RÔMA NHẮC LẠI GIÁO THUYẾT VỀ NGƯỜI LY DỊ TÁI HÔN

RÔMA NHẮC LẠI GIÁO THUYẾT VỀ NGƯỜI LY DỊ TÁI HÔN

Trong một bài viết được đăng trên nhật báo Osservatore Romano ngày 22/10/2013, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin đã loại trừ khả năng cho người ly dị tái hôn lãnh nhận các bí tích.

Đối với những ai nghi ngờ về tính liên tục giáo thuyết giữa Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô, Đức cha Gerhard Ludwig Müller, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, vừa có một lời cải chính mạnh mẽ. Và điều này trong một lãnh vực cực kỳ nhạy cảm : cuộc tranh luận về tính bất khả phân ly của hôn nhân và việc mục vụ dành cho người ly dị tái hôn. Trong bài viết được đăng trên trang nhất của nhật báo Osservatore Romano, Đức Cha đã trả lời cách rõ ràng cho những ai đang cổ xúy việc dễ dàng cho người ly dị tái hôn rước lễ.

Việc rước lễ không thể ban cho họ

Trong bài viết có tựa đề « Sức mạnh của ân sủng », Đức cha Müller đã phát biểu rất rõ ràng : « Việc chấp nhận cho rước lễ không thể được ban cho họ ». Còn về lòng thương xót, lập luận thường được nêu lên, bao gồm cả bởi Đức Phanxicô trên chuyến bay từ Rio trở về, để biện hộ cho sự tiến triển của thực hành này, Đức Cha viết : « Đó là một lập trường  thiếu sót về mặt thần học bí tích, bởi vì toàn thể trật tự bí tích là một công trình của lòng thương xót (…). Xuyên qua việc kêu gọi sai lầm về lòng thương xót, người ta có nguy cơ tầm thường hóa hình ảnh của Thiên Chúa ». Đức Cha cũng loại bỏ khả năng Giáo Hội Công Giáo chấp thuận một thực hành của các Giáo Hội Chính Thống, theo đó các đôi bạn Kitô hữu ly dị, sau một thời gian sám hối, có thể ký kết một hôn nhân thứ hai. « Thực hành này không thể dung hòa với ý muốn của Thiên Chúa, như đã được diễn đạt cách rõ ràng bằng những lời của Chúa Giêsu về tính bất khả phân ly của hôn nhân, và điều đó biểu lộ một vấn đề đại kết vốn không được đánh giá thấp ».

Tuy nhiên, Đức Cha Tổng Trưởng nhìn nhận sự khó khăn gắn liền với vấn đề này, nhất là đối với não trạng hiện đại khó hiểu đối với đòi hỏi của Giáo Hội về hôn nhân. Ngài nói : « Não trạng hiện đại đối lập nhiều với lối hiểu của người Kitô hữu về hôn nhân, nhất là đối với tính bất khả phân ly hay việc mở ra cho sự sống ». Đức Cha cũng ghi nhận sự hoài nghi của các bạn trẻ đối với quyết định sống chung trọn đời. Tuy nhiên, ngài nói, hôn nhân không thể được phán đoán chỉ theo « những tiêu chí trần tục và thực dụng ». « Ai suy nghĩ theo ‘tinh thần thế gian’ (1Cr 2,12) thì không thể hiểu đặc tính bí tích của hôn nhân. « Mối ưu tư dành cho người ly dị tái hôn chắc chắn không thể bị giảm thiểu thành vấn đề lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. (…) Vẫn còn có những cách thức khác để bước vào hiệp thông với Thiên Chúa ».

« Tính bất khả phân ly tuyệt đối chỉ có giá trị đối với các hôn nhân nằm trong khuôn khổ của niềm tin vào Chúa Kitô »

Cánh cửa duy nhất được mở ra, đó chính là  cánh cửa mà Đức Ratzinger đã mở vào thời ngài, đặc biệt vào tháng 4/1999, trong phần dẫn vào tổng hợp về mục vụ hôn nhân. Lúc đó, ngài tuyên bố rằng « tính bất khả phân ly tuyệt đối chỉ có giá trị đối với các cuộc hôn nhân nằm trong khuôn khổ niềm tin vào Chúa Kitô ». Từ đó sự cởi mở này, được Đức Cha Tổng Trưởng lấy lại : « Làm sáng tỏ một vài điều kiện phải được tuân giữ để một hôn nhân bất khả phân ly tồn tại theo ý nghĩa được Chúa Giêsu gán cho nó ». Vào năm 1999, ĐHY Ratzinger đã viết : « Ta sẽ phải soi sáng vấn đề : Có phải thực sự mọi hôn nhân giữa hai người chịu phép rửa là « ipso facto » (tức khắc) một hôn nhân bí tích hay không ? » Nói cách khác, chính dưới khía cạnh đức tin mà cầ phải phán đoán tính hữu hiệu của một hôn nhân.

Tý Linh ( Xuân Bích VN)

Theo La Croix

Đức Thánh Cha trao tặng giải thưởng Ratzinger 2013 về thần học

Đức Thánh Cha trao tặng giải thưởng Ratzinger 2013 về thần học

VATICAN. Trong buổi trao tặng giải thưởng Ratzinger về thần học sáng 26-10-2013, ĐTC Phanxicô cám ơn Đức nguyên Giáo Hoàng về món quà dành cho Giáo Hội là bộ sách ”Đức Giêsu thành Nazareth”.

Giải thưởng Ratzinger về thần học năm nay (2013) đưc ĐTC trao cho một mục sư Anh giáo và 1 giáo dân giáo sư thần học ngưi Đức giúp ấn hành toàn bộ các tác phẩm của Joseph Ratzinger – ĐGH Bin Đức 16.

Mục Sư Anh giáo Richard Burridge, giáo sư tân ước tại Đại học King ở Luân đôn và là ngưi không Công Giáo đu tiên được nhận giải này. Tiếp đến là ông Christian Schaller, Phó Giám đốc Học viện Biển Đức 16 tại thành phố Regensburg bên Đc, là cơ quan ấn hành các ấn bản phê bình các tác phẩm của ĐGH Bin Đức 16.

Giải thưởng Ratzinger có kèm theo một ngân khoản 50 ngàn Euro rút từ số tiền do tác quyền các sách của ĐGH Bin Đức mang lại.

Lên tiếng trong buổi trao tặng giải thưng, ĐTC tái bày tỏ lòng quý mến nồng nhiệt của ngài đối với vị tiền nhiệm và kể lại rằng: ”Tôi còn nhớ khi cuốn đầu tiên trong bộ sách 'Đc Giêsu thành Nazareth' được xuất bản, một số ngưi đã nói với tôi: thế nghĩa là gì? Một Giáo Hoàng không viết sách thầnhọc, nhưng viết thông điệp!.. Chắc chắn ĐGH Bin Đc đã đặt vấn đ đó, nhưng trong trường hợp ấy cũng như luôn luôn, Ngài theo tiếng nói của Chúa trong lương tâm được soi sáng.”

ĐTC nói thêm rằng:

”Với các sách ấy, ĐGH Bin Đức không thực thi huấn quyền theo nghĩa riêng, và không thực hiện một nghiên cứu khoa học. Nhưng Ngài trao tặng cho Giáo Hội và tất cả mọi ngưi điều mà quí giá nhất đối với Ngài, đó là kiến thức của Ngài về Chúa Giêsu, thành quả của bao nhiêu năm nghiên cứu, cầu nguyện, đối chiếu thần học, và Ngài trình bày kiến thức ấy dưới hình thức dễ hiểu nhất”.

ĐTC nhìn nhận rằng rất nhiều ngưi đã nuôi dưng đức tin nhờ các sách của ĐGH Bin Đức về Đc Giêsu thành Nazareth, đã đào sâu hoặc lần đầu tiên đến cùng Chúa Kitô như mt ngưi trưởng thành, liên kết những đòi hỏi của lý trí và việc tìm kiếm nhan thánh CHúa. Đồng thời, ĐGH Bin Đc 16 đã kích thích một vận hội mới nghiên cứu học hỏi về các Tin Mừng giữa lịch sử và Kitô học”.

Sau cùng ĐTC chúc mng hai người trúng giải Ratzinger năm nay, Mc Sư giáo sư Richard Burridge và giáo sư Christian Schaller (SD 26-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh về gia đình

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hội Đồng Tòa Thánh về gia đình

VATICAN. Sáng ngày 25-10-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến 150 tham dự viên khóa họp toàn thể thứ 21 của Hội đồng Tòa Thánh về gia đình. Ngài đề cao ơn gọi, chức năng của gia đình, đặc biệt kêu gọi quan tâm đến trẻ em và người già.

ĐTC nhấn mạnh đến 2 điểm: trước tiên, gia đình là một cộng đoàn sự sống có cuộc sống tự lập. Gia đình gồm những người yêu thương, đối thoại, hy sinh cho nhau và bênh vực sự sống, nhất là những sự sống mong manh và yếu đối nhất. Gia đình chính là động cơ của thế giới và lịch sử… Trong gia đình mỗi người ý thức về phẩm giá của mình, và nếu được giáo dục theo tinh thần Kitô, họ sẽ nhìn nhận phẩm giá của mỗi người, nhất là những người yếu đau và bị gạt ra ngoài lề.

Thứ hai: ”gia đình được xây dựng trên hôn nhân.. Có thể nói hôn nhân là bí tích đầu tiên của con người, trong đó con người khám phá bản thân, tự hiểu biết về mình trong tương quan với tha nhân và trong tương quan với tình thương mà họ có khả năng trao ban và nhận lãnh… Trong hôn nhân người ta hiến thân hoàn toàn, không tính toán hay dè dặt, chia sẻ tất cả, trao ban và từ bỏ, tín thác nơi Chúa Quan Phòng.”

Sau cùng, ĐTC nhấn mạnh cách riêng đến hai giai đoạn của đời sống gia đình là tuổi thơ và tuổi già. Ngài cảnh giác rằng: ”Một xã hội bỏ rơi trẻ em và gạt bỏ người già thì cắt đứt căn cội của mình và làm cho tương lai của mình đen tối. Mỗi lần một trẻ em bị bỏ rơi và một người già bị gạt bỏ, thì không những người ta thi hành một hành vi bất công, nhưng còn xác nhận sự thất bại của xã hội ấy. Chăm chóc trẻ em và người già chính là một chọn lựa văn minh”.

Hội đồng Tòa Thánh về gia đình đã nhóm họp từ ngày 23 đến 25-10, trong đó ngoài một số HY và GM còn có điều đôi vợ chồng thành viên. Khóa họp này được tiếp nối với cuộc hành hương của các gia đình thế giới trong Năm Đức Tin ở Roma: các gia đình sẽ gặp ĐTC chiều thứ bẩy 26-10-2013 và tham dự thánh lễ với ngài sáng chúa nhật 27-10-2013 (SD 25-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi Do thái cùng bênh vực các tôn giáo thiểu số

Đức Thánh Cha kêu gọi Do thái cùng bênh vực các tôn giáo thiểu số

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng 24-10-2013 dành cho phái đoàn của Trung Tâm Do thái Simon Wiesenthal, ĐTC Phanxicô cổ võ nỗ lực chung bài trừ mọi cuộc bách hại các nhóm thiểu số tôn giáo cũng như chủng tộc.

Trung tâm Simon Wiesenthal là một tổ chức Do thái quốc tế bênh vực các quyền con người. Trụ sở chính của cơ quan này đặt tại thành phố Los Angeles Hoa Kỳ, và chi nhánh tại 7 thành phố khác, trong đó có Paris, Buenos Aires và Jerusalem.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC tái khẳng định lập trường của Công Giáo bài trừ mọi hình thức kỳ thị chủng tộc, bất bao dung và các chủ trương bài Do thái. Ngài nói thêm rằng: ”Vấn đề bất bao dung phải được đương đầu một cách toàn diện: nơi nào có một thiểu số bị bách hại và gạt ra ngoài lề vì những xác tín tôn giáo hoặc chủng tộc, thì thiện ích của toàn thể xã hội bị lâm nguy và tất cả chúng ta phải cảm thấy có liên hệ. Tôi đặc biệt đau buồn khi nghĩ đến những đau khổ, tình trạng bị gạt ra ngoài lề xã hội và những cuộc bách hại mà nhiều Kitô hữu đang phải chịu ở nhiều nước trên thế giới. Chúng ta hãy hiệp sức với nhau để cổ võ một nền văn hóa gặp gỡ, tôn trọng, cảm thông và tha thứ cho nhau”.

Trong ý hướng đó, ĐTC đề cao tầm quan trọng của việc giáo dục và nói: ”Giáo dục ở đây không phải chỉ là thông truyền kiến thức, nhưng là chuyển giao một chứng tá đã sống thực, điều này giả thiết phải thiết lập một sự hiệp thông trong cuộc sống, mội ”giao ước” với các thế hệ trẻ, luôn luôn cởi mở đối với chân lý.”

Về điểm này, ĐTC nhấn mạnh rằng: ”Chúng ta phải thông truyền không những kiến thức về lịch sử cuộc đối thoại giữa Do thái và Công Giáo, về những khó khăn đã trải qua và về những tiến bộ đã đạt được trong những thập niên gần đây, nhưng nhất là chúng ta phải có khả năng thông truyền sự say mê gặp gỡ và hiểu biết về tha nhân, cổ võ sự can dự tích cực và trách nhiệm của giới trẻ chúng ta. Trong lãnh vực này, sự dấn thân chung để phục vụ xã hội và những thành phần yếu thế nhất có một tầm quan trọng rất lớn” (SD 24-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

MÓN QUÀ THIÊN CHÚA QUÝ NHẤT

MÓN QUÀ THIÊN CHÚA QUÝ NHẤT

Chủ đề: “Sự ăn năn hối lỗi không chỉ đau buồn muốn chừa bỏ hành động xấu xa, nhưng còn ao ước thay đổi được những sai trái đã phạm.”

Có một câu chuyện cổ được phổ biến trong dân gian từ thời trung cổ. Câu chuyện về một phụ nữ từ trần khi còn trẻ và ra trước tòa phán xét. Cuộc đời bà khi ở trần thế thật bê bối.

Khi đến cổng thiên đường, bà được bảo là chỉ được vào thiên đường với một điều kiện. Đó là bà phải trở lại trần thế và đem về một món quà mà Thiên Chúa coi là giá trị nhất.

Người phụ nữ trẻ trở về trần thế và suy nghĩ về món quà mà Thiên Chúa quý giá nhất.

Ngày kia bà thấy một thanh niên vừa chết vì đức tin. Bà nghĩ, “A phải rồi, chắc đây là món quà Thiên Chúa quý nhất: đó là máu của một người chết vì đức tin.”

Bởi thế bà hứng lấy một giọt máu của người thanh niên và đem về thiên đường. Nhưng khi trình diện máu ấy, bà được bảo là còn có món quà mà Thiên Chúa quý hơn máu người tử đạo.

Do đó bà trở về trần thế và suy nghĩ về món quà mà Thiên Chúa còn quý hơn máu của người chết vì đức tin.

Sau đó bà gặp một nhà truyền giáo già nua rao giảng lời Chúa cho người nghèo. “A, đúng rồi!” bà nghĩ “đây là món quà Thiên Chúa quý nhất: đó là mồ hôi từ trán của người dành trọn cuộc đời để rao giảng tin mừng cho người nghèo.”

Nhưng khi bà trình diện món quà ấy, bà lại được bảo là còn có món quà mà Thiên Chúa quý hơn giọt mồ hôi của nhà truyền giáo.

Do đó bà lại trở về trần gian và suy nghĩ về món quà mà Thiên Chúa quý hơn giọt mồ hôi của người dành trọn cuộc đời để dạy bảo dân chúng về Chúa Giêsu.

Và cứ như thế bà trở lại thiên đường với các món quà quý giá. Nhưng lần nào bà cũng được bảo là còn có món quà mà Thiên Chúa quý nhất.

Sau cùng, một ngày kia, khi sắp sửa bỏ cuộc vì chán nản thì bà gặp một đứa trẻ đang nô đùa gần bồn phun nước. Khuôn mặt của nó thật xinh xắn và ngây thơ.

Ngay lúc đó, một người cưỡi ngựa đi đến. Ông ta xuống ngựa để đến uống nước ở bồn. Khi nhìn thấy đứa trẻ, ông nhớ lại thời thơ ấu thật hồn nhiên ngây thơ của ông.

Sau đó ông nhìn vào hồ nước và thấy khuôn mặt của ông được phản chiếu trong đó. Nó thật xấu xa và cằn cỗi. Khi ông sững sờ nhìn vào khuôn mặt mình trong nước, bỗng dưng ông nhận thấy ông đã sai lầm phí phạm một cuộc đời mà Chúa đã ban cho ông.

Lúc đó giọt nước mắt thống hối dâng trào trên mắt và lăn dài trên gò má nhăn nheo rồi rơi xuống hồ nước.

Người phụ nữ vội hứng lấy giọt nước mắt ấy và đưa về thiên đường. Khi bà trình diện món qùa ấy, các thiên thần và các thánh đều vui mừng. Thật vậy, đây là món quà mà Thiên Chúa quý hơn tất cả món quà khác: đó là giọt nước mắt của người tội lỗi thống hối.

Câu chuyện này thật thích hợp với bài Phúc Âm hôm nay. Vì lời cầu nguyện mà Thiên Chúa coi có giá trị nhất là lời cầu nguyện của người tội lỗi thống hối.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu còn nói:

“thiên đường sẽ vui hơn khi một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.” (Luca 15:7)

Hối lối được định nghĩa là đau buồn đến độ chấm dứt những hành động sái quấy.

Nhưng hối lối còn hơn thế nữa. Nó không chỉ đau buồn đủ để chấm dứt những hành động sái quấy nhưng còn đau buồn đến độ ước muốn sửa sai những lầm lỗi mà chúng ta đã phạm trong quá khứ.

Một câu chuyện sau của ông James Colaianni giúp chúng ta thấy rõ điều này.

Một đứa bé đến thăm bà nội. Bà hỏi nó thích ăn gì nhất. Nó trả lời, “bánh bột chiên.” Sau đó nó cho biết thêm là khi ở nhà nó chỉ được ăn có ba cái mà thôi. Rồi nó hỏi, “Vậy con ăn thiệt nhiều được không nội?”

Bà nội gật đầu, “được.”

Sau khi đứa bé ăn gần mười cái bánh bột chiên, bà nhận ra sự khó chịu trên khuôn mặt của nó. Bà hỏi, “Sao vậy? Con không muốn ăn thêm nữa sao!”

“Không,” đứa bé trả lời, “Con không muốn ăn nữa. Cả mấy cái ăn rồi con cũng muốn ói ra!”

Đó là một tâm trạng tốt–khó chịu nhưng tốt. Lý do nó tốt là vì đó là tâm trạng hối lỗi.

Hối lỗi không chỉ đau buồn đến độ muốn từ bỏ, nhưng còn là đau buồn đến độ ước muốn đừng thi hành những gì mà chúng ta đã làm.

Đây là loại thống hối mà câu chuyện cổ muốn đề cập đến. Đây là loại thống hối mà Chúa Giêsu đề cập đến trong Phúc Âm hôm nay.

Nhiều năm trước đây, có một vở kịch trình diễn ở Broadway về một thanh niên bỏ học, đi bụi đời và rơi vào đường cần sa ma tuý.

Trong một cảnh không thể quên được của vở kịch, người thanh niên này nhìn lên trời và đau đớn vì tuyệt vọng, anh thốt lên:

“Tôi ao ước chừng nào, phải chi cuộc đời tôi là một cuốn sách để tôi có thể xé bỏ những trang giấy đầy những sai lầm vấp phạm.”

Cám ơn Chúa Giêsu, cuộc đời thì giống như một cuốn sách. Và cám ơn Chúa Giêsu, chúng ta có thể xé bỏ những trang giấy mà chúng ta đã sai lầm.

Trong tình yêu của Người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta bí tích Hòa Giải. Qua bí tích này, chúng ta có thể xé bỏ những phần của cuộc đời mà chúng ta đã sai lầm lỗi phạm.

Đây là ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay. Đây là tin mừng mà chúng ta cử hành trong Thánh Lễ hôm nay.

Đó là tin mừng vì món quà mà Thiên Chúa quý giá nhất là giọt nước mắt của người tội lỗi thống hối.

Cha Mark Link, SJ

 

Người thu thuế ra về được khỏi tội

Người thu thuế ra về được khỏi tội

Tác giả tập sách nổi tiếng có tựa đề: “Nơi Thiên Chúa khóc”. Do kinh nghiệm sống đức tin của một cộng đồng Kitô hữu bị bách hại tại Đông Âu trước đây, kể lại kinh nghiệm cảm động nhất của mình trong việc cầu nguyện như sau:

Tôi cùng với một số người Đức bị đưa đi đày xa quê hương từ giữa thế chiến thứ hai. Tất cả đều là người Công giáo và cùng lao động tại một nông trường. Nơi ấy không có nhà thờ cũng chẳng có linh mục, nhưng chúng tôi được tụ họp mỗi chiều Chúa Nhật tại một nghĩa địa cũ để cầu nguyện chung với nhau. Khi biết cách đó 1,000 km có linh mục, anh chị em Kitô bèn quyết định hàng tháng góp chung nhau ít tiền để mua vé xe cho một bà già đi về nơi ấy, để đem Mình Thánh đến cho cộng đoàn. Thế rồi, từ đó mỗi buổi chiều Chúa Nhật, cộng đoàn gặp nhau trong nghĩa địa với tâm hồn hân hoan vui sướng, vì biết rằng có Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện với mình. Chúng tôi sốt sắng cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Những ai yếu liệt đều được trao cho của ăn đàng quí giá trước khi qua đời. Nhờ vậy, trong suốt mấy chục năm trời, cộng đoàn Kitô hữu chúng tôi vẫn sống niềm tin kiên vững, đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương bác ái huynh đệ.

Tác giả của tập sách nói trên được sang sống bên thế giới tự do và cho biết chính mình là người điều khiển cộng đoàn Kitô hữu vào mỗi buổi chiều Chúa Nhật tại nghĩa địa như đã kể trong tập sách. Sống trong xã hội tự do, nhưng tâm hồn tác giả lúc nào cũng hướng về cộng đoàn huynh đệ vây quanh Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện và nâng đỡ nhau.

Anh chị em thân mến!

Lời cầu nguyện thật lúc nào cũng là lời cầu nguyện của tình yêu thương và tha thứ, lời cầu nguyện liên kết mọi người với nhau, lời cầu nguyện của sự xây dựng cộng đoàn. Thật là khác với những lời cầu nguyện của những người Pharisiêu như được mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta liền nhớ đến những lời nhắn nhủ sau đây của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận trong tập sách “Đường Hy Vọng”:

Dù con có tử đạo, nộp mình chịu thiêu, dù con có làm tông đồ, giảng dạy các thứ tiếng của nhân loại và thiên thần, dù con có hoạt động từ thiện, đem hết cả tài sản phân phát cho người nghèo khó mà con không có lòng mến thì cũng như không. Việc con làm không quan hệ, cách con làm mới quan hệ.

Người biệt phái cầu nguyện đứng thẳng, chi tiết này nói lên tinh thần tự kiêu, ỉ lại trước nhan Thiên Chúa, và nội dung lời cầu nguyện của ông chỉ là những lời khoe khoang với Chúa và gây chia rẽ: “Con không phải như người thu thuế, tôi lỗi kia, con không giống như những kẻ khác: tham lam, bất công, ngoại tình…” Đó là những lời kết tội anh em, lỗi đức ái, không có chút gì tích cực xây dựng cộng đoàn và tôn vinh lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ngược lại, người thu thuế đã ý thức được thân phận tội lỗi của mình, nên khiêm tốn cúi mình xin Chúa thương xót, hướng dẫn mình trở về với tình thương của Chúa, trở về với anh em mà mình đã xúc phạm.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” đã nhắn nhủ chúng ta về việc cầu nguyện như sau: Khi hai hay ba người hiệp nhau cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ. Lời Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu nguyện. Họ sống xa linh mục từng ngàn cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện cách kiên trì giữa những gian nan thử thách và cô đơn. Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con hãy noi gương người đàn bà bị băng huyết động đến gấu áo Chúa được nhận lời ngay. Con tội lỗi không dám ra trước mắt Chúa, nhưng lời Hội Thánh khiến con vững tâm: “Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.

Vậy, tất cả sự thương khó của Chúa Giêsu và công nghiệp của Đức Mẹ và các thánh không đủ để bao bọc lời cầu nguyện nhỏ bé của con sao? Trong cuộc đời Chúa Giêsu, hình như Chúa yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng và Ngài quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại: “Phêrô, Madalena, Simon phong cùi, Giakêu… Chúa đã tự đến nhà họ và đành chịu tiếng làm bạn với quân thu thuế và người tội lỗi”.

Quyền năng nơi Thiên Chúa phục vụ qua lòng nhân từ của Ngài. Quyền năng của một người Cha nhân từ đủ sức thanh tẩy và đổi mới cuộc đời tội lỗi, nếu chúng ta khiêm tốn để cho ơn Chúa được tự do tác động.

Lạy Chúa, như người thu thuế kia, con thành tâm kêu xin Chúa, xin Chúa thương xót con, hãy tha thứ mọi tội lỗi con và dẫn đưa con về với tình yêu: Yêu Chúa và yêu anh em như Chúa đã yêu. Amen.

Radio Veritas

Xin thương xót con

Xin thương xót con

Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ. Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hóa. Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện khiêm nhường.

Khiêm nhường không tự mãn

Người biệt phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một sức khỏe, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.

Khiêm nhường không khinh người

Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người. Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu và cả đối với Giuđa nữa.

Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi

Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và đúng đắn.

Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ

Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, vị Giáo Hoàng tiên khởi.

Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức riêng, nhưng chỉ được “công chính hóa” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”, ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.

“Lạy Chúa, xin thương xót con”

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ này có đúng không?

2) Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng không?

3) Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?

4) Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được điều này nơi bản thân không?


ĐTGM Ngô Quang Kệt

CÚI MÌNH XUỐNG

CÚI MÌNH XUỐNG

Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.

Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê.

Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa.

Người Biệt phái ung dung tự tại, đứng thẳng cầu nguyện : Lạy Thiên Chúa, con cảm tạ Chúa vì con không giống các người khác, không tham lam, không bất công, không ngoại tình hay như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, dâng một phần mười thu nhập của con. Người Biệt phái đang báo cáo thành tích. Ông nói điều ông đã làm và những gì ông làm thì không chê vào đâu được: không gian tham, không chiếm đoạt, không rối vợ rối chồng, không đam mê tội lỗi, thậm chí về phần đạo đức bác ái, ông còn làm quá điều luật dạy.Thường người ta chỉ ăn chay một ngày trong năm vào dịp lễ Sám hối, đàng này ông ăn chay hai ngày trong tuần. Luật buộc các nông dân nộp một phần mười sản phẩm cho việc phụng tự, ông lại nộp thuế thập phân tất cả thu nhập của ông. Đây là lời cầu nguyện mà nhiều người Do thái thời ấy mơ ước. Không thấy ông xin gì cho bản thân. Lời cầu nguyện chỉ là lời tạ ơn. Điều đáng tiếc là lời cầu nguyện của ông đầy nét tự hào, tự mãn và khinh bỉ tha nhân : Vì tôi không như bao người khác, tôi không như tên thu thuế kia. Rõ ràng người Biệt phái tốt lành quảng đại nhưng lại tự phụ khoe khoang, khinh người. Đây là biểu tượng cho hạng người hay chúc tụng, tôn thờ bản thân mình. Thật đúng, kiêu căng đứng trước trong danh sách bảy mối tội đầu.

Người thu thuế đến thú tội, anh ý thức mình là tội nhân nên run rẩy xấu hổ, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên. Anh đã nghe thấy lời cầu nguyện của người Pharisiêu (hay như tên thu thuế kia), nên anh thấy khỏi cần cáo tội mình. Anh chỉ còn đặt mình trước nhan Thiên Chúa một cách trung thực và khẩn khoản nài xin : Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. Điều anh khao khát là được Thiên Chúa tha thứ và được làm hoà với anh em. Anh chỉ đứng xa xa vì thấy mình bất xứng. Lời cầu hết lòng khiêm tốn đó có sức an ủi anh ngọt ngào biết bao. Anh cảm thấy đầy niềm tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, vì anh biết rằng : dù tội lỗi như Aaron đúc bò vàng cho toàn dân thờ, dù thủ đoạn như vua Đavít đã cướp vợ giết chồng người khác nhưng họ đã hết lòng ăn năn sám hối và Thiên Chúa đã sẵn lòng tha thứ; dẫu rằng cả toàn dân bỏ Chúa và bị bắt lưu đày Babylon, lại bị thủ tướng Aman ra tay diệt trừ nhưng trong cơn cùng khốn như thế, hoàng hậu Ette cùng toàn dân đã biết ăn năn sám hối tội lỗi, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ; hay tội lỗi như dân ngoại Ninivê, Thiên Chúa còn thương, bắt buộc Ngôn sứ Giona đến rao giảng cho họ biết cải tà qui chính, Thiên Chúa liền tha thứ cho họ khi họ sám hối chân thành. Thấy tất cả những sự kiện lịch sử thống hối đó, người thu thuế càng thêm tin tưởng vào lòng thương xót khoan dung cùa Thiên Chúa, anh càng đấm ngực hết lòng ăn năn.

Đức Giêsu kết luận: Người thu thuế trở nên công chính còn người biệt phái thì không được… Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

Người thu thuế ra về và được tha hết mọi tội, tâm hồn thành trắng trong.

Người biệt phái ra về tội lỗi vẫn cứ còn đó.Cái tôi nặng quá nên còn phải gánh thêm sức nặng của tội lỗi nữa, thật đáng thương cho đời một người quá tự kiêu tự mãn.

Tội lỗi hay hành động xấu không làm người ta mất sự công chính cho bằng tính tự mãn thói kiêu căng. Người thu thuế đã thật sự phạm nhiều tội lỗi nên đã làm mất đi sự công chính, nhưng hành động khiêm tốn biết nhìn nhận mình tội lỗi và hết lòng thống hối nên được công chính trước Thiên Chúa.

Khiêm nhường có khả năng biến tội lỗi thành thánh thiện, bất chính thành công chính.Trái lại, kiêu ngạo tự mãn có thể biết điều tốt thành điều xấu.

Khiêm nhường, tự hạ, quên mình luôn được coi là nền tảng của sự thánh thiện, là gốc rễ của các nhân đức. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I đã nói : Trên thiên đàng không thiếu bọn thu thuế và gái điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hoả ngục có cả Hồng Y, Giám mục nhưng không có người khiêm nhường.

Khiêm nhường bao nhiêu cũng không đủ, chỉ một chút kiêu ngạo cũng quá nhiều. Đừng vì mình đạo đức mà khép kín trong tự mãn, cũng đừng vì mình tội lỗi mà khép kín trong tuyệt vọng. Ơn Chúa chỉ đến với người biết mở tâm hồn ra để đón nhận. Tội lỗi hay công đức đều có thể làm ta khép lại hay mở ra. Điều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.

Sự triển nở trong đời sống thiêng liêng nằm chỗ là ta trở nên nhỏ lại, là nhường bước để cho Chúa xâm chiếm và chi phối trọn vẹn đời ta. Càng lớn lên trong Chúa, ta càng cảm thấy một cách mạnh mẽ rằng mình cần đến Chúa ngày một hơn.

Một Đấng Thánh vĩ đại như Phaolô mà đã tự nhận mình là kẻ thấp hèn nhất (1Cor 15,9); một ngôi sao chói lọi trong công việc bác ái từ thiện như Thánh Vincent Phaolô mà cũng đã tự gọi mình là người thấp hèn nhất trần gian thì huống là chúng ta! Người tự cao tự đại không thể cầu nguyện được. Cửa thiên đàng hẹp và thấp, chỉ quì xuống mới vào được mà thôi. Thiên Chúa luôn chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng luôn ban ơn cho kẻ khiêm nhường (x. Gc 4,6; 1Pr 5,5).

Tại Đền Thờ Thánh Phêrô có một bức tượng Chúa Chịu Nạn do Thorvaldsen(1770-1844)nhà điêu khắc Đan Mạch nổi tiếng thực hiện. Ngày kia, một du khách đến viếng bức tượng, ông ta nhìn mãi rồi lắc đầu nói : tôi nghe đồn bức tượng này nổi tiếng là đẹp lắm nhưng tôi chẳng thấy có gì đẹp cả. Một người quỳ sau lưng ông nói : Ông phải quì gối xuống mới thấy đẹp. Ông du khách liền quì gối. Bây giờ ông mới khám phá ra vẻ đẹp lôi cuốn của bức tượng Chúa Chịu Nạn. Muốn gặp gỡ Chúa, muốn đón nhận lòng thương xót của Người, con người cần quì gối với tâm tình khiêm tốn.

Đức Cha Fulton J. Sheen viết trong cuốn “Người Galilê vĩnh cửu”: Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng, nhưng Ngài giáng sinh trong hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Một số người quá tự mãn không hạ mình sẽ không thấy được niềm vui bên trong hang đá. Các mục đồng và các đạo sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như thế, họ thấy mình không ở trong một cái hang, nhưng ở trong một thế giới khác. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng, và cánh tay ẵm Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất, nơi chúng ta đang sống. Và khi các mục đồng và các đạo sĩ quỳ gối, tôi tự hỏi : không biết những người thông thái ghen với những người đơn sơ, hay những người đơn sơ ghen với những người thông thái ? Tôi hướng tới xác tín rằng : các đạo sĩ ghen với các mục đồng, bởi vì con đường của các mục đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.

Tin Mừng hôm nay đề cao lời cầu nguyện khiêm nhường của người thu thuế, không nhìn sang người khác, không so sánh mình với kẻ khác, nhưng nhìn vào chính mình và so sánh mình với mẫu gương của Chúa, qua đó anh đã khám phá ra những khuyết điểm bản thân rồi khiêm tốn chấp nhận. “Lạy Chúa ! Xin thương xót con”. Lời cầu nguyện của người thu thuế thật đơn giản. Ý thức được thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, anh hoàn toàn cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa. Đó là lời cầu nguyện của người ở trong sự thật và được sự thật giải thoát khỏi tội lỗi. Lời cầu nguyện khiêm nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Sách huấn ca dạy: “ Lời cầu nguyện của người khiêm tốn xuyên thấu các tầng mây” (Hc 35,17). Sách giáo lý cũng dạy: “Khiêm tốn là thái độ căn bản phải có để đón nhận ơn cầu nguyện” (GLCG số 1559).

Lạy Chúa Giêsu, chúng con có là gì mà chẳng do Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm để luôn được Chúa xót thương tha thứ.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống một cuộc đời rất khiêm nhường, đầy tinh thần tự hủy và vị tha tới tận cùng, xin cho chúng con biết sống quên mình, tự hạ, yêu thương và hòa đồng với tất cả mọi người chung quanh con. Amen.

LM Giuse Nguyễn Hữu An

TỰ TÔN

TỰ TÔN

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXX/TN-C) trình thuật dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế”. Hai người cùng lên Đền Thờ cầu nguyện. Lên Đền Thờ khẩn cầu, tạ ơn, xin ơn là một việc tốt, nhưng ở đây hai người có hai thái độ trái ngược nhau. Người Pha-ri-sêu không thành thật cầu nguyện mà là tự khoe khoang, kể công, kể phúc. Ông cầu nguyện nhưng thực ra ông đang liệt kê một bảng thành tích: Ông đã giữ luật, đã không dám làm những điều lề luật cấm. Những điều được phép làm, ông còn làm nhiều hơn. Còn người thu thuế, tuy rằng ông tội lỗi thật vì đã từng phạm nhiều tội ác, nhưng ông đã hối hận và thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình. Ông không dám nói nhiều, mà chỉ một câu ngắn gọn bộc lộ hết tấm lòng chân thành của mình: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13).

Cũng đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng người Pha-ri-sêu đã sống và làm những việc tốt lành và ông đến Đền Thờ là để cảm ơn Thiên Chúa chớ không phải để khoe khoang thành tích (lý do là ông đã chỉ “nói thầm” với Thiên Chúa, chớ không nói to cho mọi người cùng nghe). Vấn đề đặt ra ở đây không phải là nói nhỏ hay nói to, mà là nói những gì với mục đích ra sao. Hơn ai hết, người Pha-ri-sêu đã biết Thiên Chúa thấu hiểu tất cả những gì thầm kín nhất của con người, không cần nói ra thì Người đã hiểu tận căn nội dung và mục đích người đến cầu nguyện. Những việc làm tốt đẹp ấy của người Pha-ri-sêu nếu thật sự phát xuất từ tình yêu, thì ông ta đã chẳng cần phải mở dầu bằng câu “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 18, 11). Và sau đó là một loạt những thành tích để chứng mình ông ta là người công chính chớ không “tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia”. Đúng là thái độ của một kẻ kiêu ngạo, tự tôn, háo thắng, coi khinh người khác.

Người Pha-ri-sêu tưởng rằng ông ta có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Thực ra, sự công chính không đến từ việc làm hay việc tuân giữ lề luật, mà đến từ việc tin vào ân sủng của Thiên Chúa và sống phù hợp với niềm tin ấy. Do đó, càng cậy vào việc giữ luật và những việc mình làm để tự hào về sự công chính của mình thì càng trở nên bất chính trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy“ (Rm 3, 20). Những “dân nội” It-ra-en chỉ chuyên đi “tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm.” (Rm 9, 31-32). Trong khi đó thì đã có biết bao nhiêu tấm gương “các dân ngoại không tìm cách để được nên công chính, thì được nên công chính, mà được nên công chính là nhờ đức tin” (Rm 9, 30), mà người thu thuế trong bài Tin Mừng hôm nay là một ví dụ điển hình.

Nói đến đức tin thì không thể quên được đức mến. Thật vậy, “chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5, 6). Nếu “mến Chúa” mà không “yêu người” thì chưa thể gọi được là đã đặt hết lòng tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô đã nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1Cr 13, 3).  Thật vậy, với những việc làm tốt đẹp, nhưng được làm với sự vô cảm, làm theo thói quen, theo truyền thống, hoặc làm để khoe mẽ “ra vẻ ta đây”, mà không làm vì lòng “mến Chúa, yêu người”, thì cũng kể như không. Lời khuyên phù hợp nhất trong trường hợp này là đừng bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình, vì “Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính” (Rm 4, 5).

Ấy cũng chỉ vì “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), nên Đức Ki-tô mới kể dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế”. Người thẳng thắn kết luận: “Tôi nói cho các ông biết: người này (người thu thuế), khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia (người Pha-ri-sêu) thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 18, 14). Như vậy là đã rõ, chỉ những người khiêm nhu tự hạ mới có hy vọng được “no đầy ơn phúc”; còn kẻ tự tôn tất sẽ bị hạ bệ, dẹp tan (“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1, 51-52).

Lời khuyên chí tình vẫn mãi mãi là “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35). Hãy thẳng thắn nhìn lại chính con người của mình, không kiêu căng tự phụ, nhưng cũng không tự ti thái quá về tội lỗi của mình. Với con người trần thế đã “bị tội lỗi thồng trị” kể từ khi Nguyên tổ sa ngã, thì không ai tránh khỏi tội lỗi, và trước mặt Thiên Chúa, “không ai là người công chính, dẫu một người cũng không” (Rm 3,10). Tuy nhiên, không vì thế mà Thiên Chúa ghét bỏ, trái lại Người càng thương nhiều hơn và tìm mọi cách cứu vớt con người khỏi vòng tội lỗi. Điều hiển nhiên không cần bàn cãi vì thực tế đã chứng minh: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Duy chỉ có điều con người có biết nhìn lại mình một cách chân thực để thấy được tội lỗi đã mắc phạm, đồng thời có thực lòng ăn năn hối cải về những sai lầm thiếu sót của mình hay không, mà thôi.

Người tín hữu hôm nay hãy “xoay cái nhìn ra khỏi ‘cái tôi’ của mình”, ngõ hầu được “tái sinh bởi nước và Thánh Linh”, và “tái khẳng định quyết tâm vững vàng đáp ứng hoạt động của Ơn Thánh để làm môn đệ của Chúa” (Sđ Mùa Chay 2011, số 2), kiên quyết không bao giờ kiêu căng hợm hĩnh, chỉ biết “tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” như anh chàng Pha-ri-sêu trong dụ ngôn. Đồng thời, hãy noi gương người thu thuế trong khi cầu nguyện thì thân thưa với Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, và trong cuộc sống đời thường hãy để “đức tin hành động nhờ đức ái”. Ước  được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD.

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: Mẹ Maria là mẫu gương cho Giáo Hội

Đức Thánh Cha tiếp kiến chung: Mẹ Maria là mẫu gương cho Giáo Hội

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến chung hơn 80 ngàn tín hữu hành hương sáng ngày 23-10-2013, ĐTC Phanxicô diễn giải về đề tài: Mẹ Maria mẫu gương của Giáo Hội, và ngài nhắn nhủ các tín hữu noi gương tin tưởng của Mẹ Maria giữa những khó khăn, gương yêu thương nhưng không như Mẹ, đối xử với nhau như anh chị em, và sống kết hiệp với Chúa Giêsu.

Huấn dụ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, chào anh chị em
”Tiếp tục bài giáo lý về Giáo Hội, hôm nay tôi muốn nhìn lên Đức Mẹ Maria như hình ảnh và mẫu gương của Giáo Hội. Tôi lấy lại một kiểu nói của Công Đồng chung Vatican 2. Hiến Chế Lumen gentium, Ánh sáng muốn dân, khẳng định: ”Như thánh Ambrosio đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là hình ảnh của Giáo Hội về đức tin, đức mến và sự kết hiệp hoàn hảo với Chúa Kitô” (n.63)

1. Chúng ta đi từ khía cạnh thứ nhất: Mẹ Maria như mẫu gương đức tin. Theo nghĩa nào Mẹ Maria là mẫu gương đức tin của Giáo Hội? Chúng ta hãy nghĩ xem Đức Trinh Nữ Maria là ai: là một thiếu nữ Do thái, hết lòng mong đợi ơn cứu chuộc dân tộc của mình. Nhưng trong tâm hồn người thiếu nữ Israel ấy có một bí mật mà chính Mẹ chưa biết: theo ý định tình thương của Thiên Chúa, Mẹ được tiền định trở thành Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Trong lúc Truyền Tin, Sứ thần của Thiên Chúa gọi Mẹ là ”Người đầy ơn phúc” và tỏ lộ cho Mẹ dự án ấy. Mẹ Maria thưa ”xin vâng” và từ lúc ấy đức tin của Mẹ Maria nhận được ánh sáng mới: đức tin tập trung vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhận lấy xác thể từ Mẹ và nơi Chúa, mọi lời hứa của toàn thể lịch sử cứu độ được viên mãn. Đức tin của Mẹ Maria là sự viên mãn niềm tin của Israel, nơi Mẹ có tập trung trọn con đường của dân tộc trong đức tin, mong đợi ơn cứu chuộc, và theo nghĩa đó Mẹ là mẫu gương đức tin của Giáo Hội, có trọng tâm là Chúa Kitô, Đấng là hiện tình thương vô biên của Thiên Chúa.

ĐTC đặt câu hỏi:
”Và Mẹ Maria đã sống niềm tin ấy như thế nào? Thưa Mẹ đã sống niềm tin ấy trong sự đơn sơ giữa hàng ngàn công việc bận rộn hằng ngày của mỗi bà mẹ, như chăm lo lương thực, quần áo, chăm sóc nhà cửa… Chính cuộc sống bình thường của Đức Mẹ là môi trường diễn ra quan hệ đặc thù và một cuộc đối thoại sâu xa giữa Mẹ và Thiên Chúa, giữa Mẹ và Chúa Con. Lời ”xin vâng” của Mẹ Maria, vốn đã hoàn hảo ngay từ đầu, tăng trưởng cho đến giờ thập giá. Tại đó tình mẫu tử của Mẹ càng mở rộng, ấp ủ mỗi người chúng ta, đời sống chúng ta, để hướng dẫn chúng ta đến cùng Chúa Con. Mẹ Maria luôn sống chìm đắm trong mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, như người môn đệ đầu tiên và hoàn hảo của Chúa, suy gẫm mọi sự trong tâm hồn dưới ánh sáng của Thánh Linh, để hiểu và thực hành trọn thánh ý Thiên Chúa.

”Chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta có để cho mình được đức tin của Đức Maria, Mẹ chúng ta, soi sáng hay không? Hay là chúng ta nghĩ Mẹ xa xăm và quá khác biệt với chúng ta? Trong những lúc khó khăn, thử thách, đen tối, chúng ta có nhìn lên Mẹ như mẫu gương tín thác nơi Thiên Chúa, Đấng luôn luôn mong muốn và chỉ muốn điều thiện cho chúng ta mà thôi?

2. Bước sang điểm thứ hai: Mẹ Maria là mẫu gương đức mến. Mẹ Maria là mẫu gương sống động về đức mến như thế nào cho Giáo Hội? Chúng ta hãy nghĩ đến thái độ sẵn sàng của Mẹ đối với bà chị họ Elisabeth. Khi viếng thăm bà, Đức Trinh Nữ Maria không những chỉ mang đến một sự trợ giúp vật chất, nhưng còn mang Chúa Giêsu, đang sống trong lòng Mẹ. Mang Chúa Giêsu đến nhà ấy có nghĩa là mang niềm vui, niềm vui trọn vẹn. Bà Elisabeth và ông Zaccaria vui mừng vì có thai, một điều dường như không thể xảy ra được ở tuổi già của họ, nhưng chính thiếu nữ Maria đã mang cho ông bà niềm vui tràn đầy, niềm vui đến từ Chúa Giêsu và từ Chúa Thánh Linh và biểu lộ trong tình bác ái nhưng không, trong sự chia sẻ, tương trợ, cảm thông lẫn nhau.

Đức Mẹ cũng muốn mang đến cho tất cả chúng ta, hồng ân cao cả là Chúa Giêsu, và cùng với Ngài Mẹ mang tình thương, an bình và niềm vui của Mẹ. Giáo Hội cũng vậy: giống như Mẹ Maria. Giáo Hội không phải là một cửa tiệm, một cơ quan từ thiện, không phải là một tổ chức phi chính phủ, Giáo Hội được sai đi mang Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Giáo Hội không mang chính mình, nhưng mang Chúa Giêsu. Và Giáo Hội phải như Mẹ Maria, khi Mẹ đi viếng bà chị họ Elisabeth. Mẹ mang gì? Thưa mang Chúa Giêsu. Đây là điểm trung tâm của Giáo Hội:mang Chúa Giêsu. Giả sử Giáo Hội khôn gmang Chúa Giêsu nữa, thì đó là một Giáo Hội chết!

Còn chúng ta thì sao? Đâu là tình thương mà chúng ta mang đến cho tha nhân? Đó có phải là tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng chia sẻ, tha thứ, tháp tùng, hay là một thứ tình yêu bị hóa loãng? Khi người ta làm loãng rượu, thì nó giống như nước? Phải chăng tình yêu chúng ta giống như thế, hoặc tình yêu lúc mạng lúc yếu theo thiện cảm, tìm kiếm sự đáp trả? Một tình yêu vụ lợi. Nhưng thử hỏi: Chúa Giêsu có muốn tình yêu vụ lợi hay không? Tình yêu phải là một tình yêu nhưng không, như tình yêu của Chúa. Đâu là những quan hệ trong các giáo xứ, các cộng đoàn của chúng ta? Chúng ta có đối xử với nhau như anh chị em hay không? Hay là chúng ta đoán xét, nói xấu nhau, mỗi người chỉ chăm lo ”mảnh vườn riêng” của mình?
3. Và tôi nói vắn tắt về khía cạnh cuối cùng: Mẹ Maria là mẫu gương sự kết hiệp với Chúa Kitô. Đời sống của Đức Trinh Nữ rất thánh là đời sống của một phụ nữ trong dân của Ngài; cầu nguyện, làm việc, đi đến Hội đường.. Nhưng mỗi hành động luôn được thi hành trong sự kết hiệp hoàn hảo với Chúa Giêsu. Sự kết hiệp này đạt tới tột đỉnh trên đồi Canvê: tại đây Mẹ Maria kết hiệp với Con trong cuộc tử đạo nội tậm, và trong sự dâng hiến cuộc sống cho Chúa Cha để cứu độ nhân loại. Đức Mẹ đã đón nhận sự đau khổ của Con làm của mình và cùng với Chúa Con đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha, trong sự vâng phục mang lại hoa trái, mang lại chiến thắng đích thực trên sự ác và sự chết.

Thực tại mà Mẹ Maria dạy chúng rất là đẹp: luôn sống kết hiệp với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể tự hỏi: phải chăng chúng ta chỉ nhớ đến Chúa Giêsu khi có điều gì không ổn và chúng ta cần một cái gì đó, hoặc chúng ta có một tương quan liên lỷ, một tình bạn sâu xa, cả khi phải theo Chúa trên con đường thập giá?

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta ân thánh, sức mạnh của Ngài để trong cuộc sống chúng ta và trong đời sống của mỗi cộng đoàn Giáo Hội có phản ánh mẫu gương của Đức Maria, Mẹ Giáo Hội.

Chào thăm các tín hữu

Sau bài giáo lý trên đây, các giám chức và LM tại Tòa Thánh đã lần lượt tóm tắt ý chính bài huấn giáo của ĐTC, cũng như dịch những lời chào của ngài từ tiếng Ý sang các ngôn ngữ chính.

Chào các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC nhắc đến các tín hữu thuộc giáo phận Angoulême do Đức Cha Dagens hướng dẫn, và nhiều nhóm giáo xứ, người trẻ, đến từ Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ.

Ngỏ lời với các tín hữu nói tiếng Anh, đến từ Anh quốc, Ailen, Đan Mạch, Na Uy, và từ nhiều nước Á châu như Ấn độ, Nhật Bản, Philippines, Thái Lan, ĐTC đặc biệt nhắc đến một nhóm liên quốc hội liên đảng tại Anh quốc về Tòa Thánh.

Khi chào đông đảo các tín hữu hành hương đến từ nước Đức, ĐTC nói đến các đoàn từ Đan Mạch và nhiều giáo phận Đức về Roma hành hương nhân dịp kỷ niệm 25 năm phong chân phước Niels Stensen, dưới sự hướng dẫn của ĐHY Meisner TGM giáo phận Koeln.

Với các tín hữu Ba Lan, ĐTC mời gọi họ trong tháng 10 này cầu nguyện cách riêng cho hòa bình trên thế giới, và sự phục hồi các giá trị Tin Mừng.

Sau cùng, khi chào các phái đoàn bằng tiếng Ý, ĐTC nhắn nhủ rằng tháng 10 nhắc nhớ chúng ta về sự dấn thân của mỗi người trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài nói: ”Các bạn trẻ thân mến, đặc biệt các chủng sinh ở Verona, và những người trẻ từ giáo phận Manfredonia-Vieste- San Giovanni Rotondo miền nam Italia, các con hãy trở thành những chứng nhân can đảm của đức tin Kitô. Và hỡi anh chị em bệnh nhân thân mến,hãy dâng thánh giá hằng ngày của anh chị em để cầu cho sự hoán cải những người xa lìa ánh sáng Tin Mừng; và sau cùng, hỡi các đôi tân hôn, anh chị em hãy trở thành những người loan báo tình thương của Chúa Kitô, đi từ gia đình của anh chị em.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 200 vị tuyên úy nhà tù Italia

Đức Thánh Cha tiếp kiến 200 vị tuyên úy nhà tù Italia

VATICAN. ĐTC Phanxicô bày tỏ quan tâm đặc biệt với các tù nhân và khích lệ các vị tuyên úy nhà tù chu toàn công tác khó khăn, làm cho Thiên Chúa hiện diện trong các nhà tù.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 23-10-2013 dành cho 200 vị tuyên úy nhà tù toàn nước Italia.

ĐTC nhắn nhủ các vị hãy chứng tỏ cho các tù nhân, bằng cử chỉ, bằng lời nói và con tim, để họ thấy rằng Chúa không ở bên ngoài phòng giam của họ, Chúa ở bên trong nhà tù và Chúa ở trong tâm hồn họ. ”Ngày nay Chúa cũng là một tù nhân, tù nhân vì lòng ích kỷ của chúng ta, vì những chế độ, hệ thống, bao nhiêu bất công của chúng ta, vì trừng phạt những kẻ yếu nhất thì dễ, nhưng ”những con cá lớn” vì vẫn nhởn nhơ bơi lội trong nước.
ĐTC cũng kể lại những lần ngài nhận được thư của các tù nhân ở Buenos Aires, và viếng thăm họ; họ cũng viết cho ngài ở Vatican này, và thỉnh thoảng, đặc biệt là chúa nhật, ngài gọi điện thoại nói chuyện với họ.

ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi cầu nguyện cho anh em, là những vị tuyên úy nhà tù, cho sứ vụ của anh em, nhiều khi không dễ dàng và đòi nhiều cố gắng, và rất quan trọng vì công việc này diễn tả một trong những việc từ bi, làm cho sự hiện diện của Chúa trở nên hữu hình trong nhà tù. Anh em là dấu chỉ sự gần gũi của CHúa Kitô với những người anh em khác đang cần hy vọng. Mới đây, anh em đã nói về một nền công lý hòa giải, và nền công lý hy vọng. cánh cửa mở rộng. Đó không phải là một ảo tưởng, và có thể làm được. Nhưng không dễ dàng, vì những yếu đuối của chúng ta ở mọi nơi, có ma quỷ, có những cám dỗ ở mọi nơi, nhưng chúng ta cần luôn làm thử. (SD 23-10-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Tân Đại Sứ Hoa Kỳ tại Vatican nhậm chức

Tân Đại Sứ Hoa Kỳ tại Vatican nhậm chức

Kenneth_F_Hackett_United_States_Ambassador_to_the_Holy_See_CNA_US_Catholic_News_10_21_13

Rome 10-21-2013– Đại Sứ Hoa Kỳ tại tòa Thánh Vatican được bổ nhiệm gần đây đã trình ủy nhiệm thư lên Đức Thánh Cha Phanxicô trong một buổi họp trước đó vào một buổi sáng để chánh thức bắt đầu nhiệm vụ đại sứ của mình.

" Tòa thánh Vatican và Đức Thánh Cha có ảnh hưởng đến các sự kiện thế giới theo một cách tích cực thông qua sự kêu gọi của đức tin và họ sẽ tiếp tục là đối tác quan trọng trong sự hợp tác trong tương lai, " Đại sứ Mỹ Kenneth F. Hackett tuyên bố trong một một cuộc họp báo ngày 21 tháng 10 năm 2013.

Hackett đã được đề cử vào tháng sáu vừa qua bởi Tổng thống Barack Obama, là đại sứ thứ 10 đến Vatican , và đã được sự chấp thuận của Thượng viện Mỹ trong một  buổi họp tối vào ngày 1 tháng tám vừa qua.

Ông sẽ thay thế cho Ông Miguel H. Diaz , người đã rời chức vụ ngoại giao vào tháng 11 năm 2012 để trở về làm giáo sư đại học Dayton, Ohio về môn đức tin và văn hóa.

Nói về nhiệm vụ mới của mình, Hackett lưu ý rằng " Tổng thống Obama và Ngoại trưởng Kerry đã cả hai nhấn mạnh sự cần thiết phải tham gia với các nhà lãnh đạo tôn giáo và các cộng đồng tôn giáo trong quá trình chính sách để giải quyết các vấn đề toàn cầu quan trọng , " Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ là một cộng tác viên chặt chẻ trong các quyết định .

Hackett có rất nhiều kinh nghiệm của mình trong công tác cứu trợ , đã phục vụ trong Peace Corps ở Ghana từ năm 1968 cho đến năm 1971, sau đó cống hiến 40 năm làm việc với Catholic Relief Services, 18 năm làm chủ tịch và giám đốc điều hành của tổ chức.

Tham chiếu nhiệm vụ của mình trong công ty, Hackett nhấn mạnh rằng " Trong thời gian tôi ở CRS , tôi đã có niềm vui của cá nhân được tham gia vào những nỗ lực để giảm bớt một số các điều kiện Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nói về – . Nghèo , người tị nạn , di cư "

Phương pháp tiếp cận và nhấn mạnh những vấn đề của " nghèo đói và bất công ", cũng như của Đức Giáo Hoàng " nhiều vấn đề xã hội , " đã là một khu vực nơi ông thấy một sự kết hợp rất nhiều , đại sứ được mời cuộc phỏng vấn ngày 2 tháng 8 với Tạp chí Công giáo trên phê duyệt đề cử của mình.

" Tôi tin rằng có nhiều điều chúng ta có thể tiếp tục làm việc với nhau để tiếp tục hướng tới việc thúc đẩy nhân phẩm. "

Trong buổi điều trần ngày 2 tháng 7 tại thượng viện quan hệ đối ngoại (Senate Foreign Relations), Hackett cũng tranh đấu việc nạn buôn bán người và vận động môi trường giữa các lợi ích chung khác .

Thái Trọng phỏng dịch
 

Đức Giáo hoàng bán đấu giá chiếc mô tô hiệu Harley Davidson để hỗ trợ người vô gia cư

Đức Giáo hoàng bán đấu giá chiếc mô tô hiệu Harley Davidson để hỗ trợ người vô gia cư

Harley Davison Motorcycle

EMTY (20/10/2013, CNA) – Đức Thánh Cha Phanxicô đã tặng chiếc mô tô hiệu Harley Davidson, sẽ được bán đấu giá, để quyên tiền cho một lưu xá và nhà bếp phục vụ bữa ăn cho người vô gia cư ở Roma.
 
“Đó là một món quà quý giá mà một lần nữa làm cho chúng tôi hạnh phúc vì cảm nhận được sự gần gũi của vị giám mục dành cho người nghèo của Giáo hội Rôma. Chúng tôi vô cùng biết ơn Đức Thánh Cha Phanxicô về điều này”, Đức ông Enrico Feroci, Giám đốc Caritas Roma, cho biết trong một cuộc họp báo hôm 12-10.

Việc bán chiếc mô tô là để tài trợ cho việc trùng tu Lưu xá Don Luigi di Liegro của Caritas và nhà bếp phục vụ bữa ăn tại Ga Termini của Roma. Hai dự án này đã hoạt động từ năm 1987 nhằm làm dịu bớt sự đau khổ của khoảng 1,000 người mỗi ngày, theo Caritas Roma.

Đức ông Feroci thay mặt cho những người sẽ được hưởng lợi từ “hành động niềm nở và liên đới này” cám ơn Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức ông cam đoan với Đức Giáo hoàng rằng người nghèo sẽ tiếp tục cầu nguyện cho “công việc quý giá mà ngài đang làm trong vườn nho của Chúa”.

Công ty Mô tô Harley Davidson đã tặng 2 chiếc mô tô và một chiếc áo khoác đi xe cho Giáo hoàng Phanxicô hồi tháng 6, khi Thành phố Roma tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 110 loại mô tô biểu tượng Mỹ. Vào ngày 16-6 vừa qua, tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng đã chúc lành cho khoảng 800 tay đua và cuộc đua xe của họ.

ĐGH Phanxicô đã khuyến khích các giáo sĩ và tu sĩ thể hiện sự khiêm tốn trong việc lựa chọn phương tiện di chuyển của mình. Hồi tháng 7, ngài nói với một nhóm chủng sinh và tập sinh rằng ngài cảm thấy đau lòng khi thấy một linh mục hay một nữ tu dùng một chiếc xe hơi đời mới.

“Và, nếu bạn muốn có xe đẹp, hãy nghĩ đến biết bao trẻ em đang chết đói”, ngài nói, thúc giục họ lựa chọn phương tiện di chuyển đơn giản hơn.

Khi còn là Hồng Y ở Argentina, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nổi tiếng với việc dùng phương tiện giao thông công cộng.

Hồi tháng 9 vừa qua, Đức Giáo hoàng đã nhận quà tặng từ một linh mục người Ý là chiếc xe hơi Renault 4 đã qua sử dụng với số 186,000 dặm (300,000 km) ghi trên đồng hồ.

 
Nguồn : Mai Trang – Emty

Đức Thánh Cha giải thích tại sao cầu nguyện liên lỷ

Đức Thánh Cha giải thích tại sao cầu nguyện liên lỷ

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 20 tháng 10-2013 tới 80 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô đã giải thích ý nghĩa lời Chúa Giêsu dạy phải luôn kiên trì cầu nguyện.

Các tín hữu đã đứng đầy Quảng trường thánh Phêrô dưới bầu trời mùa thu, tràn ra tới quảng trường Piô 12 bên ngoài và con đường Hòa Giải. Họ mang nhiều cờ xí và biểu ngữ nói lên nguyên quán và Hội đoàn, phong trào của họ.

Bài huấn dụ

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã diện giải bài Tin Mừng chúa nhật 29 thường niên năm C và nói về ý nghĩa việc Chúa dạy phải luôn luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu thuật lại một dụ ngôn về sự cần thiết phải luôn luôn cầu nguyện, không bao giờ mệt mỏi. Vai chính ở đây là một bà góa, nhờ nài nỉ với một quan tòa bất lương, nên đã làm cho ông thi hành công lý cho bà. Và Chúa Giêsu kết luận: nếu bà góa đã thuyết phục được quan tòa ấy, thì chẳng lẽ Thiên Chúa lại không lắng nghe chúng ta, nếu chúng ta kiên trì cầu xin ngài hay sao? Kiểu nói của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: ”Và Thiên Chúa lại chẳng thi hành công lý cho những người Ngài chọn, ngày đêm kêu lên Ngài hay sao?” (Lc 18,7).

”Ngày đêm kêu lên” cùng Thiên Chúa! Hình ảnh này về kinh nguyện gây ấn tượng mạnh cho chúng ta. Nhưng chúng ta tự hỏi: tại sao Thiên Chúa lại muốn như thế? Chúa chẳng biết những nhu cầu của chúng ta hay sao? Nài nỉ với Thiên Chúa có ý nghĩa gì?

Đó là một câu hỏi hay, làm cho chúng ta đào sâu một khía cạnh rất quan trọng của đức tin: Thiên Chúa mời gọi chúng ta cầu nguyện kiên trì không phải vì Chúa không biết chúng ta cần điều gì hoặc vì Ngài không nghe chúng ta. Trái lại, Chúa luôn lắng nghe và biết tất cả chúng ta, với lòng yêu thương. Trong hành trình hằng ngày của chúng ta, đặc biệt là giữa những khó khăn, trong cuộc chiến đấu chống lại sự ác bên trong và bên ngoài chúng ta, Chúa ở cạnh chúng ta; chúng ta chiến đấu có Ngài ở cạnh và võ khí của chúng ta chính là lời cầu nguyện, làm cho chúng ta cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng từ bi và ơn phù trợ của Chúa. Nhưng cuộc chiến chống sự ác thật là cam go và lâu dài, đòi phải kiên nhẫn và bền chí – như ông Môisê, phải giơ hai cánh tay lên để làm cho dân của ông chiến thắng (Xc Xh 17,8-13). Sự thực là thế: đó là một cuộc chiến đấu cần phải thi hành mỗi ngày; Thiên Chúa là đồng minh của chúng ta, niềm tin nơi Ngài là sức mạnh của chúng ta, và kinh nguyện là sự biểu lộ đức tin. Vì thế Chúa Giêsu đảm bảo chiến thắng cho chúng ta, nhưng Ngài hỏi: ”Khi trở lại, Con Người có còn thấy niềm tin trên mặt đất này không?” (Lc 18,8). Nếu đức tin tắt lịm, thì kinh nguyện cũng chấm dứt và chúng ta bước đi trong tối tăm, chúng ta sẽ lạc lối trên đường đời.

Vậy chúng ta hãy học nơi bà góa trong Phúc Âm cách cầu nguyện luôn mãi, không bao giờ mệt mỏi. Nhưng không phải để thuyết phục Chúa bằng lời nói! Ngài biết rõ hơn những gì chúng ta đang cần! Đúng hơn kinh nguyện kiên trì là sự biểu lộ niềm tin nơi một Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta cùng Ngài chiến đấu mọi ngày, mọi lúc, để chiến thắng sự ác bằng sự thiện.

Chào thăm và nhắc nhở

Sau phép lành, ĐTC nhắc nhở các tín hữu rằng:

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là Ngày Thế Giới truyền giáo. Đâu là sứ mạng của Giáo Hội? Thưa là phổ biến trên thế giới ngọn lửa đức tin mà Chúa Giêsu đã thắp lên trên thế giới: niềm tin nơi Thiên Chúa là Cha, là Tình Thương, là Lòng Từ Bi. Phương pháp truyền giáo của Kitô giáo không phải là chiêu dụ tín đồ, nhưng là chia sẻ ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn. Tôi cám ơn tất cả những người, bằng kinh nguyện và trợ giúp cụ thể, đang nâng đỡ công cuộc truyền giáo, đặc biệt là hỗ trợ mối quan tâm của GM Roma để loan truyền Tin Mừng. Trong ngày này, chúng ta gần gũi tất cả các thừa sai nam nữ đang làm việc rất nhiều mà không gây ồn ào, và hiến mạng sống. Như bà Afra Martinelli, 78 tuổi, người Italia, đã làm việc bao nhiêu năm ở Nigeria; cách đây vài ngày bà đã bị cướp sát hại; tất cả mọi người đã khóc thương bà, Kitô hữu cũng như tín hữu Hồi giáo. Bà đã loan báo tin mừng bằng đời sống, bằng việc làm mà bà thực hiện, một trung tâm giáo dục; qua đó bà đã phổ biến ngọn lửa đức tin, đã thực hiện một cuộc chiến tốt đẹp! ĐTC mời gọi mọi người hiện diện vỗ tay chào tưởng niệm bà Martinelli.

ĐTC nói tiếp: ”Tôi cũng nghĩ đến Stefano Sándor, được tôn phong chân phước hôm qua 19-10-2013, tại Budapest. Thầy là một trợ sĩ dòng Salésien, gương mẫu trong việc phục vụ giới trẻ, tại nơi sinh hoạt và cầu nguyện, và trong việc huấn nghệ. Khi chế độ cộng sản đóng cửa tất cả các cơ sở Công Giáo, thầy can đảm đương đầu với cuộc bách hại đạo, và bị giết lúc 39 tuổi đời. Chúng ta hiệp ý với gia đình dòng Salésien và Giáo Hội tại Hungari để cảm tạ Thiên Chúa.

”Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi với dân chúng Philippines mới bị động đất nặng, và mời gọi anh chị em cầu nguyện cho quốc dân quí mến này, mới đây đã chịu các thiên tai khác.

Tôi thân ái chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện, bắt đầu là các thanh thiếu niên đã tham dự cuộc tuần hành ”100 mét chạy đua và đức tin” do Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa tổ chức. Cám ơn các bạn, vì đã nhắc nhở chúng tôi rằng tín hữu là một vận động viên tinh thần.

Có 5 ngàn người tham dự cuộc chạy đua này trên đường Hòa giải. Trong số các tham dự viên có cả lực sĩ người Anh, Jason Gardener, đã từng được huy chương vàng trong thế vận Olympic ở Athènes hồi năm 2004.

ĐTC cũng chào thăm các tín hữu thuộc tổng giáo phận Bologna và Cesena-Sarsina ở Italia do ĐHY Caffara và Đức GM Ragettieri hướng dẫn, cũng như các tín hữu khác đến từ Argentina và Venezuela. Ngài cũng đặc biệt gửi lời chào thăm các bà mẹ người Argentina vì chúa nhật này là lễ các bà mẹ tại Argentina.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

THÁNH LỄ BẾ MẠC ĐẠI HỘI – THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

THÁNH LỄ BẾ MẠC ĐẠI HỘI
THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

“Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” Chúa Nhật 20/10”

SONY DSC


“Cuộc gặp gỡ nào thì cũng có lúc phải chia tay, cuộc vui nào thì cũng có lúc phải chấm dứt”, câu nói trong bài giảng thánh lễ Bế Mạc năm ngoái (2012) của Đức Cha Vũ Văn Thiên như vẫn còn lảng vảng trong tâm trí tôi. Thật đúng như vậy, ba ngày Đại Hội qua thật mau, mọi người đều cảm nhận sự ngọt ngào và tràn đầy ân huệ khi đến với Mẹ La Vang để được tắm gội trong ơn thánh ba ngày Đại Hội. Chúng ta còn cảm nhận sự liên đới trong tình đồng hương, tình gia đình Giáo Hội và tình bằng hữu đã quen lâu hay mới quen khi mới chỉ gặp gỡ nhau trong ba ngày Đại Hội đã vội chia tay với địa chỉ, số phone hay email của nhau để lại có hy vọng gặp gỡ nhau vào những dịp hội ngộ, tao phùng bên Mẹ La Vang.

Mới 8:00 a.m. giáo dân đã tụ họp quanh Linh Đài như lời mời gọi hôm qua của hai MC. Cha Quang và thầy Hưởng để cùng tham dự thánh lễ Bế Mạc Đại Hội do Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh chủ tế và thuyết giảng, đông đảo quí linh mục đồng tế. Đúng 9:30 a.m. một hồi chiêng trống nổi lên linh thiêng để bắt đầu thánh lễ, ca đoàn cất lời ca nhập lễ: “Chung Lời Cảm Tạ” của nhạc sĩ Nguyễn Duy: “Trong hân hoan chúng con về đây, mang tin yêu mơ ước nồng say, cùng hợp tiếng ca tạ ơn Chúa lời thiết tha”. Nằm trong chủ đề Đại Hội năm nay: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” nên những lời ca, tiếng hát hay dâng lời cầu nguyện đều hàm chứa lời cảm tạ Hồng Ân Thiên Chúa tuôn đổ qua Mẹ La Vang để có thành quả hôm nay qua 10 năm Thánh hiến.

Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Las Vegas kỳ VICourtesy Photo Reporter William Nguyen

Trong bài giảng thánh lễ Bế Mạc, Đức Cha Oanh chia sẻ: “Chúng ta đang sống trong năm Đức Tin và chỉ còn ít ngày nữa là kết thúc, cùng Mẹ Maria chúng ta hãy lên đường đi loan báo Tin Mừng như lời Thánh Phaolô, thư gửi cho ông Timôthê: ‘Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện’(TM 3:14-4,2). Sau lời dặn dò chí thân, chí thiết, hãy sống những lời học hỏi từ nhỏ, lời của Thiên Chúa. Ngài nhắc lại các lời của Chúa phán: ‘Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em’, ‘Anh em ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.’”

Đến đây ngài kể câu chuyện truyền giáo của Người Dân Tộc là hình ảnh cụ thể mà ngài mục kích, họ nghe radio nói về Đấng Christ và họ đi bộ hàng bao cây số tìm đến linh mục để học hỏi biết về Đấng Christ. Khi về họ loan truyền cho nhau và bị cấm đoán, bắt giữ. Nhưng cả buôn Dân Tộc xúm lại tương trợ và cuối cùng họ cùng quay về với Chúa. Hay việc hôm nay tôi nghe biết như một thói quen tốt đẹp là tr ước khi ra về kết thúc thánh lễ Bế Mạc, mỗi người tự động xếp lại ghế mình ngồi, không để rác rơi rớt, vì không muốn làm phiền người khác, hoặc góp phần một chút với bao người hy sinh đến đây giúp tổ chức Đại Hội.

Chúng ta hãy loan báo Tin Mừng bằng lời cầu nguyện, bằng gương sang và lời rao giảng. Đó là mệnh lệnh truyền của Thiên Chúa để chúng ta thể hiện một đại gia đình nơi có Chúa Giêsu Kitô, Ngài luôn yêu thương chúng ta. Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt vời, Mẹ sẽ giúp chúng ta, vì Mẹ đã ra đi loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy noi gương Mẹ, hãy ra đi như Mẹ, hãy lên đường cùng Mẹ khởi đầu cuộc hành trình mới. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng, xin Mẹ Maria hướng dẫn phụ giúp chúng ta….

Sau thánh lễ là phép lành của Đức Thánh Cha Phanxicô ban cho tất cả những ai tham dự Đại Hội Thánh Mẫu La Vang tại Đền Thánh Mẹ La Vang Las Vegas trong ba ngày 18,19,20 tháng 10 năm 2013. Phép lành này do Đức Cha Hoàng Đức Oanh đại diện và là chủ sự đọc, ban phép lành cho mọi khách hành Hương đến tham dự Đại Hội với Mẹ La Vang tại Linh Địa Mẹ tại Las Vegas.

Sau đó là nghi thức bế mạc, anh Đại Diện JB. Trần Xuân Huân lên cám ơn sự hiện diện của quí Đức Cha, quí linh mục và quí tu sĩ nam nữ cùng quí ân, thân nhân và khách hành hương khắp nơi đã vì lòng yêu mến Chúa, sùng kính Mẹ La Vang và mến thương Cộng Đoàn sum họp về đây để cùng chung vai tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Kỳ VI. Anh mong mỏi Đại Hội năm tới cũng sẽ gặp lại những khuôn mặt thân thương hôm nay. Anh kính chúc quí Đức Cha, quí cha và quí tu sĩ thượng lộ bình an và mang theo về tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa qua Mẹ La Vang chuyển cầu. Dứt lời cám ơn của anh Đại Diện, hàng ngàn bong bóng nước được phun lên quanh tháp chuông Đền Thánh. Năm nay để tri ân những người có công khai phá buổi ban đầu Đền Thánh, nên cha Giám Đốc và anh Đại Diện mời những người này lên trên Linh Đài, mỗi người được phát một con chim bồ câu để thả lên như ý nói nhờ những người đi trước khai phá để những người đến sau được thừa hưởng tiện nghi thanh bình an lạc của Đền Thánh Mẹ và hướng về quê hương cầu nguyện cho đất nước được tự do tôn giáo, nhân quyền và độc lập dân tộc. Có tất cả 30 chim câu, Đức Cha Oanh, cha Sáng Lập, cha Giám Đốc mỗi người thả một con, số còn lại dành cho những người có công khai phá buổi ban đầu. Chim thả bay lên và lượn vòng quanh Đền Thánh như không muốn dời xa trong tiếng vỗ tay của mọi người. Sau đó cha Quang gửi lời cám ơn đến quí Đức Cha, linh mục, tu sĩ nam nữ, các đoàn thể, mọi ân thân nhân và các gian hàng đã góp phần v ào việc tổ chức Đại Hội. Ngài lưu ý mọi người hướng nhìn về Linh Đài để ngài giới thiệu logo Đại Hội năm tới: “Cùng Mẹ Sống Ánh Sáng Đức Tin” sẽ diễn ra trong 3 ngày 24,25,26 tháng 10, 2014. Ban kỹ thuật cuốn logo cũ và logo mới từ từ hiện ra qua tiếng vỗ tay reo hò của khách hành hương.

Kết lễ, ca đoàn hát bài: “Mẹ Ở Con Về” của nhạc sĩ Khang Phong, bài ca réo rắt, gieo nhiều nhớ thương với Mẹ La Vang đối với khách hành hương, khiến nhiều người rưng rưng ngấn lệ: “Mẹ ở con về, Mẹ La Vang ơi, Mẹ ở con về, lòng con thương nhớ…Mẹ ở con về, nhớ thương trăm bề, Mẹ nghỉ con đi!”. Lời ca làm chùn bước bao khách hành hương lưỡng lự nửa ở nửa về trong luyến nhớ.

Từng chiếc xe bus nối đuôi nhau đậu dài trước cổng Đền Thánh, từ từ đón khách hành Hương ra đi với lời từ giã cùng những cánh tay vẫy chào trong luyến nhớ, mong hẹn ngày tái ngộ./.

Bế Mạc Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Las Vegas tháng 10/2013
Phan Văn SỹTrích từ Thánh Mẫu La Vang Las Vegas

ĐẠI HỘI THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS KỲ VI, 2013

ĐẠI HỘI THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS KỲ VI, 2013

“Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa: 18-19-20/10”

khai-mac-dai-hoi-thanh-mau-la-vang-las-vegas-ky-vi
Mặc dù trời đã vào Thu, nhưng ánh nắng vẫn còn chói chang chiếu dọi quanh khuôn viên Đền Thánh, trên không trung tiếng loa vang vọng lời hát của bài ca:,“Lạy Đức Mẹ La Vang” của nhạc sĩ Hoàng Vũ phát ra từ những chiếc loa được bắt quanh khuôn viên Đền Thánh như lời mời gọi, cuốn hút con cái Mẹ từ bốn phương trời về tụ họp bên Mẹ trong Đại Hội La Vang để “Tạ Ơn Chúa”, để sùng kính Mẹ, để nài nỉ Mẹ, cầu xin Mẹ chuyển cầu: “Lạy Đức Mẹ La Vang, con vui mừng cầu xin Đức Mẹ, Mẹ chính niềm cậy trông, niềm hy vọng sự sống chúng con, Mẹ chính là trạng sư, là Nữ Vương Mẫu Thân của con…Thánh Maria! Xin Thương nhậm lời!…” Lời ca réo rắt, khoan nhặt như lời thỉnh cầu của muôn khách hành hương hội tụ về đây để khấn cầu xin Mẹ.

Mới 3:00 p.m. ngày Thứ Sáu 18-10-2013, các em trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể với đồng phục chỉnh tề, quần xanh áo trắng với chiếc khăn quàng đỏ biểu thị cho sự nhiệt thành hăng say của tuổi trẻ, thiếu nhi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tay các em cầm lá cờ xanh trắng biểu tượng màu áo của Mẹ hay mặc khi hiện ra với con cái khắp nơi, đang đứng thành hai hàng dọc từ cổng chào dẫn vào khuôn viên Đền Thánh và Linh Đài Mẹ, bên hai hàng thảm đỏ như một cách trang trọng đón chào quí quan khách thập phương: Quí Đức Cha, quí cha, quí tu sĩ nam nữ, và giáo dân từ bốn phương đổ về. Từ ngoài cổng bước vào có các khách quí đang tiến vào: Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám Mục Giáo Phận Kontum từ Việt Nam bay qua từ hôm qua, Đức Cha Joseph A. Pepe, Giám Mục Địa Phận Las Vegas, cha Tổng Quản Bob Stoekig, cha Tổng Quản George Mockel, cha Sáng Lập Giuse Nguyễn Đức Trọng cùng quí cha: Phêrô Chu Quang Minh, Martinô Nguyễn Bá Thông, Joachim Lê Quang Hiền, Phaolô Phạm quốc Cường, Phêrô Hoàng Văn Thi, Vincentê Nguyễn quang Thế, tổng cộng khoảng 28 linh mục và một số đông đảo tu sĩ nam nữ, cùng các Hội Đoàn bạn và giáo dân từ khắp nơi đổ về tham dự Đại Hội.

Những chuyến xe bus cứ thay nhau đổ khách hành Hương xuống đến với Mẹ từ mọi nẻo đường, mỗi xe chuyên chở khoảng 50 người trở lên, dừng ngay trước cổng Đền Thánh Mẹ, hết chuyến này đến chuyến khác thật tấp nập, thật nhộn nhịp, được các anh em trong ban Trật Tự, Tiếp Tân đón tiếp, hướng dẫn đi vào Đền Thánh. Trong khuôn viên Đền Thánh cảnh tấp nập, chào hỏi, hàn huyên lẫn nhau sau một năm gặp lại những người thân quen. Tất cả nói lên khung cảnh nhộn nhịp, vui vẻ, tưng bừng của ngày Đại Hội Thánh Mẫu La Vang 2013 qua chủ đề: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” , như câu thơ của cha Sáng Lập đã lưu lại còn trong ký ức mọi người khó quên mà ngài đã sáng tác từ năm 2008:
“Phồn hoa nung nấu mỏi mòn,”
“Mẹ vào Sa Mạc huy hoàng ánh sao.”
“Yêu thương, âu yếm, ngọt nào,”
“Bên bờ giếng mật dạt dào ngất ngây!”

Theo rừng cờ vẫy chào của các em Thiếu Nhi Thánh Thể trong Ban Tiếp Rước, các quan khách, các Hội Đoàn và khách hành Hương đang tấp nập bước vào khuôn viên Đền Thánh, những Hội Đoàn năm xưa đã từng đến tham dự, năm nay cũng có mặt đầy đủ như:
– Hội Cao Niên Giáo Xứ Việt Nam tại Orange County do ông Lương Văn Thanh hướng dẫn,
– Hội Cao Niên Công Giáo Việt Nam tại San Diego do cha Tuyên Úy Hoàng Việt dẫn đầu,
– Gia Đình Phúc Ấn do bà Nguyễn Thị Xuân hướng dẫn,
– Hội Các Bà Mẹ Công Giáo Vùng Vịnh San Francisco do bà Loan hướng dẫn,
– Đoàn Liên Minh Thánh Tâm do ông Nguyễn Đức Thắng hướng dẫn,
– Hội Bảo Trợ Nữ Tu Orange Cali,
– Hội Tông Đồ Cầu Nguyện San Diego,
– Knight of Columbus,
– Saint Elizabeth Church – San Jose, CA,
– Hồng Minh Travel and Cargo – San Jose, CA,
– Hội Ái Hữu Hải Phòng, cùng nhiều đoàn thể mới tham dự năm nay…

Các ca đoàn đến hỗ trợ với Ca Đoàn Mẹ La Vang gồm có:
– Ca Đoàn Têrêsa Ontario,
– Ca Đoàn Việt Linh – Giáo Xứ Saint Columban,
– Ca Đoàn Thánh Đức và nhiều anh chị em thuộc nhiều ca đoàn của các giáo xứ trên Hoa Kỳ.

Trong sự linh thánh của không khí Đại Hội năm nay, vì là năm của Đại Hội kỷ niệm 10 năm Thánh Hiến Đền Thánh nên cha Quang đã khéo léo design logo hình biểu tượng cho Đại hội mang nhiều ý nghĩa và thật mới lạ. Khách hành Hương từ ngoài bước vào không khỏi bị hấp dẫn bởi bao nét nghệ thuật, mỹ thuật từ 14 Chặng Đàng Thánh Giá, các Tượng Đài Đức Mẹ Sầu Bi, Tượng Đài Thánh Cả Giuse, nổi bật trong những kỳ công ấy là cỗ xe hoa rất mỹ thuật được các anh chị có tay nghề trang trí, chuẩn bị cả mấy tháng nay: Các anh Hùng, Đài, Thái và đặc biệt trang trí về hoa, không ai qua khỏi nghệ thuật phối trí hoa cắm hoa trên xe hoa của Mẹ bằng chị Thy. Cái nghệ thuật chị trang trí như nét thanh tú, duyên dáng của chị khi cắm hoa và tạo đường nét linh hoạt trên xe hoa. Khi chị cắm hoa, chị luôn cầu nguyện, im lặng làm việc không nói chuyện với ai, như để hết tâm trí sáng tạo vào xe hoa cho Mẹ.

Nhìn vào logo biểu tượng của Đại Hội năm nay, mọi người đều cảm thấy khâm phục lối diễn tả gợi hình của tác giả: Mẹ là con đường vững chắc được trải thảm đỏ trong vinh quang để đến với Chúa. Đến với Chúa là trung tâm điểm cuộc đời, vì hình con đường dẫn chạy thẳng đến trung tâm Thập Giá Chúa Kitô, như vậy đến với Mẹ không sợ ba thù và thật vững chắc trong bước đi, vì được bước trên thảm đỏ vinh quang đến với Chúa là Cha chí nhân. Từ trên trung tâm điểm Thánh Giá của xe hoa, ban kỹ thuật làm một dòng nước chảy xuống, hơi nước tỏa bay lên cao như biểu tượng nguồn Thánh Ân dồi dào Chúa tuôn đổ xuống cho con cái Mẹ qua 10 năm Thánh Hiến. Một đường viền xanh da trời vòng theo đường trải thảm đỏ mang ý nghĩa Đại Hội năm nay: “Tạ Ơn Chúa” qua Mẹ dẫn lối, Cộng Đoàn Mẹ La Vang đã cùng Mẹ đồng hành đi trọn 10 năm kể từ ngày Thánh Hiến Đền Thánh. Tác giả (Cha Quang) đã dùng màu xanh hiền hòa, hy vọng trùng với màu áo của Mẹ để nói lên Cộng Đoàn luôn hy vọng bước tới trong thanh bình vì có Mẹ dẫn dìu từ bước khởi đầu đến nay và mãi mãi. Màu áo phía trong của Mẹ và Chúa Con là một màu lam vàng nhạt pha trộn, nói lên sự hài hòa màu sắc và cành trúc của áo Mẹ tượng trưng Mẹ luôn ôm ấp đàn con Việt Nam tha Hương, vì cây trúc là biểu tượng cho người quân tử, trung chính Việt Nam. Màu của nền Cây Thánh Giá phía sau nói lên Thánh Giá vinh quang của Chúa luôn bên Mẹ, nên chúng ta phải: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” vì những ơn lạ, những kỳ công Chúa đã tuôn đổ xuống cho Cộng Đoàn qua Mẹ La Vang.

Nhìn logo với màu sắc và đường nét, hình ảnh diễn tả hài hòa, màu sắc tao nhã đã diễn tả đầy đủ ý nghĩa tuyệt vời của chủ đề Đại Hội năm nay mà cha Quang, một tâm hồn nghệ sĩ đã vì yêu mến Mẹ, phụng thờ Chúa, nghĩ về quê Hương Việt Nam mà ngài đã vẽ ra từ tháng 9/2012 để chuẩn bị cho Đại Hội năm nay. Áo và khăn đội đầu của Mẹ trên logo là hình ảnh lễ phục hội của người đàn bà quí phái Việt Nam, là vương miện của Mẫu Vương Việt Nam. Thêm vào đó nhờ cách trang trí, cắm hoa, chạy đèn của các anh Đài, Hùng, chị Thy đã làm cho xe hoa Mẹ La Vang đẹp rực rỡ hẳn lên.

Đúng 4:30 p.m., giờ chầu thánh thể thật nghiêm trang trong thánh đường do Hội Cao Niên Giáo Xứ Việt Nam Orange County do linh mục Vincenté Nguyễn Quang Thế hướng dẫn. Giờ chầu mở đầu cho Đại Hội vì theo tâm niệm của cha Quang, Đền Thánh Mẹ luôn đặt Chúa làm Trung Tâm điểm mọi sinh hoạt. Phải tôn thờ Chúa trước, sau đó những việc tiếp theo, Ngài sẽ chúc lành, do đó Đại Hội Mẹ luôn khởi đầu bằng việc thờ kính Chúa qua giờ chầu đền tạ đầu tiên.

5:30 p.m. Thánh lễ khai mạc tại Linh Đài do Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh chủ tế và thuyết giảng. Trong bài giảng, ngài nhấn mạnh đến chủ đề: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa”: “Mẹ Maria là tấm gương tuyệt vời để chúng ta noi theo Mẹ sống đức tin vững chắc. Chúng ta đang sống trong năm đức tin, tôi xin nêu ba điểm quan trọng:

1- Một đức tin: Tin vào một Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Nếu người là Cha của chúng ta thì mọi ngời sẽ là anh em với nhau.
2- Một Giới Luật: Phải yêu thương anh chị em bằng một tình yêu như Chúa đã yêu thương chúng ta “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới là anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
3- Hãy đi loan báo tin mừng cho muôn dân. Chúng ta hãy nói và sống bằng tình yêu thương.

Ngài kết luận xin Chúa thêm lòng tin cho chúng con để chúng con thể hiện tình yêu trong yêu thương phục vụ và chia sẻ với anh em.
Sau thánh lễ là phút nghỉ ngơi, ăn tối, Đền Thánh Mẹ La Vang khoản đãi các bữa ăn “Free” cho mọi khách hành Hương xa gần do các anh em trong Ban Ẩm Thực hy sinh nấu phục vụ trong ba ngày Đại Hội, các anh: Bằng, Sánh, Chiến, Nghiệp, Hòa và gần 30 người hy sinh phụ bếp giúp chuẩn bị thức ăn do chị Lê Tuyết Mai làm Trưởng Toán. Sau giờ cơm tối, mọi người vây quanh Linh Đài để cùng thưởng thức đêm văn nghệ tuyệt vời qua chủ đề: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” với các ca sĩ của trung tâm Asia yểm trợ như: Ca sĩ Mai Thanh Vân, ca sĩ Lê Quốc Tuấn, ca sĩ Tâm Phương Anh, ca sĩ Nhật Lâm, ca sĩ Cát Lynh, ca sĩ Hồng Diễm, cùng Đoàn Văn Nghệ và ca sĩ La Vang. Buổi văn nghệ thật hào hứng và được nhiều người nồng nhiệt ca ngợi. Tuy nhiên thì giờ có hạn, nhiều ca sĩ không thể trình diễn thêm bài nữa theo yêu cầu. Chấm dứt ngày Khai Mạc Đại Hội với tiết mục xổ số hào hứng, và hẹn tái ngộ ngày Mai với cuộc rước kiệu trọng thể sùng kính Mẹ La Vang.

Đại Hội La Vang tháng 10/2013
Phan Văn Sỹ
– Trích từ Thánh Mẫu La Vang Las Vegas

ĐẠI HỘI THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

 ĐẠI HỘI THÁNH MẪU LA VANG LAS VEGAS 2013

“Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa”
Thứ Bảy 19/10, Ngày Thứ Hai Của Đại Hội.

19oct013

Đến hẹn lại lên theo lời mời gọi của hai MC: cha Quang và thầy Hưởng, mới tờ mờ sáng, trời còn ôm cuộn cái lạnh của mùa Thu tháng 10, nhiệt độ khoảng 65 F, giáo dân đã tuôn đổ về Đền Thánh sau một đêm nghỉ ngơi tại các khách sạn quanh Đền Thánh hay tại các Casino đã có giá ủng hộ cho khách hành Hương về tham dự Đại Hội theo yêu cầu của Ban Tổ Chức Đại Hội đã thương lượng trước với các cơ sở này.

7:00 a.m. Khởi đầu giờ chầu Thánh Thể tại thánh đường La Vang Las Vegas do cha Phêrô Chu Quang Minh, Sáng Lập Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình kiêm Phó Tổng Linh Hướng Đạo Binh Hồn Nhỏ Việt Nam Hải Ngoại hướng dẫn. Các anh chị em trong CTTTHN/GĐ và Hội Hồn Nhỏ đã tề tựu cùng khách hành Hương trong thánh đường. Chủ đề cho buổi chầu hôm nay là: “Bí Tích Tình Yêu”. Thật thế, Bí Tích Thánh Thể là tình yêu Chúa đã hiến tặng cho nhân loại để nuôi sống con cái Ngài nơi trần thế đang dong duổi trên đường hướng về quê vĩnh cửu. Phần chia sẻ Phúc Âm, cha Minh đã chia sẻ đoạn Lời Chúa theo thánh Gioan “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau…” (Gioan 13:33-35). Sau giờ chầu thật trang nghiêm, thật sốt sắng để phạt tạ Chúa về những lỗi phạm, những thiếu xót, để dâng lên Chúa một ngày mới thứ hai của Đại Hội, và để cảm tạ Chúa qua một ngày Đại Hội an lành và một đêm nghỉ ngơi bình yên.

8:00 a.m. Thánh lễ cầu nguyện cho bệnh nhân và chữa lành cho khánh hành hương tham dự Đại Hội tại Linh Đài do linh mục Joachim Lê Quang Hiền chủ tế, cha Phêrô Hoàng Văn Thi thuyết giảng sau phần Lời Chúa, trong bài giảng thánh lễ chữa lành, cha Thi kể câu chuyện cổ tích vui giữa ông phú hộ và thằng Bờm. Phú hộ giàu có nhưng luôn sống trong tâm trạng bất an, còn thằng Bờm nghèo nhưng luôn sống an vui, niềm vui đơn sơ giản dị, chất phát. Đối với nó chỉ có nắm xôi, cái quạt mo là nó có niềm vui “Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười!”. Có nắm xôi Bờm cười sung sướng, hãnh diện, nụ cười đầy đủ tròn trịa, không muốn tiền bạc nhiều nó chi phối đời sống đơn sơ bình dị của nó. Vì thế của cải thường ám ảnh lòng trí con người.

Là người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi chịu đau khổ, chịu vác Thánh Giá như Chúa đã đi trước, đã vác Thánh Giá. Đời sống con người theo triết thuyết Khổng Giáo xa xưa được chi phối bởi: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Biết như vậy, có người vui long nhận đau khổ, có người gặp đau khổ thì than trách. Tất cả chúng ta đến đây đều đi bao dặm đường để được xin ơn chữa lành bệnh tật cùng bao nguyện ước khác muốn dâng lên Mẹ để Mẹ chuyển cầu xin Chúa chữa lành. Nếu được như ý thì tốt đẹp, nếu không được ta có biết đó là thánh ý Chúa không? Ta phải hiểu ý Chúa theo ba ý:
1- Yes, được vì ý con đẹp lòng Ta, Chúa ban ơn.
2- No, không được vì điều con xin, không lợi ích cho linh hồn con.
3- Not Yet, chưa được, Ta nghĩ con chưa sẵn sang đón nhận con ta.
Chúa luôn sẵn sang đáp trả lời ước nguyện xin của chúng ta. Cái quan trọng là chúng ta có nhận ra những ơn ấy không? Nếu chúng ta không nhạy bén, không nhận ra, nhiều khi Chúa muốn để chúng ta gặp khó khan để chúng ta nhận ra thánh ý Ngài, đối với Ngài: “Với Chúa không có gì là không có thể”. Mt 8:14-17 “Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta”…
Sau lời chia sẻ của cha Thi, giáo dân lần lượt sắp hàng lên Linh Đài để được vị chủ tế và các linh mục đồng tế xức dầu chữa lành. Tiếp theo sau thánh lễ là cuộc xổ số hào hứng trước khi nghỉ giải lao để giáo dân vào các hội trường hầu chuẩn bị nghe thuyết giảng.

9:15 a.m. Cha Martino Nguyễn Bá Thông qua đề tài: “Tạ Ơn Chúa Trong Đau Khổ”, cha Thông có lối giảng thuyết dí dỏm, linh hoạt, vui tươi nhưng rất thực tế và thật đánh động tâm hồn mọi người nên số giáo dân tham dự rất đông, chật ních cả hội trưởng, cha Thông cho xem vài bức hình minh họa để nói lên lời khuyên răn con cái đối với cha mẹ là đầu mối của những xung đột trong gia đình, minh họa số một: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”; minh họa số hai: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ cũng là đi tu”.

a. Cha mẹ đối với con cái: Ngài nói đến Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên đền thờ theo luật người Do Thái: Mười hai tuổi ở Do Thái thời đó được coi như trưởng thành, tự mình dâng của lễ. Vì trưởng thành nên Chúa ngồi nói chuyện với các nhà Luật Sĩ. Khi Thánh Giuse và Đức Mẹ tìm thấy Chúa, Mẹ Maria trách khéo, thì Chúa nói: “Đây là công việc của con phải làm”, muốn nói lên sự tự do của con cái khi đến tuổi trưởng thành vì vậy:
1- Cha mẹ cần tôn trọng con cái.
2- Cha mẹ phải biết lắng nghe.
3- Thăm hỏi việc yêu thương, hòa nhã, nói xây dựng trước mặt không quát mắng tra hỏi hằn học.
4- Đừng so sánh con mình với con hang xóm làm chúng mất tự tin.
5- Kiên nhẫn với con cái như gương Mẹ Maria, đừng chửi phủ đầu.
6- Tạo tình thương cho con thấy không cần nói.
7- Tập cầu nguyện với con cái trong gia đình.

b. Con cái đối với cha mẹ:
1- Chấp nhận lắng nghe lời bố mẹ khuyên.
2- Đặt mình vào cái chân của bố mẹ, có nghĩa là hy sinh, tự thu mình bé nhỏ như luôn cần đến cha mẹ.
3- Tạo niềm tin nơi bố mẹ, tránh nói dối.
4- Phải có giờ cho cha mẹ thay cho giờ chơi games hay nhắn tin trên điện thoại.
5- Tạo niềm vui cho cha mẹ ở tuổi già.
Vậy đừng sợ sự thật, đừng sợ sửa chữa, ngã bao nhiêu lần cũng cố đứng dậy như Chúa vác Thánh Giá té xuống, Ngài đứng dậy hay nhờ ông Simon vác đỡ Thánh Giá. Hãy cầu nguyện, nhờ Chúa biến đổi, và chỉ có Chúa mới thay đổi được ta. Vì Người có quyền tạo dựng, thì Người cũng có quyền thay đổi. Hãy dâng cho Chúa để xin Chúa thay đổi chúng ta hầu gia đình chúng ta thành gia đình noi gương Thánh Gia Thất. Và nhất là luôn tạ ơn Chúa dù gặp hoàn cảnh nào, vì hoàn cảnh nào đưa đến cũng không ngoài thánh ý Chúa muốn tạo điều kiện để có lợi ích cho sự sống linh hồn chúng ta.

10:45 a.m. Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh, Giám Mục Địa Phận Kontum tiếp tục chia sẻ đề tài: “Cùng Mẹ Tạ Ơn Chúa”, ngài nói về những biến cố cuộc đời xảy đến cho chúng ta như biến cố 54, biến cố 75 sợ mà chạy qua Mỹ và các nước khác, sợ mà chạy vào Nam. Chính nhờ những khó khăn như cái dằm đâm vào như để nhắc nhở cho chúng ta phải đi đúng đường chúa muốn ta đi. Nhìn ra mới thấy sự kỳ diệu của việc Chúa làm. Nay những nơi này vùng Dân Tộc, 20 năm về trước chỉ có 5 hay 7 người theo đạo, nay lên đến 4 hay 5 ngàn người theo đạo.
Nhiều khi có những điều mình xin không được như ý thì ngã lòng, không đến sinh hoạt với cộng đoàn.

Chúng ta đang sống trong năm đức tin, sứ mạng của chúng ta là được sai đi và phải cố gắng giữ 3 điều.
1- Một đức tin.
2- Một giới luật.
3- Một lệnh truyền
Sau đề tài do Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh chia sẻ, mọi người nghỉ ngơi ăn trưa, để chiều tiếp tục tham dự thêm những đề tài lợi ích cho đời sống đạo hầu làm hành trang cho mỗi người khi quay về với nếp sống gia đình hầu tiếp nối đời sống đức tin thêm trọn hảo.

01:15 p.m. Cha Martino Nguyễn Bá Thông, tuy đã mang hết tâm huyết để chia sẻ đề tài: “Tạ Ơn Chúa Trong Đau Khổ”, nhưng được nhiều người yêu cầu và muốn được nghe cha thuyết giảng thêm nên ngài lại hy sinh tiếp tục trình bày thêm đề tài: “Tạ Ơn Chúa Trong Đời Sống Đạo”. Những ý chính qua phần thuyết trình đề tài của cha Thông: Tình dục và tiền bạc trong đời sống hôn nhân rất quan trọng, nó ảnh hưởng rất nhiều đến hạnh phúc gia đình.

Ít tiền hay nhiều tiền đều dễ gây sứt mẻ đời sống gia đình nếu chúng ta không biết tính toán chi tiêu hợp lý.

Về tình dục cần biết hòa hợp, trao đổi, nói chuyện. tình dục rất quan trọng trong đời sống hôn nhân, và xác thịt luôn là một phần của đời sống hôn nhân…đời sống đích thực là trở nên một như lời Chúa phán…đời sống vợ chồng cần luôn có Chúa. Cần cầu nguyện chung – thì hạnh phúc gia đình được bền vững.

03:00 p.m. là giờ: “Tạ Ơn Lòng Chúa Thương Xót” do cha Phaolô Phạm Quang Cường chủ sự và hướng dẫn, kèm theo là ban phát ơn Hòa Giải. Tất cả các linh mục đã ngồi vây quanh khuôn viên bên 14 Chặng Đàng Thánh Giá để cùng ban Phép Hòa Giải cho mọi giáo dân hành Hương xa gần về tham dự Đại Hội.

Sau giây phút Hòa Giải, nghỉ ngơi, ăn tối, mọi người sẵn sàng cho giờ văn nghệ để tâm hồn được thoải mái sau những giờ phút căng thẳng ngồi nghe những đề tài liên tiếp từ sáng đến giờ. Buổi văn nghệ hôm nay mang nhiều nét đặc biệt đi theo nội dung của chủ đề: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa” để nói lên lòng cảm tạ tình thương vô biên của Chúa qua Mẹ La Vang chuyển cầu để Cộng Đoàn có ngày hôm nay được thừa hưởng ngôi Đền Thánh khang trang, hầu có thể đón tiếp đông đảo con cái Mẹ từ khắp nơi về tham dự Đại Hội. Do đó buổi văn nghệ lấy chủ đề: “Tạ Ơn Chúa 10 Năm Thánh Hiến Đền Thánh”. Trong chương trình văn nghệ có những ca khúc như: Hợp ca “Khúc Cảm Tạ” do chị Tuyền phụ trách, hay “Bên Dòng Thời Gian”, nói lên những giai đoạn từ ngày khởi đầu xây dựng và phát triển Đền Thánh, Thánh Hiến và nối tiếp đến nay. Bài ca: “Trong Tình Yêu” do chị Thủy Phạm dàn dựng nói lên qua tình yêu Chúa và chỉ có tình yêu Chúa mới vượt thắng ba thù và cùng nhau siết chặt vòng tay cùng xây dựng Cộng Đoàn Mẹ La Vang. Sau đó hai bài vũ “Here I Am Lord” do 8 em trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể do Sơ Quyên đạo diễn và 8 em khác cũng trong Đoàn TNTT do Sơ Ngọc đạo diễn qua vũ khúc: “Tạ Ơn Chúa Với Mẹ”, nhìn các em vũ mọi người thật vui với lối diễn xuất ngây thơ nhưng chân thật của các em. Kết thúc buổi văn nghệ, Lm. ca sĩ Đồng Minh Quang song ca với ca sĩ Liêu Trinh bài; “Bao La Tình Chúa” để ngợi khen bao kỳ công Chúa đã ban xuống cho Cộng Đoàn Mẹ La vang và khách hành Hương trong mười năm qua.

7:30 p.m. Rước kiệu trọng thể kính Đức Mẹ La Vang. Đường rước kiệu của các Hội Đoàn và giáo dân tham dự năm nay đi đông hơn, sắp hàng rộng hơn và đường kiệu kéo dài hơn, lời ca thắm thiết sau những chục kinh Mân Côi vang rộng hơn xa hơn trên không trung để dâng lời chúc tụng ngợi khen Mẹ, cảm tạ Mẹ La Vang trong Tháng Mân Côi vì những ơn huệ Mẹ đã luôn luôn tuôn đổ xuống cho mọi giáo hữu về đây hành Hương kính viếng Mẹ. Mấy câu thơ nồng thắm của một giáo dân vẫn còn vang vọng ở Linh Địa La Vang Las Vegas đã đi vào ký ức mọi người đến tham dự Đại Hội:

“Lòng kính Mẹ, hay muốn cầu xin Mẹ,
Con tìm về với Đại Hội La Vang.…
“Sa Mạc Tình Yêu!” như áng mây chiều,
Che bớt nắng cho đời con …bão lửa!” (TBT).

Kiệu hoa năm nay thật rực rỡ với ánh đèn, với khói bay lên nghi ngút và luồng nước chảy từ Thập Giá Tình Yêu đổ xuống quanh xe hoa như luồng thác ân sủng Mẹ tuôn xuống qua Chúa. Mọi người trầm trồ khen ngợi công trình kiệu hoa năm nay do các anh Hùng, Đài, Thái và kỹ thuật phối trí, trang trí hoa, cây cảnh của chị Thy thật tuyệt vời, thật nghệ thuật, đã trang trí đúng ý của Lm. Nghệ sĩ Đồng Minh Quang phác họa ra logo hình cho xe hoa Đại Hội năm nay qua chủ đề: “Về Bên Mẹ Tạ Ơn Chúa”. Cám ơn những hy sinh đóng góp thật công phu của các tay nghề đã liên tục làm việc trong mấy tháng trời nay để có một xe hoa thật tuyệt vời khó có xe hoa nào sánh nổi.

Sau buổi rước kiệu trọng thể, sốt sắng, trang nghiêm và linh thánh là thánh lễ do Đức Cha Joseph A. Pepe, Giám Mục Giáo Phận Las Vegas chủ tế, cha Tổng Quản Bob Stoeckig thuyết giảng sau phần Phúc Âm, ngài nói: “Tôi rất hân hạnh được đến tham dự Đại Hội Thánh Mẫu La Vang kỷ niệm 10 năm tạ ơn ngày Thánh Hiến. Cộng Đoàn Mẹ La Vang đây đã đóng góp rất nhiều trong việc phát huy và duy trì đời sống đạo trong Giáo Phận Las Vegas, mặc dù bên cuộc sống bận rộn, nhiều những biến cố, thử thách khó khăn. Chúng ta cần luôn cảm tạ chúa dù qua bao nhiêu biến cố. Biết ơn là điều phải đạo đối với người thụ ơn. Thói thường người biết ơn thì ít, vô ơn thì nhiều.

Chúng ta học hỏi lòng biết ơn của Chúa Giêsu như là một bài ca cảm tạ vì bất cứ biến cố nào Chúa Giêsu cũng nhớ cảm tạ Đức Chúa Cha. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mọi người. Xin Đức Mẹ Maria chuyển lời để chúng con luôn biết tạ ơn Chúa và những ai làm ơn cho chúng ta…”

Sau thánh lễ, kết thúc ngày thứ hai của Đại Hội trong an bình và linh thánh. MC. cha Quang và thầy Hưởng chào hẹn gặp mọi người vào ngày mai trong thánh lễ bế mạc, ngài mời gọi và nhắc nhở mọi người đừng quên hiện diện trong thánh lễ bế mạc để nhận lãnh phép lành toàn xá của Đức Thánh Cha Phanxicô và hy vọng nhận lãnh lô độc đắc của vé xổ số cuối cùng.

Đại Hội Thánh Mẫu La Vang Las Vegas Tháng 10/2013

Joseph Phan văn Sỹ – Trích từ Thánh Mẫu La Vang Las Vegas

“Cầu nguyện là vấn đề đức tin, chứ không phải cảm giác”

“Cầu nguyện là vấn đề đức tin, chứ không phải cảm giác”

Có một bà mẹ gọi điện thoại cho cha xứ. Bà ấy mới thuyết phục được cô con gái đi tĩnh tâm và bà rất phấn khởi.

Trong cuộc đàm thoại, bà nói với cha xứ, “Con ao ước đứa con gái của con có một đức tin sâu đậm-giống như đức tin của con ngày xưa khi bằng tuổi cháu.”

Cha xứ trả lời quả thật là cô ấy có một đức tin sâu đậm. Có lẽ bây giờ bà không còn cảm thấy đức tin như ngày xưa, nhưng đó là vì bà đã trưởng thành và thăng tiến trong một chiều hướng mới.

Ông Keith Miller có cùng một nhận định quan trọng này trong cuốn The Taste of New Wine (Vị Rượu Mới).

Ông cho biết ông cảm thấy buồn khi không còn cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong khi cầu nguyện.

Rồi một ngày kia, bỗng dưng ông nhận ra sự sai lầm khi muốn cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa khi cầu nguyện. Nếu đó là lý do để ông cầu nguyện thì ông đã biến sự cầu nguyện thành một loại nuông chiều chính mình. Ông viết:

Tôi nhận ra rằng hầu hết cuộc đời tôi chỉ là một người duy cảm tâm linh, chỉ muốn cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong khi cầu nguyện, và tôi buồn khi không được…

Bởi đó tôi cố gắng cầu nguyện, dù có cảm thấy hay không, và rồi lần đầu tiên trong đời tôi thấy rằng chúng ta có thể sống dựa vào đức tin đơn thuần.

Hơn thế nữa, tôi thấy rằng chính sự cầu nguyện này lại giúp tôi cảm được sự hiện diện của Chúa nhiều hơn về sau.

Ông Keith không chỉ khám phá sự sai lầm khi luôn luôn muốn cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong khi cầu nguyện; ông còn học được điều quan trọng.

Ông biết một chân lý lớn lao về tâm linh rằng “ơn sủng nhờ sự cầu nguyện” thường xảy đến ngoài thời gian cầu nguyện.

Nói cách khác, có thể chúng ta chẳng cảm thấy gì trong khi cầu nguyện. Nhưng trên thực tế, một điều gì đó quan trọng và mỹ miều đang xảy ra.

Chúng ta đang vun trồng các hạt giống mà nó cần thời gian để nẩy mầm, để lớn lên và sinh hoa kết quả-sau này, bên ngoài thời gian cầu nguyện.

Và điều đó đã đưa chúng ta lại với nhau trong ngôi thánh đường này. Chắc chắn là có những lần chúng ta ao ước có được loại đức tin mạnh mẽ như của cô gái trung học trong câu chuyện mở đầu.

Có thể chúng ta từng bỏ cầu nguyện, vì chúng ta cảm thấy điều đó không giúp gì cho chúng ta.

Bởi đó, bài Phúc Âm hôm nay có một ý nghĩa đặc biệt cho chúng ta. Nó nói chúng ta phải kiên trì trong sự cầu nguyện, như bà goá trong dụ ngôn đã làm.

Và lý do chúng ta cần kiên trì là chính lý do mà chúng ta đã đề cập đến. Thiên Chúa làm sâu đậm thêm đức tin của chúng ta, đưa đức tin ấy ra ngoài mức độ cảm giác để đến mức độ đức tin.

Do đó, điều tệ hại mà chúng ta có thể vấp phạm là không kiên trì trong sự cầu nguyện, vì nó sẽ hủy hoại cả một tiến trình mà Thiên Chúa đã khởi đầu và đang tiến hành trong chúng ta.

Điều đó dẫn đến câu chuyện mà tôi muốn dùng để kết thúc. Câu chuyện này tóm lược những điều mà chúng ta vừa nói.

Một nhóm các thương gia ở Chicago từng gặp nhau để cầu nguyện suy niệm trong ba năm, và họ thường gặp nhau hàng tuần để hỗ trợ nhau và chia sẻ kết quả của sự cầu nguyện. Một hôm kia, có người nói:

Tôi phải chia sẻ với tất cả các bạn một điều quan trọng. Cách đây ba năm khi chúng ta bắt đầu, tôi nghĩ rằng chỉ sau khoảng một hai năm gì đó, mình trở nên một tay lão luyện về suy niệm. Nhưng sự thật lại trái ngược. Bây giờ tôi còn tệ hơn khi mới bắt đầu.

Một sự im lặng nặng nề. Rồi một người khác lên tiếng:

Anh Bob ơi, tôi rất vui khi thấy anh nói lên điều đó, vì tôi cũng rất giống anh. Bây giờ tôi thấy thật khó để suy niệm hơn khi mới khởi đầu. Có những lúc tôi thấy thật khô khan và trống rỗng. Nếu không vì nhóm này, có lẽ tôi không còn kiên trì được.”

Nghe đến đó, một người tên là Joe Cramblit lên tiếng:

Tôi sinh trưởng ở Wisconsin. Để tôi kể cho các anh nghe mùa bắp ở đó như thế nào. Tôi nghĩ nó có liên hệ đến tình trạng cầu nguyện của chúng ta.

“Sau khi hạt bắt được vùi xuống đất, điều đầu tiên chúng tôi làm là xin cho mưa xuống-thật nhiều mưa. Khi mưa xuống, bắp mới mọc lên. Đó là một cảnh tượng thật đẹp đến độ bạn chỉ muốn chạy ra ngoài cánh đồng và nhẩy múa.

“Sau đó chúng tôi làm một điều kỳ lạ-rất kỳ lạ, thực sự là kỳ cục! Chúng tôi cầu xin cho có quãng thời gian nắng gắt, thật khô cằn, để ép buộc rễ cái phải chui xuống đất tìm nước.

“Nếu quá nhiều nước, rễ bắp mọc ngang trên mặt đất và rễ cái không chui xuống đất tìm nước. Và như vậy, mùa màng sẽ kém vì khi mùa khô đến cây bắp không biết tìm đâu ra nước.

“Đây là điều tôi muốn nói. Thiên Chúa cũng thi hành điều tương tự với chúng ta trong sự cầu nguyện. Lúc đầu Thiên Chúa giúp chúng ta phấn khởi, thích thú trong sự suy niệm. Sau đó Thiên Chúa ban cho chúng ta giai đoạn khô khan với mục đích là buộc chúng ta phải đi sâu vào mức độ đức tin. Nếu điều này không xảy ra, chúng ta sẽ không sinh nhiều kết quả.

Không một ai trong nhóm có thể quên được sự giải thích đó.

Một người đại diện cho nhóm lên tiếng, “Tôi từng là người Công Giáo trong 50 năm và không ai giải thích sự quan trọng của đời sống tâm linh cho tôi cả.”

Chúng ta hãy kết thúc bằng việc suy niệm lời Chúa qua lời cầu sau:

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì những câu chuyện đầy phấn khởi của bà mẹ có đứa con gái tuổi trung học, của ông Keith Miller, và của người thương gia có cái nhìn sáng suốt về đời sống tâm linh mà nó phải phát triển, lớn lên và trưởng thành.

Xin Chúa giúp chúng con mở rộng tâm hồn để đón nhận hơn Chúa Thánh Thần, để chúng con kiên trì trong sự cầu nguyện, trưởng thành về tâm linh, và sinh kết quả.

Cha Mark Link

Cầu nguyện

Cầu nguyện

Đây là một dụ ngôn dễ hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai tình ảnh trái ngược. Một bên là bà goá nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan toà bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà goá, cầu nguyện luôn không được nản chí. Bà goá nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4 thái độ sau:

1. Thái độ khiêm nhường. Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ nghèo hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khoẻ để chống lại người ác. Không người bênh vực chống lại bất công. Không có cả tiền bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả. Chẳng còn gì. Chẳng có gì. Nói gương bà, khi cầu nguyện ta phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo nàn yếu đuối, biết mình chỉ là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã cùng đường, không còn nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực không thể thoát khỏi hoàn cảnh bi đát này.

2. Thái độ phó thác. Bà goá này không còn nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan toà như lối thoát duy nhất. Bà đặt niềm tin vào ông quan toà. Đó là niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng. Bà bám víu lấy ông quan toà. Bà phó thác vận mạng trong tay ông quan toà. Sự sống của bà ở nơi ông quan toà. Cũng thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh cho Chúa. Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta. Hơn nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa con bé nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng Chúa sẽ sắp xếp cho ta những gì tốt đẹp nhất.

3. Thái độ kiên trì. Chỉ còn một con đường duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng. Thất bại không làm bà nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc. Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế, khi cầu nguyện ta hãy kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác trong tay Chúa. Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng thương ta.

4. Thái độ khao khát. Bà khao khát vì đó là con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không ngồi đó chờ đợi. Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao khát đó. Bà không chán nản an nghỉ. Nhưng bà làm việc liên lỉ cho ước nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu nguyện ta phải có lòng khao khát cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ trong hành động. Ta không ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động. Không lùi bước trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng khao khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng với nỗ lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.

Chiêm ngắm tấm gương của bà goá, ta nhận thấy rất nhiều khi ta chưa cầu nguyện cho đủ. Chưa thực hiện sự khiêm nhường nhận biết sự thực về mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận mệnh trong tay Chúa. Chưa biết kiên trì đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức ta tích cực làm hết sức mình cho nguyện ước đó. Hôm nay với bài học của Chúa, ta sẽ biết cầu nguyện hơn. Khi biết cầu nguyện hơn, chắc chắn lời cầu nguyện của ta sẽ đẹp lòng Chúa và đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn ta hơn.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Kể ra những thái độ của bà goá mà ta cần noi theo khi cầu nguyện.
2. Đối với bạn Chúa là gì? Có phải là nguồn hy vọng duy nhất? Hay chỉ là một chỗ cậy nhờ như những chỗ khác?
3. Bạn có phấn đấu làm việc cho ước nguyện của mình không? Hay bạn chỉ ngồi chờ Thiên Chúa ban tặng?
4. Trong 4 thái độ cần có, bạn thiếu thái độ nào nhất?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

CHÚA GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆN

CHÚA GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆN

Theo tục lệ của người Do thái, Chúa Giêsu cầu nguyện một ngày 3 lần: buổi sáng khi mặt trời mọc, buổi chiều vào lúc cử hành hy tế trong đền thờ Giêrusalem (3giờ chiều) và ban tối khi màn đêm buông xuống. Trước và sau bữa ăn còn có những lời kinh tạ ơn. Các giờ cầu nguyện đó là thói quen hàng ngày của bất cứ người Do thái đạo đức nào. Nhưng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu còn có một cái gì đó vượt cao hơn mô hình truyền thống Do thái.

1. Chúa Giêsu cầu nguyện

Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Ga Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.

Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.

Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21).

Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).

Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42).

Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.

Chiêm ngắm Chúa Giêsu cầu nguyện, ta có thể hiểu rằng:

– Tư thế cầu nguyện rất linh động: có thể quỳ, có thể đứng, có thể ngồi… Ánh mắt ngước lên trời cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Cha trong cõi vô biên, hoặc nhắm mắt lại để cho hồn xoáy vào vô biên ấy.

– Nội dung cầu nguyện là ngỏ bày tâm tình của mình cho Chúa Cha. Tâm tình có khi là ngợi khen, chúc tụng, cảm tạ, có khi là thống hối, cầu xin. Luôn luôn kết thúc bằng hai ý nguyện: xin đừng theo ý con mà là theo ý Cha và con xin phó thác hồn con trong tay Cha.

– Nơi chốn cầu nguyện có thể là một nơi thanh vắng (Lc 5,16), trên núi (Lc 6,12;9,28), mà cũng có thể là nơi chỗ đông người (Ga 12,28).

– Thời gian cầu nguyện là bất cứ lúc nào, nhưng tốt nhất là sáng sớm tinh mơ hay lúc đêm về.

– Đỉnh cao của cầu nguyện chính là “xin đừng theo ý con mà theo ý Cha”.

2. Chúa Giêsu dạy cầu nguyện

Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.

Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy về sự cần thiết và hiệu nghiệm của lời cầu xin. Phải cầu nguyện liên lỉ, đừng bao giờ nhàm chán, đừng ngã lòng. Chúa dùng Dụ ngôn minh hoạ, ông quan toà bất lương gặp bà goá kêu nài.

Bà góa cô thân cô thế nhưng lại kiên trì cương quyết, bà tin chắc cứ kêu nài, cứ van xin, thế nào quan tòa cũng chịu xét xử. Quan tòa là người chẳng sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng cũng chịu thua bà góa. Ông minh xử cho bà goá không phải vì yêu thương, chẳng phải vì trách nhiệm mà là vì sợ bị quấy rầy. Một quan tòa vô đạo, bất công mà còn xét xử cho người van xin thì huống là Thiên Chúa, Đấng công minh chính trực, thưởng phạt công bằng, Đấng giàu lòng xót thương, luôn bênh đỡ những kẻ bé mọn kêu cầu Ngài!

Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý nói phải cầu xin thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhậm lời, nhưng Người muốn chúng ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, bởi vì “Có người cha nào, khi con mình xin cái bánh mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,9-11).

3. Sự cần thiết của đời sống cầu nguyện

Sống lời Chúa Giêsu dạy, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu cầu nguyện liên tục, không ngừng, ngày đêm. Ngài nói lên sự cần thiết của cầu nguyện bằng những lời tâm tình mời gọi: “Hãy chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12,12); “Anh em hãy bền đỗ cầu nguyện, tỉnh thức cầu nguyện và tạ ơn” (Co 14,2), “Đừng ngớt cầu nguyện” (1Thes 5,7; Rm 8,26-27).

Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết, tối quan trọng, là một vấn đề sinh tử. Thánh Gioan Kim Khẩu so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu cá bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên cần phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu việt không khác nào cá phải chết vì không có nước.

Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ thành tiều tuỵ, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, linh hồn ta sẽ chết đi trước mặt Chúa.

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của người Kitô hữu. Một đức tin không có cầu nguyện thì chỉ là một niềm tin vô ngã, vật chất.

Cầu nguyện là lẽ sống. Lời cầu nguyện có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động.

4. Đỉnh cao cầu nguyện

Phần đông người tín hữu chúng ta ít khi biết cầu nguyện trong thinh lặng. Hễ cầu nguyện là chỉ biết đọc kinh. Đọc kinh ở nhà thờ, đọc kinh ở nhà. Có khi đọc kinh nhiều mà cầu nguyện chẳng bao nhiêu. Nhưng phút giây thinh lặng là những phút giây quan trọng để lắng nghe Chúa nói. Đỉnh cao của cầu nguyện là thinh lặng kính thờ Chúa.

Cầu nguyện không phải là vấn đề của kiến thức hay kỹ thuật. Cầu nguyện luôn đi đôi với đức tin và lòng mến. Vì thế phải cầu nguyện trong Thánh Thần (Rm 8,1), đơn sơ (Lc 18,15-17), khiếm tốn (Lc 18,14), trong thầm kín (Mt 6,6).

Khi cầu nguyện tâm trí được nâng lên cùng Thiên Chúa hầu suy tôn, tán tụng, cảm mến, tạ tội, xin ơn. Trình độ cầu nguyện cao nhất là : xin đừng theo ý con mà theo ý Cha.

Trong một thế giới ồn ào náo động như hiện nay, một thế giới bị ô nhiễm về môi sinh và bị ô nhiễm về tinh thần, người Kitô hữu phải là chứng nhân cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện vì muốn nên giống Chúa Giêsu, Đấng hằng cầu nguyện liên lỉ với Cha và dạy chúng ta cách thức cầu nguyện.

Lạy Chúa Giêsu, chiêm ngắm Chúa cầu nguyện, lắng nghe Chúa dạy cầu nguyện, chúng con nhận thấy đời sống cầu nguyện thật cần thiết cho đời tâm linh. Xin cho chúng con luôn yêu mến đời sống cầu nguyện; xin cho chúng con xác tín rằng, tự sức riêng, chúng con không làm được gì cả, nhưng với ơn Chúa, chúng con làm được nhiều điều tốt lành trong cuộc sống hàng ngày. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An