Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á

Chủ tịch FABC mời gọi người Công giáo Việt Nam sống đức tin làm gương cho Giáo hội Á châu

December 17, 2012

Giáo hội Việt Nam hãy nêu gương đức tin cho châu Á thumbnail

Đức Hồng y Oswald Gracias dâng Thánh lễ tại nhà thờ Đaminh Ba Chuông

Hôm 15 tháng 12, sau khi kết thúc đại hội khoáng đại Liên hội đồng Giám mục Á châu (FABC) lần thứ X tại Tòa giám mục Xuân Lộc, các tham dự viên đã chia thành 15 nhóm đến thăm Tổng giáo phận TP.HCM.

78 hồng y, tổng giám mục và giám mục cùng hàng trăm linh mục đã hiệp dâng Thánh lễ tại Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn và 14 giáo xứ thuộc 14 giáo hạt của Tổng giáo phận TP.HCM.

Tại giáo xứ Đaminh Ba Chuông, Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Đức Hồng y Oswald Gracias, Đức cha Paul Tan và Philip Banchong đã đồng tế Thánh lễ có sự tham dự của hơn 1.000 người gồm các linh mục trong giáo hạt và dòng Đa Minh, đại diện tu sĩ và bề trên các dòng.

“Tôi muốn nói với anh chị em rằng có rất nhiều điều chúng tôi cần phải học hỏi nơi cộng đoàn giáo dân Việt Nam và chúng tôi rất hãnh diện về điều đó. Tôi mong rằng tinh thần hăng say, đạo đức của anh chị em sẽ trở nên tiên phong cho các giáo hội tại Á châu” – Đức Hồng y Oswald Gracias – chủ tịch FABC – nói với cộng đoàn bằng tiếng Anh và được một linh mục dịch sang tiếng Việt.

Vị Tổng Giám mục của giáo phận Mumbai, Ấn Độ còn nhấn mạnh rằng “Tôi rất ấn tượng về tinh thần đạo đức của giáo dân Việt Nam. Những gì tôi đã thấy chứng tỏ Giáo hội Việt Nam là một Giáo hội rất sống động”.

“Vấn đề là chúng ta giữ làm sao cho đức tin đó luôn sống động và phát triển để thông truyền đức tin đó cho người khác? Làm sao để Lời Chúa đi vào đời sống chúng ta và trở thành trung tâm đời sống của mỗi người để rồi chúng ta chia sẻ nó cho người khác, cho thế giới” – vị hồng y lưu ý.

Và ngài mời gọi tất cả linh mục, tu sĩ “hãy cộng tác với nhau để đem Tin Mừng đến cho người khác và để làm được điều đó thì các cha và nữ tu trước tiên phải loan báo Tin Mừng cho bản thân bằng việc học hỏi Lời Chúa. Vì chỉ khi nào Đức Kitô ngự trị trong bản thân mình thì mình mới có thể chia sẻ Ngài cho người khác được”.

“Chúng ta phải học hỏi Lời Chúa và truyền bá cho mọi người giá trị mà Tin Mừng mang đến trong đời sống”.

Ngài nói rằng Lời Chúa phải được thực thi trong đời sống hằng ngày qua việc sống bác ái yêu thương và công bằng đối với mọi người.

“Chúa đã ban rất nhiều đặc ân cho các linh mục tu sĩ, vậy xin các vị hãy cố gắng tận dụng các đặc ân đó, phát triển các đặc ân đó nhiều hơn nữa” – ngài nhắn nhủ.

“Tôi sẽ tiếp tục cầu nguyện cho giáo dân Việt Nam và xin mọi người hãy cầu nguyện cho chúng tôi – các vị giám mục Á châu”.

Tiếng vỗ tay vang rền khi Đức Hồng y Oswald Gracias ngỏ lời chúc mừng Lễ Giáng sinh đến cộng đoàn và cảm ơn những bài thánh ca được hát bằng tiếng Latinh trong Thánh lễ đã khiến ngài rất xúc động.

Đáp lại mời gọi trên, cha Giuse Trần Hòa Hưng – Chủ tịch Liên hiệp các bề trên thượng cấp Việt Nam – nói rằng “Chúng con tin tưởng cuộc gặp gỡ trong Thánh lễ này sẽ củng cố thêm sức mạnh đức tin, thắt chặt mối dây hiệp thông huynh đệ đồng thời mở ra niềm hy vọng mới cho tất cả tín hữu trong toàn giáo phận”.

Vị linh mục đồng thời là giám tỉnh dòng Don Bosco còn cam kết rằng “trong Năm Đức Tin này, toàn thể gia đình giáo phận, các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân cố gắng xây dựng cộng đoàn hiệp nhất, yêu thương và nhiệt thành loan báo Tin Mừng”.

Tổng giáo phận TP.HCM hiện có hơn 200 giáo xứ với 700,000 giáo dân do hai giám mục, 700 linh mục và 5.764 tu sĩ coi sóc.

Sáng ngày 16 tháng 12, các đại biểu FABC đã dâng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Sau Thánh lễ, Đức Hồng y Oswald Gracias công bố sứ điệp của Đại hội với chín điểm trọng tâm: gặp gỡ Đức Kitô, nhiệt thành loan báo Tin Mừng, tập chú vào Nước Trời, dấn thân xây dựng sự hiệp thông, đối thoại, khiêm tốn, nhất tâm bảo vệ phẩm giá con người, liên đới với các nạn nhân trong xã hội, và can đảm thể hiện đức tin bằng sự hy sinh.

Đại hội FABC bốn năm một lần được tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam có chủ đề “40 năm FABC: Đáp ứng những thách đố tại Á châu” từ ngày 10-16/12.

UCANEWS VIETNAM

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng

                                                                     Francis Rodrigues từ Mangalore India 
Tang lễ vị Đại diện giáo hoàng thumbnail
Đại diện Bờ Biển Ngà tham dự tang lễ của Đức cha Dr Ambrose Madtha

Đức Tổng giám mục đại diện Đức Thánh cha Ambrose Madtha được mai táng tại quê nhà Beltanghady, miền nam Ấn Độ, vào thứ Bảy qua đời do bị tai nạn xe. Vụ tai nạn xảy ra vào ngày 8-12 tại Bờ Biển Ngà, nơi ngài được bổ nhiệm làm đại diện Tòa Thánh gần đây nhất.

Đức cha Madtha qua đời ở tuổi 57, làm sứ thần Tòa Thánh tại 6 quốc gia trong đó có Đài Loan, Albania và Bờ Biển Ngà.

Khoảng 3.500 người tham dự tang lễ của ngài tại nhà thờ giáo xứ Chúa Cứu Thế ở Beltanghady, bang Karnataka, trong đó có một phái đoàn đến từ Bờ Biển Ngà.

Đức cha Madtha được xem là người kiến tạo hòa bình đáng tin cậy tại nhiều nơi ngài được bổ nhiệm.

Lãnh đạo Hồi giáo, Dosso có mặt trong phái đoàn Bờ Biển Ngà, nói Đức cha Madtha đã xây dựng cầu nối giữa các tín ngưỡng, hồi tưởng lại việc ngài in và phát 120 bản sao kinh Qu’ran sau khi một Kitô hữu đốt sách thánh của Hồi giáo, khơi lên phản đối kịch liệt.

“Đó là cử chỉ vĩ đại … nhằm duy trì hòa bình và thân ái. Và là lý do tôi đến tham dự tang lễ”, Dosso nói.

Vào cuối năm 2010, ngài đóng vai trò người trung gian trong hậu trường khi cựu tổng thống Bờ Biển Ngà Laurent Gbagbo cố tình nắm giữ quyền lực sau khi tranh cử thất bại.

Tại Đài Loan – nơi ngài được bổ nhiệm đầu tiên – Đức cha Madtha lúc đó đã thu xếp cho tổng thống Trần Thủy Biển tham dự tang lễ của Đức Gioan Phaolô II. Chưa từng có lãnh đạo nào của quốc đảo bị cô lập ngoại giao này viếng thăm Vatican trước đó.

UCANEWS VIETNAM

Toàn Văn Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

Toàn Văn Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi

 

Anh chị em thân mến,

Nhân dịp lần thứ 50 ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi, được tổ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 2013, Ngày Chúa Nhật Thứ 4 Phục Sinh, tôi muốn mời gọi các bạn phản tỉnh về chủ đề: Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng đặt nền tảng trên đức tin, được diễn ra trong năm Đức Tin cùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc công Đồng Vaticano II. Trong khi Công Đồng đang họp, Tôi tớ Chúa, Đức Phaolô VI, đã thiết lập ngày toàn thể Giáo hội cầu nguyện cho ơn gọi. Vào ngày này, mọi người được mời gọi để cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha, xin Ngài tiếp tục sai các thợ gặt đến với Giáo Hội (Mt 9,38). Tại thời điểm đó, Ngài nói rằng: “Vấn đề có đủ số lượng các linh mục có một ảnh hưởng trực tiếp đến mọi tín hữu, không chỉ vì linh mục là nền tảng của xã hội Kitô giáo trong tương lai, nhưng hơn thế, việc có đủ số linh mục là một dấu chỉ rõ ràng của sức sống đức tin và là dấu chỉ tình yêu thương của mỗi giáo xứ cũng như các cộng đoàn giáo phận, đồng thời nó cũng là dấu chỉ rõ ràng về một đời sống luân lý lành mạnh nơi các gia đình Kitô hữu. Nơi đâu ta càng thấy có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, nơi đó người ta đang sống Tin Mừng với sự quảng đại lớn lao (Đức Phaolô VI, Sứ Điệp Radio, 11 tháng 4 năm 1964).

Trong suốt nhiều thế kỷ qua, các cộng đoàn Kitô hữu khác nhau từ khắp nơi trên thế giới quây quần bên nhau vào ngày Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh và cùng nhau cầu nguyện để xin Thiên Chúa những món quà ơn gọi linh thánh, đồng thời gợi ý cho mọi người tiếp tục phản tỉnh về nhu cần khẩn thiết trong việc đáp trả lời mời gọi linh thánh. Thực vậy, hàng năm sự kiện quan trọng này đã giúp các Kitô hữu thấy được tầm quan trọng của ơn gọi linh mục và tu sĩ, và nhờ đó giúp họ ý thức về điều này trong đời sống thiêng liêng, cầu nguyện và tông đồ của mình.

Hy vọng là một sự trông mong về một điều gì đó tích cực trong tương lai, nhưng mặt khác nó cũng nuôi dưỡng hiện tại thường bị ghi dấu bởi những bất mãn và thất bại. Vậy, đâu là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta? Nhìn vào lịch sử của dân tộc Do thái, được tường thuật lại trong Cựu Ước, chúng ta thấy một yếu tố luôn xuất hiện, đặc biệt là trong những thời điểm khó nhăn như thời Lưu Đày, một yếu tố được tìm thấy đặc biệt nơi các bài viết của các Ngôn Sứ, đó là việc Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa với các Tổ Phụ: Một sự ghi nhớ mời gọi chúng ta bắt chước mẫu gương sáng chói của Tổ Phụ Abraham, ngài “mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: “Dòng dõi người sẽ đông đảo như thế” (Rm 4,18). Một chân lý đầy an ủi và có tính soi sáng luôn hiển lộ trong toàn bộ lịch sử cứu độ, đó chính là sự trung tín của Thiên Chúa đối với Giao Ước. Ngài luôn đi vào Giao Ước và đổi mới nó, bất chấp con người đã phá vỡ nó khi bất trung và phạm tội, từ thời lụt hồng thủy (St 8,21-22) đến lúc xuất hành và ngang qua cuộc hành trình qua sa mạc (x. Dt 9,7).

Sự trung tín đó khiến cho Thiên Chúa tiếp tục ký kết một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu với con người, nhờ vào máu của Người Con, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta. Trong mỗi giây phút, đặc biệt là trong những lúc khó khăn, sự trung tín của Thiên Chúa luôn là nguồn sức mạnh đích thực của lịch sử cứu độ. Sức mạnh này khơi nên trong trái tim của những người nam và người nữ một niềm xác tín vững chắc vào niềm hy vọng rằng một ngày họ sẽ đạt đến “Đất Hứa”. Đây chính là nơi chúng ta tìm thấy nền tảng chắc chắn của mọi hy vọng: Thiên Chúa chưa bao giờ từ bỏ chúng ta và Ngài vẫn luôn trung tín với Lời của mình. Vì lý do đó, trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay khó khăn, chúng ta vẫn có thể nuôi dưỡng một niềm hy vọng chắc chắn và cầu nguyện với Thánh Vịnh: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến (Tv 62, 6).

Như thế, để có hy vọng, chúng ta cần tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng tín trung, Ngài luôn giữ lời hứa đã giao ước. Vì thế, đức tin và hy vọng có mối liên hệ mật thiết với nhau. “Thực ra, “Hy vọng” là một từ chủ yếu trong Thánh Kinh – đến mức trong nhiều đoạn những từ “đức tin” và “hy vọng” dường như có thể hoán chuyển cho nhau. Vì thế Thư Do Thái liên kết chặt chẽ “sự viên mãn của đức tin” (10:22) với “sự tuyên xưng cách quả quyết niềm hy vọng của chúng ta” (10:23). Cũng thế, trong thư Thứ Nhất, khi Thánh Phêrô khích lệ các Kitô hữu hãy luôn luôn sẵn sàng đưa ra câu trả lời liên quan đến logos – ý nghĩa và lý do –cho niềm hy vọng của họ (x. 3:15), thì từ “hy vọng” là tương đương với từ “đức tin” (Spe Salvi, 2).

Anh chị em thân mến, Chính xác thì sự trung tín của Thiên Chúa là gì mà chúng ta có thể đặt để niềm hy vọng của mình? Thưa, đó chính là tình yêu của Ngài. Ngang qua Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa là Đấng đã đổ tràn tình yêu vào nơi sâu thẳm nhất trong mỗi chúng ta (xem Rm 5,5). Và tình yêu này, được biểu lộ trọn vẹn nơi Đức Kitô, đã thấm sâu vào tâm khảm mỗi chúng ta và đòi hỏi một lời đáp trả ngang qua cách thức mà mỗi cá nhân muốn chọn lựa cách sống cho riêng mình. Tình yêu Thiên Chúa đôi lúc dẫn người ta tới nơi mà mình chưa bao giờ tưởng tượng, nhưng tình yêu này cũng luôn dẫn ta đến với những con người mà ta muốn tìm gặp. Như thế, hy vọng được dưỡng nuôi bởi sự xác tín này: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1 Ga 4,16).

Tình yêu sâu xa và mang tính đòi hỏi này đã thấm sâu vào chúng ta và trao ban cho chúng ta một niềm can đảm. Tình yêu này cũng trao cho ta niềm hy vọng vào cuộc hành trình của mình, vào lịch sử và tương lai. Cách riêng, cha muốn nhắn nhủ với các bạn trẻ, cha muốn nhắc lại rằng: “Sự sống của các con sẽ là gì nếu thiếu tình yêu này? Thiên Chúa chăm sóc mọi người nam và người nữ từ khi tạo dựng đến khi thời gian tới hồi viên mãn, khi Ngài hoàn tất kế hoạch cứu độ của mình. Nơi Thiên Chúa Phục Sinh, chúng ta có một niềm hy vọng chắc chắn” (Bài Huấn Dụ Dành Cho Các Bạn Trẻ Thuộc Giáo phận Sang Marino – Montefeltro, 19 tháng 6 năm 2011). Như xưa Đức Giêsu đã sống cuộc đời dương thế như thế nào, thì hôm nay Đức Giêsu Phục sinh cũng đồng hành trong cuộc sống của chúng ta như vậy. Ngài dìm mình vào hành động của chúng ta, với tất cả khao khát và nhu cầu của ta. Giữa mọi hoàn cảnh, Đức Giêsu tiếp tục nói với chúng ta; Ngài mời gọi chúng ta sống với Ngài, vì chỉ duy Ngài là Đấng có thể thỏa đáp được mọi khát vọng nơi ta. Giờ đây, Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn các môn đệ chính là Giáo Hội, và Ngài vẫn mời gọi mọi người bước theo mình. Lời mời gọi này có thể đến bất kỳ lúc nào. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục cất lời: “Hãy đến và theo tôi” (Mc 10,21). Chấp nhận lời mời gọi này nghĩa là không còn chọn lựa con đường của riêng mình nữa. Theo Ngài nghĩa là đặt để ý muốn của chúng ta nơi Ý muốn của Đức Giêsu, trao ban cho Ngài chính mình, đặt Ngài vào vị trí trổi vượt trong mọi lĩnh vực của đời sống: gia đình, công việc, sở thích riêng và chính bản thân mình. Theo Đức Giêsu cũng có nghĩa là giao nộp chính chúng ta cho Ngài, sống trong tình thân mật với Ngài, và nhờ Ngài đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, và cũng là với anh chị em chúng ta. Sự hiệp thông đời sống với Đức Giêsu là một “tình trạng” đặc ân, nơi đó chúng ta có thể kinh nghiệm được niềm hy vọng và nơi đó đời sống chúng ta trở nên tròn đầy và tự do.

Ơn gọi linh mục và tu sĩ được nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô, từ một cuộc đối thoại chân thành và đầy tin tưởng với Ngài, nhờ đó đi vào trong ý muốn của Ngài. Do đó, điều cần thiết là phải lớn lên trong kinh nghiệm về đức tin, được hiểu như là một mối liên hệ sâu xa với Đức Giêsu, như là một sự lắng nghe nội tâm đối với tiếng nói của Ngài vốn âm vang trong sâu thẳm cõi lòng chúng ta. Tiến trình này, một tiến trình mà ngang qua đó chúng ta đáp trả một cách tích cực đối với lời mời gọi của Thiên Chúa, chỉ khả thi nơi những cộng đoàn Kitô hữu sống đức tin một cách mạnh mẽ và quảng đại làm chứng cho Tin Mừng, nơi có một cảm thức truyền giáo mạnh mẽ đến nỗi thúc đẩy người ta hiến mình cho Nước Thiên Chúa. Tiến trình này được nuôi dưỡng bởi các bí tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và ngang qua một đời sống cầu nguyện liên lỉ. Đời sống cầu nguyện, “một đàng là cái gì đó rất riêng tư, là một cuộc gặp gỡ giữa thâm sâu của chính tôi với Chúa, Thiên Chúa hằng sống. Đàng khác, lời cầu ấy phải luôn được hướng dẫn và soi sáng bởi những kinh nguyện quý giá của Giáo Hội và của các thánh, và bởi lời cầu phụng vụ, trong đó Chúa dạy đi dạy lại chúng ta làm thế nào cầu nguyện cho xứng hợp” (Spe Salvi, 34).

Đời sống cầu nguyện sâu xa và bền bỉ giúp tăng trưởng đức tin nơi cộng đoàn Kitô hữu. Đồng thời đời sống cầu nguyện cũng giúp đổi mới không ngừng niềm xác tín rằng Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Ngài và luôn nuôi dưỡng họ bằng cách trao ban những ơn gọi đặc biệt – ơn gọi linh mục và tu sĩ – để họ có thể là dấu chỉ hy vọng cho thế giới. Thực vậy, linh mục và tu sĩ được mời gọi để trao ban chính mình một cách vô điều kiện cho Dân Thiên Chúa, trong một sự phục vụ yêu thương cho Tin Mừng và Giáo hội, với niềm xác tín vào niềm hy vọng vốn chỉ có thể đến từ một sự mở ra đối với Thiên Chúa. Do đó, ngang qua những chứng tá về đức tin và lòng nhiệt thành tông đồ, họ có thể thông truyền, đặc biệt với các thế hệ trẻ, một khao khát mạnh mẽ để quảng đại và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Kitô, Đấng mời gọi họ bước theo Ngài một cách gần gũi hơn. Khi một người môn đệ của Đức Giêsu chấp nhận lời mời gọi thần linh để dâng hiến chính mình trong đời sống linh mục hay tu trì, chúng ta chứng kiến một hoa trái chín mùi nhất của cộng đoàn Kitô hữu, giúp chúng ta nhìn vào tương lai của Giáo Hội và sứ mạng rao giảng Phúc Âm của Giáo Hội trong niềm tin tưởng và hy vọng. Điều này đòi hỏi cần có những người thợ gặt mới để công bố Tin Mừng, để cử hành Thánh Lễ và bí Tích Hòa Giải. Vì thế, không thể thiếu những linh mục nhiệt thành, những người luôn ở bên người trẻ với tư cách là “những người bạn đồng hành”, giúp đỡ họ, trong bước đường đời đầy khó khăn và cam go, nhận ra Đức Ki-tô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (xem Ga 14,6). Các linh mục cũng là người nói cho người trẻ về lòng can đảm của Tin Mừng, về vẻ đẹp của việc phục vụ Thiên Chúa, cộng đoàn Kitô hữu và anh chị em của mình! Các linh mục là hiện thân của hoa trái phát sinh từ một sự dấn thân nhiệt thành vốn trao ban ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của họ, vì đời sống này được đặt nền tảng trên niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước ( x. Ga 4,19).

Các bạn trẻ thân mến, dẫu các con đang phải đối diện với biết bao nhiêu lựa chọn hời hợt và chóng qua, cha hy vọng các con vẫn có thể nuôi dưỡng khao khát về điều gì có giá trị đích thực với những mục đích cao cả, những lựa chọn triệt để trong việc phục vụ tha nhân và bắt chước Đức Kitô.

Các con đừng sợ bước theo Đức Giêsu và bước đi trên con đường đức ái đầy đòi hỏi và sự can đảm này. Trên hành trình này, các con sẽ hạnh phúc để phục vụ và làm chứng về một niềm vui mà thế giới không thể trao ban; các con sẽ là những ngọn lửa sống động về một tình yêu vô hạn và vĩnh cửu; và các con sẽ học để sẵn sàng đưa ra một câu trả lời cho niềm hy vọng nơi các con” (Pr 3,15).

Nguyễn Minh Triệu sj Chuyển ngữ – Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp Chủ tịch chính quyền Palestine

Đức Thánh Cha tiếp Chủ tịch chính quyền Palestine

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 17 tháng 12-2013 dành cho Chủ tịch Chính quyền Palestine, Ông Mahmoud Abbas, ĐTC tái kêu các vị lãnh đạo liên hệ can đảm thực hiện hòa giải và hòa bình.

Theo thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh, sau khi gặp ĐTC, Ông Mahmoud Abbas đã gặp ĐHY Quốc vụ khanh Bertone và Đức TGM ngoại trưởng Mamberti.

Trong các cuộc nói chuyện thân mật, các vị nhắc đến nghị quyết mới được Đại hội đồng LHQ thông qua, nhìn nhận Palestine như một quốc gia Quan sát viên không thành viên. Tòa Thánh cầu mong rằng sáng kiến này khích lệ nỗ lực của Cộng đồng quốc tế tìm một giải pháp công chính và lâu bền cho cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, hòa bình này chỉ có thể đạt được nhờ việc mở lại cuộc thương thuyết giữa các phe liên hệ, trong sự ngay tình, và tôn trọng quyền lợi của mọi người.

Các vị cũng nói đến sự đóng góp của các cộng đồng Kitô cho công ích của xã hội tại lãnh thổ của người Palestine và trong toàn vùng Trung Đông.

Đây là lần thứ 6 chủ tịch chính quyền Palestine gặp ĐGH. Tháp tùng ông Mahmoud Abbas, có 8 người. Ông đã tặng ĐTC một bức tranh khảm diễn tả Đền thờ thánh mộ Jerusalem. Ngài tặng lại cho ông một bức tranh với hình các phông-ten trong Vườn Vatican. (SD 17-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin

Năm Đức Tin: Nguy Cơ Của Tiền Bạc Cho Đời Sống Đức Tin

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

Sống đức tin Công Giáo cách sâu sắc và tưởng thành không những đòi hỏi phải có can đảm để tuyên xưng đức tin ấy bằng hành động cụ thể bên ngoài qua việc chu toàn những bổn phận thiêng liêng của người tín hữu sống trong Giáo Hội, như siêng năng việc thờ phượng Chúa, học hỏi lời Chúa, năng lãnh nhận các bí tích ban ơn cứu độ như Thánh Thể và hòa giải, và làm nhân chứng cho Chúa Kitô trước mặt người đời -mà hơn nữa- còn phải ý thức sâu xa về những nguy cơ đe dọa đức tin đó nữa.

(Xem tiếp . . . .Năm Đức Tin- Nguy cơ của tiền bạc cho đời sống Đức Tin )

Đức Thánh Cha đề cao gia trị của thể thao

Đức Thánh Cha đề cao gia trị của thể thao

VATICAN. Sáng 17 tháng 12-2012, trong buổi tiếp kiến phái đoàn của Ủy ban quốc gia Italia về Olympic, ĐTC đề cao vai trò của thể thao và mời gọi các vận động viên trong hoạt động này luôn phục vụ con người.

Trong số 200 người thuộc phái đoàn có nhiều vận động viên đã tham dự các cuộc tranh tài thế vận Olympic ở Luân đôn, Anh quốc, mùa hè năm nay đã đạt được 28 huy chương, trong đó có 8 huy chương vàng.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC khẳng định rằng ”Mỗi hoạt động thể thao, dù là ”chơi tài tử” hay chuyên nghiệp để tranh giải, đều đòi phải có sự lương thiện trong cuộc thi đua, tôn trọng thân xác của mình, ý thức liên đới, vị tha và cả niềm vui, sự mãn nguyện và mừng lễ. Tất cả những điều đó đòi phải có một hành trình trưởng thành về nhân bản thực sự, với những sự từ bỏ, kiên trì, nhẫn nại, và nhất là khiêm tốn. Đức tính này không được hoan nghênh nhưng nó chính là bí quyết chiến thắng”.

ĐTC cũnh nhận định rằng điều quan trọng trong thể thao, không những là tôn trọng qui luật, nhưng còn phải có một nhân sinh quan, đồng thời người thực hành thể thao cần có một nền giáo dục, linh đạo, và các giá trị siêu việt. Thực vậy, thể thao là một thiện ích về giáo dục và văn hóa, có khả năng biểu lộ cho con người chính bản thân và giúp họ hiểu giá trị sâu xa của cuộc sống”.

ĐTC đề cao sứ mạng của các vận động viên, như những người chiếm giải vô địch và chứng nhân. Ngài nói: ”Đối với những người ngưỡng mộ, các bạn có thể là những mẫu gương giá trị mà họ muốn noi theo.”

Nhắc đến Năm Đức Tin, ĐTC nói thêm rằng: ”Tôi muốn nhấn mạnh điều này là hoạt động thể thao có thể giáo dục con người trong việc thi đua về đàng thiêng liêng, nghĩa là sống mỗi ngày, nỗ lực làm cho sự thiện chiến thắng sự ác, sự thật thắng gian dối, tình yêu thắng hận thù, và điều này cần diễn ra nơi chính bản thân mình. Và khi nghĩ đến công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, cả thế giới thể thao cũng có thể được coi là một ”tiền đường dân ngoại” thời nay, nghĩa là một cơ hội quí giá để gặp gỡ, cởi mở đối với mọi người, dù họ có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, trong đó người ta cảm nghiệm niềm vui, và các những vất vả khi đối chiếu mình với những người thuộc các văn hóa, ngôn ngữ, và hướng đi tôn giáo khác”. (SD 17-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma

VATICAN. Sáng chúa nhật 16 tháng 12-2012, ĐTC đã viếng thăm giáo xứ thánh Patricio ở Roma. Đây là giáo xứ thứ 2 tại Roma được ngài viếng thăm trong năm nay.

Xứ này thuộc khu vực Đồi Prenestino ở mạn Đông Roma, được thành lập hồi giữa thập niên 1980. Sau nhiều khó khăn ban đầu, giáo xứ có được một thánh đường mới được thánh hiến hồi năm 2007 sau một thời gian dài chờ đợi. Hiện nay có gần 8 ngàn dân thuộc giáo xứ này và do Cha Fabio Fasciani làm chánh xứ. Đến nơi vào lúc quá 9 giờ rưỡi, ĐTC đã được ĐHY Giám quản Vallini, Đức cha phụ tá khu vực Giuseppe Marciante cùng với 8 LM tiếp đón. Ngài đặc biệt chào thăm lối 30 đôi vợ chồng trẻ có con được rửa tội trong năm qua, trước khi cử hành thánh lễ trước sự hiện diện của hơn 500 người ngồi chật thánh đường. Nhiều người khác tham dự thánh lễ từ bên ngoài hoặc qua truyền hình.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng, ĐTC nhắc đến đặc tính và ý nghĩa của chúa nhật thứ 3 mùa vọng, cũng được gọi là ”Chúa nhật ‘Gaudete’ (Anh chị em hãy vui mừng). Ngài nói: ”Chúa nhật này phụng vụ mời gọi chúng ta hãy vui lên. Mùa vọng là một dấn thân và hoán cải để chuẩn bị Chúa đến; nhưng hôm nay Giáo Hội cho chúng ta nếm hưởng trước niềm vui của lễ Giáng Sinh đang đến gần. Thực vậy, Mùa vọng cũng là mùa vui mừng, vì trong đó niềm mong đợi Chúa Cứu Thế được khơi dậy trong tâm hồn các tín hữu, và việc chờ đợi một người mà chúng ta yêu mến sắp đến, luôn luôn là lý do làm chúng ta vui mừng.”

Tiếp đến, ĐTC lần lượt giải thích ý nghĩa của 3 bài đọc trong ngày lễ:

– Bài đọc thứ I là một lời mời gọi tha thiết hãy vui mừng và bắt đầu bằng câu ”Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui lên.. Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nhảy mừng và hết lòng tung hô” (Sofonia 3,14). Câu này cũng giống như lời loan báo của Thiên Thần với Mẹ Maria ”Hỡi Bà đầy ơn phúc, hãy vui lên” (Lc 1,26). Lý do chính yếu để thiếu nữ Sion có thể vui mừng được diễn tả trong lời quả quyết mà chúng ta đã nghe, đó là ”Chúa đang ở giữa bạn” (Xp 3,15.17)… Ngôn Sứ muốn nói với chúng ta rằng không có lý do gì để thất vọng, nản chí, buồn sầu, dù tình trạng ta phải đương đầu có thế nào đi nữa, vì chúng ta chắc chắn về sự hiện diện của Chúa, nguyên sự hiện diện ấy cũng đủ để làm cho con tim được thanh thản và hân hoan.

– Trong bài đọc II, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu thành Philiphê vui lên trong Chúa. Tại sao cần vui mừng? Thưa vì ”Chúa đang đến gần!” (Pl 4,5). Trong vài ngày nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa đến, Ngài trở thành trẻ thơ và anh em của chúng ta để ở với chúng ta, và chia sẻ thân phận phàm nhân của chúng ta. Chúng ta phải vui mừng vì sự gần gũi, vì sự hiện diện của Chúa. Thánh Tông đồ mạnh mẽ nói trong một thư khác rằng không điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô. Chỉ có tội lỗi mới làm cho chúng ta xa Chúa.. Nhưng cả khi chúng ta lìa xa Chúa, Ngài vẫn không ngừng yêu thương và gần gũi chúng ta trong lượng từ bi của Ngài, sẵn sàng tha thứ và tái đón nhận chúng ta trong tình thương của Ngài”.

– Sau cùng bài Phúc Âm hôm nay nói rằng để đón tiếp Chúa chúng ta phải chuẩn bị, cứu xét kỹ lưỡng lối sống của chúng ta. Với những người hỏi thánh Gioan Tẩy Giả xem phải làm gì để sẵn sàng đón Đấng Cứu Thế đến (Xc Lc 3,10.12.14), thánh nhân trả lời rằng Thiên Chúa không đòi điều gì ngoại thường, nhưng Chúa muốn mỗi người sống theo các tiêu chuẩn liên đới và công bằng; nếu không có những đức tính này thì ta không thể chuẩn bị tốt đẹp để gặp gỡ Chúa.

ĐTC cũng ghi nhận sự khiêm tốn sâu xa của thánh Gioan khi thánh nhân xác nhận sứ mạng của mình chỉ là dọn đường cho Chúa Giêsu, đồng thời Người loan báo một Đấng ”mạnh mẽ hơn”, sẽ làm phép rửa ”trong Thánh Linh và lửa” chứ không phải trong nước.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC chào thăm mọi người hiện diện, từ ĐHY Giám quản, tới cha sở và các thành phần khác nhau trong giáo xứ, và cả các em đang học giáo lý. Ngài nhắn nhủ rằng ”Năm Đức Tin chúng ta đang sống phải trở thành cơ hội để làm tăng trưởng và củng cố kinh nghiệm về việc giảng dạy giáo lý, làm sao để toàn thể khu phố này được nhận biết và đào sâu đạo lý của Giáo Hội và gặp gỡ Chúa như một Nhân Vật Sinh Động. Tôi đặc biệt ngỏ lời với các gia đình, và cầu chúc họ hoàn toàn thực hiện được ơn gọi yêu thương với lòng quảng đại và kiên trì. Sau cùng ĐTC khích lệ các trẻ em nam nữ và những người trẻ trong giáo xứ và nói rằng: ”Các con hãy cảm thấy mình là những người thực sự giữ vai chính trong công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, dành trọn năng lực tươi mát, lòng hăng say, khả năng của các con để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân trong cộng đoàn”.

Sau khi kết thúc thánh lễ, ĐTC còn dừng lại tại nhà nguyện nơi cử hành thánh lễ ngày thường, để chào thăm những người già cả và anh chị em bệnh nhân.

Kinh Truyền Tin

Trở về Vatican, ĐTC đã xuất hiện lúc quá 12 giờ trưa tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với 40 ngàn tín hữu tại Quảng trường thánh Phêrô, trong đó có đông đảo các trẻ em và thân nhân thuộc các giáo xứ ở Roma.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC quảng diễn ý nghĩa bài Phúc Âm chúa nhật thứ 3 mùa vọng hôm qua, với cảnh tượng thánh Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng đến xin Ngài làm phép rửa ở sông Giordan. Vì thánh Gioan dùng những lời nghiêm nghị khuyên mọi người chuẩn bị đón Đức Cứu Thế đến, một số người hỏi thánh nhân: ”Chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3,10.12.14). Các cuộc đối thoại này thật ý nghĩa và rất thời sự.

Câu trả lời thứ I của thánh nhân hướng về tập thể dân chúng. Thánh Gioan Tẩy Giả nói: ”Ai có hai áo chùng, thì hãy cho người không có một áo, và ai có lương thực để ăn thì cũng hãy làm như vậy” (v.11). Ở đây chúng ta có thể thấy một tiêu chuẩn công lý, được đức bác ái linh hoạt. Công lý đòi phải vượt thắng sự chênh lệch giữa người có dư thừa và người thiếu những điều tối cần thiết; bác ái thúc đẩy quan tâm đến người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, thay vì tìm kiếm những lý lẽ biện minh để bảo vệ tư lợi. Công lý và bác ái không đối nghịch nhau, nhưng cả hai đều cần thiết và bổ túc cho nhau. ”Tình thương luôn luôn là điều cần thiết, cả trong một xã hội công bằng nhất”, vì ”luôn luôn có những tình trạng thiếu thốn về vật chất trong đó sự trợ giúp là điều tối cần thiết trong sự yêu thương cụ thể đối với tha nhân” (Deus caritas est, 28)

Câu trả lời thứ hai của thánh Gioan dành cho một số người thu thuế cho người Roma. Những người này bị khinh rẻ vì họ thường lợi dụng địa vị để ăn cắp. Thánh Gioan không bảo họ phải đổi nghề, nhưng đừng đòi thêm điều gì khác ngoài mức đã được ấn định (Xc v.13). Nhân danh Thiên Chúa, vị Ngôn Sứ không đòi phải có những cử chỉ ngoại thường, nhưng trước tiên hãy chu toàn nghĩa vụ của mình một cách lương thiện. Bước đầu tiên tiến về cuộc sống đời đời luôn luôn là tuân giữ các giới răn; trong trường hợp này đó là giới răn thứ bẩy: ”chớ trộm cắp” (Xc Xh 20,15).

Câu trả lời thứ ba liên quan đến các binh sĩ, một loại người có một quyền bính nào đó, và vì thế dễ bị cám dỗ lạm quyền. Với các binh sĩ, thánh Gioan nói: ”Đừng ngược đãi và đừng bóc lột ai; hãy hài lòng với đồng lương của các anh” (v.14). Cả trong trường hợp này, sự hoán cải bắt đầu bằng sự lương thiện và tôn trọng tha nhân: chỉ dẫn này có giá trị đối với mọi người, nhất là những người có trách nhiệm lớn hơn.

ĐTC nhận xét rằng ”xét chung các cuộc đối thoại này, điều gây ấn tượng mạnh nhất là tính chất rất cụ thể trong những lời của thánh Gioan: Vì Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về những gì chúng ta làm, nên trong cách cư xử cần chứng tỏ chúng ta tuân theo ý Chúa. Và chính vì thế, những chỉ dẫn của thánh Gioan Tẩy Giả vẫn luôn thời sự: cả trong thế giới phức tạp của chúng ta ngày nay, tình thế sẽ khá hơn nếu mỗi người tuân giữ các qui luật hành xử này. Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, giúp chúng ta chuẩn bị Lễ Giáng sinh với nhiều thành quả tốt đẹp của sự hoán cải.

Kêu gọi và chào thăm Sau kinh Truyền Tin và phép lành, ĐTC nhắc nhở mọi người rằng: ”Từ ngày 28-12 đến 2-1 tới đây, tại Roma sẽ có cuộc gặp gỡ các bạn trẻ Âu Châu do Cộng đồng Taizé cổ võ. Tôi cám ơn các gia đình theo truyền thống hiếu khách của Roma, đã sẵn sàng đón tiếp các bạn trẻ ấy. Cám ơn Chúa, vì số cầu nhiều hơn số cung, tôi lập lại lời kêu gọi đã gửi đến các giáo xứ, để các gia đình khác, trong sự đơn sơ, cũng có thể trải qua kinh nghiệm thật đẹp về tình thân hữu Kitô.”

Theo tòa Giám Quản Roma, có hơn 40 ngàn bạn trẻ Kitô Âu Châu thuộc các hệ phái Kitô, về đây tham dự cuộc gặp gỡ.

Trong lời chào thăm các tín hữu hành hương, bằng tiếng Pháp, ĐTC nhắc đến chúa nhật thứ ba mùa vọng là chúa nhật vui mừng, nhưng ngài đặt câu hỏi: ”Nhưng sự vui mừng có nghĩa gì khi mà con người đang chịu đau khổ vì thử thách hoặc cô đơn? Trong năm Đức Tin này, chúng ta cố gắng coi cuộc sống và những khó khăn của chúng ta với cặp mắt đức tin, để khám phá thấy Chúa Kitô là nguồn mạch vui mừng! Sự hiện diện của Chúa có sứ cứu độ, giải thoát con tim chúng ta khỏi những gì làm chúng ta lo âu; sự hiện diện của Ngài đổi mới và làm cho hòa dịu. Đúng vậy, chúng ta hãy vui lên trong Chúa đang tới! Ước gì niềm vui của chúng ta cũng lan tỏa trong các gia đình, nơi làm việc, trong các cộng đoàn và đất nước chúng ta bằng những cử chỉ quan tâm, chia sẻ và tha thứ!

Với các tíin hữu nói tiếng Anh, ĐTC nhắc đến vụ thảm sát 28 người hôm 14 tháng 12-2012 và nói: ”Tôi rất đau buồn vì bạo lực vô nghĩa lý xảy ra hôm thứ sáu vừa qua tại thành phố Newtown bang Connecticut. Tôi bảo đảm sự gần gũi của tôi trong kinh nguyện, với các gia đình nạn nhân, nhất là những gia đình bị mất một người con. Xin Thiên Chúa của sự ủi an đánh động tâm hồn và thoa dịu nỗi đau khổ của họ. Trong mùa vọng này, chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện sốt sắng hơn và hoạt động cho hòa bình. Tôi khẩn cầu dồi dào phúc lành của thiên Chúa cho những người bị thương tổn vì thảm trạng này và mỗi người trong anh chị em.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, ĐTC đặc biệt chào thăm các em bé Roma đến đây để xin làm phép tượng Chúa Hài Đồng. Ngài nói: ”Các con rất thân mến, trong khi cha làm phép các tượng Chúa Giêsu mà các con sẽ đặt trong hang đá của các con, cha thành tâm chúc lành cho mỗi người trong các con và gia đình các con, cũng như cho các thầy cô và Trung Tâm sinh hoạt của các trẻ em thuộc các giáo xứ (oratorio) Roma.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-10 đến 12-16-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-10 đến 12-16-2012

Trích từ Xuân Bích VN

Tự do tôn giáo và O.S.C.E.BỔ NHIỆM MỚI. –Báo Vatican ca ngợi sự phát triển của Giáo Hạt Tòng Nhân Hoa Kỳ. –Luật mới nước Anh sẽ chấm dứt việc cấm người Công giáo trong hoàng gia.ACHENTINA :Một bức tượng Đức Trinh Nữ khóc những giọt lệ máu. –Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế : tham nhũng tăng ở Việt Nam, Lào, Trung Quốc.Hiệp hội các linh mục Ái Nhĩ Lan ủng hộ Bourgeois. –Toà Thánh phê chuẩn tư cách pháp nhân Giáo Hạt Tòng Nhân ở Canada.Quyết định xét xử các vụ kiện hôn nhân là “thời khắc quan trọng” cho quốc gia.Bảo Tàng Vatican triển lãm ở Seoul. –Trung Quốc : Việc bổ nhiệm ĐGM Ma bị rút lại. –Tại sao Công Đồng Vatican II bỏ qua chủ nghĩa cộng sản?Thuỵ Sĩ : Caritas phát động hành động”Một triệu ngôi sao” bày tỏ tình liên đới.Niềm tin không phải là cái để đưa ra  bỏ phiếu. –Thông Điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình . –Người Hà-Lan hạ thuỷ bản sao kích thước Tàu Noe. –Nhà khảo cổ hàng đầu thảo luận về bằng chứng Đại hồng thuỷ trong Kinh Thánh.ĐHY Tagle hướng dẫn canh thức cẩu nguyện cho huỷ bỏ luật kế hoạch hoá gia đình.Những người tham dự đại hội Giáo Hội ở Châu Mỹ ra về được hợp nhất, đổi mới.Sáu tân đại sứ.Những tin ngắn (twitt) đầu tiên của Đức Biển-Đức XVI.Đức Biển-Đức XVI ở trong top 5 các nhân vật ảnh hưởng nhất thế giới. (Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ 12-10 đến 12-16-2012 )

HẠT LÚA TRONG NIA

HẠT LÚA TRONG NIA

Hạt lúa trong nia là hạt lúa no tròn, đẫy đà, chắc mẫm, vàng sáng. Hạt lúa ngoài nia là hạt lúa lép xẹp, rỗng ruột, nhẹ tênh.

Năm 1979, cánh đồng ông Bỉnh ở xứ tôi gần như mất trắng. Mẹ tôi sảy cả nia lúa mà không còn được mấy hạt chắc trong nia. Cả hecta ruộng được vài bao lúa chắc, còn lại là cả đống lúa lép. Cha tôi, mẹ tôi nhìn đàn con mà đau thắt ruột. Mất mùa, đói chắc.

Trong bữa cơm chiều, một hạt cơm cõng năm bảy lát củ  khoai nhìn chua xót. Mẹ tôi nói: “Hành trình đời người như hành trình của hạt lúa con ạ. Thiên Chúa đã gieo chúng ta vào ruộng đời, và đến một ngày nào đó, Người sẽ đến mà thu hoạch. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người. Mỗi người phải là hạt lúa trong nia để Thiên Chúa thu vào kho lẫm của người. Nếu là hạt lúa lép, hẳn Người để ngoài đồng kia mà đốt đi”.

Lời Chúa hôm nay gợi lại cho tôi những bài huấn  đức của Mẹ thật tuyệt vời trong đêm trăng khó  ngủ vì đói. Chị em tôi vẫn cảm phục  Đức Tin của mẹ. Giữa lúc khốn khổ như thế mà mẹ vẫn không quên nhiệm vụ làm gương và giáo dục đức tin cho chúng tôi.

Mẹ từng giải thích cho chúng tôi về nguyên nhân sinh lúa lép: do cây lúa yếu, ngã đổ, do sâu bệnh, do sâu cuốn lá, bệnh đạo ôn trên lá, đạo ôn cổ  bong, do sạ dày, do dọn đất không kỹ, thiếu phân, thiếu nước… Đời sống đức tin cũng vậy con ạ. Rồi mẹ dừng lại ở đó để chị em tôi tự hiểu.

Vâng, nếu ngày ấy chưa hiểu ý mẹ, thì  mỗi Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng, Thánh Gioan Tẩy Giả lại giải thích cho chúng tôi hiểu “chúng tôi phải làm gì “ để trở nên một hạt lúa no tròn chắc mẫm:

-“Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”.

-“Các ngươi đừng đòi gì  quá mức đã ấn định cho các ngươi”

-“Đừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”.

Vâng, hạt lúa Đức Tin của tôi của bạn hẳn cũng phải là hạt lúa no tròn chắc mẫm để khi Chúa  đến, hạt lúa đời mình được Chúa chon vào kho lẫm của Người.

Để được no tròn, phải tránh các nguyên nhân gây lép: một mặt cây lúa yếu do bộ rễ yếu vì không bám chặt vào Lời Chúa, vào Thánh Thể, mặt khác, cây lúa đời mình để nhiễm bệnh kiêu căng, ích kỷ, hà tiện, bất công, và bao thứ bệnh nguy hiểm khác cho Đức Tin.

Thánh Gioan còn đề nghị rất rõ phương thức làm cho hạt lúa no tròn. Đó là: Bác Ái, Công Bình.

Bác ái, công bình không chỉ là những khẩu hiệu, logo, bích chương hay biểu ngữ, nhưng là một cuộc sống sẻ chia đích thực vì yêu mến Chúa. Sự sẻ chia cho người vì yêu mến Chúa, có sức làm cho mỗi chúng ta thêm phong phú dồi dào về đời sống đức tin: vì “Những bác ái trong cuộc đời tôi là kho tàng muôn đời cho tôi. Ngày tôi về với Người trên trời, kho tàng ấy lại thuộc về tôi” (x Lời bài hát Tôi Biết Tôi Tin. PMCHH”.

Tôi bỗng nhớ trong lễ Giỗ Tổ Tộc Họ Trần Bùi và Mừng Chúa Giáng Sinh tại gx. Gia Viên ngày 09-12-2012, Cha Vĩnh Tiến giới thiệu gx. Xuân Sơn, hạt Túc Trưng, và mong mọi người sẻ chia. Người dẫn chương trình có đặt vấn đề: Mừng Chúa Giáng Sinh bằng việc bác ái cụ thể và đọc liền mấy câu thơ: “Hướng lòng lên tới Xuân Sơn, Nghe Con Thiên Chúa từng cơn nghẹn ngào. Tình này con quyết dâng trao, Tiền này con quyết gửi vào Xuân Sơn”. Rồi anh dí dõm: “Trong Nước Trời, không sử dụng đồng tiền in hình ông Abraham Lincohn, và các ông khác, nhưng sử dụng đồng tiền in hình Đức Giê-su, hoặc đồng tiền in hình Thánh Giá”. Và hôm ấy, gần 700 khách tham dự đã cùng đồng tình đổi tiền đang sử dụng thành tiền in hình Đức Giê-su, bằng cách bỏ vào thùng tiền hiệp thông làm quà cho giáo xứ Xuân Sơn. Mọi người hôm ấy hẳn vui vẻ, vì biết việc bác ái của mình chính là việc làm cho hạt lúa của mình no tròn, hạt lúa trong nia.

Hơn nữa, khi làm việc bác ái sẻ chia cho người, cũng chính là lúc chúng ta thể hiện đức công bình với Thiên Chúa và với anh em. Với Thiên Chúa Đức Công Bình là một hành vi cảm tạ. Với tha nhân, đức công bình không thể là một sự quân bình ăn đồng chia đều xét trên cá vị, hoặc được phép hưởng dùng cách ưu tiên cho xứng danh xứng phận, nhưng lại là sự hưởng dùng ở một mức vừa đủ để sống trong khi ta vẫn có thể tự do sử dụng cách sung túc hơn. Biết bao người đã chọn cách sống vừa phải, và phần sung túc có thể kia thì nhường cho những người thiếu thốn. Không thiếu những đại gia giàu lòng đai lượng nhưng không vì cầu được danh tiếng hay tên tuổi hão huyền. Cũng không thiếu những hạt muối chia đôi trong cảnh lao tù, khốn khó. Càng không thiếu những sẻ chia khi người chia sẻ thực sự là những người đói khổ.

Những hạt lúa của bao người đang no tròn chắc mẫm. Có lẽ nào, tôi và bạn bằng lòng làm hạt lúa lép rỗng ruột, nhẹ tênh bay theo gió cuốn giữa đời. Cũng có người vì thấy tôi, thấy bạn có chút khả năng, kiến thức giáo lý, chức vụ trong giáo hội, hay những đóng góp cách nào đó mà khen tặng chúng ta là “hạt gạo trên sàng”, nhưng thực ra, hạt hạo trên sàng phải là hạt gạo no tròn đức bác ái.

Chúa nhật thứ III mùa Vọng là Chúa Nhật hồng, Chúa Nhật vui mừng vì Chúa sắp đến cho tất cả những ai sẵn sàng chờ đợi bằng chính đời sống bác ái công bình. Họ sẽ vui mừng vì an tâm tin rằng mình sẽ là hạt lúa trong nia, hạt lúa được vào kho lẫm của Thiên Chúa, hạt lúa được cứu độ.

Lạy Chúa Giê-su, Ngài sẽ sảy con trong nia lúa của Ngài. Xin cho đời sống Đức Tin của con no đầy vì những sẻ chia cụ thể cho người thân, kẻ sơ, cho người thương, kẻ ghét. Và xin cho tất cả việc bác ái công bình của chúng con làm là vì Tin vào Ơn Cứu Độ Chúa hứa ban. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

VUI TRONG CHỜ ĐỢI

VUI TRONG CHỜ ĐỢI

Bước vào Mùa Vọng người Kitô hữu nói chung và  người Công Giáo nói riêng được Giáo Hội mời gọi chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh, mừng và chiêm ngắm ngày mà Thiên Chúa ký kết giao ước và trao ban Tình Yêu của Ngài cho con người nhân loại ngang qua mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Ngôi Hai Thiên Chúa. Việc chuẩn bị được bắt đầu từ Chúa nhật thứ I Mùa Vọng và kéo dài trong 4 tuần qua những hành vi: Tỉnh thức, cầu nguyện, tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội, rước lễ và thực thi việc bác ái…

Vọng là mong, chờ, và đợi! Ta mong, chờ và đợi ai, ta mong, chờ và đợi điều gì? Người Do Thái khi xưa đã cất lên lời khấn nguyện: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy mưa, mưa đức công chính, đất mở ra đi cho nảy mầm ơn cứu độ…” (Is.45,8). Lời cầu nguyện trên nói lên sự mong, chờ và đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa ban tặng cho dân tộc họ một vị cứu tinh, để rồi qua vị cứu tinh, người sẽ dẫn dắt và giúp họ thoát khỏi sự thống trị của đế quốc Rôma đang ngày đêm đè nặng trên vai họ những sưu cao thuế nặng, những luật lệ hà khắc…như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hòa bình vô tận…” (Is.9,5-6).

Ngày nay, giữa những đồn đoán về ngày tận cùng của vũ trụ, trái đất; giữa những khó khăn về kinh tế, những cănh bệnh lạ, bệnh nan y đang bao trùm lên đời sống, sức khỏe của con người nhân loại; giữa những tha hóa về mặt đạo đức, những tội ác ngày càng lan tràn; giữa những mối bất hòa, nghi kỵ, chia rẽ từ mái ấm gia đình trở đi; giữa những tranh chấp về chủ quyền, tranh dành quyền bá chủ thế giới, đắc thắng khi sở hữu những vũ khí tối tân, tàn độc…còn đó quanh ta những bức tranh hào nhoáng, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sữ dữ luôn lôi kéo ta vào con đường chết. Như những người Do Thái năm xưa, ta cũng mong, chờ và đợi, hay đúng nghĩa hơn là ta ao ước gia đình luôn hạnh phúc, cuộc sống bình yên, một thế giới đầy ắp tiếng cười, một người bạn cảm thông….ta chờ và đợi Thiên Chúa đến và giúp ta vượt khó, giúp ta tránh xa cạm bẫy của quyền lực sự dữ…

Cố nhạc sỹ Lê Thương đã diễn tả hình ảnh người phụ nữ mong, chờ và đợi hình bóng của đức lang quân qua nhạc phẩm “Hòn Vọng Phu” dưới lăng kính vô vọng và tuyệt vọng, từ sự vô vọng và tuyệt vọng đã làm cho người phụ nữ bằng xương, bằng thịt hóa thánh khối đá vô tri, vô giác. Không, những người Do Thái năm xưa và ta ngày nay không vô vọng, tuyệt vọng, không hóa đá khi mong, chờ và đợi. Sau những mong, chờ và đợi là những niềm vui được khởi đi từ Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Ngôn ngữ của tiên tri Xôphônia đã minh chứng điều ấy: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi…Đức Vua của Ítraen đang Ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa..” (Xp.3,14-15). Thánh Phaolô cũng diễn tả niềm vui ấy trong thư ngài gửi cho giáo đoàn Philípphê: “ Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại, vui lên anh em…” (Pl.4,4).

Vâng! Sau cơn mưa trời lại sáng, sau những mong, chờ  và đợi là những niềm vui. Niềm vui ấy không chỉ đóng khung trong bản văn Kinh Thánh, nhưng được  thực tại hóa ngay trong lòng Giáo Hội qua phẩm phục màu hồng của vị chủ tế trong thánh lễ Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng; qua những dấu chỉ bên ngoài: Bộ mặt đường phố như được khoác một tấm áo mới bằng những ánh đèn muôn màu muôn sắc, những hình ảnh trang trí sinh động, vui nhộn; những chiếc hang đá như muốn diễn tả lại khung cảnh “Nhập Thế” của Con Thiên Chúa tại Belem năm xưa; hòa quyện vào những bài thánh ca, những khúc nhạc vui nhộn…

Niềm vui của những người Do Thái năm xưa, của Giáo Hội, của ta ngày nay được khởi đi từ Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, niềm vui ấy được đúc kết thành hai từ “Bình An”.  Đức Kitô đã phán: “ Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian..” (Ga.14,21). Niềm vui, sự bình an của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại không theo kiểu thế gian, vì thế cho nên, ta khó cảm và khó đón nhận được một cách trọn vẹn. Vì sao thế? Xin thưa, vì ta đang là những người sống giữa thế gian, đang phải gánh chịu những hệ lụy từ thế gian.

Vâng! Ta đang sống giữa thế gian, ta đang phải gánh chịu những hệ lụy từ thế gian, vì thế  không ít thì nhiều ta có những suy nghĩ, cách hành xử theo thế gian. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ta được mời gọi đổi mới cuộc đời, đổi mới cách suy nghĩ và hành động khác với thế gian như lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc.3,4-6).

Để giúp ta đổi mới, giúp ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động, giúp ta cảm và đón nhận niềm vui, sự bình an của Thiên Chúa ngang qua Hài Đồng Giêsu trong mùa Giáng Sinh và trong suốt cuộc đời ta, nhất là giúp ta sống đúng với tâm tình của Mùa Vọng, mùa mong, chờ và đợi. Trước tiên ta học nơi những Người Do Thái năm xưa, sau khi lắng nghe lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, họ nhìn nhận mình đầy tội lỗi, để rồi họ cùng nhau bước xuống dòng sông Giođan đón nhận nghi thức thanh tẩy từ ông Gioan tẩy Giả, không những thế, họ còn muốn biết công việc, và làm như thế nào, những mong qua hành động, qua công việc cộng với lòng sám hối, họ hân hoan đón mừng Đấng mà họ đang mong, chờ và đợi. Thế là, từ người bình dân cho tới người vị vọng, từ người ngư phủ cho tới người binh lính và người thu thuế, không hẹn mà gặp, họ tìm đến ông Gioan và hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây?”.

Cứ ngỡ rằng ông Gioan Tẩy Giả mời gọi họ bước vào đời sống mà ông đang sống, thực hiện những công việc mà ông đã và đang thực hiện, nhưng không, ông chỉ khuyên họ hãy sống và thực hiện tốt công việc, bổn phận hiện tại của mình:

  • V ớ i d â n ch ú n g ô n g khuyên: “Ai có hai áo, hãy cho người không có, ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”
  • V ớ i nh ữ n g ng ư ờ i thu thu ế , ô n g khuy ê n : “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”
  • Đối với binh lính ông khuyên: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai, các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”(x.Lc.3,10-14).
Đây cũng chính là lời khuyên giúp ta sống Mùa Vọng một cách tròn đầy, giúp ta cảm và đón nhận niềm vui và bình an của Thiên Chúa một cách đích thực. Nhờ niềm vui và sự bình an của Thiên Chúa giúp ta sống an vui và hạnh phúc, giúp ta chuẩn bị tốt tâm hồn đón mừng Chúa đến viếng thăm và nhất là giúp ta giới thiệu Chúa cho mọi người.

Còn đó tấm gương sống tâm tình mong, chờ và  đợi , tấm gương đổi mới cách nghĩ, hành động một cách triệt để trong tâm tình tin tưởng hoàn toàn, phó thác hoàn toàn, nhất là tâm tình đơn sơ, khiêm hạ để đón mừng Chúa giá ngự. Đó chính là Mẹ Maria.

Lạy Chúa! Xin khắc ghi lời khuyên của Chúa qua thánh Gioan Tẩy Giả, xin giúp con luôn sống trong tỉnh thức và cầu nguyện, giúp con noi gương Mẹ Maria trong tâm tình Mong, chờ và đợi Chúa đến, xin giúp con và tất cả mọi người trở thành cây viết chì trong lòng bàn tay của Chúa, để Chúa thực hiện những nét chữ Yêu thương nơi thế giới này.Amen

Antôn Lương Văn Liêm– Đạo Binh Đức Me

Công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2013

 

Công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày thế giới cầu cho ơn gọi 2013

VATICAN. Trong sứ điệp công bố hôm 15 tháng 12-2013, nhân ngày cầu nguyện cho ơn gọi LM tu sĩ, ĐTC Biển Đức 16 khích lệ toàn thể cộng đoàn Giáo Hội sốt sắng cầu nguyện và cộng tác vào việc khơi dậy ơn gọi.

Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi lần thứ 50 sẽ được cử hành vào chúa nhật 21 tháng 4-2013, cũng là chúa nhật thứ 4 Phục Sinh, với chủ đề: ”Ơn gọi, dấu chỉ hy vọng dựa trên đức tin”.

Trong Sứ điệp, ĐTC nhắc đến nền tảng niềm hy vọng Kitô giáo là xác tín về lòng trung tín của Thiên Chúa: ”Trong mọi lúc, nhất là trong những thời điểm khó khăn nhất, chính sự trung tín của Thiên Chúa luôn luôn là động lực của lịch sử và ơn cứu độ, làm rung động tâm hồn con người và củng cố họ trong niềm hy vọng một ngày kia sẽ đạt được ”Đất Hứa”. Đó chính là nền tảng của mọi niềm hy vọng: Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Ngài trung tín với lời đã hứa. Chính vì thế, trong mọi hoàn cảnh, phúc lợi hay bất lợi, chúng ta có thể nuôi dưỡng một niềm cậy trông và cùng với tác giả Thánh Vịnh cấu nguyện: ”Hồn tôi hỡi, hãy nghỉ an trong Chúa, Niềm hy vọng của tôi từ Người mà đến” (Tv 62,6).

ĐTC viết thêm rằng ”lòng trung tín của Thiên Chúa hệ tại tình thương của Người. Người chính là Cha đổ tràn tình thương trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Linh (Xc Rm 5,5). Và tình thương ấy được biểu lộ trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô. Tình thương ấy gọi hỏi cuộc sống chúng ta, đòi một câu trả lời về câu trả lời mà mỗi người muốn làm cho cuộc sống của mình, về những gì họ sẵn sàng đề ra để thực hiện trọn vẹn câu trả lời ấy”.

Từ những điều trên đây, ĐTC xác quyết rằng Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi con người bước theo Người, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn còn lập lại: ”Hãy đến và theo Thầy!” (Mc 10,21). Để đón nhận lời mời gọi ấy, ta không được chọn bản thân mình làm đường đi. Theo Chúa có nghĩa là dìm ý chí chúng ta trong ý Chúa Giêsu, thực sự dành ưu tiên cho Chúa, đặt Người ở chỗ thứ nhất so với tất cả những gì thuộc về cuộc sống của chúng ta: gia đình, công ăn việc làm, những lợi ích cá nhân, và chính bản thân. Điều này có nghĩa là đặt trọn cuộc sống của chúng ta cho Chúa, sống với Chúa trong sự thân mật sâu xa, đi vào cuộc hiệp thông với Chúa Cha trong Thánh Linh, nhờ Chúa Giêsu, và qua đó, hiệp thông với anh chị em mình”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”ơn gọi LM tu sĩ nảy sinh từ kinh nghiệm gặp gỡ bản thân với Chúa Kitô, đối thoại chân thành và tín thác nơi Chúa, để đi vào thánh ý Người. Vì thế, cần tăng trưởng trong kinh nghiệm đức tin, được hiểu như một quan hệ sâu xa với Chúa Giêsu, lắng nghe tiếng Chúa vang dội trong nội tâm chúng ta.. Hành trình ấy, – làm ta có khả năng đón nhận tiếng gọi của Chúa,- có thể xảy ra giữa lòng những cộng đoàn Kitô sống bầu không khí đức tin nồng nhiệt, quảng đại làm chứng về lòng gắn bó với Tin Mừng, hăng say truyền giáo, đi tới sự hiến thân trọn vẹn cho Nước Chúa, được nuôi dưỡng bằng sự siêng năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là Thánh Thể, và bằng đời sống cầu nguyện nhiệt thành”. (SD 15-12-2012)

G. Trần Đức anh OP – Vietvatican

Họp báo công bố Sứ điệp Hòa Bình của Đức Thánh Cha

Họp báo công bố Sứ điệp Hòa Bình của Đức Thánh Cha

VATICAN. Ngày 14 tháng 12-2012, ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã giới thiệu Sứ điệp của ĐTC nhân ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 46 sẽ được cử hành vào ngày 1 tháng giêng 2013 tới đây với chủ đề ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình”.

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo giới thiệu cũng có Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, Tổng thư ký của Hội đồng Công lý và Hòa bình, cùng một số chức sắc khác của Tòa Thánh. Sứ điệp của ĐTC gồm 7 đoạn chia làm 3 phần:

Trong phần đầu tiên (1-4), ĐTC nêu lý do tại sao ngài chọn đề tài ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình” và giải thích ý nghĩa sâu xa của mối phúc này, cũng như của hòa bình là hồng ân của Thiên Chúa và công trình của con người. Mặc dù tình trạng đáng báo động của thế giới hoàn cầu hóa với những lò căng thẳng xã hội và những hình thức xung đột bạo lực khác nhau, ĐTC nhận thấy vẫn có những công trình hòa bình chứng tỏ ơn gọi bẩm sinh của nhân loại hướng về hòa bình (n.1) và có một ước muốn hòa bình tương ứng với quyền lợi và nghĩa vụ của sự phát triển toàn diện, xã hội và cộng đoàn”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để trở thành người xây dựng hòa bình, một điều cơ bản là chú ý tới chiều kích siêu việt, liên lỷ đàm thoại với Thiên Chúa và nhìn nhận mình thuộc một gia đình nhân loại duy nhất, với những liên hệ giữa con người với nhau và các tổ chức được một tinh thần cộng đồng hướng dẫn, trong đó có sự nhìn nhận quyền lợi và nghĩa vụ của nhau” (n.3). Xét cho cùng, người xây dựng hòa bình theo mối phúc thật của Chúa Giêsu chính là người tìm kiếm thiện tích của tha nhân, thiện ích trọn vẹn của linh hồn và thân xác, cũng như cộng tác vào việc thực hiện công ích của các xã hội khác nhau” (n.3).

Trong phần II (4-5), ĐTC khẳng định rằng việc thực hiện công ích và hòa bình gắn liền với việc tôn trọng sự sống con người toàn diện. Một người thực sự xây dựng hòa bình là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong mọi chiều kích: bản thân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống sung mãn chính là tột định của hòa bình (n.4).

Trong chiều hướng này, ĐTC viết rằng ”điều quan trọng là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con ngươi như phá thai và làm cho chết êm dịu” (n.4).

ĐTC cũng nói tới sự thăng tiến thiện ích bản thân của con người trong đó có chiều kích siêu việt. Về điểm này, ngài khẳng định rằng ai hoạt động cho cuộc sống an bình của các dân tộc, thì cũng bảo vệ tự do tôn giáo, không phải như một thứ tự do không bị ràng buộc và cưỡng bách trong việc chọn lựa tôn giáo, nhưng còn như ”tự do làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội” (n.4). Về việc thăng tiến chiều kích cộng đồng của thiện ích, ĐTC nhấn mạnh tới tầm quan trọng của quyền có công ăn việc làm. Điều kiện tiên quyết để thực hiện mục tiêu này là phải xét lao công về phương diện luân lý đạo đức, tinh thần, và như một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghi-en cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm” (n.4).

Trong phần thứ III (6-7), ĐTC đề cao tầm quan trọng của việc giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình. Đây cũng là đề tài được ngài đề cập đến trong Sứ điệp hòa bình hồi năm ngoái. Ngài viết ”Đông đảo những người xây dựng hòa bình được mời gọi dấn thân thực hiện một sự giáo dục giá trị về mặt xã hội. Cần tái khám phá vai trò hàng đầu của gia đình, là tế bào cơ bản của xã hội về phương diện dân số, luân lý, sư phạm, kinh tế và chính trị. Gia đình có một ơn gọi tự nhiên là thăng tiến sự sống” (n.6). Vì thế, cần bảo vệ quyền của các bậc cha mẹ được giáo dục con cái mình và vai trò hàng đầu của trẻ mẹ trong việc giáo dục con cái về luân lý và tôn giáo.

Cả các cộng đồng tôn giáo cũng có một nghĩa vụ rất lớn giáo dục về hòa bình. ĐTC đề cao chức năng quan trọng của các tổ chức văn hóa, học đường và đại học trong việc đóng góp vào việc đổi mới các thành phần lãnh đạo và các tổ chức. Ngài cũng khẳng định rằng nền sư phạm về hòa bình đòi phải có một đời sống nội tâm phong phú, cần có những điểm tham chiếu vững chắc về luân lý và có những thái độ cũng như lối sống thích hợp (n.7).

Cũng nên nói thêm rằng những nhóm đồng tính luyến ái thì cảm thấy bị ”xúc phạm” vì đoạn sứ điệp của ĐTC chống lại hôn nhân đồng phái. Ngài viết: ”Cơ cấu tự nhiên của hôn nhân cần phải được nhìn nhận và thăng tiến, như sự kết hiệp giữa một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt.. Những hình thức kết hiệp này trong thực tế làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn cơ cấu tự nhiên, làm lu mờ đặc tính và vai trò không thể thay thế được của hôn nhân trong xã hội…” (SD 14-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những người Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng[1], khi chúng ta công bố ơn cứu độ của Đức Kitô và thăng tiến hòa bình cho nhân loại.

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn diện của con người.

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗi người, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy. Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của Chúa. Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Mối phúc Tin Mừng 2. Các mối phúc mà Đức Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Kinh Thánh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai hậu, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên Chúa như thế thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Đức Giêsu nói cho họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám phá ra mình là con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở bên cạnh họ. Họ hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với những con người dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Đức Giêsu, mạc khải Tình yêu của Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi khi chúng ta đón nhận Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta kinh nghiệm được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa, đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy. Cụ thể, Đức Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đầy tin tưởng giữa con người với Thiên Chúa.

Mối phúc của Đức Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia sẻ. Điều tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại ngày nay cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những giả định vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng tồn tại được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện trở thành cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần tập trung vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.

Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con người tạo nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Yavê ban uy lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).

Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người 3.Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình[2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hòa bình. Không có chân lý về con người vốn được Đấng Tạo Hóa ghi dấu trong trái tim con người, tự do và bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính mình.

Để trở nên người kiến tạo hòa bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hòa bình vốn là tội lỗi trong tất cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.

Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và công bình, các quyền hỗ tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa bình là một trật tự được sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ cảm thấy nhu cầu của tha nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện ích với tha nhân và lao tác cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những giá trị tinh thần. Hòa bình là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong một cách thế phù hợp với phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là những hữu thể có lý trí, con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]

Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới, giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).

Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Đức Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Đức Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của chúng ta (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh hồn và trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.

Từ lời dạy này, người ta có thể suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường phải đi trong việc theo đuổi hòa bình.

(còn tiếp) Nguyễn Minh Triệu sj chuyển ngữ – Vietvatican

[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1. [2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng 4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.

[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.

TRÁNH NÓI XẤU THA NHÂN

 

TRÁNH NÓI XẤU THA NHÂN

1.LỜI CHÚA:

“CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37).

2.CÂU CHUYỆN:

Thời Hy-lạp cổ đại, triết gia SÔ-CỜ-RÁT (Socrates) là một người nổi tiếng về sự thông thái khôn ngoan và  được nhiều người ngưỡng mộ. Một hôm có một người quen đến nói thì thầm vào tai ông rằng:

“Ông có biết chuyện gì mới xảy ra cho ông bạn thân của ông hay không?” Sô-cờ-rát liền nói:

“Khoan đã. Trước khi nghe ông kể câu chuyện đó, tôi muốn ông cùng với tôi xem xét để sàng lọc ba bước về câu chuyện đó đã”. Người kia hỏi lại:

“Xem xét để sàng lọc ư?” Sô-cờ-rát đáp: “Đúng vậy. Bước sàng lọc thứ nhất là XÉT VỀ SỰ THẬT: Ông có cam đoan với tôi rằng những gì ông sắp nói ra về ông bạn thân của tôi hòan tòan chính xác hay không?”

Người kia trả lời: “Không chắc lắm. Thật ra tôi chỉ được nghe người khác thuật lại mà thôi”. Sô-cờ-rát liền nói:

“Được rồi. Bây giờ qua bước sàng lọc thứ hai là XÉT VỀ THIỆN Ý: Điều ông sắp nói ra với tôi có phải là điều tốt đáng biểu dương không?” Người kia trả lời:

“Không phải điều tốt, mà còn ngược lại!” Sô-cờ-rát tiếp tục:

“Như vậy là ông đang định nói một điều không tốt về người bạn thân của tôi. Nhưng ông lại không chắc điều đó có phải là sự thật hay không. Bây giờ là bước sàng lọc cuối cùng là XÉT VỀ ÍCH LỢI: Câu chuyện ông sắp nói với tôi có mang lại lợi ích gì cho tôi không?” Người kia đáp:

“Không. Thực sự là không!” Bấy giờ Sô-cờ-rát mới ôn tồn kết luận như sau:

“Vậy thì những điều ông muốn nói với tôi không phải là sự thật, không phải là điều tốt đáng biểu dương, và cũng chẳng đem lại lợi ích gì cho tôi. Thế thì ông nói nó ra với tôi làm chi?”

3. SUY NIỆM:

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy trong cuộc sống thường ngày không được nói hành nói xấu tha nhân. Lý do có  thể tóm gọn như sau : Một là hành động bất công khi lên án một người mà không cho họ bào chữa. Hai là hành động lỗi bác ái khi làm mất tình đòan kết nội bộ và động cơ dẫn đến sự nói xấu thường do ích kỷ, tự mãn và ganh ghét những người hơn mình. Ba là hành động tội ác, nếu việc nói xấu đó gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho danh dự và uy tín của người bị hại.

Đức Khổng Tử đã dạy học trò: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn thì đừng làm cho người). Còn Chúa Giê-su thì dạy các môn đệ: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12). Ngòai ra Người cũng dạy chúng ta tôn trọng sự thật: “CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37).

Có người lại đặt vấn đề: Nếu biết một người làm điều xấu mà im lặng là đồng lõa và làm cho kẻ đó ngày một lún sâu vào tội ác. Vậy trong trường hợp đó, ta nên làm gì để vừa giữ được đức bác ái, lại vừa không bao che cho tội ác? Câu trả lời đã được Tin Mừng Mát-thêu ghi lại lời Chúa dạy như sau: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngọai hay một người thu thuế” (Mt 18, 15-17). 4. THẢO LUẬN:

1) Bạn có đồng ý với ba bước sàng lọc, khi nghe những lời nói xấu về người vắng mặt của triết gia Sô-cờ-rát không?

2) Tại sao chúng ta không nên nói ra những điều xấu của kẻ vắng mặt dù điều đó có thật? 3) Tội nói hành khác với tội vu khống thế nào? Khi nào tội vu khống biến thành trọng tội?

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Cha từ ái. Xin dạy chúng con biết sống công bình ngay chính noi gương Đức Giê-su Con yêu của Cha. Xin cho chúng con tranh nói những điều gian dối bất công cho những người chúng con không ưa. Xin cho chúng con luôn nói lời ngay thật để xứng đáng nên con thảo của Cha và luôn làm vui lòng Cha, noi gương Chúa Giê-su là Con rất yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha.

– X HIỆP CÙNG MẸ MARIA – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON. Lm. ĐAN VINH – Hiephoithanhmau.co

Đức Giáo hoàng gửi thông điệp ban phép lành trên Twitter

 

Đức Giáo hoàng gửi thông điệp ban phép lành trên Twitter

Đức Giáo hoàng Benedicto thứ 16 đã khai trương tài khoản Twitter của Ngài bằng một tin nhắn ban phép lành cho hàng triệu người « follower », nhân buổi lễ lớn hôm nay 12/12/2012. Như vậy Giáo hội đã vượt qua thử thách của các mạng xã hội, nơi mà Vatican thường bị các cư dân mạng trẻ tuổi chỉ trích.

Trong “tweet” đầu tiên của tài khoản @pontifex, Đức Giáo hoàng viết: “Các bạn thân mến, tôi vui mừng gặp gỡ được các bạn thông qua Twitter. Xin cảm ơn sự đáp ứng nồng nhiệt của các bạn. Tôi xin ban phép lành cho các bạn với cả trái tim”.

Trước khi được gởi đi, tài khoản của Đức Thánh Cha đã có hơn một triệu “follower”, và chỉ trong vòng 40 phút sau, bản tiếng Anh của tin này đã được chuyền lại 15.600 lần. Tin Twitter đầu tiên của Đức Giáo hoàng còn được phổ biến bằng bảy thứ tiếng khác: Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Pháp, Ả Rập và Ba Lan.

Tin Twitter thứ hai, trả lời một câu hỏi về cách sống tốt nhất trong “Năm đức tin”, Đức Giáo hoàng Benedicto thứ 16 đưa ra ba lời khuyên ngắn gọn theo kiểu đặc thù của loại hình mạng xã hội này: “Đối thoại với Chúa Giêsu trong cầu nguyện, nghe lời Chúa nói với các con trong Kinh Thánh, gặp gỡ Đức Giêsu đang hiện diện trong những ai đang cần giúp đỡ”.

Hôm nay Đức Giáo hoàng sẽ trả lời thêm hai câu hỏi nữa, trong số hàng ngàn câu hỏi được gởi đến từ khi tài khoản của Ngài được mở cách đây một tuần.

Sau khi ban phép lành cho 4.500 tín đồ đến từ khắp nơi trên thế giới tập trung tại gian Phaolô đệ lục trong buổi lễ lớn hàng tuần, Đức Thánh Cha, 85 tuổi, đã gởi đi “tweet” đầu tiên từ chiếc máy tính bảng được, Hội đồng truyền thông xã hội, thanh niên của Đức Giáo hoàng và người phụ trách về Twitter, Claire Diaz-Ortiz, mang lại đặt trên chiếc bàn phủ vải đỏ. Đức Giáo hoàng Benedicto 16 tươi cười nhấn vào phím để gởi đi “tweet” đầu tiên của một Đức Giáo hoàng trong lịch sử.

Do nguyên tắc, Đức Giáo hoàng không “theo chân” ai trên Twitter cả

Từ khi tài khoản Twitter của Đức Thánh Cha được mở, hàng ngàn người đã gởi đến Ngài các câu hỏi. Có những câu nghiêm túc, nhưng cũng có những câu hỏi mỉa mai, chỉ trích, chống đối. Người đứng đầu Giáo hội hy vọng rằng sự hiện diện của Ngài trên Twitter sẽ giúp truyền bá Phúc âm đến nhiều nơi trên thế giới.

Trong bài xã luận hàng tuần trên Radio Vatican, phát ngôn viên của Tòa Thánh là Cha Federico Lombardi nhấn mạnh sự quan trọng của thử thách này, bằng một câu phỏng theo Phúc âm: “Một tweet có thể được đón nhận với sự nhiệt tình hay chối bỏ, hạt giống rơi xuống mặt đất đầy đá sỏi hay trên các quả dại của định kiến cũng sẽ bị héo đi. Hạt giống cũng có thể rơi xuống một vùng đất màu mỡ và tự do, sẽ trở thành quả ngọt và sinh sôi nảy nở”. Cha Lombardi nhận xét: “Số 140 từ có hơi ít, nhưng đa số các đoạn trong Phúc âm còn ngắn hơn. Súc tích một chút vẫn tốt”.

Trà Mi – Đạo Binh Dức Mẹ

Đức Thánh Cha kêu gọi các nước bảo vệ và thăng tiến giáo dục

 

Đức Thánh Cha kêu gọi các nước bảo vệ và thăng tiến giáo dục

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 6 tân Đại sứ cạnh Tòa Thánh, sáng ngày 13 tháng 12-2012, ĐTC Biển Đức 16 đề cao vai trò của giáo dục và kêu gọi các chính phủ đẩy mạnh việc giáo dục cho người trẻ, trong sự tôn trọng sự thật về con người. 6 vị đại sứ đến trình thư ủy nhiệm là Cộng hòa Guinée, tiểu quốc Saint Vincent và Grenadines, nước Niger, Zambia, Thái Lan và Sri Lanka. Hiện nay có 178 quốc gia lớn nhỏ có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh trên cấp bậc Sứ thần về phía Tòa Thánh, và đại sứ về phía các nước liên hệ. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 80 vị đại sứ thường trúc ở Roma, phần còn lại, gần 100 vị kiêm nhiệm chức vụ đại sứ ở một nước Âu Châu và thường trú tại đó, ví dụ Đại sứ Ibrahima Sory Sow của Cộng hòa Guinée cũng là đại sứ tại Đức và thường trú tại Berlin. Các vị đại sứ cạnh Tòa Thánh, thường trú ở Roma, khi trình thư ủy nhiệm, thì được ĐTC tiếp kiến riêng, còn các vị Đại sứ không thường trú, thì được ngài tiếp kiến chung như sáng 13-12-2012. Trước đây, mỗi khi ĐTC tiếp kiến vị đại sứ mới, đều có sự trao đổi diễn văn giữa hai bên, và cả khi ngài tiếp kiến chung các vị tân đại sứ, ngoài diễn văn chào mừng chung, đều có diễn văn riêng được trao đổi giữa hai bên. Tuy nhiên, thói quen này đã được bãi bỏ từ khoảng 2 năm nay, và Tòa Thánh cũng theo thông lệ như các nước khác nghĩa là không có trao đổi diễn văn riêng. Diễn văn ca ĐTC Trong bài diễn văn bằng tiếng Pháp, ĐTC đặc biệt đề cao tầm quan trọng của vấn đề giáo dục người trẻ, và khích lệ chính phủ các nước đặc biệt quan tâm đẩy mạnh một nền giáo dục quân bình và toàn diện. Ngài nói: ”Khi kiểm điểm nhiều thách đố thời nay, chúng ta có thể nhận thấy rằng giáo dục chiếm một cố đứng hàng đầu. Ngày nay giáo dục diễn ra trong bối cảnh trong đó sự biến chuyển của lối sống và kiến thức tạo nên những rạn nứt về mặt con người, văn hóa, xã hội và tinh thần chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Những mạng xã hội, là một điều mới mẻ, chúng có xu hướng thay thế môi trường tự nhiên của xã hội và của việc đả thông, và thường trở thành điểm tham chiếu duy nhất về thông tin và kiến thức. Gia đình và học đường dường như không còn là thửa đất màu mỡ đầu tiên và tự nhiên trong đó người trẻ có thể kín múc nhựa sống cho cuộc đời. Đàng khác, trong lãnh vực học đường và đại học, quyền bính của giáo viên và giáo sư bị đặt lại vấn đề, và đáng tiếc là khả năng của một số giáo chức ấy không tránh khỏi những thiên lệch về tri thức và thiếu sót về nhân sinh quan, loại bỏ hoặc hạ giá chân lý về con ngừơi. Con người là một hữu thể toàn diện và không phải là một mớ các yếu tố mà ngừơi ta có thể phân cách và lèo lái theo ý muốn. Trường học và đại học dường như không có khả năng đề ra những dự phóng sáng tạo mang trong mình một viễn tượng hướng đích siêu việt, có khả năng thu hút người trẻ trong bản chất sâu xa của họ, vì thế người trẻ, lo âu về tương lai, thường bị cám dỗ ít cố gắng càng ít càng tốt, hài lòng với cái tối thiểu và tìm sự thành công dễ dàng, đôi khi bằng những phương thế không thích hợp, và lợi dụng những khả thể do kỹ thuật ngày nay cống hiến. Nhiều người trẻ muốn thành công mau lẹ và sớm đạt được một vị thế xã hội và nghề nghiệp quan trọng, nhưng đồng thời lại ít quan tâm đến việc huấn luyện, thủ đắc khả năng chuyên môn và kinh nghiệm cần phải có. Phải chăng thế giới hiện nay và ngừơi lớn hữu trách không biết mang lại cho người trẻ những tham chiếu cần thiết. Hoạt động không đúng của một số tổ chức và dịch vụ công lập và tư nhân chẳng phải là do giáo dục thiếu sót sao? ĐTC nói thêm rằng: ”Lập lại điều mà vị tiền nhiệm của tôi, ĐGH Lêô 13 đã nói, tôi xác tín ”phẩm giá đích thực và sự trổi vượt của con người ở tại phong hóa của họ, nghĩa là trong nhân đức của họ; nhân đức là gia sản chung của con ngừơi, vừa tầm tay mọi người, nhỏ cũng như lớn, nghèo cũng như giầu” (Rerum novarum, 20). Vì thế, tôi mời gọi chính phủ của quí vị can đảm góp phần vào sự tiến bộ của nhân loại bằng cách cổ võ việc giáo dục các thế hệ trẻ, qua sự thăng tiến một nền nhân loại học lành mạnh, là điều căn bản không thể thiếu được đối với mọi nền giáo dục chân chính và phù hợp với gia sản tự nhiên của con ngừơi. Trách vụ này có thể tiến hành với sự suy tư nghiêm túc về những vấn đề khác nhau tại các quốc gia liên hệ của quí vị, trong đó một số chọn lựa chính trị hoặc kinh tế có thể âm thầm làm hao mòn gia sản nhân loại học và tinh thần của quí vị. Những gia sản này đã được gạn lọc qua bao thế kỷ và được kiên nhẫn hình thành trên những nền tảng là sự tôn trọng yếu tính của con người trong thực tại phức tạp nhưng đồng thời hòa hợp với toàn thể vũ trụ. Tôi cũng mời gọi chính quyền của quí vị can đảm làm việc để củng cố uy tín luân lý, được hiểu như một tiếng gọi sống hợp với nguyên tắc, là điều cần thiết để có một nền giáo dục đích thực và lành mạnh cho các thế hệ trẻ. ĐTC cũng nói rằng: ”Quyền có một nền giáo dục với những giá trị đúng đắn không bao giờ được phủ nhẫn hoặc quên lãng. Nghĩa vụ giáo dục về các giá trị ấy không bao giờ được bãi bỏ hoặc làm suy yếu vì bất kỳ lợi lộc chính trị quốc gia hay siêu quốc gia. Vì thế, cần giáo dục trong sự thật và về sự thật. Nhưng ”sự thật là gì?” (Ga 18,38), Philatô vốn là một nhà cai trị đã từng hỏi như thế. Ngày nay, nói điều thật thì bị nghi ngờ, muốn sống trong sự thật, dường như bị coi là người lỗi thời, và thăng tiến sự thật dường như là nỗ lực vô ích. Thế nhưng tương lai nhân loại ở trong tương quan của các trẻ em và người trẻ với sự thật: sự thật về con người, sự thật về thiên nhiên, về các tổ chức, cơ chế, v.v. Với việc giáo dục về tâm hồn và tư tưởng ngay chính, ngày nay hơn bao giờ hết, người trẻ cũng cần được giáo dục về ý nghĩa cố gắng và kiên trì trong những khó khăn. Cần phải dạy cho người trẻ biết rằngmọi hành động của con người phải có trách nhiệm và phù hợp với ước muốn vô biên,và hành viđó tháp tùng sự tăng trưởng của người để để huấnluyện về một tình nhân đạo ngày càng huynh đệ hơn và được giải thoát khỏi mọi cám dỗ cá nhân chủ nghĩa và duy vật. Và ĐTC kết luận rằng: ”Qua trung gian của quí vị, tôi xin gửi lời chào thăm các GM và các tín hữu thuộc các cộng đoàn Công Giáo tại đất nước của quí vị. Giáo Hội chu toàn sứ mạng của mình trong niềm trung thành với Chúa và với ước muốn nồng nhiệt đóng góp đặc thù cho sự thăng tiến toàn diện đồng bào của quí vị, nhất là qua việc giáo dục các trẻ em và người trẻ. Hằng ngày Giáo Hội tham gia vào những cố gắng chung để làm cho mọi người được triển nở về tinh thần và nhân bản, qua những cơ cấu giáo dục, từ thiện và y tế của Giáo Hội, luôn quan tâm tới thức tỉnh lương tâm con người tôn trọng lẫn nhau và có tinh thần trách nhiệm. Theo nghĩa đó, tôi khuyến khích chính quyền của quí vị tiếp tục để cho Giáo Hội tự do hoạt động trong các lãnh vực truyền thống, như quí vị đã biết, những hoạt động ngày góp phần vào sự phát triển đất nước và công ích của quí vị. Quí vị đại sứ thân mến, trong lúc quí vị chính thức bắt đầu sứ vụ cạnh Tòa Thánh, tôi cầu chúc quí vị những điều tốt đẹp nhất, bảo đảm với quí vị về sự nâng đỡ của các cơ quan Tòa Thánh dành cho quí vị để thi hành phận sự. Với mục đích ấy, tôi cũng cầu xin Chúa ban dồi dào Phúc lành cho quí vị, và gia đình, cũng như các cộng sự viên của quí vị. Các vị đại sứ Ngoài diễn văn trên đây, Phòng báo chí Tòa Thánh cũng công bố lý lịch của 6 vị đại sứ mới, trong đó có một phụ nữ là bà Aminatou Batouré Gaoh, 51 tuổi, đại sứ của nước Niger ở Berlin, thủ đô Cộng hòa Liên bang Đức. Tân đại sứ Thái Lan là Ông Chalermpol Thanchitt, năm nay 57 tuổi, tốt nghiệp tiếng Nga và chuyên về Xô Viết tại đại học Surrey bên Anh quốc. Ông đã từng làm Tổng lãnh sự tại Thành phố Hồ chí Minh từ năm 2000 đến 2002, rồi lần lượt làm đại sứ tại Singapore, Bangladesh, Liên bang Nga, trước khi được bổ nhiệm làm Đại sứ tại Thụy Sĩ, nơi ông thường trú hiện nay. Tân đại sứ của Sri Lanka cạnh Tòa Thánh là Ông Ravinatha Pandukabhaya Ary Asinha, năm nay 52 tuổi, tốt nghiệp ngành chính trị học, triết học và kinh tế ở Sri Lanka và hoạt động trong ngành ngoại giao từ 32 năm nay. Ông từng làm Tổng giám đốc và phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Sri Lanka, trước khi làm đại sứ tại Bỉ, và tại LHQ ở Genève Thụy Sĩ, nơi ông đang cư ngụ. G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Tin là tưởng niệm hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại

Tin là tưởng niệm hành động của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại

Mùa Vọng mời gọi chúng ta đi lại con đường sự hiện diện của Thiên Chúa trong dòng lịch sử nhân loại và luôn nhớ rằng Thiên Chúa không vắng bóng hay bỏ rơi chúng ta; trái lại Người đến gặp gỡ chúng ta trong nhiều cách thế khác nhau, mà chúng ta phải học biết phân định.

Kính thưa qúy vị, thưa các bạn, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 4.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư hôm qua. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài sự hiện diện và các can thiệp của Thiên Chúa trong dòng lịch sử. Thiên Chúa đã tự mạc khải cho con người và sự mạc khải đó được tháp nhập vào thời gian và trong lịch sử con người: lịch sử trở thành nơi trong đó chúng ta có thể nhận ra hành động của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thiên Chúa đến với chúng ta trong những gì thân thuộc nhất với chúng ta và dễ kiểm thực, bởi vì nó làm thành bối cảnh thường ngày cúa chúng ta, mà nếu không có nó chúng ta sẽ không thể hiểu chính mình (Gioan Phaolô II, Fides et ratio, 12). Thánh sử Mạccô tóm tắt các lúc đầu công cuộc rao giảng của Đức Giêsu bằng các từ rõ ràng như sau: ”Thời gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần” (Mc 1,15). Điều chiếu sáng và trao ban ý nghĩa tràn đầy cho lịch sử thế giới và con người bắt đầu chiếu sáng trong hang đá Bếtlêhem. Đức Thánh Cha giải thích như sau: Nơi Đức Giêsu thành Nadarét Thiên Chúa biểu lộ gương mặt của Người và xin con người quyết định thừa nhận Người và theo Người. Việc tự mạc khải của Thiên Chúa trong lịch sử để bước vào tương quan đối thoại yêu thương với con người trao ban một ý nghĩa mới cho toàn lộ trình nhận loại. Lịch sử không chỉ là một tiếp nối các thế kỷ, năm tháng và ngày, nhưng là thời gian của một sự hiện diện trao ban ý nghĩa và mở nó ra cho một niềm hy vọng vững vàng. Tiếp tục bài huấn dụ, Đức Thánh Cha nói chúng ta có thể đọc được các giai đoạn của sự mạc khải ấy trong Thánh Kinh, là nơi đặc tuyển giúp khám phá ra các biến cố của lộ trình ấy. Và trong Năm Đức Tin này, một lần nữa tôi mời gọi tất cả mọi người hãy cầm lấy sách Thánh Kinh thường xuyên hơn để đọc, suy niệm và chú ý hơn tới các bài đọc Thánh lễ Chúa Nhật; tất cả những điều này là một lương thực qúy báu cho đức tin. Khi đọc Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta có thể thấy rằng các can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Người đã chọn và ký kết giao ước không là những sự kiện đã qua và rơi vào quên lãng, nhưng chúng trở thành ”lịch sử thánh”, được duy trì sống động trong ký ức của dân Israel qua việc cử hành các biến cố cứu độ. Trong sách Xuất Hành Thiên Chúa chỉ cho ông Môchê cử hành lúc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, là lễ Vượt Qua, với các lời này: ”Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, các ngươi sẽ cử hành như là lễ của Chúa, từ đời này sang đời kia các ngươi sẽ cử hành nó như một nghi lễ muôn đời” (Xh 2,14). Đối với toàn đân Iarael nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm trở thánh một loại lệnh truyền thường xuyên để cho sự qua đi của thời gian được ghi dấu bởi ký ức sống động của các biến cố đã qua. Trong sách Đệ Nhị Luật ông Môshê nói với dân: ”Ngươi hãy coi chừng đừng quên các điều mắt đã thấy và đừng để chúng vuột khỏi con tim trong suốt cuộc đời: ngươi sẽ dậy cho con cái và cháu chắt ngươi” (Đnl 4,9). Đức tin được nuôi dưỡng bởi việc khám phá và ký ức về Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn trung thành, là Đấng hướng dẫn lịch sử và làm thành nền tảng chắc chắn và ổn định cho cuộc sống. Cả thánh thi Magnificat, mà Đức Maria dâng lên Thiên Chúa, cũng là một thí dụ rất cao của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria chúc tụng hành động của Thiên Chúa trên lộ trình cụ thể của dân Người, sự trung thành với các lời hứa của giao ước với tổ phụ Abraham và con cháu người. Và tất cả điều này là ký ức sống động về sự hiện diện không suy giảm của Thiên Chúa (x. Lc 1,46-55). Đối với Israel xuất hành là biến cố lịch sử chính yếu, trong đó Thiên Chúa mạc khải hành động quyền năng của Người. Thiên Chúa giải phóng người Israel khỏi nô lệ Ai Cập, để họ có thể trở về Đất Hứa và thờ phượng Người như là Chúa thật duy nhất. Israel không lên đường để là một dân tộc như các dân tộc khác, nhưng để phục vụ Thiên Chúa trong phụng tự và trong cuộc sống và làm chứng cho Người giữa các dân tộc khác. Và việc cử hành biến cố này khiến cho nó hiện diện và thời sự, bởi vì công trình của Thiên Chúa không giảm sút. Người trung thành với chương trình giải phóng và tiếp tục theo đuổi nó, để cho con người có thể nhận biết và phục vụ Chúa mình và đáp trả lại hành động của Thiên Chúa với đức tin và tình yêu thương. Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Như thế Thiên Chúa mạc khải chính mình không phải chỉ trong hành động nguyên thủy của việc tạo dựng, nhưng bằng cách bước vào trong lịch sử của chúng ta, lịch sử của một dân tộc bé nhỏ, không phải một dân đông nhất, cũng không phải mạnh nhất. Và Mạc Khải nay của Thiên Chúa đạt tột đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô: Thiên Chúa, Logos, Lời tạo dựng ở nơi nguồn gốc của thế giới, đã nhập thể nơi Đức Giêsu và cho thấy gương mặt thật của Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu mọi lời hứa được thành toàn, nơi Người lịch sử của Thiên Chúa với nhân loại đạt tột đỉnh. Khi chúng ta đọc trình thuật hai môn đệ trên đường về làng Emmaus do thánh Luca kể, chúng ta thấy nổi lên một cách rõ ràng con người của Chúa Kitô soi sáng Cưu Ước và toàn lịch sử cứu độ, và cho thấy chương trình hiệp nhất lớn lao của Cựu Ước và Tân Ước. Thật vậy Đức Giêsu giải thích cho hai khách bộ hành lạc lõng và vỡ mộng hiểu Người là sự thành toàn của mọi lời hứa: ”Rồi bắt đầu từ ông Môshê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,27). Thánh sử cũng ghi lại lời hai môn đệ kêu lên sau khi đã nhận ra người bạn đường ấy là Chúa: ”Dọc đường khi Người nói chuyên và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24,32). Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo tóm tắt các chặng sự Mạc khải của Thiên Chúa bằng cách cho thấy một cách tổng quát sự phát triển của nó (x. cs 54-64). Ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã mời gọi con người bước vào sự hiệp thông thân tính với Người, và cả khi con người vì bất tuân phục đã đánh mất đi tình bạn của Người, Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người cho quyến lực của cái chết, nhưng nhiều lần đã cống hiến cho con người giao ước của Người (x. Sách lễ Roma, Lời nguyện Thánh thể IV). Sách Giáo Lý duyệt lại lộ trình của Thiên Chúa với con người, từ giao ước với ông Noe sau Lụt Hồng Thủy, cho tới việc mời gọi tổ phụ Abraham ra khỏi quê hương để làm cho ông trở thành cha của đông đảo các dân tộc. Thiên Chúa thành lập Israel như dân Người qua biến cố Xuất Hành, giao ước núi Sinai và ơn Lề Luật qua ông Môshê để được nhận biết và phục vụ như Thiên Chúa duy nhất hằng sống và đích thật. Với các ngôn sứ Thiên Chúa hướng dẫn dân Người trong niềm hy vọng của ơn cứu rỗi, trong việc chờ đợi một Giao Ước mới và vĩnh cửu được dành để cho tất cả mọi người, được hiện thực nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, tột đỉnh của sự Mạc Khải và chương trình lòng lành của Thiên Chúa. Đó là chương trình cứu độ duy nhất được hướng tới toàn thể nhân loại, được mạc khải từ từ và thực hiện bởi quyền năng của Thiên Chúa. Đây là điều nền tảng đối với lộ trình đức tin. Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh. Từ ”vọng” có nghĩa là ”đến”, ”hiện diện” và xưa kia ám chỉ việc đến của một vì vua hay của hoàng đế trong một tỉnh của đế quốc. Đối với chúng ta là các kitô hữu nó ám chỉ một thực tại tuyệt vời và đảo lộn: Thiên Chúa đã vượt qua Trời của Người và cúi xuống trên con người; Người đã ký kết giao ước với nó bằng cách bước vào trong lịch sử của một dân tộc. Người là vua đã xuống trong tỉnh nghèo nàn này là trái đất và đã ban tặng cho chúng ta sự sống của Người bằng cách nhận lấy thịt xác chúng ta, bằng cách trở thành người như chúng ta. Mùa Vọng mời gọi chúng ta đi lại con đường của sự hiện diện đó, và nó luôn nhắc lại cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa không tự ra khỏi thế giới, không vắng mặt, không để chúng ta một mình, nhưng đến gặp gỡ chúng ta trong nhiều cách thế, mà chúng ta phải học biết phân định. Cả chúng ta nữa, với đức tin đức cậy và đức mến chúng ta được mời gọi ý thức và làm chứng mỗi ngày cho sự hiện diện này của Chúa, trong một thế giới thường khi hời hợt và lo ra, và làm rạng ngời lên trong cuộc sống chúng ta ánh sáng đã chiếu soi hang đá Bếtlêhem. Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng: Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, A rập, Ba Lan, Lituani và Ý. Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ Đức Mẹ Guadalupe, Bổn Mạng Châu Mỹ và Ngôi Sao của việc truyền giáo mới. Ngài cầu chúc các bạn trẻ học yêu mến và hy vọng trong trường của Mẹ Maria. Đức Thánh Cha xin Mẹ đồng hành với các người đau yếu và củng cố họ trong khổ đau. Ngài khích lệ các cặp vợ chồng mới cưới phó thác con đường hôn nhân của họ cho Thân Mẫu Chúa Giêsu. Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người. Linh Tiến Khải – Vietvatican

TẠI SAO ĐỨC THÁNH CHA PHẢI HIỆN DIỆN TRÊN TWITTER ?

TẠI SAO ĐỨC THÁNH CHA PHẢI HIỆN DIỆN TRÊN TWITTER ?

Đức Bênêđictô XVI, với tài khoản trên Twitter là @pontifex, đã tập hợp được 617.000 người đăng ký, ngài sẽ có « tweet » (bài viết) đầu tiên của  ngài vào ngày 12 tháng 12-2012.

Đối với cha Antonio Spadaro, giám đốc tạp chí Civilta Cattolica của dòng Tên, người thường có những bài suy tư về Giáo Hội và Internet, sự hiện diện của Đức Thánh Cha trên Twitter là bình thường vì « các mạng xã hội đã trở thành những nơi ý nghĩa thực sự ».

« Sự hiện diện của Đức Thánh Cha trên Twitter là hoàn toàn bình thường. Nhiều vị hữu trách tôn giáo đã hiện diện trên Twitter rồi !… Sự hiện diện này hoàn toàn thích ứng với những phương thức truyền thông mới trong đó con người hiện đại đang sống.

Ngày xưa, các thể chế truyền tải những nội dụng. Từ nay, bên kia việc truyền tải này, chúng phải chia sẻ những thông tin. Chúng ta biết rõ làm thế nào một sứ điệp trên Twitter có thể được « tweeter » lại  (được các trang khác đăng lại) và như thế được chia sẻ, được bình luận luôn mãi. Đức Bênêđictô XVI, theo cách của ngài, sẽ có thể truyền bá và chia sẻ đến vô tận sứ điệp của Tin Mừng.

Những gì Giáo Hội chia sẻ chung với Net là một sứ điệp phải được thông truyền trong mối tương quan liên lỉ với các cộng đồng nhân vị. Giáo Hội không thể hoạt động truyền thông độc chiều nữa, nhưng trên phương thức của chứng ta cụ thể, cá nhân và được chia sẻ. Các mạng xã hội đã trở thành những nơi ý nghĩa đích thực, tức là những nơi quan tâm và chia sẻ các giá trị, ý tưởng, và cuộc sống.

Tôi tin rằng các các thể chế sẽ luôn có ý nghĩa, nhưng khả năng hành động của chúng trên xã hội sẽ càng mạnh mẽ hơn nữa nếu chúng có thể sống thẩm quyền của mình dưới hình thức một cuộc chia sẻ các thông tin. Ngày xưa, các thể chế truyền tải các nội dung. Từ nay, người ta không truyền tải nữa, nhưng là chia sẻ. »

Tý Linh

HỘI NGHỊ LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN X BẮT ĐẦU DIỄN RA TẠI VIỆT NAM

HỘI NGHỊ LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU LẦN X BẮT ĐẦU DIỄN RA TẠI VIỆT NAM

Chiều 10 tháng 12-2012 đã khai mạc Hội nghị khoáng đại của Liên HĐGM Á Châu, diễn ra tại Xuân Lộc. Hội nghị sẽ kết thúc với thánh lễ bế mạc tại nhà thờ chánh Tòa Đức Bà, Sài Gòn, vào sáng Chúa Nhật 16 tháng 12-2012, lúc 9 giờ. Trang web HĐGM Việt Nam cho biết các tham dự viên của Hội nghị đã đến phi trường Tân Sơn Nhất để chuẩn bị cho cuộc Hội nghị lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam này. Riêng các ĐHY Oswald Gracias, Tổng thư ký Liên Hội đồng Giám mục Á châu, cùng ĐHY Gaudencio Borbon Rosales (Đặc sứ của Đức Thánh Cha tại Hội nghị lần này), Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli  và Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn ra Hà Nội; sau đó cùng với Đức Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (Chủ tịch HĐGMVN) đến thăm xã giao Chính quyền Việt Nam trước khi khai mạc Đại hội.

Radio Vatican nhận định Đại Hội diễn ra tại Việt Nam như là “dấu cởi mở rụt rè nhưng chắc chắn” tại Việt Nam. Trong quá khứ, Liên Hội Đồng đã từng đề nghị tổ chức tại Việt Nam, nhưng lúc đó câu trả lời nhận được là “chúng tôi chưa hội đủ những điều kiện cần thiết để tiếp đón”.

Các chủ đề chính của Đại Hội lần này là những thách đố mà các Giáo Hội Á Châu đang gặp phải. Đó là cơ hội để các Giáo Hội Á Châu nhìn lại cuộc sống và sứ mạng của mình và đồng thời đưa ra những định hướng mới cho tương lai gần.

Dưới đây là những chủ đề cụ thể:

+ Ngày thứ nhất: “Nhìn lại quá khứ và tạ ơn Chúa”;

+ Ngày thứ hai: “Phân định các dấu chỉ thời đại và cầu xin ơn khôn ngoan”;

+ Ngày thứ ba: “Suy niệm trong đức tin về hoàn cảnh mục vụ, cầu xin ơn lãnh đạo tinh thần”;

+ Ngày thứ tư: “Trả lời cho những thách đố mục vụ, cầu xin ơn can đảm và quảng đại”;

+ Ngày thứ năm: “Một lần nữa dấn thân trong sứ mạng của Giáo Hội tại Á Châu”;

+ Ngày thứ sáu: “cử hành kỷ niệm 40 năm (1972-2012)” thành lập Liên Hội Đồng.

Cầu xin cho Đại Hội được những hoa trái tốt đẹp của Chúa Thánh Thần.

Tý Linh

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 12-03 đến 12-09-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 12-03 đến 12-09-2012

Trích từ Xuân Bích VN

 

Đồng tiền Euro Thánh Cyrilô và Mêthôđô, chấm dứt một cuộc bút chiến.

Bộ phim về cuộc đời và sự nghiệp của Joseph Ratzinger.

Toà Thánh chào mừng việc LHQ công nhận Palestine.

Tổng giáo phận Milan tăng gấp đôi các nhà trừ quỷ.

Các tổ chức từ thiện Công giáo được lệnh nhấn mạnh căn tính đức tin.

Trung Quốc sẽ có dân số Ki-tô giáo đông nhất.

BỔ NHIỆM MỚI.

Thẻ từ vi mạch (Identity card) bảo vệ an ninh chặt chẽ hơn ở Vatican.

Canberra đầy màu sắc chào mừng Vị Hồng Y Syro-Malabar.

Giáo sĩ lỗi lạc phái Tân giáo gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Báo cáo Vatican về Mễ-Du đến hạn tháng nầy?

Phi Luật Tân: Cầu nguyện và chay tịnh chống lại dự luật kiểm soát sinh đẻ.

Trung Đông : Đại hội các Thượng Phụ và Giám Mục Công Giáo.

NCR (National Catholic Reporter) thách thức Vatican, kêu gọi truyền chức nữ giới.

Việc giáo sĩ lạm dụng tình dục là rào cản lớn nhất cho việc truyền giáo.

Tu sĩ Dòng Tên 92 tuổi bị trừng phạt sau phụng vụ Thánh Thể với nữ linh mục.

Đài Loan : Hội nghị chuyên đề về Thánh Kinh lần thứ IX .

Nữ hoàng Elizabeth ca ngợi chủng viện Anh ở Roma.

Các Giám Mục Ái Nhĩ Lan chỉ trích báo cáo của chính phủ về luật phá thai.

Không phải lúc các lãnh đạo các Giáo Hội tẩy chay cuộc trưng cầu về hiến pháp.

Tổng thống nước Đức thăm viếng Vatican.

Phi Luật Tân : Tân hồng y đề cập đến xung đột giáo phái.

Thượng phụ Chính Thống Hy Lạp ở Antiokia từ trần.

(Xem chi tiết . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO 12-03 đến 12-09-2012 )