy yếu đuối, dòn mỏng, tội lỗi? Thiên Chúa nói với bạn: đừng sợ sự thánh thiện, đừng sợ hướng lên cao, để cho mình được Thiên Chúa yêu mến, thanh tẩy, đừng sợ để cho mình được Thánh Linh hướng dẫn. Chúng ta hãy để cho mình được lây sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu được mời gọi nên thánh (Xc Hiến chế Lumen gentium, 39-42); và sự thánh thiện trước hết không hệ tại làm những việc ngoại thường, nhưng là để cho Thiên Chúa hành động. Đó là cuộc gặp gỡ giữa sự yếu đuối chúng ta với sức mạnh của ơn thánh Chúa, là tín thác nơi hoạt động của Chúa, giúp chúng ta sống trong đức bác ái, làm mọi sự với niềm vui và khiêm tốn, vì vinh danh Chúa và phục vụ tha nhân. Có một câu nói thời danh của văn hào Pháp Léon Bloy; trong những lúc cuối cùng của cuộc đời, ông nói: ”Chỉ có một sự buồn sầu duy nhất trong đời, đó là buồn vì không phải là thánh”. Chúng ta đừng mất hy vọng nơi sự thánh thiện, tất cả chúng ta hãy tiến theo con đường này. Chúng ta có muốn nên thánh không? Chúa đang đợi chúng ta, tất cả với vòng tay rộng mở. Chúa đợi chúng ta để tháp tùng chúng ta trên con đường thánh thiện! Chúng ta hãy sống đức tin trong vui mừng, hãy để cho Chúa yêu thương chúng ta.. Trong kinh nguyện, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn này cho chúng ta và cho tha nhân nữa”.

Chào thăm các nhóm

Sau bài giáo lý trên đây, các giám chức tại Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt ý chính bài huấn giáo của ĐTC, cũng như dịch những lời chào của ngài từ tiếng Ý sang các ngôn ngữ chính.

Bằng tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt nhắc đến đoàn hành hương thuộc giáo phận Besancon và một nhóm người du mục thuộc cộng đoàn Emmanuel bên Pháp.

Bằng tiếng Anh, ĐTC thân ái cháo phái đoàn thuộc Trung tâm quốc tế đối thoại liên tôn và liên văn hóa. Ngài nhắc đến nhiều nhóm Phật từ Nhật Bản, kể cả phái đoàn của Tông Phái Phật Giáo Thiên Đài va Trung Tâm Nakano Dharma thuộc Phật giáo Rissho Kosei-kai bên Nhật.

Với các tín hữu nói tiếng Đức, ĐTC chào thăm các vị chủ tịch, các giám đốc toàn quốc và thành viên, cũng như ân nhân của Quỹ Giáo Hoàng Trợ giúp các Giáo Hội đau khổ. Ngài khích lệ họ rằng: ”Các bạn thân mến, xin Chúa luôn phong phú hóa kinh nguyện và sự dấn thân của các bạn để nâng đỡ sứ mạng của Giáo Hội tại các nơi trên thế giới, nhất là tại những nơi Giáo Hội đang chịu đau khổ vì thiếu thốn tinh thần và vật chất, cũng như những nơi Giáo Hội đang bị kỳ thị và bách hại”

Sau cùng bằng tiếng Ý, ĐTC chào thăm các tín hữu về Roma hành hương nhân dịp Năm Đức Tin, các bạn trẻ thuộc Tu Hội đời ”Những người tôi tớ của đau khổ” đang tham dự Hội nghị toàn quốc Tông Đồ cầu nguyện và Hội nghị toàn quốc những người Thờ Lạy Thánh Thể. Ngài nói: ”Sau cùng tôi thân ái nghĩ đến các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn. Hôm nay chúng ta kính nhớ các Thiên Thần bản mệnh. Hỡi những người trẻ, ước gì sự hiện diện của các ngài củng cố nơi mỗi người trong các con xác tín Thiên Chúa đang tháp tùng các con trong hành trình cuộc sống; xin Chúa nâng đỡ các anh chị em bệnh nhân quí mến, làm dịu những cơ cực hằng ngày của anh chị em.. và hỡi các đôi tân hôn, xin Chúa giúp đỡ anh chị em trong việc xây dựng gia đình trên tình yêu của Thiên Chúa.
ĐTC đã kết thúc buổi tiếp kiến với kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh ban cho mọi người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha bắt đầu họp Hội đồng Hồng Y Cố Vấn

Đức Thánh Cha bắt đầu họp Hội đồng Hồng Y Cố Vấn

VATICAN. Khóa họp đầu tiên kéo dài 3 ngày của 8 Hồng y thuộc Hội đồng cố vấn của ĐTC đã khai diễn sáng ngày 1 tháng 10-2013, tại thư viện riêng của ĐGH ở lầu 3 trong dinh tông tòa.

Trước đó, ngài đã đồng tế với các Hồng Y tại nguyện đường Nhà trọ thánh Martha ở nội thành Vatican.

Khóa họp được tiến hành với sự hiện diện của ĐTC và dưới sự điều hợp của ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga, dòng Don Bosco, TGM giáo phận Tegucigalpa, Honduras, và 7 vị HY còn lại đến từ Bắc và Nam Mỹ, Vatican, Đức, Australia, Ấn độ và Congo. Vị thư ký của Hội đồng là Đức Cha Marcelo Semerano, GM giáo phận Albano nơi đó dinh thự Castel Gandolfo của ĐGH. Đức Cha đã từng làm Tổng thư ký đặc biệt của một Thượng HĐGM, trong đó ĐHY Jorge Bergoglio, tức là Đức Đương Kim Giáo Hoàng, đã làm Tổng tường trình viên.

Đây là khóa họp chung chính thức đầu tiên, và trong 5 tháng qua, đã có nhiều tiếp xúc giữa ĐTC với các HY thành viên và giữa các HY này với nhau.

Trong cuộc họp báo hôm 30 tháng 9-2013, Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, nhắc lại rằng Hội đồng cố vấn của ĐTC có mục đích chủ yếu là góp ý kiến với ĐTC trong việc cai quản Giáo Hội hoàn vũ và cải tổ Tông huấn Pastor Bonus (Mục tử nhân lành), ban hành năm 1988 về các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Hội đồng chỉ có tính chất tư vấn và không có quyền đưa ra quyết định nào.

Theo thủ bút của ĐTC được công bố hôm 30-9-2013, ngài sẽ bổ nhiệm thêm hoặc thay đổi con số các thành viên Hội đồng cố vấn nếu thấy là thích hợp. Ngày 4-10 tới đây, nhóm 8 HY sẽ tháp tùng ĐTC trong cuộc viếng thăm mục vụ và hành hương tại Assisi.

Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho chủ nhiệm báo Cộng hòa (Repubblica) thuộc phe tả ở Italia, ĐTC Phanxicô bày tỏ quyết tâm cải tổ giáo triều Roma và đưa Giáo Hội tái trở thành một cộng đồng Dân Chúa.

Bài phỏng vấn diễn ra ngày 24-9-2013 và được phổ biến trong số ra ngày hôm 1 tháng 10-2013, qua đó ĐTC nói với Ông Eugenio Scalfari, Chủ nhiệm báo Cộng Hòa, rằng: ”Tòa Thánh có một khuyết điểm là qui trọng tâm về Vatican, coi và chăm sóc quyền lợi của Vatican, và phần lớn đây vẫn còn là những lợi lộc trần thế. Quan niệm qui trọng tâm về Vatican như thế lơ là với thế giới bao quanh. Tôi không đòng ý với quan điểm như thế về Tòa Thánh, và tôi sẽ làm hết sức để thay đổi quan điểm đó. Giáo Hội phải tái trở thành một cộng đồng Dân Chúa và các linh mục, cha sở, các GM với nhiệm vụ săn sóc các linh hồn, là để phục vụ Dân Chúa.”

ĐTC cũng khẳng định rằng ”lý tưởng một Giáo Hội truyền giáo và thanh bần, được Thánh Phanxicô thể hiện cách đây 800 năm, ngày nay vẫn còn giá trị, để mang lại hy vọng cho người trẻ, giúp đỡ người già, cởi mở hướng về tương lai, phổ biến tình thương.. Là những nghèo giữa người nghèo, chúng ta phải bao gồm cả những người bị loại trừ và rao giảng hòa bình” (SD 1-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Lần đầu tiên Viện Giáo Vụ công bố kết toán chi thu chi tiết

Lần đầu tiên Viện Giáo Vụ công bố kết toán chi thu chi tiết

VATICAN. Hôm 1 tháng 10-2013, lần đầu tiên Viện giáo vụ, quen gọi là ”Ngân hàng Vatican” đã công bố kết toán chi thu năm 2012.

Theo kết toán này dài hơn 100 trang này, trong năm ngoái Viện giáo vụ đã quản lý 6 tỷ 300 triệu Euro và đã lời được 86 triệu 600 ngàn Euro, trong đó 54 triệu 700 ngàn được đưa vào ngân sách của Tòa Thánh, và 31 triệu 900 ngàn được dự trữ chống những rủi ro.

Viện giáo vụ quản lý 13,700 tài khoản của các nhân viên Vatican, giáo phận, dòng tu, ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Chủ tịch Viện giáo vụ, ông Ernst von Freyberg, người Thụy Sĩ, nói rằng ”Sự minh bạch là điều cơ bản, là yếu tố chủ yếu trong hoạt động của Viện này. Từ tháng 3 năm nay, chúng tôi theo đuổi chính sách dựa trên 3 điểm: thứ nhất là mở ra và đối thoại với các cơ quan truyền thông, thông báo những gì đan được tiến hành. Vì thế, nay Viện giáo vụ có một phòng báo chí. Thứ hai là thành lập một Web internet để thông truyền hoạt động của Viện. Sau cùng là công bố phúc trình hằng năm. Đây là một bước tiến hướng tới một Viện minh bạch trong sáng và phù hợp với các qui tắc, và theo đó, ĐTC sẽ quyết định đâu là hướng đi mà Viện cần tiếp tục tiến bước” (SD 1-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

27-4-2014 tôn phong 2 chân phước Giáo Hoàng lên bậc Hiển Thánh

Ngày 27 tháng 4-2014 sẽ tôn phong 2 chân phước Giáo Hoàng lên bậc Hiển Thánh

VATICAN. Hai vị Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 sẽ được tôn phong hiển thánh vào ngày, 27-4 năm 2014, Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

ĐTC Phanxicô đã tuyên bố quyết định này trong Công nghị Hồng y đầu tiên do ngài triệu tập lúc 10 giờ sáng 30-9-2013, tại Vatican với sự tham dự của các HY thường trú và các HY hiện diện tại Roma trong những ngày này.

Công nghị Hồng y đã bắt đầu với kinh Giờ Ba, và tiếp đó ĐTC đã tuyên bố ngày phong hiển thánh cho hai vị chân phước Giáo Hoàng tiền nhiệm.

Rồi Đức Ông trưởng ban nghi lễ phụng vụ của ĐTC đã yêu cầu tất cả mọi người không phải là Hồng Y ra ngoài phòng họp để ĐTC trao đổi riêng với các vị, trong đó có cả 8 Hồng y thuộc ban cố vấn của ngài.

Cũng ngày 30-9-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố thủ bút của ĐTC về việc thiết lập Hội đồng Hồng Y giúp ngài trong việc cai quản giáo hội hoàn vũ và nghiên cứu dự án duyệt lại Tông huấn Mục Tử Nhân Lành về giáo triều Roma.

Sau công nghị, ĐTC đã tiếp kiến Đức Thượng Phụ Theodoros II, Giáo Chủ Chính Thống Hy Lạp tại Alessandria Ai Cập và toàn Phi châu, cùng với đoàn tùy tùng của Đức Thượng Phụ.

Ngài là thủ lãnh của 350 ngàn tín hữu thuộc 22 tổng giáo phận trong số này có 5 tổng giáo phận tại Ai Cập, và 4 giáo phận tại nơi khác. Giáo Hội này có các tín hữu hiện diện tại 15 nước Phi châu (SD 30-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo kiến tạo hòa bình

Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo tôn giáo kiến tạo hòa bình

ROMA. ĐTC Phanxicô kêu gọi các tôn giáo kiên trì kiến tạo và bênh vực hòa bình, qua con đường đối thoại và cầu nguyện.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 30-9-2013 dành cho 300 vị đại diện tôn giáo tham dự cuộc gặp gỡ về hòa bình do Cộng đồng thánh Egidio tổ chức tại Roma từ ngày 29-9 đến 1-10-2013 với chủ đề ”Can đảm hy vọng”.

ĐTC nhắc đến tình trạng thế giới ngày nay đang rất cần hòa bình và khẳng định rằng: ”Chúng ta không bao giờ có thể cam chịu đứng trước những đau khổ của các dân tộc, đang trở thành con tin của chiến tranh, lầm than, bóc lột. Chúng ta không thể dửng dưng và bất lực trước thảm trạng của các trẻ em, gia đình, người già nạn nhân của bạo lực. Chúng ta không thể để cho nạn khủng bố giam hãm con tim của một số người hung bạo để rồi làm cho họ gieo rắc đau thương và chết chóc cho bao nhiêu người. Tất cả chúng ta cùng mạnh mẽ tiếp tục nói lên rằng không thể có biện minh tôn giáo nào cho bạo lực, dù nó được biểu lộ dưới bất kỳ hình thức nào.. Cần phải xóa bỏ mọi hình thức bạo lực viện cớ tôn giáo, và cùng nhau chúng ta cảnh giác để thế giới khỏi trở thành con mầu của bạo lực được chứa đựng trong mọi dự phóng văn minh dựa trên sự phủ nhận Thiên Chúa”.

ĐTC cũng đề cao vai trò của các vị lãnh đạo tôn giáo trong việc xây dựng hòa bình và ngài nhận xét rằng: ”Cuộc gặp gỡ của quí vị hàng năm gợi cho chúng ta con đường xây dựng hòa bình, đó là can đảm đối thoại, mang lại hy vọng. Sở dĩ trên thế giới, trong xã hội, có ít hòa bình cũng chỉ vì thiếu đối thoại, người ta cảm thấy khó ra khỏi chân trời chật hẹp của tư lợi để cởi mở đối với một cuộc đối chiếu chân thành và thực sự. Để có hòa bình cần có một cuộc đối thoại kiên trì, bền chí, mạnh mẽ, thông minh, không để mất mát một sự gì. Đối thoại có thể chiến thắng chiến tranh. Đối thoại là cho những người thuộc các thể hệ khác nhau và thường cố tình không biết nhau, nay biết sống chung với nhau. Đối thoại làm cho các công dân thuộc các chủng tộc khác nhau, xác tín khác nhau, biết sống chung với nhau”.

Sau cùng, ĐTC mời gọi các vị lãnh đạo tôn giáo tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới, tại Syria, Trung Đông và bao nhiêu nước khác trên thế giới. Ước gì lòng can đảm hòa bình này mang lại can đảm hy vọng cho thế giới, cho tất cả những người đang chịu đau khổ vì chiến tranh, cho những người trẻ đang lo âu hướng về tương lai của họ” (SD 30-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ cho hơn 100 ngàn giáo lý viên và tín hữu

Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ cho hơn 100 ngàn giáo lý viên và tín hữu

VATICAN. Hội nghị quốc tế về giáo lý và cuộc hành hương của các giáo lý viên trong Năm Đức Tin đã kết thúc tốt đẹp với Thánh Lễ do ĐTC Phanxicô cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng chúa nhật 29-9-2013.

Hiện diện trong thánh lễ có hơn 100 ngàn người đứng đầy quảng trường, tràn ra tới cuối đường Hòa Giải, dưới bầu trời mùa thu, có mây phủ nhưng không mưa. Trong số các tham dự viên, đó hơn 1.600 người đã tham dự hội nghị quốc tế về giáo lý trong những ngày liền trước cuộc hành hương chính thức. Hiện diện tại một chỗ danh dự có Đức Thượng Phụ Chính Thống Antiokia ở Siria, Youhanna X Yazigi.

Từ Việt Nam chỉ có 2 người đến tham dự Hội nghị giáo lý có Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền, Trưởng Ban Giáo Lý Tổng giáo phận TP. HCM, và chị Madalena Phạm Thị Thúy, thuộc Ban Thư Ký Ủy ban Giáo Lý Đức Tin của HĐGM Việt Nam.

Đồng tế với ĐTC có 60 HY và GM, 600 linh mục, phần giúp lễ do 15 thầy thuộc Học Viện Giáo Hoàng Quốc Tế ”Tòa Đấng Khôn Ngoan”.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC quảng diễn ý nghĩa các bài đọc, đặc biệt là bài Phúc Âm về người phú hộ và ông Lazzaro nghèo khổ. Ngài nói:

1. ”Khốn cho những không quan tâm ở Sion và những kẻ tự kiêu,.. các ngươi nằm trên giường ngà” (Am 6,1.4), ăn uống, ca hát, tiêu khiển và không bận tâm gì đến những vấn đề của người khác.

Những lời này của ngôn sứ Amos thật nghiêm khắc, cảnh giác chúng ta về một nguy hiểm mà tất cả chúng ta đều mắc phải. Vị sứ giả này của Thiên Chúa tố giác điều gì, ngài đặt điều gì trước mặt những người đồng thời và cả trước mắt chúng ta ngày nay? Thưa đó là nguy cơ sống thoải mái, tiện nghi, phàm tục trong cuộc sống và trong tâm hồn, đặt an sinh ở trung tâm cuộc sống. Đó cũng là kinh nghiệm của người phú hộ trong Phúc Âm, mặc y phục sang trọng và hằng ngày yến tiệc linh đình; đó là điều quan trọng đối với ông ta. Còn người nghèo trước cửa nhà ông không có gì để ăn thì sao? Đó chẳng phải là vấn đề của người phú hộ, chẳng liên hệ gì tới ông ta. Nếu vật chất, tiền bạc, cuộc sống sa hoa trở thành trung tâm cuộc sống, thì chúng nắm bắt, chiếm hữu chúng ta và chúng ta đánh mất chính căn tính làm người của mình: người phú hộ trong Phúc Âm không có tên, ông chỉ là ”một người giàu có”. Vật chất, điều mà ông ta sở hữu, là khuôn mặt của ông, và không có gì khác.

Nhưng chúng ta cũng hãy tự hỏi: làm sao điều ấy lại xảy ra như vậy? Làm sao con người, có lẽ cả chúng ta nữa, lại rơi vào nguy hiểm khép mình, đặt an ninh của chúng ta trong sự vật, và rốt cục chúng chiếm mất khuôn mặt của chúng ta, khuôn mặt của một người? Điều này xảy ra khi chúng ta mất ký ức về Thiên Chúa. Nếu không còn ký ức về Thiên Chúa nữa, thì mọi sự đều thu hẹp vào cái tôi, vào an sinh thoải mái của tôi. Cuộc sống, thế giới, tha nhân, đều mất tầm quan trọng, chẳng còn gì đáng kể nữa, tất cả đều thu hẹp vào một chiều kích, đó là sở hữu. Nếu chúng ta không còn nhớ đến Thiên Chúa nữa, thì chính chúng ta cũng trở nên trống rỗng, chúng ta mất khuôn mặt của mình như người phú hộ trong Phúc Âm! Ai chạy theo sự hư vô thì cũng trở thành hư vô – như lời một ngôn sứ khác, Giêrêmia (Xc Gr 2,5) đã nói. Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa, chứ không phải theo hình ảnh của sự vật, của các ngẫu tượng!

Từ những nhận xét trên đây, ĐTC ngỏ lời với các giáo lý viên hiện diện:

2. Khi nhìn anh chị em, tôi tự hỏi: giáo lý viên là ai? Thưa là người gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa; họ bảo tồn ký ức ấy nơi bản thân và biết khơi dậy ký ức đó nơi tha nhân. Đây là điều thật đẹp: nhớ đến Thiên Chúa, như Đức Trinh Nữ Maria, trước hoạt động kỳ diệu của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, Mẹ không nghĩ đến vinh dự, uy tín, giàu sang, không khép kín vào mình. Trái lại, sau khi lắng nghe lời loan báo của Thiên Chúa và chịu thai Con Thiên Chúa, Mẹ làm gì? Thưa, Mẹ ra đi gặp gỡ bà chị họ Elizabeth cao niên, cũng đang mang thai, để giúp đỡ bà; và trong cuộc gặp gỡ với bà chị, hành vi đầu tiên của Mẹ là nhớ đến hành động của Thiên Chúa, sự trung tín của Thiên Chúa trong đời sống của Mẹ, trong lịch sử dân Chúa, trong lịch sử chúng ta: ”Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.. vì Người đã nhìn đến phận hèn của nữ tỳ Chúa.. lòng từ bi của Chúa từ đời này sang đời khác” (Lc 1,46.48.50).

Trong bài ca này của Mẹ Maria, cũng có ký ức về lịch sử bản thân, lịch sử của Thiên Chúa với Mẹ, chính kinh nghiệm đức tin của Mẹ. Cũng vậy đối với mỗi người chúng ta, mỗi Kitô hữu: đức tin chứa đựng ký ức về lịch sử Thiên Chúa với chúng ta, ký ức cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đấng chuyển động đầu tiên, sáng tạo và cứu độ, biến đổi chúng ta; đức tin là nhớ lại Lời Chúa sưởi ấm tâm hồn, những hoạt động cứu độ của Chúa, ban sự sống, thanh tẩy, săn sóc và nuôi dưỡng chúng ta. Giáo lý viên chính là một tín hữu Kitô đặt ký ức ấy để phục vụ việc loan báo; không phải để phô trương, không phải để người ta nói về mình, nhưng để nói về Thiên Chúa, về tình thương và lòng trung tín của Chúa.

Thánh Phaolo nhắn nhủ môn đệ và cộng tác viên của ngài, Timotheo, đặc biệt về điều này: Con hãy nhớ đến Chúa Giêsu Kitô, đã sống lại từ cõi chết, mà Cha loan báo và vì Người Cha chịu đau khổ (Xc 2 Tm 2,8-9). Nhưng Thánh Tông Đồ có thể nói điều đó vì Người đã nhớ đến Chúa Kitô trước, Đấng đã kêu gọi thánh nhân khi còn là kẻ bách hại các tín hữu Kitô, Chúa đánh động và biến đổi Phaolô bằng ơn thánh của Ngài.

Vì thế, giáo lý viên là một Kitô hữu mang trong mình ký ức về Thiên Chúa, để cho mình được ký ức về Thiên Chúa hướng dẫn trong trọn cuộc đời của mình, và biết khơi dậy ký ức ấy trong tâm hồn tha nhân. Đó thực là một công trình lớn lao! Dấn thân trọn đời! Chính cuốn sách Giáo Lý là gì nếu không phải là ký ức về Thiên Chúa, ký ức về hoạt động của Chúa trong lịch sử, về sự kiện Thiên Chúa ở gần chúng ta trong Đức Kitô, Đấng hiện diện trong Lời Chúa, các bí tích, trong Giáo Hội và trong tình thương của Chúa? Hỡi các giáo lý viên, tôi hỏi anh chị em; chúng ta có là ký ức về Thiên Chúa hay không? Chúng ta có thực sự giống như những người lính canh thức tỉnh nơi người khác ký ức về Thiên Chúa, sưởi ấm tâm hồn hay không?

3. ”Khốn cho những kẻ không quan tâm ở Sion”. Đâu là con đường phải theo để khỏi trở thành những ”người không quan tâm”, đặt an ninh nơi chính mình và nơi vật chất, nhưng là những người nam nữ nhớ đến Thiên Chúa? Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô viết cho Timotheo, đưa ra một số chỉ dẫn có thể đánh dấu hành trình của giáo lý viên, hành trình của chúng ta: hướng tới sự công chính, lòng đạo đức, đức tin, đức mến, kiên nhẫn, hiền lành (Xc 1 Tm 6,11).

Giáo lý viên là người nhớ đến Thiên Chúa nếu có một tương quan liên lỷ, sinh tử với Chúa và với tha nhân; nếu giáo lý viên là con người đức tin, thực sự tín thác nơi Thiên Chúa và đặt an ninh của mình nơi Chúa; nếu họ là bác ái, yêu thương, coi mọi người như anh chị em mình; nếu là người ”hypomoné”, kiên nhẫn và bền chí, biết đương đầu với khó khăn, thử thách, những thất bại, trong thanh thản và hy vọng nơi Chúa; nếu giáo lý viên là người hiền lành, có khả năng cảm thông và từ bi.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa để tất cả chúng ta là những ngừơi gìn giữ và nuôi dưỡng ký ức về Thiên Chúa trong đời sống chúng ta và biết khơi dậy ý tức ấy trong tâm hồn tha nhân. Amen

Trong phần rước lễ, 200 LM đã mang Mình Thánh Chúa đi phân phát cho các tín hữu.

Chào thăm và Kinh Truyền Tin

Cuối thánh lễ, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng và cũng là trưởng ban tổ chức, đã cám ơn ĐTC và giới thiệu với ngài các thành phần tham dự. Ngài cũng nhắc đến các giáo lý viên đến từ các nơi trên thế giới trong đó có cả những nước xa xăm như Việt Nam.

Về phần ĐTC, ngài ngỏ lời chào thăm mọi người hiện diện và nói rằng:

”Trước khi kết thúc buổi lễ này, tôi muốn chào tất cả và cám ơn anh chị em đã tham dự, đặc biệt là các giáo lý viên đến từ bao nhiêu nơi trên thế giới.

”Tôi đặc biệt ngỏ lời chào Đức Thượng Phụ Youhanna X, Thượng Phụ Chính Thống Hy Lạp Antiokia và toàn Đông Phương. Sự hiện diện của Đức Thượng Phụ tại đây mời gọi chúng ta một lần nữa cầu nguyện cho hòa bình tại Siria và Trung Đông.”

ĐTC không quên chào thăm các tín hữu hành hương cưỡi ngựa từ Assisi đến đây, các tín hữu hành hương từ Nicaragua và ngài gợi lại biến cố các vị chủ chăn và tín hữu nước này đang mừng kỷ niệm 100 năm thành lập Giáo Tỉnh Nicaragua. Sau cùng, ĐTC nói: ”Chúng ta vui mừng nhớ rằng hôm qua tại Croatia, có lễ phong chân phước Miroslav Bulesic, LM giáo phận tử đạo năm 1947. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa Đấng đã ban cho những người yếu thế sức mạnh làm chứng tá tột cùng.

Tiếp đến, ĐTC đã mời gọi mọi người cùng đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành Tòa Thánh.

Sau Phép lành, ĐTC đã bắt tay chào nhiều người hiện diện, cả các LM đồng tế trước khi đi xe jeep mui trần màu trắng tiến qua các lối đi, cho đến tận cuối đường Hòa Giải để chào thăm các tín hữu.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Thắp nến cầu nguyện hiệp thông với giáo phận Vinh

Thắp nến cầu nguyện hiệp thông với giáo phận Vinh

SANTA ANA – Hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục Giáo Phận Vinh, Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange và Hội Bảo Trợ Ơn Gọi Giáo Phận Vinh đã tổ chức Đêm Thắp Nến Cầu Nguyện cho các nạn nhân tại giáo xứ Mỹ Yên nói riêng và toàn giáo phận Vinh nói chung đang bị bách hại một cách khốc liệt bởi nhà cầm quyền cộng sản. Buổi thắp nến cầu nguyện diễn ra trên sân trường học giáo xứ Saint Barbara vào lúc 7 giờ tối thứ Sáu 27-9-2013.

Các Linh mục và giáo dân giơ cao ngọn nến cháy sáng và dâng lời cầu nguyện hiệp thông với giáo phận Vinh.

Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, các Linh mục Nguyễn Thái, Nguyễn Đức Minh, Mai Khải Hoàn, Vũ Ngọc Long, Thái Quốc Bảo đã hiện diện để cùng hàng trăm giáo dân dâng lời cầu nguyện, hiệp thông với sự đau khổ mà giáo dân giáo xứ Mỹ Yên cũng như giáo phận Vinh đang phải gánh chịu. Sau nghi thức chào cờ và mặc niệm do Ban Tù Ca Xuân Điềm phụ trách, Đức GM. Mai Thanh Lương nói mấy lời ngắn gọn: “Chúng ta còn nhớ năm 1917 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho chúng ta một cái công thức để cầu nguyện cho hòa bình và tự do tôn giáo trên thế giới; cho nên trước khi bắt đầu nghi thức cầu nguyện hôm nay, tôi đã đưa đến đây 1,000 bản kinh để xin quý vị về nhà tiếp tục đọc kinh này theo mệnh lệnh của Đức Mẹ Fatima để cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới và tự do khắp nơi, nhất là tại Việt Nam của chúng ta…
“Tôi cầu mong trong lễ nghi hôm nay chúng ta bắt đầu một chương trình mới là tiếp tục cầu nguyện để tự do sớm trở về trên quê hương và nhân quyền được trở lại trên đất nước của chúng ta, và đồng thời chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho phía Công giáo mà phải cầu nguyện cho toàn thể các tôn giáo, chính thể Việt Nam, vì chỉ có Chúa mới đổi được lòng họ.
“Đó là vấn đề rất là quan trọng và tôi nghĩ đó là khí cụ rất đặc biệt mà thánh Phanxico qua kinh Hòa Bình đã dạy chúng ta tất cả những điều đó. Xin Chúa là Vua Hòa Bình, xin Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu cùng Chúa cho dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được hưởng tự do thật sự.”
Ông Nguyễn Văn Lý, Hội Trưởng Hội Ái Hữu và Bảo Trợ Ơn Gọi Giáo phận Vinh, có đôi lời chào mừng Đức Cha, quý cha, quan khách và đồng hương, sau đó ông nói khái quát về buổi Thắp Nến, “Qua các cơ quan truyền thông và đặc biệt trang mạng giáo phận Vinh đã tường trình minh bạch diễn tiến sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên qua thông cáo của Tòa Giám Mục Xã Đoài và các bài phỏng vấn Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục GP Vinh kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục VN, chúng ta đã biết nhà cầm quyền CSVN đã và đang đàn áp dân lành vì thế đêm nay chúng ta cùng nhau tụ họp quanh khuôn viên thánh đường Saint Barbara để cùng nhau hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội VN nói chung, cho GP Vinh và Giáo xứ Mỹ Yên nói riêng.
“Xin Thiên Chúa, Đức Mẹ ủi an, nâng đỡ và ban sức mạnh dẻo dai, kiên cường chịu đựng cho tất cả con dân nước Việt để họ có đủ nghị lực đòi hỏi cho công lý, nhân quyền, và cầu xin Chúa giơ tay ngăn chận sự lộng hành, ngang ngược của chính quyền CSVN. Xin cho họ biết tôn trọng sự thật và các quyền căn bản của con người.”
Sau bản hợp ca Việt Nam-Việt Nam do Ban tù ca Xuân Điềm phụ trách, LM. Nguyễn Đức Minh đã lên kể lại sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên.
Sau đó, ông cố Cao Đức Thắng châm ngọn lửa cho cây nến của các Linh mục hiện diện, và ngọn lửa mau chóng chuyền đến tay tất cả mọi người. Trong lúc Ban tù ca hát nhạc phẩm “Lời Nguyện Cầu Cho Quê Hương” và “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxico Assisi, các Linh mục và giáo dân đem những ngọn nến đang cháy sáng lên sắp thành hình bản đồ nước Việt. Sau đó, Linh mục Nguyễn Thái và ông Chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo đại diện Cộng đồng Công Giáo, đại diện Hội Bảo Trợ Ơn Gọi GP Vinh lên sân khấu dâng lời cầu nguyện cho tự do tôn giáo tại Việt Nam, cho các nạn nhân sớm bình phục, cho các nạn nhân bị bắt bớ sớm được về với gia đình và cho chế độ vô thần Cộng sản sớm bị cáo chung.
Ban tù ca Xuân Điềm hợp ca nhạc phẩm “Phải Lên Tiếng” và “Mẹ Ơi, Đoái Thương Xem Nước Việt Nam”. Sau cùng các Linh mục lên cùng ban phép lành của Chúa cho mọi người và đêm Thắp Nến kết thúc khoảng 9 giờ 30. Trong buổi Thắp Nến, ông Lâm Kim Bảo, Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo, GP Orange đã thay mặt ban tổ chức cảm tạ Đức Cha, quý cha, quan khách , các cơ quan truyền thông và đồng hương đến tham dự.


Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, các Linh mục Nguyễn Thái, Nguyễn Đức Minh, Mai Khải Hoàn, Vũ Ngọc Long, Thái Quốc Bảo đã hiện diện để cùng hàng trăm giáo dân dâng lời cầu nguyện, hiệp thông với sự đau khổ mà giáo dân giáo xứ Mỹ Yên cũng như giáo phận Vinh đang phải gánh chịu. Sau nghi thức chào cờ và mặc niệm do Ban Tù Ca Xuân Điềm phụ trách, Đức GM. Mai Thanh Lương nói mấy lời ngắn gọn: “Chúng ta còn nhớ năm 1917 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho chúng ta một cái công thức để cầu nguyện cho hòa bình và tự do tôn giáo trên thế giới; cho nên trước khi bắt đầu nghi thức cầu nguyện hôm nay, tôi đã đưa đến đây 1,000 bản kinh để xin quý vị về nhà tiếp tục đọc kinh này theo mệnh lệnh của Đức Mẹ Fatima để cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới và tự do khắp nơi, nhất là tại Việt Nam của chúng ta…
“Tôi cầu mong trong lễ nghi hôm nay chúng ta bắt đầu một chương trình mới là tiếp tục cầu nguyện để tự do sớm trở về trên quê hương và nhân quyền được trở lại trên đất nước của chúng ta, và đồng thời chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho phía Công giáo mà phải cầu nguyện cho toàn thể các tôn giáo, chính thể Việt Nam, vì chỉ có Chúa mới đổi được lòng họ.
“Đó là vấn đề rất là quan trọng và tôi nghĩ đó là khí cụ rất đặc biệt mà thánh Phanxico qua kinh Hòa Bình đã dạy chúng ta tất cả những điều đó. Xin Chúa là Vua Hòa Bình, xin Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình cầu cùng Chúa cho dân tộc Việt Nam chúng ta sớm được hưởng tự do thật sự.”
Ông Nguyễn Văn Lý, Hội Trưởng Hội Ái Hữu và Bảo Trợ Ơn Gọi Giáo phận Vinh, có đôi lời chào mừng Đức Cha, quý cha, quan khách và đồng hương, sau đó ông nói khái quát về buổi Thắp Nến, “Qua các cơ quan truyền thông và đặc biệt trang mạng giáo phận Vinh đã tường trình minh bạch diễn tiến sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên qua thông cáo của Tòa Giám Mục Xã Đoài và các bài phỏng vấn Đức Cha Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục GP Vinh kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Công Lý Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục VN, chúng ta đã biết nhà cầm quyền CSVN đã và đang đàn áp dân lành vì thế đêm nay chúng ta cùng nhau tụ họp quanh khuôn viên thánh đường Saint Barbara để cùng nhau hiệp thông cầu nguyện cho Giáo Hội VN nói chung, cho GP Vinh và Giáo xứ Mỹ Yên nói riêng.
“Xin Thiên Chúa, Đức Mẹ ủi an, nâng đỡ và ban sức mạnh dẻo dai, kiên cường chịu đựng cho tất cả con dân nước Việt để họ có đủ nghị lực đòi hỏi cho công lý, nhân quyền, và cầu xin Chúa giơ tay ngăn chận sự lộng hành, ngang ngược của chính quyền CSVN. Xin cho họ biết tôn trọng sự thật và các quyền căn bản của con người.”
Sau bản hợp ca Việt Nam-Việt Nam do Ban tù ca Xuân Điềm phụ trách, LM. Nguyễn Đức Minh đã lên kể lại sự kiện xẩy ra tại Mỹ Yên.
Sau đó, ông cố Cao Đức Thắng châm ngọn lửa cho cây nến của các Linh mục hiện diện, và ngọn lửa mau chóng chuyền đến tay tất cả mọi người. Trong lúc Ban tù ca hát nhạc phẩm “Lời Nguyện Cầu Cho Quê Hương” và “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxico Assisi, các Linh mục và giáo dân đem những ngọn nến đang cháy sáng lên sắp thành hình bản đồ nước Việt. Sau đó, Linh mục Nguyễn Thái và ông Chủ tịch Cộng Đồng Công Giáo đại diện Cộng đồng Công Giáo, đại diện Hội Bảo Trợ Ơn Gọi GP Vinh lên sân khấu dâng lời cầu nguyện cho tự do tôn giáo tại Việt Nam, cho các nạn nhân sớm bình phục, cho các nạn nhân bị bắt bớ sớm được về với gia đình và cho chế độ vô thần Cộng sản sớm bị cáo chung.
Ban tù ca Xuân Điềm hợp ca nhạc phẩm “Phải Lên Tiếng” và “Mẹ Ơi, Đoái Thương Xem Nước Việt Nam”. Sau cùng các Linh mục lên cùng ban phép lành của Chúa cho mọi người và đêm Thắp Nến kết thúc khoảng 9 giờ 30. Trong buổi Thắp Nến, ông Lâm Kim Bảo, Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo, GP Orange đã thay mặt ban tổ chức cảm tạ Đức Cha, quý cha, quan khách , các cơ quan truyền thông và đồng hương đến tham dự.

Bài và Hình: Thanh Phong/Viễn Đông

 

ĐỨC TÂN TỔNG GIÁM MỤC PHÓ TGP. SÀI GÒN

ĐỨC TÂN TỔNG GIÁM MỤC PHÓ TGP. SÀI GÒN

http://www.giaophanbacninh.org/wp-content/uploads/2012/12/121217gmdoc.jpg

 

Sáng thứ Bẩy, 28 tháng 09 năm 2013, Cha Federico Lomardi, SJ, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, hiện là Giám Mục giáo phận Mỹ Tho, làm Tổng Giám Mục Phó với quyền kế vị tại Tổng giáo phận Sài Gòn.

Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, năm nay 69 tuổi, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1944 tại Đà Lạt, được thụ phong linh mục ngày 17 tháng 12 năm 1970, và được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục giáo phận Mỹ Tho ngày 26 tháng 03 năm 1999, kế nhiệm Đức Cha Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, được cử về Sài Gòn làm Tổng Giám Mục.

Cùng với bổ nhiệm trên đây, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc được bổ nhiệm làm Giám Quản Tông Tòa giáo phận Mỹ Tho theo công thức “Sede Vacante et ad Nutum Sanctae Sedis” (trống tòa và tùy ý Tòa Thánh).

Sau đây là tiểu sử của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc:

11-11-1944:    Sinh tại Đà Lạt
1956 – 1963:   Học tại Tiểu chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
1963 – 1964:   Học tại Đại chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
1964 – 1970:   Học tại Đại học Truyền giáo Urbaniana, Rôma
17-12-1970:    Thụ phong linh mục
1971 – 1975:   Giáo sư Tiểu chủng viện Simon Hoà, Đại chủng viện Minh Hoà và Đại học Đà Lạt.
1975 – 1995:   Giám đốc Đại chủng viện Minh Hoà, giáo phận Đà Lạt
1986 – 2008:   Giáo sư thần học tín lý Đại chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
1991 – 1995:   Giáo sư thần học tín lý Đại chủng viện Thánh Giuse, Hà Nội
1994 – 1996:   Giáo sư thần học tín lý Đại chủng viện Huế
1995 – 1999:   Tổng đại diện giáo phận Đà Lạt
26-03-1999:    Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục chính toà giáo phận Mỹ Tho và đã chọn châm ngôn Giám mục là “Chúa là niềm vui của con”.
20-05-1999:    Thánh lễ tấn phong Giám mục tại nhà thờ Chính toà Đà Lạt, do Đức Tổng giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn chủ phong
27-05-1999:    Nhận giáo phận Mỹ Tho.

Trong nhiệm vụ mới, Đức Tổng Giám Mục Phaolô Bùi Văn Đọc sẽ phụ giúp Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, 79 tuổi, và sẽ đương nhiên kế nhiệm Đức Hồng Y khi Tổng giáo phận trống tòa.


G. Trần Đức Anh OP – Radio Vatican

Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ

Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ

Một câu chuyện kể rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu nguyện với Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một gia đình đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của con phải cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình nay bị đau nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải nghỉ vì không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?

Chúa trả lời: Con thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết bạn với con.

Đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố: “Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần gian, và đó cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách tiên tri Amos chúng ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an phận trong sự khốn nạn của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.

Giàu có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những gia đình phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên là bị loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng, như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ là những vua chúa, hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh. Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không thể nào an phận trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn của Chúa. Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống trở nên thánh thiện và công chính hơn.

Thánh thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi, không lợi dụng.

Quả thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng như thánh thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được hạnh phúc không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu người như Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương đón nhận và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng ta phải tích lũy làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại và hiền hòa.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm tốn trước tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người chúng ta trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.

Xin mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin.

Veritas Radio

ÔNG SCHWEITZER và NGƯỜI NGHÈO

ÔNG SCHWEITZER và NGƯỜI NGHÈO

“Chúng ta là những người săn sóc lẫn nhau”

Vào năm 1950, một ủy ban gồm đại diện của 17 quốc gia đã chọn ông Albert Schweitzer là “người của thế kỷ”. Hai năm sau, 1952, ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình.

Ông Schweitzer được cả thế giới ca tụng là một thiên tài đa dạng. Ông là một triết gia lỗi lạc, một thần học gia sáng giá, một sử gia đáng kính nể, một nhạc sĩ độc tấu, và là một bác sĩ truyền giáo.

Nhưng điều đáng kể là đức tin Kitô Giáo thật sâu đậm của ông. Chính đức tin này đã ảnh hưởng đến từng góc cạnh của đời ông.

Khi 21 tuổi, Schweitzer tự nhủ là ông sẽ vui hưởng nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi. Sau đó ông sẽ dành cuộc đời còn lại để làm việc cho những người nghèo dưới hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.

Và vì thế vào ngày sinh nhật thứ 30, ngày 13-10-1905, ông bỏ vào thùng thư ở Ba Lê một vài lá thư.

Đó là thư gửi cho cha mẹ và các bạn thân, ông báo cho họ biết là ông sẽ theo học về y khoa. Sau đó ông sẽ sang Phi Châu để làm việc cho các người nghèo với công việc của một bác sĩ.

Ngay lập tức các lá thư ấy đã tạo nên một chấn động. Ông kể lại trong cuốn Out of My Life and Thought:

“Thân nhân và bạn hữu của tôi tất cả đều thành khẩn đưa ra các nhận định của họ về quyết định điên rồ của tôi. Họ nói, tôi đang chôn vùi các tài năng thiên phú… Một bà thật hăng say thuyết phục rằng tôi có thể đạt được nhiều kết quả cho việc giúp đỡ người nghèo qua các bài diễn giảng hơn là hành động trực tiếp mà tôi đang ấp ủ.”

Tuy nhiên, ông Schweitzer không thay đổi ý định.

Vào năm 38 tuổi, ông là một bác sĩ đầy đủ bản lĩnh. Vào năm 43 tuổi, ông sang Phi Châu để mở một bệnh xá ở cạnh bìa rừng mà sau này được gọi là Equatorial Africa. Ông từ trần ở đây năm 1965 khi được 90 tuổi.

Động lực nào đã khiến ông Schweitzer dám gạt bỏ danh vọng và tiền tài để làm việc cho người nghèo ở Phi Châu?

Ông cho biết, một trong những ảnh hưởng là khi ông suy niệm về đoạn phúc âm mà chúng ta vừa nghe hôm nay về người giầu và ông Lagiarô. Ông nói:

“Thật không thể hiểu nổi khi tôi tự cho phép mình sống một cuộc đời sung sướng, trong khi quá nhiều người chung quanh tôi đang vật lộn với sự đau khổ.”

Và đó là điều đưa chúng ta đến câu chuyện phúc âm hôm nay.

Tội của người nhà giầu trong bài phúc âm hôm nay không phải là ông đã ra lệnh tống cổ Lagiarô ra khỏi khu vực của ông.

Cũng không phải là người nhà giầu đã đánh đập hay chửi rủa ông Lagiarô mỗi khi đi ngang qua.

Tội của người nhà giầu là ông không bao giờ để ý đến Lagiarô. Ông coi Lagiarô như một phần đương nhiên của khung cảnh cuộc đời.

Tội của người nhà giầu là ông chấp nhận mà không bao giờ thắc mắc về sự kiện, Lagiarô thì nghèo và chính ông thì giầu.

Tội của người nhà giầu không phải là tội về một hành động, là thi hành một điều gì đó mà lẽ ra không nên làm.

Tội của người nhà giầu là một tội quên sót, đó là, không thi hành điều phải làm. Tội của người nhà giầu là đắm mình trong của cải mà không động đến ngón tay để giúp ông Lagiarô khi cùng cực.

Tội của người nhà giầu cũng chính là tội đang được tái diễn ngày hôm nay. Và chính tội này khiến chúng ta phải thực sự lưu tâm đến những gì cần phải thi hành không chỉ cho người nghèo nhưng còn cho xã hội.

Ông John F.Kennedy đã đề cập đến mối ưu tư này khi ông nói, “Nếu một xã hội tự do không thể giúp gì cho người nghèo thì nó cũng không thể cứu được một thiểu số giầu có.”

Nói cách khác, sự thiếu lưu tâm đến người nghèo không chỉ tiêu diệt người nghèo mà còn tiêu diệt luân lý của xã hội chúng ta.

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi để thi hành điều mà ông Albert Schweitzer đã làm.

Nó là lời mời để suy tư về câu chuyện của người nhà giầu và ông Lagiarô, và tự vấn lương tâm chúng ta câu hỏi mà chính ông Schweitzer đã thắc mắc: Làm thế nào chúng ta có thể sống sung sướng trong khi có quá nhiều người đau khổ?

Nó là lời mời chúng ta hãy suy tư lời của Tướng Dwight D. Eisenhower:

“Mỗi một khẩu súng được chế tạo, mỗi một tầu chiến được hạ thủy, mỗi một tên lửa được phóng đi, trong một ý nghĩa nào đó chúng là sự trộm cắp của người đói không có gì ăn, của người lạnh không có gì mặc.”

Nó là lời mời chúng ta hãy quý trọng lời của Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay.

Hãy kết thúc bài giảng bằng những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến tông du Hoa Kỳ năm 1979, khi người giảng ở vận động trường Yankee Nữu Ước. Đức Thánh Cha nói:

“Chúng ta không thể ngồi đó bất động, vui hưởng sự giầu sang và tự do, nếu ở chỗ nào đó vẫn còn một Lagiarô của thế kỷ 20 đứng trước cửa nhà chúng ta.

“Dưới ánh sáng của bài dụ ngôn của Đức Kitô, giầu sang và tự do có nghĩa một trách nhiệm đặc biệt. Giầu sang và tự do tạo nên một nhiệm vụ đặc biệt.

“Và vì vậy, nhân danh tình liên đới đã trói buộc chúng ta trong một bản tính nhân loại, tôi muốn nói lên phẩm giá của mỗi một con người.

“Người giầu và Lagiarô đều là con người, cả hai được dựng nên cách bình đẳng trong hình ảnh và giống như Thiên Chúa, cả hai đều được cứu độ bởi Đức Kitô với một giá đắt, là giá máu châu báu của Đức Kitô…

“Người nghèo của Hoa Kỳ và của thế giới là anh chị em của các bạn trong Đức Kitô. Các bạn không thể lấy làm mãn nguyện khi để họ hưởng các mẩu vụn của bàn tiệc.

“Các bạn phải nhìn đến thực chất của mình chứ không chỉ sự dư dật của các bạn và giúp đỡ họ. Và các bạn phải đối xử với họ như khách được mời đến dự tiệc trong nhà mình.”

Cha Mark Link, SJ

Liên đới

Liên đới

Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.

Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?”.

Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.

Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.

Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.

Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.

Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.

Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.

Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.

Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.

Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.

Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?
2) Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3) Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
4) Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Bạn hữu của Thiên Chúa

Bạn hữu của Thiên Chúa

Chúa thương người giàu

Tôi không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.

Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ” “ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phe phởn”.Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay:“ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu: “nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn giàu nhờ đức.

Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: “họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng vậy, “họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.

Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc”, có mắt mà không thấy “Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông” ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay “làm đơn xin” gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.

Vậy tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.

Chúa cứu người nghèo

Với những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.

Cái thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa “thấy ai hoạn nạn thì vui mừng”, nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là “ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc “Chúa phạt nhãn tiền” là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau”, mà quên một điều quan trọng là: “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau”. Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột… như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.

Từ “Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu “khó vào nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được “Thiên Chúa cứu giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa. “Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có. Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được “Chúa thương cứu giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.

PM Cao Huy Hoàng

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Suy Niệm

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau.

Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.

Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.

Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.

Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.

Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

Gợi Ý Chia Sẻ

Con người chỉ trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?

Ai cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.

Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.

LM Antôn Nguyễn Cao Siêu

Đức Thánh Cha gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên quốc tế

Đức Thánh Cha gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên quốc tế

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các giáo lý viên tái khởi hành từ Chúa Kitô, sống như giáo lý viên, để dẫn đưa tha nhân về với Chúa Kitô.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong bài huấn dụ khi gặp gỡ 2 ngàn giáo lý viên từ các nước trên thế giới tham dự Đại hội quốc tế về giáo lý do Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng tổ chức tại Vatican từ 26 đến 28-9 nhân dịp Năm Đức Tin.

Tham dự Hội nghị cũng có hơn 30 GM Chủ tịch các Ủy ban huấn giáo của các HĐGM trên thế giới, các vị giám đốc các văn phòng huấn giáo toàn quốc và giáo phận.

ĐTC đã đến Đại thính đường Phaolô 6 lúc 5 giờ chiều ngày 27-9-2013 và đã được mọi người tiếp đón nồng nhiệt. Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, ĐTC đề cao tầm quan trọng của các giáo lý viên và cám ơn họ vì sự phục vụ cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. ĐTC nói:

”Các giáo lý viên thân mến,

”Tôi vui mừng vì trong Năm Đức Tin, có cuộc gặp gỡ này dành cho anh chị em: huấn giáo là một cột trụ để giáo dục đức tin và cần có những giáo lý viên tốt! Cám ơn anh chị em vì việc phục vụ dành cho Giáo Hội và trong Giáo Hội. Tuy rằng nhiều khi việc phục vụ này thật là khó khăn, ta làm việc rất nhiều, dấn thân tận tình nhưng không thấy kết quả mong muốn; giáo dục về đức tin thật là điều tốt đẹp! Giúp các trẻ em, thiếu niên, người trẻ, người lớn ngày càng hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, đó thực là một cuộc phiêu liêu giáo dục đẹp đẽ nhất, ta xây dựng Giáo Hội qua việc làm đó! Sống như giáo lý viên! ('Essere' catechisti!) Xin anh chị em chú ý, tôi không nói ”làm” giáo lý viên, nhưng là ”sống như giáo lý viên” vì đây là điều bao gồm cuộc sống. Ta hướng dẫn tới cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu bằng lời nói và bằng cuộc sống, bằng chứng tá. Và ”sống như giáo lý viên” đòi phải có lòng yêu mến ngày càng nồng nhiệt hơn đối với Chúa Kitô, yêu mến Dân thánh của Chúa. Và tình yêu này nhất thiết phải khởi hành từ Chúa Kitô.

Tái khởi hành từ Chúa Kitô như thế có nghĩa là gì đối với một giáo lý viên, đối với anh chị em, đối với tôi, vì tôi cũng là một giáo lý viên!

1. Trước tiên tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là ”sống thân mật với Chúa”. Chúa Giêsu nồng nhiệt khuyến khích các môn đệ của Ngài về điều này trong Bữa Tiệc Ly, khi Ngài bắt đầu sống sự dâng hiến cao cả nhất của tình yêu, hy tế Thập Giá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và các cành, và Ngài nói: các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy, hãy gắn bó với thầy, như ngành nho gắn liền với thân cây nho. Nếu chúng ta kết hiệp với Chúa, chúng ta có thể sinh hoa trái, và đây chính là cuộc sống thân mật với Chúa Kitô.

Đối với một môn đệ, điều đầu tiên là ở với Thầy Chí Thánh, lắng nghe, học hỏi với Chúa. Và điều này luôn luôn có giá trị, là một hành trình kéo dài trọn cuộc sống! Ví dụ, đối với tôi, điều rất quan trọng là ở lại trước Nhà Tạm; ở trước mặt Chúa, để cho Chúa nhìn ngắm. Điều này sưởi ấm tâm hồn, giữ cho ngọn lửa tình bạn được luôn nồng cháy, làm cho ta cảm thấy thực sự được Chúa nhìn đến, gần gũi và yêu thương. Tôi hiểu rằng đối với anh chị em sự việc không đơn giản như vậy, nhất là đối với những người có gia đình và con cái, thật là khó tìm được thời giờ yên hàn lâu dài. Nhưng cám ơn Chúa, không phải tất cả mọi người đều phải làm như nhau, trong Giáo Hội có nhiều ơn gọi và hình thái thiêng liêng khác nhau; điều quan trọng là tìm được cách thức thích hợp để ở với Chúa; và mỗi người, trong bậc sống của mình có thể thực hiện được điều đó. Trong lúc này đây mỗi người có thể tự hỏi: làm thế nào tôi có thể ”ở với Chúa Giêsu?” Tôi có những lúc ở lại trước sự hiện diện của Chúa, trong thinh lặng, để cho Chúa nhìn tôi hay không? Tôi có để cho ngọn lửa tái sưởi ấm tâm hồn tôi hay không? Nếu trong tâm hồn tôi không có sức nóng của Thiên Chúa, của tình yêu Chúa, sự dịu dàng của Ngài, làm sao chúng ta là những người tội lỗi nghèo hèn có thể sưởi ấm tâm hồn người khác?

2. Yếu tố thứ hai: tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là noi gương Chúa ra khỏi bản thân mình và đi gặp gỡ tha nhân. Đây là một kinh nghiệm đẹp, và hơi nghịch lý. Tại sao? Tại vì ai đặt Chúa Kitô ở trung tâm cuộc sống của mình, thì cũng tản ra ngoài! Hễ bạn càng kết hiệp với Chúa Giêsu, thì Chúa càng trở nên trung tâm cuộc sống của bạn, và Chúa càng làm cho bạn ra khỏi chính mình, làm cho bạn không co cụm vào mình, nhưng cởi mở đối với người khác. Đó thực là một năng động thực sự của tình yêu, là sự chuyển động của chính Thiên Chúa! Thiên Chúa là trung tâm, nhưng Ngài luôn luôn là sự hiến thân, là tương quan, là sự sống thông ban.. Cả chúng ta cũng trở nên như vậy, cả chúng ta cũng kết hiệp với Chúa Kitô, Ngài làm cho chúng ta đi vào năng động như thế của tình yêu. Nơi nào có sự sống đích thực trong Chúa Kitô, thì có sự cởi mở đối với tha nhân, có sự ra khỏi chính mình để đi gặp gỡ tha nhân nhân danh Chúa Kitô.

Tâm hồn của giáo lý viên luôn sống sự chuyển động ”sistole – diastole”, bóp vào – dãn ra: kết hiệp với Chúa Giêsu – gặp gỡ tha nhân. Nếu một trong hai chuyển động này thiếu thì con tim ngừng đập và ta không còn sống nữa. Lãnh nhận hồng ân Tin Vui (kerigma), và trao ban hồng ân ấy. Đó là điều ở trong chính bản chất của kerygma: đó là một hồng ân tạo ra sứ mạng, luôn thúc đẩy đi xa hơn bản thân. Thánh Phaolô đã nói: ”Tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta”, nhưng ”sự thúc đẩy chúng ta” cũng có thể được dịch là ”sự chiếm hữu chúng ta”. Và thế là: tình yêu lôi kéo bạn và sai bạn đi, chiếm lấy bạn và trao bạn cho tha nhân. Trong động thái ấy, con tim của Kitô hữu cử động, đặc biệt là con tim của giáo lý viên. Tất cả chúng ta hãy tự hỏi: phải chăng con tim giáo lý viên của tôi cũng đập như thế: kết hiệp với Chúa Giêsu và gặp gỡ tha nhân? Nó được nuôi dưỡng trong tương quan với Chúa, nhưng có phải để dẫn tương quan ấy tới tha nhân hay không? Tôi nói với anh chị em một điều: tôi không hiểu làm sao một giáo lý viên có thể đứng im, không có sự chuyển động như thế.

3. Và yếu tố thứ ba vẫn luôn ở trong đường hướng ấy: tái khởi hành từ Chúa Kitô có nghĩa là không sợ ra đi với Chúa tới các khu ngoại ô. Ở đây tôi nghĩ đến chuyện ông Giona, một nhân vật thật là hay, nhất là trong thời đại chúng ta có những thay đổi và bất định. Giona là một người đạo đức, có đời sống yên hàn, ổn định, và điều này khiến ông có những khuôn mẫu rõ ràng và phán đoán mọi sự, mọi người theo những khuôn mẫu ấy một cách cứng nhắc. Vì thế khi Chúa gọi ông và bảo ông đi giảng ở thành Nivive, là thành phố lớn của dân ngoại, Giona không đồng ý. Thành Nivive vượt ra ngoài những khuôn mẫu của ông, ở ngoại ô thế giới của ông. Và thế là ông trốn chạy. Ông xuống tàu để đi xa. Anh chị em hãy đọc lại sách Giona! Sách này ngắn nhưng là một dụ ngôn có ý nghĩa rất xúc tích, nhất là đối với chúng ta là những người ở trong Giáo Hội. Sách này dạy chúng ta điều gì? Sách dạy chúng ta đừng sợ ra khỏi những khuôn mẫu của mình để theo Chúa, vì Chúa luôn đi ra ngoài, Thiên Chúa không sợ những vùng ngoại biên. Thiên Chúa luôn trung tín, có tinh thần sáng tạo, không khép kín, và vì thế Ngài không bao giờ cứng nhắc, Ngài tiếp đón, gặp gỡ, cảm thông chúng ta. Để trung tín, để có tinh thần sáng tạo, cần biết thay đổi. Để ở lại với Thiên Chúa cần biết ra ngoài, không sợ ra ngoài. Nếu một giáo lý viên để cho sự sợ hãi chiếm đoạt, thì họ là một người nhát sợ; nếu một giáo lý viên ở yên hàn, thì rốt cục sẽ trở thành một pho tượng trong viện bảo tàng; nếu một giáo lý viên cứng nhắc thì họ trở nhăn nheo và không mang lại lợi ích nào. Tôi hỏi anh chị em: có ai trong anh chị em muốn trở thành nhát sợ, một tượng trong viện bảo tàng hoặc son sẻ hay không?
Nhưng cần lưu ý! Chúa Giêsu không nói: hãy đi và tự xoay sở lấy! Không, Chúa nói: Các con hãy đi, Thầy ở với các con! Đây là vẻ đẹp và là sức mạnh của chúng ta; nếu chúng ta đi, nếu chúng ta ra ngoài để mang Tin Mừng của Chúa với tình yêu thương, với tinh thần tông đồ đích thực, với parresia (nói thẳng thắn), thì Chúa đồng hành với chúng ta, Ngài luôn đi trước chúng ta.

Nay anh chị em đã học ý nghĩa của lời ấy. Đây là điều cơ bản đối với chúng ta: Thiên Chúa luôn đi trước chúng ta! Khi chúng ta nghĩ mình đi xa, tới tận bờ cõi xa xăm, có lẽ chúng ta hơi sợ hãi, nhưng tron gthực tế Chúa đã có mặt tại đó: Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong tâm hồn người anh em, trong thân thể Ngài bị thương tích, trong cuộc sống bị áp bức, trong tâm hồn không có niềm tin. Chúa Giêsu có mặt tại đó, trong người anh em ấy. Ngài luôn đi trước chúng ta.

Các giáo lý viên thân mến, tôi cám ơn anh chị em vì những gì anh chị em đang làm, nhưng nhất là vì anh chị em ở trong Giáo Hội, trong Dân Chúa đang lữ hành. Chúng ta hãy ở lại với Chúa Kitô, cố gắng ngày càng trở nên một với Chúa; chúng ta hãy theo Chúa, noi gương Chúa trong chuyển động yêu thương của Ngài, trong việc ra đi gặp gỡ con người; và chún gta ra ngoài, mở cửa, chúng ta bạo dạn vạch ra những con đường mới để loan báo Tin Mừng.
Xin Chúa chúc lành cho anh chị em và xin Mẹ Maria tháp tùng anh chị em.

G. Trần Đức Anh chuyển ý O.P – Vatican Radio

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày di dân và tị nạn

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày di dân và tị nạn

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi cộng đồng quốc tế cộng tác với nhau để cải tiến tình trạng người di dân ngày càng gia tăng trên thế giới. Ngài cũng mời gọi các cơ quan truyền thông góp phần bài trừ những thành kiến khiến do người di dân không được tiếp đón tại các nước họ nhập cư.

ĐTC đã đưa ra lời kêu gọi trên đây trong sứ điệp công bố hôm 24-9-2013 nhân ngày di dân và tị nạn sẽ được cử hành vào ngày 19-1-2014, với chủ đề: ”Người di dân và tị nạn: hướng về một thế giới tốt đẹp hơn”. Sau đây là toàn văn sứ điệp của ĐTC.

”Anh chị em thân mến, các xã hội chúng ta đang cảm nghiệm những tiến trình lệ thuộc lẫn nhau và ảnh hưởng trên nhau trên bình diện hoàn vũ chưa từng có trước đây trong lịch sử. Những tiến trình này tuy có những yếu tố gây khó khăn hoặc tiêu cực, nhưng chúng có mục đích cải tiến những điều kiện sống của gia đình nhân loại, không những về mặt kinh tế, nhưng cả trong những khía cạnh chính trị và văn hóa nữa. Vả lại, mỗi người là thành phần của nhân loại và, cùng với toàn thể gia đình các dân nước, cùng hy vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Nhận xét này gợi hứng cho đề tài mà tôi đã chọn cho Ngày Thế giới về di dân và tị nạn năm nay, đó là “Những người di dân và tị nạn: hướng về một thế giới tốt đẹp hơn”.

”Trong thế giới đang biến chuyển ngày nay, hiện tượng con người ngày càng lưu động trở nên như ”một dấu chỉ thời đại”, theo định nghĩa của ĐGH Biển Đức 16 (Xc Sứ điệp Ngày Thế giới di dân và tị nạn 2006). Thực vậy, một đàng những cuộc di cư thường cho thấy những thiếu sót từ phía các quốc gia và cộng đồng quốc tế, nhưng đàng khác chúng cũng bộc lộ khát vọng của nhân loại mong sống hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt, sự đón tiếp và lòng hiếu khách giúp phân chia đồng đều các tài nguyên của trái đất, bảo vệ và thăng tiến phẩm giá cũng như thế đứng trung tâm của mỗi người”.

Về phương diện Kitô, cả trong việc di cư, cũng như trong các thực tại khác của con người, người ta thấy có sự căng thẳng giữa một bên là vẻ đẹp của công trình sáng tạo, mang dấu vết của ơn thánh và công trình cứu chuộc, và bên kia là mầu nhiệm tội lỗi. Đối nghịch với tình liên đới và sự tiếp đón, những cử chỉ huynh đệ và cảm thông, có sự từ khước, kỳ thị, nạn khai thác bóc lột, đau khổ và chết chóc. Đáng lo hơn cả là những tình trạng trong đó việc di cư không những do sự cưỡng bách, nhưng còn được thực hiện qua nhiều thể thác khác nhau của nạn buôn người và biến thành nô lệ. Nạn lao động như nô lệ là điều thường thấy ngày nay! Tuy có những vấn đề, những rủi ro và khó khăn phải đương đầu, điều làm cho người di dân và tị nạn phấn khởi là niềm tín thác và hy vọng; họ mang trong tâm hồn mong ước một tương lai tốt đẹp hơn không những cho bản thân, nhưng còn cho gia đình và những người thân yêu của họ nữa.

”Việc kiến tạo một ”thế giới tốt đẹp hơn” bao hàm điều gì? Thành ngữ ”một thế giới tốt đẹp hơn” không ám chỉ một cách thơ ngây tới những ý niệm trừu tượng hoặc những thực tại không thể đạt tới được, nhưng đúng hơn nó hướng về sự tìm kiếm một sự phát triển đích thực và toàn diện, hoạt động để có những điều kiện sống xứng đáng cho tất cả mọi người, để họ tìm được những câu trả lời đúng đắn cho những đòi hỏi của các cá nhân và gia đình, để công trình tạo dựng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được tôn trọng, gìn giữ và vun trồng. Đấng Đáng Kính Phaolô 6 đã mô tả những khát vọng của con người ngày nay như sau: ”Được giải thoát khỏi lầm than, bảo đảm cuộc sống của mình một cách chắc chắn nhất, được sức khỏe, công ăn việc làm vững chắc; được tham gia đầy đủ nhất vào các trách nhệm, không bị áp bức nào, tránh được những tình trạng làm thương tổn phẩm giá con người; được hưởng một nền giáo dục đầy đủ hơn; tóm một lời là muốn được hiểu biết và sở hữu nhiều hơn, để sống trọn vẹn hơn” (Thông điệp Phát triển các dân tộc, 23-6-1967, 6).

”Con tim chúng ta mong ước được ”tốt đẹp hơn nữa”, điều này không phải chỉ là được một kiến thức hoặc được sở hữu nhiều hơn, nhưng nhất là được sống sung mãn hơn. Ta không thể thu hẹp sự phát triển vào sự tăng trưởng kinh tế mà người ta thường theo đuổi mà không để ý gì đến những người yếu thế nhất và vô phương tự vệ. Thế giới chỉ có thể được cải tiến tốt đẹp hơn nếu người ta quan tâm trước tiên tới con người, nếu sự thăng tiến con người có tính chất toàn diện, trong mọi chiều kích, kể cả chiều kích tinh thần; nếu không ai nào bị lơ là, kể cả những người nghèo, các bệnh nhân, tù nhân, những người túng thiếu, người ngoại quốc (Xc Mt 25,31-46); nếu ta có khả năng đi từ một nền văn hóa gạt bỏ đến một nền văn hóa gặp gỡ và tiếp đón”.

”Những người di dân và tị nạn không phải là những con cờ trên bàn cờ của nhân loại. Họ là những trẻ em, phụ nữ và đàn ông rời bỏ hoặc bị bó buộc rời bỏ gia cư của họ vì nhiều lý do, họ cùng chia sẻ một ước muốn hợp pháp là được biết, sở hữu, và nhất là được sống trọn vẹn hơn. Thật là đáng ngạc nhiên trước con số những người di cư từ đại lục này sang đại lục khác, cũng như những người di chuyển trong nội địa quốc gia hoặc những vùng địa lý của họ. Làn sóng di dân ngày nay là làn sóng lớn nhất trong lịch sử, họ gồm những cá nhân, nếu không phải là cả dân tộc. Đồng hành với những người di dân và tị nạn, Giáo Hội dấn thân tìm hiểu những nguyên do gây ra hiện tượng di dân, và Giáo Hội cũng hoạt động để khắc phục những hậu quả tiêu cực và đề cao giá trị cũng như hậu quả tích cực của việc di cư đối với các cộng đoàn nguyên quán, cộng đoàn chuyển tiếp hoặc các cộng đoàn định cư trong tiến trình di cư.

”Đáng tiếc là, trong lúc khích lệ sự phát triển hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn, chúng ta không thể im lặng trước gương mù nghèo đói trong các chiều kích khác nhau: bạo lực, bóc lột, kỳ thị, gạt ra ngoài lề, những biện pháp thu hẹp tự do cơ bản, của cá nhân cũng như của tập thể, đó là một số yếu tố chính của nghèo đói cần phải vượt qua. Nhiều lần chính những khía cạnh đó là nguyên nhân thúc đẩy sự di cư, gắn liền di cư với nghèo đói. Trong khi trốn chạy những tình trạng lầm than hoặc bách hại để tiến tới một viễn tượng tốt đẹp hơn hoặc để cứu vãn cuộc sống, hàng triệu người lên đường di cư, và trong khi hy vọng được mãn nguyện, thì họ thường gặp phải những nghi kỵ, khép kín hoặc loại trừ và bị những nghịch cảnh, cử những nghịch cảnh trầm trọng nhất và làm thương tổn phẩm giá của họ.

”Thực tại di cư, với những chiều kích mà thời đại hoàn cầu hóa ngày nay đang đòi phải được xử lý và điều hành một cách mới mẻ, công bằng và hữu hiệu, nhất là đòi phải có sự cộng tác quốc tế và một tinh thần liên đới, cảm thông sâu xa. Điều quan trọng là sự cộng tác ở các cấp độ khác nhau, với sự đồng thanh chấp nhận những văn kiện pháp lý bảo vệ và thăng tiến con người. ĐGH Biển Đức 16 đã phác họa khuôn mẫu cho các chính sách và khẳng định rằng ”chính sách như thế cần phải được khai triển từ một sự cộng tác chặt chẽ giữa các nước xuất cư và các nước tiếp cư; cần tháp tùng bằng những qui luật quốc tế thích hợp có khả năng hòa hợp những hệ thống pháp lý khác nhau, trong viễn tượng cứu vãn những đòi hỏi và những quyền của con người và các gia đình di cư, và đồng thời, quyền của các xã hội nơi những người di cư đến ngụ” (Thông điệp Caritas in veritate, 29-6-2009, 62). Cùng nhau làm việc cho một thế giới tốt đẹp hơn đòi phải có sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước, với thái độ sẵn sàng và tín nhiệm, không dựng lên những hàng rào không thể vượt qua. Một sự hợp lực có thể là khích lệ đối với các chính phủ để đương đầu với những chênh lệch về xã hội và kinh tế, và một sự hoàn cầu hóa không có qui luật nào là những nguyên nhân tạo ra di cư trong đó con người trở thành nạn nhân hơn là người nắm vai chính. Không có nước nào một mình có thể đương đầu với những khó khăn gắn liền với hiện tượng này, nó rộng lớn đến độ liên hệ tới tất cả các đại lục trong hai phong trào nhập cư và xuất cư.

”Tiếp đến, điều quan trọng là nhấn mạnh sự cộng tác ấy đã khởi sự với cố gắng của mỗi người phải làm để kiến tạo những điều kiện kinh tế và xã hội tốt đẹp hơn tại quê hương, để việc xuất cư không phải là sự chọn lựa duy nhất đối với những người tìm kiếm hòa bình, công lý, an ninh và sự tôn trọng đầy đủ phẩm giá con người. Kiến tạo những cơ hội công ăn việc làm trong các nền kinh tế địa phương, sẽ tránh được sự phân rẽ gia đình và bảo đảm những điều kiện ổn định và thanh thản cho cá nhân và cộng đoàn.

”Sau cùng, khi nhìn thực tại những người di dân và tị nạn, có một yếu tố thứ ba mà tôi muốn nêu bật trên con đường xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, đó là vượt thắng những thành kiến và thiếu cảm thông trong việc cứu xét việc di cư. Thực vậy, nhiều khi những người di dân, tản cư, xin tị nạn và người đã được tị nạn khơi dậy nơi dân chúng địa phương những ngờ vực và đối kỵ. Người ta lo sợ rằng người di dân và tị nạn tạo nên những xáo trộn trong an ninh xã hội, và có nguy cơ làm cho họ đánh mất căn tính và văn hóa, tạo ra cạnh tranh trong thị trường công việc làm hoặc làm cho tội phạm gia tăng. Trong lãnh vực này, các phương tiện truyền thông xã hội có một vai trò trách nhiệm lớn: thực vậy họ có nhiệm vụ vạch trần những thành kiến và cung cấp những thông tin chính xác khi nói về những sai lầm của một số người di dân và tị nạn, và cũng cần mô tả sự lương thiện, ngay chính, tâm hồn đại đảm của nhiều người trong số họ. Trong vấn đề này, cần có một sự thay đổi thái độ từ mọi người đối với những người di dân và tị nạn; đi từ thái độ tự vệ và sợ hãi, không quan tâm, hoặc gạt ra ngoài lề, tương ứng với nền văn hóa loại bỏ, tới thái độ dựa trên nền văn hóa gặp gỡ, là văn hóa duy nhất có khả năng kiến tạo một thế giới công bằng và huynh đệ hơn, một thế giới tốt đẹp hơn. Cả các phương tiện truyền thông xã hội cũng được mời gọi đi vào sự hoán cải thái độ, và cổ võ sự thay đổi thải độ như thế đối với những người di dân và tị nạn.

“Tôi nghĩ đến Thánh Gia Nazareth cũng đã trải qua kinh nghiệm bị chối bỏ vào đầu hành trình của mình: ”Mẹ Maria sinh con đầu lòng, bọc trong tá và đặt trong mang cỏ vì không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã cảm nghiệm thế nào là rời bỏ quê hương của mình và trở thành người di cư: bị lòng khao khát quyền lực của vua Hêrôđê đe dọa, các vị buộc lòng phải chốn chạy sang Ai Cập (Xc Mt 2,13-14). Nhưng con tim từ mẫu của Mẹ Maria và trái tim ân cần của thánh Giuse, người gìn giữ Thánh Gia thất đã luôn bảo tồn niềm tín thác: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi. Nhờ lời chuyển cầu của các ngài, ước gì niềm xác tín này luôn kiên vững trong tâm hồn những người di dân và tị nạn.

”Giáo Hội đáp lại mệnh lệnh của Chúa Kitô, ”Các con hãy đi khắp thế gian và làm cho mọi dân tộc thành môn đệ”, Giáo Hội được kêu gọi trở thành Dân Chúa bao gồm mọi dân tộc và mang Tin Mừng cho mọi dân tộc, vì nơi khuôn mặt của mỗi người có in khuôn mặt của Chúa Kitô! Ở đây có cội rễ sâu xa nhất của phẩm giá con người, phải luôn tôn trọng và bảo vệ. Không phải các tiêu chuẩn hiệu năng, sản xuất, giai tầng xã hội, chủng tộc hoặc tôn giáo làm nền tảng cho phẩm giá con người, nhưng là sự kiện con người được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa (Xc St 1,26-27), và hơn nữa là con Thiên Chúa, mỗi người là con của Thiên Chúa! Nơi con người có in hình ảnh Chúa Kitô. Vì thế, vấn đề ở đây là trước hết chúng ta nhìn thấy và giúp người khác thấy người di dân và tị nạn không phải như một vấn đề cần phải đương đầu, nhưng như người anh em, chị em cần tiếp đón, tôn trọng và yêu mến, một cơ hội Chúa Quan Phòng ban để góp phần kiến tạo một xã hội công bằng hơn, dân chủ trọn vẹn hơn, một quốc gia liên đới hơn, một thế giới huynh đệ hơn và một cộng đoàn Kitô cởi mở hơn theo Tin Mừng. Những cuộc di cư có thể làm nảy sinh cơ hội tái truyền giảng Tin Mừng, mở ra những không gian cho sự tăng trưởng một nhân loại mới đã được loan báo trong mầu nhiệm phục sinh: một nhân loại trong đó mỗi phần đất ngoại quốc là quê hgương và mỗi quê hương là đất xa lạ.

”Anh chị em di dân và tị nạn thân mến! Anh chị em đừng mất hy vọng một tương lai chắc chắn hơn cũng được dành cho anh chị em, và trên đường đi anh chị em có thể gặp một bàn tay nâng đỡ, được cảm nghiệm tình huynh đệ liên đới và hơi ấm của tình bạn! Tôi hứa cầu nguyện cho tất cả anh chị em và những người dành trọn cuộc đời và năng lực để ở cạnh anh chị em và tôi ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả.
Vatican ngày 5 tháng 8 năm 2013

Phanxicô, Giáo Hoàng

Giáo Hội là một gia đình đại đồng hiệp nhất trong khác biệt

Giáo Hội là một gia đình đại đồng hiệp nhất trong khác biệt

Giáo Hội là một gia đình đại dồng hiệp nhất trong khác biệt, được linh hoạt bởi Chúa Thánh Thần, vì Giáo Hội ”có một đức tin, một cuộc sống bí tích, một sự kế nhiệm tông đồ duy nhất, một niềm hy vọng chung, cùng đức ái”. Do đó chúng ta có đi bất cứ đâu, kể cả trong một giáo xử nhỏ bé nhất, trong một xó xỉnh xa xôi nhất của trái đất này, đều có Giáo Hội; chúng ta ở nhà, chúng ta ở trong gia đình, chúng ta là anh chị em.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 25-9-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Như mọi lần đã có hàng chục em bé được Đức Thánh Cha hôn, vuốt ve và xoa đầu. Cũng có em nhát qúa, không cho Đức Thánh Cha hôn. Lần này lại có một kiểu khác biểu lộ tình yêu thương đối với Đức Thánh Ca: có tín hữu hành hương biếu nước ngọt mở sẵn có ống hút cho ngài. Và Đức Thánh Cha đã đơn sơ nhận và uống ngay. Các nhóm trẻ thì không ngừng gọi tên Đức thánh Cha, hay hô lớn tên quốc gia của mình để lôi kéo sự chú ý của ngài, và hò lớn: thưa Đức Thánh Cha, phía này, phía này. Và dĩ nhiên là ngài phải quay qua ngay phía đó.

Trong bài giáo lý Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài: Giáo Hội là một duy nhất. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trong Kinh Tin Kính chúng ta nói: ”Tôi tin Giáo Hội duy nhất”, nghĩa là chúng ta tuyên xưng rằng Giáo Hội là duy nhất và Giáo Hội này trong chính mình là sự hiệp nhất. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào Giáo Hội Công Giáo trên thế giới chúng ta khám phá ra rằng nó bao gồm gần 3.000 giáo phận rải rác trong mọi Đại lục: biết bao nhiêu ngôn ngữ, biết bao nhiêu nền văn hóa! Ở đây có các Giám Mục của các nền văn hóa khác nhau, của biết bao nhiêu nước! Có Giám Mục của Sri Lanka, Nam Phi, Ấn Độ, biết bao nhiêu vị ở đây của châu Mỹ Latinh. Giáo Hội rải rác trên toàn thế giới. Thế nhưng hàng ngàn cộng đoàn công giáo làm thành sự hiệp nhất. Điều này có thể xảy ra như thế nào?

Chúng ta tìm ra một câu trả lời trong ”Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo”, khẳng định rằng Giáo Hội Công Giáo rải rác trên thế giới ”có một đức tin, một cuộc sống bí tích, một sự kế nhiệm tông đồ duy nhất, một niềm hy vọng chung, cùng đức ái” (s. 161). Đây là một định nghĩa đẹp, rõ ràng và hướng dẫn chúng ta rất tốt. Hiệp nhất trong lòng tin, cậy, mến, hiệp nhất trong các Bí Tích, trong chức Thừa Tác: chúng là các cột trụ nâng đỡ, và hiệp nhất toàn ngôi nhà vĩ đại của Giáo Hội. Chúng ta có đi bất cứ đâu, kể cả trong một giáo xử nhỏ bé nhất, trong một xó xỉnh xa xôi nhất của trái đất này, đều có Giáo Hội; chúng ta ở nhà, chúng ta ở trong gia đình, chúng ta là anh chị em. Và đây là một ơn rất lớn của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha khẳng định rằng: Giáo Hội là một cho tất cả mọi người. Không có một Giáo Hội cho người Âu châu, một Giáo Hội cho người Phi châu, một Giáo Hội cho người Mỹ châu, một Giáo Hội cho người Á châu, một Giáo Hội cho ngừơi Đại dương châu, nhưng Giáo Hội là một ở khắp nơi. Nó như là trong một gia đình: người ta có thể ở xa, rải rác trên thế giới, nhưng các mối dây sâu đậm hiệp nhất tất cả các chi thể của gia đình vẫn bền chặt, cho dù khoảng cách có xa bao nhiêu đi nữa. Chẳng hạn tôi nghĩ tới kinh nghiệm của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Rio de Janeiro: trong đám đông ngút ngàn người trẻ trên bãi biển Copacabana, người ta nghe nói biết bao nhiêu ngôn ngữ, trông thấy biết bao nhiêu nét mặt rất khác nhau, người ta gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau, thế nhưng đã có sự hiệp nhất sâu xa, người ta làm thành một Giáo Hội duy nhất, người ta hiệp nhất và cảm nhận được sự hiệp nhất ấy. Chúng ta tất cả hãy tư hỏi: tôi là tín hữu công giáo, tôi có cảm thấy sự hiệp nhất này không? Tôi là tín hữu công giáo, tôi có sống sự hiệp nhất này của Giáo Hội không? Hay nó không liên quan tới tôi, bởi vì tôi khép kín trong nhóm nhỏ của tôi hay trong chính mình? Tôi có thuộc những người ”tư nhân hóa” Giáo Hội cho nhóm của mình, cho quốc gia, cho bạn bè của mình không? Thật là buồn khi tìm thấy một Giáo Hội bị tư nhân hóa vì sự ích kỷ này hay vì thiếu đức tin! Thật là buồn!

Khi tôi nghe rằng có biết bao kitô hữu trên thế giới đau khổ, tôi có vô cảm hay đau khổ như một thành phần trong gia đình không? Khi tôi nghe nói rằng có biết bao nhiêu kitô hữu bị bách hai và hiến mạng sống cho đức tin, nó có đánh động con tim của tôi, hay không liên quan tới tôi? Tôi có cởi mở đối với người anh chị em của gia đình đang hiến mạng vì Chúa Giêsu Kitô không? Chúng ta có cầu nguyện cho nhau không?

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Tôi xin hỏi anh chị em một câu, nhưng đừng trả lời lớn tiếng, chỉ trả lời trong con tim thôi: Có bao nhiều người trong anh chị em cầu nguyện cho các kitô hữu bị bách hại? Bao nhiêu người? Mỗi người hãy trả lời trong tim mình: ”Tôi có cầu nguyện cho người anh chị em đó đang gặp khó khăn để tuyên xưng và bảo vệ đức tin của họ không? Thật là quan trọng biết nhìn ra bên ngoài hàng rào của mình, biết cảm nhận mình là Giáo Hội, gia đình duy nhất của Thiên Chúa.

Tiếp đến Đức Thánh Cha nêu lên câu hỏi: Có các vết thương đối với sự hiệp nhất này không? Chúng ta có thể đả thương sự hiệp nhất này không? Và ngài trả lời:

Rất tiếc trên con đường lịch sử, cả bây gìơ nữa, chúng ta không luôn luôn sống sự hiệp nhất. Đôi khi nảy sinh ra các hiểu lầm, xung khắc, căng thẳng, chia rẽ đả thương Giáo Hội, và khi đó Giáo Hội không có gương mặt mà đáng lý chúng ta muốn, nó không biểu lộ tình bác ái, gương mặt mà Thiên Chúa muốn. Chính chúng ta tạo ra các xâu xé. Và nếu chúng ta nhìn vào các chia rẽ vẫn còn giữa các kitô hữu, công giáo, chính thống, tin lành chúng ta cảm thấy sự mệt mỏi khiến cho sự hiệp nhất ấy được hữu hình một cách tràn đầy. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự hiệp nhất, nhưng thường khi chúng ta lại sống nó một cách mệt nhọc.

Cần phải tìm kiếm, xây dựng sự hiệp thông, giáo dục hiệp thông, thắng vượt các hiểu lầm và các chia rẽ, bắt đầu từ gia đình, từ các thực tại giáo hội, cả trong cuộc đối thoại đại kết nữa. Thế giới của chúng ta cần sự hiệp nhất. Đó là một thời đai, trong đó tất cả chúng ta cần sự hiệp nhất. Chúng ta cần hòa giải, hiệp thông, và Giáo Hội là Nhà của sự hiệp thông. Thánh Phaolô đã nói với tín hữu Êphêxô rằng: ”Tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đã đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4,1-3). Khiêm nhường, dịu hiền, cao thượng, yêu thương để duy trì sự hiệp nhất! Đây là các con đường đích thật của Giáo Hội. Chúng ta hãy nghe lại một lần nữa: Khiêm nhường, chống lại kiệu ngạo, khêm nhường, hiền dịu, cao thượng và yêu thương để duy trì sự hiệp nhất. Và thánh nhân nói tiếp: Chỉ có một thân thể, một Thần Khí linh hoạt và liên tục tái tạo Giáo Hội; một niềm hy vọng, sự sống vĩnh cửu; một niềm tin, một Phép rửa, một Thiên Chúa, Cha của tất cả mọi người (x. cc.4-6). Sự giầu có của những gì hiệp nhất chúng ta! Đó là sự giầu có đích thực: điều hiệp nhất chúng ta, chứ không phải điều chia rẽ chúng ta. Đây là sự giầu có của Giáo Hội. Hôm nay mỗi người hãy tự vấn: tôi có làm cho sự hiệp nhất trong gia đình, giáo xứ, cộng đoàn lớn lên không, hay tôi là người bép xép, là nguyên do gây chia rẽ khó chịu? Anh chị em không biết các bép xép làm hại Giáo Hôi, các giáo xứ, các cộng đoàn biết chừng nào! Chúng làm hại. Chúng gậy thương tích. Một kitô hữu trước khi bép xép phải cắn lưỡi, có hay không? Cắn lưỡi. Điều đó sẽ tốt cho chúng ta, bởi vì khi lưỡi phồng lên, thì không nói được nữa và không bép xép đựơc nữa. Tôi có khiêm tốn khâu lại các vết thương của sự hiệp thông với lòng kiên nhẫn và hy sinh không?

Bước sau cùng đi vào chiều sâu: ai là đầu máy của sự hiệp nhất Giáo Hội? Đây là câu hỏi hay. Đó chính là Chúa Thánh Thần, mà chúng ta tất cả đã nhận được trong bí tích Rửa Tội và cả trong bí tích Thêm Sức nữa. Đó là Chúa Thánh Thần. Sự hiệp nhất của chúng ta trước hết không phải là hoa trái của sự đồng thuận, hay sự dân chủ trong Giáo Hội, hoặc sự cố gắng đồng ý với nhau của chúng ta, nhưng đến từ Chúa Thánh Thần, là Đấng tạo nên sự hiệp nhất trong khác biệt, bởi vì Chúa Thánh Thần là hòa hợp, Ngài luôn tạo sự hòa hợp trong Giáo Hội, và một sự hiệp nhất hòa hợp trong biết bao khác biệt văn hóa, tiếng nói, tư tưởng. Chính Chúa Thánh Thần là đầu máy.. Vì thế cầu nguyện là điều quan trọng, vì lời cầu linh hoạt dấn thân hiệp thông và hiệp nhất của chúng ta. Lời cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Người đến và hiệp nhất Giáo Hội.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài giáo lý như sau: Chúng ta hãy xin với Chúa: Lậy Chúa, xin ban cho chúng con luôn ngày càng hiệp nhất hơn, đừng bao giờ là dụng cụ của chia rẽ; xin làm cho chúng con dấn thân, như lời cầu đẹp của thánh Phanixicô nói, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi xúc phạm, đem hiệp nhất vào nơi bầt hòa.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau, trong đó có các nhóm tới từ Nam Phi, Uganda, Australia, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Sri Lanka, Nam Hàn và Việt Nam.

Sau khi Kinh Lạy Cha Đức Thánh Cha đã ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần

Đức Biển Đức 16 trả lời một nhà toán học vô thần

VATICAN. Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã trả lời cho những tấn công của một nhà toán học vô thần người Italia, ông Piergiorgio Odifreddi.

Ông thường xuất hiện trên truyền hình ở Italia và mạnh mẽ phê bình tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo. Ông đã viết cuốn ”Giáo Hoàng thân mến, tôi viết cho ngài” (Caro Papa ti scrivo), để trả lời cho cuốn ”Dẫn vào Kitô giáo” (Introduzione al Cristianesimo) của ĐGH Ratzinger.

Lá thư dài 11 trang được Đức nguyên Giáo Hoàng viết trong tháng 8 gửi đến ông Odifreddi hồi đầu tháng 9-2013. Ông đã cho báo phe tả ”Repubblica” (Cộng Hòa), đăng tải trong số ra ngày 24-9-2013.

Trong thư ĐGH Biển Đức cho biết đã đọc sách của ông Odifreddi và ngạc nhiên vì giọng văn gây hấn và sự nhẹ dạ của tác giả trong các biện luận. Ngài bác bỏ lập luận cho rằng thần học là một khoa học giả tưởng, đồng thời xác quyết ngài không bao giờ tìm cách che đậy những điều xấu trong Giáo Hội, những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thư của Đức Biển Đức 16 có đoạn viết: ”Tôi không bao giờ tìm cách che đậy những điều ấy. Sự kiện quyền lực sự ác thấu nhập đến mức độ đó vào trong lòng thế giới đức tin, đối với chúng tôi, đó thực là một điều đau khổ mà một đàng chúng tôi phải chấp nhận, và đàng khác chúng tôi phải làm tất cả những gì có thể để những vụ như thế không tái diễn. Cũng không phải là một điều an ủi khi biết rằng theo nghiên cứu của các nhà xã hội hoc, tỷ lệ các linh mục phạm những tội ác lạm dụng như thế không cao hơn tỷ lệ trong các giới chuyên nghiệp tương tự. Dầu sao đi nữa, không được ngoan cố trình bày sự lệch lạc ấy như thế đó là một sự nhơ bẩn riêng của Công Giáo mà thôi. Và cũng không được im lặng trước vết tích lớn lao về thiện hảo sáng ngời và tinh tuyền mà đức tin Kitô đã vạch ra qua dòng lịch sử. Và một điều thực sự là ngày nay đức tin đang thúc đẩy nhiều người yêu thương vô vị lợi, phục vụ tha nhân, sống chân thành và công chính”.

Sự trách cứ nghiêm khắc nhất Đức nguyên Giáo Hoàng dành cho ông Odifreddi là về đề tài lịch sử. Ngài viết: ”Điều mà ông nói về Đức Giêsu không đáng với trình độ khoa học của ông. Nếu Ông đặt vấn đề như thế, xét cho cùng, người ta không biết gì về Đức Giêsu, và không gì có thể chấp nhận được chứng tỏ Ngài là một nhân vật lịch sử, như thế thì tôi chỉ có thể quyết liệt mời gọi ông hãy tỏ ra có thẩm quyền hơn một chút về phương diện sử học. Về vấn đề này, tôi đặc biệt khuyên ông đọc 4 cuốn mà Martin Hengel, một nhà chú giải Kinh Thánh thuộc phân khoa thần học tin lành ở Tuebingen, đã xuất bản cùng với Maria Schwmer: đây là một thí dụ tuyệt hảo về sự chính xác lịch sử và cung cấp rất nhiều thông tin lịch sự. Đứng trước sự điện ấy, điều mà ông nói về Đức Giêsu thực là một kiểu nói nhẹ dạ không nên lập lại”.

ĐGH Biển Đức 16 cũng đặt câu hỏi với ông Odifreddi: ”Nếu ông muốn thay thế Thiên Chúa bằng ”Thiên Nhiên”, thì vẫn còn có câu hỏi: thiên nhiên này là ai hoặc là gì. Không có chỗ nào trong sách ông định nghĩa thiên nhiên và vì thế nó thiên nhiên xuất hiện như thần minh vô lý, chẳng giải thích gì cả.. Nhưng nhất là tôi muốn nhận xét rằng trong Tôn giáo của ông về toán học, có 3 đề tài cơ bản của cuọc sống con người không được xét tới: tự do, tình yêu và sự ác. Tôi ngạc nhiên vì ôngchỉ nhắc lướt qua tới tự do, mặc dù đây đã và đang còn là giá trị chủ yếu của thời đại ngày nay”. Tình yêu cũng không được nói đến trong sách của Odifreddi và cả sự ác cũng chẳng được đề cập đến.. Tôn giáo toán học của ông không biết thông tin nào về sự ác. Một tôn giáo bỏ qua những câu hỏi cơ bản như thế thì là một tôn giáo trống rỗng”

Từ khi từ nhiệm và sống ẩn dật tại Vatican, đây là lần thứ hai ĐGH Biển Đức 16 ”xuất hiện” công khai, nhưng ngài vẫn giữ nguyên lời hứa ẩn mình đối với thế giới (Vat. Ins. 24-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp người nghèo, tù nhân, giới văn hóa và giới trẻ tại Cagliari, Sardegna

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp người nghèo, tù nhân, giới văn hóa và giới trẻ tại Cagliari, Sardegna

CAGLIARI. Trong chuyến viếng thăm mục vụ chúa nhật 22-9-2013, ĐTC Phanxicô đã dành buổi chiều cùng ngày để gặp gỡ người nghèo, các tù nhân được Caritas giúp đỡ, giới văn hóa và giới trẻ tại thành phố Cagliari, thủ phủ đảo Sardegna của Italia.

ĐTC Phanxicô đã dành 12 tiếng đồng hồ để viếng thăm Tổng giáo phận Cagliari có 570 ngàn tín hữu Công Giáo. Cao điểm cuộc viếng thăm là thánh lễ ngài cử hành trước 100 ngàn tín hữu tại Quảng trường trước Đền Thánh Đức Mẹ Bonaria. Tên của Đền thánh này có liên hệ đặc biệt với tên của thành phố Buenos Aires ở Argentina nơi ĐTC làm GM. Thực vậy các thủy thủ của đoàn tàu từ Sardegna có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Mẹ Bonaria nên họ đã lấy tên của Đền Thánh Đức Mẹ nơi quê hương để đặt cho nơi họ đến cư ngụ ở Argentina.

Gặp gỡ người nghèo, tù nhân và Caritas
Sau thánh lễ, ĐTC đã dùng bữa với các GM đảo Sardegna tại Đại chủng viện miền, rồi lúc quá 3 giờ chiều ngài đến Nhà thờ chính tòa Cagliari để gặp gỡ người nghèo và các tù nhân do tổ chức Caritas trợ giúp.
Có 130 người nghèo cùng với một số tù nhân và các nhân viên Caritas hiện diện tại Nhà Thờ, trong bầu không khí hân hoan và cảm động.
Trong bài huấn dụ tại cuộc gặp gỡ, ĐTC nói:

”Khi nhìn Chúa Giêsu chúng ta thấy Chúa đã chọn con đường khiêm hạ và phục vụ. Đúng ra, chính bản thân Chúa là con đường ấy… Con đường của Chúa là con đường bác ái. Vì thế chúng ta thấy bác ái không phải chỉ là ban cấp sự giúp đỡ, nhưng là sự chọn lựa một lối sống; là con đường khiêm hạ và liên đới. Sự khiêm hạ của Chúa Kitô không phải là để dạy đời, không phải là một tình cảm, nhưng đó là điều chân thực: Chúa muốn trở nên bé nhỏ, ở với những người hèn mọn, với những người bị loại trừ, ở với chúng ta là những người tội lỗi. Nhưng chúng ta cần để ý, đây không phải là một ý thức hệ! Nhưng là một lối hiện hữu và sống, đi từ tình yêu, từ con tim của Thiên Chúa Cha.

”Nhưng nhìn ngắm Chúa mà thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải theo Chúa nữa. Và đó là khía cạnh thứ hai. Chúa Giêsu không đến để trình diễn cho người ta thấy. Chúa Giêsu là đường và con đường là để bước theo.”

ĐTC cám tạ Chúa vì sự dấn thân của tất cả những anh chị em tận tụy quảng đại tại Cagliari và Sardegna này trong việc thực thi những công việc từ bi bác ái và ngài khích lệ họ tiếp tục con đường ấy đồng thời nhắc nhở rằng:
”Chúng ta phải thực thi các công việc từ bi bác ái với lòng từ bi, dịu dàng, và luôn luôn với lòng khiêm tốn! Anh chị em biết không: Đôi khi người ta cũng thấy sự kiêu hãnh trong việc phục vụ người nghèo! Một số người làm đẹp, sống bằng người nghèo; một số người lợi dụng người nghèo để phục vụ cho tư lợi hoặc cho phe nhóm của họ. Tôi biết đó là chuyện phàm nhân, nhưng điều ấy không tốt! Và tôi muốn nói hơn nữa, đó là tội lỗi! Tốt hơn những người ấy nên ở nhà.”

”Khi theo Chúa Kitô trên con đường bác ái, chúng ta gieo vãi hy vọng. Đó là xác tín thứ ba mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em. Xã hội Italia ngày nay đang rất cần hy vọng, đặc biệt tại đảo Sardegna này. Ai có trách nhiệm chính trị và dân sự thì có nghĩa vụ của mình, nghĩa vụ cần được hỗ trợ tích cực, như những công dân…
”Nhưng trong tư cách là Giáo Hội, tất cả chúng ta đều có một trách nhiệm lớn, đó là gieo vãi hy vọng bằng những công việc liên đới, luôn tìm cách cộng tác một cách tốt đẹp hơn với các tổ chức công cộng, trong sự tôn trọng các thẩm quyền liên hệ. Đức bác ái diễn tả cộng đoàn, và sức mạnh của cộng đoàn Kitô là làm tăng trưởng xã hội từ bên trong như men. Tôi nghĩ đến những sáng kiến của anh chị với các tù nhân trong các nhà tù, tôi nghĩ đến sự thiện nguyện của bao nhiêu hội đoàn, đến tình liên đới với các gia đình đang chịu đau khổ nhiều hơn vì thiếu việc làm. Về điểm này, tôi nói với anh chị em: hãy cam đảm, đừng để cho người ta cướp mất niềm hy vọng và hãy tiến bước!

Sau bài huấn dụ, ĐTC đã chào thăm nhiều người. Có những người nhân dịp này trao cho ngài những lá thư riêng hoặc một món quà nhỏ.. Ngài mời mọi người đọc kinh Lạy Cha trước khi ban phép lành kết thúc.
Trước khi rời Nhà thờ chính tòa Cagliari, ĐTC cũng chào thăm các nữ tu thuộc các dòng khác nhau, kể cả các nữ tu chiêm niệm. Ngài nói với họ: ”Chị em là sự nâng đỡ tinh thần cho Giáo Hội. Hãy tiếp tục tiến bước với xác tín đó. Chúa kêu gọi chị em để nâng đỡ Giáo Hội bằng lời cầu nguyện của chị em”.

Gặp giới văn hóa

Hoạt động thứ hai của ĐTC chiều chúa nhật vừa qua là cuộc gặp gỡ với giới văn hóa lúc quá 4 giờ chiều tại thính đường Giáo Hoàng phân khoa thần học ở Cagliari do các cha dòng Tên đảm trách. Ngoài ra còn có đại diện của hai Đại học công lập ở Cagliari và Sassari.

Ngỏ lời trong dịp này, sau lời chào mừng của LM khoa trưởng thần học và hai giáo sư viện trưởng Đại học, ĐTC đã trình bày một số suy tư dựa trên đoạn Tin Mừng về thái độ của hai môn đệ trên đường làng Emmaus sau khi Chúa chịu chết, họ rời khỏi thành Jerusalem và trở về quê. ĐTC đã cô đọng suy tư của ngài trong 3 điểm: thất vọng, cam chịu và hy vọng.

Thứ 1. Hai môn đệ mang trong tâm hồn nỗi đau khổ và lạc hướng vì cái chết của Chúa Giêsu, họ thất vọng vì sự việc xảy ra. Chúng ta thấy tâm tình tương tự trong tình trạng chúng ta ngày nay: thất vọng, vỡ mộng, vì cuộc khủng hoảng không những về kinh tế tài chánh, nhưng cả về môi sinh, giáo dục và luân lý nữa. Đó là một cuộc khủng hoảng liên quan đến hiện tại và tương lai lịch sử, trong cuộc sống con người thuộc nền văn minh tây phương và liên hệ tới toàn thế giới… Ít nhất trong 4 thế kỷ gần đây, người ta chưa hề thấy tình trạng những xác tín chắc chắn cơ bản bị rúng động như hiện nay, những xác tín ấy vốn tạo nên cuộc sống con người. Tôi nghĩ đến sự suy thoái môi trường, những chênh lệch xã hội, tiềm năng kinh khủng của võ khí, hệ thống kinh tế tài chánh, sự phát triển, sức nặng của các phương tiện thông tin, truyền thông, chuyên chở.

2. ”Đâu là những phản ứng đứng trước thực tại ấy? Hai môn đệ làng Emmaus đã có phản ứng cam chịu, tìm cách trốn chạy khỏi thực tại, rời bỏ thành Jerusalem. Chúng ta cũng thấy thái độ như thế trong thời điểm lịch sử này. Đứng trước cuộc khủng hoảng, người ta có thể có thái độ cam chịu, bi quan đối về những gì có thể thực hiện hữu hiệu… Sự thất vọng và vỡ mộng cũng đưa tới sự trốn chạy, tìm những ”hòn đảo” hoặc ngưng lại. Thái độ đó phần nào cũng giống như thái độ rửa tay của Philatô. Thái độ này có vẻ là thực tiễn, nhưng trong thực tế nó cố tình không biết đến tiếng kêu công lý, nhân đạo, trách nhiệm xã hội và dẫn tới chủ nghĩa cá nhân, giả hình, nếu không muốn nói là đi tới thái độ sống chết mặc bay.

3. ĐTC nhận xét rằng: Về điểm này chúng ta tự hỏi: có một con đường phải đi trong tình trạng của chúng ta hay không? Phải chăng chúng ta phải cam chịu, trốn chạy thực tại, rửa tay và co cụm vào mình? Tôi nghĩ không những có một con đường phải đi, nhưng chính trong thời điểm lịch sử này, chúng ta được thúc đẩy tìm thấy những con đường hy vọng, mở ra những chân trời mới cho xã hội chúng ta. Và đây chính là vai trò của Đại học như một nơi soạn ra và thông truyền kiến thức, huấn luyện về sự khôn ngoan theo nghĩa sâu xa nhất của từ này, giáo dục toàn diện con người.

Trong ý hướng trên đây, ĐTC nói đến 3 vai trò của đại học: Đại học như một nơi phân định, đọc thực tại và phân tích suy xét, không chút sợ hãi, không hoảng hốt.. Đại học, như một môi trường của sự khôn ngoan có chức năng rất quan trọng là huấn luyện về sự phân định, để nuôi dưỡng hy vọng.

Tiếp đến đại học như một nơi kiến tạo nền văn hóa gần gũi. Sự cô lập và co cụm vào mình hoặc đóng khung trong những lợi lộc riêng của mình không bao giờ là con đường tái tạo hy vọng và thực huện sự canh tân, trái lại chính sự gần gũi, nền văn hóa gặp gỡ mới làm được điều đó. Đại học là nơi ưu tiên để thăng tiến, giảng dạy và sống nền văn hóa đối thoại..

ĐTC nhận xét rằng khi Chúa Giêsu đến gần các môn đệ làng Emmanus, ngài đồng hành, lắng nghe cái nhìn thực tại, sự thất vọng của họ, đối thoại với họ, và với cách thức đó, Ngài khơi dậy nơi họ niềm hy vọng, những chân trời mới đã hiện diện, mà chỉ có cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh giúp nhận ra.
Yếu tố sau cùng: Đại học là nơi huấn luyện về tình liên đới.. Phân định thực tại, nhận thức khủng hoảng, thăng tiến một nền văn hóa gặp gỡ, và đối thoại, hướng về tình liên đới, như yếu tố cốt yếu để canh tân xã hội chúng ta. Và ĐTC kết luận rằng:

”Đức tin ban cho các tín hữu Kitô chúng ta niềm hy vọng vững chắc thúc đẩy phân định thực tại, sống sự gần gũi và tình liên đới vì Thiên Chúa đi vào lịch sử chúng ta, trở thành ngừơi trong Đức Giêsu, ngụp lặn trong sự yếu đuối của chúng ta, trở nên gần gũi tất cả mọi người, chứng tỏ tình liên đới cụ thể, nhất là với những ngừơi nghèo khổ túng thiếu nhất mở ra cho chúng ta một chân trời vô biên và chắc chắn của niềm hy vọng”.

Gặp giới trẻ
Giã từ giới văn hóa, ĐTC trở lại Quảng trường Carlo Felice gần bến tàu Cagliari nơi ngài đã gặp giới lao động của đảo Sardegna vào ban sáng chúa nhật. Tại đây 100 ngàn bạn trẻ đã tụ tập tại đây ca hát, suy tư và nghe chứng từ về đề tài: ”Con hãy thả lưới!” dựa trên Tin Mừng theo thánh Luca (5,4-11).

Khi ĐTC đến, họ đã dành cho ngài một cuộc tiếp đón nồng nhiệt. Một số đại diện bạn trẻ đã chào mừng và xin ĐTC trả lời một số thắc mắc xin ngài giải đáp.

Trong phần huấn dụ, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa đoạn Tin Mừng về sự tích các môn đệ vất vả cả đêm mà không bắt được con cá nào từ hồ Galilea. Nhưng rồi Chúa Giêsu đến, gọi Phêrô, Anrê, và Giacôbê và Gioan, cũng với các ngư phủ khác, ngài bảo Phêrô thả lưới, nhưng ông nói: ”Thưa thầy chúng con vất vả cả đêm mà chẳng được gì!”
Đó là điểm đầu tiên ĐTC muốn nói tới, là kinh nghiệm về sự thất bại, có cái gì đó không ổn, có một sự thất vọng.
ĐTC nói: ”Trong tuổi trẻ chứng ta đề ra dự phóng, hướng về đằng trước, nhưng nhiều khi gặp phải thất bại, thất vọng: đó là một sự thử thách.

Cả trong Giáo Hội, chúng ta cũng trải qua kinh nghiệm ấy: các LM, giáo lý viên, những người linh hoạt vất vả rất nhiều, mất bao nhiêu năng lực, dồn toàn lực, nhưng rốt cục không thấy những thành quả tương ứng với cố gắng. Đức tin bị suy giảm, nhiều tín hữu không tích cực tham gia đời sống Giáo Hội, nhiều tín hữu Kitô mệt mỏi và buồn sầu, nhiều người trẻ, sau khi chịu phép thêm sức, thì không còn tham gia đời sống giáo xứ nữa.

ĐTC đặt câu hỏi: đứng trước thực tại ấy chúng ta có thể làm gì? Chắc chắn một điều không được làm là để cho mình bị thái độ bi quan và nản chí đè bẹp. Các bạn trẻ không thể và không được sống mà không có hy vọng, hy vọng là điều thuộc về cuộc sống của các bạn. Một người trẻ không có niềm vui và hy vọng thì thật là đáng lo, và không còn là người trẻ nữa.

Thánh Phêrô, trong giờ phút nguy kịch, thất bại, lẽ ra Người có thể chiều theo sự mệt mỏi và nán chí, nghĩ rằng thật là vô ích và tốt hơn nên rút lui về nhà. Nhưng, với lòng can đảm, thánh nhân ra khỏi mình và quyết định tín thác vào Chúa Giêsu và nói: ”Vâng lời Thầy con sẽ thả lưới!” Phêrô không nói: theo sức lực, theo những tính toán, kinh nghiệm của con như một ngư phủ lành nghề, nhưng Người nói: ”theo lời Thầy”! Và kết quả là một mẻ cá lạ lùng, lưới đầy cá, đến độ suýt bị rách!

Sang điểm thứ 2: tín thác vào Chúa Giêsu. ĐTC nói:
”Chúa luôn ở với chúng ta. Chúa đến bên bờ biển cuộc đời chúng ta, gần gũi với những thất vọng của chúng ta, sự dòn mỏng, tội lỗi của chúng ta, để biến đổi chúng. Các bạn đừng bao giờ ngừng tiếp tục cuộc chơi, như những thể tháo gia giỏi biết đương đầu với những vất vả của việc tập luyện, để đạt kết quả! Những khó khăn không được làm các bạn kinh hãi, nhưng thúc đẩy các bạn đi xa hơn. Hãy nghe những lời Chúa nói với các bạn: ”hãy ra khơi và thả lưới, hỡi các bạn trẻ Sardegna! Các bạn hãy luôn ngoan ngoãn đối với Lời Chúa.. Khi những cố gắng khơi dậy đức tin nơi các bạn đồng lứa dường như vô ích, như những vất vả suốt đêm của các ngư phủ, các bạn hãy nhớ rằng với Chúa Giêsu, tất cả có thể thay đổi. Lời Chúa đã làm đầy lưới, và lời Chúa làm cho công việc truyền giáo của các môn đệ trở nên hữu hiệu. Theo Chúa Giêsu có nhiều đòi hỏi, và có nghĩa là không hài lòng với những mục tiêu bé nhỏ, nhưng can đảm nhắm lên cao!

Điểm thứ ba: ”Hãy thả lưới bắt cá (v.4).” ĐTC nói: Các bạn trẻ Sardegna thân mến, điều thứ ba tôi muốn nói với các bạn là các bạn cũng được mời gọi trở thành những người ngư phủ lưới người. Các bạn đừng do dự dành trọn cuộc đời mình để vui mừng làm chứng về Tin Mừng, nhất là cho các bạn đồng lứa tuổi.

”Tôi muốn kể cho các bạn một kinh nghiệm bản thân. Hôm qua (21-9), tôi đã kỷ niệm 60 năm ngày tôi cảm thấy tiếng Chúa Giêsu trong tâm hồn tôi.. Tôi không bao giờ quên. Chúa đã cho tôi nghe được mạnh mẽ rằng tôi phải đi con đường ấy. Lúc đó tôi 17 tuổi. Tôi đã trải qua vài năm trước đó trước khi quyết định đi tu trở thành cụ thể và chung kết. Sau bao nhiêu năm với một vài thành công, vui mừng, những cũng có bao năm thất bại, mong manh, tội lỗi.. 60 năm trên con đường của Chúa, đi theo Chúa, cạnh Chúa, luôn luôn cùng với Chúa. Tôi chỉ nói với các bạn điều này: tôi không bao giờ hối hận vì đã đi theo Chúa! Không phải vì tôi mạnh như Tarzan, tôi không hối hận vì cả trong những lúc đen tối, những lúc tội lỗi, yếu đuối mong manh, thất bại, tôi đã nhìn Chúa Giêsu và tôi tin thác nơi Ngài và Chúa không bao giờ để tôi một mình. Các bạn hãy tín thác vào Chúa Giêsu, luôn tín thác vào ngài và tiến bước!

Sự đóng góp của các bạn thật là quan trọng cho sứ mạng của Giáo Hội là rao giảng Tin Mừng: Người trẻ làm tông đồ của người trẻ! Hãy nói với mọi người bằng cuộc sống của các bạn và bằng niềm vui rằng Chúa Giêsu và sứ điệp của Ngài luôn thời sự. Và các bạn hãy can đảm đi ngược dòng, đừng để mình bị cuốn theo dòng đời. Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, cảm nghiệm tình thương và lòng từ bi của Chúa là một cuộc phiêu lưu lớn nhất và đẹp nhất có thể xảy ra cho một người.

”Các thánh cũng như vậy, các ngài không phải là hoàn hảo khi sinh ra, không là thánh khi chào đời! Các ngài nên thánh vì đã tín thác vào lời Chúa và ra khơi như Simon Phêrô. Các bạn hãy noi gương các ngài, tín thác nơi sự chuyển cầu của các ngài và luôn luôn là những người hy vọng”.
Cuối cuộc gặp gỡ, ĐTC còn chào thăm một số bạn trẻ, trong đó có những người khuyết tật. Rồi lúc gần 7 giờ ngài đáp máy bay từ phi trường Cagliari để trở về Roma.
Sở cảnh sát ở Cagliari cho biết có tới 400 ngàn người đã tham dự các sinh hoạt và buổi lễ do ĐTC cử hành tại đây chúa nhật vừa qua.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô tố cáo hệ thống kinh tế tôn thờ tiền bạc và lợi nhuận

Đức Thánh Cha Phanxicô tố cáo hệ thống kinh tế tôn thờ tiền bạc và lợi nhuận

Cuộc khủng hoảng kinh tế âu châu và toàn cầu cũng là cuộc khủng hoảng luân lý đạo đức, tinh thần và nhân bản. Ở nguồn gốc của nó có sự phản bội thiện ích chung từ phía các cá nhân và các nhóm quyền lực. Nó là hậu qủa của một lựa chọn quốc tế, của một hệ thống kinh tế đưa tới thảm cảnh này, một hệ thống kinh tế có một thần tượng ở trung tâm gọi là tiền bạc. Tất cả chúng ta phải cùng nhau tranh đấu để ở trung tâm, ít nhất của cuộc sống chúng ta, là người nam, người nữ và gia đình. Anh chị em đừng để cướp mất niềm hy vọng!

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn công nhân và gia đình họ trong buổi gặp gỡ tại Cagliari thủ phủ đảo Sardaigna sáng Chúa Nhật 22-9-2013.

Chúa Nhật hôm qua Đức Thána Cha Phanxicô đã viếng thăm Cagliari nơi có đền thánh Đức Bà Bonaria, trên đảo Sardaigna trong vòng 10 tiếng. Đây là chuyến viếng thăm thứ hai tại Italia sau chuyến viếng thăm người tị nạn trên đảo Lampedusa.

Theo truyền thuyết, chính tại Cagliari này vào năm 1370 các ngư phủ đã vớt được một tượng Đức Mẹ được họ rất tôn kính và nhận làm Bổn Mạng. Khi một nhóm ngư phủ di cư sang Argentina họ đã truyền bá lòng sùng mộ này và lấy tên Bonaria đặt cho thủ đô Argentina. Đây là lý do khiến cho Đức Thánh Cha, nguyên Tổng Giám Mục Buenos Aires, quyết định viếng thăm Cagliari. Đảo Sardaigna rộng hơn 24.000 cây số vuông có hơn 1,6 triệu dân, đa số sống về nông nghiệp và chăn nuôi.

Sau đây là chi tiết chuyến viếng thăm. Lúc 7 giờ sáng Đức Thánh Cha đã rời Vaticăng để ra phi trường Ciampino lấy máy bay đi Cagliari, thủ phủ đảo Sardaigna. Máy bay đã cát cánh lúc 7 giờ rưỡi và đến phi trường Mario Mameli của thành phố Cagliari-Elmas sau 45 phút bay. Tiếp đón Đức Thánh Cha tại phi trường có Đức Cha Arrigo Miglio, Tổng Giám Mục Cagliari, và giới chức chính quyền tiếp đón. Sau đó Đức Thánh Cha đã đi xe vào thành phố để gặp gỡ giới công nhân tại quảng trường Carlo Felice. Hàng chục ngàn công nhận thuộc mọi nghành nghề khác nhau mặc sắc phục riêng đã cùng với gia đình họ tiếp đón Đức Thánh Cha. Một công nhân thất nghiệp, một thành viên nghiệp đoàn và một nông dân đã đại diện mọi người chào mừng Đức Thánh Cha và trình bầy các khó khăn của họ.

Ngỏ lời với giới công nhân Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ bênh vực phẩm giá và quyền có công ăn việc làm và khẳng định rằng: cần phải đặt con người và việc làm vào trung tâm mọi sinh hoạt. Cuộc khủng hoảng kinh tế âu châu và toàn cầu cũng là cuộc khủng hoảng luân lý đạo đức, tinh thần và nhân bản. Ở nguồn gốc của nó có sự phản bội thiện ích chung từ phía các cá nhân và các nhóm quyền lực. Nơi đâu không có việc làm, thì cũng thiếu phẩm giá. Đây không chỉ là vấn đề của đảo Sardaigna, nơi có nạn thất nghiệp cao, cũng không phải chỉ là của Italia hay vài nước Âu châu. Và Đức Thánh Cha mạnh dạn tố cáo như sau:

Nó là hậu qủa của một lựa chọn quốc tế, của một hệ thống kinh tế đưa tới thảm cảnh này, một hệ thống kinh tế có một thần tượng ở trung tâm gọi là tiền bạc. Thần tượng tiền bạc chỉ huy mọi sự, và để bảo vệ nó tất cả chồng chất ở trung tâm và những người ở hai cực bị ngã, người già ngã, vì trong thế giới này không có chỗ cho họ… Và người trẻ ngã, vì không tìm ra việc làm, và phẩm giá. Một thế giới có hai thế hệ người trẻ không có việc làm, thì không có tương lai, vì họ không có phẩm giá.

Đức Thánh Cha nói ngài gần gũi và hiểu biết thảm cảnh thất nghiệp, vì đó đã là kinh nghiệm gia đình ngài kể lại cho ngài. Chúng ta muốn một hệ thống công bằng. Một hệ thống làm cho chúng ta tất cả tiến tới, chứ không muốn hệ thống kinh tế toàn cầu gây ra biết bao đau khổ!

Để đối phó với cuộc khủng hoảng và nạn thiếu công ăn việc làm hiện nay, tất cả mọi thành phần xã hội: các giới chức lãnh đạo chính trị, kinh tế, tôn giáo và xã hội phải sát cánh cộng tác, đối thoại với nhau, để hiểu biết thực tại và tìm ra các con đường giúp tạo công ăn việc làm xứng đáng, nhân bản, công bằng, an ninh cho mọi người, chứ không phải công việc lậu hay công việc nộ lệ, không tôn trọng thiên nhiên, nhịp sống và nhu cầu nghỉ ngơi trong các ngày lễ của gia đình. Cần biết can đảm liên đới chia sẻ và hy vọng. Tất cả chúng ta phải cùng nhau tranh đấu để ở trung tâm, ít nhất của cuộc sống chúng ta, là người nam, người nữ và gia đình. Anh chị em đừng để cướp mất niềm hy vọng!

Sau cùng Đức Thánh Cha đã mời mọi người cùng ngài cầu nguyện trong thinh lặng. Ngài thưa với Chúa: ”Lậy Chúa, xin hãy nhìn thành phố và dân chúng của toàn đảo Sardaigna, xin hãy nhìn từng người trong chúng con. Lậy Chúa, chúng con thiếu công ăn việc làm. Các thần tượng muốn cướp mất phẩm giá của chúng con. Các hệ thống bất công muốn ăn trộm niềm hy vọng của chúng con. Lậy Chúa, xin đừng để chúng con cô đơn. Xin giúp chúng con giúp đỡ nhau, để chúng con quên đi một ít ích kỷ và cảm thấy trong con tim tiếng ”chúng tôi”, chúng tôi, dân muốn đi tới. Lậy Chúa Giêsu, Chúa không thiếu việc làm, xin cho chúng con có việc làm và xin dậy chúng con tranh đấu cho việc làm và chúc lành cho chúng con”. Diễn văn và lời cầu của Đức Thánh Cha đã khiến cho nhiều người khóc vì cảm động.

Đức Thánh Cha đã bắt tay chào và hôn 30 người đại diện giới công nhân. Có một công nhân tặng ngài chiếc mũ thợ mầu vàng, ngài cám ơn và đội ngay lên đầu. Sau cùng môt em bé chạy lên tặng Đức Thánh Cha lá cờ Vaticăng em cầm trong tay.

Rời quảng trường Carlo Felice, Đức Thánh Cha đến quảng trường trước đền thánh nằm sát bãi biển. Đã có hơn 300.000 tín hữu từ khắp nơi trong đảo Sardaigna tuốn về đây để tham dự thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự. Trước cửa đền thánh ông Ugo Cappellacci, chủ tịch đảo Sardaigna và ông Massimo Zedda tỉnh trưởng Cagliari, đã ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha. Tiếp đến Đức Thánh Cha vào đền thánh và chúc lành cho khoảng 100 bệnh nhân, đa số nằm trên giường, trước khi vào phòng thánh mặc áo để dâng thánh lễ cho tín hữu. Cùng đồng tế thánh lễ với Đức Thánh Cha có các Giám Mục toàn đảo Sardaigna và hàng trăm linh mục.

Giảng trong thánh lễ Đức Thánh Cha nói ngài đến để chia sẻ các niềm vui, hy vọng, sự nhọc mệt, các dân thân và khát vọng của người dân toàn đảo Sardaigna và để củng cố đức tin của họ. Cuộc sống của người dân gặp nhiều thử thách vì thiếu công ăn việc làm, bấp bênh và tương lai không chắn chắn. Cần phải có sự cộng tác của tất cả mọi người, và sự dấn thân của giới hữu trách các cơ cấu để bảo đảm cho các cá nhân và gia đình các quyền nền tảng, và khiến cho xã hội lớn mạnh với nhiều tình huynh đệ và liên đới hơn. Đức Thánh Cha nói:

Tôi gần gũi anh chị em, tôi nhớ anh chị em trong lời cầu nguyện và tôi khích lệ anh chị em kiên tri làm chứng cho các giá trị nhân bản và kitô đâm rễ sâu trong đức tin và lịch sử của vùng đất này và của dân tộc này. Anh chị em hãy luôn luôn duy trì ánh sáng của niềm hy vọng!

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói ngài cũng đến để cùng họ ở dưới chân Đức Mẹ, Đấng đã ban Con Mẹ cho thế giới. Nơi đây biết bao thế hệ người Sarde đã đến hành hương để khẩn nài sự chở che của Đức Bà Bonaria, Bổn Mạng lớn nhất của đảo. Nơi đây anh chị em đem theo các niềm vui, khổ đau của vùng đất này, của các gia đình, của các người con ở xa, thường ra đi với nỗi đau đớn và sự nhung nhớ, để kiếm việc làm và một tương lai cho mình và cho những người thân yêu. Hôm nay tụ họp nhau nơi đây, chúng ta muốn cám ơn Mẹ, vì Mẹ luôn gần gũi chúng ta, chúng ta muốn canh tân sự tin tưởng và tình yêu của chúng ta đối với Mẹ.

Mẹ Maria đã cầu nguyện cùng với cộng đoàn các môn đệ và dậy chúng ta tin tưởng tràn đầy nơi Thiên Chúa, nơi lòng thương xót của Người. Chúng ta đừng mệt mỏi gõ cửa của Thiên Chúa. Qua Mẹ Maria, chúng ta hãy đem tới cho con tim của Thiên Chúa toàn cuộc sống và mỗi ngày sống của chúng ta.

Từ Thánh Gía Chúa Giêsu đã trao phó thánh Gioan cho Đức Mẹ. Nơi thánh Gioan là tất cả chúng ta, và cái nhìn yêu thương của Chúa Giêsu phó thác chúng ta cho sự giữ gìn hiền mẫu của Mẹ.
Sau cùng chúng ta cũng đến đây để gặp gỡ cái nhìn của Mẹ Maria, bởi vì ở đó phản ánh cái nhìn của Thiên Chúa Cha, đã khiến cho Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, và cái nhìn của Con Mẹ từ thập giá khiến cho Người là Mẹ của chúng ta. Và với cái nhìn đó hôm nay Mẹ Maria nhìn chúng ta. Chúng ta cần đến cái nhìn dịu dàng, cái nhìn hiền mẫu của Mẹ, là Đấng hiểu biết chúng ta hơn bất cứ ai khác, chúng ta cần đến cái nhìn đầy cảm thương của Mẹ. Lậy Mẹ Maria, hôm nay chúng con muốn nói với Mẹ: Lậy Mẹ xin hãy ban cho chúng con cái nhìn của Mẹ. Cái nhìn của Mẹ đem chúng con tới với Thiên Chúa, cái nhìn của Mẹ là một ơn của Thiên Chúa Cha nhân lành, chờ đợi chúng con ở mỗi khúc rẽ của con đường cuộc sống…

Nhưng trên con đường thường khó khăn đó chúng ta không cộ đơn, chúng ta đông đảo và là một dân, và cái nhìn của Mẹ giúp chúng ta nhìn nhau một cách huynh đệ. Và Đức Thánh Cha khích lệ mọi người như sau:

Chúng ta hãy nhìn nhau một cách huynh đệ hơn! Mẹ Maria dạy chúng ta có cái nhìn tìm tiếp đón, đồng hành, che chở. Chúng ta hãy tập nhìn nhau dưới cái nhìn hiền mẫu của Mẹ Maria! Có những người chúng ta coi như ít nhưng trái lại họ lại cần đến cái nhìn đó hơn: những người bị bỏ rơi, người đau yếu, người không có phương tiện sống, người không biết Chúa Giêsu, người trẻ gặp khó khăn. Chúng ta đừng sợ hãi nhìn các anh chị em của chúng ta với cái nhìn của Mẹ.

Trước khi kết thúc thánh lễ Đức Thánh Cha đã đọc lời phó dâng toàn đảo Sardaigna cho Đức Bà Bonaria và nói: ”Lậy Mẹ, con xin Mẹ hướng cái nhìn của Mẹ trên tất cả và trên từng người. Con cầu xin cho từng gia đình của thành phố và vùng này. Con khẩn nài Mẹ cho các trẻ em và người trẻ, cho người già và người bệnh, cho tất cả những người cô đơn và những người bị tù tội, cho những người đói khát và cho những người không có công ăn việc làm, cho những người đã đánh mất niềm hy vọng và cho những người không có đức tin. Con cũng khẩn nài Mẹ cho các người cầm quyền và các nhà giáo dục. Lậy Mẹ, xin gìn giữ tất cả chúng con với lòng hiền dịu và ban cho chúng con sức mạnh của Mẹ và biết bao ủi an. Chúng con là con cái Mẹ, chúng con đặt mình dưới sự che chở của Mẹ. Xin đừng để chúng con cộ đơn trong lúc khổ đau và thử thách. Chúng con tín thác nơi trái tim hiền mẫu của Mẹ, và thánh hiến cho Mẹ tất cả những gì chúng con là và chúng con có. Và nhất là lậy Mẹ rất dịu dàng, xin chỉ cho chúng con Chúa Giêsu và dậy chúng con luôn luôn và chỉ làm những gì Người nói với chúng con.

Thánh lễ đã kết thúc với kinh Truyền Tin và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Trong đền thờ Đức Thánh Cha còn chào, an ủi và chúc lành cho các bệnh nhân, rồi về đại chủng viện miền để dùng bữa trưa với các Giám Mục và nghỉ ngơi chốc lát trước khi gặp các người nghèo và các tù nhân, cũng như giới văn hóa và giới trẻ vào ban chiều.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội

VATICAN. ĐTC kêu gọi các tín hữu dấn thân trong lãnh vực truyền thông xã hội, thông truyền kho tàng ánh sáng và hy vọng cho con người ngày nay nhiều khi đang ngỡ ngàng và lạc hướng.

Ngài đưa ra lời mời gọi này trong cuộc tiếp kiến 80 tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội, tiến hành từ ngày 19 đến 21-9-2013 dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Chủ tịch Claudio Maria Celli và có chủ đề là ”mạng truyền thông và Giáo Hội”.

Sau khi nhắc đến tầm quan trọng của ngành truyền thông xã hội ngày nay với những tiến bộ mau lẹ về mặt kỹ thuật, ĐTC mời gọi mọi người hãy tự hỏi: ”Đâu là vai trò của Giáo Hội trong các thực tại hoạt động và truyền thông? Đối tượng ở đây là biết dấn thân đối thoại với con người ngày nay, hiểu rõ những mong đợi, nghi ngờ và hy vọng của họ. Họ là những người nhiều khi thất vọng về một Kitô giáo mà họ cho là vô bổ, Kitô giáo gặp khó khăn trong việc thông truyền một cách quyết liệt ý nghĩa sâu xa của đức tin. Trong thời đại hoàn cầu hóa hiện nay, chúng ta chứng kiến sự gia tăng ngỡ ngàng, mất hướng đi, cô đơn, không tìm được ý nghĩa cuộc sống, khó có được những liên hệ sâu xa.”

Trong bối cảnh đó, ĐTC nói: ”Điều quan trọng là biết đối thoại, và với tinh thần phân định đi vào các môi trường do các kỹ thuật truyền thông mới mẻ tạo nên, cả trong các mạng xã hội, để làm nổi bật một sự hiện diện biết lắng nghe, khích lệ. Chúng ta đừng sợ sự hiện diện như thế, và mang căn tính Kitô khi đi vào môi trường ấy.”

ĐTC cũng khích lệ các tín hữu trong ngành truyền thông ”biết thông truyền khuôn mặt của Giáo Hội như là ”căn nhà” của mọi người, giúp tái khám phá qua các phương tiện truyền thông vẻ đẹp của đức tin, của cuộc gặp gỡ Chúa Kitô. Giáo Hội cần mang hơi ấm, thắp sáng con tim; chúng ta có một kho tàng quí giá phải thông truyền, một kho tàng mang ánh sáng và hy vọng. Tất cả những điều đó đòi phải có một sự huấn luận có phẩm chất dành cho các LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân trong lãnh vực này. (SD 21-9-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio