Hình ảnh Đại lễ khai mạc năm Đức Tin GH Việt Nam và cao điểm Năm Thánh 80 năm GP Thanh Hóa

Hình ảnh Đại lễ khai mạc Năm Đức Tin GH Việt Nam và Cao điểm Năm Thánh 80 Năm GP Thanh Hóa

Sáng 12.10.2012, tại trung tâm giáo phận Thanh Hóa đã diễn ra ba sự kiện lớn không chỉ cho giáo phận Thanh Hóa mà cho toàn thể giáo hội Việt Nam: Khánh thành Trung tâm mục vụ, Đại lễ cao điểm Năm Thánh kỷ niệm 80 năm thành lập giáo phận Thanh Hóa, và đặc biệt là Khai mạc Năm Đức Tin của giáo hội Việt Nam.
Không khí tại  trung tâm giáo phận Thanh Hóa vào sáng sớm 12.10
 
 
Nhà thờ Chính Tòa
 
 
 
Tòa giám mục
 
 
 
Hàng rào danh dự xung quanh hồ cho đoàn rước đồng tế
 
 
 
 
 
Rực rỡ sắc màu
Khánh thành Trung tâm mục vụ: Công trình mừng sinh nhật thứ 80 của giáo phận Thanh Hóa, một Trung tâm mục vụ đã được hoàn thành. Và hôm nay, vinh dự được chính Đức cha Chủ tịch HĐGM Việt Nam làm phép thánh hóa.
 
 
 
 
 
 
 
Rước vào thánh lễ:
 
 
Đoàn rước bắt đầu từ Trung tâm mục vụ, vòng quang hồ và tiến về lễ đài Chính Tòa
 
 
Đội cồng chiêng giáo xứ Phong Ý
 
 
 
Quý cha, quý thầy và các đoàn thể trên đường rước
 
 
Bảng tên 26 giáo phận cùng với cộng đoàn Công giáo Việt Nam hải ngoại
 
 
 
Quý Đức cha trong cuộc rước đang tiến ra từ Trung tâm mục vụ, các thiên thần tháp tùng
 
 
 
Đoàn rước vòng quang hồ …
 
 
…tiến về lễ đài giáo xứ Chính Tòa
 
 
 
Đoàn đồng tế tiến lên lễ đài
 
Làm phép lễ đài mới: Cùng với Trung tâm mục vụ, lễ đài mới tại giáo xứ Chính Tòa đã hoàn thành đúng dịp và trong thánh lễ hôm nay cũng được chính Đức cha Chủ tịch HĐGM Việt Nam làm phép. 
 
 
 
 
Nghi thức Khai mạc Năm Đức Tin 2012-2013 cho giáo hội Việt Nam: Năm Đức Tin đã được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khai mạc vào hôm qua 11.10 tại Vatican cho toàn thể giáo hội Hoàn Vũ. Và hôm nay đây, Năm Đức Tin cho giáo hội Việt Nam cũng chính thức được khai mạc.
 
 
Công bố tông huấn Năm Đức Tin của ĐTC Bênêđictô XVI 
 
 
Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh đánh hồi trống hiệu triệu
 
 
Đức Tổng giám mục Hà Nội Phêrô tuyên bố khai mạc Năm Đức Tin
 
 
Ba Đức Tổng đại diện cho ba giáo tỉnh mở cửa Năm Đức Tin
 
 
Năm Đức Tin của giáo hội Việt Nam đã chính thực được khai mạc
 
 
Bóng bay mang theo cờ logo Năm Đức Tin có tên 26 giáo phận cùng với cộng đoàn Công giáo Việt Nam hải ngoại
 
 
 
 
Đức TGM Leopoldo Girelli đốt đuốc Đức Tin
 
Thánh lễ diễn ra long trọng:
 
 
Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh chào mừng và giới thiệu các đấng bề trên thượng cấp của giáo hội Việt Nam và quý quan khách
 
 
 
 
Đức cha Chủ tịch HĐGM chủ sự thánh lễ đồng tế
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Giáo dân đông đảo khiến khuôn viên giáo xứ không thể chứa hết, họ cùng hiệp thông thánh lễ qua những màn hình trực tiếp
 
 
Cung nghinh Lời Chúa
 
 
Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên – Giám mục Hải Phòng giảng lễ
 
 
 
 
Dâng lễ vật với trang phục và của lễ đại diện, đặc trưng cho ba giáo tỉnh
 
 
 
 
 
 
 
Cha Tổng đại diện Phêrô Vũ Tiến Phúc biểu lộ lời tri ân cảm tạ mọi thành phần dân Chúa
 
 
 
Đức TGM Leopoldo Girelli ban huấn từ
 
 
 
Đức TGM chủ tịch HĐGM Việt Nam có lời chia sẻ với cộng đoàn…
 
 
 
Và ban phép lành toàn xá, khép lại thánh lễ trọng thể với những sự kiện lớn hôm nay
 
Những tiết mục vũ cộng đồng tại TGM chào mừng Năm Đức Tin, mừng đại lễ cao điểm Năm Thánh 80 năm giáo phận:
 
 
 
 
 
 
 
 

Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Lương thực thế giới

Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Lương thực thế giới

VATICAN. Trong sứ điệp nhân ngày lương thực thế giới, cử hành hôm 16 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đề cao vai trò của các hợp tác xã nông nghiệp trong việc góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng lương thực trên thế giới.

Trong sứ điệp gửi đến Ông José Graziano da Silva, Tổng giám đốc tổ chức lương nông quốc tế (FAO), ĐTC đặc biệt bày tỏ sự hài lòng vì đề tài được chọn cho Ngày lương thực thế giới năm nay là ”Các hợp tác xã nông nghiệp nuôi thế giới”. Ngài viết: ”Vấn đề ở đây không phải chỉ là nâng đỡ các hợp tác xã như một hình thức tổ chức kinh tế và xã hội, nhưng còn coi chúng như một phương thế thực sự của hoạt động quốc tế. Kinh nghiệm tại nhiều nước chứng tỏ rằng các hợp tác xã, ngoài việc đẩy mạnh hoạt động nông nghiệp, chúng còn là một phương thể giúp các nông dân và dân chúng ở nông thôn can thiệp trong những lúc quyết định và đồng thời là một dụng cụ hữu hiệu để thực hiện sự phát triển toàn diện, với con người là nền tảng và là mục đích”.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng nhận xét rằng ”Nhờ dành ưu tiên cho chiều kích nhân bản, các hợp tác xã nông nghiệp có thể vượt lên trên khía cạnh hoàn toàn là kỹ năng canh tác, đặt chiều kích con người ở trung tâm hoạt động kinh tế, nhờ đó giúp mang lại câu trả lời thích hợp cho các nhu cầu đích thực của địa phương.. Đây là một quan điểm khác với quan điểm chịu ảnh hưởng của các biện pháp quốc nội và quốc tế chỉ nhắm mục tiêu duy nhất là kiếm lợi, bảo vệ thị trường, dùng các nông phẩm ngoài mục tiêu lương thực, duy nhập những kỹ thuật sản xuất mơi mà không có sự thận trọng cần phải có.” (SD 16-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sinh Hoạt Thượng HĐGM thứ 13: 16-10-2012

Sinh Hoạt Thượng HĐGM thứ 13: 16-10-2012

VATICAN. Từ sáng 16 tháng 10-2012, các dự thính viên và đại biểu các Giáo Hội Kitô anh em bắt đầu lên tiếng phát biểu tại Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 về tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin.

Phiên họp khoáng đại thứ 13 được đặt dưới quyền chủ tọa của ĐHY Gioan Thang Hán, GM giáo phận Hong Kong, nhưng không có sự hiện diện của ĐTC. Có 46 dự thính viên và 14 đại diện các Giáo Hội Kitô khác. Ngoài ra có 3 vị khách mời đặc biệt, trong đó có thầy Alois, Tu Viện trưởng tu viện đại kết Taizé. Việc phát biểu được tiếp tục trong phiên khoáng đại thứ 14 vào ban chiều. Mỗi dự thính viên được nói trong vòng 3 phút, tức là ít hơn 2 phút so với các nghị phụ.

Đầu khóa họp ban sáng, Đức TGM Eterovic, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã đọc sứ điệp của Đức Cha Lucas Lý Kinh Phong (Ly Jingfeng), GM Giáo phận Phượng tường (Fengxiang) tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, 90 tuổi, được trả tự do năm 1979 sau 20 năm tù trong thời cách mạng văn hóa. Ngài sinh năm 1922, thụ phong LM năm 1947 và GM năm 1980 hợp pháp trước mặt Tòa Thánh và cũng được Nhà nướcnhìn nhận ngày 30 tháng 8-2004. Giáo phận của ngài hiện có 20 ngàntín hữu Công Giáo. Đức Cha chào thăm các nghị phụ Thượng HĐGM và bày tỏ đau buồn vì không có ai từ Hoa Lục được tham dự công nghị GM này. Đức cha kể lại cuộc sống đức tin nhiệt thành của các tín hữu Công Giáo Trung Quốc và chia sẻ niềm đau của ĐTC vì tình trạng khủng đức tin tại nhiều nơi trên trái đây. Đức cha hy vọng đức tin của các tín hữu Công Giáo Trung Quốc có thể an ủi ĐTC.

Thượng HĐGM cũng bày tỏ tình liên đới với Giáo Hội và nhân dân Haiti bị động đất dữ dội cách đây 2 năm và đang ở trong giai đoạn tái thiết.

Sau khi 24 nghị phụ phát biểu, đến lượt 7 dự thính viên lên tiếng, gồm 6 giáo dân và một LM.
Trong số các nghị phụ phát biểu trong các phiên họp trước đó, người ta đặc biệt chú ý đến lập trường của:

Đức Cha Franz-Josef Bode, GM giáo phận Osnarbrueck ở Bắc Đức, đề nghị cho giáo dân được lãnh trách nhiệm nhiều hơn trong Giáo Hội. ”Một nền mục vụ sống động đòi phải có sự cộng tác giữa những người đã chịu phép rửa, chịu phép thêm sức, những người được giao phó trách vụ, những người được sai đi và những người được chịu chức thánh. Để được vậy, điều đáng mong ước là nới rộng trách nhiệm của các giáo dân nam nữ trong lãnh vực phụng vụ, huấn giáo và phục vụ”.

Đức Cha John Wong Soo Kau, 44 tuổi, TGM Phó giáo phận Kota Kinabalu bên Malaysia, thì kêu gọi cải tiến các phương pháp truyền giáo. Ngài nói:

”Lời kêu gọi tái Truyền Giảng Tin Mừng giả thiết nhận thức rằng các phương pháp và lối diễn tả của chúng ta ngày nay không còn thu hút hoặc mời gọi thế giới đang bị lôi kéo hoặc thúc đẩy vì những thay đổi được đẩy mạnh nhờ những tiến bộ trong lãnh vực khoa học và kỹ thuật, cũng như vì sự ham muốn của con người.

Nhiều suy tư và hội nghị đã được tổ chức ở nhiều cấp độ sau Công đồng chung Vatican 2, cố gắng đọc và hiểu các dấu chỉ thời đại. Nhiều tuyên ngôn và huấn dụ đã được công bố cho các Giáo Hội địa phương để can đảm đáp ứng những tình trạng thay đổi trong hy vọng. Nhưng các sứ điệp đã không thể được thông truyền mau lẹ và rộng rãi cho đủ. Chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận rằng những câu trả lời của chúng ta trong quá khứ không theo kịp những thay đổi trong thế giới. Chúng ta đã không thể mang lại những giải đáp cho cá nhân và xã hội bị kẹt giữa các cơ cấu và những dịp tội lỗi. Tiếng nói của chúng ta bị bóp nghẹt vì những luật lệ quốc gia hoặc những thế lực mạnh mẽ kiểm soát các cơ quan truyền thông. Tôi muốn kể thêm một chiều kích nữa, đó là xu hướng tiến đến trào lưu cuồng tín và cực đoan (TLLV 63-67). Vì thế cần cấp thiết duyệt lại các phương pháp của chúng ta trong việc thông truyền giáo huấn của Giáo Hội về từ ngữ, hình thức, cách diễn tả và phương thế.

Đức TGM Wong Soo Kau cũng kêu gọi tăng cường việc đào tạo giáo dân: tại một số miền như ở Á châu, họ cần được huấn luyện để có thể đáp lại những hoàn cảnh khó khăn, khi đức tin của họ bị đe dọa.. Việc đối thoại liên tôn là điều rất cần thiết trong chương trình tái truyền giảng Tin Mừng. Đồng thời chúng ta cần đảm báo cho các tín hữu Kitô thiểu số tại một số miền được bảo vệ và đức tin của họ được củng cố. (SD 16-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Sinh hoạt Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13: 15-10-2012

Sinh hoạt Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13: 15-10-2012

VATICAN. Hôm 15 tháng 10-2012, Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 đã bắt đầu tuần làm việc thứ hai với hai phiên khoáng đại thứ 11 vào ban sáng và thứ 12 vào ban chiều.

Với hai phiên họp này, phần phát biểu của hơn 260 nghị phụ kể như kết thúc. Trong hai phiên họp sáng và chiều ngày 16-10-2012, cũng như trong phiên họp sáng thứ tư 17 tháng 10-2012, Công nghị GM thế giới sẽ lắng nghe ý kiến của các dự thính viên và đại biểu của các Giáo Hội Kitô Anh em.

Phiên họp thứ 11 sáng 15 tháng 10-2012, có sự hiện diện của ĐTC cùng với 251 nghị phụ, và dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY Chủ tịch thừa ủy, Gioan Thang Hán, GM Hong Kong. Đã có 42 nghị phụ đăng ký xin phát biểu.

Các bài phát biểu đề cập đến những vấn đề như: huấn luyện giáo dân một cách thích hợp, nâng đỡ gia đình, thăng tiến đối thoại đại kết và liên tôn: đây chính là những ”dụng cụ” của công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng. Một số nghị phụ bày tỏ lo âu về tình hình Mali bên Phi châu nơi các lực lượng Hồi giáo cực đoan đã chiếm được miền bắc nước này và đang đe dọa vùng thủ đô.

Các giáo dân cần được huấn luyện vững chắc và thích hợp, kể cả qua những công nghị địa phương, với sự tham dự trực tiếp của giáo dân, để họ có khả năng không chiều theo những cám dỗ của thế gian và làm chứng về những giá trị chân chính dựa trên sự kiện đức tin không chiều theo thế gian.

Nhiều nghị phụ đề cao tầm quan trọng của gia đình, giáo hội tại gia, và vì thế gia đình cũng là tác nhân truyền giáo; gia đình đang bị băng hoại vì lịch sử tây phương dựa trên sự giải phóng khỏi mọi ràng buộc. Ngày nay dường như gia đình là vấn đề số một của xã hội, đến độ người ta tin nơi sự trung thành ủng hộ một đội bóng đá hơn là sự chung thủy trong hôn nhân.

Một số bài phát biểu chi tiết hơn của các nghị phụ

Trong số các nghị phụ lên tiếng tại phiên khoáng đại thứ 6, chiều thứ năm 11-10 vừa qua, có Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, GM Phan Thiết, một trong hai đại biểu của HĐGM Việt Nam, đã nêu bật vai trò của giáo xứ trong việc truyền giảng Tin Mừng. Ngài nói:

”Khi đọc số 81 trong Tài liệu làm việc, tôi muốn lưu ý về vai trò của giáo xứ trong hoạt động rao giảng Tin Mừng và thông truyền đức tin.

”Trên bình diện Giáo Hội, mỗi giáo xứ là một đơn vị cơ bản của Giáo Hội địa phương, nhưng có khả năng làm cho Giáo Hội hoàn vũ trở nên hữu hình. Xét vì là một cộng đoàn giáo hội gần gũi với dân chúng tại một nơi cụ thể, đời sống của giáo xứ phải được tổ chức tương ứng như Giáo Hội hoàn vũ, để khi thấy sức sinh động của giáo xứ, người ta cảm thấy gần gũi với Giáo Hội hoàn vũ. Người ta lập tức được trở thành phần tử và được tham gia một Giáo Hội địa phương. Nếu trong đời sống kinh tế người ta nói suy nghĩ bao quát, hoạt động ngay ở địa phương (think globally, work locally), thì phải chăng người ta cũng có lý để nói rằng ”tư duy trong tâm tình yêu mến Giáo Hội hoàn vũ, và hoạt động thực sự trong Giáo Hội địa phương?”

Trên bình diện mục vụ, mỗi giáo xứ là một môi trường cụ thể để gặp gỡ giữa các vị hữu trách về đời sống giáo xứ. Một nền mục vụ được coi là sinh động hơn kém tùy theo những trao đổi hữu hiệu giữa các phần tử của giáo xứ qua những cuộc gặp gỡ. Một chương trình mục vụ được chuẩn bị kỹ lưỡng, được bàn luận sâu rộng và quyết định đúng đắn, thì chắc chắn sẽ mang lại những thành quả làm cho toàn thể cộng đoàn giáo xứ sinh động. Trong giáo phận Phan Thiết của tôi, vì những lý do chính trị, các giáo xứ vẫn còn giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động mục vụ. Chúng tôi không có quyền thực hiện những cuộc hội họp tôn giáo ở ngoài môi trường giáo xứ, và vì thế, nhà thờ và nhà xứ là những nơi thuận tiện cho các cuộc gặp gỡ của mọi giáo hữu để huấn luyện về giáo lý và thông truyền đức tin.

Trên bình diện truyền giáo, mỗi giáo xứ vẫn còn là một môi trường huynh đệ trong đó người ta biết nhau và nhìn nhận nhau đoàn toàn. Người ta biết rõ cá nhân, gia đình nghề nghiệp, và thậm chí cả những khả năng trí thức và nhân bản nữa. Người ta biết nhau rất rõ. Các chương trình truyền giáo được đề ngh
ị trong giáo xứ dựa trên điều đó”.

 

 

  • ĐHY Odilo Pedro Scherer, TGM giáo phận São Paolo, là giáo phận lớn nhất tại Brazil với hơn 5 triệu 600 ngàn tín hữu, trong bài phát biểu, ngài nhấn mạnh đến vai trò của đời sống thánh thiện và các thánh trong việc tái truyền giảng Tin Mừng. ĐHY nói:

”Việc tái truyền giảng Tin Mừng cần những ”nhà truyền giáo mới”. Các nhà rao giảng Tin Mừng này cần có cảm nghiệm sâu xa về đức tin, được nuôi dưỡng bằng sự hiệp thông với Thiên Chúa hơn là những phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật.

”Qua dòng lịch sử, các thánh là những Kitô hữu chân chính và là những nhà rao giảng Tin Mừng hiệu nghiệm nhất. Từ thời các tông đồ và các vị tử đạo đầu tiên, Giáo Hội đã có thể cậy dựa vào chứng tá của các thánh giữa những lúc khó khăn nhất trong đời sống và sứ mạng của mình: các thánh tử đạo và hiển tu, các thánh mục tử và tiến sĩ, các thánh thừa sai và giảng thuyết, các thánh thần bí, các trinh nữ thánh hiến, các thánh bác ái, các thánh lập dòng. Các vị luôn luôn là những môn đệ đích thực và thừa sai của Chúa Giêsu và là chứng nhân của Chúa trong thế giới! Tại mỗi nước, các thánh địa phương, hoặc các thánh của Giáo Hội hoàn vũ đã và đang nâng đỡ đức tin của các tín hữu; các vị là gương sống cho họ, và cũng là những người chuyển cầu huynh đệ. Các đền thánh là những nơi đức tin và an ủi cho các tín hữu.

Vì thế – ĐHY Scherer nói – công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng có thể tìm được trong đời sống, chứng tá và sự chuyển cầu của các thánh một nguồn năng lực vô biên. Lòng sùng mộ đối các thánh và sự hiệp thông với các thánh giúp các tín hữu cảm nghiệm sự gần gũi với ”Mầu nhiệm đức tin” mà Giáo Hội tin và công bố cho thế giới.

Mầu nhiệm đức tin này là chính Chúa Ba Ngôi, Đấng đã trở nên gần gũi với chúng ta nhờ Chúa Giêsu Kitô; mầu nhiệm ấy đã làm say mê các thánh trước chúng ta, và cũng có thể thu hút cả những con người ngày nay.

Cuộc sống, chứng tá và sự chuyển cầu của các thánh chính là một kho tàng của Giáo Hội, và có thể trợ lực rất nhiều cho công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng.
 

 

  • Đức Cha José Guadalupe Martín Rábago, TGM giáo phận Léon bên Mêhicô, nói về vai trò của lòng đạo đức bình dân trong việc tái truyền giảng Tin Mừng:

”Trong giáo huấn của Giáo Hội tại Mỹ châu la tinh thường nhắc đến giá trị mục vụ của lòng đạo đức bình dân. Chúng ta nhìn nhận rằng việc rao giảng Tin Mừng và thanh tẩy lòng đạo đức bình dân là những thách đố cần đương đầu trong tinh thần sáng tạo về mục vụ, vì nếu chỉ chiều theo những tình cảm và những gì là bình dân, thì không thể kiến tạo một nền văn hóa rao giảng Tin Mừng thực sự, có sức biến đổi các cơ cấu tội lỗi như các bất công xã hội, bạo lực, bất công và những gì trái ngược với phẩm giá con người và sự sống chung huynh đệ.

Đức TGM Martín Rabago trưng dẫn một thí dụ: giáo phận Querétaro ở Mêhicô vẫn tổ chức cuộc hành hương thường niên đến Vương cung thánh đường Đức Mẹ Guadalupe. Năm nay là kỷ niệm cuộc hành hương thường niên thứ 122 của giáo phận này. Có khoảng 40 ngàn người tham gia hành hương, họ được chia thành nhóm và có các LM, chủng sinh và nhân viên mục vụ giáo dân tháp tùng. Cuộc hành hương kéo dài 17 ngày, trong đó các LM cử hành thánh lễ hằng ngày và giải tội cho các tín hữu.
Kết quả thật là lớn lao. Người ta gia tăng lòng tôn sùng Thánh Thể, qua các giờ thánh được cử hành mỗi ngày. Cuộc hành hương được giáo phận và các giáo xứ chuẩn bị, đã biến thành một truyền thống mang lại những thay đổi tích cực trong cuộc sống và các tín hữu dấn thân nhiều hơn trong chương trình mục vụ được đề xướng.

ĐHY Peter Turkson, người Ghana, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh công lý và hòa bình, nhắc đến giáo huấn của Đức Phaolô 6 và Biển Đức 16, được tài liệu làm việc của Thượng HĐGM 13 trích dẫn, khẳng định rằng: ”Công việc rao giảng Tin Mừng sẽ không đầy đủ nếu không để ý đến lời kêu gọi hỗ tương mà Tin Mừng và đời sống cụ thể, đời sống cá nhân và xã hội của con người, nêu lên… Chứng tá bác ái của Chúa Kitô qua những hoạt động công lý, hòa bình và phát triển là điều thuộc về công việc rao giảng Tin Mừng, vì Chúa Giêsu Kitô, Đấng yêu thương chúng ta, quan tâm đến trọn con người. Dựa trên những giáo huấn quan trọng ấy có khía cạnh truyền giáo của đạo lý xã hội Công Giáo như một yếu tố nòng cốt của công cuộc rao giảng Tin Mừng. Đạo lý xã hội của Hội Thánh là sự loan báo và làm chứng về đức tin; là dụng cụ và là nơi không thể tách rời khỏi sự giáo dục về đức tin. Vả lại, qua kinh nghiệm sâu xa về mục vụ của Đức Chân Phước Gioan Phalô 2, khi còn là GM giáo phận Cracovia, cũng như khi làm Giáo Hoàng, đã nảy sinh định nghĩa hiệu năng nhất về đạo lý xã hội Công Giáo như “một dụng cụ để rao giảng Tin Mừng”.
Động lực nguyên thủy của sự rao giảng Tin Mừng chính là tình yêu của Chúa Kitô để cứu độ con người và việc loan báo Chúa Giêsu Kitô chính là nhân tố đầu tiên và chính yếu của sự phát triển.

Và ĐHY Turkson nhấn mạnh rằng trong bối cảnh lịch sử ngày nay, cần cấp thiết có những hoạt động tái truyền giảng Tin Mừng cả về mặt xã hội, không những vì yếu tố xã hội là một nội dung không thể thiếu được trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, nhưng còn vì đây là một phương thế hữu hiệu. Thực vậy, nhiều người ngày nay ngày càng tỏ ra nhạy cảm hơn đối với những vấn đề các quyền con con người, công lý, bảo vệ môi sinh, chiến đấu chống nghèo đói, những đề tài liên hệ tới đời sống cụ thể của con người và quốc gia. Đây là một thực tại có thể nắm bắt như một cơ hội đích thực để tái truyền giảng Tin Mừng: chính vì lý do đó, cánh cửa dẫn vào việc rao giảng Tin Mừng có thể là cánh cửa xã hội.

Đi vào cụ thể, trong lãnh vực đào tạo, ĐHY Turkson đề nghị kiên trì quan tâm đến việc học hỏi giáo huấn xã hội Công Giáo trong các chủng viện và các nơi đào tạo, các giáo xứ. Đừng tỏ lõ cơ hội để đối thoại đại kết và liên tôn…
 

 

  • Đức Cha François Lapierre, GM giáo phận Saint-Hyacinthe bên Canada, nhận xét rằng Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM hiện nay rất phong phú nhưng hơi yếu kém khi bàn về quan hệ giữa công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng và đạo lý xã hội của Hội Thánh. Tài liệu không khai triển đụ mối liên hệ sâu xa giữa việc loan báo Tin Mừng và việc phục vụ Công lý và hòa bình.

Tình trạng này có nguy cơ làm cho việc tái truyền giảng Tin Mừng như một câu trả lời cho các vấn đề nội bộ của Giáo Hội và không như một đóng góp có một không hai cho việc phát triển công lý và hòa bình trên thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay làm cho chúng ta khám phá thấy sự hà tiện và tham lam đã phá vỡ những liên hệ về ý nghĩa bằng cách tách biệt kinh tế ra khỏi chiều kích xã hội trong đời sống con người. Những liên hệ ấy chỉ có thể tìm lại được bằng tình thương, tình huynh đệ và bằng hữu, là những điều không những phải được biểu lộ trong những quan hệ giữa các cá nhân với nhau, nhưng còn trong đời sống kinh tế và thương mại như ĐTC Biển Đức 16 đã diễn tả trong thông điệp Bác ái trong chân lý.

Trong bối cảnh đó, một điều rất quan trọng là Giáo Hội xuất hiện như một huynh đoàn, một thân mình, Mình của Chúa Kitô. Cộng đoàn là một sự loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Trong việc khai tâm Kitô giáo, chúng ta thường tách biệt tình yêu với công lý, hành trình đức tin và các thực tại xã hội và chính trị. Điều cấp thiết là phát triển một nền văn hóa liên đới.

Các nhà đại thừa sai, qua các thế kỷ, đã biết liên kết việc loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô một cách táo bạo và sự dấn thân nơi những người nghèo khổ nhất. Cử chỉ của các vị thường ảnh hưởng nhiều hơn là lời nói.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

 

 

Đức Thánh Cha nhắc nhở từ bỏ lòng quyến luyến của cải

Đức Thánh Cha nhắc nhở từ bỏ lòng quyến luyến của cải

VATICAN. Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 30 ngàn tín hữu trưa chúa nhật 14 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 nhắc nhở các tín hữu về lời kêu gọi của Chúa Giêsu về sự từ bỏ lòng quyến luyến của cải.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC giải thích về bài Tin Mừng chúa nhật thứ 28 thường niên năm B về sự tích người giàu có hỏi Chúa Giêsu xem mình còn phải làm gì để được sự sống đời đời. Ngài nói:

Anh chị em thân mến,

”Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (Mc 10,17-30) có đề tài chính là sự giàu có. Chúa Giêsu dạy rằng đối với một người giàu có thật là khó vào Nước Thiên Chúa, nhưng không phải là không có thể; thực vậy, Thiên Chúa có thể chinh phục con tim của một người có nhiều của cải và thúc đẩy họ sống liên đới và chia sẻ với những người túng thiếu, với những người nghèo và như vậy họ sống theo tiêu chuẩn trao ban. Như thế, họ đi theo con đường của Chúa Giêsu Kitô, Đấng vốn giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh em, để anh em trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Ngài”, như thánh Phaolô đã viết (2 Cr 8,9).

”Như thường xảy ra trong các Sách Phúc Âm, tất cả đều khởi hành từ một cuộc gặp gỡ: cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với một người kia ”có nhiều của cải” (Mc 10,22). Ông là người ngay từ thời còn trẻ vẫn trung thành tâm giữ mọi giới răn của Luật Chúa, nhưng chưa tìm được hạnh phúc đích thực; và vì thế, ông ta hỏi Chúa Giêsu xem cần phải làm gì ”để được sự sống đời đời” (v. 17). Một đàng cũng như mọi người, ông ta bị cuộc sống sung mãn thu hút; nhưng đàng khác, ông ta quen cậy dựa vào sự giàu sang của mình, ông nghĩ rằng cả sự sống đời đời cũng có thể thủ đắc được một cách nào đó, có lẽ chỉ cần tuân giữ một giới răn đặc biệt. Chúa Giêsu đón nhận ước muốn sâu xa nơi người ấy – và thánh sử Phúc Âm nhận xét – Ngài nhìn người ấy với cái nhìn trìu mến: cái nhìn của Thiên Chúa (Xc v.21). Nhưng Chúa Giêsu cũng hiểu đâu là điểm yếu của người ấy: đó chính là sự quyến luyến với gia sản giàu có của ông; và vì thế, Ngài đề nghị ông phân phát hết tài sản cho người nghèo, nhờ đó, kho tàng của ông, và con tim của ông, không còn ở trên mặt đất nữa, nhưng ở trên trời, và ngài nói thêm: ”Anh hãy đến đây mà theo tôi!” (v. 22). Nhưng người ấy, thay vì đón nhận lời mời gọi của Chúa, thì lại buồn rầu bỏ đi (Xc v.23), vì không rời bỏ nổi những của cải giàu sang của mình, những của mà không bao giờ chúng có thể mang lại cho ông ta hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu”.

”Và bấy giờ Chúa Giêsu nêu lên một giáo huấn cho các môn đệ – và cho cả chúng ta ngày nay: ”Thật là khó khăn dường nào đối với những người có nhiều của cải, vào được Nước Thiên Chúa!” (v.23). Khi nghe những lời này, các môn đệ ngỡ ngàng; và họ càng kinh ngạc hơn khi Chúa Giêsu nói thêm: ”Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu có vào Nước Chúa”. Nhưng khi thấy họ kinh ngạc, Chúa nói: ”Điều ấy không thể đối với con người, nhưng không phải không thể đối với Thiên Chúa! Vì tất cả đều có thể đối với Thiên Chúa” (Xc vv.24-27). Thánh Clemente thành Alessandria bình luận như sau: ”Dụ ngôn dạy những người giàu có đừng lơ là đối với phần rỗi của họ như thể họ đã bị kết án, và cũng không được vất của cải xuống biển, và đừng lên án sự giàu sang như là cạm bẫy và thù nghịch đối với cuộc sống, nhưng họ phải học cách sử dụng giàu sang và tìm kiếm được sự sống” (Quale ricco si salverà?, 27, 1-2). Lịch sử Giáo Hội đầy những tấm gương của những người giàu có, đã dùng tài sản của mình theo tinh thần Phúc Âm, và họ cũng đạt tới sự thánh thiện. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến thánh Phanxicô, thánh nữ Elisabeth xứ Hungari, hoặc thánh Carlo Borromeo. Xin Đức Trinh Nữ Maria, là Tòa Đấng Khôn ngoan, giúp chúng ta vui mừng đón nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu, để được cuộc sống sung mãn.

Chào thăm và nhắn nhủ

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc đến lễ phong chân phước hôm thứ bẩy, 13-10-2012, tại Praha, thủ đô cộng hòa Tiệp, cho Cha Federico Bachstein và 13 anh em cùng dòng Phanxicô. ”Các vị bị giết hại vào năm 1611 vì đức tin. Đó là những chân phước đầu tiên của Năm Đức tin, và là những vị tử đạo: các ngài nhắc nhở chúng ta rằng tin nơi Chúa Kitô cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu đau khổ với Chúa và cho Chúa..

Trong lời chào bằng tiếng Pháp, ĐTC nói: Vào đầu Năm Đức Tin này, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chúng ta đừng sợ sống và công bố niềm xin của chúng ta nơi Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, sống cho Chúa Kitô đòi chúng ta phải thực hiện những chọn lựa, nhiều khi khó khăn, nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa tháp tùng và trợ giúp chúng ta làm điều thiện, vì ơn thánh của Chúa luôn đi trước chúng ta. Trong tháng Mân Côi này, chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria. Mẹ đã biết đón nhận và sống Lời Chúa. Chúng ta cũng hãy phó thác cho mẹ các gia đình chúng ta và mọi tham dự viên Thượng HĐGM đang tụ họp tại đây để suy tư và trao đổi về việc tái Truyền Giảng Tin Mừng!

Khi chào các tín hữu nói tiếng Anh, ĐTC nói: Trong Năm Đức Tin này, giống như người đàn ông trong bài Tin Mừng hôm nay, ước gì chúng ta có can đảm hỏi Chúa xem điều gì chúng ta có thể làm hơn nữa, nhất là cho những người nghèo, người đơn độc, bệnh tật và đau khổ”.

Bằng tiếng Ba Lan, ĐTC nhắc đến sự kiện chúa nhật hôm qua tại Ba Lan và các giáo xứ Ba Lan trên thế giới, có cử hành Ngày Đức Giáo Hoàng với khẩu hiệu ”Đức Gioan Phaolô 2 – Vị Giáo Hoàng của gia đình”. Tôi cám ơn anh chị em vì dấu chỉ hiệp nhất này với Tòa Thánh, vì lời cầu nguyện của anh chị em và sự nâng đỡ dành cho các bạn trẻ được học bổng của Quỹ Ngàn Năm Mới, chuẩn bị cho ngày này. Tôi cầu mong trong mỗi gia đình Ba Lan được ngọn lửa nồng nhiệt của đức tin, của sự thiện và tình thương theo tinh thần Tin Mừng”.

Bằng tiếng Sloveni, ĐTC chào thăm các tín hữu đến từ miền Dob pri Damzalah về Roma hành hương nhân dịp kỷ niệm 250 năm xây dựng nhà thờ giáo xứ, như một dấu chỉ biết ơn vì hồng ân đức tin. Tôi cầu mong rằng ngày nay thánh đường của anh chị em cũng được đông chật tín hữu và tâm hồn của anh chị em luôn được tràn đầy ơn thánh và được củng cố trong sự thiện.

G. Trần Đức Anh OP
 

 

MẦU NHIỆM CỦA SỰ SỐNG

MẦU NHIỆM CỦA SỰ SỐNG

Con người rất thông minh, có thể chi phối, có thể điều khiển được gần như mọi sự trong cuộc đời này nhưng hoàn toàn bất lực trước sự sống. Con người có thể làm cho tăng thêm tuổi thọ, kéo dài sự sống thêm một thời gian nhưng đến ngày đến giờ đã "định" không ai có thể kéo dài thêm được nữa, cho dẫu chỉ một chút thời gian.

Cách đây không lâu, các giáo sư cũng như chủng sinh thuộc địa phận Xuân Lộc phải ngậm ngùi tiễn biệt một người con rất ưu tú của Giáo Hội về nhà Cha.

Ngài ra đi ở cái tuổi không còn trẻ nhưng cũng chưa quá già. Hết sức đặc biệt là Ngài đã cất công đi học ở phương xa để hấp thụ những môn thánh học về giúp cho quê nhà nhưng thời gian dạy học đó quá ngắn. Nhiều nỗ lực để giành lại sự sống cho một linh mục học hành chăm chỉ và siêng năng đều phải nhường chỗ cho chứng bệnh Ngài đang mang và tiếc thương ngậm ngùi tiễn biệt.

Mới đây thôi, một tin buồn cho Giáo Hội nói chung và cách riêng cho Giáo phận Bắc Ninh, cũng một cha giáo khá giỏi phải ra đi. Ngài lớn tuổi hơn cha giáo Xuân Lộc một chút nhưng thời gian giảng dạy của Ngài cũng chẳng được bao lâu.

Và, cũng hết sức ngậm ngùi đến với giáo phận Buôn Ma Thuột khi phải tiễn biệt một linh mục khá trẻ, với 40 tuổi đời và 3 năm linh mục. Nhiều và rất nhiều giáo dân cũng như linh mục và tu sĩ tiễn biệt cha trẻ này về nơi an nghỉ cuối cùng.

Không hề quen biết, chưa một lần gặp gỡ nhưng đứng trước sự ra đi của các cha như thế không khỏi để lại những nghĩ suy.

Sự sống là như thế đó, thật mỏng dòn và mong manh dù người đó là ai đi chăng nữa. Phận người quá mong manh dù đó là linh mục, tu sĩ, giáo dân hay cả giáo hoàng, giám mục, chủ tịch hay tổng thống của một nước. Có những người đang ở độ tuổi của làm việc, của nghiên cứu, của phục vụ nhưng đành phải để lại mọi sự đang dang dở.

Lời nguyện chiều thứ Sáu trong giờ Kinh Phụng Vụ tuần III như thế này : "Biết bao người hôm nay lìa thế – xin nhớ lại cái chết nhục nhằn của Chúa trên thập tự".

Biết bao người hôm nay lìa thế ! Biết bao nhiêu người lìa thế cũng có biết bao người sinh ra trong cõi nhân sinh này. Ngày sinh cũng như ngày lìa thế của mỗi người không ai biết được ngoài Thiên Chúa, tin hay không đó là chuyện của mỗi người. Ta đang cầu nguyện cho "biết bao người" nhưng ngày nào đến lượt ta làm sao ta biết được. Hoàn toàn không ai biết được, sự sống là như vậy đó.

Tôi có cơ may gần gũi với cha già, ngài là niên trưởng hiện tại trong anh em. Đã cố gắng và tận tình chữa chạy, một ngày kia bác sĩ cho về để chờ ngày lo hậu sự. Theo như lời bác sĩ nói thì xuất viện chỉ được dăm ba hôm. Và, mọi người đều chuẩn bị đến cái ngày lìa thế của ngài như lời của bác sĩ. Thế nhưng, một tuần trôi qua, hai tuần trôi qua nhưng sức khỏe của ngài dần hồi phục. Dĩ nhiên là không được như ngày trước vì cha già hoàn toàn sống phụ thuộc vào máy móc cũng như những hỗ trợ của y khoa. Đứng trước cảnh tình như thế và đứng trước lương tâm cũng như luân lý, nào ai dám ra tay quyết định sự sống của người anh em, của một con người.

Và, cũng có một cha già khác nằm dài trên giường bệnh non kém chục năm. Ngài vẫn còn sống nhưng chỉ hoàn toàn như đời sống thực vật. Hiện tại ngài vẫn được chăm sóc hết sức đặc biệt và kỹ càng qua người con tinh thần cũng như nhiều người khác nữa.

Không biết cha già kéo dài được bao lâu nữa nhưng quả thật sự sống vẫn là điều gì đó hết sức mầu nhiệm với con người.

Mỗi ngày còn được hít khí trời, mỗi ngày còn mở mắt nhìn mặt người cho dù người đó ta ít mến kém thương đi chăng nữa đó vẫn là hồng ân và là quà tặng của Thiên Chúa.

Hãy sống, hãy chia sẻ quà tặng mầu nhiệm của sự sống mỗi ngày ta có được từ ân ban của Chúa.

Hãy sống, hãy làm điều gì đó cho anh chị em đồng loại dẫu là một việc hết sức nhỏ nhoi như một lời kinh, như một lời cầu nguyện hay là một ly nước lã cho người đang đói khát ở cạnh bên ta.

Sự sống mầu nhiệm lắm ! Hãy yêu quý, hãy trân trọng mỗi ngày ta có được.

Anmai, CSsR

CÁI KÉT SẮT

CÁI KÉT SẮT

Tác giả Ba Chuông, có truyện rất ngắn mang tên: “Cái két sắt” như sau:

“Ông H. mới giàu lên vài năm nay, nhờ vợ ông có cả trăm mối lái Hàn, Trung, Việt buôn bán thịnh đạt. Ông xây nhà lớn vào bậc nhất ở một thị trấn kể là nhỏ nhất. Thiết kế trong nhà mới xây có một chỗ để két sắt. Ông nghe nói có cả ngàn mặt hàng két sắt đựng tiền trên thị trường. Có những két sắt hiện đại đề phòng kẻ trộm từ xa; két sắt có con mắt phân biệt người thân, người lạ; có két sắt sử dụng bằng dấu vân tay…

Cuối cùng, ông chọn mua một két sắt sử dụng bằng dấu vân tay đắt tiền và cho xây âm trong tường luôn. Ông nói với mọi người rằng: “Như thế mới bảo đảm. Chẳng có thằng nào dám rớ tới ông”.

Sau đó chỉ một tuần, trong khi uống rượu, lên giọng giàu có dạy đời, ông H. bị mấy tay anh chị đập cho giập nát hai bàn tay. Đi bệnh viện hai tuần. Mất dấu vân tay. Vợ ở nhà đập két sắt lấy hết tiền đi rồi.

Hình như bà H. đứng tên nhà, đất. Và nghe nói tất cả đã sang tên cho thằng tình nhân Trung Quốc rồi.

Cái két sắt thật là an toàn ! Thật là bảo đảm muôn năm !”

Ở đời, có quá nhiều người cho mình là khôn ngoan, đến nỗi có thể nói: ai cũng cho mình là khôn ngoan, nhưng thử hỏi: được mấy người tìm cho ra Đức Khôn Ngoan đích thực ? Hay chỉ là loại khôn ranh ma mãnh kiếm chác vơ vét về cho mình tất cả uy tín, danh dự, quyền lực, công sản, tư sản, bất chấp công lý, công bằng, bất chấp nhân quyền, nhân đạo, nhân ái, rồi khư khư ôm chặt lấy những thứ phù du ấy mà ước, mà tưởng sống muôn năm để tận hưởng cho thỏa lòng tham lam vô tận.

Vâng, người trần gian là thế: quí chuộng những gì thuộc về trần gian như là mình sẽ mãi mãi ở lại trong trần gian này. Sự giàu có, uy tín, danh dự, quyền lực, sắc đẹp, tiền của… đều là những thứ phù du và được cất giữ trong cái tôi phù du mỏng mảnh, cái tôi tội lỗi, tối tăm, tồi tàn, tồi tệ, mà người ta cứ tưởng là cái két sắt bền vững muôn năm. Như thế là khôn ngoan sao ?

Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan hôm nay dạy: “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không”.

Sự giàu sang mà gọi là hư không thì thật là uổng công cho bao người cắm cúi cất công cả đời đi tìm cái hư không ấy.

Người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay một đàng là muốn sống đời đời, nhưng không muốn buông bỏ, chia sẻ những gì không thuộc về cõi sống đời đời.

Chúa Giêsu nhìn anh ta mà thương. Thương vì anh ta lành, nhưng chưa khôn. Bởi anh có khát vọng sống đời đời nhưng không dám buông bỏ cái phù vân. Hóa ra, anh đi xin thuốc trường sinh bất tử để trường sinh bất tử ở đời này mà tận hưởng của đời này, chứ không xin trường sinh bất tử ở đời sau ! Thế thì nếu Chúa Giêsu bảo: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”, thì trường sinh bất tử còn ý nghĩa gì đối với anh ta nữa ?

Thật đáng tiếc ! Cả bạn, và tôi, cả chúng ta cũng không khác gì anh ấy bao nhiêu đâu. Muốn sống đời đời để mà tận hưởng của cải trần gian này, vì ta đang có cái để tận hưởng đấy sao ? Chúa Giêsu cũng đang to nhỏ với chúng ta bao lần về cách nhìn nhận chân giá trị của những sự đời này, và dặn dò hãy dùng tiền của đời này mà mua lấy Nước Thiên Đàng mai sau.

Thế mà, có những chuyện đời thường gặp:

“Không có tiền góp cho các em vui Trung Thu đâu nhé. Ông không thấy sao. Mới đó mà em xuống sắc lắm rồi. Cần phải đi thẩm mỹ viện gấp gấp”.

“Mình còn phải xây tường rào mất cả trăm triệu, ông bày đặt hứa với Cha Sở cúng kiếng, đóng góp làm chi. Ông kiếm tiền mà cúng đi. Tôi không biết”.

“Em mới mất cái xe… Để cái xe máy trong nhà. 2g sáng thì còn, 3g thì mất. Xe không đáng là bao, nhưng lại là phương tiện để chở cha mẹ già đi Lễ. Em rất tiếc. Cha em thì bảo: mấy đứa xì ke không có xì ke chích hút tiế,p lỡ nó bất đắc kỳ tử không kịp ăn năn tội thì sao. Thôi, cho nó có cái qua ngày và may ra, có thời gian mà sám hối, trở về với Chúa con ạ. Cha mẹ đi xe ôm được mà”.

Và còn bao nhiêu lần ta từ chối cho đi những gì ta đang có. Không vì mình giàu hay mình nghèo, mà chỉ vì mình quá khắng khít với của cải phù vân ấy.

Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta trước tiên hãy tìm kiếm Đức Khôn Ngoan và sống theo Đức Khôn Ngoan ấy. Chúa Giêsu bảo “đến theo ta” là theo Giáo Lý của Chúa, theo cách sống của Chúa, theo Con Đường, theo Sự Thật, theo Sự Sống của Chúa Giêsu. Ấy chính là tìm được sự khôn ngoan đích thực.

Thánh Phaolô xác quyết: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” ( 1Cr, 24 – 25 ).

Và một khi đã theo Chúa Giêsu Kitô rồi, hẳn là chúng ta phải học hiểu Giáo Lý của Ngài, để nên giống Ngài và mặc lấy cái nhìn của Ngài mà nhìn nhận mọi sự ở đời này chẳng có gì là muôn năm cả, không có gì tồn tại cả, và chỉ có duy nhất một Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Thánh Thần sẽ là Vĩnh Cửu, là tồn tại muôn đời. Và chỉ những ai tin vào Chúa Giêsu và sống theo Lời Ngài dạy, mới được trường tồn với Ngài mà thôi.

Nơi Đức Giêsu, đựng cả kho tàng trường sinh bất tử và vĩnh cửu cho chúng ta. Cái két sắt nào có thể đựng cả và thế gian này đi nữa, cũng sẽ phải han gỉ hư nát đi, nhưng Đức Kitô gìn giữ chúng ta tồn tại muôn đời, vì chính Ngài cứu chúng ta ra khỏi sự hư nát ấy.

Lạy Chúa, “xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan. Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan” ( Tv 89 ) là sống kết hiệp khắng khít với Lời, Thánh Thể và Thánh Giá Chúa Giêsu từng giây phút. Amen.

 PM. CAO HUY HOÀNG, 12 tháng 10-2012

Sinh hoạt Thượng Hội Đồng Giám Mục 13 ngày 12 và 13-10-2012

Sinh hoạt Thượng Hội Đồng Giám Mục 13 ngày 12 và 13-10-2012

VATICAN. Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 đã nhóm phiên khoáng đại thứ 9 và 10 trong buổi sáng và buổi chiều 13-10-2012, để tiếp tục nghe các nghị phụ phát biểu ý kiến.

Trong phiên họp ban sáng đã có 24 nghị phụ lên tiếng phát biểu:

Đc Thượng Phụ Fouad Twal của Công Giáo la tinh ở Jerusalem. Ngài khẳng định rằng công trình tái truyền giảng Tin Mừng phải tái khởi hành từ Jerusalem, từ Thánh Địa, là ký ức tập thể sinh động về cuộc đời của Chúa Giêsu; theo chiều hướng đó các cuộc hành hương tại Thánh Địa là cơ hội để củng cố đức tin.

Một số GM khác nhắc đến những xúc phạm và tấn kích mà các nơi thánh thường phải chịu, và nói về Giáo hội tại Thánh Địa như một Giáo hội Canvê. Các vị cũng kêu gọi đối thoại dựa trên sự tôn trọng liên tôn; đề cao đức tin có sức phá đổ các bức tường và kiến tạo những nhịp cầu. Sau cùng các nghị phụ kêu gọi thế giới đừng quên Trung Đông, và các tín hữu Kitô đừng sợ hãi: đức tin không phải là thuộc về một phe phái ý thức hệ đưa tới bạo lực, nhưng giúp ta cảm thấy mình là anh chị em đối với nhau.

Trong phiên họp sáng thứ bẩy, 13-10, một số nghị phụ, như ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đề cao tầm quan trọng của đạo lý xã hội Công Giáo, một yếu tố thiết yếu để rao giảng Tin Mừng, để việc loan báo Chúa Kitô là một nhân tố chủ yếu giúp phát triển, thực hiện công lý và hòa bình. Vấn đề ở đây không phải là biến Giáo Hội thành một tổ chức xã hội, nhưng thăng tiến một nền văn hóa li+en tới và huynh đệ.

Trong số các đề tài khác được đề cập đến, có việc thanh tẩy và hướng dẫn lòng đạo đức bình dân, vì nó biểu lộ một đức tin chân thành và chứng tỏ niềm khao khát Thiên Chúa ở trong tâm hồn con người. Tiếp đến là đề tài những thách đố của thế giới truyền thông, các phương tiện này đang có xu hướng xâm chiếm toàn thể đời sống con người và biến đổi nó. Vì thế Giáo hội cần biết thông truyền sự gần gũi, quan hệ, tình bạn với con người, trong đặc tính riêng biệt của họ, những người được Thiên Chúa yêu thương.

Sáng thứ sáu 12-10-2012

Trong phiên khoáng đại thứ 7 vào sáng thứ sáu, 12-10, Công nghị đã nghe 23 nghị phụ phát biểu:

Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, GM Phát Diệm, một trong hai Đại biểu của HĐGM Việt Nam. Đức Cha nhắc lại lời Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2: ”Tương lai công cuộc truyền giảng Tin Mừng phần lớn tùy thuộc Giáo Hội tại gia” (FC 52).
”Thực vậy, tại Việt Nam, gia đình Công Giáo giữ một vai trò quan trọng trong việc thông truyền và nuôi dưỡng đức tin. Cha mẹ là những giáo lý viên đầu tiên dạy kinh và giáo lý cho con cái, nhất là trong thời kỳ bị bách hại. Nhiều gia đình, nhờ đọc kinh chung ban tối, trong đó họ suy niệm Tin Mừng, dần dần được ”Phúc âm hóa”.
Nhiều người ngoài Kitô giáo, do tình liên đới, khi tham dự các lễ cưới và lễ an táng theo nghi thức Công Giáo, họ được nghe nói lền đầu tiên về ý nghĩa và các đặc tính của hôn nhân Công Giáo, ý nghĩa cuộc sống, sự sống lại và niềm hy vọng mai hậu. Thực tế là có nhiều người trở lại để học giáo lý sau khi đã được tham dự các lễ nghi phụng vụ như thế”.

ĐHY Fernando Filoni, Tổng trưởng Bộ truyền giáo, nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa việc truyền giáo cho dân ngoại và tái truyền giảng Tin Mừng cho những người đã chịu phép rửa, đồng thời tăng cường việc trợ giúp Giáo Hội tại các xứ truyền giáo.

Ngài nói: ”Thượng HĐGM mà chúng ta đang tiến hành, là một thời điểm tuyệt hảo giúp chúng ta suy tư về quan hệ và giá trị của việc dấn thân truyền giáo và đồng thời nghĩ lại xem đâu là những con đường quan trọng nhất để can đảm tái đề nghị Tin Mừng.

”Chúng ta biết rằng Công Đồng chung Vatican 2 đã giữ một vai trò quyết định trong việc phát triển các Giáo Hội gọi là bản xứ, các Giáo Hội này không những được coi như những nơi để thi hành công cuộc truyền giáo, nhưng nhất là như những người giữ vai chính thực sự trong việc truyền giáo. 50 năm sau Công Đồng, chúng ta cũng thấy các Giáo Hội bản xứ, với hàng giáo sĩ, tu sĩ nam nữ riêng đang hội nhập vào đời sống của thế giới Kitô giáo kỳ cựu, mặc dù công cuộc truyền giảng Tin Mừng cho dân ngoại nơi các Giáo Hội ấy vẫn cần phải được phát triển mạnh mẽ.

ĐHY Filoni kêu gọi rằng ”Thượng HĐGM này phải làm cho chúng ta nhận thấy sự cần thiết phải có một công trình phối hợp hoạt động truyền giảng Tin Mừng, được hiểu như một cuộc rao giảng thứ nhất và mới mẻ, vì đây là một sứ vụ hoàn cầu, xét vì hiện tượng di cư của các dân tộc làm cho đối tượng của việc truyền giáo cho dân ngoại ở khắp mọi nơi, tạo nên những xã hội ngày càng đa nguyên. Ngoài ra, không thiếu những tín hữu đến từ các xứ truyền giáo, nay đang định cư tại các xã hội tây phương, mang lại sức sinh động và sự phong phú cho các giáo xứ và cộng động. Nơi các tín hữu ấy, người ta cảm nhận được đức tin tươi mát của họ, khác với những hình thức mệt mỏi và nguội lạnh của nhiều Kitô hữu kỳ cựu khác”.

– Một GM Canada, Đức Cha Brian Dunn, GM giáo phận Antigonish thuộc bang Nova Scotia, là giáo phận bị rúng động mạnh mẽ vị nạn giáo sĩ lạm dụng tính dục trong thời gian qua, đã nói với Thượng HĐGM rằng công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng cũng phải đối phó với sự nghi kỵ, mất tín nhiệm và thất vọng mà những gương mù gương xấu đã đệ lại.

Giáo phận này đã phải bán hàng trăm tài sản để lấy tiền trả án phí và bồi thường cho các nạn nhân bị lạm dụng tính dục. Thậm chí hối năm ngoái (2011), vị tiền nhiệm của Đức Cha Brian Dunn là Raymond Lahey đã nhận tội và bị tù vì nhập khẩu các hình ảnh dâm ô trẻ em. Vị này đã bị Tòa Thánh buộc hồi tục hồi tháng 5 năm nay.
Đức Cha Dunn nói: ”Trước cuộc khủng hoảng do nạn lạm dụng tính dục gây ra, các tín hữu Công Giáo cảm thấy rất hoang mang, và đi tới độ nghi ngờ các giáo huấn và giá trị thiết yếu đối với các môn đệ Chúa Kitô… Giáo Hội Công Giáo không thể làm ngơ trước nhu cầu cần tìm ra một phương thế để rao giảng Tin Mừng cho những người ta bị thương tổn trầm trọng vì những giáo sĩ lạm dụng tính dục”. Theo Đức Cha, một trong những phương thế khả dĩ, đó là nhìn câu chuyện sử các môn đệ bị thất vọng trước cái chết của Chúa Giêsu, nhưng họ đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh trên con đường về làng Emmaus. Chúa Kitô đồng hành với họ, lắng nghe họ. Vì thế, các giáo phận phải thiết lập những cơ cấu thực sự để lắng nghe các nạn nhân và thẩm định mức độ bị thương tổn, sự thịnh nộ và thất vọng của họ trước những xì căng đan như thế.. Đồng thời Giáo Hội cần điều tra về nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng lạm dụng tính dục, thiết lập các biện pháp để bảo vệ trẻ em và những người lớn dễ bị thương tổn.

Đức Cha Dunn nói: ”Những người bị tổn thương trầm trọng kêu gọi thay đổi một số cơ cấu trong Giáo Hội, nhưng không phải chỉ có những cơ cấu của Hội Thánh phải thay đổi, cần có một sự thay đổi sâu rộng về não trạng, thái độ và tâm hồn của chúng ta trong những phương pháp làm việc với giáo dân”

Đức Cha kêu gọi bổ nhiệm các toán mục vụ gồm giáo sĩ và giáo dân để quan trị các giáo xứ, đề ra một sự nhìn nhận chính thức các thừa tác vụ giáo dân, và cho phụ nữ được can dự vào việc thảo luận và quyết định ở mọi cấp độ trong đời sống Giáo Hội. Khi đời sống Giáo Hội có tinh thần đồng trách nhiệm như thế thì Tin Mừng sẽ được tái lắng nghe, đức tin của chúng ta sẽ được thông truyền thực sự, chúng ta sẽ được đổi mới trong đức tin và chứng tá của chúng ta sẽ chân thực hơn” (CNS 12-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP
– Vietvatican

ĐHY Gaudencio Rosales, Đặc Sứ của Đức Thánh Cha tại Đại Hội các Giám Mục Á châu tại Xuân Lộc

ĐHY Gaudencio Rosales, Đặc Sứ của Đức Thánh Cha tại Đại Hội các Giám Mục Á châu tại Xuân Lộc

VATICAN. Hôm 13 tháng 10-2012, Phòng báo chí Tòa Thánh thông báo: ĐTC Biển Đức 16 đã bổ nhiệm ĐHY Gaudencio Rosales, nguyên TGM giáo phận Manila, Philippines, làm đặc sứ của ngài tại Đại hội kỳ 10 của Liên HĐGM Á châu, sẽ tiến hành tại Trung Tâm Mục vụ của giáo phận Xuân Lộc từ ngày 19 đến 25 tháng 11 tới đây, với thánh lễ bế mạc tại Nhà Thờ Chính Tòa ở Thành Phố Hồ chí Minh.

Trong Hội nghị Thường niên kỳ II của năm 2012 từ ngày 8 đến 12 tháng 10 vừa qua tại tòa GM Thanh Hóa, HĐGM Việt Nam cũng bàn thảo về việc chuẩn bị cho Đại Hội kỳ 10 của Liên HĐGM Á châu nhóm tại Xuân Lộc. Tham dự khóa họp này có 120 vị, phần lớn là các GM đến từ các nước Á châu. (SD 13-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP
– Vietvatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 10-08 đến 10-14-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 10-08 đến 10-14-2012

Trích từ Xuân Bích VN

 

Các nghị phụ kêu gọi trung thành với Giáo Hội. ĐHY Hoa Kỳ nhấn mạnh Bí Tích Giải Tội.

Những kinh nghiệm với thần học giải phóng của Tân tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin.

Boko Haram hạ sát các sinh viên Kitô hữu ở Nigeria.

Bổ nhiệm mới.

Kết án Paolo Gabriele.

350 người tham dự Hội Nghị Thừa Tác Vụ Giới Trẻ Công Giáo.

Vatican II mới chỉ “được thực hiện” một nửa.

Con số của ngày : 69 nhân chứng của Vatican II ngày nay.

Sử dụng tiếng Ả Rập tại các buổi triều yết chung.

Hậu cảnh THĐ Giám Mục về Tân Phúc Âm Hoá.

Chung sống với Hồi giáo cực đoan là một “chuyện hoang đường”.

-Hôn nhân đồng tính sẽ đe doạ tự do tôn giáo.

-Nhớ lại chín người dũng cảm chịu tử vì đạo ở Trung Quốc.

Khắp nơi ủng hộ ĐGM Ma, Gp Thượng Hải.

Xếp hàng dài để nhìn thánh tích Tu sĩ Dòng Tên.

Công tố viên hàng đầu Vatican về lạm dụng tình dục được bổ nhiệm làm giám mục phụ tá Malta.

Vatican hành động về những thánh lễ cộng đoàn đồng tính ở Luân Đôn.

 (Xin xem tiếp . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG từ 10-08 đến 10-14-2012)

Chính thức công nhận phép lạ thứ 68 tại Lộ Đức

Chính thức công nhận phép lạ thứ 68 tại Lộ Đức

LỘ ĐỨC. Một vụ khỏi bệnh của một nữ tu tại Lộ Đức đã được giáo quyền chính thức công nhận là phép lạ.

Người được phép lạ là nữ tu Luigina Traverso, năm nay 78 tuổi, thuộc dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (FMA). Năm 30 tuổi, chị bị tê liệt hoàn toàn sau những cuộc giải phẫu cột sống. Năm 1965, chị Luigina được Mẹ Bề Trên Tổng Quyền cho phép tham dự cuộc hành hương ở Lộ Đức. Cộng đoàn của chị ở Tortona, thuộc miền Piemonte, tây bắc Italia, nồng nhiệt hiệp ý cầu nguyện cho chị.

Trong những ngày từ 20 đến 26 tháng 7 năm 1965, Chị Luigina tham dự tất cả các buổi cử hành phụng vụ ở Lộ Đức, dù chị phải nằm trên cáng, vì chị không thể đi và đứng được.

Ngày 23 tháng 7-1965, trong lúc chầu Mình Thánh Chúa và Mặt Nhật Mình Thánh được rước qua gần chị Luigina, chị cảm thấy một cảm giác mạnh mẽ với sức nóng và một niềm khoan khoái thúc đẩy chị đứng dậy. Chị tự đi lại ở Lộ Đức mà không cần dùng cáng nữa. Sau đó chị Luigina tiếp tục hoạt động trợ tá, dạy học và rồi làm quản lý tỉnh dòng trong nhiều năm trời. Hiện nay chị cư ngụ trong cộng đoàn thánh Giuse ở làng San Salvatore Monferrato, tỉnh Alessandria bắc Italia, giữ nhiệm vụ cố vấn và quản lý của tu viện.

Ngày 19 tháng 11 năm ngoái (2011), Ủy ban y khoa quốc tế về Lộ Đức đã xác nhận cuộc khỏi bệnh của chị Luigina Traverso là không thể giải thích được theo trình độ kiến thức y khoa hiện nay. Đức Cha Jacques Perrier bấy giờ là GM giáo phận Tarbes-Lộ Đức, đã thông báo hồ sơ này cho Đức Cha Alceste Catella, GM giáo phận Casale Monferrato, nơi nữ tu Luigina cư ngụ.

Ngày 11 tháng 10-2012, đúng vào dịp khai mạc Năm Đức Tin, Đức Cha Catella chính thức công nhận cuộc khỏi bệnh của chị Luigina là phép lạ. Đây là phép lạ thứ 68 được công nhận trong số hàng ngàn cuộc khỏi bệnh lạ lùng tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức. (Ans, Apic 12-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến và dùng bữa với các nghị phụ

Đức Thánh Cha tiếp kiến và dùng bữa với các nghị phụ

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi toàn thể Giáo Hội tiếp tục canh tân và góp phần làm cho Giáo Hội luôn tươi trẻ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 12 tháng 10-2012, dành cho 15 nghị phụ Công Đồng chung Vatican 2 và 104 vị Chủ tịch HĐGM về Roma tham dự thánh lễ kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng và mở đầu Năm Đức Tin.

ĐHY Francis Arinze, 80 tuổi, người Nigeria, nguyên Tổng trưởng Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, cũng là một trong những nghị phụ trẻ nhất của Công Đồng, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nhắc đến một danh từ do Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 đề ra và liên tục được nhắc đến trong Công Giáo, đó là từ ”aggiornamento”, canh tân, cập nhật. Ngài nói: ”Tôi xác tín rằng trực giác mà Chân Phước Gioan 23 tóm gọn trong từ ấy là điều đã và vẫn còn đúng. Kitô giáo không thể bị coi như cái gì thuộc về quá khứ, và không thể sống với cái nhìn luôn hướng về đàng sau, vì Chúa Giêsu Kitô vẫn là một ”hôm qua, hôm nay và mãi mãi” (Xc Dt 13,8). Kitô giáo được ghi đậm sự hiện diện của Thiên Chúa vĩnh cửu, Chúa đã đi vào thời gian và hiện diện trong mọi thời đại để mọi thời đại được nảy sinh từ quyền năng sáng tạo của Chúa”.

Cũng trong chiều hướng ấy, ĐTC khẳng định rằng: ”Chúng ta không bao giờ được coi Kitô giáo như một cây đã tăng trưởng hoàn toàn từ hạt cải Tin Mừng, sinh hoa trái, rồi một ngày kia già cỗi và tàn lụi sức sống. Kitô giáo là một cây, có thể nói là mãi mãi ở trong ”bình minh”, luôn luôn trẻ trung. Tính chất thời sự, sự canh tân, cập nhật ấy không có nghĩa là gián đoạn với truyền thống, nhưng diễn tả sức sinh động liên tục của truyền thống; nó không có nghĩa là thu hẹp đức tin, hạ đức tin xuống cho hợp với thời trang của thời đại, tùy theo điều làm cho chúng ta và dư luận quần chúng hài lòng; nhưng nói ngược lại thì mới đúng: nghĩa là như các Nghị phụ Công Đồng đã làm, chúng ta cũng phải mang ”tính chất thời sự, tính chất ngày hôm nay của thời đại chúng ta vào trong 'ngày hôm nay' của Thiên Chúa”.

Trước buổi tiếp kiến trên đây vào lúc 12 giờ, ĐTC đã tiếp kiến Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Contrantinople, và toàn tùy tùng.

Sau đó vào lúc 1 giờ 15 trưa, ĐTC đã dùng bữa trưa 500 người tại Đại thính đường Phaolô 6 gồm các vị Chủ tịch HĐGM, các nghị phụ thượng HĐGM 13 đang tiến hành tại Roma, cũng như Đức Thượng Phụ Bartolomaios và Đức Giáo Chủ Anh giáo Rowan Williams. (SD 12-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 



Cuộc rước nến tại Quảng trường thánh Phêrô kỷ niệm 50 năm Công Đồng

Cuộc rước nến tại Quảng trường thánh Phêrô kỷ niệm 50 năm Công Đồng

VATICAN. 40 ngàn tín hữu đã tham dự cuộc rước nến tối ngày 11 tháng 10-2012 tại Quảng trường Thánh Phêrô, nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2.

Giống như Đức Gioan 23, ĐTC Biển Đức 16 cũng xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài vào cuối buổi rước nến để chào thăm các tín hữu. Ngài cám ơn Hội Công Giáo tiến hành Italia đã tổ chức cuộc rước nến này và nói:
”Cách đây 50 năm, vào ngày này, tôi cũng có mặt tại Quảng trường thánh Phêrô, hướng nhìn lên cửa sổ đây, nơi vị Giáo Hoàng từ nhân, Đức Chân phước Gioan 23, nói với chúng tôi bằng những lời không thể quên được, những lời đầy thơ phú, nhân từ, những lời phát xuất từ con tim của Người.

”Tôi có thể nói, hồi đó chúng tôi hạnh phúc, đầy phấn khởi. Đại Công Đồng đã được khai mạc, và chúng tôi chắc chắn là một mùa xuân mới sẽ đến với Giáo Hội, một lễ Hiện Xuống mới, với một sự hiện diện mãnh mẽ mới mẻ của ân thánh giải thoát của Tin Mừng.

ĐTC nhận xét rằng: ”Ngày nay chúng ta cũng hạnh phúc, chúng ta mang niềm vui trong tâm hồn, nhưng tôi có thể nói đây là một niềm vui 'điều độ' hơn, một niềm vui khiêm tốn. Trong 50 năm qua, chúng ta đã học và cảm nghiệm thấy tội nguyên tổ vẫn hiện hữu và luôn tái thể hiện qua các tội cá nhân, chúng cũng có thể trở thành những cơ cấu tội lỗi. Chúng ta đã thấy trong ruộng của Chúa luôn có những cỏ dại. Chúng ta đã thấy rằng trong lưới của thánh Phêrô cũng có những con cá độc. Chúng ta đã thấy sự dòn mỏng của con người cũng hiện diện trong Giáo Hội, con thuyền của Giáo Hội đang đi ngược gió, với những phong ba bão táp đang đe dọa con thuyền, và đôi khi chúng ta đã nghĩ: ”Chúa ngủ và đã quên chúng ta rồi”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Đó là một phần những kinh nghiệm trong 50 năm qua, nhưng chúng ta cũng được một kinh nghiệm mới về sự hiện diện của Chúa, về lòng từ nhân và sức mạnh của Chúa. Ngọn lựa của Chúa Thánh Linh, của Chúa Kitô, không phải là ngọn lửa thiêu hủy, tàn phá; đó là một ngọn lửa âm thầm, là một ngọn lửa bé nhỏ của lòng từ nhân và sự thật, biến đổi, trao ban ánh sáng và sức nóng. Chúng ta đã thấy Chúa không quên chúng ta. Ngày nay, Chúa cũng theo cách thức khiêm tốn của ngài, hiện diện và sưởi ấm các tâm hồn, chứng tỏ sự sống, sáng tạo những đoàn sủng nhân từ và bác ái soi sáng thế giới và bảo đảm lòng từ nhân của Thiên Chúa cho chúng ta”.

Sau cùng, ĐTC Biển Đức nói rằng ”Tôi xin lập lại những lời không thể quên được của Đức Giáo Hoàng Gioan 23: anh chị em hãy về nhà, trao một nụ hôn cho các trẻ em và nói đó là nụ hôn của Đức Giáo Hoàng” (SD 11-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 



Đức Thánh Cha khai mạc Năm Đức Tin

Đức Thánh Cha khai mạc Năm Đức Tin

VATICAN. Sáng ngày 11 tháng 10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ cùng với 400 Hồng Y và GM thế giới, để khai mạc Năm Đức Tin.

Buổi lễ cũng là dịp kỷ niệm đúng 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, và 20 năm công bố Sách Giáo Lý Công Giáo.

Trong số 400 vị đồng tế với ĐTC có 80 Hồng y, 15 nghị phụ đã từng tham dự Công Đồng Vatican 2 (trong số 70 vị còn sống), 8 vị Thượng phụ và thủ lãnh của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, 191 TGM và GM, ngoài ra có 104 vị Chủ tịch HĐGM trên thế giới. Hiện diện tại buổi lễ với chỗ danh dự trên lễ đài đặc biệt có Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople và cũng là vị thủ lãnh danh dự chung của toàn Chính Thống giáo; tiếp đến là Đức Giáo Chủ Anh giáo, Rowan Williams, TGM Canterbury. Ngoài ra có hơn 20 ngàn tín hữu, trong đó có đông đảo các LM và tu sĩ, đặc biệt là sinh viên nam nữ của nhiều Đại học Giáo Hoàng ở Roma.

Cảnh tượng 400 vị GM đồng tế đi rước từ giữa quảng trường tiến lên lễ đài gợi lại hình ảnh cách đây nửa thế kỷ hàng ngàn nghị phụ cũng đi rước như thế tiến vào Đền thờ để cử hành thánh lễ khai mạc Công Đồng do Đức Gioan 23 chủ sự.

Một nghi thức khác nhắc lại Công Đồng, đó là cuộc rước Sách Thánh đặt lên ngai cạnh bàn thờ. Ngai giá sách này cũng đã được dùng trong Công Đồng, được đặt tại trung tâm Đền thờ trong khóa họp, để nói lên sự kiện chính Lời Chúa chủ tọa và hướng dẫn Công Đồng.



Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã gợi lại biến cố khai mạc Công đồng chung Vatican 2 và ảnh hưởng của Công Đồng trên Giáo Hội, đồng thời cũng liên kết biến cố này với Năm Đức Tin mà ngài ấn định từ ngày 11 tháng 10 hôm qua, đến chúa nhật 24-11 năm tới. Ngài nói:

”Năm Đức Tin mà chúng ta khai mạc hôm nay gắn liền với toàn thể hành trình của Giáo Hội trong năm 50 năm qua, từ Công Đồng, qua Giáo Huấn của vị Tôi Tớ Chúa Đức Phaolô 6, Người đã ấn định Năm Đức Tin vào năm 1967, cho đến Đại Năm Thánh 2000, qua đó Chân Phước Gioan PHaolô 2 đã tái đề nghị với toàn thể nhân loại Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi..

”Công Đồng Vatican 2 đã không muốn đặt đề tài đức tin trong một văn kiện chuyên biệt. Nhưng Công Đồng đã hoàn toàn được linh hoạt nhờ ý thức và ước muốn có thể nói là phải tái chìm đắm trong mầu nhiệm Kitô để có thể tái đề nghị hữu hiệu cho con người ngày nay. Về điểm này Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 đã nói như sau 2 năm sau khi bế mạc Công Đồng: ”Tuy Công Đồng không đích thị bàn về đức tin, nhưng Công Đồng nói về đức tin trong mỗi trang, nhìn nhận đặc tính chủ yếu và siêu nhiên của đức tin, giả thiết đức tin phải toàn vẹn và mạnh mẽ, và kiến tạo các đạo lý của mình trên đức tin. Chỉ cần nhắc lại vài lời khẳng định của Công Đồng (…) để thấy rõ tầm quan trọng thiết yếu mà Công Đồng, phù hợp với truyền thống đạo lý của Giáo Hội, dành cho đức tin, đức tin chân chính, có nguồn mạch là Chúa Kitô và qua trung gian của Huấn quyền Hội Thánh” (Giáo lý buổi tiếp kiến chung ngày 8-3-1967).



ĐTC Biển Đức cũng nhắc lại cảm nghiệm bản thân của ngài: ”trong Công Đồng có một sự căng thẳng cảm động đối với nghĩa vụ chung là làm cho chân lý và vẻ đẹp của đức tin được rạng ngời trong thời đại chúng ta ngày nay, không hy sinh đức tin cho những đòi hỏi của hiện tại và cũng không gắn chặt đức tin với quá khứ: trong đức tin có vang dội hiện tại vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng vượt lên trên thời gian và chỉ có thể được chúng ta đón nhận trong hiện tại không thể lập lại. Vì thế, tôi thấy rằng điều quan trọng nhất, đặc biệt là trong dịp kỷ niệm đầy ý nghĩa như hiện nay, cần phải khơi dậy trong toàn thể Giáo Hội sự căng thẳng tích cực ấy, sự khao khát nồng nhiệt tái loan báo Chúa Kitô cho con người ngày nay.”

ĐTC nhận xét rằng: ”Nhưng để đà thúc đẩy nội tâm này hướng đến sự tái truyền giảng Tin Mừng không phải chỉ là lý tưởng và không lẫn lộn, cần làm sao để sự thúc đẩy ấy dựa vào một nền tảng cụ thể và chính xác và nền tảng này chính là những văn kiện của Công Đồng Vatican 2, trong đó nó được biểu lộ. Vì thế, tôi đã nhiều lần nhấn mạnh về sự cần thiết phải trở về với văn bản của Công Đồng – để tìm ra tinh thần đích thực trong đó, – và tôi đã lập lại rằng gia sản đích thực của Công Đồng chung Vatican 2 là ở trong các văn kiện. Sự tham chiếu các văn kiện Công Đồng giúp tránh được những thái cực hoài tưởng lỗi thời hoặc thái độ chạy về đàng trước, đồng thời cũng giúp lãnh hội sự mới mẻ trong sự tiếp tục. Công Đồng không tạo ra điều gì mới về đức tin, cũng không muốn thay thế những gì cổ kính. Đúng hơn, Công Đồng quan tâm làm sao để cũng đức tin ấy tiếp tục được sống trong thời nay, tiếp tục là một đức tin sinh động trong một trong một thế giới đang biến chuyển.

”Nếu chúng ta tiến theo hướng đi đích thực mà Chân phước Gioan 23 muốn đề ra cho Công Đồng chung Vatican 2, chúng ta có thể thực hiện hướng đi đó trong Năm Đức Tin này, trong hành trình duy nhất của Giáo Hội muốn tiếp tục đào sâu hành trang đức tin mà Chúa Kitô đã ủy thác. Các nghị phụ Công Đồng muốn tái trình bày đức tin một cách hữu hiệu; và sở dĩ các vị cởi mở đối thoại trong tin tưởng với thế giới hiện đại là vì các vị chắn chắn về đức tin của mình, về đá tảng vững chắc trên đó họ dựa vào. Trái lại, trong những năm sau đó, nhiều người đã đón nhận não trạng thịnh hành mà không phân định, đặt lại vấn đề chính những nền tảng của kho tàng đức tin mà rất tiếc là họ không còn cảm thấy là của họ trong chân lý của họ.

”Sở dĩ hôm nay Giáo Hội đề nghị một Năm Đức Tin mới và tái truyền giảng Tin Mừng, không phải để cử hành một kỷ niệm, nhưng vì Giáo Hội đang cần Năm Đức Tin hơn cả cách đây 50 năm! Và câu trả lời cần đáp lại nhu cầu ấy cũng là câu trả lời mà các vị Giáo Hoàng và các nghị phụ mong muốn và được chứa đựng trong các văn kiện Công Đồng. Cả sáng kiến thành lập một Hội đồng Tòa Thánh thăng tiến việc tái truyền giảng Tin mừng cũng ở trong viễn tượng ấy. Tôi đặc biệt cám ơn Hội đồng này vì sự dấn thân đặc biệt cho Năm Đức Tin. Đâu là ý nghĩa một cuộc sống, một thế giới không có Thiên Chúa, thời Công Đồng người ta đã có thể biết từ một vài trang bi thảm của lịch sử, nhưng giờ đây rất tiếc là chúng ta thấy nó xảy ra hằng ngày chung quanh chúng ta. Đó là một sự trống rỗng đang lan tràn. Nhưng chính từ kinh nghiệm về sa mạc, từ sự trống rỗng ấy, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui đức tin, tầm quan trọng sinh tử của đức tin đối với chúng ta. Trong sa mạc người ta tái khám phá giá trị của những gì là thiết yếu để sống; cũng thế trong thế giới ngày này có vô số những dấu chỉ, thường được diễn tả trong một hình thức mặc nhiên hoặc tiêu cực, về sự khao thát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc sống. Và trong sa mạc, đặc biệt cần những người có đức tin, qua chính cuộc sống của họ, chỉ cho chúng ta con đường về Đất Hứa và giữ vững niềm hy vọng. Đức tin được sống thực mở rộng tâm hồn cho Ơn Thánh Chúa, là Đấng giải thoát khỏi thái độ bi quan. Ngày nay hơn bao giờ hết, rao giảng Tin Mừng có nghĩa là làm chứng một cuộc sống mới, được Thiên Chúa biến đổi, và chỉ đường.

“Bài đọc thứ I trích từ sách Huấn Ca nói với chúng ta về sự khôn ngoan của người du hành (Xc Hc 34,9-13): hành trình là biểu tượng cuộc sống và người lữ hành khôn ngoan là người đã học nghệ thuật sống và có thể chia sẻ với anh chị em mình – như vẫn xảy ra với các tín hữu hành hương theo con đường Santiago de Compostela, hoặc trên những con đường khác, không phải tình cờ mà các cuộc hành hương này tái thịnh hành trong những năm gần đây. Làm sao mà bao nhiêu người ngày nay cảm thấy cần phải đi hành hương theo những con đường ấy? Phải chăng tại đó họ tìm được, hoặc ít là trực giác được ý nghĩa cuộc sống của chúng ta trên trần thế? Đó cũng là cách thức chúng ta có thể áp dụng cho Năm Đức Tin: đó là một cuộc lữ hành trong sa mạc của thế giới ngày nay, trong đó ta chỉ mang theo mình những gì là thiết yếu: không gậy, không bao bị, không bánh và không tiền bạc, không mang theo hai áo dài, như Chúa nói với các Tông Đồ khi sai họ đi giảng đạo (Lc 9,3), như Tin Mừng và đức tin của Giáo Hội, mà các Văn kiện Công Đồng Vatican 2 diễn tả một cách rạng ngời, cũng như Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo công bố cách đây 20 năm diễn tả.

Và ĐTC kết luận rằng ngày 11 tháng 10-1962 là lễ kính Đức Maria Chí Thánh Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta phó thác cho Mẹ Năm Đức Tin, như tôi đã làm cách đây một tuần khi đến hành hương tại Loreto. Xin Đức Trinh Nữ Maria luôn chiếu sáng như ngôi sao trên con đường tái truyền giảng Tin Mừng. Ước gì Mẹ giúp chúng ta thực hành lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô: ”Hãy để cho Lời Chúa Kitô ngự trị nơi anh chị em trong sự phong phú của Lời. Với mọi khôn ngoan anh chị em hãy dạy dỗ và nhắn nhủ nhau.. Và bất kỳ anh chị em làm hãy trong lời nói và công việc, tất cả hãy xảy ra nhân danh Chúa Giêsu, nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,16-17)

Đc Thượng Phụ Bartolomaios

Cuối thánh lễ, Đức Thượng Phụ Bartolomaios đã lên tiếng phát biểu. Ngài nhắc đến những ảnh hưởng tích cực của Công đồng chung Vatican 2 về đại kết Kitô, và gợi lại kinh nghiệm bản thân của ngài về Công Đồng, khi còn là một sinh viên trẻ học tại Giáo Hoàng Học Viện Đông phương ở Roma, và ngài cũng đích thân tham dự vài khóa họp đặc biệt của Công Đồng. Đức Thượng Phụ nói: ”Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt các GM cảm nghiệm với một ý thức mới về giá trị của truyền thống và đức tin ”được thông truyền cho các thánh một lần cho tất cả ” (Giuda 1,3). Đó là một thời kỳ đầy triển vọng, nhiều hy vọng ở bên trong cũng như bên ngoài Giáo Hội Công Giáo.
Đức Thượng Phụ nhắc đến những tiến bộ cụ thể trong việc đối thoại thần học giữa Công Giáo và Công Giáo, và bao nhiêu thành quả khác của Công Đồng, và ngài nói đến nỗ lực chung mà Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống có thể thực hiện được.

Ngài nói với ĐGH: ”Hiền Huynh quí mến, sự hiện diện của chúng ta ở đây có nghĩa và đánh dấu sự dấn thân chung của chúng ta cùng làm chứng cho sứ điệp cứu độ và chữa lãnh cho anh chị em nhỏ bé nhất của chúng ta: những ngừơi nghèo khổ, bị áp bức, bị gạt ra ngoài lề thế giới được Thiên Chúa tạo dựng. Chúng ta hãy bắt đầu những kinh nguyện cho hòa bình và an sinh của anh chị em Kitô chúng ta đang sống tại Trung Đông. Trong cái lò bạo lực hiện nay, sự phân cách và chia rẽ đang gia tăng giữa các dân nước, ước gì tình thương và ước muốn hòa hợp mà chúng ta đang tuyên bố ở đây, cũng như sự cảm thông và chúng ta tìm kiếm bằng đối thoại và tôn trọng lẫn nhau, trở thành mẫu mực cho thế giới chúng ta. Ước gì nhân loại có thể giơ tay ra cho người khác, và chúng ta có thể cùng nhau làm việc để khắc phục đau khổ của các dân tộc khắp nơi, đặc biệt là nơi họ đang chịu đau khổ vì đói khát, thiên tai, bệnh tật và chiến tranh, mà rốt cục chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả chúng ta”.

Trao sứ đip Công Đồng

Sau khi ban phép lành kết thúc, ĐTC đã diễn lại một cử chỉ đã được thực hiện khi bế mạc Công Đồng chung Vatican 2: Đức Phaolô 6 đã trao 7 Sứ điệp gửi Dân Chúa.

ĐTC Biển Đức 16 cũng trao 7 Sứ điệp ấy cho các đại diện của cộng đồng nhân loại: vị Niên trưởng và Phó niên trưởng đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh và 5 đại sứ năm châu lên nhận Sứ điệp, đại diện cho các chính phủ. Tiếp đến là đại diện của giới khoa học và trí thức, nghệ sĩ, các ký giả, phụ nữ, công nhân, di dân, giới trẻ, và cả một người tàn tật ngồi trên xe lăn nữa.

G. Trần Đức Anh OP

Hội Thảo Năm Đức Tin tại nhà thờ Tam Biên

Hội Thảo Năm Đức Tin tại nhà thờ Tam Biên (ngày 11 và 12 tháng 10 – 2012)

* Để cử hành Năm Đức Tin ý nghĩa hơn, trân trọng kính mời Qúi Vị tham dự những sinh họat sau tại nhà thờ Tam Biên (St. Callistus) 
12901 Lewis St., Garden Grove, CA 92840 * Phone #: Tel.: 714-971-4704

 

1) Chầu Thánh Thể với sự hướng dẫn của Đức Cha Đaminh Mai Thanh Lương vào thứ Năm ngày 11 tháng     10 từ  7:00PM-8:30PM trong nhà thờ Cũ.  Đây là ngay ngày chính thức Khai Mạc Măm Đức Tin của Giáo Hội hòan vũ.
 

2) Buổi hội thảo đặc biệt với chủ đề Năm Đức Tin với Linh mục Nguyễn Khắc Hy & Tiến sĩ Lê Xuân Hy: từ 
    7:00PM-9:30PM trong nhà thờ cũ vào thứ Sáu ngày 12 tháng 10.  
Tiếng Việt Nam trong nhà thờ cũ:
7:00PM-8:15PM do Tiến sĩ Lê Xuân Hy
8:30PM-9:30PM do Linh mục Nguyễn khắc Hy, S.S.
Tiếng Mỹ trong phòng số 6:
7:00PM-8:15PM do Linh Mục Nguyễn Khắc Hy, S.S.
8:30PM-9:30PM do Tiến sĩ Lê Xuân Hy

 

Up-coming Events:
 

1) Come to rediscover our Faith, reinvigorate our relationship with Jesus
What: Eucharistic Adoration
When: Thursday, October 11 from 7:00 pm to 8:30 pm at the Parish Center
Let’s join with Bishop Dominic Luong and the Universal Church to mark the beginning of the Year of Faith.  

 

2) Come to find out what Faith can do
When: Friday, October 12 from 7:00PM-9:30PM
Where: Parish Hall * (English Workshop)
Speakers: Rev. Matthew Hy Nguyen, S.S. Ph.D.  & Hy Le, Ph.D.
7:00PM-8:15PM * “Faith Seeking Understanding” by Rev. Matthew Nguyen, S.S., Ph.D.
8:30PM-9:30PM * “I Believe” by Hy Nguyen, Ph.D.

 

NĂM ĐỨC TIN
Để củng cố hoặc tái khám phá đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa
Để rao giảng Thiên Chúa với Niềm Vui Cho mọi người trong thời đại chúng ta.

 

Ý Nghĩa của biểu tượng (logo) Năm Đức Tin:
Dấu hiệu này được biểu tượng qua một hình vuông, với con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội, được trình bày như đang lướt trên những ngọn sóng. Dấu hiệu chính của con tàu là hình thánh giá được vẽ trên những cánh buồm trong bằng dấu hiệu rõ ràng tượng trưng cho Chúa Kitô (HIS). Đàng sau những cánh buồm là một mặt trời, hoà hợp với biểu tượng, dấu chỉ của Thánh Thể.

Year of Faith
to Strengthen our Faith in God and
        to Proclaim God with joy
        to the people of our time.

 

The meaning of the Year of Faith logo:
The logo is composed of a square, bordered field on which a boat, symbolizing the Church, is represented as sailing on a graphically minimal representation of waves. The main mast of the boat is a cross, and sails are attached to it displaying dynamic signs, portraying the trigram of Christ (HIS). The background to the sails is a sun which, associated with the trigram, refers to the Eucharist.

ĐTC. BÊNÊĐÍCTÔ XVI VÀ NĂM ĐỨC TIN

 ĐTC. BÊNÊĐÍCTÔ XVI VÀ NĂM ĐỨC TIN

Lời giới thiệu:

Năm Đức Tin được Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI khởi xướng qua việc công bố Tông Thư Tự Sắc Porta Fidei (Cánh Cửa Đức Tin) trong đó Ngài nói rõ lý do, mục đích và những hướng dẫn cho việc cử hành năm Đức Tin.

Năm Đức Tin bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 2012 – kỷ niệm 50 năm công đồng Vatican II và 25 năm xuất bản cuốn Giáo Lý Công Giáo – cho đến ngày 14 tháng 11 năm 2013, dịp lễ Chúa Kitô Vua. Trọng tâm là động viên Kitô hữu tái khám phá đức tin của mình để tìm lại “niềm vui và sự hăng hái tìm gặp Đức Kitô,” đồng thời đối diện với chủ nghĩa tục hoá và những thách đố khác đang làm khủng hoảng đức tin của nhiều Kitô hữu.

Nói chuyện với thành viên Thánh Bộ Tín Lý ngày 27 tháng 1 năm 2012, ĐTC Bênêdictô XVI nói đến “hiện nay tại nhiều nơi, đức tin có nguy cơ bị dập tắt, như một ngọn lửa đang tàn” vì “những khủng hoảng đức tin sâu xa, nhất là mất dần ý thức tôn giáo” trong đời sống.

Năm Đức Tin nhấn mạnh đến chưong trình Tân Phúc Âm hoá, một nổ lực đã được khai tâm từ thời ĐTC Gioan Phaolô II, nhằm củng cố đức tin cho Kitô hữu, nhất là những người “đã đánh mất căn tính của mình,” và rao giảng cho thế giới biết sự cần thiết phải có Thiên Chúa trong đời sống xã hội.

Trong Năm Đức Tin, chúng ta sẽ có dịp học hỏi nhiều về đức tin Công giáo mà chúng ta đã lãnh nhận. Như tiêu đề của Tự Sắc Porta Fidei- Cánh Cửa Đức Tin, nhắc nhở mọi Kitô hữa đã bước qua ngưỡng cửa đức tin là bí tích rửa tội, giờ đây cần mở lại cánh cửa đó để đón nhận luồng gió mới của Chúa Thánh Thần khai sáng tâm trí và hâm nóng lại nhiệt tình sống đạo.

Trong bài viết đầu tiên của loạt bài về Năm Đức Tin, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nguyên nhân và động lực (có tính cách cá nhân) thúc đẩy ĐTC Bênêdictô XVI công bố năm Đức Tin này.

Bênêdictô XVI Đối Thoại Với Thế Giới Hiện Đại

Là một chuyên viên (peritus) trẻ cho các nghị phụ tại công đồng Vatican II, là một thần học gia trong những năm hậu Công Đồng, là Bộ Trưởng thánh bộ Tín Lý Đức Tin trong 25 năm, ĐTC Bênêdictô đã tỏ ra dè dặt trong vấn đề đối thoại với thế giới hiện đại. Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, có tên là Vui Mừng và Hy Vọng – Gaudium et Spes- được xem là văn kiện mở đường cho những đối thoại giữa Giáo hội và thế giới, và được nhiều thần học gia lấy làm điểm xuất phát cho phong trào “đem đạo vào đời” hay “Thiên Chúa nhập thể để Giáo hội nhập thế”.

Nhưng ĐTC Bênêdictô không hoàn toàn đồng nhất với tư tưởng diễn dịch đó. Ngược lại, Ngài có nhiều thắc mắc và cẩn trọng khi suy tư về Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng. Trong nhiều bài viết và phát biểu, ĐTC Bênêdictô cho là cách giải thích của nhiều thần học gia đưong thời về Hiến Chế này là sai lầm, hoặc vì họ hiểu sai lạc, hoặc vì họ cắt nghĩa bản văn không đúng với bối cảnh của nó. ĐTC Bênêdictô đã nhiều lần nhắc nhở các thần học gia cần đọc Hiến Chế này không như một bản văn độc lập, nhưng chung với những văn kiện khác cúa Công Đồng, nhất là Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen gentium – Ánh Sáng Muôn Dân để thấy rõ những gì Thánh Công Đồng muốn dạy, và để soi tỏ những yếu tố chưa rõ ràng trong Hiến Chế Gaudium et Spes.

Chính thần học gia trẻ J. Ratzinger (ĐTC Bênêdictô) đóng vai trò chủ động trong việc soạn bản thảo cho Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng này. Trong thảo luận, Ngài đưa ra những tiềm năng nguy hiểm mà nhiều nghị phụ, và nhất là các thần học gia bấy giờ, quá lạc quan và phấn khởi khi nói đến đối thoại với thế giới hiện đại. Qua cái nhìn nhân chủng học và vũ trụ học của Teihard de Chardin (một thần học gia Pháp có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ), một số các nghị phụ và các chuyên viên cố vấn (peritus) đã quá vội vàng đồng hoá niềm hy vọng Kitô hữu với niềm tin của thế giới hiện đại qua những tiến bộ của con người, nghĩa là, Giáo Hội không còn đối nghịch với “Đời” vì cả hai cùng nhắm đến một mục đích cao cả là phục vụ công ích cho con người và xã hội.

J. Ratzinger cho rằng đây chính là yếu điểm “đơn sơ” của các nhà thần học cắt nghĩa Hiến Chế với sự nhầm lẫn giữa thành quả khoa học và hy vọng Kitô giáo. Ngài sợ họ tập trung quá nhiều và mầu nhiệm nhập thể (Thiên Chúa làm Người), mà quên đi mầu nhiệm Thập Giá (Đức Kitô chết vì không cùng một quan điểm về Chân Lý và Luân Lý với thế giới Ngài sống).

Chúng ta có thể nói được rằng với ĐTC Bênêdictô XVI, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng không là giấy phép tùy tiện cho những đối thoại liên tục giữa Giáo Hội với thế giới hiện đại, mà là những cảnh báo về tiêu chuẩn hạn chế cần quan tâm trong những đối thoại đó.[1]

Với ĐTC Bênêdictô, đối thoại với thế giới chỉ thật sự đồng nhất khi thế giới (mà danh từ Việt Nam tinh khéo gọi là Thế Gian) được tinh lọc, thánh hoá.[2]

Ratzinger cũng đã nhiều lần nói đến sự cần thiết tái khám phá Công Đồng Vatican II khi Ngài công khai phê bình sự cởi mở của Công Đồng đã bị nhiều thần học gia diễn dịch sai lạc.[3] Theo Ratz¬inger, thế giới hiện đại rõ ràng không cùng quan điểm với Giáo Hội khi bàn về Chân Lý, về Thiên Chúa, quan niệm Tội, Đúng- Sai v.v…

Vì thế, Kitô hữu cần tái khám phá căn tính mình “trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Jn 17:14-16).

Bênêdictô XVI và Hiện Trạng Âu Châu

Từ khi làm giáo hoàng, Bênêdictô XVI tiếp tục ưu tư của vị tiền nhiệm ĐTC John Paul II, đã nhiều lần lên tiếng về khủng hoảng đức tin Công Giáo nói riêng, và đức tin Kitô giáo nói chung, ở châu Âu.[4] Theo thống kê về con số, Kitô hữu vẫn gia tăng ở Á Châu và Phi Châu, nhưng con số những người hoặc công khai từ chối đức tin Kitô giáo, hoặc không sống đức tin Kitô giáo, ngày càng nhiều ở Châu âu và Bắc Mỹ. Các nhà thờ vắng bóng giáo dân. Họ không muốn đề cập đến tôn giáo trong học đường hay ngoài xã hội. Ở nước Đức, nhiều Kitô hữu rút tên mình ra khỏi danh sách đóng thuế cho nhà thờ, vì họ tự hỏi tại sao lại đóng thuế cho nhà thờ khi họ không còn tin nữa.

Bên cạnh đó, mức sinh sản của người Âu Châu thấp. Họ nghĩ đến hưởng thụ cá nhân và không nghĩ đến tương lai có con cái hay cho con cái. Ngay cả khi chết, nhiều người không muốn chôn cất theo nghi thức tôn giáo cổ truyền tốn kém, mà chỉ rải tro trên những nơi họ muốn.

Âu châu tục hoá thật sự đang trở lại thời kỳ vô thần, không theo nghĩa là không tin có Thiên Chúa, nhưng theo một dạng vô thần mới ở đó con người sống không cần Thiên Chúa, và nếu có Thiên Chúa thì Ngài cũng không ảnh hưởng gì đến đời sống con người.

Khi không tin vào Thiên chúa, con người lần mò tìm kiểm cho mình một đối tượng làm căn bản cho giá trị đạo đức và trật tự xã hội. Về mặt sinh hoạt, khi Thiên Chúa và tôn giáo không giải đáp được những nhu cầu hiện tại của con người, họ đặt hy vọng vào khoa học kỹ thuật, một Vị Cứu Tinh mới của họ.

Đức Giáo hoàng lên tiếng rằng khủng hoảng Âu Châu gắn liền với khủng hoảng Giáo Hội. Với nền văn hoá Hậu Hiện Đại tôn thờ chủ nghĩa cá nhân, đặt nặng quyền của con người hơn là nghĩa vụ của họ đối với tha nhân, ĐTC Bênêdictô XVI đã cảnh cáo rằng con người đang tự tiêu diệt mình vì tính ích kỷ, khi con người là đối tượng mà xã hội phục tùng hơn là phục tùng xã hội. ĐTC Bênêdictô còn khẳng định rằng chỉ có một giải pháp cho khủng hoảng hiện tại là Âu Châu cần quay về với nguồn gốc Kitô giáo của mình.

Khủng Hoảng Triết Lý Nhân Bản Dẫn Đến Khủng Hoảng Đức Tin

Việc ĐTC Bênêdictô XVI quan tâm cách đặc biệt đến tình trạng đức tin và sống đạo của Âu Châu đã quá rõ ràng. Cho đến ngày nay Âu Châu vẫn đóng vai trò then chốt cho nền tảng đức tin và các sinh hoạt của Giáo hội. Dù con số giáo dân ở Á Châu và Phi Châu đang gia tăng, nhưng ảnh hưởng về đời sống đạo vẫn còn lệ thuộc vào tư tưởng Âu Châu rất nhiều.

Khi lên ngôi giáo hoàng và chọn tên Bênêdictô, Đức Thánh Cha đương nhiệm không chỉ muốn nhắc đến vị tiền nhiệm Bênêdictô XV (1914-1918) người có công hạn chế thiệt hại thế chiến thứ nhất chia rẽ âu châu, mà Ngài còn nhắm đến thánh Bênêdictô, đấng sáng lập dòng Biển Đức và là quan thầy của Âu Châu vì những đóng góp của thánh nhân cho di sản Kitô giáo không thể chối cãi được trong văn hoá Âu châu.[5]

Âu châu đang gặp khủng hoảng với chính những giá trị đã tạo ra nó, và đang bị thoái hoá vì chính những giá trị đó bị hiểu sai lạc.

Khủng hoảng phát xuất từ thành quả Tự Do và Dân Chủ trong xã hội. Tự Do (freedom), một tiến bộ của xã hội, đã bị giáng cấp xuống thành quyền tự quyết cho chính cá nhân mình. Tự Do hiểu theo lối cá nhân chủ nghĩa tùy tiện này hoàn toàn tiêu cực và trống rỗng. Dân Chủ (democracy), một thành quả của nhân loại, được coi như một lá chắn (hay bùa hộ mạng) bảo vệ cho Tự Do cá nhân qua việc trưng cầu ý muốn của đa số. Nói cách khác, trong xã hội, con người đòi quyền tự do tuyệt đối cho mình, và họ dùng lá bùa Dân Chủ để bảo vệ các quyền căn bản này. Ví dụ, Tự Do luyến ái, đồng tính, phá thai, trợ tử, vô thần… được bảo vệ bởi hiến pháp của một đất nước dân chủ.

ĐTC Bênêdictô nhấn mạnh rằng Tự Do và Dân Chủ là những món quà tuyệt vời của nhân loại, nhưng nếu không bị ràng buộc bởi mục đích tìm công phúc cho xã hội và tìm chân lý, chúng sẽ trở thành những nguyên tắc trống rỗng, dẫn đến hình thành chủ nghiã tương đối (relativism), chủ nghiã hư vô (nihilism), chủ nghĩa yếm thế (cynicism), và kết qủa là con người “ngây thơ” cổ động cho một văn hoá sự chết mà họ cho là phục vụ cho lợi ích (hưởng thụ) của họ.[6]

Theo Ratzinger, Âu châu không chịu rút ra bài học từ sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, áp dụng phương thức tự quyết (self-determination) cho mình mà không cần Thiên Chúa hay tôn giáo như một yếu tố bảo đảm tính khách quan của Chân Lý, của Tự Do, của Luân Lý Đúng-Sai. Chủ nghĩa cộng sản dùng vũ lực chính phủ (khác với các nước khác dùng lá phiếu Dân Chủ) để củng cố thêm quyền tự định đoạt này.[7]

Theo ĐTC Bênêdictô, Âu Châu đang rối loạn với những hệ tư tưởng lẫn lộn mà không có một hướng đi rõ ràng, ngoại trừ điều mà nhiều người cho là “tín lý bất khả ngộ” của xã hội, đó là: tự do cá nhân cần phải được tôn trọng (tuyệt đối).

Khi quyền tự quyết (tự do cá nhân) được cổ võ mà thiếu cơ sở luân lý hay sự đồng thuận về luân lý, con người sẽ rơi vào tình trạng hổn loạn dẫn đến tự hủy diệt. Ví dụ, khoa học đã thành công Tạo Sinh Vô Tính (cloning) chó, mèo, dê, cừu… Vậy việc gì ngăn cản những khoa học gia điên rồ rồi đây sẽ tạo ra những con người trong phòng thí nghiệm với mục đích cá nhân, hay các nhà độc tài tạo ra con người với mục đích quân sự?

Vậy đâu là nền móng Luân Lý- Đạo Đức của xã hội? ĐTC Bênêdictô trả lời là Sự Thật, vì như Chúa Giêsu nói “Sự Thật sẽ giải thoát chúng ta” (Jn 8:32). Chính Chúa Giêsu Kitô là Sự Thật (Jn 24:6). Vì thế, Ngài là nền tảng Luân Lý-Đạo Đức cần có của xã hội.

Triết lý Âu Châu ngày nay lặp lại tư tưởng thời Phục Hưng, cho rằng Sự Thật là sản phẩm của xã hội được quyết định bởi đa số (nhiều người thì đúng, ít người thì sai). Với Bênêdictô, Chân Lý và Tự Do không là sản phẩm con người mà là quà tặng con người đón nhận. Chân Lý được Thiên Chúa mặc khải trong lịch sử, và chính nó trở thành nền tảng Luân Lý của con người khi Thiên Chúa ban cho con người khả năng nhận thức và áp dụng Chân Lý đó trong từng hoàn cảnh sống của xã hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nghĩa là, Chân Lý và Luân Lý là giới răn Thiên Chúa truyền ban, không phải là lựa chọn do con người đặt ra và làm chủ. Kết qủa của một xã hội tự tạo Chân Lý hay tiêu chuẩn Đạo Đức bằng ý kiến đa số hay ý của kẻ mạnh sẽ dẫn đến một xã hội phi lý, phi luân lý, và diệt vong.

ĐTC Bênêdictô thực sự chất vất và ưu tư về sự khập khểnh trong tương quan giữa Khoa Học Kỹ Thuật và Gía Trị Đạo Đức con người ngày nay khi Âu Châu loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài hiến pháp và đời sống thường ngày của họ.

Đây cũng là lí do mà những xã hội khác (Phi Châu, Á Châu và các nước Hồi Giáo) đã lên án lối sống thác loạn và loại trừ tiêu chuẩn sống của Âu châu như một mẫu mực cho đời sống con người.[8]

ĐTC Bênêdictô kêu gọi mọi Kitô hữu cần ý thức “chống lại trào lưu thế giới”, can đảm “lội ngược dòng” để rao giảng tin mừng Chúa Kitô và đem lại đức tin cho Âu Châu, một giải pháp duy nhất cứu họ khỏi diệt vong.

Kết Luận

Năm Đức Tin cần thiết, trước hết và trên hết, là cho sự sống còn của Âu Châu. Theo ĐTC Bênêdictô, khủng hoảng Châu Âu là sự xung đột giữa Tin hay Không Tin, giữa hệ tư tưởng Lý Luận Luân Lý dựa trên Thiên Chúa là Đấng Bảo Đảm cho tính tuyệt đối của nó, và hệ tư tưởng Tuyền Duy Lý xuất phát từ sau thời Phục Hưng, hưng thịnh nhất là sau thế kỷ 17. Âu Châu đang chối bỏ căn tính của mình khi loại Thiên Chúa và giá trị Kitô giáo ra khỏi những luật lệ chính trị quốc gia, với mục đích tạo một xã hội tục hoá trong đó con người có thể đứng lại với nhau và sống công bằng mà không cần Thiên Chúa.

Giải pháp duy nhất cho khủng hoảng này là quay trở về với Đức Tin Kitô giáo. ĐTC Bênêdictô XVI nói: “Lúc này đây, Âu châu và thế giới cần đến sự hiện diện của Thiên Chúa… Là những Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm duy trì sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới, vì chỉ có sự hiện diện này mới có sức mạnh gìn giữ con người khỏi tự huỷ hoại chính mình.”[9]

Đây chính là mệnh lệnh Chúa Giêsu nói với tất cả chúng ta: “các con là ánh sáng thế gian… là muối cho đời” (Mt 5:23-26).

Lm. Mátthêu Nguyễn Khắc Hy

—————————-

Chú thích:

[1] Bất đồng đưa đến chia rẽ giữa những thần học gia sau công đồng. Năm 1972, Joseph Ratzinger cùng với Hans Urs von Balthasar, Karl Lehmann, Henri de Lubac và những thần học gia khác xuất bản nguyệt san thần học Communio thay thế cho nguyệt san Concilium mà họ cho là quá cấp tiến, và “muốn thiết lập một hệ thống giáo huấn thứ hai”. Xem “Nicht ich habe mich geändert, sondern die Andern”, trong Joseph Ratzinger, Zur Lage des Glaubens: Ein Gespräch mit Vittorio Messori (Munich/Zurich/Vienna: Neue Stadt, 1985), p. 16.

[2] ĐTC Benedict XVI dùng động từ “trừ tà” để chỉ việc thanh luyện này trong thế gian trong bài viết “Angesichts der Welt von heute”, in Dogma und Verkündigung, (1973) p. 201.

[3] J. Ratzinger có những phê bình tiêu cực khi thấy một số các thần học gia cấp tiến (như Edward Schillebeeckx và cụ thể là Johann Baptist Metz khai thác thần học chính trị của ông) cho là họ theo tinh thần Vatican II khi giới thiệu tư tưởng hậu-Marxist vào trong thần học suy niệm của họ. Với Ratz¬inger, hiểu như vậy về Gaudium et spes là sai khi nói đến những cởi mở và hợp thời của công đồng, vì Giáo Hội sẽ không bao giờ ngừng tiến trình hội nhập với xã hội. Xem Joseph Ratzinger, “Der Katholizismus nach dem Konzil—Katholische Sicht”, in Auf Dein Wort hin. 81. Deutscher Katholikentag (Paderborn: Bonifacius, 1966), pp. 245–266; “Der Weltdienst der Kirche. Auswirkungen von Gaudium et spes im letzten Jahrzehnt”, in Internationale katholische Zeitschrift Vol. 4 (1975), pp. 439–454.

[4] J. Ratzinger, Values in a Time of Upheaval, (Ignatius press, 2006) p. 145.

[5] Xem bài phát biểu buổi triều yết của ĐTC Benedict XVI ngày 27 tháng 4 năm 2005 với giáo dân.

[6] Văn hoá sự chết được tìm thấy trong việc sử dụng ngày càng nhiều các chất hoá học (như thuốc phiện) để hưng phấn con người. Bên cạnh đó, thanh niên Âu Châu sống hiện tại mà sợ tương lai. Họ thường trì hoãn việc lập gia đình, nếu không nói là không muốn có gia đình vì thêm khó khăn. Xem J. Ratzinger, Values in a Time of Upheaval, p. 140.

[7] J. Ratzinger, Europe: Today and Tomorrow, (Ignatius Press, 2007) p. 67ff.

[8] Các nước Hồi Giáo ngày càng củng cố căn tinh tôn giáo của họ (đôi khi với phương thức cực đoan) là câu trả lời cho ảnh hưởng Âu Châu mà họ không chấp nhận cho con cái họ sau này. J. Ratzinger, Values in a Time of Upheaval, p. 138-139.

[9] J. Ratzinger, Values in a Time of Upheaval, p. 165.

Năm Đức Tin: Trách nhiệm ngôn sứ của người tông đồ và của tín hữu giáo dân

Năm Đức Tin: Trách nhiệm ngôn sứ của người tông đồ và của tín hữu giáo dân

Thánh Lễ khai mạc Năm Đức Tin sẽ  được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI long trọng cử hành  tại Rôma  ngày 11-10 tới đây. Năm Đức Tin được mở ra nhân kỷ niêm 50 năm sau Công đồng Vatican II kết thúc, và cũng kỷ niệm 20 năm ngày công bố Sách Giáo lý mới của Giáo hội Công giáo, đồng thời cũng là dịp Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới (Synod of Bishops) họp phiên kháng đại lần thứ 13.

Đây là thời điểm thích hợp để toàn thể Giáo Hội nhìn lại đời sống đức tin của mình dựa trên nền tảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian làm Con Người để rao giảng Tin Mừng, và  hy sinh “hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20,28).

Nghĩa là mọi người trong Giáo Hội – Hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân – đều được mời gọi để canh tân, củng cố và sống niềm tin của mình vào Chúa Kitô cách hữu hiệu hơn nữa để ứng phó với những thách đố của thời đại tục hoá (vulgarism) tôn thờ khoái lạc (hedonism) vô thần (atheism) và phi luân (amoralism), là những đặc trưng của “văn hoá sự chết” đang lan tràn ở khắp nơi trên thế giới ngày nay để lôi cuốn biết bao người vào hố diệt vong. Diệt vong vì  không có niêm tin vào một Quyên Lực, hay một Đấng Tối Cao mà người tín hữu chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa, Đấng dựng nên và thưởng phạt  con người về những việc mình làm trong cuộc sống trên đời này. Vì không có niềm tin này, nên người ta tự do sống thác loan, làm những sự dữ và tội ác không sao tả cho xiết được… Thực trạng này phải là mới ưu tư hàng đầu của những ai muốn sống niềm tin có Thiên Chúa cực tốt cực lành, đã sai Con Một là Chúa Kitô đến trần gian vì “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).

Nhưng muốn được cứu độ và nhận biết chân lý thì phải thực sự và thực tâm tin Chúa Kitô và thể hiện niềm tin ấy cách cụ thể  bằng thực hành hay sống theo Tin Mừng Cứu Độ của Ngài.

Thật vậy, Phức Âm Sự Sống hay Tin Mừng Cứu Độ mà Chúa Kitô đã rao giảng và trả giá bằng chính mạng sống của Ngài trên thập giá cách nay trên 2.000 năm, cho đến nay vẫn còn xa lạ  đối với  đa số người trên trái đất này, vì  hiện còn  trên 5 tỷ người chưa biết Chúa Kitô và đang còn ở ngoài Giáo hội Công giáo là phương tiện hữu hiệu nhất để chuyên chở ơn cứu độ của Chúa Kitô đến cho mọi dân mọi nước trên khắp địa cầu cho đến ngày mãn thời gian.

Vì thế, sứ mang Phúc Âm hoá thế giới vẫn là trọng trách và là mối ưu tư hàng đầu của Giáo Hội. Và để thi hành sứ mang này cách hiệu quả hơn, Giáo Hội cần nhìn lại chính mình để xem Tin Mừng của Chúa Kitô đã thấm sâu vào tim óc của mình đến đâu cũng như đã biến đổi chính mình ra sao, trước khi tiếp tục sứ mạng Phúc Âm hoá người khác, tức mời gọi thêm nhiều người nữa đón nhận và tin Chúa Kitô là Đấng cứu chuộc duy nhất của nhân loại.

Đó là lý do Giáo Hội mở Năm Đức Tin để toàn thể Giáo Hội được dịp kiểm điểm đời sống đức tin của mình trước khi quảng bá đức tin ấy cho những người chưa nhận được Tin Mừng này.

Ngày 22-9 vừa qua, nhân tiếp kiến một số đông tân Giám mục ở Roma, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã lưu ý các tân Giám mục về sứ mệnh Phúc Âm hoá:

“Công cuộc Phúc Âm hoá quả thực không phải là công việc của các chuyên gia mà là của toàn thể dân Chúa trong Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của các chủ chăn. Mỗi thành viên của tập thể tín hữu ở trong và cùng với cộng đồng Giáo Hội phải cảm thấy mình có trách nhiêm công bố và làm nhân chứng cho Tin Mừng” (Evangelization, indeed, is not a work of specialists, but of the entire people of God under the guidance of theirs Pastors. Every member of the faithful, in and with the ecclesial community must feel responsible  for proclaiming  and witnessing to  the Gospel; – L’Osservatore Romano, September 26,2012, p. 5).

Đây chính là sứ mệnh mà Chúa Kitô đã trao phó cho các Tông đồ trước tiên và cho toàn thể Giáo Hội ngày nay trước khi Ngài về Trời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16).

Như thế, loan báo Tin Mừng hay Phúc Âm hoá thế giới phải là sứ mênh quan trọng nhất của Giáo Hội nhận lãnh từ chính Chúa Kitô sau khi Ngài hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại  của Thiên Chúa qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên Trời.

Nhưng muốn cho công cuộc Phúc Âm hoá được kết quả mong muốn thì người công bố phải là người chứng tá cho Tin Mừng  mình loan truyền cho người khác, như Đức Thánh Cha đã nhắc nhở các tân Giám mục trên đây. Nghĩa là chính mình phải sống Tin Mừng ấy cách đích thực và sâu đậm thì mới có sức thuyết phục người khác tin điều mình rao giảng cho họ.

I. Trách nhiệm ngôn sứ và nhân chứng của người tông đồ

Thật vậy, người tông đồ xưa và nay là người được Chúa kêu goi cách riêng đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng. Thế giới xưa và đặc biệt ngày nay đã và đang thách đố niềm tin Kitô giáo và những ai rao giảng Tin Mừng của Chúa với thực trạng của “văn hoá sự chết” chối bỏ Thiên Chúa và mọi giáo lý của Người để quyến rũ con người vào đường hư mất đời đời.

Vì thế cho nên “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16) như Thánh Phaolô đã nhắc nhở chính mình và những ai được ơn gọi đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô, là linh dược để chữa lành mọi bệnh tật của linh hồn và bảo đảm hy vọng được sống hạnh phúc với Chúa trên Nước Trời mai sau.

Nói khác đi, để đối kháng với mọi thách đố của “văn hoá sự chết” chỉ có Phúc Âm sự sống của Chúa Kitô mới có sức hoá giải mọi độc hại của các tà thuyết vô thần, tôn thờ tiền bạc và của cải vật chất, chuộng khoái lạc vô luân vô đạo, dửng dưng trước sự đau khổ, nghèo đói của người khác. Đó là bộ mặt của thế gian trống vắng niềm tin, và nhuộm đầy màu sắc của sự dữ sự gian ác, sự ô uế, sự bất công và thiếu tình người.

Nhưng cho được thuyết phục người khác nghe và tin Chúa Kitô, người tông đồ phải là người chứng tá trung thực của Tin Mừng mình rao giảng.

Cụ thế, nếu người tông đồ cũng ham mê tiền của và hư danh trần thế, để vận động hay mua chuộc ai  hầu được tiến cử vào các chức vụ lãnh đạo trong Giáo Hội hoàn vũ hay địa phương – hoặc  tệ hại hơn nữa – làm tay sai cho thế quyền để mưu lợi ích cá nhân, thì chắc chắn sẽ không thể giảng sự khó nghèo của Phúc Âm và thuyết phục được ai sống tinh thần khó nghèo này và khiêm tốn phục vụ theo gương Chúa Kitô, Người đã sống lang thang, khó nghèo đến nỗi “không có nơi tựa đầu, trong khi con chồn có hang, chim trời có tổ” (Mt 8,21).
 
Như vậy, nếu dính bén vào của cải trần thê,và chạy theo danh vọng hư hèn thì đã khinh chê tinh thần khó nghèo của chính Chúa Kitô.

Mặt khác, để nói lên sự khinh chê về những ham muốn danh vọng hư hão trên đời này và cũng để trả lời các môn đệ đến hỏi Chúa xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời, Chúa Giêsu đã nói với họ: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,4).
 
Đó chính là gương phục vụ sáng chói mà Chúa Giêsu đã nêu cao khi Ngài cúi mình rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly sau hết trước khi Ngài bị trao nộp và tử nạn trên thập giá để đền tội thay nhân loại và cứu chuộc cho muôn người khỏi chết đời đời vì tội.

Như thế, sống đức tin cho có chiều sâu và có sức thuyết phục người khác trong Năm Đức Tin này cũng đòi hỏi cách riêng người tông đồ lớn nhỏ ngày nay phải nhìn lại đời sống đức tin của chính mình, xem mình có thực sự sống cốt lõi của Tin Mừng hay chưa – và đặc biệt – đã thực sự sống tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, “Đấng vốn giầu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có” (2 Cr 8,9)?

Nếu người tông đồ mà không là mẫu mục đức tin, đức cậy, đức mến, kèm với tinh thần phục vụ khiêm tốn và khó nghèo theo gương Chúa Kitô, thì làm sao có thể thuyết phục được ai nghe mình giảng dạy về những nhân đức này nữa? Chúa nói: “Ai có tai nghe thì nghe” (Mt 13,43 Mc 4,23; Lc 8,8).

II. Trách nhiệm ngôn sứ và chứng tá của người tín hữu giáo dân

Không phải chỉ người tông đồ mới có trách nhiệm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.

Ngược lại, qua Bí tích Rửa Tội, người giáo dân cũng tham dự vào 3 chức Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Chúa Kitô nhưng với thể thức khác với Hàng Giáo phẩm, Giáo sĩ và Tu sĩ.

Cụ thể , Hàng Giáo sĩ và Tu sĩ thừa tác (Ministerial clergy and religious) như các giám mục và linh mục dòng và triều thi hành chức năng tư tế bằng việc tế lễ trên bàn thờ, tức là dâng lại Hy tế thập giá của Chúa Kitô, giảng Phúc Âm và cử hành các bí tích trong nhà thờ nhân danh Chúa (in persona Christi).

Người tín hữu giáo dân, ngược lại, dâng chính đời sống của mình với mọi vui buồn, sướng khổ để hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Kitô trên thập giá xưa và cách bí nhiệm ngày nay trên bàn thờ mỗi khi Thánh lễ Tạ ơn (Eucharist) được cử hành để cảm tạ Chúa Cha và xin ơn tha tội cho chúng ta cùng thể thức và mục đích của Hy tế Chúa Kitô dâng lần đầu tiên trên thập giá.

Cũng vậy, người tín hữu giáo dân thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình bằng chính đời sống của mình trước mặt người đời để “họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Nghĩa là trong khi những người không có niềm tin vào Chúa Kitô và đang làm những sự xấu sự dữ như giết người, giết thai nhi, thay vợ đổi chồng, dâm ô trác táng, gian manh, trộm cắp, cờ bạc, căm thù, chia rẽ, coi nhẹ lương tâm để lường gạt, bóc lột người khác… thì người có niềm tin nơi Chúa phải sống niềm tin ấy cách cụ thể và sống động để nêu cao những giá trị của niềm tin là tôn trọng sự sống, tôn trọng công bình, lương thiện, thực thi bác ái, yêu thương, tha thứ, “như thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa một thế hệ gian tà sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15) theo lời dạy của Thánh Phaolô Tông Đồ.

Thật vậy, sống trong thời đại của “văn hoá sự chết”, đức tin của người tín hữu Chúa Kitô đang bị thách đố nặng nề bởi những kẻ không có niềm tin nào, nên chỉ còn biết chay theo những quyến rũ của tiền bạc và danh vọng hư hão, coi nhẹ luân thường, đạo lý để làm những sự độc ác như giết người không gớm tay, lường đảo, gian manh, pha chế chất độc vào thực phẩm để làm hại sức khoẻ của dân chúng; trồng cây thuốc phiện, cần sa, ma tuý; mở sòng bạc, nhà điếm, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ mãi dâm, ấu dâm vô cùng khốn nạn và tội lỗi.

Nếu người tín hữu Chúa Kitô mà cũng tham gia vào những việc tội lỗi nói trên, thì đã tự đánh mất niềm tin của mình và đã thoả hiệp với thế gian vô đạo cách rõ nét nhất. Và như thế thì thay vì làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời, người tín hữu sẽ trở thánh phản chứng (anti-witness) bằng chính đời sống của mình trước mặt người khác khi không dám sống niềm tin của mình phản ánh trung thực Tin Mừng của sự sống, sự công bình, đức bác ái, tình thương tha nhân, lòng yêu mến sự trong sạch thánh thiện là những đặc trưng và đòi hỏi của Tin Mừng Cứu Độ, tức Phúc Âm Sự Sống đối nghịch hoàn toàn với “văn hoá sự chết” của thế giới tục hoá ngày nay.

Mặt khác, khi người tín hữu Chúa Kitô tích cực hoạt động để bảo vệ cho sự sống, bảo vệ và nêu cao những giá trị của luân lý Kitô giáo về hôn nhân, về gia đình, về sự chung thuỷ của vợ chồng trong hôn nhân, về công bình xã hội, về tôn trọng quyền sống của con người… thì đã góp phần tích cực vào việc mở mang Nước Chúa là Vương quốc của sự bình an, công bình, yêu thương và thánh thiện.

Đó là trách nhiệm ngôn sứ và nhân chứng của người giáo dân trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II đã đặc biệt nói đến trách nhiệm này trong Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn dân – LG):

“Vì thế, giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh của Giáo Hội. Mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ qua việc nhận lãnh Phép Rửa và Thêm Sức,…Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian” (x. LG, 33).

Nói khác đi, mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội đều có trách nhiệm rao giảng Lời Chúa và làm nhân chứng cho Chúa để đem ánh sáng Chúa Kitô vào nơi tối tăm ô uế vì ham chuộng khoái lạc, dâm ô, nhảy nhót mất nết, đem công bình vào nơi bóc lột và bất công, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem bình an vào nơi đang sôi sục lửa chiến tranh và khủng bố.

Tóm lại, Năm Đức Tin là thời cơ thuận lợi cho mọi người trong Giáo Hội kiểm điểm đời sống đức tin của mình để canh tân và đào sâu thêm đức tin vào Chúa Kitô trong 2 chiều kích đi loan truyền và làm nhân chứng cho Tin Mừng Cứu Độ để mời gọi thêm nhiều người nữa tin và yêu mến Chúa Kitô để được cứu độ và được vinh phúc “thông phần bản tính Thiên Chúa sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian này” (1 Pr 1,4).

Lm. Fx. Ngô Tôn Huấn

Đức Thánh Cha kỷ niệm 50 năm Công Đồng chung Vatican 2

Đức Thánh Cha kỷ niệm 50 năm Công Đồng chung Vatican 2

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 40 ngàn tín hữu hành hương sáng thứ tư, 10-10-2012, ĐTC Biển Đức 16 đã nhắc nhớ và đề cao đặc tính thời sự của Công Đồng như địa bàn hướng dẫn hành trình của Giáo Hội ngày nay.

ĐTC nói: ”Đức Chân phước Gioan Phaolô 2, trước ngưỡng cửa Ngàn Năm Thứ Ba đã viết: ”Tôi cảm thấy hơn bao giờ hết nghĩa vụ phải coi Công Đồng như một đại ân phúc mà Giáo Hội được hưởng trong thế kỷ 20: trong Công Đồng chúng ta được một địa bàn chắc chắn để định hướng trên hành trình trong thế kỷ đang mở ra” (Tông thư Novo millennio ineunte, 57). Tôi nghĩ rằng hình ảnh này thật là hùng hồn. Chúng ta cần trở về với các văn kiện Công Đồng Vatican 2 và giải thoát chúng khỏi bao nhiêu ấn phẩm nhiều khi thay vì làm cho chúng ta được biết các văn kiện Công Đồng thì lại che khuất chúng. Cả ngày nay, các văn kiện Công Đồng Vatican 2 vẫn là một hải bàn giúp con thuyền Giáo Hội hải hành trong biển khơi, giữa những bão tố hoặc khi sóng yên biển lặng, để tiến hành chắc chắn và tới đích.

ĐTC cũng kể lại kinh nghiệm bản thân của ngài về Công Đồng và nói rằng:

”Tôi còn nhớ rõ thời kỳ ấy: tôi là một giáo sư trẻ về thần học cơ bản tại Đại học Bonn, và chính ĐHY Frings, TGM giáo phận Koeln đã mang tôi theo về Roma, như thần học gia cố vấn của Người; đối với tôi Người là một điểm tham chiếu về mặt nhân bản cũng như về mặt linh mục; rồi sau đó tôi cũng được bổ nhiệm làm chuyên gia Công Đồng. Đó thực là một kinh nghiệm có một không hai đối với tôi: sau tất cả những nhiệt thành và phấn khởi trong thời kỳ chuẩn bị, tôi đã có thể thấy một Giáo Hội sinh động – hầu như 3 ngàn Nghị Phụ Công Đồng từ các nơi trên thế giới, nhóm họp dưới sự hướng dẫn của Người Kế Vị Thánh Phêrô Tông Đồ – các vị đặt mình nơi trường học của Chúa Thánh Linh, là động cơ đích thực của Công Đồng. Thật là họa hiếm trong lịch sử Giáo Hội, người ta hầu như có thể động chạm một cách cụ thể hoàn vũ tính của Giáo Hội trong một thời điểm thành tựu quan trọng của sứ mạng mang Tin Mừng trong mọi thời đại và đến tận bờ cõi trái đất. Trong những ngày này, nếu xem lại những hình ảnh của ngày lễ khai mạc Công Đồng, qua truyền hình hoặc các phương tiện truyền thông khác, anh chị em cũng có thể nhận thấy niềm vui, hy vọng và sự khích lệ mà sự tham dự biến cố ánh sáng ấy mang lại cho tất cả chúng ta, ánh sáng ấy còn chiếu tỏa cho đến ngày nay.

ĐTC cũng nhắc lại sự kiện: trong lịch sử Giáo Hội, các Công đồng thường được triệu tập để xác định những yếu tố cơ bản của đức tin, nhất là để sửa chữa những sai lầm. Nhưng nếu nhìn lại Công Đồng chung Vatican 2, chúng ta thấy lúc ấy trong hành trình của Giáo Hội không có những sai lầm đức tin cần sửa chữa hoặc lên án, cũng chẳng có vấn đề đặc thù về đạo lý hoặc kỷ luật cần làm sáng tỏ. Vì thế, chúng ta có thể hiểu được sự kinh ngạc của một nhóm nhỏ các HY hiện diện trong phòng hội của Đan viện Biển Đức Phaolô ngoại thành ngày 25-1-1959, khi Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 loan báo triệu tập công nghị giáo phận Roma và Công đồng chung toàn Giáo Hội.

Tiếp tục bài huấn dụ, ĐTC nhắc đến những vấn đề của thời đại mà Công Đồng Vatican 2 đã tìm cách giải quyết: ví dụ làm sao nói về đức tin một cách mới mẻ, quyết liệt hơn vì thế giới đang biến chuyển mau lẹ; làm sao xác định một cách mới mẻ tương quan giữa Giáo Hội và thời đại tân tiến, giữa Kitô giáo và một số yếu tố thiết yếu của tư tưởng hiện đại, không phải để chiều theo các tư tưởng đó, nhưng để trình bày cho thế giới này đang có xu hướng xa lìa Thiên Chúa, những đòi đỏi của Tin Mừng trong tất cả sự cao cả và tinh tuyền của sứ điệp ấy…

ĐTC nói: ”Chúng ta thấy thời đại chúng ta đang sống ngày nay tiếp tục chịu tình trạng quên lãng và tỏ ra điếc đối với Thiên Chúa. Vì thế tôi thiết nghĩ chúng ta phải học bài học đơn sơ và cơ bản nhất của Công Đồng, nghĩa là nòng cốt của Kitô giáo hệ tại niềm tin nơi Thiên Chúa là Tình Yêu Ba Ngôi, và hệ tại cuộc gặp gỡ – bản thân và cộng đoàn – với Chúa Kitô, Đấng dìu dắt và hướng dẫn cuộc sống: tất cả những điều khác theo sau điều cơ bản ấy. Điều quan trọng ngày nay, cũng như trong ước muốn của các Nghị Phụ Công Đồng, là làm sao để con tái thấy rõ Thiên Chúa đang hiện diện, đang nhìn chúng ta và trả lời chúng ta. Trái lại, khi thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa, thì cả điều thiết yếu cũng sụp đổ, vì con ngừơi đánh mất phẩm giá sâu xa của mình, chính phẩm giá ấy làm cho nhân tính của con người trở nên cao cả và chống lại được mọi chủ trương thu hẹp con người. Công Đồng nhắc nhở chúng ta rằng, Giáo Hội trong tất cả các phần tử của mình, có nghĩa vụ, có một mệnh lệnh phải thông truyền lời yêu thương của Thiên Chúa Đấng Cứu Độ, để lời mời gọi của Thiên Chúa được lắng nghe và đón nhận, chính lời mời gọi ấy chứa đựng hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta.“

ĐTC nói thêm rằng: khi nhìn dưới ánh sáng ấy sự phong phú chứa đựng trong các văn kiện Công Đồng Vatican 2, tôi chỉ muốn nhắc đến 4 Hiến Chế, như 4 phương hướng chính của địa bàn có thể hướng dẫn chúng ta. Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium chỉ cho chúng ta thấy trong Giáo Hội ngay từ đầu có sự thờ lại, có Thiên chúa, có sự trung tâm của mầu nhiệm sự hiện diện của Chúa Kitô. Và Giáo Hội, thân mình của Chúa Kitô và là dân tộc lữ hành trong thời gian, có nghĩa vụ cơ bản là tôn vinh Thiên Chúa, như Hiến chế tín lý Ánh sáng muôn dân, Lumen gentium, diễn ta. Văn kiện thứ 3 mà tôi muốn nhắc đến là Hiến chế về mạc khải Dei Verbum: Lời sinh động của Thiên Chúa triệu tập Giáo Hội và làm cho Giáo Hội được sinh động suốt trong hành trình lịch sử của mình. Và cách thức Giáo Hội mang cho toàn thế giới ánh sáng mà Giáo Hội đã nhận lãnh từ Thiên Chúa để Ngài được tôn vinh, đó chính là đề tại chính yếu của Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, Vui Mừng và hy vọng.

Sau cùng, ĐTC nói: “Công Đồng Vatican hai là một lời kêu gọi mạnh mẽ gửi đến chung ta: mỗi ngày hãy tái khám phá vẻ đẹp của đức tin chúng ta, biết đức tin ấy một cách sâu xa để có quan hệ nồng nhiệt hơn với Chúa, sống trọn ơn gọi Kitô của chúng ta.

Chào thăm và nhắn nhủ

Sau bài huấn giáo dài bằng tiếng Ý, như thường lệ ĐTC đã tóm tắt bằng các sinh ngữ chính và chào thăm phái đoàn các tín hữu được giới thiệu lên ngài.

Đặc biệt lần đầu tiên tiếng Arập xuất hiện tại buổi tiếp kiến chung của ĐTC. Một giám chức đã tóm tắt bài huấn dụ của ngài bằng tiếng Arập, trước khi Ngài chào thăm các tín hữu bằng ngôn ngữ này: ”Giáo Hoàng cầu nguyện cho tất cả những người nói tiếng Arập. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.!”

Sau cùng bằng tiếng Ý, sau khi nhắc đến các phái đoàn như Hiệp hội các gia đình tiếp đón, các tham dự viên hội nghị do Đài phát thanh Maria tổ chức, các phó tế vĩnh viễn của Tổng giáo phận Milano, bắc Italía, ĐTC không quên chào các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn. Ngài mời gọi họ nghĩ đến Mẹ Maria, kêu cầu Mẹ trong tháng 10 này như Nữ Vương Mân Côi. Hỡi những người trẻ, các con hãy nhìn lên Mẹ .. và sẵn sàng lập lại lời thưa xin vâng, đáp lại dự phóng tình thương của Chúa dành cho mỗi người các con. Và hỡi anh chị em bệnh nhân quí mến, anh chị em hãy chia sẽ với Mẹ Maria những đau khổ của anh chị em, dâng những đau khổ ấy như hồng ân cứu độ cho các anh chị em khác. Và hỡi các đôi tân hôn, hãy kiên trì với Mẹ Maria trongkinh nguyện, như các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly và gia đình của anh chị em sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện an ủi của Chúa Thánh Linh.”

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sinh hoạt Thượng Hội đồng Giám Mục XIII

Sinh hoạt Thượng Hội đồng Giám Mục XIII

VATICAN. Sáng thứ tư 10-10-2012, vì ĐTC bận tiếp kiến chung 40 ngàn tín hữu hành hương tại Quảng trường thánh Phêrô, nên Thượng HĐGM kỳ thứ 13 không nhóm phiên khoáng đại. Thay vào đó các nghị phụ đã nhóm họp lần đầu tiên trong các nhóm nhỏ theo ngôn ngữ chính.

Trong phiên họp từ lúc 9 giờ đến 12 giờ rưỡi, các nghị phụ cùng với các dự thính viên đã bầu vị trưởng nhóm và tường trình viên của mỗi nhóm, rồi thảo luận về bản tường trình đầu tiên của ĐHY Donald Wuerl, TGM Washington Hoa kỳ, trong tư cách là Tổng tường trình viên, đã trình bày trong hai phiên khoáng đại hôm thứ hai 8-10 vừa qua.
Ban chiều 10-10-2012, các vị trưởng nhóm và tường trình viên đã nhóm họp lúc 4 giờ rưỡi, trước khi cùng mọi người tham dự phiên họp khoáng đại thứ 5 trước sự hiện diện của ĐTC, từ lúc 4 giờ rưỡi đến 6 giờ chiều và được tiếp nối bằng cuộc thảo luận tự do.

Nội dung một số bài phát biểu

Trong số nội dung các bài phát biểu được công bố cho đến nay, người ta đặc biệt chú ý đến nhận định của một vị TGM người Philippines, Đức Cha Socrates Villegas của giáo phận Lingayen-Dagupan, nói với Thượng HĐGM hôm 9-10 vừa qua rằng chỉ có thể rao giảng Tin Mừng cho người nghèo nếu người truyền giảng chia sẻ sự nghèo khó của họ. ”Tin Mừng có thể được giảng cho những bao tử trống rỗng, nhưng chỉ khi nào bao tử của người giảng thuyết cũng trống như bao tử các giáo dân của mình”.

Đức TGM Socrates Villegas cũng là một trong nhiều nghị phụ nhấn mạnh tầm quan trọng của đức khiêm tốn và liên đới với người nghèo, giữa lúc Giáo Hội Công Giáo đang nỗ lực củng cố đức tin của các tín hữu và khích lệ những người Công Giáo xa lìa Giáo Hội hãy trở về.

Bài tham luận của Đức Cha Villegas đã được các nghị phụ vỗ tay tán thưởng. Ngài nói: ”Việc tái truyền giảng Tin Mừng kêu gọi chúng ta phải có một sự khiêm tốn mới mẻ. Tin Mừng không thể thu hút trong sự kiêu hãnh.. Theo Chúa Kitô có nghĩa là noi gương Chúa với một ”cảm thức sâu xa về lòng kính trọng đối với nhân loại.. Việc rao giảng Tin Mừng đã bị thương tổn và tiếp tục bị cản trở vì sự kiêu hãnh của những sứ giả Tin Mừng”.

– Một nghị phụ khác người Philippines là Đức Cha Luis Antonio Tagle, TGM giáo phận thủ đô Manila, nhấn mạnh sự noi gương khiêm tốn Chúa Giêsu, được biểu lộ rõ ràng nhất qua ý chỉ của Chúa trở thành người, để chịu đau khổ và chịu chết cho nhân loại. Lòng khiêm tốn của Chúa Giêsu đã làm cho người chứng tỏ tình yêu chân thành và mối quan tâm đói với mọi người, đặc biệt là ”những người bị thế gian lơ là và coi rẻ”. Giáo hội cũng phải làm như vậy.

”Khiêm tốn có nghĩa là nhìn nhận khi Giáo Hội không có tất cả mọi câu trả lời, và vì thế cũng muốn im lặng.. Một Giáo Hội im lặng sẽ làm cho những người không có tiếng nói tin rằng họ không lẻ loi”.

ĐHY Zenon Grocholewski, người Ba Lan, Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo, nói trước Thượng HĐGM rằng một chướng ngại lớn nhất mà một LM hoặc một nhà thần học gặp phải, trong việc trở thành một nhà rao giảng Tin Mừng đích thực chắc chắn là thái độ kiêu ngạo, cùng với ”đồng minh” của tật xấu này là sự ích kỷ. Sự ham hố và miệt mài cố gắng trở thành cao trọng, thành người đặc sắc và quan trọng khiến cho nhiều giáo sĩ trở thành những ”người chăm sóc bản thân mình thay vì lo lắng quan tâm cho đoàn chiên”, như thánh Augustino đã nói.

ĐHY Grocholewski cũng nói rằng ”Mỗi phần tử của Giáo Hội phải nghiêm túc xét mình và dưới chân Thánh Giá, học trở nên khiêm tốn và yêu thương thực sự”. ĐHY không quên kêu gọi các nghị phụ rất nghiêm túc cứu xét tình trạng của nền giáo dục Công Giáo. Ngày nay có nhiều trường học và đại học Công Giáo hơn bao giờ hết, nhưng sự tăng trưởng dường như bị một cuộc khủng hoảng gia tăng về đức tin đi kèm.. Một chìa khóa để giải quyết vấn đề này, theo ĐHY, là đảm bảo sao cho các LM và thần học gia hiểu rằng những năm học hành và những thành tựu vẻ vang về việc học không thu hút ai đi theo Chúa Kitô nếu những người rao giảng Tin Mừng không thực sự biết Chúa và dạy điều mà Giáo Hội tuyên dạy”.

Đức Cha José Rauda Gutierrez, GM giáo phận San Vicente bên El Salvador, nói với Công nghị các GM rằng các GM và KM thường là chướng ngại cho việc rao giảng Tin Mừng. ”Sự đánh mất nhiệt huyết mục vụ, sự giảm sút các hoạt động truyền giáo, các buổi cử hành phụng vụ thiếu cảm nghiệm sâu xa về mặt thiêng liêng, và sự thiếu vui mừng và hy vọng của các giáo sĩ mạnh mẽ đến độ ảnh hưởng tới chính đời sống của các cộng đoàn chúng ta”.
Theo Đức Cha Rauda, việc tái truyền giảng Tin Mừng phải giống như phương dược mang lại vui tươi và sức sống thay vì sự sợ hãi”.

Đức Cha John Corriveau, GM giáo phận Nelson thuộc bang British Colombia, Canada và nguyên là Bề trên Tổng quyền dòng Capuchino, trong bài phát biểu, đã nói rằng xây dựng cộng đoàn và thăng tiến cảm thức hiệp thông, nhất là đứng trước trào lưu cá nhân chủ nghĩa đang gia tăng, chính là một thành phần quan trọng trong việc tái truyền giảng Tin Mừng.

Linh đạo hiệp thông được hình thành theo khuôn mẫu quan hệ yêu thương giữa các ngôi vị trong Ba Ngôi Thiên Chúa, một tình yêu sáng tạo được biểu lộ cho nhân loại qua sự nhập thể của Chúa Kitô.

Đức Cha Corriveau nói: ”Ơn gọi hiệp thông không phải chỉ là một khẩu hiệu. Đó chính là sự hoán cải tâm hồn”.
– Đức TGM Gerhard Mueller, người Đức, Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, nói với Thượng HĐGM rằng việc rao giảng Tin Mừng đích thực trước tiên đòi Giáo Hội phải vượt thắng một số cuộc tranh luận trong nội bộ Giáo Hội giữa những người gọi là bảo thủ và những người gọi là cấp tiến; thay vào đó các phần tử Giáo Hội phải chú tâm đến việc chia sẻ Tin Mừng và thi hành điều đó trong sự hiệp nhất với Giáo Hội và hòa hợp với giáo huấn của Giáo Hội”. Đức TGM Mueller muốn ám chỉ đến thực trạng Giáo Hội Công Giáo tại Đức hiện nay (CNS 9-10-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Thượng Hội Đồng Giám Mục tiếp tục với phiên nhóm toàn thể thứ 2 và 3.

Thượng Hội Đồng Giám Mục tiếp tục với phiên nhóm toàn thể thứ 2 và 3.

VATICAN. Sáng 9 tháng 10-2012, Thượng HĐGM thế giới về việc tái truyền giảng Tin Mừng đã nhóm phiên khoáng đại thứ 3 lúc 9 giờ trước sự hiện diện của ĐTC và dưới quyền chủ tọa theo lượt của ĐHY Robles, TGM giáo phận Guadalajara bên Mehicô.

Hiện diện tại phiên họp có 259 nghị phụ, trong số này có 142 vị tham dự lần đầu tiên tại một Thượng HĐGM.
Phiên họp mở đầu với kinh giờ Ba, và đã có 14 nghị phụ đăng ký phát biểu ý kiến, mỗi vị được nói tối đa 5 phút. Các vị đề cao giá trị của người di dân, nhất là đức tin mà họ mang theo khắp nơi trên thế giới, khiến họ trở thành những người rao giảng Tin Mừng thực sự. Vì thế, Giáo Hội cần nâng đỡ và bảo vệ người di dân chống lại những hình thức kỳ thị của xã hội, giúp họ hội nhập vào xã hội mới và bảo tồn căn tính của họ.

Cũng có những nghị phụ kêu gọi Giáo Hội cần xét mình về cách thức sống và làm chứng đức tin. Cần tránh nguy cơ bàn giấy hóa đời sống bí tích, làm mất uy tín của Giáo hội. Điều này có nghĩa là trước khi trở thành những người rao giảng Tin Mừng thì chúng ta phải được rao giảng Tin Mừng.

Một số nghị phụ nhắc đến bí tích giải tội hầu như bị biến mất tại một số miền trên thế giới, các vị gọi đây thực sự là bí tích của việc tái truyền giảng Tin Mừng.

Các nghị phụ không quên kêu gọi hòa bình cho Siria và liên đới với các nạn nhân cuộc xung đọt tại nước này.
Chiều thứ hai vừa qua, 8-10, các nghị phụ đã nhóm phiên khoáng đại thứ 2 lúc 4 giờ rưỡi chiều và đã nghe 5 nghị phụ đại diện Giáo Hội tại 5 châu tường trình về tình hình tại châu lục liên hệ.

ĐHY Oswald Gracias, TGM Bombay, Tổng thư ký Liên HĐGM Á châu, đã nói về tình hình đại lục này, chiếm tới 60% dân số hoàn cầu, trong đó Trung Quốc và Ấn độ chiếm 37% dân số thế giới. ĐHY cho biết hầu như không có sự đồng nhất trong bối cảnh Á châu, vì thế rất khó xác định Á châu tính là gì. Ngài nhấn mạnh đến sự hoàn cầu hóa và sự hao mòn các giá trị cổ truyền của Á châu. Trào lưu duy vật và tục hóa ngày càng lan tràn và chiếm ưu thế. Dân Á châu vốn quí chuộng tôn giáo, nhưng nay chúng ta thấy Thiên Chúa đang dần dần bị đưa ra khỏi trung tâm cuộc sống của dân chúng.

ĐHY Gracias nói: ”Các nhà thờ của chúng ta vẫn còn đông người nhưng liệu điều này có còn tiếp tục trong tương lai hay không?” Năm Đức Tin thực là một thách đố đòi chúng ta phải thông truyền sứ điệp đức tin một cách hấp dẫn, quan trọng và là một câu trả lời cho các vấn nạn thời nay”.

Gia đình Á châu vẫn còn quan trọng, nhưng nay đang bị tấn công. Ly dị trước kia bị coi là điều cầm kỵ, nhưng nay đang trở thành điều thông thường. Một số người lên tiếng yêu cầu hôn nhân đồng phái. Thật là một thách đố lớn đối với chúng ta phải tìm ra những phương thức mới để bảo tồn tính chất thánh thiêng của gia đình.
Đặc biệt ĐHY Peter Erdoe, TGM giáo phận Esztergom Budapest bên Hungari, Chủ tịch Liên HĐGM Âu Châu, đã trình bày một quang cảnh khá đen tối về tình hình tôn giáo tại đại lục này, nhưng cũng không thiếu những dấu hiệu hy vọng.

ĐHY Erdoe nhắc lại rằng trong số những dấu hiệu đang lo âu được Đức Gioan Phaolô 2 đã nói đến, có ”sự quên mất gia sản Kitô tại Âu Châu” (Giáo Hội tại Âu Châu, 7). Tiến trình đó càng trở nên hiển nhiên trong những năm gần đây. Mặc dầu có nhiều kinh nghiệm vui mừng, nhưng trong phần lớn đại lục, sự dốt nát về đức tin Kitô đang lan tràn. Nhiều cơ quan truyền thông trình bày về đức tin Kitô và lịch sử nhiều khi đầy những điều vu khống, xuyên tạc trước dư luận về nội dung đức tin của chúng ta cũng như về thực tại của Giáo Hội. Cả hoạt động huấn giáo của chúng ta, nhất là những lớp giáo lý tại các trường công lập cũng có rất nhiều giới hạn. Cách đây vài năm, Liên HĐGM Âu Châu đã thực hiện một cuộc điều tra tại các nước trên toàn đại lục về tình trạng pháp lý, thống kê, Giáo Hội và văn hóa liên quan đến việc giảng dạy môn tôn giáo. Kết quả cho thấy trong các trường công lập tại nhiều nước có thể được giảng dạy về một tôn giáo hoặc nhiều tôn giáo, nhưng không được dạy về đạo Công Giáo. Môn tôn giáo được dạy như thế gọi là ”trung lập”, đúng ra nó bao hàm một thứ giáo dục về tôn giáo trộn lẫn hoặc có thái độ dửng dưng.

Sự rời bỏ Kitô giáo ở Âu Châu có kèm theo những cuộc tấn công xảy ra nhiều lần về mặt pháp lý và đôi khi cả về thể lý nữa, chống lại sự hiện diện hữu hình của những biểu hiệu đức tin.

Nơi dân chúng tại Âu châu, vì tình trạng dân số suy giảm và già nua, có một hiện tượng đã được Liên HĐGM Âu Châu điều tra từ hai năm nay, vì khủng hoảng kinh tế và suy yếu căn tính văn hóa và tôn giáo, nên họ đang khao khát hy vọng.

Ngày Quốc tế giới trẻ tại Koeln bên Đức và Madrid Tây Ban Nha, cũng như các cuộc viếng thăm mục vụ của ĐTC tại nhiều nước, là một dấu chỉ lớn về hy vọng và đã có một hiệu năng truyền giáo đặc biệt. Sự tham gia đông đảo của dân chúng và các phương tiện truyền thông, các buổi cử hành trọng thể đã đánh động tâm hồn nhiều ngừơi, đặc biệt nhạy cảm đối với thứ ngôn ngữ truyền thôgn này. Những hiệu quả không phải là chóng qua. Trong những dịp ấy nhiều tham dự viên đã nhận được cả ơn gọi linh mục và tu trì. Cả một số GM cũng cảm động sâu xa vì những cuộc gặp gỡ ấy.

Các cuộc đại phúc truyền giáo ở nhiều trung tâm của Âu Châu đã tìm cách làm nổi bật niềm hy vọng ấy.
Một dấu chỉ khác của thời đại, đặc biệt có triển vọng tại Âu Châu, đó là sự gia tăng những ngừơi thiện nguyện trong các giáo xứ, nhất là trong các tổ chức bác ái. Đặc biệt những người về hưu, từ 65 đến 75 tuổi, tỏ ra rất quảng đại và góp phần củng cố tình liên đới của các thế hệ trẻ.

Sau phần trình bày của 5 nghị phụ, ĐHY Donald Wuerl, TGM Washington Hoa Kỳ, Tổng tường trình viên, tiếp tục trình bày về các vấn đề cần bàn trong công nghị GM này.

Sau cùng các nghị phụ có 1 giờ đồng hồ, từ 6 đến 7 giờ, để thảo luận tự do.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican