Giáo Chủ Công Giáo Ucraine Đông Phương hy vọng hòa giải với Chính Thống Nga

Giáo Chủ Công Giáo Ucraine Đông Phương hy vọng hòa giải với Chính Thống Nga

KOLYMYYA. Đức TGM trưởng Sviatoslav Shevchuk, Giáo chủ Công Giáo Ucraine nghi lễ đông phương, hy vọng tiến trình hòa giải với các vị lãnh đạo Chính Thống Nga, theo sau Sứ điệp hòa giải giữa Ba Lan và Nga.

Hôm 17 tháng 8-2012, trong cuộc viếng thăm lịch sử tại Ba Lan, Đức Thượng Phụ Kirill I, Giáo chủ Chính Thống Nga, đã ký một tuyên ngôn chung với Đức TGM Michalik, Chủ tịch HĐGM Ba Lan, kêu gọi dân tộc Ba Lan và Nga loại bỏ mọi phẫn nộ và thành kiến đối với nhau từ nhiều thế kỷ và cộng tác với nhau để duy trì căn tính Kitô của đất nước liên hệ.

Phản ứng về sự kiện này, Đức TGM Shevchuk tuyên bố rằng: ”Chúng ta cũng phải đi theo cùng con đường hòa giải như vậy, nếu không sẽ không thể ngăn chặn sự Nga hóa tại Ucraine và nạn ghét người Ucraine ở Nga.. Nếu chúng ta cố gắng giải quyết những vấn đề đau thương trong quá khứ với tư cách là Kitô hữu, dưới ánh sáng Tin Mừng, và chữa lành ký ức bằng đường lối hòa giải, thì chúng ta có thể kiến tạo một cái gì có tính chất xây dựng”.

Đức TGM giáo chủ Công Giáo Ucraine cũng nhận xét rằng ”Tuyên ngôn chung không nói rõ người Ba Lan phải tha thứ cho người Nga về điều gì và Giáo Hội Chính Thống muốn xin lỗi Giáo Hội Công Giáo la tinh ở Ba Lan về điều gì, nhưng Tuyên ngôn này là một tấm gương hùng hồn”.

Các tín hữu Công Giáo la tinh và Đông phương ở Ucraine chỉ chiếm 10% trên tổng số gần 50 triệu dân tại nước này. 1 phần 3 còn lại trong dân Ucraine là tín đồ Chính Thống giáo, nhưng họ thuộc 3 Giáo Hội cạnh tranh nhau. Quan hệ giữa Công Giáo Đông phương và Chính Thống Nga ở Ucraine cũng bị căng thẳng từ nhiều thập niên qua vì dưới thời Liên Xô, Nhà nước cộng sản triệu tập một công nghị giả tạo, tuyên bố giải tán Giáo Hội Công Giáo Đông phương và ép sáp nhập vào Chính Thống Nga cùng với các thánh đường và tài sản liên hệ. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, các tín hữu Công Giáo Đông phương phục hồi tài sản, đòi lại các thánh đường. Chính Thống Nga gọi hành động này là ”Sự chiêu dụ tín đồ của Công Giáo”.

Đức TGM trưởng Shevchuv than phiền rằng Đức Thượng Phụ Kirill của Chính Thống Mascơva dường như sẵn sàng nói chuyện không những với thủ lãnh toàn thể Giáo Hội Công Giáo (ĐGH), nhưng với cả thủ lãnh của một Giáo Hội quốc gia.. nhưng các cuộc đối thoại của Chính Thống Nga về các tín hữu Công Giáo Ucraine chỉ diễn ra tại Vatican và hầu như luôn luôn không có chúng tôi” (CNS 24-8-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

GIA ĐÌNH TÔI TÔN THỜ THIÊN CHÚA

 GIA ĐÌNH TÔI TÔN THỜ THIÊN CHÚA

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN B
[Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6,54a.60-69]
 
Liên tiếp những tuần qua, Lời Chúa đề cập đến Lương Thực Trường Sinh là chính Thịt và Máu Chúa Giê-su, Đấng bởi trời mang Bánh Bởi Trời đến cho con người. Ai TIN và tiếp rước Người, thì được sống đời đời.  
 
Lời Chúa hôm nay cho thấy thái độ tiếp nhận Lời rao giảng ấy nơi một số môn đệ Chúa Giê-su: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!". Vâng đúng hơn là nghe thì được mà họ không chấp nhận được, không tin được hay chưa tin được! Trước thái độ khó chấp nhận Tin Mừng, Chúa Giê-su lại xác quyết “Lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống”.  
      
Để có thể TIN được Lời Chúa, con người phải thành tâm tìm kiếm sự công chính và Nước Thiên Chúa mới được Chúa Cha ban cho Thần Khí khôn ngoan mà chấp nhận chân lý, vì “Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho” 
      
Bởi vậy đã có những người không thành tâm theo Chúa, không thành tâm tìm kiếm Lương Thực ban sự sống đời đời, không tin có sự sống đời sau đã rút lui bỏ cuộc, không theo Ngài nữa.  
      
Tôn trọng tự do của các tông đồ, Chúa Giê-su hỏi họ “Cả các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi không?” Simon Phêrô thưa Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa”. 
      
Ông Simon Phê-rô, người đánh cá ít học, đã đại diện cho anh em tuyên xưng không bỏ Chúa Giê-su, nhưng theo Chúa vì Chúa có Lời Ban Sự Sống Đời Đời. 
      
Tính cách Đại Diện của Phê-rô có liên quan đến tính cách Đại Diện của Giosuê thời Cựu Ước, khi ông triệu tập triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem, rồi gọi các kỳ lão, các thủ lãnh gia tộc, quan án, sĩ quan đến, và họ đứng trước mặt Thiên Chúa. Giosuê liền nói với toàn dân như thế này: "Nếu các ngươi không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn: hôm nay, các ngươi hãy tuỳ ý chọn phải tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông các ngươi đã tôn thờ ở Mêsôpôtamia, hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở. Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa". 
      
“Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa". Câu tuyên xưng của Giosuê có ảnh hưởng nhất định đến quyết định của toàn dân. Vì thế toàn dân đã trả lời: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại. Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã dẫn chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nhà nô lệ. Người đã làm những việc kỳ diệu cả thể trước mắt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt con đường chúng tôi đã đi, giữa tất cả mọi dân chúng tôi đã đi qua. Chúa đã trục xuất tất cả những dân đó cũng như người Amôrê trên phần đất chúng tôi đã tiến vào" 
      
Lời Chúa đã vang vọng hai ngàn năm rồi. Lời Chúa đã  được lưu truyền rao giảng, dẫn giải từ thế  hệ này đến thế hệ khác, và nhất là đã trở nên đời sống của các chứng nhân anh dũng về Thiên Chúa, về Nước Thiên Chúa, về Sự Sống Lại, về Đời Sau. Nhưng, cho đến nay, việc đón nhận và sống theo Lời Chúa vẫn mãi còn là một thách thức lớn lao đối với mỗi người chúng ta, nhất là những người đang làm nhiệm vụ đại diện, những mục tử, cách riêng cho những gia trưởng trong gia đình. Cũng vậy, các Kitô Hữu Công Giáo luôn phải đứng trước sự lựa chọn giữa Đức Tin và vô thần, hoặc giữa việc Tôn Thờ Thiên Chúa với việc tôn thờ các thực tại trần gian. 
      
– Trước đây, một số nơi, gia đình những người công giáo Việt Nam thường có cây Thánh Giá ngay trước cổng nhà mình. Tuy không để câu “Gia đình tôi tôn thờ Thiên Chúa” nhưng đó là dấu chỉ của một niềm tin vào Chúa Ki tô, vào Thập Giá Cứu Rối, vào Lời Chúa. Sau năm 1975, có một thời, cây Thánh Giá trước cổng nhà không còn nữa, bị buộc phải dỡ bỏ đi vì “có thờ thì đem vào nhà mà thờ”. Thế là bà con ta phải theo cách “nay giấu cất để mai sau sẽ trưng bày” cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.  
      
Mãi  đến hôm nay, thì hầu như dấu chỉ ấy chưa có cơ hội để phục hồi! Vẫn chưa đến kỳ “trưng bày”. Vẫn còn thời “giấu cất”! Đến bao giờ thì người công giáo Việt Nam mới có thể đặt trước nhà mình một câu tuyên xưng công khai rằng “Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa". 
      
Cũng những ngày ấy, các xứ đạo toàn tòng hầu như  được trúng tuyển đi kinh tế mới không phải vì hảo ý tìm kế sinh nhai mà là  vì để phân tán mỏng những “gia đình tôn thờ Thiên Chúa” cho họ không còn điều kiện tôn thờ Thiên Chúa nữa vì xa nhà thờ, vì vắng chủ chiên! Tạ ơn Chúa vì Ngài vẫn thương gìn giữ con cái Chúa sống trong Đức Tin và nhờ Đức Tin được gieo vãi, nhờ đời sống hạt lúa mì chịu mục nát đi của các giáo dân, mà hầu hết các vùng kinh tế mới nay đã trở nên một Giáo Xứ mới, một ngôi nhà Tôn Thờ Thiên Chúa sống động. 
      
– Không vì những thành quả chung chung ấy mà quên  đi một thực tế đau lòng: Đến nay, điểm lại, mấy chục năm qua, từ chỗ “Đói lòng ăn hột chà là.Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”, rồi từ chỗ “ăn no mặc ấm” đến “ăn ngon mặc đẹp”… con người ta tưởng như thế là hạnh phúc, hoặc đã đủ hạnh phúc, rồi quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa ngay trong chính gia đình mình. Và cũng từ đó, không lấy gì làm xót xa đau lòng khi chính họ đang dần dần bỏ Chúa, dần dần lãng quên sự hiện diện của Chúa. 
      
Không dám dặt vấn đề trách nhiệm của những đại diện, những lãnh đạo tôn giáo, chỉ xin đề cập đơn vị nhỏ nhất của Giáo Hội là Gia Đình và trách nhiệm bảo vệ Đức Tin công giáo của những người làm cha mẹ:
      
Sắp hết đời của những con người làm cha mẹ đã từng sống hai thời kỳ, và sẽ còn lại một thế hệ hậu duệ có tuổi từ 37 trở xuống. Đã có không ít những người làm cha mẹ buồn lòng vì con cái thời nay chúng nó không muốn giữ đạo nữa, hoặc nếu có, thì cũng chỉ vì đức tin ông bà hơn là vì thành tâm tìm kiếm sự sống chính của Thiên Chúa.  
      
Trong đoạn nhật ký của anh bạn tôi, có viết: “Các con thân mến, Cha có lỗi với các con, vì đã quá bận tâm đến cải củ khoai củ nần, đến miếng cơm manh áo, mà lơ là việc giáo dục đức tin cho các con thuở còn nhỏ. Sau những ngày thơ ấu, cố gắng kiếm cho con cái chữ, giao phó con cho nhà trường. Hết tiểu học, rồi trung học. Cố gắng cho con đi đại học. Học cái gì cha không hiểu. Chỉ biết, kết quả sau mười mấy năm cố gắng của cha là các con nhận được một nhân cách mới: nhân cách vô đạo. Các con coi thường việc giữ đạo của Cha Mẹ, xem nhẹ việc đọc kinh cầu nguyện, không bận tâm việc đọc và sống Lời Chúa, lơ là việc đi lễ, xưng tội, rước lễ, bài bác việc bác ái, việc tông đồ của cha. Con nói: “Sống như thế thì lấy gì mà ăn?”. Chúa ơi! Gia đình con không bỏ Chúa mà! Gia đình con tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy cứu lấy chúng con!”  
      
Thiết tưởng tâm tư của anh bạn tôi, cũng là tâm tư  của bạn của tôi, của chúng ta trong những ngày này, và  nhất là hôm nay, trước câu hỏi của Chúa Giê-su dành cho mỗi người, cách riêng cho những người đại diện gia đình, các gia trưởng: “Cả các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi không?”. Và câu trả lời của chúng ta, phải là: “Chúng con tin vào Chúa Giê-su, Đấng Kitô Con Thiên Chúa”, và Gia đình chúng tôi tôn thờ Thiên Chúa”, 
      
Nguyện xin Chúa cứu lấy gia đình chúng con trước hiểm họa mất Đức Tin. Ước gì mỗi nhà, mỗi người chúng con khi chưa phục hồi được cây Thánh Giá trước cổng, khi chưa đặt được ở trước nhà hàng chữ: “Gia đình chúng tôi tôn thờ Thiên Chúa”, thì mỗi thành viên trong gia đình chúng con vẫn biết yêu mến, tin tưởng và tôn thờ Chúa, sống nhờ Lời Chúa và Thánh Thể Chúa trong hành trình về với cõi sống ngàn thu. 

 
PM. Cao Huy Hoàng

Bổn phận gửi các thừa sai đi truyền giáo và trợ giúp các Giáo Hội nghèo

Bổn phận gửi các thừa sai đi truyền giáo và trợ giúp các Giáo Hội nghèo

Trong tháng 9 tới đây Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mời gọi chúng ta hiệp ý với tín hữu công giáo toàn thế giới cầu xin cho các cộng đoàn kitô sẵn sàng gửi các thừa sai linh mục và giáo dân đi truyền giáo và gia tăng trợ giúp cụ thể cho các Giáo Hội nghèo nhất.

Ngay từ thời khai sinh, Kitô giáo đã mang sắc thái đại đồng, vì bao gồm các tín hữu thuộc mọi chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ, không phân biệt và kỳ thị ai. Mọi người đều là anh chị em với nhau, con của cùng một Thiên Chúa là Cha, đều là môn đệ của và là em của Đức Giêsu Kitô Trưởng Tử, và đều sống Tin Mừng yêu thương. Do đó, việc chia sẻ với nhau và cho nhau đã được kitô hữu thực thi ngay từ ban đầu như kể trong sách Công Vụ: ”Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu” (Cv 2,44-45).

Cũng chính tình yêu thương bác ái tương trợ lẫn nhau ấy đã khiến cho Tông Đồ Phaolô phát động chiến dịch lac quyên trong các giáo đoàn và khuyến khích tín hữu quảng đại đóng góp để trợ giúp tín hữu của giáo đoàn mẹ ở Giêrusalem đang gặp đói kém khó khăn, như được nhắc tới trong chương 8 thư thứ II gửi tín hữu Côrintô.

Ngày nay khi duyệt xét tình hình Giáo Hội trên năm châu, chúng ta nhận ra ngay nhiều nhu cầu khác nhau. Có những cộng đoàn phải sống trong cảnh chiến tranh bạo lực và loạn lạc như bên Siria, Sudan, Congo Zair, Somalia. Có những cộng đoàm khác phải sống trong cảnh hạn hán, mất mùa đói kém như bên Etiopia, Eritrea, Somalia. Nhiều cộng đoàn khác nữa lại bị bách hại và kỳ thị như bên Ấn Độ, Irak và Nigeria. Và đây là đều khó tin nhưng số tín hữu kitô bị kỳ thị bách hại trên thế giới lên đến hơn 200 triệu, trong đó có tín hữu các giáo đoàn phải sống dưới các chế độ độc tài vô thần như Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam. Nói chung các Giáo Hội tại các vùng truyền giáo nghèo như Á châu, Phi châu và châu Mỹ Latinh vừa cần các thừa sai vừa cần các trợ giúp vật chất. Trong khi các Giáo Hội tại các nước giầu tây Âu không cần trợ giúp vật chất, nhưng lại đang cần các thừa sai, vì số ơn gọi linh mục qúa ít, và vì tình trạng tục hóa nặng nề khiến cho nhiều người xa rời Giáo Hội và không còn biết Chúa nữa. Các quốc gia kitô xưa kia từng gửi biết bao nhiêu thừa sai đi truyền giáo khắp nơi, giờ đây lại trở thành các vùng truyền giáo và cần có các thừa sai.

Trong sứ điệp gửi Ngày thế giới truyền giáo năm 2009 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tái khẳng định sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Sứ mệnh của Giáo Hội là mời gọi mọi dân tộc đến với ơn cứu độ, do Thiên Chúa thực hiện qua người Con nhập thể của Người là Đức Giêsu Kitô. Vì thế cần phải canh tân dấn thân loan báo Tin Mừng, là men của sự tự do, tiến bộ, tình huynh đệ, hiệp nhất và hòa bình (Ad Gentes 8). Đức Thánh Cha viết: Tôi muốn ”tái xác nhận rằng lệnh truyền rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người, là Sứ mệnh nòng cốt của Giáo Hội” (Evangelii Nuntiandi, 14), là bổn phận và sứ mệnh mà các thay đổi sâu rộng của xã hội khiến trở thành cấp thiết hơn nữa. Vấn đề ở đây là ơn cứu rỗi đời đời của con người, là chính sự kết thúc và thành toàn của lịch sử của nhân loại và của vũ trụ. Được linh hoạt và gợi hứng bởi vị Tông Đồ của các quốc gia, chúng ta phải ý thức rằng Thiên Chúa có một dân tộc đông đảo trong tất cả mọi thành phố được rảo qua, bởi cả các tông đồ ngày nay nữa… Toàn thể Giáo Hội phải dấn thân trong sứ mệnh đến với muôn dân… Tôi xin nhắc nhớ cho các Giáo Hội kỳ cựu cũng như cho các Giáo Hội mới được thành lập biết rằng họ được Chúa đặt để như là muối đất và ánh sáng thế gian, họ được mời gọi loan truyền Chúa Kitô, Ánh Sáng các Quốc gia, cho tới tận cùng bờ cõi trái đất. Việc truyền giáo phải là điểm ưu tiên trong các chương trình mục vụ.

Tôi cũng xin cám ơn và khích lệ các Hiệp hội giáo hoàng truyền giáo vì công tác linh hoạt không thể thiếu, cũng như việc đào tạo truyền giáo và trợ giúp kinh tế cho các Giáo Hội trẻ. Qua các cơ quan giáo hoàng này sư hiệp thông giữa các Giáo Hội được thể hiện một cách đáng khâm phục, với việc trao đổi qùa tặng, trong sự lo lắng cho nhau và trong các dự án truyền giáo chung.

Đức Thánh Cha viết tiếp trong sứ điệp: Sự hăng say truyền giáo đã luôn luôn là dấu chỉ sức sinh động của các Giáo Hội. Tuy nhiên cần phải phải tái khẳng định rằng việc rao truyền Tin Mừng là một công trình của Thần Khí, trước khi là một hoạt động, nó là chứng tá và sự dãi tỏa ánh sáng của Chúa Kitô từ phía Giáo Hội địa phương, gửi các thừa sai nam nữ đem chúng vượt qúa các biên giới của mình. Chính vì thế tôi mời gọi tất cả mọi tín hữu công giáo cầu xin Chúa Thánh Thần để Người làm lớn lên trong Giáo Hội sự đam mê truyền giáo, là việc rộng mở Nước Chúa, nâng đỡ các thừa sai nam nữ và các cộng đoàn kitô dấn thân hàng đầu trong Sứ Mệnh này, đôi khi trong các mội trường thù nghịch của bách hại.

Đồng thời tôi cũng xin các tín hữu công giáo cho một dấu chỉ đáng tin cậy của tình hiệp thông giữa các Giáo Hội, bằng một đóng góp kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng mà nhân loại đang trải qua này, để cho các Giáo Hội trẻ có điều kiện soi sáng muôn dân bằng Tin Mừng bác ái.

Với các tâm tình trên đây trong tháng 9 tới này hiệp ý với Đức Thánh Cha Biển Đức XVI và tín hữu công giáo toàn thế giới chúng ta hãy cầu xin cho các cộng đoàn kitô sẵn sàng gửi các thừa sai linh mục và giáo dân, và gia tăng trợ giúp cụ thể cho các Giáo Hội nghèo nhất.

Linh Tiến Khải

Các chủng viện (Thượng Hải) hoãn khai giảng năm học mới

Các chủng viện (Thượng Hải) hoãn khai giảng năm học mới

UCANEWSVIETNAM

Giáo phận Thượng Hải chứng kiến thêm cảnh bất hòa sau vụ điều tra lễ tấn phong giám mục của Đức cha Thaddeus Ma Daqin.

Các chủng viện ở Thượng Hải hoãn khai giảng năm học mới vào tháng tới, một động thái được các linh mục cho là đánh dấu tình hình căng thẳng mới nhất sau khi một giám mục bất ngờ từ chức trong Hội Công giáo yêu nước Trung Quốc hồi tháng trước.

Cũng có thông báo bề trên một dòng nữ trong giáo phận bị sa thải.

Đức Giám mục phó Aloysius Jin Luxian, đứng đầu Giáo hội "công khai" ở Thượng Hải, yêu cầu Đại Chủng viện Sheshan và Tiểu Chủng viện Tailaiqiao hoãn các lớp học "cho đến khi có thông báo mới" do "tình hình hiện nay" nhưng không giải thích rõ lý do.

"Thông báo ngắn gọn nhưng khiến chúng tôi bị sốc" – một linh mục yêu cầu giấu tên do tình hình nhạy cảm phát biểu hôm 21-8.

Một nguồn tin Giáo hội cũng từ chối nêu tên tiết lộ rằng các lãnh đạo Giáo hội trong các vùng gần Thượng Hải dự định phản đối quyết định này với chính quyền tỉnh.

Đại chủng viện Sheshan thu nhận các chủng sinh đến từ năm tỉnh lân cận thuộc miền trung đông Trung Quốc gồm An Huy, Chiết Giang, Giang Tây, Giang Tô and Phúc Kiến cũng như chủng sinh ở Thượng Hải, thành phố tự trị.

"Sheshan là chủng viện khu vực nên lẽ ra không bị liên lụy đến vụ tấn phong giám mục" – một nguồn tin Giáo hội khác cũng yêu cầu không tiết lộ danh tánh cho biết.

Thông báo được phát hành một vài ngày sau khi Giáo hội được nhà nước bảo trợ thông báo hôm thứ Sáu rằng đã sa thải nữ tu Agnes Liu Shujing, Tổng phụ trách dòng Đức Mẹ Dâng Mình, và nhà dòng cũng đã hủy bỏ khóa đào tạo một tuần dành cho 86 nữ tu của nhà dòng.

"Chúng tôi sẽ vâng lời vì đây là quyết định của giáo phận – một nữ tu trong dòng nói – Cho dù tình hình rối ren đến thế nào đi nữa, chúng tôi cũng phải chu toàn bổn phận".

Cho đến nay chưa có một lời giải thích chính thức nào về quyết định sa thải hay việc hủy bỏ khóa huấn luyện.

Tin cho biết nữ tu Liu đã "không hợp tác" khi chính quyền địa phương nhiều lần triệu tập chị sau khi một số nữ tu tẩy chay lễ tấn phong giám mục cho Đức Giám mục phụ tá Thaddeus Ma Daqin vì có sự hiện diện của một giám mục bất hợp thức trong Thánh lễ.

Các nguồn tin cho biết chị Liu đã trì hoãn thông báo cho các nữ tu tham dự lễ tấn phong giám mục hôm 7-7.

Trong khi đó, Đức cha Ma – tâm điểm gây tranh cãi ở Thượng Hải – vẫn còn ở chủng viện Sheshan và vẫn không được phép mặc lễ phục giám mục, theo một nguồn tin tại chủng viện từng gặp ngài.

"Ngài trông xanh xao và gầy đi" – nguồn tin nói thêm.

Đại diện Tòa Thánh thăm giáo dân tỉnh Điện Biên, Sơn La

Đại diện Tòa Thánh thăm giáo dân tỉnh Điện Biên, Sơn La

UCANEWSVIETNAM

Phái đoàn thăm được bảy cộng đoàn Công giáo nhưng chỉ được làm mục vụ ở năm nơi

Vị đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam vừa có chuyến thăm mục vụ đặc biệt đầu tiên tới các cộng đoàn Công giáo xa xôi chưa được chính quyền địa phương công nhận ở hai tỉnh Sơn La và Điện Biên.

Dù mưa lớn gây ngập lụt và sạt lở nhiều đoạn trên đường dài 500km từ Hòa Bình lên Điện Biên, Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, Đức cha Gioan Vũ Tất của Hưng Hóa và tám linh mục đã viếng thăm bảy cộng đoàn Công giáo ở Mộc Châu, Mai Sơn, Mường La, thành phố Sơn La, Mường Ảng, Tủa Chùa và thành phố Điện Biên.

Tại bốn nhà nguyện ở tỉnh Sơn La và một ở tỉnh Điện Biên, các ngài ban bí tích Thêm Sức cho khoảng 300 người H’mông và 200 người Kinh. Thánh lễ và bài giảng bằng tiếng Latin và tiếng Anh được dịch ra tiếng Việt và H’mông.

Các nhà nguyện có diện tích từ 100-200m2, nên không đủ sức chứa lượng người ước tính từ 500-1.500 người tham dự mỗi nơi, bà con phải ngồi tràn ra cả sân và ven đường tham dự lễ qua màn hình lớn. Người H’mông phải đi từ 40-200km mới tới được nơi có lễ và phải thuê xe khách đi từ hôm trước.

Bà con xếp hàng cả tiếng trước nhà nguyện tay cầm cờ vàng trắng chờ đón đoàn và hô vang “Viva Papa”, “Đức Thánh Cha trường thọ”, “Hoan hô Đức tổng đại diện Tòa Thánh tới viếng thăm”.

“Cha thấy các con rất vui vẻ và hạnh phúc mặc dù các con đang phải trải qua nhiều gian nan thử thách trong đời sống đức tin. Ở nơi các con một lòng sống đạo can đảm làm chứng cho Chúa” – Đức cha Girelli nói với cộng đoàn.

Ngài động viên họ “trở lên người Công giáo tốt và người công dân tốt, xin Chúa chúc lành, nâng đỡ và bảo vệ cho các con, ban thêm sức mạnh để các con trở thành những nhà truyền giáo đem ánh sáng Tin Mừng đến cánh đồng truyền giáo mênh mông này”.

Còn tại hai cộng đoàn Mường Ảng và Tủa Chùa, phái đoàn chỉ đến thăm, nghe báo cáo tình hình và ban phép lành cho giáo dân, vì chính quyền hai huyện này không cho phép đoàn cử hành Thánh lễ.

Tại những nơi đoàn đến thăm, nhân viên an ninh mặc thường phục rất đông đến đợi sẵn, quay phim chụp hình nhưng không ngăn cản ra mặt.

“Việc an ninh theo dõi chặt chẽ tại các nhà nguyện là một điều tốt, vì điều đó sẽ giúp cho chính quyền hiểu rõ hơn sinh hoạt tôn giáo của người Công giáo” – linh mục Phêrô Phạm Thanh Bình, quản nhiệm các cộng đoàn ở tỉnh Điện Biên, nhận xét.

Cha Bình cho biết Tòa Giám mục Hưng Hóa sắp xếp chuyến thăm này và đã gửi thông báo tới chính quyền các tỉnh trước một tháng.

Cha nói chính quyền tỉnh Điện Biên đã gặp gỡ phái đoàn đến thăm và còn hứa sẽ sớm công nhận chính thức các cộng đoàn ở Điện Biên, nhưng không thể công nhận một lúc mà phải dần dần từng bước cho từng cộng đoàn một. “Điều này đã làm cho linh mục và giáo dân ở đây vui mừng và thêm nhiều hy vọng” – ngài nói thêm.

“Chuyến thăm này là rất đặc biệt ghi dấu ấn lịch sử, tuy có một vài khó khăn ngăn cản nhưng không lớn lắm, điều quan trọng là người Công giáo đã được gặp gỡ vị đại diện Đức Thánh Cha, con cái họ được nhận bí tích Thêm Sức. Điều này giúp họ có thêm lòng tin, dũng cảm vượt thử thách và hy vọng lớn vào tương lai sẽ tốt đẹp hơn”, Cha Bình nhận xét.

Cha kể các cộng đoàn này đã đăng ký với chính quyền địa phương để được công nhận hợp pháp từ năm 2005 nhưng chính quyền vẫn chưa trả lời. Chưa có một nhà thờ nào được phép xây dựng và linh mục chưa được phép tới ở tại chỗ.

“Tuy nhiên chính quyền cũng làm ngơ để sinh hoạt tôn giáo diễn ra trong các nhà nguyện quanh năm và cũng bớt theo dõi”, ngài nói thêm.

Ông Trịnh Xuân Thủy, người dâng ngôi nhà của mình làm nhà nguyện cho cộng đoàn ở thành phố Sơn La, cho biết giáo dân ở đây đã nhiều năm sống đức tin âm thầm, rồi bán công khai. Ông hy vọng với những chuyến thăm cấp cao như vậy, tình hình sinh hoạt tôn giáo sẽ được cải thiện.

“Hy vọng Đức tổng Girelli sẽ báo cáo, đề đạt lên chính quyền trung ương để cộng đoàn chúng tôi sớm được công nhận, xây nhà thờ và có linh mục sở tại” – ông nói.

Ông Thủy nói Cha Giuse Nguyễn Trung Thoại coi sóc các cộng đoàn ở tỉnh Sơn La từ năm 2005 đến nay, nhưng mỗi lần đi lên làm mục vụ mất cả tuần và phải đi xa vòng quanh cả ngàn kilômét. Ở Lai Châu và Điện Biên, Cha Bình cũng phải đi cả ngàn cây số từ Sa Pa sang làm mục vụ rất khó khăn.

 

Đức Thánh Cha đề cao tinh thần đồng trách nhiệm của giáo dân

Đức Thánh Cha đề cao tinh thần đồng trách nhiệm của giáo dân

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 đề cao tinh thần đồng trách nhiệm của giáo dân trong đời sống và hoạt động của Giáo Hội.

Ngài nhắc lại lập trường trên đây trong Sứ điệp gửi các tham dự viên Đại hội kỳ 6, quen gọi là ”Diễn đàn quốc tế” của Phong trào Công Giáo tiến hành, nhóm tại thành phố Lasi bên Rumani từ ngày 22 đến 26 tháng 8-2012 với sự tham dự của các Đại biểu phong trào đến từ 35 nước thuộc 4 đại lục trên thế giới. Diễn đàn có chủ đề “Giáo dân Công Giáo tiến hành: đồng trách nhiệm trong Giáo Hội và xã hội”, nhắm cổ võ sự tham gia của giáo dân vào đời sống giáo xứ và cộng đoàn, nhất là qua việc học hỏi và thi hành các nguyên tắc Giáo huấn xã hội Công Giáo.

ĐTC nhận xét rằng ”đề tài của Diễn đàn có tầm quan trọng lớn đối với giáo dân, một đề tài có vị trí rất thích hợp trước Năm Đức Tin và Thượng HĐGM thế giới sắp tới về tái truyền giảng Tin Mừng”

”Tinh thần đồng trách nhiệm đòi phải thay đổi não trạng, nhất là về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội: không được coi giáo dân chỉ là ”những cộng tác viên” của hàng giáo sĩ, nhưng như những người thực sự ”đồng trách nhiệm” đối với cuộc sống và hoạt động của Giáo Hội. Vì thế, điều quan trọng là phải củng cố một hàng giáo dân trưởng thành và dấn thân, có khả năng đóng góp phần đặc thù của mình cho sứ mạng của Giáo Hội, trong niềm tôn trọng các thừa tác vụ và nghĩa vụ của mỗi người trong đời sống Giáo Hội và luôn luôn hiệp thông với các GM”.

ĐTC giải thích rằng ”Điều này có nghĩa là khi phục vụ Giáo Hội, giáo dân phải đón nhận mục đích tông đồ trong toàn bộ, trong một sự quân bình phong phú giữa Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội địa phương, và trong tinh thần hiệp thông sâu xa với Người Kế Vị Thánh Phêrô và tinh thần đồng trách nhiệm thực sự với các vị chủ chăn của mình.”

ĐTC cũng nhận xét rằng vai trò của giáo dân có một tầm quan trọng đặc biệt, nhất là trong giai đoạn hiện nay của lịch sử, cần phải được giải thích dưới ánh sáng giáo huấn xã hội của Hội Thánh, để ngày càng trở thành ”một phòng thí nghiệm về sự hoàn cầu hóa tình liên đới và bác ái, để cùng với toàn thể Giáo Hội tăng trưởng trong sự đồng trách nhiệm mang lại một tương lai hy vọng cho nhân loại, có can đảm đưa ra những đề nghị đòi hỏi nhiều cố gắng”.

ĐTC không quên khuyến khích mọi thành phần của Phong trào Công giáo tiến hành cộng tác vào công trình ”tái truyền giảng Tin Mừng, loan báo ơn cứu độ trong Chúa Kitô bằng ngôn ngữ và phương pháp dễ hiểu trong thời đại chúng ta ngày nay, một thời đải có những tiến trình xã hội và văn hóa đang biến chuyển mau lẹ.”

Sau cùng, Ngài nhắc lại lịch sử lâu dài và phong phú của Phong trào Công giáo tiến hành, do những ”chứng nhân can trường của Chúa Kitô viết lên” và ngài mời gọi các thành viên phong trào này canh tân quyết tâm trên con đường sống thánh thiện, duy trì đời sống cầu nguyện sâu xa, cổ võ và tôn trọng những hành trình đức tin bản thân, và đề cao sự phong phú của mỗi người, với sự tháp tùng của các linh mục tuyên úy và các vị trách nhiệm có khả năng giáo dục về sự đồng trách nhiệm về mặt Giáo Hội và xã hội. Cuộc sống của anh chị em hãy có tính chất 'trong sáng', được Tin Mừng hướng dẫn và được soi sáng nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, được yêu mến và noi theo không chút sợ hãi. Hãy đảm nhận và chia sẻ những chọn lựa mục vụ của các giáo dân và giáo xứ, tạo những cơ hội gặp gỡ và cộng tác chân thành với các thành phần khác trong Giáo Hội, kiến tạo những quan hệ quí mến và hiệp thông với các linh mục, để họp thành một cộng đồng sinh động, phục vụ và truyền giáo..” (SD 23-8-2012)

G. Trần Đức Anh OP

 

 

Tòa án tại Mỹ xác nhận linh mục không phải là công nhân viên của Tòa Thánh

Tòa án tại Mỹ xác nhận linh mục không phải là công nhân viên của Tòa Thánh

PORTLAND. Một thẩm phán liên bang ở bang Oregon Hoa Kỳ phán quyết rằng Tòa Thánh không phải là chủ nhân của một LM bị cáo lạm dụng tính dục một trẻ em 10 tuổi tại đây.

Từ 10 năm nay, luật sư Jeff Anderson, người đã đảm nhận hằng trăm vụ kiện chống các giáo phận ở Mỹ để đòi bồi thường cho các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tính dục, đã đầu đơn kiện Tòa Thánh vì cho rằng Giáo Hội là một ”đại xí nghiệp” và ĐGH là một thứ chủ nhân ông của các linh mục. Do đó khi có những linh mục lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, được thuyên chuyển từ nơi này sang nơi khác, để rồi tiếp tục lạm dụng, thì Tòa Thánh phải chịu trách nhiệm và phải trả tiền bồi thường. Cụ thể trong những sự kiện này là vụ tại giáo phận Portland, một người đệ đơn kiện vì đã bị LM Andrew Ronan, thuộc dòng Tôi Tớ, lạm dụng nhiều lần trong thập niên 1960. LM này trước đó đã lạm dụng trẻ em tại Tổng giáo phận Chigaro, rồi được thuyên chuyển đến Portland. Đương sự qua đời hồi năm 1992.

Tại bang Kentucky và Wisconsin từ năm ngoái cũng có những vụ kiện tương tự chống Tòa Thánh.

Hôm 20 tháng 8-2012, sau khi cứu xét hàng ngàn văn kiện pháp lý, thẩm phán Michael Mosman phán quyết rằng không thể coi Tòa Thánh là chủ nhân ông của các giáo sĩ Công Giáo như người chủ việc; ”không có những sự kiện chứng tỏ có quan hệ công việc giữa Ronan và Tòa Thánh”.

Phán quyết này được coi là một ”chiến thắng” quan trọng đối với Tòa Thánh. Tòa Thánh không thể bị coi là có trách nhiệm đối với các linh mục lạm dụng tính dục, như thể Giáo Hội là một xí nghiệp.
Luật sư Jeff Anderson tuyên bố sẽ kháng án chống lại phán quyết của quan tòa ở Portland.

Luật sư của Tòa Thánh, Ông Jeff Lena, cho rằng phán quyết này thật là quan trọng. ”Khi một thẩm phán phán quyết tại một tòa án công khai, có nghĩa là ông nghiên cứu các sự kiện trong vụ này một cách rất cẩn thận. Ông nhìn nhận tầm quan trọng của vụ này”. (CNS 21-8-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Hồng Y Đan Quốc Tỷ, cựu thừa sai Dòng Tên tại Việt Nam, qua đời

Đức Hồng Y Đan Quốc Tỷ, cựu thừa sai Dòng Tên tại Việt Nam, qua đời

CAO HÙNG. ĐHY Phaolô Đan Quốc Tỷ (Shan Kuo-Hsi), dòng Tên, nguyên GM giáo phận Cao Hùng bên Đài Loan, cựu thừa sai Dòng Tên tại Việt Nam, đã qua đời hôm 22 tháng 8-2012 vì bệnh ung thư phổi, hưởng thọ 89 tuổi.

ĐHY Đan Quốc Tỷ sinh năm 1923 tại tỉnh Phúc Dương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc, gia nhập dòng Tên năm 1946 tại Bắc Kinh, theo học triết và thần học tại Baguio, Philippines và thụ phong LM năm 1955. Sau đó, ngài học tại Đại học giáo hoàng Gregoriana ở Roma và đậu tiến sĩ thần học linh đạo tại đây năm 1961. Tiếp đến, Cha Đan Quốc Tỷ được gửi đang Việt Nam làm phụ tá giáo tập tại Tập viện Dòng Tên ở Thủ Đức từ năm 1961 đến 1963.

Sau khi khấn trọng với 4 lời khấn của dòng vào năm 1963, Cha Đan Quốc Tỷ được bổ nhiệm làm giáo tập tại thành phố Chương Hóa (Changhua), Đài Loan, từ năm 1963 đến 1970.
Tháng 11 năm 1979, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm GM giáo phận Hoa Liên. Ngài cũng được bầu làm Chủ tịch Văn phòng đối thoại liên tôn của liên HĐGM Á châu (1983-1985), tiếp đến làm Chủ tịch Văn Phòng truyền thông xã hội (1985-1991) của các GM Á châu. Trong thời kỳ đó ngài được bầu làm Chủ tịch HĐGM Đài Loan năm 1987.

Tháng 3 năm 1991, Đức Cha Đan Quốc Tỷ được bổ nhiệm làm GM giáo phận Cao Hùng, và trong dịp Thượng HĐGM Á châu năm 1998, ngài được ĐTC chỉ định làm Tổng tường trình viên của Công nghị GM này. Trước đó ngài được thăng Hồng y ngày 21 tháng 2-1998. ĐHY Đan Quốc Tỷ về hưu từ tháng giêng năm 2006.

ĐHY đã dịch hai cuốn sách quan trọng ra tiếng Hoa: cuốn ”Làm thế nào là một nhà lãnh đạo” (Come essere una guida) và ”Dấn thân và Lãnh đạo” (Impegno e Leadership). Cả hai cuốn trở thành những sách bán chạy nhất, cuốn thứ hai được dùng để đào tạo các vị lãnh đạo trong chính quyền.

Hôm 23 tháng 8-2012, ĐTC đã gửi điện văn đến Đức Cha Phêrô Lưu Chấn Trung (Liu Cheng Chung) đương kim GM giáo phận Cao Hùng, để chia buồn với toàn thể giáo phận.

Trong điện văn, Ngài viết: ”Tôi đau buồn sâu xa khi hay tin qua đời của ĐHY Phaolô Đan Quốc Tỷ, nguyên GM Cao Hùng. Trong niềm biết ơn Thiên Chúa Tối Cao, tôi nhớ đến những năm tận tụy phục vụ của Đức Cố HY, trước tiên như GM giáo phận Hoa Liên, và trong tư cách là Chủ tịch HĐGM miền của Trung Hoa. Tôi chân thành chia buồn với Đức Cha, hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân các giáo phận Hoa Liên, Cao Hùng và toàn thể Giáo hội tại Đài Loan, và đoan hứa cầu nguyện cho Đức Cố Hồng Y. Cùng với Đức Cha và tất cả những người đang thương khóc Người, kể cả các anh em tu sĩ Dòng Tên, tôi phó thác linh hồn tư tế của Người cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa là Người Cha yêu thương của chúng ta”.

Với sự qua đi của ĐHY, Hồng Y đoàn còn 207 vị, trong số này có 118 Hồng y cử tri, dưới 80 tuổi (SD 22,23-8-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Mẹ Maria là Nữ Vương của phục vụ, trợ giúp và yêu thương

Mẹ Maria là Nữ Vương của phục vụ, trợ giúp và yêu thương

Mẹ Maria là Nữ Vương của phục vụ, trợ giúp và yêu thương. Mẹ sống gần Thiện Chúa trên Trời, nhưng cũng gần gũi với từng người trong chúng ta, yêu thương và lắng nghe chúng ta. Vì thế trong an vui cũng như trong những lúc tối tăm của cuộc đời, chúng ta hãy hướng nhìn lên Mẹ và tín thác nơi sự cầu bầu hiền mẫu liên lỉ của Mẹ.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ tín hữu và du khánh hành hương như trên trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 22 tháng 8-2012 trong sân nhà nghỉ măt Castel Gandolfo.

Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, hôm nay trong phụng vụ là lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria được khẩn cầu với tước hiệu ” Nữ Vương”. Đây là một lễ mới được thành lập sau này, cả khi nó đã có nguồn gốc và lòng sùng kính cổ xưa. Thật thế, vì lễ đã được Đấng đáng kính Pio XII thành lập năm 1954, vào cuối Năm Thánh Mẫu, và chỉ định mừng ngày 31 tháng 5 (x. Ad ceali Reginam 11-10-1954; AAS 46 (1954), 625-640). Trong khung cảnh đó người nói rằng Đức Maria là Nữ Vương cao vượt hơn mọi thụ tạo khác vì sự cao trọng của linh hồn Mẹ và vì sự tuyệt hảo của các ơn thánh Chúa mà Mẹ đã nhận được. Mẹ không ngừng trải rộng mọi kho tàng tình yêu và các lo lắng của Mẹ cho nhân loại (Discorso in onore di Maria Regina 1-11-1954). Sau cuộc canh tân lịch phụng vụ thời hậu Công Đồng, lễ được mừng vào tám ngày sau lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời, để nêu bật mối dây mật thiết giữa vương quyền của Đức Maria và sự vinh hiển trong thân xác và linh hồn Mẹ bên cạnh Con Mẹ. Chúng ta đọc thấy trong Hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium rằng: ”Đức Maria được đưa lên vinh quang trên trời và được Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống con Mẹ trọn vẹn hơn” (LG, 59)

Tiếp tục bài huấn Đức Thánh Cha nói: Đó là nguồn gốc của ngày lễ hôm nay: Đức Maria là Nữ Vương, bởi vì được kết hiệp một cách duy nhất với Con của Người, trên con đường cuộc sống trần gian cũng như trong vinh quang trên Trời. Như giáo phụ Efrem người Siri khẳng định, chức nữ vương của Đức Maria phát xuất từ chức làm Mẹ Thiên Chúa của Mẹ: Mẹ là Mẹ Chúa, Vua các vua (Is 9,1-6) và Mẹ chỉ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là sự sống, ơn cứu độ và niềm hy vọng của chúng ta. Như Vị Tôi tớ Chúa Đức Phaolô VI đã nhắc lại trong Tông huấn Marialis Cultus: ”Nơi Đức Trinh Nữ Maria, tất cả đều liên quan tới Chúa Kitô, và tất cả đều tùy thuộc nơi Chúa: vì Người mà Thiên Chúa Cha, từ đời đời, đã chọn Mẹ làm Mẹ hoàn toàn thánh thiện và trang điểm Mẹ với các ơn của Thần Khí, mà Người đã không ban cho ai khác” (s. 25). Và Đức Phaolô VI còn lấy lai điều giáo phụ Ildefonso đã khẳng định: ”Điều được cống hiến để phục vụ Nữ Tỳ, được quy chiếu về Chúa, và như thế vang vọng lên trên người Con điều được ban cho Mẹ… và như thế rơi trở lại trên Vua vinh dự được khiêm ban cho Nữ Vương (ibid).

Nhưng Đức Maria Nữ Vương có nghĩa là gì? Đó có phải chỉ là một tước hiệu hiệp nhất với các tước hiệu khác, và vương miện là một trang sức như các trang sức khác hay không? Vương quyền này có nghĩa là gì? Đó là hiệu qủa sự kết hiệp của Mẹ với Con Mẹ, của cuộc sống trên Trời, nghĩa là sự kết hiệp với Thiên Chúa. Mẹ chia sẻ trách nhiệm và tình yêu của Thiên Chúa đối với thế giới. Có một ý niệm chung tầm thường về vua hay nữ hoàng: đó là một người với quyền bính và sự giầu sang. Nhưng đây không phải là loại vương quyền của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria. Chúng ta hãy nhớ tới Chúa: vương quyền, chức là vua của Chúa Kitô được làm thành bởi sự khiêm nhường, phục vụ và tình yêu; nhất là phục vụ, trợ giúp và yêu thương. Chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giêsu đã được công bố là vua trên Thập Giá với bảng do quan Philatô cho viết ”vua người Do thái” (Mc 15,26). Trong lúc ở trên thập giá Người cho thấy Người là vua, và là vua như thế nào? bằng cách đau khổ vì chúng ta, cho chúng ta, yêu thương cho đến cùng, và như thế cai trị và tạo ra chân lý, tình yêu và công lý. Hay chúng ta hãy nghĩ tới lúc khác: trong Bữa Tiệc Ly Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Như vậy vương quyền của Chúa Giêsu không liên quan gì tới vương quyền của các kẻ quyền thế của trái đất. Người là một vì vua phục vụ các tôi tớ của mình, như Người đã chứng minh trong toàn cuộc sống của Người. Đối với Mẹ Maria cũng thế: Mẹ là Nữ Vương trong việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Mẹ là Nữ Vương của tình yêu, sống ơn trao ban mình cho Thiên Chúa để bước vào trong chương trình cứu độ con người. Mẹ trả lời Sứ Thần: ”Này tôi là nữ tỳ của Chúa” và trong bài thánh thi Magnificat Mẹ hát: “Thiên Chúa đã đoái nhìn tới sự mọn hèn của nữ tỳ Người”. Mẹ trợ giúp chúng ta. Mẹ là Nữ Vương bằng cách yêu thương chúng ta, trợ giúp chúng ta trong mọi nhu cầu; Mẹ là chị của chúng ta, là nữ tỳ khiêm hạ.

Nói thêm trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đưa ra câu hỏi như sau:

Mẹ Maria thi hành vương quyền phục vụ và yêu thương như thế nào? Bằng cách canh thức trên chúng ta là con cái Mẹ, hướng về Mẹ trong lời cầu nguyện, để cám ơn Mẹ hay để cầu xin sự chở che hiền mẫu của Mẹ và sự trợ giúp trên trời của Mẹ, sau khi lạc đường, bị áp bức bởi khổ đau, lo lắng vì các chuyện buồn thương và khốn khó của cuộc sống. Trong an vui hay trong đen tối của cuộc đời chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria và tín thác chúng ta cho lời bầu cử liên lỉ của Mẹ, để từ Con Mẹ chúng ta có được mọi ơn thánh và lòng xót thương cần thiết cho cuộc hành hương trên các nẻo đường của thế giới này. Qua Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta tin cậy hướng về Đấng cai quản thế giới và nắm trong tay các vận mệnh của vũ trụ. Từ bao thế kỷy nay, Mẹ được khẩn cầu như là Nữ Vương trên trời: sau kinh Mân Côi Mẹ được khẩn nài trong Kinh Cầu tám lần như là Nữ Vương của các Thiên Thần, của các Tổ phụ, của các Ngôn sứ, của các Tông Đồ, của các vị Tử đạo, của các vị Tuyên tín, của các Trinh nữ và của tất cả các Thành và các Gia đình. Tiết nhịp của các lời khẩn cầu cổ xưa và các lời cầu thường ngày như là kinh Kính Chào Nữ Vương, giúp chúng ta hiểu rằng Đức Thánh Trinh Nữ là Mẹ chúng ta bên cạnh Chúa Giêsu Con Mẹ, trong vinh quang trên Trời, luôn luôn ở cùng chúng ta trong cuộc sống thường ngày.

Tước hiệu Nữ Vương như thế là tước hiệu của sự tin tưởng, tuơi vui và tình yêu. Và chúng ta biết rằng Đấng có trong tay một phần các vận mệnh của thế giới là Đấng tốt lành, yệu thương chúng ta và trợ giúp chúng ta trong các khó khăn.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Các bạn thân mến, lòng sùng kính Đức Mẹ là một yếu tố quan trọng trong cuộc sống thiêng liêng. Trong lời cầu chúng ta đừng quên tin tưởng hướng về Mẹ. Mẹ Maria sẽ không quên bầu cử cho chúng ta bên Con Mẹ. Khi nhìn lên Mẹ chúng ta hãy noi gương đức tin và sự sẵn sàng tràn đầy của Mẹ đối với chương trình tình yêu của Thiên Chúa, sự quảng đại của Mẹ đón nhận Chúa Giêsu. Chúng ta hãy tập sống từ Mẹ Maria. Mẹ Maria là Nữ Vương trên trời ở gần Thiên Chúa, nhưng cũng là Mẹ gần gũi với từng người trong chúng ta, yêu thương và lắng nghe chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Chào các nhóm nói tiếng Pháp ngài khích lệ họ moi gương đức tin và lòng quảng đại của Mẹ Maria để tiếp nhận Chúa Giêsu vào trong cuộc sống. Mẹ là Nữ Vương trên trời, sống gần Thiên Chúa, nhưng cũng là Mẹ gần gũi từng người trong chúng ta, Mẹ yêu thương chúng ta và lắng nghe chúng ta.

Chào các nhóm nói tiếng Anh Đức Thánh Cha xin cho lời cầu của Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta trên con đường hành hương đức tin, để chúng ta được chia sẻ chiến thắng của Con Mẹ và hiển trị với Người trong Nước vĩnh cửu.

Với các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha Đức Thánh Cha mời gọi họ dâng lên Mẹ Maria Nữ Vương các lời cầu tha thiết, vì Mẹ là Mẹ Của Chúa Kitô, Vua các vua, để Mẹ dâng chúng lên cho Chúa và xin ơn lành cho chúng ta.

Chào các tín hữu Ba Lan ngài nhắn nhủ họ hãy tín thác nơi quyền là Nữ Vương của Mẹ Maria, và nếm hưởng sự chở che hiền mẫu của Mẹ.

Trong tiếng Slovac ngài khuyên tín hữu hãy biết tin tưởng hướng về Mẹ trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.

Sau cùng bằng tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các ”Nữ tu của Mẹ Maria rất thánh ủi an” đang nhóm tổng tu nghị tại Roma, các nữ tu Calddê ”Nữ tử Đức Maria Vỗ Nhiễm nguyên tội” đang dấn thân phục vụ người dân Iraq, cũng như các tham dự viên cuộc họp của ”Hiệp hội các Gia đình cầu nguyện cho ơn gọi”, các đại chủng sinh tham dự đại hội mùa hè, và các cặp vợ chồng mới cưới. Ngài mời gọi mọi người dành thời giờ để đào tạo đức tin kitô.

Tiệp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải

Tấm Khăn Liệm thành Torino (2/3)

Tấm Khăn Liệm thành Torino (2/3)

Phỏng vấn giáo sư Bruno Barberis

Vào hạ tuần tháng 5 năm nay giáo sư Bruno Barberis, chuyên viên nghiên cứu Tấm Khăn Liệm thành Torino, đã thuyết trình các bài cuối cùng trong chương trình khóa học lấy bằng chuyên môn về khoa nghiên cứu Tấm Khăn Liệm, do đại học giáo hoàng Nữ Vương các Tông Đồ ở Roma tổ chức.

Giáo sư Barberis đã bắt đầu nghiên cứu Tấm Khăn Liệm thành Torino năm 1975, và từ năm 1977 giáo sư là thành viên ”Huynh đoàn Tấm Khăn Liệm Rất Thánh thành Torino” và của ”Trung tâm quốc tế Khoa Tấm Khăn Liệm học”, là cơ quan tổ chức các cuộc nghiên cứu và tìm hiểu Tấm Khăm Liệm. Giáo sư là tác giả của hơn 20 cuốn sách và hơn 150 bài viết về Tấm Khăn Liệm trên bình diện khoa hoc cũng như trên bình diện phổ biến kiến thức đại đồng. Các bài nghiên cứu này được đăng trên các tạp chí khoa học và nhật báo Italia và quốc tế. Giáo sư cũng đã chủ tọa 2.000 buổi diễn thuyết về Tấm Khăn Liệm trong nước Itaia cũng như tại hải ngoại.

Sau đây là phần hai cuộc phỏng vấn giào sư dành cho hãng thông tấn ZENIT ngày 9 tháng 6 năm nay.

Hi: Thưa giáo sư Barberis, theo kinh nghiệm của giáo sư, khoa hc và đc tin đối thoại với nhau hay chống đi nhau?

Đáp: Tương quan giữa đức tin và khoa học là một đề tài vô cùng thời sự. Vì trong thời đại của chúng ta thường có các mâu thuẫn và lập trường chống đối liên quan tới các đề tài như vậy. Việc phổ biến trên Internet, các cuộc tranh luận trên đài truyền hình, các bài viết trên báo chí đã góp phần một cách đáng kể vào việc quảng bá các đề tài này, ngay cả giữa những người không bao giờ chu ý đến, hay không đọc sách về các đề tài đức tin và khoa học. Nhưng người ta cũng ghi nhận nguy cơ của việc thông tin xấu, vì rất thường khi những người được mời phát biểu về các đề tài này lại không phải là các chuyên viên, và họ cũng không có sự khách quan và phương pháp sít sao cần thiết.

Và như thế người ta thường chứng kiến các cuộc tranh luận xung đột, trong đó người ta bênh vực các ý kiến tiên thiên và hầu như luôn luôn thiếu sự nghiêm chỉnh, thiếu các lý luận và các suy diễn nghiêm xác. Do đó ít khi người ta có được các suy tư đúng đắn liên quan tới khoa học và đức tin, nhắm mục đích minh giải và kiểm thực xem có khả năng đối thoại xây dựng và hội nhập hay không. Và đây là điểm nòng cốt. Có đúng thật là khoa học và đức tin không thể hòa hợp với nhau đươc như nhiều người chủ trương hay không? Có đúng thật là các khám phá khoa học có thể cho phép con người hiểu biết tất cả sự thật liên quan tới cuộc sống của mình cũng như ý nghĩa của tất cả những gì bao quanh, và do đó đức tin cùng lắm chỉ là một cái gì thuần túy chủ quan và riêng tư thôi hay không?

Hi: Thưa giáo sư, nếu đức tin và khoa học có tương quan với nhau, thì tương quan ấy bao gồm bao nhiêu loại?

Đáp: Ông Ian Barbour, một học giả người Mỹ, đã đưa ra giả thuyết bốn loại tương quan khác nhau giữa khoa học và đức tin: tương quan xung khắc, tương quan tùy thuộc, tương quan đối thoại và tương quan hội nhập. Ngày nay, xem ra hai kiểu xung khắc và tùy thuộc thắng thế. Nhưng phải hỏi xem có thể có một cuộc đối thoại ích lợi và xây dựng, hay hơn nữa, một sự hội nhập đích thật của hai tri thức trong một viễn tượng liên ngành hay không. Đây là các câu hỏi nền tảng mà chúng ta không thể tránh né, trong tư ách là các thành phần của xã hội trong đó chúng ta sống, và như là các cá nhân phải suy tư về nền tảng cuộc sống là người của chúng ta, và về ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống trong vũ trụ mênh mông bát ngát bao quanh chúng ta.

Một trong các giáo sư thường đề cập tới vấn đề này là giáo sư Joseph Ratzinger, tức Đức Đương Kin Giáo Hoàng Biển Đức XVI, trong rất nhiều sách vở, và các tài liệu chính thức cũng như các diễn văn. Các diễn văn ý nghĩa nhất đã được thu thập trong một cuốn sách hay của ông Umberto Casale tựa đề ”Đức tin và khoa học. Một cuộc đối thoại cần thiết”.

Trong số các diễn văn của Đức Thánh Cha mà tôi muốn nhắc tới, có bài thuyết trình mà Đức Hồng Joseph Ratzinger đọc tại rạp hát Regio ngày 12 tháng 6 năm 1998, nhân dịp ngài đến viếng Tấm Khăn Liệm thành Torino. Đức Hồng Y Ratzinger nói: ”Nếu con người không thể tự vấn một cách có lý lẽ về các điều nòng cốt của cuộc sống, về nguồn gốc, vận mệnh, về cái nó phải và có thể làm, mà phải để các vấn đề định đoạt này cho một tâm tình tách rời khỏi tôn giáo, thì khi đó nó không nâng cao lý trí, mà lấy mất đi phẩm gía của lý trí. Sự tan rã của con người được đưa vào như thế đồng thời làm nảy sinh ra bệnh tật của tôn giáo và bệnh tật của khoa học”. Rồi Đức Hồng Y nói thêm: ”Không có sự lựa chọn nào khác, lý trí và tôn giáo phải trở lại với nhau, mà không tan biến trong nhau… Điều này liên lụy tới con người và liên lụy tới thế giới”.

Hỏi: Thế riêng cá nhân giáo sư, thì giáo sư nghĩ gì về vấn đ này?

Đáp: Tôi đã không bao giờ nghĩ rằng giữa đức tin và khoa học có sự không thể hòa hợp được, miễn là luôn luôn có sự tôn trọng lẫn nhau giữa hai lãnh vực. Khoa học là nguồn mạch các giá trị của sự hiệp thông, chứ không phải là sự đối kháng với các gía trị của đức tin. Trong mỗi lãnh vực của khoa học, nhờ các nghiên cứu và tìm hiểu con người đã từ từ ý thức được mình là nơi chứa đựng một đặc ân duy hhất: đó là có thể đọc ra cái luận lý của Vũ trụ, nghĩa là của thực tại trong đó chúng ta sống. Đàng khác, khoa học không thể chứng minh được sự hiện hữu của Thiên Chúa, và cũng không thể chứng minh được sự không hiện hữu của Thiên Chúa. Khoa học chỉ có thể tìm hiểu các hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Đức tin là một ơn của Thiên Chúa, và nó cho phép chúng ta bước vào trong thế giới của sự siêu việt để thử hiểu biết và lãnh hội đựơc ý nghĩa của nó.

Khoa học gia Galileo Galilei đã có các kiểu diễn tả nổi tiếng về việc phân chia nhiệm vụ giữa khoa học và đức tin và tính cách bổ túc cho nhau của chúng. Ông nói như sau: ”Ý của Chúa Thánh Thần là dậy cho chúng ta biết lên trời thế nào, chứ không phải trời đi như thế nào”; ”Thánh Kinh và thiên nhiên đều bắt nguồn từ Ngôi Lời Thiên Chúa: Thánh Kinh như là lời Chúa Thánh Thần đọc cho mà viết, thiên nhiên như là kẻ rất vâng lời thi hành các mệnh lệnh của Thiên Chúa”. Nếu khi đọc các chương đầu của sàch Sáng Thế, mà chúng ta yệu sách tìm thấy nơi đó một miêu tả khoa học đúng đắn việc tạo thành Vũ trụ và sự phát triển của sự sống trên trái Đất này, thì chúng ta phạm một lỗi lầm lượng định nghiệm trọng. Lý do là vì các trang sách đó là một suy tư thần học tuyệt diệu đã được các soạn giả sống nhiều thế kỷ trước Chúa Kitô biên soạn ra, chứ không phải là một khảo luận về vũ trụ học.

Đức Gioan Phaolô II đã nói với các tham dự viện một đại hội các hoa học gia như sau: ”Khoa học và đức tin đều có gốc rễ trong một ơn tuyệt vời mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người: đó là lý trí. Khoa học và đức tin, cả hai đều không thể thiếu để con người có thể tiến triển trong sự hiểu biết một cách trọn vẹn, bằng cách phát triển tất cả con người, chứ không phải chỉ phát triển một phần của nó mà thôi”.

Hỏi: Như thế khi áp dụng các điu trên đây vào việc nghiên cứu Tấm Khăn Liệm thành Torino, chúng ta cũng phải chú ý tới hai bình diện, có đúng thế không thưa giáo sư?

Đáp: Vâng, đúng thế. Việc đọc hiểu, nghiên cứu và suy niệm về hình người trên Tấm Khăn Liệm thành Torino, một cách nòng cốt, dẫn đưa tới hai bình diện suy tư. Một đàng, việc nghiên cứu hình diễn tả một lợi ích rất cao trên bình diện khoa học. Nhất là trong bốn mươi năm qua các nhà khoa học đã tìm hiểu cặn kẽ các đặc tính và nguồn gốc của nó, bằng cách đưa ra các nghiên cứu trong các lãnh vực khác nhau của khoa học như: vật lý, hóa học, sinh học, tin học, y khoa, thống kê vv… Vì thế trong các năm này Tấm Khăn Liệm đã là trung tâm của một cuộc thảo luận rộng rãi, sôi nổi, có thứ tự trên bình diện khoa học và liên ngành.

Đàng khác, truyền thống đã luôn luôn coi Tấm Khăn Liệm như là khăn liệm xác Đức Giêsu thành Nagiarét, và trong thời gian mới hơn sau này việc đồng hóa đó đã có được các kết qủa đáng kể từ các nghiên cứu chú giải kinh thánh. Và điều này đã lôi kéo sư chú ý của lãnh vực đức tin kitô và mở ra một cuộc thảo luận sôi nổi về tương quan giữa Tấm Khăm Liệm và đức tin. Các cuộc trưng bầy mới đây vào các năm 1998, 2000 và 2010 đã góp phần vào việc minh nhiên ý nghĩa mục vụ và tinh thần của Tấm Khăn Liệm. Hai kiểu hiểu việc tìm tòi về Tấm Khăn Liệm thường gặp phải các đụng độ đôi khi chia rẽ cả các nhân viên làm việc nghiên cứu cũng như dân chúng.

Tấm Khăn Liệm là đối tượng của đức tin, của lòng sùng kính hay là đối tượng của lợi ích khoa học và nghiên cứu? Rất thường khi trong các năm qua hai kiểu tìm hiểu tấm Khăn Liệm đối nghịch nhau, như thể là một kiểu phải nhất thiết loại trừ kiểu kia, vì không thể hòa hợp với nhau. Và thế là nó đã dấy lên một cuộc tranh luận nóng bỏng, có lẽ chưa từng có trong qúa khứ, nhờ các phương tiện truyền thông tân tiến cũng như bởi sự chú ý mà các lần trưng bầy cuối cùng đã khơi dậy trên bình diện quốc tế.

Thật là nguy hiểm, khi đối chọi kiểu tìm hiểu khoa học với kiểu tìm hiểu tôn giáo, bởi vì một đàng người ta có nguy cơ giản lược Tấm Khăn Liệm thành ”một đồ vật chết”, một hình ảnh chỉ có ý nghĩa trong nó và cho nó, mà không gọi hỏi cuộc sống chúng ta; đàng khác là nguy cơ biến Tấm Khăn Liệm thành một loại ngẫu tượng phục vụ cho các luận thuyết tiên thiên và bị lèo lái. Tôi xác tín sâu xa rằng phó thác việc trình bầy tấm Khăn Liệm cho một kiểu tìm hiểu triệt để khoa học hay triệt để mục vụ không thôi, thì không đúng đắn, cũng không ích lợi cho những người nhận là các nhà khoa học cũng như dân chúng.

(ZENIT 8-6-2012) (2/3)

Linh Tiến Khải

Nhà xuất bản Vatican liên minh với hãng Apple

Nhà xuất bản Vatican liên minh với hãng Apple

VATICAN. Nhà Xuất Bản Vatican và hãng vi tính Apple liên minh trong việc phổ biến các tác phẩm huấn giáo của ĐTC Biển Đức 16 dưới dạng kỹ thuật số (digital), qua các máy tablet và smartphone.

ĐTC Biển Đức 16 là một trong những nhà thần học Công Giáo được đọc nhiều nhất trên thế giới. Các sách của ngài đã được dịch ra hàng chục ngôn ngữ và một số trở thành sách bán chạy nhất. Danh mục các sách của ngài gồm hơn 100 tựa đề, không kể những tuyển tập các bài diễn văn, sứ điệp, bài giảng hoặc các bài phát biểu của ngài.

Cha Giuseppe Costa, SDB, Giám đốc nhà xuất bản Vatican, cũng là cơ quan đặc trách về tác quyền các tác phẩm của ĐTC Biển Đức 16, tuyên bố với mạng Vatican Insider rằng việc liên minh với hãng Apple ”là một chọn lựa được suy xét kỹ lưỡng và có tính chất 'chiến lược'; sớm muộn gì chúng tôi cũng phải dấn thân trong dạng điện tử này; chúng tôi thực hiện điều này qua việc liên minh với hãng Apple là hãng giúp chúng tôi trong việc sản xuất các bài huấn giáo của ĐTC, có minh họa”.

Từ hai tháng nay, người ta có thể mua một loạt các bài huấn giáo của ĐTC, được minh hoạ bằng những kiệt tác lịch sử mỹ thuật, qua tiệm sách tiềm thể i-Tunes. Cuốn sách ”Người cầu nguyện” cũng được bán ra và trong tương lai gần đây sẽ có loạt sách điện tử 'Kinh nguyện trong Tân Ước', đã được xuất bản thành sách in trong thời gian qua.

Nhà xuất bản Vatican có thể cứu xét việc xuất bản các tác phẩm của ĐTC dưới dạng sách điện tử (e-book). Theo cha Costa, hiện nay vẫn còn quá sớm chưa thể làm một tổng kết về sáng kiến đầu tiên này. Tuy nhiên Nhà xuất bản này tiếp tục phát triển các dự án trong thế giới tiềm thể.

Andrès Beltramo Álvarez (Vatican Insider, 22-8-2012). Trần Đức Anh OP chuyển ý
 

Tấm Khăn Liệm thành Torino

Tấm Khăn Liệm thành Torino

Phỏng vấn giáo sư Bruno Barberis (1/3)
Vào hạ tuần tháng 5 năm nay – 2012 – giáo sư Bruno Barberis, chuyên viên nghiên cứu Tấm khăn liệm thành Torino, đã thuyết trình các bài cuối cùng trong chương trình khóa học lấy bằng chuyên môn về khoa nghiên cứu Tấm Khăn Liệm, do đại học giáo hoàng Nữ Vương các Tông Đồ ở Roma tổ chức.

Giáo sư Barberis đã bắt đầu nghiên cứu Tấm Khăn Liệm thành Torino năm 1975, và từ năm 1977 giáo sư là thành viên Huynh đoàn Tấm Khăn Liệm Rất Thánh thành Torino và của Trung tâm quốc tế Khoa Tấm Khăn Liệm học, là cơ quan tổ chức các cuộc nghiên cứu và tìm hiểu Tấm Khăm Liệm. Từ năm 1983 ông là giáo sư Vật lý toán học tại phân khoa ”Khoa học toán, Vật lý và Thiên nhiên” của đại học Torino. Trong các năm 1988-2002 giáo sư đã là Chủ tịch Huynh đoàn Tấm Khăn Liệm Rất Thánh và là giám đốc Trung tâm quốc tế Khoa Tấm Khăn Liệm thành Torino. Từ năm 2002 giáo sư là Giám đốc khoa học của Trung tâm. Giáo sư Barberis cũng là tác giả của hơn 20 cuốn sách và hơn 150 bài viết về Tấm Khăn Liệm trên bình diện khoa học cũng như trên bình diện phổ biến kiến thức đại đồng. Các bài nghiên cứu này được đăng trên các tạp chí khoa học quốc gia và quốc tế, cũng như trên các nhật báo Italia và quốc tế. Giáo sư cũng đã chủ tọa 2.000 buổi diễn thuyết về Tấm Khăn Liệm tại Itaia cũng như tại hải ngoại.

Hỏi: Thưa giáo sư Barberis, theo giáo sư đâu là các tiêu chun lưng định các nghiên cứu và tìm tòi về Tấm Khăn Liệm thành Torino?

Đáp: Trong hơn 100 năm chia cách chúng ta với bức hình chụp Tấm Khăn Liệm lần đầu tiên hồi năm 1898, đã có hàng ”sông mực” chảy ra để nghiên cứu và tìm hiểu Tấm Khăn Liệm. Thư mục về Tấm Khăn Liệm hiện bao gồm hàng ngàn tác phẩm được công bố trên năm châu. Nhưng không luôn luôn dễ dàng minh giải và gỡ rối các tác phẩm khác nhau, thường đưa ra các giả thuyết mới, các phê bình hay chỉ trích ít nhiều xây dựng liên quan tới các nghiên cứu đi trước, hoặc các đề nghị nghiên cứu tìm tời mới. Làm thế nào để lựa chọn các công việc nghiêm chỉnh và có ý nghĩa trong hàng đống tác phẩm như thế?

Khía cạnh thứ nhất quan trọng cần chú ý gắn liền với sự kiện Tấm Khăn Liệm liên kết các lý do và các lợi ích khoa học cũng như tôn giáo. Điều này đương nhiên không có gì là tiêu cực cả, trái lại còn vô cùng hấp dẫn và lý thú nữa. Nhưng rất thường khi người ta có nguy cơ lẫn lộn hay trộn lẫn hai bình diện với nhau, và đánh mất đi giá trị và hiệu lực của sự truyền thông, nhất là khi người ta phạm lỗi lầm nghiêm trọng đương đầu với các vấn đề có tính cách tôn giáo với các phương pháp khoa học, và ngược lại, đương đầu với các vấn đề khoa học với các phương pháp loại tôn giáo.

Có một nguy cơ nghiêm trọng khác nữa: đó là để cho các xác tín cá nhân liên quan tới đức tin ảnh hưởng trên các cứu xét và các kết qủa nghiên cứu lịch sử khoa học. Điều này thường dẫn tới các kết luận gò ép, được đưa ra bởi ý muốn chứng minh bằng mọi cách các luận thuyết chế sẵn, hay để chống lại các luận thuyết không trùng hợp với các xác tín cá nhân của mình.

Hỏi: Và như thế là dễ rơi vào mt khuynh hướng cuồng tín, có đúng thế không thưa giáo sư?

Đáp: Vâng, như thế là dễ rơi vào khuynh hướng qúa khích, và như vậy không phải là việc tìm tòi khoa học nghiêm chỉnh. Khuynh hướng qúa khích này thường gây ra sự lẫn lộn nơi người đọc, khiến cho họ có cảm tưởng đang chứng kiến một cuộc chiến giữa các luận thuyết chống đối nhau hơn là một cuộc đối thoại nghiêm chỉnh và chính xác. Cuộc đối thoại ấy có thể chặt chẽ, nhưng để thực sự khoa học, thì phải có tính cách xây dựng, biết tôn trọng các ý kiến của người khác, và chỉ có mục đích tìm hiểu sự thật.

Nhiệm vụ của nhà khoa học nghiêm túc là nhiệm vụ thông tin một cách đúng đắn, bằng cách luôn luôn phân biệt giữa các tin tức và các sự kiện chắc chắn với các giả thuyết chỉ dựa trên một phần các dữ kiện và tài liệu, hay dựa trên các dữ kiện và tài liệu không đáng tin cậy chút nào. Do đó khó mà phân biệt được một cách rõ ràng giữa các sách vở tài liệu tuyệt đối nghiêm chỉnh và chính xác với các sách vở tài liệu không nghiêm chỉnh và chính xác.

Hỏi: Vậy thì thưa giáo sư đâu là các đặc thái của cuộc thảo luận về Tấm Khăn Lim trong hai mươi năm qua?

Đáp: Trong các năm qua, người ta đã chứng kiến một cuộc thảo luận khá sôi nổi chung quanh Tấm Khăn Liệm, có lẽ chưa bao giờ xảy ra như thế trong qúa khứ. Được như thế cũng là nhờ cái loa phóng thanh của các phương tiện truyền thông.

Cuộc tranh luận này đã bắt đầu bởi việc xác định thời gian của Tấm Khăn Liệm qua tia hồng ngoại tuyến hồi năm 1988. Và kết qủa của nó khẳng định rằng Tấm Khăm Liệm thuộc thời Trung Cổ, đã khơi dậy một cuộc đối đầu sôi nổi, không chỉ giữa các nhà khoa học và chuyên viên nghiên cứu, mà cả trong dư luận công cộng nữa. Cũng như đã xảy ra trong qúa khứ, cuộc tranh luận không chỉ giới hạn giữa hai phe chống đối nhau kịch liệt: một bên bênh vực tính cách xác thực tuyệt đối không thể thảo luận của Tấm Khăn Liệm vì cho rằng nó là tấm khăn liệm xác Đức Giêsu thành Nagiarét; và bên kia ủng hộ luận thuyết cho rằng nó là tấm khăn liêm giả, hay không dính dáng gì tới Đức Giêsu thành Nagiarét. Sau cùng nó cũng lôi cuốn nhiều nhà khoa học và các chuyên viên vào cuộc: họ bị lôi kéo bởi việc kiếm tìm sự thật hơn là khả năng chứng minh một luận thuyết làm sẵn. Dù muốn hay không, họ tự đặt mình vào trong một lập trường dung hòa ở giữa hai phe chống đối nhau, và thường không phải là lập trường thuận tiện nhất.

Và như thế người ta đã chứng kiến một loạt các can thiệp bất tận, đôi khi nặng nề, theo sau đó là các phản bác không kém nặng nề. Một vài nghi ngờ được nêu lên với các sự kiện rõ ràng có chứng cớ tài liệu; các nghi ngờ khác thì tự ý và có thể theo ý kiến này hay ý kiến nọ. Kết qủa đã là sự chia rẽ ngày càng rõ ràng và vô lý trong cuộc tranh cãi của hai bên chống đối nhau, làm giảm sự chú ý tới các lý lẽ tuyệt đối có tính cách khoa học đáng lý ra phải là các lý lẽ duy nhất cần lưu tâm; đàng khác là tình trạng dậm chân tại chỗ như hiện nay. Trong khi đó còn có rất nhiều việc phải làm để kiểm thực cặn kẽ các phê bình chỉ trích nghiêm chỉnh liên quan tới việc dùng phương pháp tia hồng ngoại than để xác định thời gian của Tấm Khăn Liệm, và nhất là để giải thích các dự kiện đã đạt được một cách đúng đắn.

Hỏi: Nhưng mà đáng lý ra thì cuôc tranh luận khoa học phải phải xảy ra giữa các nhóm khoa học gia và các chuyên viên nghiên cứu thôi chứ, thưa giáo sư?

Đáp: Vâng, đáng lý ra thì phải như vậy, vì đó là điều đúng đắn theo luận lý. Nghĩa là cuộc thảo luận chỉ ở giữa các nhà khoa học và chuyên viên nghiên cứu Tấm Khăn Liệm để xác định Tấm Khăn Liệm đã được dệt khi nào ra sao và gồm các chất liệu gì, với khả thể là công bố các kết qủa thử nghiệm và các nhận định lý thuyết trong các cuộc gặp gỡ và các hội nghị khoa học. Nhưng thật ra đã không xảy ra như thế, bởi vì trong cuộc thảo luận đã có các lý luận không khoa học liên quan tới việc lấy mẫu thử nghiệm và định thời gian không theo các tiêu chuẩn khoa học, mà đúng hơn là theo tiêu chuẩn luân lý đạo đức và sự liêm chính trong cung cách hành xử của những người tham dự công việc điều tra với các tước hiệu khác nhau.

Hỏi: Giới truyền thông có phần lỗi nào trong cảnh hỗn loạn này không?

Đáp: Có. Giới truyền thông chắc chắn đã không giúp cho công việc được dễ dàng hơn, vì họ thường can thiệp một cách rộng rãi vào một ít tin tức nhỏ nhặt, mà lại im lặng đối với các tin nghiêm chỉnh quan trong. Họ hầu như chỉ chú ý tới các tin giật gân trong xác tín vô lý và nguy hiểm rằng đối với giới độc giả trung bình việc hiểu biết các bước tiến, đôi khi rất nhỏ và không có tính cách định đoạt, của việc nghiên cứu, tuyệt đối không quan trọng. Và hậu qủa là dư luận công cộng hầu như chỉ biết tới các thảo luận thô kệch và vô nghĩa, mà không biết gì về các nghiên cứu có ý nghĩa và quan trọng.

Thế rồi còn có cuộc tranh cãi giữa hai khuynh hướng qúa kích. Một bên bênh vực lập trường chắc chắn Tấm Khăn Liệm này là Tấn Khăn Liệm thật đã bọc xác Chúa Giêsu Kitô, và một bên cho rằng không có tương quan nào giữa hai Tấm Khăn Liệm. Có thể bênh vực lập trường của mình, nhưng cũng phải tôn trọng các tiêu chuẩn của khoa học tân tiến. Ở đây trái lại người ta chứng kiến nhiều khẳng định và các tranh luận, khởi hành từ các giả thuyết tuyệt đối tự do và chế sẵn. Người ta sử dụng các lý luận đi ngược lại các luật lệ luận lý sơ đẳng nhất, để đi đến các kết luận không thể chứng minh được.

Hỏi: Thế ni ta đi đến các kết luận nào?

Đáp: Nhiều thứ lằm: nào là trên Tấm Khăn Liệm có vẽ hình của nhà danh họa và khoa học gia Leonardo di Vinci; nào là Tấm Khăn Liệm là khăn giả thuộc thời Trung Cổ đã dùng các kỹ thuật lạ không được biết ngày nay. Rồi Tấm Khăn Liệm là bằng chứng khoa học của sự sống lại, hay là hậu qủa của hiện tượng phóng xạ đặc thù của sự sống lại, làm như thể sự sống lại là một điều tự nhiên, có thể lập lại được trong phòng thí nghiệm, và vì vậy có thể xem xét được với các phương pháp khoa học. Và danh sách còn dài lắm.

Gò ép các dữ kiện khoa học hay hoàn toàn lơ là chúng và khởi hành từ các giả thuyết tuyệt đối không có các nền tảng có nghĩa là gây thiệt hại và làm mất uy tín ý nghĩa và sứ điệp khiến cho Tấm Khăm Liệm là vật duy nhất trên thế giới này. Khởi hành từ giả thuyết Tấm Khăn Liệm là khăn bọc xác Chúa Kitô, và tìm mọi cách chứng minh cho điều đó mà không chú ý tới các lý lẽ nghiêm chỉnh và khách quan, hay khởi hành từ việc coi Tấm Khăn Liệm là một tác phẩm giả thời Trung Cổ, thì không chỉ là làm một việc không đúng đắn trên bình diện khoa học, mà còn là lừa dối tất cả những người muốn biết nhiều hơn về Tấm Khăn Liệm, coi các kết luận ấy là thật.

Hỏi: Như vy đâu là thái đ đúng đắn nhất thưa giáo sư?

Đáp: Thái độ đúng đắn nghiêm chỉnh và liêm chính duy nhất là của người ước muốn hiểu biết sự thật, khiêm tốn kiếm tìm, mà không yêu sách nuốn chứng minh luận thuyết chế sẵn nào cả; trái lại khước từ tất cả những gì không được chứng minh một cách nghiêm chỉnh và khoa học.

Lập trường của người tìm kiếm quân bình và liêm chính thì khá phiền toái, và ai chọn nó thì phải có can đảm và kiên trì theo đuổi cho đến cùng, bởi vì nó là con đường duy nhất dẫn tới chỗ thực hiện các cuộc tìm kiếm nghiêm chỉnh và có nền tảng, giúp thông tin cho dân chúng một cách trung thực và liêm chính. Lời Đức Gioan Phaolô II nói ngày 24 tháng 5 năm 1998 trước Tấm Khăn Liệm phải là kim chỉ nam hướng đẫn nhà nghiên cứu: ”Giáo Hội khuyến khích các nhà khoa học đương đầu với việc nghiên cứu Tấn Khăn Liệm mà không có các lập trường chế sẵn coi các kết qủa như đương nhiên, mà thực ra không phải như vậy. Giáo Hội mời gọi họ hành động với sự tự do nội tâm và sốt sắng tôn trọng phương pháp khoa học cũng như sự nhạy cảm của các tín hữu”.

(ZENIT 8-6-2012)

Linh Tiến Khải
 

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Đại Hội các dân tộc ở Rimini

Sứ điệp Đức Thánh Cha gửi Đại Hội các dân tộc ở Rimini

RIMINI. ĐTC Biển Đức 16 đề cao lòng khao khát của con người đối với Thiên Chúa, mặc dù ngày nay có nhiều toan tính gạt bỏ Chúa ra ngoài lề cuộc sống.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự viên cuộc gặp gỡ thân hữu giữa các dân tộc lần thứ 33 tại thành phố Rimini, trung Italia, với chủ đề ”Bản chất con người là tương quan với vô cùng, bản chất ấy thúc đẩy chúng ta mong ước”.

Sứ điệp của ĐTC đã được Đức Cha Francesco Lambiasi, GM giáo phận Rimini sở tại, tuyên đọc trong thánh lễ khai mạc cuộc gặp gỡ sáng chúa nhật 19-8-2012. Ngài viết: ”Nói về con người và khát vọng của con người đối với sự vô cùng, trước tiên có nghĩa là nhìn nhận quan hệ cấu thành của con người với Đấng Tạo Hóa. Con người là một thụ tạo của Thiên Chúa.. Ngày nay, từ ”thụ tạo” dường như bị coi là lỗi thời: người ta thích nghĩ đến con người như một hữu thể tự viên mãn nơi mình và là chủ vận mệnh của mình..”

ĐTC nhận xét rằng ”Dù con người cố gắng tránh né quan hệ cấu thành với Thiên Chúa, nhưng con tim của con người vẫn đi tìm kiếm vô cùng, tuy là theo những chiều hướng sai lầm: họ bắt đầu cuộc tìm kiếm vất vả đối với những gì là vô cùng giả tạo, chúng có thể mang lại thỏa mãn nhất thời cho con người, nưhg rồi chúng dẫn đến những mục tiêu nguy hiểm như ma túy, lạc thú nhục dục tháo thứ, thành công với bất kỳ giá nào, thậm chí cả những hình thức lường gạt về tôn giáo”.

ĐTC cũng khẳng định rằng: ”Để thực sự tìm lại bản thân và căn tính của mình, con người cần tái nhìn nhận mình là thụ tạo, tùy thuộc Thiên Chúa. Khi nhìn nhận sự lệ thuộc ấy, xét cho cùng là sự tái khám phá mình là con Thiên Chúa, con người có thể tìm được một cuộc sống thực sự là tự do và sung mãn”. Cuộc gặp gỡ các dân tộc ở Rimini, tương tự như Đại hội Công Giáo toàn nước Đức (Katholikentag), và do Phong trào Hiệp thông và Giải phóng tổ chức. Các sinh hoạt này diễn ra trên một khu vực hội chợ triển lãm rộng 170 ngàn mét vuông, và gồm có hơn 100 cuộc gặp gỡ đủ loại, từ văn hóa tôn giáo, đến chính trị và xã hội, 21 buổi trình diễn văn nghệ, 9 cuộc triển lãm, 281 diễn giả và đặc biệt có sự cộng tác của 3.300 người thiện nguyện góp phần vào việc tổ chức và tiến hành.
Ban tổ chức cho biết có nhiều nhóm đến từ nước ngoài và người ta ước lượng số tham dự viên trong 1 tuần gặp gỡ sẽ lên tới 800 ngàn người, giống như hồi năm ngoái.

Phí tổn tổ chức cuộc gặp gỡ này vào khoảng 8 triệu 400 ngàn Euro, trong số này có 6 triệu do các xí nghiệp tài trợ, phần còn lại do tiền lời của các hoạt động thương mại, tiền vào cửa một số sinh hoạt có trả tiền và các dịch vụ ẩm thực.

Chiều chúa nhật 19 tháng 8 vừa qua, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Italia, ông Mario Monti, đã đến nói chuyện về các vấn đề người trẻ, sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Những tiếng kêu cứu từ Syria

Những tiếng kêu cứu từ Syria

DAMASCO. Nhiều vị lãnh đạo Công Giáo tại Siria lên tiếng báo động về tình trạng bi thảm tại nước này và kêu gọi chấm dứt các cuộc xung đột, nhất là yêu cầu Tây Phương đừng bênh vực một chiều các nhóm phiến quân võ trang.

Từ gần 18 tháng qua, Siria lâm vào vòng khói lửa, với cuộc xung đột đẫm máu giữa quân chính phủ và phe phiến quân võ trang, được sự ủng hộ của các nước Tây phương và một số nước Arập. Họ chủ trương lật độ chế độ độc tài của tổng thống Bashar Assad, giống như đã làm tại một số nước Arap khác như Tunisie, Ai Cập, Irak, Libia và Yemen.. Rút kinh nghiệm trong vụ Libia, Nga và Trung Quốc quyết liệt dùng quyền phủ quyết tại Hội đồng bảo an LHQ, không cho Tây phương dùng võ lực một cách danh chính ngôn thuận để lật đổ chế độ Assad. Các phương tiện truyền thông và nhiều chính phủ tây phương mô tả chế độ tại Siria là tộc tài, khát máu, tàn sát dân lành. Tuy nhiên cũng không thiếu những tiếng nói, đặc biệt về phía Công Giáo địa phương, cảnh giác về nguy cơ độc tài tôn giáo và những vụ chà đạp nhân quyền từ phía phiến quân võ trang ở Siria do Tây phương ủng hộ.

Tình hình xung đột ở Siria chưa có triển vọng chấm dứt. Trong những ngày vừa qua, Hội đồng bảo an LHQ quyết định không gia hạn phái bộ quan sát viên tại Siria được gửi đến trong thời gian qua để theo dõi cuộc đình chiến không hề xảy ra thực sự. Trong khi đó nhà ngoại giao Lakhdar Brahimi người Algéri, đã chấp nhận vai trò làm người trung gian quốc tế, thay thế ông Kofi Annan, cựu Tổng thư ký LHQ. Về mặt nhân đạo, thảm trạng của hàng ngàn thường dân tị nạn chiến tranh trầm trọng thêm, và họ phải chạy trốn sang Thổ Nhĩ Kỳ.

Số nạn nhân của cuộc xung đột võ trang tiếp tục gia tăng và chưa có dấu hiệu giảm bớt. Theo nguồn tin từ Viện quát sát nhân quyền với trụ sở ở Luân Đôn, có ít nhất 180 người chết hôm 16 tháng 8-2012, trong đó có 112 thường dân.

Đức Cha Jeanbart

Đức Cha Jean-Clément Jeanbart, TGM giáo phận Aleppo của Giáo Hội Công Giáo Melkite, đã gióng lên lời kêu gọi thống thiết qua làn sóng của Đài Vatican:

”Tôi kêu gọi Cộng đồng quốc tế, tôi xin các tín hữu Kitô Âu Châu, Mỹ châu và toàn thế giới, tôi khẩn thiết xin các chính phủ hãy thương xót nhân dân Siria này, và làm tất cả những gì có thể để thúc đẩy mọi phe liên hệ hãy ngồi vào bàn để đối thoại, tìm ra một sự hòa giải và giải quyết vấn đề này một cách văn minh, nhân đạo. Chiến tranh chỉ tạo nên tàn phá, chết chóc: đó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Chúng ta hãy ngưng ủng hộ những kẻ gây chiến. Tôi kêu gọi tây phương và các nước Nga, Trung Quốc, Iran cũng như các nước khác hãy thúc đẩy hai phe chấp nhận đối thoại, tìm ra một giải pháp dung hợp, một cách thức để giải quyết vấn đề này một cách thỏa đáng cho mọi người. Tôi xin và tha thiết yêu cầu mọi người hãy làm tất cả những gì có thể để cứu vớt hàng ngàn, ngàn người đang chết vô ích, vì như thế chẳng có vấn đề nào được giải quyết. Chiến tranh không giải quyết được vấn đề, nó chỉ mang lại chết chóc và tuyệt vọng mà thôi”.

Cha Noujeim, OFM

Cha Halim Noujeim, Bề trên miền dòng Phanxicô tại Siria, Giordani và Liban, cho biết cuộc xung đột gia tăng tại nước này ngày càng ảnh hưởng thê thảm đối với các tín hữu Kitô.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho phái viên hãng thông tấn Công Giáo Đức KNA ở thành phố Harissa bên Liban hôm 16-8 sau khi từ Siria trở về, cha tỏ ra e ngại rằng nếu chế độ tại Damasco sụp đổ thì sẽ có ảnh hưởng trên toàn vùng. Cha nói: “Tại một số vùng, như tại cổ thành Damasco, tình trạng tương đối còn bình thường. Nhưng chiến cuộc đang diễn ra giữa quân đội và phiến quân, tiếng bom đạn và máy bay trực thăng là điều mà người ta nghe thấy ngày cũng như đêm.

Nhiều người dân đã mất công ăn việc làm hoặc phải bỏ nhà cửa đi lánh nạn. Nhất là các tín hữu Kitô. Nguyên tại vùng Homs và Hama, hơn 200 ngàn tín hữu Kitô đã phải tị nạn, hoặc tới các vùng Kitô khác ở Syria hoặc tới Liban. Đặc biệt con số người tị nạn ở Damasco rất đông đảo. Những người này rất cần được giúp đỡ, vì họ bị mất mát mọi sự. Họ thiếu thuốc men, thiếu lương thực cho trẻ em, đường giao thông giữa các thành phố trở nên rất khó khăn. Tại những nơi mà các nhu yếu phẩm còn có thể mua được thì giá cả tăng vọt tới gấp 4 lần. Một chai xăng được bán với giá 2 ngàn đồng Siria tương đương với 25 Euro. Trước kia chỉ giá 500 đồng. Các tu sĩ Phanxicô tìm cách giúp đỡ dân chúng nhờ sự hỗ trợ nhận được từ nước ngoài.

Cha Noujeim cho biết đã xảy ra những vụ phiến quân võ trang bách hại các tín hữu Kitô. Tại Hama, các tín hữu Kitô bị trục xuất khỏi gia cư của họ. Nhà thờ bị phiến quân chiếm đóng, và tương lai rất là bất định.

Cha xác quyết rằng cả phe chính phủ lẫn phiến quân đều có trách nhiệm về bạo lực. Hiện nay chẳng còn sự kiểm soát và luật lệ. Nguy cơ là khi chế độ hiện nay ở Syria sụp đổ, thì bạo lực càng gia tăng và người ta sẽ tiến tới một chế độ độc tài. Tại các nước Arập khác, người ta đã thấy chế độ độc tài chính trị bị thay thế bằng một chế độ độc tài tôn giáo. Và không có hình thức độc tài nào tệ hại hơn thứ độc tài tôn giáo, nhất là đối với các tín hữu Kitô thiểu số sống trong một xã hội đại đa số theo Hồi giáo.

Cha Bề trên Phanxicô nói: Thế giới tây phương hiện nay đang đứng về phía phiến quân võ trang ở Siria và không phản ứng trước tình trạng hiện nay của các tín hữu Kitô. Điều này không có nghĩa là chúng tôi ủng hộ hoặc chống lại chính phủ. Chúng tôi chống lại mọi hình thức độc tài hoặc bạo lực, nhưng chúng tôi rất lo âu về tương lai, vì chúng tôi không thấy có giải pháp nào khác tốt đẹp hơn.

Hiện nay ở Liban càng ngày càng có thêm những người tị nạn từ Syria chạy tới khiến cho tình hình ngày càng căng thẳng. Đồng thời chính phủ Liban cố gắng bảo tồn sự trung lập. Nếu Siria quyết định chống lại chính phủ của mình thì chắc chắn điều này sẽ mang lại nhiều bất ổn cho Liban (KNA 17-8-2012)

Nữ tu Agnes Mariam, dòng Cát Minh

Mặt khác, trong bản tin truyền đi ngày 15 tháng 8-2012, Nữ tu Agnes Mariam Thánh Giá, Bề trên Đan viện thánh Giacôbê ở Qara, Syria, đã tố giác các hành vi tàn bạo của phiến quân võ trang ở nước này và kêu gọi cộng đồng quốc tế ngưng ủng hộ phiến quân.

Nữ tu Agnes Mariam sinh tại Liban, thân phụ là người Palestine và mẹ chị là người Liban. Chị gia nhập dòng Cát Minh hồi năm 1971 và đã trải qua cuộc nội chiến tại Liban từ năm 1975 đến 1990. Năm 1994, chị thành lập một cộng đoàn mới trong Đan viện cổ kính thánh Giacôbê có từ thế kỷ thứ 6 tại thành phố Qara ở Syria. Chị cũng là phát ngôn viên của Trung tâm truyền thông Công Giáo của Tổng giáo phận Homs, thuộc Giáo Hội Công Giáo Melkite. Chị nói: ”Cuộc nổi dậy võ trang ở Syria tạo nên một chế độ độc đoán tệ hơn cả chế độ của Bashar Assad… Chúng tôi biết rằng những người ấy không chiến đấu cho tự do, nhưng cho các giá trị của họ, và các giá trị này không phải là giá trị của Hồi giáo ôn hòa, mà là Hồi giáo cực đoan.. Điều làm cho chúng tôi thực sự đau buồn và coi như gương mù, đó là thế giới tây phương dường như khuyến khích sự nổi dậy của thứ bạo lực phe phái như thế, chỉ với mục đích lật đổ chế độ của Assad ở Syria”.

Nữ tu cho biết các nhóm nổi dậy đang đánh vào các nhóm tôn giáo thiểu số, hành quyết những người Hồi giáo Sunnit ôn hòa, như các ký giả, các nhà nghiên cứu, bác sĩ, kỹ sư, để buộc gia đình và cộng đoàn của những người này ủng một Nhà Nước Hồi giáo.. Quả thực là nhóm nổi dậy đang phá hủy sự quân bình tôn giáo và chủng tộc ở Syria”.

Nữ tu Agnes Mariam tố giác những vụ bắt bớ độc đoán, chặt đầu và sát hại trong chiến dịch khủng bố của các nhóm nổi dậy chống lại những người mà họ coi là cộng tác với chế độ Assad.

Nữ tu phê bình Hoa Kỳ và Anh quốc hứa tài trợ cho các nhóm phiến quân để họ dùng tiền bạc đó mua võ khí. Phiến quân Hồi giáo Sunnit cũng được các nước Arập khác hỗ trợ như Arập Saudi, Qatar và Thổ Nhĩ kỳ.

Nữ tu Agnes Mariam tuyên bố những điều trên đây với hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ ở Dublin thủ đô Ireland hồi trung tuần tháng 8 này, sau khi gặp gỡ Đức TGM Charles Brown, Sứ thần Tòa Thánh tại Ireland, và gặp Hội đồng Công lý và Hòa Bình của HĐGM Ireland.

Hôm 15-8-2012, một Ủy ban chuyên gia của LHQ ở Genève, Thụy Sĩ, kết luận rằng các lực lượng chính phủ và phiến quân tại Siria đều phạm các tội ác trong cuộc xung đột từ ngày 15-2 đến 20-7 năm nay.

Theo LHQ, tính đến cuối tháng 7 vừa qua, khoảng 2 triệu 500 ngàn người dân Syria bị thương, hoặc phải di tản, hay gặp phải vấn đề thiếu lương thực và các nhu yếu phẩm khác. Những người bênh vực nhân quyền cho biết từ tháng 3 năm ngoái, 2011, tức là kể từ khi xảy ra cuộc nổi dậy võ trang ở Syria, mà Hội Chữ Thập đỏ quốc tế gọi là một cuộc nội chiến, đã có từ 20 đến 28 ngàn người thiệt mạng trong cuộc xung đột.

Theo Nữ tu Agnes Mariam, Đức GM tại thành phố Aleppo nói với chị rằng mặc dù thành này không thực sự tham gia các buổi biểu tình cách mạng, vì đa số dân chúng muốn giữ thái độ trung lập nhưng thành này đã bị hàng ngàn phiến quân chiếm đóng, đa số không phải là người Siria, và họ bắt buộc dân địa phương phải cộng tác với họ, nếu không sẽ bị giết chết”.

Nữ tu Mariam nói: ”Tôi kêu gọi cho các thường dân. Vì đó không phải là phương thức để mang lại tự do hoặc dân chủ cho một nước đã phải chịu cái ách độc tài từ 50 năm rồi.. Tại thành phố Homs, tôi đã chứng kiến những điều kinh khủng. Tôi đã thấy hàng trăm xác thường dân bị bắn chết, bị cắt chặt thành từng mảnh, chỉ vì họ là những thường dân đi làm việc.. Thành phố Homs giống như thành Stalingrad bên Nga hoặc thành phố Dresden bên Đông Đức sau thế chiến thứ 2, nơi mà các thánh đường cổ kính của Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành trường lão bị xúc phạm, và cuộc xung đột đã làm cho 130 ngàn tín hữu Kitô phải rời bỏ vùng đó đi lánh nạn. Theo tôi, giải pháp duy nhất hiện nay là hoàn toàn ngưng chiến, và đối thoại trong nội địa Syria giữa mọi phe liên hệ để tiến tới một phong trào hòa giải và đối thoại. Điều cần thiết trước tiên là chấm dứt mọi bạo lực. Hiện nay có Phong trào Mussalaha, trong tiến Arập có nghĩa là hòa giải. Đây là một sáng kiến cộng đồng cơ bản bất bạo động, nảy sinh từ xã hội dân sự. Các vị lãnh đạo tôn giáo, gia đình và bộ tộc đã gặp gỡ nhau để thăng tiến hòa bình và hòa giải giữa lòng xã hội Syria. Đây là một điều thay thế cho bạo lực nổi dậy hoặc sự can thiệp quân sự của quốc tế”.

Sáng kiến này, – được Giáo Hội Công Giáo ủng hộ, – đã nảy sinh hồi tháng 6 năm nay tại thành phố Homs, sau khi nhiều đại diện của các tôn giáo khác nhau đã gặp gỡ nhau, và đã đưa ra nhiều tuyên ngôn chung về việc xây dựng hòa bình và tôn trọng lẫn nhau tại Syria. (CNS 15-8-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi tái khám phá Bí tích Thánh Thể

Đức Thánh Cha kêu gọi tái khám phá Bí tích Thánh Thể

CASTELGANDOLFO. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các tín hữu tái khám phá Bí tích Thánh Thể và đón nhận Chúa Giêsu trong đức tin.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 19-8-2012 với hàng ngàn tín hữu hành hương tại khuôn viên dinh thự Castel Gandolfo.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã giải thích về sự kiện Chúa Giêsu không tìm sự đồng thuận của người nghe, nhưng Ngài thúc giục các môn đệ phải đi đến một quyết định, đón nhận Chúa trong đức tin, không vấp phạm vì nhân tính của Ngài, nhưng đích thân kết hiệp với ngài một cách sâu xa. Tái khám phá ”phép Thánh Thể diễn tả trọn vẹn lòng khiêm tốn và sự thánh thiện của Thiên Chúa: Ngài trở nên bé nhỏ, trở thành một mảnh của vũ trụ để hòa giải trọn vẹn vũ trụ trong tình thương”. ĐTC nói:

”Anh chị em thân mến,
”Tin Mừng chúa nhật hôm nay (Xc Ga 6,51-58) là phần cuối cùng và cao điểm trong bài diễn văn của Chúa Giêsu tại Hội đường thành Cafarnaum, ngày hôm sau khi Chúa Giêsu cho hàng ngàn người ăn no chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa phép lạ ấy, nghĩa là thời điểm những lời hứa đã được viên mãn: Thiên Chúa Cha, xưa kia đã nuôi dân Israel trong sa mạc bằng manna, nay Ngài sai Con đến như Bánh hằng sống, và bánh này chính là mình Người, là sự sống được hiến tế vì chúng ta. Vì thế, vấn đề ở đây là đón nhận Chúa trong đức tin, đừng vấp phạm vì lòng khiêm tốn của Chúa; vấn đề ở đây là ”ăn thịt và uống máu Chúa” (Xc Ga 6,54), để được sự sống sung mãn. Hiển nhiên là diễn văn này không được nói lên để thu hút sự đồng ý. Chúa Giêsu biết điều đó và Ngài cố tình nói như thế; và thực tế đó là một thời điểm gay go, một khúc quanh trong sứ vụ công khai của Ngài. Dân chúng, và cả các môn đệ, trước đây rất phấn khởi vì Ngài, khi Ngài làm phép lạ; và cả việc hóa bánh ra nhiều cũng là một sự mạc khải về Đức Messia, đến độ ngay sau đó, dân chúng muốn tung hô Chúa Giêsu và tôn Ngài là vua của Israel. Nhưng chắc chắn ý Chúa Giêsu không như vậy, và với bài diễn văn dài, Chúa muốn làm dịu bớt sự phấn khởi của dân chúng và tạo nên sự bất đồng nơi nhiều người. Thực vậy, Chúa giải thích hình ảnh bánh và khẳng định mình đã được sai đến để hiến mạng sống, và ai muốn theo Ngài, thì phải kết hiệp với Ngài trong sự thân tình sâu xa, tham gia vào hy tế tình thương của Ngài. Vì thế, sau đó Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly: để các môn đệ có thể sở hữu nơi mình tình thương của Chúa, và như một thân mình duy nhất được hiệp nhất với Ngài, họ có thể kéo dài mầu nhiệm cứu độ của Chúa trong thế giới”.

ĐTC nói tiếp: ”Khi nghe bài diễn văn này, dân chúng hiểu rằng Đức Giêsu không phải là một vị Messia như họ mong muốn, một vị khao khát ngai vàng trần thế. Ngài không tìm kiếm sự đồng thuận để chinh phục thành Jerusalem; trái lại, Ngài muốn đến Thành Thánh để chia sẻ số phận của các vị ngôn sứ: nghĩa là hiến mạng sống vì Thiên Chúa và cho dân. Những tấm bánh đó, được bẻ ra cho hàng ngàn người, không muốn khơi lên một hành trình đắc thắng, nhưng tiên báo hy tế trên Thập Giá, trong đó Chúa Giêsu trở thành Bánh được bẻ ra nuôi nhiều người, trở thành mình và máu được dâng hiến để đền tội, cho thế gian được sống. Vì thế, Chúa Giêsu trình bày bài diễn văn ấy để cho đám đông dân chúng tỉnh ngộ, và nhất là để khơi lên nơi các môn đệ một quyết định. Và thực tế là, từ lúc đó, nhiều môn đệ không còn theo Ngài nữa”.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, chúng ta hãy để cho mình tái kinh ngạc vì những lời của Chúa Kitô: Ngài là hạt lúa được gieo vào lòng lịch sử, là hoa trái đầu mùa của nhân loại mới, được giải thoát khỏi sự hư nát của tội lỗi và chết chóc. Và chúng ta tái khám phá vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể, diễn tả trọn vẹn tất cả sự khiêm tốn và thánh thiện của Thiên Chúa: Ngài trở nên bé nhỏ, trở thành một mảnh nhỏ của vũ trụ để hòa giải trọn vẹn vũ trụ trong tình thương. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã ban cho thế giới Bánh Sự Sống, dạy chúng ta luôn sống kết hiệp sâu xa với Chúa”.

Chào thăm các tín hữu
Sau khi ban phép lành cho mọi người, như thường lệ ĐTC đã chào thăm các tín hữu hành hương bằng các thứ tiếng khác nhau, và tóm tắt ý chính của bài huấn dụ.

Với các tín hữu nói tiếng Pháp, ĐTC nhắc nhở Chúa Giêsu tự giới thiệu như Bánh Hằng Sống, lương thực không thể thiếu được đối với tín hữu muốn được sống đời đời. Như thế, Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để hiến thân một cách vô vị lợi cho anh chị em chúng ta. Đối với chúng ta, đây thực là một nguồn mạch vui mừng, nguồn sức sống và hy vọng. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chia sẻ cuộc sống của Chúa Con!
Với các tín hữu nói tiếng Anh, ĐTC nói rằng ”Ước gì chúng ta luôn luôn đói khát hồng ân sự hiện diện của Chúa trong Hy tế Thánh Thể, nơi Chúa Giêsu ban cho chúng ta bản thân Ngài làm của ăn và thức uống để nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành tiến về cùng Chúa Cha”.

Trong số các tín hữu hành hương hiện diện có đông đảo các bạn trẻ người Đức tham dự trại hè ở Ostia. Ngài đặc biệt chào thăm họ và nhận định rằng nhiều người trong chúng ta đang được hưởng những ngày nghỉ hè, như một dịp nghỉ ngơi và bồi dưỡng nội lực. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về một sự củng cố nội tâm, một lương thực mang lại sự sống đời đời. Đó chính là bản thân Chúa, Đấng trao tặng chúng ta mình máu Ngài trong phép Thánh Thể. Với lương thực này, Chúa muốn biến đổi chúng ta và đưa chúng ta vào trong lối sống của Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho sự biến đổi này được thành tựu nơi chúng ta, để chúng ta trở thành những con người mới, những người có cuộc sống thực sự”.

Nhắc đến cuộc viếng thăm ca Thượng Phụ Chính Thống Nga
Trong lời chào thăm các tín hữu hành hương Ba Lan, ĐTC nhấn mạnh tầm quan trọng cuộc viếng thăm của Đức Thượng Phụ Kirill, Giáo Chủ Chính Thống Nga tại Ba Lan, với việc ký tuyên ngôn chung với Giáo Hội Công Giáo Ba Lan về sự hòa giải giữa hai dân tộc Nga và Ba Lan. ĐTC cho biết ngài thấy đó là những lý do để hy vọng cho tương lai. Ngài nói:

”Trong những ngày nay, Đức Thượng Phụ Kirill I của Mascơva và toàn nước Nga đang là khách của Giáo Hội Chính Thống tại Ba Lan. Tôi thân ái chào Đức Thượng Phụ và tất cả các tín hữu Chính Thống. Trong chương trình viếng thăm những ngày này có dự kiến cả những cuộc gặp gỡ với các GM Công Giáo và tuyên ngôn chung bày tỏ ước muốn làm tăng trưởng tình hiệp nhất huynh đệ và cộng tác để phố biến các giá trị Tin Mừng trong thế giới ngày nay, trong tinh thần của cùng niềm tin nơi Chúa Giêsu Kitô.. Đây là một biến cố quan trọng khơi lên niềm hy vọng cho tương lai. Tôi phó thác những thành quả của cuộc viếng thăm này cho lòng nhân của Mẹ Maria và cầu xin phúc lành của Thiên Chúa.

G. Trần Đức Anh OP

 

 

Đức Cha Lê Văn Hồng, Tân Tổng Giám Mục chính tòa Giáo Phận Huế

Đức Cha Lê Văn Hồng, Tân Tổng Giám Mục chính tòa Giáo Phận Huế

VATICAN. Ngày 18 tháng 8-2012, Phòng Báo chí Tòa Thánh thông báo: ĐTC Biển Đức 16 đã nhận đơn từ chức vì lý do tuổi tác của Đức Cha Stephano Nguyễn Như Thể, TGM chính tòa giáo phận Huế, và bổ nhiệm Đức Cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng lên kế nhiệm.

Đức TGM Nguyễn Như Thể năm nay 77 tuổi, sinh ngày 1 tháng 12-1935 tại Giáo Xứ Cây Da, tỉnh Quảng Trị, thụ phong Linh Mục cách đây 50 năm (6-1-1962) và làm Giáo Sư Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện trước khi làm Giám đốc Tiểu chủng viện Huế (1972-1975). Tháng 5 năm 1975, ngài được bổ nhiệm làm TGM Phó của Giáo Phận Huế với quyền kế vị, dưới thời Đức TGM Nguyễn Kim Điền. Khẩu hiệu GM của ngài là ”Pro Mundi vita” (để cho trần gian được sống, Ga 10,10). Năm 1983, ngài đệ đơn từ chức và được Tòa Thánh chấp nhận. 15 năm sau đó, tức là ngày 9 tháng 3 năm 1998, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm TGM chính tòa của giáo phận Huế.

Đức tân TGM Lê Văn Hồng năm nay 72 tuổi, sinh ngày 30 tháng 6 năm 1940 tại Trí Bưu, Quảng Trị, thụ phong LM năm 1969 và làm Giáo Sư Tiểu chủng viện Hoan Thiện, và về sau ngài Quản xứ Truồi từ năm 1975 đến năm 1999 là năm ngài được cử đi du học tại Pháp trong 3 năm trời.

Trở về nước năm 2002, Cha Lê Văn Hồng Quản Xứ Phú Hậu cho đến khi được bổ nhiệm làm GM hiệu tòa Dadiaufala, Phụ tá của Tổng giáo phận Huế ngày 19 tháng 2 năm 2005. Ngài chọn khẩu hiệu GM là ”Sicut qui ministrat” (Như một người phục vụ, Lc 22,27).

G. Trần Đức Anh OP

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (08-13 đến 08-19-2012)

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO (08-13 đến 08-19-2012)

Trích từ Xuân Bích VN

Tổ chức Ân Xá Quốc Tế chỉ trích các khoản lương tâm, các chỉ dẫn đạo đức của các Giám Mục Công Giáo.

Không thù địch đối với những người đồng tính trong tranh luận hôn nhân đồng giới.

ĐGM Nasser Gemayel, giám mục của các tín hữu [Công giáo] Marônit ở Pháp.

Lòng dân chúng yêu mến Đức Thánh Cha và các Giám Mục gia tăng trở lại.

Một video giải thích công cuộc truyền giáo của Giáo Hội Hàn Quốc.

Xứ sở cây tuyết tùng có một sứ mệnh “chung sống hoà bình”.

Hy vọng sắp tôn phong Chân Phước cho Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.

iPads, Tablets không thay thế cho các sách lễ.

Vật lý giúp chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Những phụ nữ đã tham gia Công Đồng Vatican II.

Vatican ra lệnh nguyên quản gia của Đức Giáo Hoàng bị đem ra toà xét xử.

TGP Philadelphia bán các bất động sản quan trọng.

Đức Thánh Cha và Thượng Phụ Nga có khả năng gặp nhau ở Phần Lan?

Nhà lãnh đạo phái Tin Lành Luther chỉ trích sắc luật HHS .

Tín hữu Công Giáo Ba Lan và tín đồ Chính Thống Nga trong nỗ lực hoà giải.

Hơn 100 tổ chức Bảo Vệ Sự Sống diễu hành ở Tây Ban Nha.

Người sáng lập Diễu Hành Vì Sự Sống từ trần.

Những tiêu chuẩn đạo đức bị kỹ nghệ thụ tinh ống nghiệm lờ đi.

-Cảnh báo hôn nhân đồng tính nam có thể dẫn tới chế độ đa thê.

-Thêm nhiều người Mỹ tự coi mình là vô thần.

Sứ thần Toà Thánh lo âu cho tương lai của Giáo Hội Công Giáo ở Đức.

Các chính trị gia cầu khẩn sự trợ giúp của Đức Trinh Nữ Maria.

Vì sao những người vô thần sai về khoa học và tôn giáo.

     (Xem chi tiết . . . .  TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 08-13 to 08-19-2012 )

 

LƯƠNG THỰC SIÊU NHIÊN

 LƯƠNG THỰC SIÊU NHIÊN

Bài Tin Mừng hôm nay (Ga 6, 51-58) trình thuật tiếp “Diễn từ trong hội đường Ca-phac-na-um” của Đức Giê-su Ki-tô (Ga 6, 21-66). Mặc dù đám người Do thái xầm xì với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói “Tôi từ trời xuống?” (Ga 6, 42); nhưng Đức Ki-tô vẫn tiếp tục bài giảng về Bánh Trường Sinh. Người khẳng định: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”; khiến đám người Do thái lại càng thắc mắc: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Cứ kể ra với trí khôn loài người thì điều Đức Ki-tô nói là thậm vô lý. Nếu nói rằng Man-na là bánh từ trời xuống do Thiên Chúa ban tặng thì còn có thể hiểu được, bởi thực sự Man-na từ trời đổ xuống như mưa trước mắt mọi người. Tuy nhiên, giờ đây Đức Ki-tô lại nói chính Người là bánh hằng sống từ trời xuống, rồi còn khẳng định “bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”; thì làm sao nghe lọt tai, nhất là loài người vẫn tự cho mình là “người” chứ không phải là “thú vật” mà có thể ăn thịt đồng loại.
 
Cái động lực cơ bản khiến đám người Do thái cho Lời dạy của Đức Ki-tô là vô lý, chính là lòng tin. Bởi họ không tin “ông Giê-su con bác thợ mộc Giu-se” là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên mới xầm xì “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” Nếu họ hiểu và tin rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa thì vấn đề sẽ sáng tỏ ngay: Vời quyền năng vô hạn của Thiên Chúa thì mọi điều “không thể” đều trở nên “có thể”. Dựng nên cả vũ trụ và con người còn được, thì sá gì một chuyện nhỏ nhặt đó. Không hẳn chỉ có đám người Do thái thời đó cho Lời dạy của Đức Ki-tô là thậm vô lý, mà ngay ở cái thế kỷ XXI này cũng không thiếu những kẻ nghe xong liền chẹp mịêng: “Ôi dào! Chuyện không tưởng!” Họ cứ hiểu Lời dạy của Đấng Cứu Độ theo nghĩa đen và theo quy ước của loài người, bởi cho đến hiện nay đâu có một chứng tích nào cho thấy thật sự các Tông đồ tiên khởi và các tín hữu đã trực tiếp ăn thịt và uống máu của Đức Ki-tô. Vấn đề đặt ra ở đây là họ không hiểu “nghĩa ẩn dụ” của Lời Chúa, như trong Tông huấn “Lời Chúa” (I, 27) đã dạy: “Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: "Littera gesta docet, quid credas allegoria,/ Moralis quid agas, quo tendas anagogia" (Chữ đen nói tới việc làm; ẩn dụ nói về đức tin;/ Luân lý nói tới hành động; loại suy nói về số phận ta)”.
 
Đúng như vậy, Đức Ki-tô luôn dùng dụ ngôn trong khi giảng dạy. Người muốn cụ thể hoá ý nghĩa thiêng liêng thần bí ra bằng những hình ảnh sự vật trong thiên nhiên hay con người trong xã hội. Trước đó, Người đã dùng hình ảnh thực vật hay khoáng vật và nếu có dùng tới động vật thì chỉ là động vật cấp thấp như súc vật hay động vật hoang dã. Lần này thì Người dùng tới động vật cao cấp là con người, và hơn thế nữa còn là con người siêu đẳng vì ngoài bản tính loài người còn có cả một bản tình siêu việt là bản tính Thiên Chúa nữa. Vì thế, phải hiểu Thịt và Máu Đức Giê-su là của ăn tâm linh bổ dưỡng linh hồn. Thức ăn tâm linh thì chủ yếu phải ăn bằng tâm linh, chớ không phải bằng thể xác. Điều quan trọng để được bổ dưỡng tâm linh là phải gặp gỡ được Đức Giê-su và nhận được sức mạnh từ nơi Người. Việc gặp gỡ Người ở đây cũng cần được hiểu là gặp gỡ bằng tâm linh chứ không phải bằng thể chất.
 
Nói đến gặp nhau thường thì người ta hay nói đến cái “duyên”, nghĩa là phải có một sự đồng cảm hay một sự cộng hưởng tư tưởng nào đó làm “duyên cớ” hội ngộ (Vd: Tư tưởng lớn gặp nhau). Tất nhiên ở đây không nói đến chuyện gặp nhau bằng thể xác kiểu như “Gặp nhau tay bắt mặt mừng” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Dầu và nước không thể hòa tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải có những hóa tính căn bản giống nhau mới hòa tan với nhau được. Cũng vậy, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8), nên muốn gặp hay kết hiệp với Người thì chính mình cũng phải có tình yêu. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có rước lễ cả chục lần một ngày. Vâng, “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8); “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta… Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4,12…16). Quả thực, không tình yêu thì đừng nói đến chuyện gặp gỡ Thiên Chúa.
 
Hoá cho nên “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. Vì thế, anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa.” (Ep 5, 15-17). Muốn hiểu được ý Chúa thì phải làm sao gặp gỡ Chúa, mà muốn gặp gỡ Chúa thì phải “ sống như người khôn ngoan”. Những tư tưởng trong Bài Đọc II  hôm nay đã nhắc nhở người Ki-tô hữu phải biết “sống khôn ngoan theo Thánh ý Chúa”, phải biết chăm lo đến đời sống thiêng liêng, phải biết nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng bằng phương cách cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, ca tụng ngợi khen Thiên Chúa, và nhất là phải biết  dự Tiệc Thánh Thể, rước Mình và Máu Thánh Chúa. Phải luôn luôn tâm niệm rằng việc ăn Mình và uống Máu Chúa hằng ngày không bao giờ là những hành động biểu diễn bên ngoài hoặc những việc làm vô thức theo thói quen hay vì sĩ dịên. Ý Chúa dạy không phải và không thể là trực tiếp ăn Thịt và uống Máu Chúa, cũng như không phải và không thể là cứ vô tư ăn bánh và uống rượu đã truyền phép mà không biết dọn dẹp sạch sẽ ngôi đền Thánh Linh, sẵn sàng “Mở hồn ra với Chúa, mở tim ra với đời”. Việc ăn Mình và uống Máu Chúa chỉ thực sự đem lại hiệu quả tốt đẹp, đem lại cuộc sống vĩnh cửu mai sau, khi linh hồn của chúng ta thực sự được Chúa đến ngự và trái tim của chúng ta thực sự mở ra với anh em. Lương thực siêu nhiên phải được ăn bằng hành động siêu nhiên là thế.
 
Ôi! Lạy Chúa! Con đã “ăn Mình, uống Máu Thánh Chúa” suốt bao nhiêu năm trường, nhưng dường như đời sống tâm linh của con chẳng tăng trưởng bao nhiêu. Xin cho con biết đặt lại vấn đề một cách nghiêm chỉnh: Thịt Máu Chúa là lương thực tâm linh, tại sao con ăn uống Máu Thịt ấy hằng ngày, hằng tuần, mà tâm linh con vẫn hèn yếu, bạc nhược? Xin ban Thần Khí soi sáng và dạy bảo con cách thức “ăn Mình, uống Máu Thánh Chúa” cho đúng với ý mà Chúa hằng mong muốn con thực hiện. Ôi! Lạy Chúa! “Tâm tư con hoan lạc được rước Mình Máu Thánh. Tâm tư con vinh hạnh được diện kiến Thánh Tâm. Biết nói chi cho cân tình Chúa thương muôn vàn. Biết đáp chi cho cân tình Chúa thương rộng ban.” (“Mình Máu Thánh” – Thu Lâm – TCCĐ). Amen.
 
JM. Lam Thy ĐVD

Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ

LƯƠNG THỰC CỦA NGƯỜI KHÔN

 LƯƠNG THỰC CỦA NGƯỜI KHÔN

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN B
[Cn 9,1-6; Ep 5,15-20; Ga 6,51-58]

Ở đời ai cũng cho mình là khôn. Không ai muốn bị người khác bảo mình là dại dột. Ai cũng cho mình là hay, là hơn, là nhất, và cái gì của mình cũng hay, cũng hơn, cũng nhất. Không ai muốn thua ai đến nỗi chỉ giữa hai người mà người ta cũng dùng phép so sánh nhất: “Nhà tôi với nhà chị thì nhà tôi giàu nhất”, “Con tôi với con chị thì con tôi học giỏi nhất”. Thậm chí ngay trong gia đình, vợ giành khôn hơn chồng, chồng giành khôn hơn vợ. Ai cũng giành cái khôn nhất cho mình, khôn từ kiến thức, kinh nghiệm, đến lời ăn tiếng nói, đến cả cách ăn cách mặc, cách ứng xử, cách kiếm sống, cách hưởng thụ tiêu khiển, cách ăn chơi.

Cuộc đời trần gian như một cuộc lữ hành. Con người cho mình là khôn và tự sức mình đi tìm hạnh phúc, đi tìm đất sống. Cuối cùng là khi chưa tìm được hạnh phúc, chưa tìm được đất sống và cũng không muốn tìm đất để chết, cũng đã phải chết và trở về lòng đất, nơi mà có thể cả đời mình chưa hề bận tâm tới. Một cuộc lữ hành gần như vô định hướng.

Biết bao người “tự cho mình là khôn” đang nhan nhản giữa chúng ta, và có khi cả chính chúng ta nữa, những người Công giáo. Mấy chục năm nay, thêm một khẳng định trơ trẽn mà người ta vẫn cho như là chân lý của người khôn thời đại vô thần: “Bàn tay ta làm nên tất cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Không thấy có chút khái niệm nào về sự hiện diện của Thiên Chúa và sức mạnh của thần linh trong suy nghĩ của người vô thần. Đến khi biết được “bàn tay ta” cũng có hồi bại liệt, “sức người” cạn kiệt thì mới vỡ lẽ ra hết đời, rồi liều mình tuyến bố “chết là hết”. Ôi, thật là tệ hại cho cái túi khôn của con người kiêu ngạo, như “con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”.

Với các Kitô hữu Công giáo, thiết tưởng phải ý thức rất rõ về sự hiện diện của mình trên trần gian nhờ và trong thánh ý của Thiên Chúa, phải ý thức về sự mỏng giòn của đời người để biết tìm một nơi nương tựa vững chắc là Thiên Chúa, phải ý thức rất chuẩn về cùng đích của cuộc đời là được sinh ra bởi Tình Yêu và sẽ trở về với Tình Yêu của Thiên Chúa… Vì thế, cuộc đời là một cuộc hành hương. Hành hương đi tìm đất sống, tìm hạnh phúc thật, hạnh phúc vô biên.

Cuộc hành hương ấy là cuộc lữ hành ý nghĩa, có địa chỉ, có định hướng, có niềm hy vọng, có mục đích. Ý nghĩa cuộc đời không phải là sự chết của thân xác hay hư nát, nhưng chính là sự sống và sự sống lại của thân xác cần phải hư nát.

Người đi trong cuộc lữ hành cần ăn để có sức đi. Nhưng tiếc là, đến một lúc chắc chắn rằng con người không còn sức để ăn nữa, và hiểu là cũng không còn sức để đi. Và lúc ấy mới hiểu ra lương thực trần gian cũng tạm bợ, cũng hư nát như cuộc đời trần gian vậy. “Tay ta làm nên tất cả” mà tất cả ấy là thứ tất cả chóng vánh, hư nát. “Sỏi đá cùng thành cơm”, nhưng rồi cơm bánh trần gian chỉ nuôi ta một thoáng đời ngắn ngủi.

Lời Chúa hôm nay chỉ ra cho thấy thế nào là khôn hay dại đích thực trong cuộc lữ hành trần gian. Và đặc biệt hơn cho biết lương thực của người khôn là lương thực không hề hư nát để có một cuộc sống không hề hư nát. Lương thực ấy chính là Thánh Ý của Thiên Chúa và Thánh Thể Chúa Giêsu.

Từ Cựu Ước, lương thực ấy được sách Châm Ngôn đề cập đến: “Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan” (Cn 9,5-6).

Bước theo đường lối khôn ngoan” là hãy tìm thánh ý của Đấng Khôn Ngoan, Đấng thượng trí tuyệt đối. Tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa và thưởng nếm sự thiện hảo của Ngài khi để cho sự thiện hảo của Ngài khẽ chạm vào cuộc sống, để sự thiện hảo của Ngài hướng dẫn mọi suy nghĩ, mọi hành vi. Đừng trơ trẽn cậy dựa vào sức mình nhưng hãy cậy vào sức của Chúa. Thánh vịnh đáp ca nhắc nhở: “Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao” (Tv 33,9a).

Thánh Phaolô lại khuyên: “Hãy ăn ở khôn ngoan theo thánh ý Chúa” (Ep 5,15-20). Và đặc biệt hơn cả, Tin Mừng theo Thánh Gioan cho biết Lương Thực của người khôn ngoan là chính Thịt Máu Chúa Giêsu: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,51-59).

Người khôn ngoan là người tin có đời sau, và biết lo cho mình được sống không chỉ ở đời này, mà còn được sống ở đời sau. Biết bao người trong chúng ta cũng đang sống theo cách sống của những người không tin có đời sau, nên chẳng tha thiết với lương thực trường sinh của người khôn ngoan theo thánh ý Chúa. Đã vậy, lại còn tiếp tay với những kẻ vô thần bằng cách thinh lặng trước những xúc phạm tày trời đối với Thiên Chúa, đối với những người tin Chúa, và cả với Thánh Thể Chúa Giêsu.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng con ơn khôn ngoan biết chọn Chúa làm noi nương tựa vững chắc trong cuộc đời, và biết sống nhờ sức sống nơi Thánh Ý và Thánh Thể Chúa. Amen.
 
PM. Cao Huy Hoàng

Khởi sự tiến trình hòa giải giữa dân tộc Nga và Ba Lan

Khởi sự tiến trình hòa giải giữa dân tộc Nga và Ba Lan

VARSAVA. Hôm 16 tháng 8-2012, Đức Thượng Phụ Kirill, Giáo Chủ Chính Thống Nga, đã bắt đầu cuộc viếng thăm lịch sử tại Ba Lan, nhắm cổ võ sự hòa giải giữa hai dân tộc Nga và Ba Lan.
Mục đích này đã được Đức Thượng Phụ Kirill nêu rõ khi tới phi trường thủ đô Varsava. Ngài xác tín rằng hai nước có thể loại bỏ mọi hiểu lầm dựa trên căn bản chung là Tin Mừng.

Tại phi trường, Đức Thượng Phụ đã được Đức TGM Sawa của Chính Thống Ba Lan chào đón, tiếp đó hai vị đã cử hành thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa của Chính Thống giáo tại Varsava. Trong số các vị hiện diện có cả Đức TGM Jozef Michalik, Chủ tịch HĐGM Ba Lan và một số GM Công Giáo khác. Ban tối cùng ngày, Đức Thượng Phụ Kirill đã được tổng thống Bronislaw Kororowski tiếp kiến. Trong dịp này, Tổng thống khẳng định rằng ”Tôi tin các Giáo Hội có thể cổ võ rất nhiều sự hòa giải giữa Ba Lan và Nga, có thể hướng dẫn các dân tộc chúng ta khắc phục những định kiến và quan niệm tiêu cực tích lũy đối với nhau”.

Cao điểm trong 4 ngày viếng thăm của Đức Thượng Phụ Kirill tại Ba Lan là cuộc ký kết tuyên ngôn chung hôm 17-8-2012, về sự hòa giải giữa Giáo Hội Chính Thống Nga và Giáo Hội Công Giáo Ba Lan.

Đức TGM Michalik khẳng định rằng cả hai Giáo Hội đều chia sẻ các giá trị Kitô như nhau. Giáo Hội Chính Thống Nga nổi bật về sự bênh vực và công bố luật Chúa. Đức Thượng Phụ đã tặng Đức TGM Michalik một ảnh Icône Đức Mẹ từ miền Smolenks.

Trong một cuộc phỏng vấn, Đức Thượng Phụ Giáo chủ Chính Thống Nga nói rằng ”sắc thái quan hệ giữa hai nước và hai dân tộc Ba Lan và Nga cần phải được thay đổi. Không cần thiết phải nói xin lỗi và tha thứ.

Tuyên ngôn chung giữa Đức Thượng Phụ Kirill và Đức TGM Michalik được ký kết tại lâu đài hoàng gia Ba Lan và công bố hôm qua (17-8) gồm 3 phần: trước tiên là lời kêu gọi hòa giải giữa Nga và Ba Lan; tiếp đến là phần nhìn lại lịch sử, rồi phần liệt kê những giá trị mà các tín hữu Kitô trong thế giới ngày nay cần tín thác.”

Gợi hứng cho Văn kiện này là sự trao đổi thư từ giữa HĐGM Ba Lan và Đức hồi năm 1965 và một buổi cầu nguyện hòa giải với Giáo Hội Công Giáo nghi lễ đông phương ở Ucraine hồi năm 2005.

Tuyên ngôn có đoạn viết: ”Chúng tôi kêu gọi các tín hữu của chúng tôi hãy cầu nguyện để được ơn tha thứ về những lầm lỗi, bất công và mọi tai ương đã gây ra cho nhau.. Chúng tôi xác tín rằng đây là một bước đầu tiên, bước quan trọng nhất tiến đến việc tái lập sự tín nhiệm nhau, nếu không có sự tín nhiệm này thì không thế có một cộng đồng lâu bền và sự hòa giải trọn vẹn”.
Hai vị Giáo chủ hứa ”bảo vệ quyền của tôn giáo được hiện diện trong đời sống công cộng của một Âu Châu đang bị tục hóa: Ngày nay, các dân tộc chúng ta đang phải đương đầu với những thách đố mới. Viện cớ là bảo vệ đặc tính trung lập về tôn giáo hoặc bảo vệ tự do, các nguyên tắc cơ bản của 10 Giới Răn bị nghi ngờ.. Chúng ta chứng kiến sự cổ võ phá thai, làm cho chết êm dịu, hôn nhân đồng phái và chủ nghĩa tiêu thụ. Các giá trị truyền thống bị loại bỏ và những biểu tượng tôn giáo bị xóa bỏ khỏi phạm vi công cộng”.

Trong lịch sử, quan hệ giữa Ba Lan và Nga rất căng thẳng vì vai trò của Liên Xô hồi đầu thế chiến thứ 2 và vụ Liên Xô sát hại các tù binh chiến tranh người Ba Lan. Các đoàn quân của Liên Xô tuy đã giải thoát Ba Lan khỏi sự chiếm đóng của Đức quốc xã hồi năm 1944-45, nhưng sau đó lại đặt Ba Lan trong quĩ đạo của một chế độ tùng phục Moscow

Đối lại, các sử gia người Nga vẫn cáo cuộc bằng Ba Lan đã sát hại hàng ngàn tù binh Liên xô trong cuộc chiến tranh giữa hai nước hồi đầu thập niên 1920.

Giáo Hội Chính Thống Nga có khoảng 150 triệu tín hữu. Tại Ba Lan, trong số 38 triệu dân, có hơn 95% được rửa tội trong Công Giáo, và ngoài ra có 400 ngàn người là tín hữu Chính Thống” (KNA 16-8-2012)


G. Trần Đức Anh OP