Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I khai mạc Mùa Vọng

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I khai mạc Mùa Vọng

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các sinh viên đại học làm chứng cho các bạn đồng môn về sự gần gũi của Thiên Chúa với con người.

Đó là nội dung bài giảng của ĐTC trong buổi hát kinh chiều I Chúa nhật thứ I mùa Vọng lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ bẩy 1 tháng 12-2012 tại Đền thờ Thánh Phêrô với 9 ngàn sinh viên các đại học đạo và đời ở Roma, cùng với nhiều tín hữu nhân dịp khai mạc niên học mới.

Hiện diện tại buổi hát kinh cũng có ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo Zenon Grocholewski và ĐHY Vallini Giám quản Roma, 20 HY và nhiều GM khác cũng như Bộ trưởng nghiên cứu và đại học của Italia cùng với các giáo sư viện trưởng.

Trong bài giảng sau bài đọc ngắn, ĐTC quảng diễn về lòng trung tín của Thiên Chúa với Dân Chúa, mặc dù dân này nhiều lần bất trung. ”Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi sự trở về của con người trong tự do và chú ý đến phẩm giá cũng như những mong đợi sâu xa nhất của họ. Thiên Chúa không khép mình trên Trời Cao, nhưng Ngài cúi xuống, quan tâm đến những thăng trầm của con người. Đó là một mầu nhiệm lớn lao, vượt lên trên mọi mong đợi của con người.”

Trong bối cảnh đó, ĐTC nói: ”Các bạn được tháp nhập vào một cộng đoàn đại học đông đảo ở Roma, trong đó có thể tiến bước trong kinh nguyện, trong việc nghiên cứu, đối chiếu và trong việc làm chứng cho Tin Mừng. Đó là một hồng ân quí giá cho đời sống các bạn; các bạn hãy biết coi điều đó như một dấu chỉ lòng trung tín của Thiên Chúa, Đấng ban cho các bạn những cơ hội để làm cho cuộc sống của các bạn phù hợp với cuộc sống của Chúa Kitô để cho mình được Chúa thánh hóa cho đến mức độ thiện toàn (Xc 1 Ts 5,23).

Sau kinh chiều, ảnh Đức Mẹ là Tòa Đấng Khôn Ngoan đã được đại diện các sinh viên Roma trao cho phái đoàn các sinh viên thuộc thành phố Belo Horizonte, bên Brazil, để chuẩn bị Ngày Quốc Tế giới trẻ sẽ tiến hành từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm 2013 tại thành phố Rio de Janeiro. (SD 1-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP
– Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến 6 tân Hồng Y và thân nhân

Đức Thánh Cha tiếp kiến 6 tân Hồng Y và thân nhân

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 tái kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các tân Hồng Y và ngài cũng mời gọi các tân Hồng y cầu nguyện và trợ giúp ngài.

ĐTC đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 26 tháng 11-2012 dành cho 6 tân Hồng Y, thân nhân, tín hữu của các vị. Tổng cộng khoảng 2 ngàn người tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican.

Ngài khẳng định rằng ”Hồng y đoàn có nguồn gốc gắn liền với hàng giáo sĩ xưa kia của Giáo Hội Roma, có nhiệm vụ bầu người kế vị Thánh Phêrô và cố vấn cho Người trong những vấn đề quan trọng. Dù thi hành nhiệm vụ trong giáo triều Roma hay trong sứ vụ tại các Giáo Hội địa phương trên thế giới, các HY đều được kêu gọi đặc biệt chia sẻ với ĐGH mối quan tâm đối với Giáo Hội hoàn vũ. Màu áo đỏ của các vị theo truyền thống vẫn được coi như dấu chỉ sự quyết tâm của các HY bảo vệ đoàn chiên của Chúa Kitô kể cả đến độ đổ màu đào… Tôi tin rằng các HY sẽ được anh chị em cầu nguyện và hỗ trợ trong lúc các vị cùng với ĐGH thăng tiến khắp nơi trên thế giới sự thánh thiện, tình hiệp thông và an bình của Giáo Hội”.

Trong lời chào bằng tiếng Pháp dành cho các tín hữu Công Giáo Liban tháp tùng ĐHY Thượng Phụ Boutros Rai, ĐTC cho biết qua việc trao phẩm tước Hồng y cho Đức Thượng Phụ ngài muốn đặc biệt khích lệ cuộc sốg nvà sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông, nơi mà họ phải được sống đức tin một cách tự do, và một lần nữa, tôi cũng tha thiết kêu gọi hòa bình cho vùng Trung Đông. Giáo Hội khuyến khích mọi nỗ lực để kiến tạo hòa bình trên thế giới và tại Trung Đông, một nền hòa bình chỉ thực sự hữu hiệu nếu dựa trên sự tôn trọng chân thành đối với tha nhân.”

Sau cùng, với các tân HY, ĐTC nói: ”Trong khi lập lại những lời cầu chúc nồng nhiệt nhất với mỗi người anh em, tôi tín thác nơi lời cầu nguyện nâng đỡ cũng như sự trợ giúp quí giá của anh em. Anh em hãy tín thác và can đảm tiếp tục sứ mạng thiêng liêng và tông đồ của anh em, trong khi chăm chú ngắm nhìn Chúa Kitô, và củng cố tình yêu của anh em đối với Giáo Hội của Chúa”.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã bắt tay 6 vị Hồng y với cùng với thân nhân ruột thịt gần nhất, mỗi vị được 4 hoặc 5 người. (SD 26-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Cha Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, Tân Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam

Cha Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, Tân Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam

ROMA. Cha José Rodriguéz Carballo, Bề trên tổng quyền dòng Phanxicô (OFM), đã được bầu làm tân Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam, kế nhiệm cha Pascual Chávez Villanueva, Bề trên tổng quyền dòng Don Bosco.

Cha Rodriguéz Carballo đã được bầu lên trong đại hội bán niên thứ 80 của Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam, nhóm tại Roma từ ngày 21 đến 23 tháng 11 vừa qua. Hiệp hội này có trụ sở pháp lý ở Vatican và qui tụ các Bề trên Tổng Quyền của gần 200 dòng thành viên.

Cha Rodriguéz năm nay 59 tuổi (1953), sinh trưởng tại miền Galizia Tây Ban Nha, từ 9 năm nay là Bề trên Tổng quyền dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô.

Lên tiếng sau khi đắc cử, Cha Rodriguéz nhận định rằng đời sống thánh hiến ngày nay phải theo đuổi các mục tiêu: để cho mình được rao giảng Tin Mừng để có thể loan báo Tin Mừng cho tha nhân, tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sự, đứng về phía người nghèo, nghiêm túc để ý đến những thách đố đang nảy sinh từ môi sinh học, bảo vệ cac quyền con người, công lý và hòa bình.

Khóa họp thứ 80 vừa qua của Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng Nam đã bàn về Thượng HĐGM thế giới mới kết thúc, với lời kêu gọi tha thiết các tu sĩ dấn thân tăng cường tình hiệp thông và canh tân chứng tá Kitô.
ĐHY João Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ các dòng tu, đã chủ sự thánh lễ trong ngày họp đầu tiên với các Bề trên và đã mời gọi các vị làm sao để gia tăng tình hiệp thông với nhau và trong Giáo Hội.

Trong những ngày họp, các bề trên cũng bàn về cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh, và ảnh hưởng của chúng trên hoạt động của các dòng tu (Oss. Rom 24.11.2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với 6 tân Hồng Y

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với 6 tân Hồng Y

VATICAN. Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ đồng tế với 6 tân Hồng Y mới được ngài tấn phong và mời gọi các vị dành ưu tiên cho Thiên Chúa và Nước Chúa trước những lợi lộc trần thế.

Thánh lễ mừng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ diễn ra lúc 9.30 sáng chúa nhật 25 tháng 11-2012 tại Đền Thờ Thánh Phêrô trước sự hiện diện của 8 ngàn người, trong đó có 50 HY và 40 GM, cùng với 4 phái đoàn chính thức từ Liban, Philippines, Nigeria và Ấn độ, nhiều vị đại sứ, thân nhân, tín hữu thuộc hai Giáo Hội Công Giáo Đông phương: Maronite Liban và Siro Malankara Ấn độ cũng như từ các giáo phận của các tân Hồng Y.

18 thầy giúp lễ là các đại chủng sinh trường Truyền giáo và đặc biệt trong số các phó tế, cũng có một thầy người Việt là Giuse Nguyễn Công Khương thuộc giáo phận Thanh Hóa.

Đảm nhận phần thánh ca trong buổi lễ, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có ca đoàn Mẹ Giáo Hội (Mater Ecclesiae) gồm 80 ca viên, và Ca đoàn Học Viện Giáo Hoàng về thánh nhạc gồm 50 ca viên.

Sau khi ĐTC xông hương bàn thờ và an tọa, ĐHY James Michael Harvey người Mỹ, tân giám quản Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, đã đại diện các Hồng y mới cám ơn ĐTC đã bổ nhiệm các vị làm Hồng y. Ngài cũng đặc biệt cám ơn Ngài vì các hoạt động giáo huấn, từ những nghiên cứu thần học trước đây cho đến các huấn dụ gần đây. ĐHY Harvey kết luận với quyết tâm cùng với ĐGH tham gia vào công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng: ”Khi đón nhận từ tay ĐTC vinh dự của tước vị Hồng Y, chúng con quyết tâm trở thành những người kiên trì thực hiện công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng trong tinh thần trách nhiệm, với sự nâng đỡ của ơn thánh Chúa”.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng sau bài Tin Mừng, ĐTC nói:

”Lễ trọng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ kết thúc năm phụng vụ được phong phú thêm qua sự đón nhận vào Hồng y đoàn 6 thành viên mới. Theo truyền thống, tôi đã mời các vị đồng tế thánh lễ với tôi sáng hôm nay. Tôi xin gửi đến mỗi vị lời chào thân ái nhất và cám ơn ĐHY James Michael Harvey vì những lời chào mừng nhân danh tất cả.
Tiếp đến, ĐTC đã dựa vào các bài đọc của ngày lễ để giải thích ý nghĩa vương quyền của Chúa Kitô. Ngài nói: ”Khi trả lời câu chất vấn của quan Philatô ”Ông có phải là vua người Do thái không?” (Ga 18,33), Chúa Giêsu minh định bản chất Vương quốc và chính sứ mạng cứu thế của Người, không phải là quyền lực trần thế, nhưng là tình yêu thương phục vụ. Chúa khẳng định rằng không được lẫn lộn nước của Ngừơi với bất kỳ vương quốc chính trị nào. ”Nước của tôi không thuộc về thế gian này.. không thuộc trần thế” (v.36).

ĐTC nói: ”Rõ ràng là Chúa Giêsu không có một tham vọng chính trị nào. Sau khi Chúa hóa bánh ra nhiều, dân chúng phấn khởi vì phép lạ, muốn tôn Người làm vua, để lật độ quyền lực của người La Mã và thiết lập một vương quốc chính trị mới, sẽ được coi như Nước Thiên Chúa hằng được mong chờ. Nhưng Chúa Giêsu biết rằng Nước Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn, không dựa trên võ khí và bạo lực. Và chính việc hóa bánh ra nhiều, một đàng trở thành dấu chỉ sứ mạng cứu thế của Ngừơi, nhưng đàng khác là một lằn ranh trong hoạt động của Người: từ lúc đó, hành trình hướng về Thập Giá ngày càng trở nên rõ ràng hơn; tại đó trong cử chỉ yêu thương tột cùng, Nước Thiên Chúa, nước hứa, sẽ chiếu sáng rạng ngời. Nhưng đám đông dân chúng không hiểu, họ thất vọng, và Chúa Giêsu rút lên núi một mình để cầu nguyện (Xc Ga 6,1-15). Trong trình thuật về cuộc khổ nạn, chúng ta cũng thấy các môn đệ, tuy cùng chia sẻ cuộc sống với Chúa Giêsu và lắng nghe lời Người, nhưng họ nghĩ đến một vương quốc chính trị, được thiết lập nhờ võ lực. Trong vườn Giệtsimani, Phêrô đã rút gươm khỏi vỏ và bắt đầu chiến đấu, nhưng Chúa Giêsu đã chặn ông lại (Xc Ga 18,10-11). Người không muốn được bảo vệ bằng võ khí, nhưng muốn chu toàn thánh ý Chúa Cha cho đến cùng và thiết lập vương quốc của Người, không phải bằng võ khí và bạo lực, nhưng bằng vẻ yếu đuối của tình thương trao ban sự sống. Nước Thiên Chúa là nước hoàn toàn khác với các nước trần thế.

“Chính vì thế, đứng trước một người không phương thế tự vệ, yếu ớt, bị hạ nhục, như Chúa Giêsu, một người quyền lực như quan Philatô cũng ngạc nhiên; ngạc nhiên vì ông nghe nói về một nước, về những người phục vụ. Và ông đặt câu hỏi mà ông thấy có vẻ là nghịch lý: ”Vậy ông là vua sao?” Một người ở trong hoàn cảnh như thế là vua thuộc loại nào? Nhưng Chúa Giêsu trả lời khẳng định: ”Quan nói đúng: tôi là vua. Vì thế, tôi đã sinh ra và đến trần thế; để làm chứng cho sự thật. Ai bởi sự thật thì nghe tiếng tôi” (18,37). Chúa Giêsu nói về vua, về vương quốc, nhưng Người không nói đến sự thống trị, nhưng là sự thật. Quan Philatô không hiểu: có thể có quyền lực lực nào mà không đạt được với những phương thế của con người? một quyền lực không theo tiêu chuẩn thống trị và sức mạnh? Chúa Giêsu đã đến để mạc khải và mang đến một vương quyền mới, vương quyền của Thiên Chúa; Người đến để làm chứng về sự thật của một vị Thiên Chúa là tình thương (Xc 1 Ga 4,8.16) và Người muốn thiết lập một nước công chính, tình thương và an bình (Xc Kinh Tiền Tụng). Ai cởi mở đối với tình thương, thì lắng nghe chứng từ ấy và đón nhận trong niềm tin, để vào Nước Thiên Chúa”.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nhắc đến thị kiến của Ngôn Sứ Daniel nói về một nhân vật huyền bí giữa trời và đất, ngự đến trong đám mây và được trao ban quyền bính, vinh quang và vương quốc (7,13-14). ”Đó là những lời nói về một vị vua thống trị từ biển này tới biển khác, cho đến tận bờ cõi trái đất với một quyền bính tuyệt đối, không bao giờ bị hủy diệt. Thị kiến này của Ngôn Sứ, thị kiến cứu thế, sáng tỏ và được thể hiện trong Chúa Kitô: Quyền bính của Đức Messia chân chính, quyền bính không bao giờ tàn lụi và không bao giờ bị hủy diệt, không phải quyền bính của các vương quốc trần thế phát sinh rồi suy sụp, nhưng là vương quốc sự thật và tình thương.

Sau cùng, trong bài đọc thứ hai, tác giả sách Khải quyền quả quyết cả chúng ta cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Kitô.. Nhờ sự hy sinh của Người, Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi vào một quan hệ sâu xa với Thiên Chúa: trong Người, chúng ta trở thành dưỡng tử đích thực, như thế, chúng ta được tham dự vào vương quyền của Chúa trên thế giới. Vì vậy, là môn đệ của Chúa Giêsu có nghĩa là không để cho mình bị thu hút vì các tiêu chuẩn trần thế về quyền lực, nhưng vào thế giới ánh sáng của sự thật và tình thương của Thiên Chúa.
ĐTC nói tiếp:

”Tác giả sách Khải Huyền mở rộng cái nhìn về sự tái lâm của Chúa Giêsu để xét sử và thiết lập vĩnh viễn Nước Chúa, và nhắc nhở chúng ta rằng sự hoán cải, như lời đáp lại ơn thánh của Chúa, chính là điều kiện để thiết lập Nước Chúa (Xc 1,7). Đó là một lời mời gọi mạnh mẽ gửi đến tất cả và từng người: luôn trở về cùng Nước Thiên Chúa, chủ quyền của Thiên Chúa, Sự Thật, trong đời sống chúng ta. Chúng ta khẩn cầu hằng ngày trong kinh Lạy Chúa với câu ”Nước Cha trị đến”, có nghĩa là thưa với Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin làm cho chúng con thuộc về Chúa, xin Chúa sống trong chúng con, xin Chúa tập hợp nhân loại đang bị phân tán và đau khổ để trong Chúa tất cả đều được tùng phục Chúa Cha của lòng từ bi và tình thương.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Hỡi các anh em hồng y quí mến, tôi đặc biệt nghĩ đến các tân hồng y mới được tấn phong hôm qua, anh em được ủy thác trách vụ cam go này, đó là làm chứng về Nước Thiên Chúa, làm chứng cho sự thật. Điều này có nghĩa là luôn dành ưu tiên cho Thiên Chúa và thánh ý Chúa trước những lợi lộc trần thế và quyền lực của nó. Anh em hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã biểu lộ vinh quang của Người trước quan Philato, trong tình trạng tủi nhục như Phúc âm mô tả: Chúa đã biểu lộ vinh quang của Người là yêu thương đến tột cùng, hiến mạng sống cho những người mình yêu. Đó là mạc khải về Nước Chúa Giêsu. Và vì thế, chúng ta hãy đồng tâm hiệp ý cầu nguyện: ”Adveniat regnum tuum”, xin cho Nước Chúa được hiển trị. Amen

Trong phần rước lễ, 120 linh mục phân phát Mình Thánh Chúa các tín hữu, và chính ĐTC cũng cho hàng chục người được rước Mình Thánh Chúa.

Thánh lễ kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ và kết thúc lúc 11 giờ rưỡi. Sau đó, đúng 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để đọc kinh truyền tin với lối 30 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu.

Kinh Truyền tin

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC cũng giải thích về ý nghĩa lễ Chúa Kitô Vua và khẳng định rằng ”Nước Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội là mầm mống và khởi đầu của nước này. Giáo Hội có nghĩa vụ loan báo và phổ biến Nước Chúa Kitô nơi mọi dân nước, với sức mạnh của Thánh Linh. Vào cuối thời gian đã định, Chúa sẽ giao nộp cho Chúa Cha Nước Chúa và giới thiệu với Ngài tất cả những ai đã sống theo giới luật tình thương.
Các bạn thân mến, tất cả chúng ta được mời gọi nối tiếp hoạt động cứu độ của Thiên Chúa qua sự trở về cùng Tin Mừng, quyết liệt theo vị Vua không đến để được hầu hạ nhưng để phục vụ và làm chứng cho sự thật (Xc Mc 10,45; Ga 18,37). Trong viễn tượng này tôi mời gọi mọi tín hữu hãy cầu nguyện cho 6 Hồng y mới mà tôi đã bổ nhiệm hôm qua, xin Chúa Thánh Linh củng cố các vị trong đức tin và đức mến, ban cho họ được tràn đầy hồng ân Chúa, để họ sống trách nhiệm mới như một sự tận tụy hơn nữa đối với Chúa Kitô và Nước Chúa…”

”Chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria giúp tất cả chúng ta sống thời gian hiện tại trong niềm mong chờ Chúa tái lâm, tha thiết cầu xin Chúa: ”Xin cho Nước Chúa được hiển trị”, và chu toàn những công việc ánh sáng làm cho chúng ta ngày càng gần Trời Cao hơn, với ý thức rằng trong những thăng trầm trao đảo của lịch sử, Thiên Chúa tiếp tục xây dựng Nước Tình Thương của Người.

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc đến lễ phong chân phước thứ bẩy 24 tháng 11-2012. Ngài nói:
”Hôm qua, tại Macas, bên Ecuador, đã có lễ phong chân phước cho chị Maria Troncatti, nữ tu dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, sinh tại Val Camonica. Chị làm y tá trong thời thế chiến thứ I, rồi đi Ecuador, tại đây chị hoàn toàn xả thân phục vụ dân chúng trong vùng rừng núi, rao giảng Tin Mừng và thăng tiến con người. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì chứng nhân quảng đại này của Ngài!”

Ngài cũng loan báo: chiều thứ bẩy, 1 tháng 12 tới đây, các sinh viên đại học Roma sẽ hành hương tại Mộ Thánh Phêrô nhân dịp Năm Đức Tin. Tôi sẽ chủ sự Kinh Chiều I Chúa nhật thứ I Mùa Vọng cho họ”.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 11-19 đến 11-25-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 11-19 đến 11-25-2012

Trích từ Xuân Bích VN

 

Tân Sứ Thần Toà Thánh được thán phục ở Ái Nhĩ Lan.

Nhà lãnh đạo Bờ Biển Ngà viếng thăm Đức Thánh Cha.

Tổng thống nước Benin thăm viếng Đức Thánh Cha.

Tổng thống Haiti viếng thăm Vatican.

Sự chấp thuận an-tử đã làm tăng sự nghi ngờ bất tín của các bệnh nhân với nghề y.

-Tổng GP Boston tái cơ cấu các giáo xứ trong lẩn cắt xén thứ hai.

Các tập sự viên mục vụ tang chế thổ lộ những kinh nghiệm đầu tiên của họ.

Khánh thành trung tâm phục hồi vận động thần kinh cho các trẻ khuyết tật.

-Đông đúc dân Pháp xuống đường phản đối dự luật hôn nhân đồng tính.

Tuyên bố chung Công Giáo – Chính Thống giáo về tầm quan trọng ngày Chúa Nhật.

LM bị vạ tuyệt thông Roy Bourgeois chính thức bị khai trừ khỏi Dòng Marynoll.

-Gia đình là chủng viện đầu tiên.

BỔ NHIỆM MỚI.

-Thông báo nội bộ Vatican nhắm đẩy mạnh căn tính linh mục.

Toà phúc thẩm Pakistan huỷ bỏ vụ kiện báng bổ với Rhimsha Masih.

Tín đồ Anh giáo khủng hoảng sau cú ‘sốc” bỏ phiếu “chống” các Nữ GM.

Tân chủ tịch [phong trào] Diễu Hành Vì Sự Sống dự tính gia tăng kêu gọi giới trẻ.

Với các GM Bắc Phi, “vùng nầy đang vượt qua chuyển tiếp phức tạp và đau đớn”.

Ả Rập Xê-ut : Thiết lập một hệ thống điện tử để giám sát nữ giới.

 ( Xin xem chi tiết . . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ 11-19 đến 11-25-2012 )

VỊ VUA CHẤP NHẬN CHẾT, ĐỂ CON DÂN ĐƯỢC SỐNG

VỊ VUA CHẤP NHẬN CHẾT, ĐỂ CON DÂN ĐƯỢC SỐNG

Nói đến Vua, người ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến sự thống trị. Có những người được tôn lên làm vua  theo kiểu cha truyền con nối “Con vua lại được làm vua”. Cũng có người do công trạng, được dân tín nhiệm. Lại cũng có người tự xưng mình là vua.  Nhưng trong lịch sử, cũng không thiếu những kẻ cướp ngôi vua dành quyền cai trị đất nước bằng cách bất chính hoặc bằng muôn hình vạn trạng quỷ kế trên trường chính trị. Có thể có những điểm khác biệt về cách làm vua, cách cai trị dân nước… nhưng có một điểm chung là không có triều đại nào, chế độ nào “muôn năm” cả.

Thử nhìn lại lịch sử thế giới, có thể thấy, ở nước nào cũng thế, hết triều đại này đến triều đại khác, hết chế độ nầy, đến chế độ khác, không có triều đại nào, không có chế độ nào bền vững- vì triều đại nào, chế độ nào, cũng đầy dẫy những bất toàn ngay ở giai đoạn đầu và có khi thối nát ở giai đoạn cuối. Ai cũng muốn cho triều đại, cho chế độ của mình “muôn năm”, nhưng đó chỉ là một ảo vọng! Hai từ muôn năm bỗng đồng nghĩa với vài chục năm trong khi cơn khát khao, nỗi thèm thuồng quyền lực vẫn còn cháy rực trong lòng. Vì thế, triều đại nào, chế độ nào cũng muốn củng cố quyền lực của mình bằng đủ mọi cách có thể, kể cả những cách vô luân thường, vô đạo lý, vô kỷ luật… không sợ mất lòng dân, chỉ sợ mất quyền cai trị, không sợ dân chết, chỉ sợ mình chết. Và khi đã đến lúc ngọn đèn sắp tắt, thì không ngại gì mà nó không phực lên để chứng tỏ cái sinh khí cuối cùng trong thân thể rệu rã của nó.

Khác với những vị vua ở trần thế, hôm nay, chúng ta Suy Tôn Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, “Người là vua trên hết các Vua, Người là Chúa trên hết các Chúa”, vì người thống trị cả vũ hoàn không phải chỉ dựa vào quyền lực toàn năng của Thiên Chúa Tạo Thành, nhưng còn nhờ Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa Cứu Chuộc.

Ngài vâng lời Thiên Chúa Cha để đến trần gian cho trần gian được yêu thương, được cứu rỗi, được giải thoát khỏi sự chết muôn đời, được đoàn tụ trong vương quốc của Ngài đến muôn đời. Ngài được suy tôn là Vua, Ngài làm Vua, không giống cách làm vua của những vua chúa, hay những nhà cầm quyền thế gian, nhưng cách làm Vua của Ngài là “vâng lời cho đến chết” như Thánh Phaolô xác quyết:  “Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên Thập Giá. Vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên muôn danh hiệu” (Phil 2, 8-9).

Câu chuyện Tin Mừng thánh Gioan hôm nay kể việc Chúa Giêsu có trát của Philato đòi. Chắc chắn có quân lính áp giải, có dùi cui, có súng ống gậy gộc, nhưng không thấy thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu bị bịt miệng, nên Ngài đã đứng trước vành móng ngựa và khẳng khái xác nhận: “Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)

Vâng, đó là thân phận và trách nhiệm của  Con Một Thiên Chúa đầy quyền năng và đầy lòng thương xót đến để  khởi đầu một Triều Đại của Thiên Chúa giữa dân Ngài, triều đại của Chân Lý: Có Thiên Chúa uy quyền và đầy lòng xót thương.  Con Thiên Chúa không đàn áp, bóc lộc dân Ngài, nhưng Ngài để dân đàn áp bóc lộc Ngài như cối chày giã nát những hạt thóc, rồi xay nghiền hạt gạo thành bột thành bánh thơm ngon. Ngài cũng không lừa đảo, cũng không quy hoạch chiếm đoạt đất đai tài sản, nhưng Ngài để dân Ngài chiếm đoạt Ngài làm gia sản muôn đời. Ngài nhường  lầu vàng gác tía, biệt thự nguy nga có then cài cổng khóa cho dân Ngài, còn  Ngài “không có nơi gối đầu qua đêm” (Lc 9,58). Ngài không bắt bớ bỏ tù dân Ngài, nhưng ngài chịu bắt bớ, chịu bỏ tù cho dân Ngài được  tự do! Và cuối cùng, Ngài không muốn cho dân Ngài phải chết để Ngài được sống, nhưng Ngài đã chết cho dân Ngài được sống, và sống muôn đời. Ngài là vị vua yêu thương và phục vụ dân đến cùng. Ngài chết cho con dân của Ngài được sống.

Đã có biết bao thể chế cũng biết tận dụng đường lối yêu thương và phục vụ “chết cho dân được sống” của Chúa Giêsu vào đường lối cai trị của mình, bằng khẩu hiệu “đầy tớ của nhân dân”, nhưng đó là khẩu hiệu mỵ dân, vì họ nói mà không làm. Họ không sống trong tinh thần sự thật. Họ còn giả vờ không biết sự thật, vì sự thật không đem lại lợi ích phàm tục nào cho họ. Câu hỏi  “sự thật là chi?” (Ga 18,38) , chẳng khác nghĩa với câu “sự thật có ích gì?”, “Thiên Chúa có ích gì?”.

Thiết tưởng, các Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là những người đang sống trong GH tại địa phương, họ là những người được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, như dân riêng của Chúa giữa lòng Châu Á, được sống trong một đất nước gần như là luôn luôn phải tử đạo, từ khi hạt giống đức tin được gieo trồng cho đến nay. Họ đã đọc những trang sử oai hùng của Giáo Hội thời các vua chúa quan quyền bức bách đạo, và họ cũng  đang nghe tận tai những khẩu hiệu gian dối, phĩnh lừa, họ chứng kiến tận mắt thời đại của những người vô thần cai trị đất nước. Họ có đủ chứng từ đối chiếu cách làm vua và cách cai trị của Vua thế gian và Vua Giêsu Kitô để xác nhận được Vua nào là Vua Muôn Đời, chế độ nào là muôn năm. Vì thế, không có một thế lực nào có thể lay chuyển niềm tin của họ, nếu  không phải là một thế lực “sống, học tập và làm việc theo gương Đức Giêsu Kitô, Vua vĩ đại”.

“Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)

Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội ngàn vàng để Dân Chúa, một lần nữa, sẽ khẳng định Vua Đích Thực, Vua Muôn Đời của chúng ta là ai. Chắc chắn và mãi mãi là Vua Giêsu Kitô, Người đã đến “là để làm chứng cho sự thật”. “Sự Thật” vô cùng cao quí ấy là sự thật “có Thiên Chúa”.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tấm gương anh dũng soi chiếu cho dân Chúa tại Việt Nam về việc làm chứng cho sự thật. Vì nếu không tin nhận Thiên Chúa, không tin nhận Đức Giêsu là Vua Muôn Đời trong Nước Vinh Quang muôn đời của Ngài, thì đã chẳng có ai dám liều mình hy sinh mạng sống cách oan uổng.  Hơn nữa, tình yêu Chúa Kitô thúc bách các Ngài cùng Chúa Kitô  nói với những người không tin Thiên Chúa rằng “nước tôi không thuộc về thế gian này”.

Mừng lễ Chúa Kitô Vua, noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam Tôn Vinh Chúa Giêsu là Vua,  mọi thành phần trong giáo hội sẽ làm chứng cho sự thật:

– dứt khoát nói không với cơn cám dỗ đàn áp bóc lộc lẫn nhau, nhưng bảo bọc che chở cho nhau trong tình huynh đệ, trong chân lý;

– dứt khoát nói không với chia rẽ, tỵ hiềm, bôi nhọ để yêu thương, chân thành, hiệp nhất;

– dứt khoát nói nói không với đồng lõa, nói không với thỏa hiệp cùng gian tà để quyết tâm sống ngay chính theo đường sự thật của Chúa Giêsu;

– dứt khoát nói không với tất cả những gì chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý, sự thật, để quyết tâm sống đời sống của Thiên Chúa giữa một xã hội “không tin có Thiên Chúa” hay là chưa muốn tin một Đấng Thiêng Liêng hằng có đời đời.

Một vài nơi vẫn có lệ mời các cấp chính quyền tham dự lễ Đặt Viên Đá, lễ Giáng Sinh, lễ mở tay…. Ước gì họ được mời tham dự một thánh lễ Mừng Trọng Thể Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, để họ được biết cách làm vua, cách cai trị của một Vị Vua trên hết các Vua, một vị Vua Muôn Đời:  “Vị vua chấp nhận chết để con dân được sống”.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, Vua của lòng con, Chúa đã chấp nhận cái chết để con dân được sống. Chúng con suy tôn Chúa là Vua Muôn đời. Xin cho chúng con cũng biết chấp nhận  hy sinh mỗi ngày để làm chứng cho Nước Thiên Chúa giữa trần gian, và nhất là trên quê hương thân yêu của chúng con. A men.

PM. Cao Huy Hoàng

LỄ CHÚA KITÔ VUA

LỄ CHÚA KITÔ VUA

Vào mỗi buổi sáng sau khi cải trang thành người dân bình dị, đức vua âm thầm rời cung điện vi hành đến với người hành khất đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Trước lạ, sau quen, để rồi họ cùng tâm sự, cùng chia sẻ với nhau những vui, buồn và cả những gì mà những khách qua đường dừng chân bố thí. Ngày qua ngày đức vua và người hành khất trở thành người bạn tâm giao khi đức vua nói với người hành khất:

– Anh là người bạn tốt nhất trong những người bạn mà tôi từng gặp gỡ.

Người hành khất mỉm cười. Ông đâu biết người thường xuyên đến tâm sự với ông là đức vua, người đang cai quản vương quốc mà ông là thần dân. 

Như mọi ngày, người hành khất trông chờ người bạn. Đức vua đã đến, nhưng hôm nay trông ông hơi khác hơn, lạ hơn từ cử điệu cho đến giọng nói. Sau những lời chào hỏi, đức vua ôn tồn nói:

– Này anh bạn! Tôi nói điều này chắc anh sẽ ngạc nhiên, nhưng không sao, mãi mãi anh vẫn là người bạn thân nhất và tốt nhất của tôi.

Người hành khất sững sờ khi biết được người vẫn thường xuyên tâm sự với mình là đức vua, không những thế đức vua còn hứa rằng: nếu ông muốn gì đức vua cũng ban tặng. Sau giây phút nửa mừng, nửa lo, người hành khất cất tiếng:

– Thưa đức vua! Đối với hạ thần, không món quà nào lớn hơn món quà mà đức vua ban cho thần, đó là được làm bạn với đức vua.

Nghe người hành khất nói như thế đức vua rất cảm kích và ban tặng cho ông nhiều bổng lộc giúp ông thoát cảnh màn trời, chiếu đất.

Vâng! Một chút gì đó làm ta cảm kích cách sống, hành xử của đức vua lẫn người hành khất trong câu chuyện trên, vì để trở thành bạn với nhau, họ tạm quên danh phận, quên đi tất cả những cung vàng điện ngọc, quên đi những nhọc nhằn, tủi hổ của kiếp ăn mày. Để rồi ngày qua ngày họ cùng nhau giãi bày, tâm sự và lắng nghe nhau, chia sớt cho nhau những gì họ có….

Hôm nay, bước vào những tuần đầu của năm thánh Đức Tin, tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ 2012. Giáo Hội mời gọi ta chiêm ngắm, suy tôn một Đức Vua. Ngài là Đấng đã tác dựng nên vũ trụ, vạn vật, tác dựng nên con người nhân loại, trong đó có cả đức vua và người hành khất trong câu chuyện trên. Đức Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, Vua Tình Yêu.

Cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa Kitô Vua, ta cảm thấy phấn khích, hân hoan khi ca đoàn nơi các thánh đường cất lên giai điệu trầm bổng qua những nhạc phẩm: Ôi Giêsu (Huyền – Linh), lạy Chúa là Vua (Duy Thiên), Giêsu Vua Tình Yêu (Dominic)..Ta phấn khích, ta hân hoan đó, thế nhưng, có bao giờ ta dừng lại trong cõi lặng để suy tư, chiêm ngắm dung mạo thực của Vua Giêsu Kitô, Đấng vì một chữ yêu đã từ bỏ trời cao, bước xuống cõi phàm trần như lời quả quyết của thánh Phaolô: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl.2, 6-7).

Vâng! Đức Giêsu Kitô, Ngài là một vị Vua vô tiền khoáng hậu, một vị Vua không giống những vị vua trần thế như Ngài đã minh định: “Tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này…” (Ga18, 33-38). Chính vì nước của Vua Giêsu Kitô không theo cách nghĩ của thế gian và không thuộc về thế gian mà Ngài đã sinh ra nơi hang đá tanh hôi giữa cái lạnh, cái thiếu thốn cơ cực; giữa những ganh ghét của người đời qua hình ảnh của Hêrôđê bạo chúa khi ông ta tìm cách sát hại Ngài sau khi được ba nhà Đạo Sỹ cho biết qua câu hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông…” (Mt.2, 1-18). Vì nước của Vua Giêsu Kitô không theo và không thuộc về thế gian, nên ngai vàng của Ngài là Thập giá, vương niệm của Ngài là mũ gai, Ngài đăng quang vào buổi chiều ngày thứ sáu trên đỉnh đồi Canvê. Quả là ngược đời!?

Điều ngược đời và khó hiểu nhất của Vua Giêsu Kitô, đó là Ngài cai quản, chăm sóc và gìn giữ thần dân của mình không bằng binh hùng, tướng mạnh, không bằng những đạo luật khắt khe, nhưng bằng một Trái Tim Nhân Ái, bằng sự hiến thân, phục vụ và cho đi. Hiến pháp và luật pháp của Ngài là “Mười Điều Răn” và “Tám Mối Phúc” đời đời không thay đổi, cả hai được gói gọn trong một từ “Yêu”. Thần dân của Vua Giêsu Kitô bao gồm tất cả con người nhân loại, không phân biệt tuổi tác, giới tính, ngôn ngữ, màu da, chủng tộc. Vương Quốc của Ngài không biên giới. Tình Yêu của Vua Giêsu Kitô dành cho thần dân qua việc Ngài hiến giá máu của Ngài để nên của lễ đền tội, Ngài hiến chính thịt máu của Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác, không chỉ một ngày, nhưng mọi ngày và mọi thời.

Quả thật! Trên thế gian này không ngôn ngữ, không ý thơ hay dòng nhạc nào có thể diễn tả một cách trọn vẹn hình ảnh và tình yêu của Đức Vua Giêsu Kitô. Hình ảnh và tình yêu của Đức Vua Giê su Ki tô là một mầu nhiệm, đã là mầu nhiệm thì ta không thể cảm và hiểu thấu bằng trí óc thấp hèn, ta chỉ có thể cảm và hiểu được dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần nơi Kinh Thánh và qua lăng kính Đức Tin. Đây là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho ta ngang qua Đức Vua Giêsu Kitô.

Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi và cho ta trở thành thần dân của Vua Giêsu Kitô, ta cảm tạ Thiên Chúa đã tuôn đổ muôn phúc lành xuống trên ta và gia đình, cộng đoàn và Giáo Hội trong suốt một năm phụng vụ; ta xin lỗi Chúa vì những thiếu xót trong bổn phận của một con dân trong Vương Quốc của Ngài; kế đến ta được mời gọi qua Giáo Hội nhìn lại cung cách tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình vào Đức Vua Giêsu Kitô, đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin.

Trên bước đường lữ hành trần thế, còn đó những ông vua thế gian: “Danh-Lợi-Thú…” luôn mời gọi, lôi kéo ta trở thành thần dân, trở thành nô lệ cho chúng bằng những lời hoa mỹ, ngọt ngào, nếu ta không tỉnh thức nhờ ơn Chúa, ta dễ dàng quên mình đã là thần dân của Vua Giêsu mà cất bước đi theo, để rồi sau khi cất bước đi theo, ta sa chân vào cõi chết. Giữa xã hội ngày hôm nay, còn đó những ông vua qua nhiều danh xưng: Tổng Thống, Chủ Tịch… “Coi Trời bằng vung”, cách hành xử và cai quản thần dân của những ông vua này theo chủ nghĩa “Sống chết mặc bay, tiền thầy đút túi”…!

Để giúp ta không sa chân vào cạm bẫy, ngã quỵ trước những lời mời gọi ngọt ngào của những ông vua “Danh-Lợi-Thú”, để có những ông vua cai quản và chăm sóc thần dân của mình theo gương Đức Vua Giêsu, trước tiên ta phải cầu nguyện cùng Đức Vua Giêsu, nhờ ơn của Ngài giúp, ta dần trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh của Đức Vua Giêsu qua cách sống đạo đức, thánh thiện, bác ái và vị tha….Qua cách sống như lòng Chúa ước mong mà nhiều người, nhất là những người chưa tin, đón nhận Đức Vua Giê su là Vua, là Cứu Chúa của mình.

 Lạy Đức Giêsu là Vua cua lòng con! Con xin chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa đã đón nhận con vào Vương Quốc của Chúa, xin uốn nắn lòng con để con thực sự trở thành thần dân của Chúa như lòng Chúa ước mong. Amen.

Antôn Lương Văn Liêm

ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CHÂN LÝ

 ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CHÂN LÝ

Hình như đang có báo động đỏ về một trần gian đang suy thoái vì sự giả trá lan tràn. Sự giả trá từ  trong tâm hồn mỗi người, trong gia đình, rồi lan ra đến cộng đồng, kể cả cộng đoàn Công Giáo.

Ảnh hưởng của tội nguyên tổ sao mà dai dẳng thế?!? Có phải vì con người đầu tiên đã chui vào bụi rậm trốn ánh nhìn của Thiên Chúa mà bây giờ tâm hồn con cháu loài người vẫn cứ thích hướng lòng về những ém nhẹm, những giấu kín, những che đậy, ẩn nấp đâu đó từ tư tưởng đến hành động. Cả tôi, cả bạn, nếu lắng lòng sâu thẳm và thành tâm xét mình, có lẽ một ngày đời của chúng mình không biết bao nhiêu lần gian dối, bao nhiêu ý định không ngay thẳng, bao nhiêu lời nói việc làm gian tà… Cứ tưởng như là không ai có thể biết được điều ta đã giấu kín.

Biết đâu là chân lý? Con cái đã không nhìn thấy cách sống chân thành nơi cha mẹ của chúng, lại còn chứng kiến hằng ngày những gian dối trong nhà.  Ánh mắt nhìn của cha chưa hẳn là ánh mắt của thủy chung, bao dung, quảng đại. Nụ cười dịu dàng của mẹ ngày nay chưa hẳn là nụ cười của tình yêu trung tín, của hiến dâng trọn vẹn, của hy sinh ví tựa biển thái bình.

Biết đâu là chân lý? Con dân trong một  đất nước cũng chẳng biết đâu là chân lý  khi cả một khối lãnh đạo đất nước nói một đường làm một nẻo, hoặc mỗi ngày lại có thêm một bại lộ về những gian tà tham nhũng, phanh phui dần những trò nham hiểm thanh trừng lẫn nhau trên sân khấu chính trị…

Biết đâu là chân lý? Ở đâu cũng thấy bóng dáng của sự gian dối. Ở đâu người ta cũng không sống chân thành với nhau. Và khi không sống chân thành với nhau bằng tình thương của con người, thì ở đó, không có bóng dáng của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chính khi sống gian tà là lúc chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Với các Kitô hữu cũng vậy, tuyên xưng “Tôi tin vào Thiên Chúa” mà vẫn cứ ẩn mình trong sự gian dối, thì lời tuyên xưng kia lại chính là sự nói dối lộ liễu của một con người quá thấp hèn trước Thiên Chúa uy quyền, cao cả, mà  không hề sợ hãi phép công thẳng của Ngài.

Đức Giêsu Kitô đã đến và mạc khải cho trần gian biết những sự thật quan trọng: Có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa ban Sự Sống vĩnh cửu cho con người.

Đức Giêsu Kitô đã làm chứng về những điều đã mạc khải bằng chính cuộc sống của Ngài: rao giảng Nước Thiên Chúa, loan truyền sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và mời gọi mọi người biết yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu, như Con Thiên Chúa đã yêu: hiến mạng sống mình vì người mình yêu, để người mình yêu được sống và sống dồi dào ở đời này, phục sinh ở đời sau.

Trong khi nhân loại cứ vật vờ  trong cách sống gian dối mà Satan dạy dỗ, hướng dẫn cho cách lẩn tránh Thiên Chúa, thì chính Đức Giêsu Kitô đã khai mở một con đường mới cho nhân loại: sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính ấy bắt nguồn từ việc: Tin vào Đức Giêsu Kitô và sống theo Lời Ngài. Câu hỏi “Biết đâu là chân lý?” đã được giải đáp thỏa đáng ngay tại tòa tổng trấn Philatô: “Ai thuộc về Chân Lý thì nghe tiếng Tôi”.

“Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” hay nói cách khác, những người chọn Chúa Kitô làm thần tượng cho mình, chọn Lời Chúa Kitô làm kim chỉ nam cho đời mình, những người chấp nhận thuộc về Chúa Kitô, là những người đã biết được đâu là chân lý, sống trong chân lý, và làm chứng cho chân lý.

Trong cùng một Đức Giêsu Kitô, họ trở nên con dân trong Nước Thiên Chúa mà  chính Người làm Vua của họ. Một đất nước của Chân Lý, quyền bính là Tình Thương, không thuộc về thế gian này:  

"Quan nói đúng. Tôi là  Vua !”

"Nước tôi không thuộc về  thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế  gian này, thì những người của tôi đã chiến  đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà Nước tôi không thuộc chốn này".

Sống trong Sự Thật là sống Niềm Tin có Thiên Chúa, và sống chân thành yêu thương trước mặt Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta được  “Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là  trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương ban ơn bình an và ân sủng” khi Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người”.

Giáo Hội kết thúc Năm Phụng Vụ  với Lễ suy tôn Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua vũ  trụ, Vua muôn loài, và là Vua của những kẻ đã Tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài dạy. Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi chúng ta về việc mỗi tín hữu phải kết thúc hành trình đời người và hành trình Đức Tin trong Chúa Giêsu Kitô để xứng đáng hưởng phần gia nghiệp muôn đời mà Thiên Chúa đã sắm sẵn nhờ máu cứu độ của Con Ngài: Nước Thiên Chúa.

Khi kết thúc hành trình đời người, dẫu chỉ còn hai nắm tay không trước mặt Thiên Chúa, con người vẫn là một thụ tạo xinh đẹp, nếu thụ tạo ấy sống và làm chứng cho sự thật là Thiên Chúa và Tình Yêu. Và ngược lại, con người có xiêm y lụa là xinh đẹp trước mặt trần gian mà sống trong sự gian dối, bất tín thì đáng tiếc thay, họ không được niềm vui vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Vua.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa Giêsu, biết sống tin yêu chân thành như Chúa Giêsu, để chúng con xứng đáng được kết thúc hành trình đời người trong Nước Thiên Chúa, dưới vương quyền Vua Giêsu Kitô mà suốt đời con đã kính tin, tôn thờ, yêu mến.

PM. Cao Huy Hoàng

Đức Thánh Cha chủ sự công nghị tấn phong 6 Hồng Y mới

Đức Thánh Cha chủ sự công nghị tấn phong 6 Hồng Y mới

VATICAN. Sáng thứ bẩy, 24 tháng 11-2012, 6 Hồng y mới thuộc 6 quốc gia đã được ĐTC Biển Đức 16 tấn phong trong công nghị tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Đây là lần thứ hai trong năm nay, ĐTC bổ nhiệm các Hồng Y mới. Lần đầu vào ngày 18 tháng 2, ngài tấn phong 22 hồng y mới trong đó có 10 vị thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Trong lần bổ nhiệm này, lần đầu tiên không có vị Hồng y nào người Ý và Âu Châu. Các vị người Mỹ, Ấn độ, Philippines, Nigeria, Liban và Colombia. ĐTC đã giải thích ly nghĩa công nghị này hôm 27 tháng 10-2012, trong phiên họp cuối cùng của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13. ĐTC nói sở dĩ ngài tuyên bố triệu tập Công nghị vào ngày 24 tháng 11 năm nay để bổ nhiệm thêm 6 Hồng y mới ”là để bổ túc cho công nghị ngày 18-2 năm nay, trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng, với một cử chỉ nói lên tính chất hoàn vũ của Giáo Hội, chứng tỏ rằng Giáo Hội là Giáo Hội của mọi dân tộc, nói mọi ngôn ngữ, và luôn luôn là Giáo Hội của Lễ Hiện Xuống; không phải Giáo Hội của một đại lục, nhưng là Giáo Hội hoàn vũ.”

Trong số 9 ngàn người hiện diện trong buổi lễ tấn phong có hơn 80 Hồng y, 60 Giám Mục và đông đảo thân nhân và tín hữu của các vị tiến chức.

Có 4 phái đoàn chính thức về dự lễ: phái đoàn Liban do vị Tổng thống là Tướng Michel Sleiman, hướng dẫn, cùng với phu nhân, đoàn tùy tùng và 500 người từ Liban đến dự lễ. Phái đoàn Philippines do Phó Tổng Thống Jejomar Binay và đoàn tùy tùng hướng dẫn, không kể hàng ngàn tín hữu Philippines trong và ngoài nước. Phái đoàn Ấn độ do giáo sư Kurien, Chủ tịch Quốc hội và đoàn tùy tùng. Phái đoàn Nigeria do Thượng nghị sĩ David Mark và đoàn tùy tùng hướng dẫn.

Huấn dụ
Trong bài huấn dụ sau bài Tin Mừng, ĐTC đã đặc biệt giải thích về đặc tính Công Giáo của Giáo Hội và sứ mạng của Hội Thánh. Giáo Hội là Công Giáo vì trong sứ mạng cứu độ, Chúa Kitô ôm trọn cả nhân loại. Tuy sứ mạng của Chúa Giêsu, trong cuộc sống trần thế, giới hạn vào dân tộc Do thái, vào những con chiên lạc của Nhà Israel (Mt 15,24), nhưng sứ mạng ấy ngay từ đầu đã nhắm mang lại cho tất cả mọi dân tộc ánh sáng Tin Mừng và đưa mọi dân tộc vào trong Nước Chúa… Rồi sau đó, Chúa Giêsu sai Giáo Hội của ngài không phải đến với một nhóm, nhưng là với toàn thể nhân loại, để tập họp họ lại trong đức tin, trong một dân tộc duy nhất để cứu độ họ, như Công đồng chung Vatican 2 đã biểu lộ rất rõ ràng trong Hiến chế tín lý Lumen gentium, Ánh sáng muôn dân: ”Mọi người được kêu gọi gia nhập Dân mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân tộc này là một và duy nhất, đồng thời phải mở rộng cho toàn thế giới, và cho mọi thế kỷ, để kế hoạch của ý Thiên Chúa được thành tựu” (n.13).
Sau khi giải thích ý nghĩa tính chất Công Giáo, đặc tính phổ quát của Giáo Hội, ĐTC áp dụng đặc tính này vào Hồng y đoàn:

”Cả Hồng y đoàn cũng được đặt trong đường hướng và viễn tượng hiệp nhất và phổ quát của Giáo Hội: Hồng y đoàn biểu lộ sự đa diện, vì diễn tả khuôn mặt của Giáo Hội phổ quát. Đặc biệt qua công nghị này, tôi muốn nêu bật rằng Giáo Hội là Giáo Hội của tất cả mọi dân tộc, vì thế Giáo Hội được biểu lộ trong các nền văn hóa khác nhau của các đại lục. Đó là Giáo Hội của Lễ Hiện Xuống, qua các tiếng nói khác nhau, cùng xướng lên bài ca hòa hợp duy nhất dâng lên Thiên Chúa hằng sống.

ĐTC chào thăm các phái đoàn chính thức của các nước, các GM, LM, tu sĩ giáo dân thuộc các cộng đoàn giáo phận và mọi người tham dự niềm vui của các tân thành viên Hồng y đoàn và ngài nói:

”Các tân Hồng y đại diện cho các giáo phận khác nhau trên thế giới, từ ngày hôm nay được liên kết với Giáo Hội Roma theo một danh nghĩa rất đặc biệt, và qua đó, củng cố các mối liên hệ tinh thần nối kết toàn thể Giáo Hội, được Chúa Kitô làm cho sống động, và được xiết chặt quanh Người Kế Vị Thánh Phêrô. Đồng thời, nghi thức hôm nay diễn tả giá trị tột đỉnh của lòng trung thành. Thực vậy, Anh em đáng kính, trong lời tuyên thệ Anh em sắp làm, có ghi những lời đầy ý nghĩa sâu xa về tinh thần và về đặc tính Giáo Hội. ”Tôi hứa và thề từ bây giờ và mãi mãi, bao lâu tôi còn sống, luôn trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, luôn vâng phục Hội Thánh Roma Tông Truyền”. Và khi nhận mũ đỏ, anh em sẽ được nhắc nhở rằng mũ này có nghĩa là ”Anh em phải sẵn sàng hành xử can đảm, đến độ đổ máu đào, để làm cho đức tin Kitô được tăng trưởng, để dân Chúa được yên hàn”. Và nghi thức trao nhẫn có kèm theo lời nhắn nhủ: ”Anh em hãy biết rằng với tình yêu mến vị Thủ lãnh các Tông Đồ, tình yêu của anh em đối với Giáo Hội được củng cố”.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nói với các Hồng Y rằng: ”Đó là điều mà ngày hôm nay anh em đảm nhận trong Giáo Hội, qua những cử chỉ và lời nói đi kèm ấy. Từ nay trở đi, anh em càng được liên kết chặt chẽ và thâm sâu hơn với Tòa Thánh Phêrô: các hiệu tòa nhà thờ ở Roma sẽ nhắc nhớ anh em mối liên hệ liên kết anh em, như những thành phần với danh nghĩa rất đặc biệt, với Giáo Hội Roma này, Giáo Hội chủ trì tình bác ái đại đồng. Đặc biệt qua sự cộng tác của anh em với các cơ quan trung ương Tòa Thánh, anh em sẽ là những cộng sự viên quí giá của tôi, nhất là trong sứ vụ Tông Đồ đối với toàn thể Giáo Hội Công Giáo, trong tư cách tôi là Mục Tử toàn thể đoàn chiên của Chúa Kitô và người đầu tiên đảm bảo đạo lý, kỷ luật và luân lý của Giáo Hội.” Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, chúng ta hãy chúc tụng Chúa, Đấng không ngừng làm cho Giáo Hội của Ngài rải rác khắp nơi trên thế giới được các hồng ân phong phú” (Lời nguyện) và làm cho Giáo Hội được luôn tươi trẻ. Chúng ta hãy phó thác cho Chúa công tác phục vụ mới mẻ của các anh em đáng kính này dành cho Giáo Hội, để các vị có thể can đảm làm chứng về Chúa Kitô, trong niềm tin ngày càng tăng trưởng và và trong tình yêu không ngừng hy sinh”.

Nghi thức tấn phong Hồng Y
Sau bài huấn dụ, ĐTC bắt đầu nghi thức tấn phong Hồng y mới. Ngài nói:

”Anh chị em rất thân mến, chúng tôi sắp thi hành một hành vi trọng đại và vui mừng trong thánh vụ của chúng tôi. Hành vi này có liên hệ trước tiên tới Giáo Hội tại Roma, nhưng cũng liên quan tới toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Chúng tôi sắp gọi một số người anh em gia nhập Hồng Y đoàn, để các vị được hiệp nhất với Tòa thánh Phêrô bằng một mối dây bền chặt hơn, trở nên thành phần của hàng giáo sĩ Roma, và cộng tác mật thiết hơn với sứ vụ tông đồ của chúng tôi.”

”Mang mặc phẩm phục màu đỏ, các vị Hồng Y phải là những chứng nhân can trường của Chúa Kitô và Phúc âm của ngài tại thành Roma cũng như tại những nơi xa xăm nhất. Vì vậy với quyền của Thiên Chúa toàn năng của các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và quyền của chúng tôi, chúng tôi tấn phong và long trọng tuyên bố các anh em chúng tôi sau đây là Hồng Y của Hội Thánh Roma.”

ĐTC lần lượt xướng tên 6 Hồng Y:
1. James Michael Harvey, người Mỹ, TGM hiệu tòa Menfi
2. Đức Béchara Boutros Rai, Thượng Phụ giáo chủ Công Giáo Maronite, Liban
3. Đức Baselios Cleemis Thottunkal, TGM Trưởng Trivandrum, Giáo Chủ Công Giáo Siro-Malankara, Ấn Độ
4. Đức Cha John Olorunfemi Onaiyekan, TGM giáo phận Abuja, thủ đô Nigeria
5. Đức Cha Rubén Salazar Gómez, TGM giáo phận Bogotà, thủ đô Colombia
6. Đức Cha Luis Antonio Tagle, TGM giáo phận Manila, thủ đô Philippines.

ĐTC ấn định 1 vị tân Hồng y thuộc đẳng phó tế là ĐHY James Harvey, ĐHY Béchara Rai thuộc hàng Thượng Phụ và 4 vị còn lại là Hồng y thuộc đẳng Linh Mục.

Tiếp tục nghi thức, 6 tiến chức Hồng Y đã tuyên xưng đức tin và tuyên thệ trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, luôn luôn tuân phục Tòa Thánh và Thánh Phêrô nơi bản thân ĐTC Biển Đức 16 và các đấng kế vị ngài được bầu lên hợp pháp; luôn bảo tồn bằng lời nói và hành động tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo; không bao giờ tiết lộ cho người nào những gì đã được ủy thác để gìn giữ, mà sự tiết lộ điều ấy có thể gây hại hoặc làm ô danh Hội Thánh; hết sức chuyên cần và trung tín thi hành các công tác được kêu gọi thi hành trong việc phục vụ Giáo Họi, theo các quy tắc luật định.

Kế đến, từng Hồng Y lần lượt tiến lên quì trước mặt ĐTC để ngài đội mũ đỏ Hồng Y, và khi trao nhẫn, ngài nói:
”Đức Hồng Y hãy nhận chiếc nhẫn từ tay của Phêrô, và Đức Hồng Y nên biết rằng do lòng yêu mến vị Thủ lãnh các thánh tông đồ mà lòng yêu mến Giáo hội được kiện cường”.

Sau cùng ĐTC trao sắc chỉ về việc phong Hồng Y cũng như việc chỉ định tước hiệu thánh đường.

Sau khi lãnh mũ và sắc phong các Tân Hồng Y trao đổi cử chỉ bình an với ĐTC các vị đến chào các Hồng Y cũ rồi lên ngồi trên 6 chiếc ghế dành cho các vị phía tay trái của ĐTC, đối diện với hàng ghế của các Hồng Y cũ.
Nghi thức tấn phong các Hồng y mới kéo dài 1 tiếng đồng hồ và kết thúc với Kinh Lạy Cha và lời nguyện của ĐTC xin cho các tôi tớ Chúa là các tân Hồng Y khi kiên trì xây dựng Giáo Hội, chiếu tỏa rạng ngời với đức tin toàn vẹn và tâm trí tinh tuyền.

Trong số 6 Hồng y mới, vị trẻ nhất là ĐHY Baselios Cleemis Thottunkal, TGM trưởng Giáo Hội Siro Malankara, 53 tuổi; vị cao niên nhất là ĐHY Béchara Boutros Rai, 72 tuổi (1940), Thượng Phụ Giáo Chủ Công Giáo Maronite, Liban.

Với việc tấn phong trên đây, Hồng y đoàn có 211 vị thuộc 66 quốc gia, gồm 117 vị người Âu, 55 vị Mỹ châu, 20 vị Á châu, 18 vị Phi châu và 1 vị Úc châu. Tổng cộng có 91 vị trên 80 tuổi và 120 dưới 80 tuổi.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà giam chu toàn chức năng cải huấn

Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà giam chu toàn chức năng cải huấn

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi giới lãnh đạo các nhà tù chu toàn chức năng cải huấn tù nhân trong niềm tôn trọng phẩm giá của họ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 22 tháng 11-2012 dành cho 200 tham dự viên Hội nghị lần thứ 17 các vị giám đốc các trung tâm cải huấn thuộc Hội đồng Âu Châu.

ĐTC lấy làm tiếc vì tại nhiều nước, chức năng cải huấn của các nhà giam phần lớn vẫn chưa được thực hành đầy đủ. Ngài nói: ”Cần phải dấn thân một cách cụ thể, chứ không phải chỉ khẳng định trên nguyên tắc, để đạt tới sự cải huấn con người một cách hữu hiệu, theo đòi hỏi của phẩm giá con người, cũng như để giúp họ tái hội nhập vào xã hội.”

ĐTC nói thêm rằng ”Để công lý nhân trần có thể noi theo và được công lý của Chúa hướng dẫn, cần làm sao để chức năng cải huấn khi áp dụng hình phạt, không bị coi như một khía cạnh phụ thuộc trong hệ thống hình pháp, trái lại, phải coi chức năng này như cao điểm của hệ thống ấy. Nghĩa là để thi hành công lý, không phải chỉ lo áp dụng hình phạt một cách đúng đắn, nhưng cần làm tất cả những gì có thể để sửa chữa và cải tiến con người, khi trừng phạt họ. Nếu điều ấy không xảy ra, thì công lý không được thực thi đúng nghĩa. Trong mọi trường hợp, cần dấn thân để tránh cho việc giam cầm bị thất bại trong chức năng cải huấn, để rồi trở thành một hình phạt phản giáo dục, vì tình trạng này sẽ gia tăng thay vì chống lại xu hướng phạm phạm và làm cho các tù nhân ấy sau này càng nguy hiểm hơn đối với xã hội”. (SD 22-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha đề cao vai trò của nghệ sĩ như chứng nhân về vẻ đẹp đức tin

Đức Thánh Cha đề cao vai trò của nghệ sĩ như chứng nhân về vẻ đẹp đức tin

ROMA. ĐTC Biển Đức 16 đề cao vai trò của nghệ sĩ trong việc làm chứng cho vẻ đẹp của đức tin.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự viên khóa họp thường niên lần thứ 17 của các Hàn Lâm viện Tòa Thánh, nhóm họp chiều ngày 21 tháng 11-2012 tại Roma về là ”Nghệ sĩ, như Giáo Hội, chứng nhân về vẻ đẹp của đức tin”.

Sứ điệp ĐTC được ĐHY Bertone Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tuyên đọc, có khẳng định rằng ”mỗi hình thức chân chính của nghệ thuật là một con đường dẫn vào thực tại sâu xa nhất của con người và thế giới. Trong tư cách đó, nghệ thuật là một sự tiếp cận rất giá trị với chân trời đức tin, trong đó cuộc sống và các biến cố của con người tìm được một sự giải thích viên mãn.”

ĐTC cũng nhận xét rằng ”vẻ đẹp cua đức tin không bao giờ có thể là một chướng ngại cản trở sự sáng tạo mỹ thuật, vì có thể nói đức tin là nhựa sống và là chân trời tối hậu của sáng tạo nghề thuật. Nghệ sĩ chân chính – như Công đồng chung Vatican 2 đã định nghĩa, chính là người bảo quản vẻ đẹp của thế giới, nhờ sự nhạy cảm đặc biệt của họ về mỹ thuật và nhờ trực giác của mình, họ đó thể nắm bắt và lĩnh hội sâu xa hơn người khác chính vẻ đẹp của đức tin, rồi tái diễn tả nó, thông truyền nó bằng chính ngôn ngữ của mình.. Vì thế nghệ sĩ có thể là chứng nhân về vẻ đẹp của đức tin, tham gia và đóng góp một cách đặc thù cho ơn gọi và sứ mạng của Giáo Hội”.

Cuối sứ điệp, ĐTC thông báo giải thường năm nay của các Hàn lâm viện Tòa Thánh được trao tặng cho nữ điêu khắc gia Anna Gulak, 31 tuổi, người Ba Lan và cho họa sĩ David Ribes Lopez 40 tuổi, người Tây Ban Nha.
Trong khóa họp vừa nói, có phần giới thiệu Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng la tinh, mới được ĐTC thành lập. ĐHY Bertone đã trao văn thư bổ nhiệm Giáo sư Ivano Dionigi, Viện trưởng Đại học Bologna, làm Chủ tịch Hàn lâm viện này, cha Roberto Spataro dòng Don Bosco làm Tổng thư ký, và 20 thành viên tiên khởi của Hàn lâm viện. (SD 21-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP- Vietvatican

Đức tin không chống lại lý trí, nhưng cộng tác với khoa học để mưu cầu thiện ích cho con người

Đức tin không chống lại lý trí, nhưng cộng tác với khoa học để mưu cầu thiện ích cho con người

Đức tin công giáo không trái nghịch với lý trí. Trái lại nó kiếm tìm sự hiểu biết, nó được thao luyện với lý trí, nó suy tư, mời gọi suy tư và nâng đỡ khoa học để mưu cầu thiện ích của con người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hơn 8.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần sáng thứ tư 21 tháng 11-2012 trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về đức tin. Ngài hy vọng Năm Đức Tin giúp mọi người tái khám phá ra niềm vui của lòng tin, và tìm lại sự hăng say thông truyền các sự thật đức tin cho tất cả mọi người. Các sự thật ấy diễn tả biến cố Thiên Chúa gặp gỡ con người, một cuộc gặp gỡ cứu độ và giải thoát thực hiện các khát vọng hòa bình, tình huynh đệ và tình yêu thương sâu thẳm nhất của con người.

Đức tin đưa con người tới chỗ khám phá ra rằng cuộc gặp gỡ của con người với Thiên Chúa trao ban giá trị, hoàn thiện và nâng cao những gì là chân thiện mỹ hiện hữu nơi con người. Trong khi Thiên Chúa tự mạc khải và để cho mình được hiểu biết, con người biết Thiên Chúa là ai, và khi hiểu biết Thiên Chúa con người khám phá ra chính mình, khám phá ra cội nguồn, vận mệnh, sự cao cả và phẩm giá cuộc sống của mình. Đức Thánh Cha giải thích thêm về đức tin như sau:

Đức Tin cho phép một sự hiểu biết đích thật lôi cuốn toàn con người: đó là một sự hiểu biết trao ban hương vị cho cuộc sống, một việc hưởng nếm mới mẻ sự hiện hữu, một kiểu sống tươi vui trong thế giới. Đức tin được diễn tả ra qua việc trao ban chính mình cho tha nhân, trong tình huynh đệ khiến cho con người liên đới với nhau, có khả năng yêu thương, chiến thắng sự cô đơn làm cho con người buồn sầu. Nhưng sự hiểu biết này về Thiên Chúa qua đức tin không phải chỉ là trí tuệ mà sống động. Đó là sự hiểu biết Thiên Chúa Tình Yêu, nhờ chính tình yêu của Người. Thế rồi tình yêu của Thiên Chúa mở mắt và cho phép hiểu biết tất cả thực tại, vượt qúa các viễn tượng trang nghiêm nhất của chủ nghĩa cá nhân và khuynh hướng chủ quan đánh lạc hướng các lương tâm. Vì thế sự hiểu biết Thiên Chúa là kinh nghiệm đức tin và đồng thời bao gồm một lộ trình trí thức và luân lý: được đánh động trong chiều sâu bởi sự hiện diện của Thần Khí Đức Giêsu nơi chúng ta, chúng ta thắng vượt các chân trời của sự ích kỷ và rộng mở cho các giá trị đích thật của cuộc sống.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích cái lý sự của niềm tin nơi Thiên Chúa. Ngay từ đầu truyền thống công giáo đã khước từ khuynh hướng duy tín, là ý muốn tin chống lại lý trí. ”Tôi tin vì nó vô lý” không phải công thức diễn tả đức tin công giáo. Thật ra Thiên Chúa không vô lý, nếu có thì là mầu nhiệm. Và mầu nhiệm thì lại không phải là vô lý, mà là sự qúa đầy tràn ý nghĩa và sự thật. Nếu khi nhìn mầu nhiệm, lý trí thấy tối đen, thì không phải vì trong mầu nhiệm không có ánh sáng, mà bởi vì nó có qúa nhiều ánh sáng. Cũng thế, khi mắt con người hướng thẳng vào mặt trời để nhìn, thì chỉ thấy bóng tối; nhưng ai nói rằng mặt trời không sáng? Đức tin cho phép nhìn ”mặt trời” của Thiên Chúa, bởi vì nó là sự tiếp nhận mạc khải của Người trong lịch sử và nhận được tất cả ánh sáng mầu nhiệm của Thiên Chúa, bằng cách nhìn nhận phép lạ vĩ đại: Thiên Chúa đã tới gần con người và tự hiến cho sự hiểu biết của nó, bằng cách hạ mình xuống mức độ lý trí thụ tạo của nó (DV 13).

Đồng thời với ơn thánh của Người Thiên Chúa soi sáng lý trí, mở nó ra cho các chân trời mới, không thể đo lường được và vô tận. Vì thế đức tin là một kích thích luôn luôn tìm kiếm, không bao giờ dừng lại và không bao giờ yên nghỉ trong sự khám phá không cạn kiệt của sự thật và thực tại. Thật là sai lầm thành kiến của vài tư tưởng gia hiện đại cho rằng các tín điều đức tin ngăn chặn lý trí con người. Nhưng sự thật lại trái ngược, như các bậc thầy của truyền thống công giáo đã chứng minh. Thánh Agostino trước khi hoán cải đã tìm kiếm chân lý với biết bao âu lo, qua mọi triết lý có sẵn, nhưng thấy tất cả đều không thể thỏa mãn. Cuộc kiếm tìm vất vả của lý trí là một sư phạm ý nghĩa đối với thánh nhân để gặp gỡ với Chân Lý của Chúa Kitô. Khi người nói ”hiểu để tin, tin để hiểu” (Discorso 43,9; PL 38,258) là như thể để kể lại kinh nghiệm cuộc sống của người. Trước Mặc khải của Thiên Chúa, trí tuệ và đức tin không xa lạ với nhau hay chống lại nhau, nhưng cả hai đều là các điều kiện giúp hiểu biết ý nghĩa và tiếp nhận sứ điệp đích thật của nó và tiến đến ngưỡng cửa của mầu nhiệm.

Cùng với biết bao nhiêu tác giả Kitô khác thánh Agustino là chứng nhân của một đức tin được tập tành với lý trí, suy tư và mời gọi suy tư. Trong cùng chiều hướng ấy thánh Anselmo sẽ nói rằng đức tin công giáo, đức tin tìm kiếm sự hiểu biết, nơi trí tuệ là hành động nội tại cho việc tin. Nhưng nhất là thánh Toma thành Aquino mới chính là người đối chiếu với lý trí của các triết gia, bằng cách cho thấy từ việc tháp nhập các nguyên lý và các sự thật đức tin kitô, phát sinh ra cho tư tưởng con người biết bao nhiêu sức sinh động mới mẻ của lý trí.

Như vậy đức tin công giáo có lý lẽ và dưỡng nuôi tin tưởng cả nơi lý trí của con người nữa. Trong Hiến chế tín lý Dei Filius Công Đồng Chung Vaticăng I đã khẳng định rằng lý trí có thể hiểu biết sự hiện hữu của Thiên Chúa một cách chắc chắn qua con đường của sự sáng tạo, trong khi khả thể hiểu biết ”một cách dễ dàng với sự chắc chắn tuyệt đối và không lầm lẫm” các sự thật liên quan tới Thiên Chúa, dưới ánh sáng của ơn thánh, (DS 3005) chỉ tùy thuộc đức tin mà thôi. Ngoài ra, sự hiểu biết của đức tin không chống lại lý trí. Trong Thông điệp ”Fides et Ratio” Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tổng hợp như sau: ”Lý trí của con người không biến thành hư không cũng không bị mất gía trị, khi đồng ý chấp nhận các nội dung đức tin; trong mọi trường hợp các nội dung đó được đạt đến với sự lựa chọn tự do và có ý thức” (s. 43). Trong ước muốn chân lý không thể cưỡng lại được chỉ có một tương quan hài hòa giữa đức tin và lý trí là con đường đúng đắn dẫn đưa tới Thiên Chúa và sự thành toàn chính mình mà thôi.

Giáo thuyết này có thể được nhận ra cách dễ dàng trong toàn Thánh Kinh Tân Ước. Khi viết thư cho tín hữu giáo đoàn Côrintô thánh Phaolô nói rằng: ”Trong khi người Do thái đòi hỏi các dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi trái lại loan báo Chúa Kitô bị đóng đanh là gương mù gương xấu đối với người Do thái, và sự điên dại đối với dân ngoại” (1 Cr 1,22-23).

Thật thế, Thiên Chúa đã không cứu rỗi thế giới bằng một hành động quyền năng, nhưng qua sự nhục nhã của Con duy nhất Người: theo các thước đo của con người trần gian kiểu thực hiện bất thường của Thiên Chúa trái nghịch với các đòi hỏi của sự khôn ngoan hy lạp. Nhưng thập gía của Chúa Kitô có một lý do của nó, mà thánh Phaolô gọi là ”lời của thập giá” (1 Cr 1,18). Ở đây từ logos vừa ám chỉ lời nói vừa ám chỉ lý do, và nếu nó ám chỉ lời nói, thì bởi vì nó diễn tả bằng từ điều lý trí suy nghĩ. Như vậy, thánh Phaolô không trông thấy nơi Thập Giá một biến cố vô lý, nhưng một hành động cứu rỗi có lý lẽ riêng của nó, có thể nhận ra đưới ánh sáng đức tin. Đồng thời người tin tưởng nơi lý trí con người tới độ kinh ngạc đối với sự kiện nhiều người, cho dù trông thấy vẻ đẹp của các công trình do Thiên Chúa làm, mà vẫn cứng lòng không tin nơi Chúa. Thánh Phaolô khuyên tín hữu Roma chiêm ngưỡng các công trình tạo dựng để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa (Rm 1,20). Còn thánh Phêrô khích lệ tín hữu thờ lậy ”Chúa Kitô trong trong tâm trí và luôn luôn sẵn sàng trả lời cho những ai hỏi lý lẽ niềm hy vọng nơi họ” (1 Pr 3,15). Đức Thánh Cha giải thích tương quan giữa khoa học và đức tin như sau:

Việc tìm tòi khoa học đưa tới sự hiểu biết sự thật luôn luôn mới mẻ về con người và vũ trụ. Thiện ích đích thật của nhân loại, có thể đạt tới trong đức tin mở rộng chân trời, trong đó con đường khám phá của nó phải di chuyển. Do đó cần khuyến khích các nghiên cứu nhằm phục vụ sự sống và tiêu diệt các bệnh tật. Các tìm tòi nhắm khám phá ra các bí mật của hành tinh chúng ta và của vũ trụ cũng quan trọng, trong ý thức rằng con người là tuyệt đỉnh của việc tạo dựng, không phải để khai thác thiên nhiên một cách vô ý thức mà để canh giữ và khiến cho nó có thể ở được.
Như vậy đức tin không xung khắc với khoa học, trái lại cộng tác với nó, bằng cách cống hiến các tiêu chuẩn nền tảng giúp thăng tiến thiện ích của tất cả mọi người, và chỉ yêu cầu khoa học khước từ các thử nghiệm trái nghịch với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa và gây ra các hiệu qủa chống lại con người. Nếu khoa học là một đồng minh qúy báu của đức tin giúp hiểu biết chương trình của Thiên Chúa trong vũ trụ, thì đức tin cho phép tiến bộ khoa học luôn luôn hiện thực vì thiện ích và sự thật về con người, bằng cách trung thành với chính dự án ấy. Đó là lý do định đoạt để con người rộng mở cho đức tin, hiểu biết Thiên Chúa và chương trình cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô. Trong Tin Mừng khai mào một thuyết nhân bản mới, một ”văn phạm” đích thật của nhân bản và sự thật.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhân ngày 21 tháng 11, lễ Đức Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, là Ngày của các nữ tu dòng Kín, ngài đã bày tỏ sự gần gũi với các chị và kêu gọi mọi người hỗ trợ các chị trên bình diện vật chất cũng như tinh thần.

Sau cùng Đức Thánh Cha cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Linh Tiến Khải – Vietvatican
 



 

Đức Thánh Cha kêu gọi hòa bình cho Israel và Palestine

Đức Thánh Cha kêu gọi hòa bình cho Israel và Palestine

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 bày tỏ lo âu về cuộc xung đột giữa Israel – Palestine, và ngài kêu gọi chính quyền hai bên đưa ra những quyết định can đảm tiến tới hòa bình.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 21 tháng 11-2012, tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican, ĐTC nói:

”Tôi rất lo âu theo dõi bạo lực gia tăng thêm giữa người Israel và Palestine tại giải Gaza. Tôi nhớ đến và cầu nguyện cho các nạn nhân cũng như những người đang chịu đau khổ, đồng thời tôi cảm thấy nghĩa vụ phải lập lại một lần nữa rằng oán thù và bạo lực không phải là giải pháp cho vấn đề. Ngoài ra, tôi khích lệ những sáng kiến và nỗ lực của những người đang tìm cách đạt được một cuộc ngưng chiến và cổ võ đối thoại. Tôi cũng khuyên chính quyền cả hai bên đưa ra những quyết định can đảm để tiến tới hòa bình, chấm dứt một cuộc xung đột có ảnh hưởng tiêu cực trên toàn vùng Trung Đông, vốn đã gặp rất nhiều khó khăn vì quá nhiều xung đột và đang cần hòa bình và hòa giải”.

Cuộc xung đột từ hơn 8 ngày nay giữa nhóm Hamas ở Gaza và Israel đã làm cho hàng trăm người chết tại Gaza nơi người Palestine và 3 người chết trên lãnh thổ Israel.
Sáng ngày 21 tháng 11-2012, một xe bus ở Tel Aviv đã bị khủng bố làm cho 17 người bị thương. (SD 21-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Xuất bản cuốn sách ”Thời thơ ấu của Đức Giêsu” do Đức Thánh Cha biên soạn

Xuất bản cuốn sách ”Thời thơ ấu của Đức Giêsu” do Đức Thánh Cha biên soạn

VATICAN. Hôm 20 tháng 11-2012, cuốn thứ 3 trong bộ sách ba cuốn của ĐTC Biển Đức 16 về Đức Giêsu thành Nazareth đã được giới thiệu trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.

Ấn bản tiếng Ý dầy 172 trang với tựa đề ”Thời thơ ấu của Đức Giêsu” được hai nhà xuất bản Vatican và Rizzoli đồng xuất bản tại Italia. Sách này được phổ biến tại các tiệm sách từ ngày 21 tháng 11-2012 bằng 9 thứ tiếng tại 50 quốc gia: Ý, Brazil, Croát, Pháp, Anh, Bồ đào nha, Tây Ban Nha, Ba Lan và Đức. Tổng cộng ấn bản đầu tiên được ơn hơn 1 triệu cuốn.

Trong vòng vài tháng tới đây, sách sẽ được dịch ra 20 thứ tiếng và ấn hành tại 72 quốc gia.
ĐHY Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa và vốn là một học giả Kinh Thánh nổi tiếng, đã giới thiệu sách mới của ĐTC với giới báo chí. Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo, còn có nữ giáo sư Maria Clara Bingemer, giảng dạy thần học tại Đại học Giáo Hoàng Công Giáo Rio de Janeiro, Brazil, Cha giám đốc nhà xuất bản Vatican và vị chủ tịch Hội đồng quản trị nhà xuất bản Rizzoli.

Cuốn ”Thời thơ ấu của Đức Giêsu”, ngoài phần nhập đề và lời kết, được chia làm 4 chương:

Chương I nói về gia phả Chúa Cứu Thế trong các sách Tin Mừng Mathêu và Luca: tuy rất khác nhau, nhưng cả hai gia phả đều có cùng một ý nghĩa thần học biểu tượng: đó là vị trí của Đức Giêsu trong lịch sử, và nguồn gốc đích thực của Ngài như sự khởi đầu mới trong lịch sử thế giới.

– Chủ đề của chương II là việc loan báo sự sinh ra của thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Đọc lại cuộc đối thoại giữa Mẹ Maria và Tổng lãnh thiên thần Gabriel theo Tin Mừng thánh Luca, ĐTC giải thích rằng qua một người nữ, Thiên Chúa tìm kiếm ”một lối vào mới trong thế giới”. Thánh Bênađô Viện Phụ Clairvaux đã viết: ”Để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi, Thiên Chúa cần sự vâng phục tự nguyện, Ngài trở nên lệ thuộc con người. Quyền năng của Ngài gắn liền với lời ”xin vâng” tự nguyện của một người”. Và như thế, chỉ nhờ sự ưng thuận của Mẹ Maria, lịch sử cứu độ mới có thể bắt đầu.

– Nơi trọng tâm Chương III, chúng ta thấy biến cố Bethlehem và bối cảnh lịch sử cuộc giáng sinh của Đức Giêsu, đế quốc La Mã, – dưới thời Hoàng đế Augusto, trải dài từ Đông sang Tây, và với chiều kích hoàn cầu ấy, – để cho Đấng mang ơn cứu độ phổ quát đi vào thế giới; ”khi thời gian sung mãn”. Mỗi yếu tố trong trình thuật giáng sinh đều cô đọng nhiều ý nghĩa: Tình trạng nghèo hèn trong đó, Vị Trưởng Tử đích thực của vũ trụ đã chọn để tỏ mình ra, và do đó, ”sự huy hoàng của vũ trụ” bao phủ máng cỏ; tình thương đặc biệt của Thiên Chúa dành cho người nghèo, được biểu lộ qua việc loan báo tin vui cho những người chăn đoàn vật; và câu Gloria, Vinh Danh, đối tượng của các bản dịch trái ngược nhau.

Chương thứ IV nói về các đạo sĩ đã thấy ngôi sao của vua người Do thái xuất hiện và đã đến thờ lạy Ngài, tiếp đến là cuộc tị nạn sang Ai Cập. Trong chương này, hình ảnh các đạo sĩ được tái tạo qua một loạt các thông tin lịch sử, ngôn ngữ và khoa học, được mô tả như biểu tượng sự thao thức tìm kiếm và mong đợi nội tâm trong tinh thần con người.

Sau cùng, trong Lời Kết của cuốn sách, ĐTC bàn về giai thoại cuộc hành hương của Thánh gia thất lên Jerusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và lúc trở về Đức Giêsu 12 tuổi đã lại Đền thờ và thảo luận với các nhà thông thái. Sau khi về nhà, Ngài tăng trưởng trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân phúc, qua đó, Ngài được biểu lộ trong mầu nhiệm bản tính Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật, Ngài đã suy tư và học hỏi như một người”.

Nhận định của ĐHY Ravasi

Trong cuộc họp báo, ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về văn hóa, đề cao sự sáng sủa và khiêm tốn của ĐTC: qua các trang sách, người ta cảm kích trước tư tưởng sáng sủa và sự khiêm tốn của tác giả. Cuốn thứ 3 trong bộ sách ”Đức Giêsu thành Nazareth” không chứa đựng điều mà người ta thấy trong nhiều sách khác, nghĩa là một sự tự tham chiếu huyền bí, những trang khó hiểu đối với những người không có kiến thức về Kinh Thánh… Sự khiêm tốn này là cần thiết vì chính một hài nhi ở trung tâm cuốn sách này”.

Tuy nhiên, ĐHY Ravasi kêu gọi các độc giả đừng nghĩ cuốn sách này là một tác phẩm dành cho các trẻ em. Ngài cũng muốn nêu bật một trong những khía cạnh chính của cuốn sách, đó là 2 khía cạnh lịch sử và đức tin, mà ĐGH tìm cách làm cho chúng tác động lẫn nhau. Toàn thể cuốn sách mang sắc thái của một nghiên cứu lịch sử. Vì thế, sự giáng sinh của Chúa Giêsu không được trình bày như một huyền thoại, đó là một biến cố có thể xác định rõ ngày và địa điểm.

Cũng trong cuộc họp báo, cha Lombardi SJ, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, cũng như cha Giuseppe Costa, SDB, Giám đốc nhà xuất bản Vatican, đã gợi lại lai lịch bộ sách ”Đức Giêsu thành Nazareth” (SD 20-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

 

Chúa dẫn con đi

Chúa dẫn con đi

Nhân dịp viếng thăm California, Hoa Kỳ, tôi đã đến thăm ngôi Nhà thờ Kính, theo tên gọi bình dân của người Việt, nhưng tên chính thức là Crystal Cathedral. Nghe nói nhà thờ này vừa được Cộng đoàn Tin Lành bán cho giáo phận Orange County và đang được tu bổ cho hợp với phụng vụ công giáo, hy vọng sẽ chính thức sử dụng vào giữa năm tới. Đây là một ngôi nhà thờ mang kiến trúc hiện đại, được hoàn thành vào năm 1981 và có đủ ghế ngồi cho 2.736 người. Sau khi mua, giáo phận Orange County đã đổi tên nhà thờ thành “nhà thờ Chính tòa Chúa Kitô” (Christ Cathedral).

Bên cạnh nhà thờ, có một khu nghĩa trang rất rộng, được trình bày như một công viên tươi mát, phủ kín cỏ và cây xanh. Khi bước vào nghĩa trang, du khách đều có thể nhìn thấy một bức tranh bằng đá màu rất đẹp. Bức tranh diễn tả hai bàn tay: một bàn tay lớn, chắc là bàn tay phải, từ trên cao đưa xuống; một bàn tay nhỏ, bụ bẫm như một bàn tay trẻ thơ, từ dưới vươn lên. Vì bàn tay trẻ thơ quá nhỏ, nên cố hết sức cũng chỉ nắm trọn được ngón cái của bàn tay lớn. Chắc hẳn bức tranh này được đặt ở lối vào nghĩa trang muốn diễn tả câu Thánh vịnh: “Chúa là Mục tử dẫn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 22,1). Bức tranh rất đơn sơ mà mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc, vì nó diễn tả sự quan phòng yêu thương của Chúa, luôn dắt dìu lối bước của con người. Bức tranh vừa diễn tả tình Chúa, vừa nói lên tình người: Chúa từ trời cao cúi xuống; con người từ đất thấp vươn lên. Chúa với ta gặp gỡ nhau, như Cha gặp con. Chúa rất mạnh mẽ, con người lại bé nhỏ. Cuộc hội ngộ thật thân tình, tràn ngập yêu thương. Hình ảnh ấy làm cho sự chết bớt vẻ bi quan đen tối, nhưng bừng lên niềm hy vọng ủi an. Bức tranh diễn tả hai bàn tay nói với chúng ta rằng, những người đang bước đi trong cuộc lữ hành dương gian cũng như những người đã nằm xuống, đều được Chúa dẫn đưa bằng cánh tay quyền năng và yêu thương của Ngài.

Lời Thánh vịnh rất quen thuộc trên đây thường được hát hoặc đọc trong thánh lễ cầu cho người qua đời. Lời hát hé mở con đường hy vọng đối với người nằm xuống, đồng thời sưởi ấm tâm hồn đối với người ở lại trong lúc biệt ly. Cánh tay của Chúa thật mạnh mẽ, từ cao vươn xuống để nắm lấy tay con người; cánh tay con người thật nhỏ bé, cố gắng vươn lên để được Chúa dẫn dắt. Trong cuộc đời này, có chỗ dựa nào đáng tin cậy hơn là chỗ dựa của người cha? Có tình yêu nào bao la và nồng ấm hơn tình yêu của người mẹ? Chúa vừa là Cha nâng đỡ dìu dắt ta qua những phong ba cuộc đời. Ngài cũng vừa là Mẹ, luôn che chở bao bọc ta trong tình yêu thương ấp ủ.

“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ

Trong con hồn lặng lẽ an vui

Cậy vào Chúa, Israen ơi

Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 130,1-3).

Khi xác tín Chúa là Đấng hướng dẫn đời tôi, tôi cảm thấy an bình thư thái, mặc dù luôn phải đối diện với phong ba bão táp. Tiếc rằng có những lúc trong đời, tôi không nhận ra điều đó. Phải chăng vì thế mà tôi vẫn lo lắng băn khoăn, sợ hãi trước những khó khăn thử thách trong đời?

Ý thức Chúa đang dẫn dắt tôi đi, tôi sẽ nhận ra Ngài hiện diện mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống này. Điều đó cũng giúp tôi từng bước nên hoàn thiện. Bởi lẽ nếu Chúa ở gần tôi và dẫn dắt tôi, có lẽ nào tôi còn hận thù, mưu mô, thủ đoạn, dối trá và rắp tâm làm hại người anh em tôi? Có lẽ nào tôi còn buồn sầu chán nản và than vãn ưu phiền, vì có Chúa đang cùng tôi bước đi trong cuộc sống?

Có một câu chuyện rất quen thuộc mang tựa đề “Dấu chân trên cát”. Câu chuyện này đã minh họa cho ta thấy: vào lúc ta gặp giông tố của cuộc đời lại chính là lúc Chúa gần ta hơn cả, vì Ngài bồng ta trên cánh tay của Ngài. Cũng như con cái có những lúc ngộ nhận về cha mẹ mình trước những lời dạy khuyên của cha mẹ mà mình chưa hiểu nổi, nhiều lúc tôi đã băn khoăn, thậm chí phàn nàn kêu trách Chúa, vì dường như Ngài bỏ rơi tôi. Chúa không buồn về điều ấy, vì Ngài hiểu sự yếu đuối và lòng dạ hay thay đổi của tôi. Cũng như cha mẹ chẳng ai nỡ giận con mình mãi mãi, Chúa cũng sẵn sàng tha thứ và nâng tôi dậy. Mỗi khi sa ngã và được Chúa nâng dậy, tôi càng cảm thấy Ngài gần tôi hơn bao giờ hết. Thất vọng sẽ biến thành hy vọng. Đau khổ sẽ biến thành niềm vui. Nước mắt sẽ biến thành nụ cười. Sức mạnh chữa lành của đức tin diệu kỳ là thế.

Tôi vẫn thường cầu nguyện với Chúa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, nhưng hình ảnh của tôi về Chúa nhiều khi lại chẳng phải là một người Cha. Thế nên, lời cầu nguyện vẫn chỉ là những công thức trên môi miệng, chứ chưa thực sự đem lại cho tôi sự an bình đích thực. “Nguyên nhân tâm hồn chúng ta chưa được hoàn toàn thanh thản là vì chúng ta đi tìm sự thanh thản ở những sự vật tự chúng không có hay chỉ có ít sự thanh thản, trong khi chúng ta lại không quan tâm đến Thiên Chúa, Đấng là Toàn Năng, Toàn Trí, Toàn Thiện, và là sự thanh thản đích thực duy nhất” (Chân phúc Julian Norwich). Vì yếu đuối và bất toàn, tôi cần cầu xin Chúa chỉ cho tôi đâu là con đường đến gặp Ngài, là con đường dẫn tới cội nguồn của Chân Thiện Mỹ:

“Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa;

xin dạy bảo con về lối bước của Ngài.

Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con,

vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con,

và con luôn luôn cậy trông vào Chúa” (Tv 24,4).

Năm Đức Tin đã khởi đầu. Đức tin giúp chúng ta nhận ra cánh tay của Chúa đang yêu thương dẫn dắt và ấp ủ chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Nhận ra Chúa, chúng ta sẽ thấy cuộc đời bớt cô quạnh.

Cánh tay Chúa to lớn và mạnh mẽ, bàn tay tôi nhỏ bé yếu hèn. Khi bàn tay tôi chạm vào bàn tay Chúa, tôi được tiếp thêm nghị lực siêu nhiên. Khi dang tay cầu nguyện là tôi cố gắng chạm tới bàn tay Chúa. Khi phó thác cậy trông là tôi muốn làm cho trái tim tôi được chạm đến trái tim Ngài, để Ngài thông chuyển cho tôi sức mạnh.

Có Chúa dẫn đưa, đời tôi sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc. Cũng như chẳng có người cha nào lại không muốn cho con mình được sung sướng, Chúa luôn mong muốn cho tôi được hưởng niềm vui bất tận. Hình ảnh được Chúa dẫn dắt làm tôi nhớ lại cuộc sống thần tiên ở vườn Địa đàng vào thuở bình minh của lịch sử. Trước khi con người phạm tội, Chúa vẫn đi dạo với họ trong làn gió thổi của buổi chiều hôm (x. St 3,8). Ôi một khung cảnh thật an bình. Khi tay tôi nắm lấy tay Chúa, tôi tìm được niềm vui và hạnh phúc của vườn Địa đàng năm xưa.

Cùng đi với Chúa, tôi sẽ tìm được niềm vui, vì tôi không còn đơn lẻ trong cuộc đời. Trong Chúa, tôi cũng gặp gỡ anh chị em tôi, vì tôi với họ có cùng một Cha trên trời. Cùng với họ, tôi đang từng bước tiến về Nhà Chúa, để hưởng trọn niềm vui Ngài dành cho những ai yêu mến Ngài.

Cùng đi với Chúa, tôi chắc chắn an tâm vì hướng tôi đã chọn là hướng tốt cho tôi trong hiện tại và tương lai. Có thể tôi sẽ bị thiệt thòi về vật chất, về danh dự, nhưng tôi không hối tiếc, vì chính Chúa đã giúp tôi chọn “phần tốt nhất”, là phần không ai có thể chiếm đoạt được.

Khi xác tín Chúa đang đi với tôi trên đường đời, tôi sẽ thường xuyên “dốc bầu tâm sự” với Ngài qua tâm tình cầu nguyện. Những lời yêu thương của đôi tình nhân chẳng bao giờ nhàm chán. Những dòng tâm sự của lòng hiếu thảo chẳng bao giờ cạn vơi. Những giãi bày nỗi niềm của tôi với Chúa nói mãi mà chẳng hết, vì “Tâm hồn con khắc khoải khôn nguôi, cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa” (Thánh Agustinnô).

Vâng, mỗi ngày khởi sự đối với tôi là một chặng đường mới có Chúa đi cùng. Tin vào sự dẫn dắt của Chúa sẽ đem lại cho tôi niềm vui, an bình và hạnh phúc.

 

Hải Phòng, những ngày cuối tháng 11-2012

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Hội nghị quốc tế về Tông Đồ dân biển

Hội nghị quốc tế về Tông Đồ dân biển

VATICAN. Trong những ngày này, từ 19 đến 23 tháng 11-2012, Hội nghị quốc tế lần thứ 23 về tông đồ dân biển đang tiến hành tại Vatican, với sự tham dự của hơn 400 đại biểu đến từ 70 quốc gia, trong đó có cha Nguyễn Văn Ty, SDB, Phó Chủ tịch Ủy ban GM Việt Nam về mục vụ di dân.

Hội nghị này diễn ra 5 năm một lần, và do Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động tổ chức. Hội nghị trước đây hồi năm 2007 diễn ra tại thành phố Gdynia bên Ba Lan.

Trong diễn văn khai mạc sáng hôm 19 tháng 11-2012, ĐHY Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch của Hội đồng vừa nói kêu gọi đẩy mạnh việc rao giảng Tin Mừng nơi những người làm nghề biển. Ngài nói: ”Mặc dù có bao nhiêu khó khăn, thế giới hàng hải vẫn là một môi trường phì nhiêu để loan báo Tin Mừng. Thực vậy, các tàu hải hành trên 7 đại dương của thế giới, đậu lại từ cảng này đến cảng khác, không những chuyên chở hàng hóa nhưng cả thủy thủ đoàn thuộc các nền văn hóa, truyền thống và tôn giáo khác nhau, tạo nên cơ hội gặp gỡ và quí chuộng những khác biệt giữa những người thuộc các chủng tộc khác nhau. Thủ thủy đoàn gồm nhiều quốc tịch sống và làm việc trong không gian rất chật chội của các con tàu, xa cách gia đình và cộng đoàn Kitô nhiều tháng trời, không được lương thực cho đức tin, giống như ”ánh lửa ngút khói”.

Trước tình trạng đó, ĐHY Vegliò nhắc nhở rằng ”công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng và Năm Đức Tin mời gọi mời vị tuyên úy và người thiện nguyện trong ngành Tông đồ Biển Khơi hãy đào sâu đức tin của mình, tin nơi sứ điệp Tin Mừng và tiến bước để loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết và khơi dậy ánh lửa nghi ngún khói ấy bằng chứng tá Kitô”.

Trong buổi khai mạc, Đức Cha Joseph Kalathiparambil, người Ấn độ, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và lưu động, đã giới thiệu chương trình:

Trong 5 ngày họp, mỗi sáng có bài thuyết trình gợi ý về một chủ đề, và sau đó là một cuộc thảo luận bàn tròn nhắm trao đổi kinh nguyện mục vụ cụ thể về chủ đề trong ngày, và gợi ra những đường hướng hoạt động và kích thích cuộc thảo luận của mọi đại biểu.

Chiều thứ ba và thứ năm, có những nhóm nghiên cứu học hỏi để phân tích các kinh ngihệm bản thân, trình bày các ý tưởng và dự phóng cần khai triển, những thành công và khó khăn, để thu thập một loạt các đề nghị và gợi ý hữu ích cho việc đề ra chương trình hoạt độpng những năm tới đây.

Các tham dự viên sẽ được ĐTC tiếp kiến vào sáng thứ sáu, 23-11 tới đây (SD 19-11-2012)

Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa sẽ tồn tại mãi mãi

Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa sẽ tồn tại mãi mãi

Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Lời Chúa sẽ tồn tại mãi mãi. Trong thời đại của chúng ta không thiếu các tai ương thiên nhiên, chiến tranh và bạo lực. Nhưng Lời Chúa là nền tảng ổn định cho cuộc sống chúng ta.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khặng định như trên trước hơn 15.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin với ngài tại quảng trường thánh Phêrô, trưa Chúa Nhật 18 tháng 11-2012.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích Phúc Âm Chúa Nhật hôm qua. Ngài nói: Anh chị em thân mến, trong ngày Chúa Nhật áp chót của năm phụng vụ, được công bố một phần diễn văn của Chúa Giêsu về thời sau hết trong trình thuật của thánh sử Marcô, trong từ chuyên môn gọi là thời ”cánh chung” (x Mr 13,24-32). Chúng ta cũng tìm thấy diễn văn này trong Phúc Âm thánh Mátthêu và Phúc Âm thánh Luca, và chắc hẳn nó là văn bản khó nhất trong các Phúc Âm. Đức Thánh Cha giải thích lý do như sau:

Sự khó khăn này bắt nguồn từ nội dung cũng như từ ngôn ngữ: thật thế, người ta nói tới một tương lai vượt qúa các phạm trù của chúng ta, và vì thế Đức Giêsu dùng các hình ảnh và từ vựng lấy từ Thánh Kinh Cựu Ước, và nhất là đưa vào đó một trung tâm mới, là chính Người, mầu nhiệm con người, cái chết và sự phục sinh của Người. Văn bản hôm nay cũng bắt đầu với vài hình ảnh vũ trụ loại khải huyền: ”Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ không chiếu sáng nữa, các tinh tú sẽ từ trời rơi xuống, và các quyền lực trên trời sẽ bị đảo lộn” (cc. 24-25), nhưng yếu tố này bị tương đối hóa bởi những gì theo sau: ”Khi đó Con Người sẽ đến trên mây trời với quyền lực lớn lao và vinh quang” (c. 26). ”Con Người” là chính Chúa Giêsu, nối liền hiện tại với tương lai; các lời tiên tri xưa kia sau cùng đã tìm thấy một trung tâm nơi con người của Đấng Cứu Thế người Nagiarét: chính Người là biến cố đích thật, là điểm chắc chắn và ổn định giữa các chao đảo của thế giới.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Có một kiểu nói khác của Phúc Âm hôm nay xác nhận điều này. Chúa Giêsu khẳng định: ”Trời đất sẽ qua đi, nhưng các lời của Ta sẽ không qua đi” (c. 31). Thật thế, chúng ta biết rằng trong Thánh Kinh Lời Chúa là nguồn gốc của việc tạo dựng; mọi tạo vật, bắt đầu từ các yếu tố vũ trụ – mặt trời, mặt trăng, bầu trời – đều vâng phục Lời Thiên Chúa, hiện hữu trong tư cách ”được gọi” bởi Lời Chúa. Quyền năng tạo dựng đó của Lời Chúa đã được tập trung nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và cũng qua các lời nói là người của Ngài mà ”bầu trời” đích thật hướng dẫn tư tưởng và lộ trình của con người trên trái đất này. Vì thế, Đức Giêsu không miêu tả ngày tận thế, và khi dùng các hình ảnh khải huyền, Người không hành xử như là một ”thị nhân”. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Trái lại, Người muốn lấy đi khỏi các môn đệ Người thuộc mọi thời đại, sự tò mò đối với các thời điểm, các dự kiến, và muốn ban cho họ một chìa khóa giúp đọc hiểu một cách sâu xa nòng cốt, và nhất là chỉ cho họ con đường đúng đắn để theo, hôm nay và ngày mai, hầu bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Chúa nhắc cho chúng ta biết mọi sự đều qua đi, nhưng Lời Chúa không thay đổi. Và trước Lời Chúa mỗi người trong chúng ta đều có trách nhiệm đối với cung cách hành xử của mình. Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên đó.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ: Anh chị em thân mến, cả trong thời đại của chúng ta nữa cũng không thiếu các tai ương thiên nhiên, và rất tiếc cả chiến tranh và bạo lực nữa. Cả ngày nay nữa chúng ta cần có một nền tảng ổn định cho cuộc sống và niềm hy vọng của chúng ta, nhất là vì chủ nghĩa tương đối trong đó chúng ta bị chìm ngập. Xin Đức Trinh Nữ Maria trợ giúp chúng ta tiếp nhận trung tâm này trong Con Người của Chúa Kitô và trong Lời Ngài.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngài đã nhắc tới lễ phong Chân phước cho nữ tu Maria Crescencia Pérez, Dòng Nữ tử Đức Maria Rất Thánh Orto, tại Pergamino bên Argentina ngày thứ bẫy 17-11. Nữ Chân phước sống vào tiền bán thế kỷ XX và là mẫu gương của sự hiền dịu được đức tin linh hoạt. Đức Thánh Cha mời mọi người chúc tụng Chúa vì chứng tá của chị.

Trong tiếng Pháp ngài kêu mời tín hữu thường xuyên tham dự thánh lễ Chúa Nhật, rất cần thiết cho một kitô hữu. Qua đức tin chúng ta hiệp thông vào chương trình tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và từng người trong chúng ta.

Bằng tiếng Đức Đức Thánh Cha nói các bài đọc phụng vụ cuối năm mời gọi chúng ta luôn nhớ tới các sự cuối cùng: cái chết, sự phán xét, hỏa ngục và Thiên Đàng. Thời gian có một đích điểm, và chúng ta muốn tìm thấy đích điểm thật ấy.

Trong tiếng Ba Lan ngài nói khi được soi chiếu bởi ánh sáng của Chúa, chúng ta sẽ nhận được câu trả lời cho các vấn nạn liên quan tới cuộc sống; và mọi hành động và tư tưởng của chúng ta sẽ bị xét xử.

Bằng tiếng Ý Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào các thành viên Ngân hàng thực phẩm. Ngài khích lệ mọi sáng kiến giáo dục sự chia sẻ như giải đáp cho các khó khăn chật vật của biết bao nhiêu gia đình nghèo.

Linh Tiến Khải  Vietvatican

BẤY GIỜ THIÊN HẠ SẼ THẤY CON NGƯỜI ĐẦY QUYỀN NĂNG VÀ VINH QUANG NGỰ ĐẾN TRONG ĐÁM MÂY

BẤY GIỜ THIÊN HẠ SẼ THẤY CON NGƯỜI ĐẦY QUYỀN NĂNG VÀ VINH QUANG NGỰ ĐẾN TRONG ĐÁM MÂY

CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN NĂM B (18/11/2012)
 [Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.28; Mc 13,24-32]

Đoạn Phúc Âm hôm nay (Mc 13, 24-32) là phần cuối cùng chương 13 Phúc Âm Thánh Máccô. Đây là bài diễn giải duy nhứt và dài nhứt về ngày cánh chung trong Phúc Âm Thánh Máccô, để nói về tầm quan trọng của thực trạng cuối cùng mà mỗi con người chúng ta sẽ gặp phải, trong cánh tay bảo bọc bênh vực và đón tiếp tưởng thưởng của Chúa Kitô.

Nói một cách tổng quá, chúng ta có thể chia chương 13  Phúc Âm Thánh Máccô thành:

   – phần dẫn nhập (Mc 13, 1-4),
   – phần các bài giảng dạy và giải thích (Mc 13, 5-36),
   – phần kết luận (Mc 13, 37).

Đi vào các chi tiết liên kết với nhau hơn, chúng ta biết rằng một vài chủ đề được lập đi lập lại, theo thói quen diễn tả của Thánh Kinh, theo hình thức vòng đồng tâm, chớ không liệt kê theo thứ tự thẳng hàng các yếu tố nối tiếp nhau, như cách viết bài hay diễn văn của chúng ta đương thời.

Như vậy trong diễn từ của chương 13, sau phần dẫn nhập (Mc 13, 1-4 ) chúng ta có thể thấy được các yếu tố hướng dẫn và cấu trúc tư tưởng như sau:

   – các nỗi buồn rầu thất vọng, tiên báo cho biết và cảnh cáo hãy thận trọng, những kẻ giả  hình lường gạt, chiến tranh và đàn áp (Mc 13, 5-23),
   – Con Người ngự đến được tiên báo trước bởi các dấu hiệu trên trời (Mc 13, 24-37),
   – thời điểm: báo tin và loan báo bằng dụ ngôn (Mc 13, 28-36).

Qua thể thức cấu trúc vùa kể, chúng ta thấy  được yếu tố nổi bậc nhứt là biến cố  ngự đến của Con Người vào thời điểm tận cùng của dòng lịch sử. Và với cái nhìn duyệt qua vừa kể chương 13, chúng ta thấy được đoạn Phúc Âm hôm nay được trích ra từ phần kết thúc của bài thuyết giảng về ngày cánh chung. Và riêng nội dung của đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta có được ba phần:

   – biến cố Con Người ngự đến, được diễn tả như là trung tâm điểm của đoạn Phúc Âm muốn đề cập (Mc 13, 24-27),
   – phần kế đến là cách giải thích để làm sáng tỏ hơn biến cố  đó bằng dụ ngôn, để người đọc ý thức  được các dấu chỉ thời đại (Mc 13, 28-29),
   – xác nhận giá trị các lời được Chúa Giêsu phán ra, nhưng không ai biết được thời  điểm đó là lúc nào, ngay cả Con Người cũng không thể xác định được (Mc 13, 30-32).

1 – Biến cố Con Người ngự đến: niềm hy vọng trong sáng và cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Ki Tô (Mc 13, 24-27).
 
Sau khi đã lấy lại lời tiên báo trong Thánh Kinh về  ngày tận cùng của Giêrusalem trước đó (Mc 13, 14-23) , tượng trưng cho thế giới băng hoại , đoạn Phúc  Âm cho biết những kẻ được chọn sẽ được nhìn thấy dung nhan khải hoàn của Chúa Kitô: "Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người quyền năng và vinh quang ngự trên đám mây mà đến" (Mc 13, 26).

Đây là điều mới lạ được chuẩn bị cho những kẻ biết chiến đấu vì đức tin, chống lại các lời khuyến dụ mê hoặc của tiên tri giả, vẫn biết bền vững trung thành gắn liền vào lời Chúa Kitô, chịu đau khổ vì Phúc Âm và vì chính Người: "Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ biết" (Mc 13, 9).

Và sau những thử thách bất hạnh đó vì Chúa Kitô: "Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời" (Mc 13, 27). Như vậy, bài thuyết giảng về ngày cánh chung được làm cho trở thành thời điểm hội ngộ dịu dàng, hân hoan, đầy an ủi, thời điểm cho những kẻ được chọn, sau nhưng cơn thử thách, áp bức, được thông hiệp và sống thân tình với Chúa Kitô, "…và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương trời về".

Việc tựu hợp về với Chúa Kitô quang vinh có  mục đích làm cho vinh quang của Người  là  cuộc chiến thắng vĩnh viễn. Thời cánh chung, tức là  lúc Chúa Kitô vinh quang đến lần cuối cùng được hiểu như là thời điểm tuởng thưởng hân hoan cho một cuộc đời đã phải hy sinh vì Người và bởi đó được chính Người tưởng thưởng xứng đáng cho. Mặc dầu không nói rõ ra, văn mạch cũng cho chúng ta hiểu được đó là cuộc sống bất diệt, sống trên Thiên Đàng với Người. Nếu để ý, chúng ta thấy các động từ diễn tả các động tác tiến bước thêm lên: những kẻ được tuyển chọn " sẽ thấy " Con Người "ngự đến", và Người "sẽ tập hợp lại" những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương trời về.

Như vậy, mục đích của biến cố Chúa Kitô trở lại vào ngày cánh chung là để quy tựu lại những kẻ thuộc về Người. Thánh Phaolô, cũng trong bối cảnh tương tợ, còn thêm: "Rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi" (1 Th 4, 17).

Về cuộc phán xét và về hình phạt hoả  ngục, đoạn Phúc Âm không đề cập tới. Bài giảng trong đoạn Phúc Âm hôm nay không đưa đến nhãn quang cuối cùng là cuộc phán xét, mà là đến lời hứa đầy khích lệ cho những kẻ được chọn. Các ngôn từ của sách Khải Huyền, thường diễn tả hình ảnh đen tối và thảm đạm, bị  biến mất đi, thay vào đó là không gian cho các lời Phúc Âm, tin vui mừng hân hoan cho mọi người. Trong hoàn cảnh mit mờ đen tối của dòng lịch sử con người, Chúa Kitô hiện ra sáng chói để quy tựu những kẻ được chọn và để lại cho mọi người những lời bất diệt, hướng dẫn chúng ta đến cuộc sống bất diệt và hạnh phúc viên mãn bên Người.

2 – Dụ ngôn để nhận biết các dấu chỉ thời đại.

Bởi vì biến cố Chúa Kitô đến là  thời điểm kết thúc dòng lịch sử, thời gian đã hết và khởi đầu thời điểm vô tận, nên con người cần phải khôn ngoan, biết sống và thực hiện, tác động chuẩn bị cho mình sẵn sàng, biết chờ đợi một cách thoả đáng. Sự khôn ngoan phải có, đó chính là nhận ra được các dấu chỉ tiên báo của thời cánh chung: "Anh  em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh và đâm chồi nẩy lôc, thì anh em biết mùa hè đã gần" (Mc 13, 28).
 
Ngoài ra lời chỉ dẫn đó, Chúa Giêsu không đưa ra cẩu trả lời nào khác cho các môn đệ, nếu không là câu dặn dò hãy tỉnh táo, chờ đợi: "Thầy bảo thật anh em: thế hệ nầy sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu" (Mc 13, 30-31). Bài dụ ngôn ngắn ngủi về cây vả mời gọi hãy sáng suốt, thức tỉnh nhận ra qua các dấu chỉ thời đại: mầm mống của thời cánh chung đã bắt đầu, như dân chúng Palestina, qua lá xanh và việc đâm chồi nẩy lộc, khi thấy cây vả bắt đầu đâm ra các lá rộng lớn, nhận thức rằng mùa hè đã đến gần, vì đó là lúc tháng ba tháng tư.

3 – Ngày cánh chung và  giá trị các lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

Bài giảng về ngày cánh chung làm nổi bậc giá trị các lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Bởi đó cần phải tin tưởng, vâng phục và phó thác vào những gì Người giảng dạy cho, và chỉ vào lời giảng dạy của Người: "Trời đất sẽ đi qua, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu" (Mc 13, 31).

Chỉ có thể dựa vào lời giảng dạy của Chúa, cộng đồng Kitô hữu mới có  thể chạm trán lại được các biến cố nhiều khi thảm đạm có thể xảy ra và đẩy lùi các tiên tri giả buôn bán lời lẽ giả tạo vô giá trị của họ: "Bấy giờ nếu có ai bảo anh em: ! Kìa, Đấng Ki Tô ở đó ! Anh em đừng có tin! Thật vậy, sẽ có những ki tô giả và tiên tri giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những việc phi thường, để lừa gạt những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. Phần anh em, hãy coi chừng: Thầy đã báo trước tất cả cho anh em" (Mc 13, 21-23).
 
Khuynh hướng đi tìm những lời nói khác dễ nghe hơn, êm tai hơn, thích hợp với khuynh hướng tự nhiên hơn, chiều theo khuynh hướng không xứng đáng với phẩm giá con người hơn, lúc nào cũng có. Nhưng đó là những khuynh hướng làm cho con người bại hoại, lạc lối, không sao đạt được cùng đích  mà Chúa Giêsu muốn định hướng cho chúng ta, các môn đệ Người.

Cách ăn ở và tác  động của người tín hữu Chúa Kitô cũng phải là  cách hành xử khôn ngoan, chống lại khuynh hướng xác nhận thời giờ chính xác nói lúc nào Chúa Ki Tô  sẽ trở lại lần sau cùng và ngày tận thế  sắp đến, như bao nhiêu nhà chiêm tinh, xem tay, gieo quẻ, tiên đoán tình yêu không thiếu cả trong thời đại chúng ta.

Chống lại với các lối suy luận thuyết lý vẩn vơ, chúng ta có thể xác quyết rằng thời cánh chung sẽ đến, cũng có thể gần  đến, nhưng lúc nào, ngày nào giờ nào,không ai biết, ngay cả các thiên sứ và Chúa Con cũng không biết: điều đó chỉ dành riêng cho Chúa Cha quyết định. "Còn về ngày hay giờ, thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Con Người cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi" (Mc 13, 32).

Tư tưởng vừa kể, chúng ta có  thể gặp được trong các bản văn của các tiên tri: "Sẽ chỉ có một ngày độc nhất  – duy một mình Thiên Chúa biết mà thôi – không còn phần biệt ngày với đêm, ngay lúc hoàng hôn vẫn có ánh sáng" (Dc 14, 7).

   – Do thái giáo (4 Esd 4, 52 ),

   – Kitô giáo: "Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5, 1-2); "Anh em hay biết điều nầy: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trôm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để cho nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến" (Mt 24, 43-44); "Người đáp: Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần, khi Người ngự xuống trên anh em" (Cv 1, 7-8); "Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như  kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy" (2 Pr 3, 10). "Vậy hãy nhớ lại: ngươi đã lãnh nhận và nghe lời Chúa thế nào; hãy tuân giữ và hối cải! Vậy, nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biét giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi" (Ap 3, 3 ).

Những điều vừa kể được đặt nền tảng trên sự kiện là chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng trọng tài điều khiển các chuyển biến trong dòng lịch sử nhân loại. Câu nói "còn về ngày hay giờ thì không ai biết được,…, Con Người cũng không, chỉ có Chúa Cha biêt mà thôi" (Mc 13, 32), không phải Chúa Giêsu nói lên để chối bỏ thiên tính của Người, nhưng chỉ để xác nhận, Người là Con Thiên Chúa, Người vâng phục Chúa Cha, Đấng có mọi quyền tối thượng trên tất cả. Cử chỉ đó cũng được Chúa Giêsu đề cập đến khi trả lời cho hai anh em Giacôbê và Gioan về việc sắp xếp thứ bậc, Chúa Giêsu cũng đã đề cập  phớt qua: "Chén Thầy sắp uống, anh em sẽ uống; phép rửa thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai, thì người ấy mới được" (Mc 10, 39-40). Và Chúa Giêsu đã xác nhận rõ  ràng hơn trong câu trả lời cho người giàu có: "Chúa Giêsu đáp: "Sao anh gọi tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành hết, trừ một mình Thiên Chúa" (Mc 10, 18).

Chừng nào thời điểm cánh chung đến?

Người tín hữu Chúa Kitô sống không có gì phải lo lắng ngày nào giờ nào, bởi lẽ từ ngày nhận Phép Rửa, mỗi tín hữu là thành phần của Giáo Hội (cfr. Lumen Gentium, n. 2), là phần Thân Thể Chúa Kitô, đang sống hội nhập, tham dự vào đời sống Chúa Ba Ngôi, bởi đó Phép Rửa Kitô giáo là Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, tháp ghép chúng ta vào đời sống Chúa Ba Ngôi: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần…" (Mt 28, 19).

Nhờ Phép Rửa, người tín hữu Chúa Kitô đang sống với Chúa Ba Ngôi 24 tiếng trên 24, sống trong tình Cha con với Người, thì không có  gì phải lo lắng không biết lúc nào "ba- mẹ đi chợ về". Đúng hơn, đó là lúc con cái hân hoan, chạy ra mở cửa, đón cha má đem bánh kẹo về cho. Bởi lẽ lúc nào chúng ta cũng là con Thiên Chúa: "Lạy Cha chúng con ở trên trời …" (Mt 6, 9).

Ngoài Kitô giáo, không có một tôn giáo nào cho con người một địa vị và niềm hân hoan như vậy đối với vị thần mà mình tôn thờ. Vị thần của Kitô giáo không phải là vị thần sấm sét, lúc ẩn lúc hiện, đầy uy quyền và thẳng tay trừng trị trên các đỉnh núi cao ngất trời. Thiên Chúa của Kitô giáo là Cha chúng ta và chúng ta là con cái Người, có quyền gọi Người bằng Cha và tin tưởng, phó thác, buông xả con người chúng ta vào cánh tay thương yêu nhân ái Cha con của Người. "Lạy Cha chúng con ở trên trời …",

Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quên gọi Thiên Chúa và cầu nguyện với Người như vậy.
 
Nguyễn Học Tập

Nhớ Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Nhớ Ơn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, những người anh hùng trong trái tim của mỗi tín hữu đất Việt. Đây là một dịp để chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam, và cũng là một cơ hội để chúng ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh tử đạo Việt nam để lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận được một kho tàng vô giá.

Trước hết, đời sống và cái chết của các vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng ta. Trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh hưởng nặng nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của chúng ta không ngừng bị đặt lại, chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của Giáo hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin của mình. Tuy nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo, chúng ta có một lời chứng không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống vốn là điều quý giá nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các vị ấy đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám từ bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa, các ngài đã đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo của chúng ta có tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự bản chất có nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch nhất cho mọi chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.

Các Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về đời sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu thương, yêu thương Thiên Chúa và yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã chọn cái chết trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài không chỉ yêu thương những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà còn yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì các ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính trị, trước đau khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận ân phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng buộc của thế gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người.

Như hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật chết đi, máu các ngài đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa trái. Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới chúng ta là con cháu các ngài. Là những hậu duệ chúng ta chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo truyền thống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người, vẫn còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam đang được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh hùng tử đạo đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng đại của các ngài, chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.

Vietvatican

Nguyễn Minh Triệu sj

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 11-12 đến 11-18-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 11-12 đến 11-18-2012

Trích từ Xuân Bích VN

BÍ TÍCH XƯNG TỘI PHẢI LÀ ƯU TIÊN HÀNG ĐẦU.

-Bổ nhiệm mới.

Quốc Hội Séc (Tiệp Khắc)  phê chuẩn việc trả lại các tài sản bị tịch thu của Giáo Hội.

-Uỷ Ban Chính Thống giáo Nga kết thúc bản tuyên bố vị trí đứng đầu của Giáo Hội

Hội Nghị quốc tế lần 27 của Hội Đồng Giáo Hoàng về Mục Vụ Y Tế.

Tân Tổng Giám Mục nước Anh cam kết đối thoại liên tôn.

Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI  lập một Viện hàn lâm ngôn ngữ La-tinh.

Lãnh đạo Côp Công Giáo ca ngợi tân Giáo trưởng Côp Chính Thống.

Phát ngôn nhân Vatican nhấn mạnh việc Giáo Hội bênh vực bảo vệ hôn nhân.

ĐGM Paprocki gây quỹ 10 ngàn USD cho ơn thiên triệu bằng chạy việt dã .

Đức Trinh Nữ Maria hiện ra ở cửa sổ bệnh viện Malaysia ?

Giáo Hội Công Giáo không thua trận chiến về hôn nhân đồng tính.

Thông điệp về đức tin sẽ xuất hiện đầu năm tới.

Các GM Châu Á viếng Thánh Địa để “trở về nguồn” trong Năm Đức Tin.

ĐHY người Úc: Ấn toà giải tội không thể vi phạm, kể cả trong trường hợp lạm dụng.

Đào tạo thanh thiếu niên trở thành môn đệ Chúa Kitô.

Ba lối đường dẫn tới Đức tin được đổi mới.

Đại Hội Các Thầy Thuốc Công Giáo ở Roma.

Giáo trưởng Cốp doạ sẽ rút các đại diện khỏi hội đồng về điều khoản Sharia.

  ( Xem chi tiết   . . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 11-12 đến 11-18-2012 )