Thiên Chúa Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người

 Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người

Thiên Chúa Hằng Sống là Đấng thương xót, luôn luôn tha thứ và tái ban sự sống cho con người Nhưng rất thường khi con người không chọn sự sống, không chọn Tin Mừng sự sống, mà để cho mình bị hướng dẫn bới các ý thức hệ và luân lý ngăn cản sự sống, không dung tha sự sống, bởi vì chúng bị chỉ huy bởi sự ích kỷ, lợi nhuận, bổng lộc, quyền bính, thú vui, chứ không phải bởi tình yêu thương, việc kiếm tìm thiện ích của người khác.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với gần 100,000 tín hữu tham dự thánh lễ Ngày Sự Sồng, đo ngài cử hành sáng Chúa Nhật 16-6-2013, nhân Ngày Tin Mừng Sự Sống trong Năm Đức Tin, tại quảng trường thánh Phêrô.

Tham dự thánh lễ có phái đoàn của Phong trào thăng tiến sự sống đền từ nhiều nước trên thế giới, cũng như hàng ngàn thành viên Hiệp hội Môtô đến từ khắp nơi trên thế giới, nhân đại hội kỷ niệm 110 năm hiên diện của loại môtô Harley-Davidson, diễn ra tại Roma trong các ngày 13-16-6. Hiệp hội đã tặng Đức Thánh Cha hai chiếc mô tô kiểu rất đẹp. Vào dịp cuối tuần 30,000 thành viên Hiệp hội cũng đã diễn hành qua các đại lộ chính của Roma. Từ lúc lúc 6 giờ sáng Chúa Nhật các thành viên đã tụ tập về quảng trường và để xe dọc đại lộ Hòa Giải trước quảng trường thánh Phêrô và trên tất cả mọi đường phố chung quanh quảng trường. Hiếm có dịp thấy hàng ngàn chiếc môtô cũ mới đủ loại như vây.

Lúc trước 10 giờ xe díp đã chở Đức Thánh Cha đi qua các lối giữa quảng trường để ngài chào tín hữu.

Cùng đồng tế với Đức Thánh Cha có Đức Hồng Y Zygmunt Zimowski, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Y tế, vài Giám Mục và 200 Linh Mục. Đoàn giúp lễ gồm 15 thầy thuộc Đại chủng viện truyền giáo dòng Máu Cực Thánh Chúa. Các bài sách Thánh đã được đọc bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Phúc Âm đã được công bố bằng tiếng Ý. Đảm trách phần thánh ca trong thánh lễ là Ca đoàn Sistina và ca đoàn Mater Ecclesiae.

Giảng trong thánh lễ cử hành ngày Tin Mừng Sự sống Đức Thánh Cha giải thích mục đích như sau:

Với việc cử hành này, trong Năm Đức Tin, chúng ta muốn cám ơn Chúa về ơn sự sống, trong tất cả mọi biểu lộ của nó, đồng thời chúng ta muốn loan báo Tin Mừng Sự Sống. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã quảng diễn các bài đọc Chúa Nhật thường niên thứ XI năm C trong ba điểm suy tư: Thứ nhất Thánh Kinh mặc khải cho biết Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa là Sự Sống và suối nguồn sự sống; thứ hai Chúa Giêsu Kitô trao ban sự sống và Chúa Thánh Thần duy trì chúng ta trong sự sống. Và thứ ba đi theo con đường của Thiên Chúa dẫn đưa tới sự sống, trong khi đi theo các thần tượng dẫn đưa tới cái chết.

Bài đọc thứ nhất trích tư sách Samuel II kể lại chuyện vua Đavít phạm tội ngoại tình với vợ của Uria người Híttít, một binh sĩ trong quân đội của hoàng gia. Để lấp liếm tội lỗi vua ra lênh đặt Uria ở hàng tiền tuyến cho ông bị giết chết. Thánh Kinh cho chúng ta thấy thảm cảnh nhân loại trong tất cả cái thực tế của nó: sự lành sự dữ, các đam mê, tội lỗi và các hậu qủa của nó. Khi con người muốn tự khẳng định chính mình, khép kín trong sự ích kỷ và tự đặt mình vào chỗ của Thiên Chúa, thì kết cục là nó gieo rắc cái chết. Tội ngoại tình của vua Đavít là một thí dụ. Ích kỷ dẫn đưa tới dối trá, qua đó người ta tự lừa dối chính mình và lừa dối tha nhân. Nhưng không thể lừa được Thiên Chúa, và chúng ta đã nghe lời ngôn sứ Nathan nói với nhà vua: ”Hoàng thượng đã làm điều ác trước mặt Thiên Chúa (2 Sm 12,9). Nhà vua bị đặt trước các việc làm gây chết chóc của mình; thật thế điều vua đã làm là công việc của chết chóc chứ không phải của sự sống. Vua hiểu ra và xin lỗi: ”Tôi đã phạm tội chống lại Chúa”; và Thiên Chúa nhân từ muốn sự sống và luôn tha thứ cho chúng ta, Người tha thứ và tái ban sự sống cho vua. Ngôn sứ nói: Chúa đã cất tội của hoàng thượng: hoàng thượng sẽ không chết”.

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói chúng ta thường coi Thiên Chúa như là một vị thẩm phán nghiêm khắc, như là một người hạn chế sự tự do sống của chúng ta. Nhưng toàn Thánh Kinh nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng trao ban sự sống và chỉ cho chúng ta con đường sự sống toàn vẹn. Sách Sáng Thế nói rằng Thiên Chúa nhào nặn nên con người với bụi đất, rồi thổi một hơi thở sự sống vào mũi nó và con người trở thành một sinh linh (St 2,7). Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống; nhờ hơi thở của Người mà con người có sự sống, và hơi thở của Thiên Chúa đỡ nâng con đường cuộc sống trần gian của nó. Khi kệu gọi ông Môshê Thiên Chúa tự giới thiếu với ông như là Thiên Chúa của Abraham, Igiaác và Giacóp, như là Thiên Chúa của kẻ sống. Và khi gửi Moshê tới với Pharaô để giải phóng dân Người, Thiên Chúa vén mở cho ông tện gọi của Người: ”Ta là Đấng tự hữu”, Thiên Chúa Đấng làm cho mình hiện diện trong lịch sử, Người giải thoát khỏi cảnh nộ lệ, khỏi cái chết và đem sự sống đến cho dân, bởi vì Người là Đấng Hằng Sống. Mười Điều Răn là một con đường mà Thiên Chúa chỉ cho chúng ta để có một cuộc sống thật sự tự do, một sự sống tràn đầy. Chúng không phải là một bài ca nói ”không”: ngươi không được làm cai này, không được làm cái nọ…, mà là bài ca nói ”có” với Thiên Chúa, với Tình Yêu, với sự sống. Các bạn thân mến, cuộc sống của chúng ta chỉ tràn đầy trong Thiên Chúa. Chỉ có Người là Đấng Hằng Sống!

Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha giải thích thái độ của Chúa Giêsu đến đùng bữa tại nhà một người Pharisêu, và để cho một phu nữ tội lỗi đến gần gậy vấp phạm cho mọi người hiện diện. Người lại còn tha tội cho bà và nói: ”Các tội của chị đã được tha vì chị đã yêu nhiều. Trái lại, ai yêu ít thì được tha ít” (Lc 7,47). Đức Thánh Cha quảng diễn điểm này như sau:

Chúa Giêsu là sự nhập thể của Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng đem sự sống đến, trước biết bao nhiêu công việc của sự chết, tội lỗi, ích kỷ, sự khép kín trong chính mình. Chúa Giêsu tiếp đón, yêu thương, nâng dậy, khích lệ, tha thứ và trao ban trở lại sức mạnh để bước đi, Người tái trao ban sự sống. Trong toàn Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu, với các cử chỉ và lời nói của Người, Người đem sự sống của Thiên Chúa đến và biến đổi con người. Đó là kinh nghiệm của người đàn bà đã xức dầu thơm nơi chân Chúa. Chị cảm thấy được hiểu, được yêu mến và đáp trả với một cử chỉ yêu thương, để cho lòng xót thương của Thiên Chúa đụng chạm tới mình và được ơn tha thứ để bắt đầu một cuộc sống mới. Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống thương xót. Anh chi em có đồng ý vậy không? Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống là Đấng thương xót! Nào tất cả hãy cùng nói: ” Thiên Chơúa Đấng Hằng Sống thương xót. Xin lặp lại một lần nữa: Thiên Chúa Đấng Hằng Sống thương xót!.

Đó cũng đã là kinh nghiệm của thánh Phaolô như kể trong bài đọc thứ hai. Thánh nhân nói: ” Cuộc sống này mà tôi sống trong thân xác, tôi sống trong niềm tin nơi Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Cuộc sống đó chính là cuộc sống của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần, ơn của Chúa Kitô phục sinh, dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống như là con cái của Thiên Chúa, như là con cái trong Người Con. Nhưng chúng ta có để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn không?

Kitô hữu là một người tinh thần, điều này không có nghĩa là họ sống ”trên mây trên gió”, sống ngoài thực tại như thể là một bóng ma, không! Kitô hữu là một người suy tư và hành xử trong cuộc sống thường ngày theo Thiên Chúa, là một người để cho cuộc đời mình được linh hoạt và dưỡng nuôi bởi Chúa Thánh Thần để nó đầy tràn, như là con cái thật. Ai để cho Chúa Thánh Thần hướng đẫn là người thực tế, biết đo lường và lượng định gía trị thực tại, và cũng là người phong phú: cuộc sống của họ sinh ra sự sống chung quanh họ.

Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, là Đấng Thương Xót. Chúa Giêsu đem sự sống của Thiên Chúa đến cho chúng ta, Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào sự sống đó và duy trì chúng ta trong tương quan sinh động là con cái Thiên Chúa. Nhưng con người không muốn thế. Đức Thánh Cha nhận xét như sau:

Nhưng rất thường khi, chúng ta biết điều này do kinh nhghiệm, con người không chọn lựa sự sống, không chọn lựa Tin Mừng sự sống, mà để cho mình bị hướng dẫn bởi các ý thức hệ và luận lý ngăn cản sự sống, không dung tha sự sống, bởi vì chúng bị chỉ huy bởi sự ích kỷ, lợi nhuận, bổng lộc, quyền bính, thú vui, chứ không phải bởi tình yêu thương và việc kiếm tìm thiện ích của người khác. Đó là ảo tưởng thường xuyên muốn xây dựng kinh thành của con người mà không có Thiên Chúa, không có sự sống và tình yêu của Thiên chúa, một tháp Babel mới; đó là nghĩ rằng việc khước từ Thiên Chúa, Sứ Điệp của Chúa Kitô và Tin Nừng sự sống, đem đến sự tự do và việc hiện thực tràn đầy con người. Hậu qủa là các thần tượng mau qua của con người thay thế Thiên Chúa, chúng cống hiến sự say choáng của một lúc tự do, nhưng sau cùng chúng đem tới các nô lệ mới và cái chết. Sự khôn ngoan của tác giả thánh vịnh nói: ”Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời” (Tv 19,9). Chúng ta hãy luôn nhớ điều đó: Chúa là Đấng Hằng Sống, Người thương xót. Chúa là Đấng Hằng Sống, Người thương xót.

Anh chị em thân mến chúng ta hãy nhìn lên Thiên Chúa như Thiên Chúa của sự sống, chúng ta hãy nhìn vào lề luật của Người, vào sứ điệp Tin Mừng như con đường của sư tự do và sự sống. Thiên Chúa Hằng Sống giải phóng chúng ta! Chúng ta hãy nói có với tình yêu chứ không với với ích kỷ, chúng ta hãy nói có với sự sống chứ không với cái chết, chúng ta hãy nói có với sự tự do chứ không với nô lệ của biết bao nhiêu thần tượng thời đại. Tắt một lời, chúng ta hãy nói vâng với Thiên Chúa là tình yêu, sự sống và tự do, và không bao giờ gây thất vọng (x. 1 Ga 4,8). Chỉ có niềm tin nơi Thiên Chúa Hằng Sống cứu rỗi chúng ta.
Lời nguyện giáo dân đã được đọc bằng các thứ tiếng: Hoa, Tây Ban Nha, Nga, Đức và Đại Hàn. Trong phần hiệp lễ 150 Linh Muc đã giúp Đức Thánh Cha phân phát Mình Thánh Chúa cho tín hữu.

Vào cuối thánh lễ Đức Hồng Y Zimowski đã thay mặt mọi người đặc biệt là các thánh viên Phong trao Bảo vệ sự sống cám ơn Đức Thánh Cha.

Trước khi đọc kinh truyền tin và ban phép lành cuối lễ Đức Thánh Cha đã mời gọi mọi người hướng về Đức Mẹ và phó thác cho sự chở che hiền mầu của Mẹ mọi sự sống, cách riêng sự sống yếu duối, vô phương tự vệ và bị đe dọa nhất.

Ngài cũng nhắc rằng thứ bảy vừa qua Giáo Hội tại Carpi Italia đã có một tân chân phước: đó là Odoardo Focherini, nhà báo cha của 7 người con, và là người đã cứu nhiều người Do thái, nhưng bị bắt và chết trong trại tập trung Đức quốc xã tại Hersbruck năm 1944 lúc với 37 tuổi, bị thù ghét vì đức tin. Đức Thánh Cha cảm tạ Chúa vì chứng nhân Tin Mừng Sự Sống này.

Ngài cũng cám ơn tất cả mọi tín hữu, đặc biệt các gia đình đã trực tiếp hoạt động bảo vệ sự sống con người, cũng như các thành viên liên hiệp mô tô Harley Davidson và Hội Môtô của cảnh sát Italia.

Rồi ngài đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải  – Vatican Radio

Tình yêu cứu độ

Tình yêu cứu độ

Bữa tiệc hôm nay diễn ra trong một khung cảnh đầy mâu thuẫn. Một bên là căn nhà sang trọng của thủ lĩnh biệt phái, một bên là Chúa Giêsu ăn mặc đơn sơ trong bộ quần áo của dân nghèo. Một bên là ông Simon người được coi là đạo cao đức trọng, một bên là người phụ nữ bị coi là đại tội nhân. Một bên là mâm cao cỗ đầy, mọi người vui tươi ănuống, một bên là người phụ nữ quì mọp sát đất, không dám ngẩng mặt lên, gục đầu khóc lóc. Chính trong khung cảnh đầy mâu thuẫn, trái ngược ấy, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu thương bao la của Người.

Đó là tình yêu bao dung chấp nhận mọi người. Chúa chấp nhận ông Simon dù Chúa không ưa lối sống của ông và của những người biệt phái, vì họ tự tôn cho rằng mình đạo đức mà khinh miệt những người khác. Hơn nữa, lối sống đạo của họ chỉ là hình thức giả dối bề ngoài. Thế nhưng Chúa vẫn chấp nhận ông, chấp nhận lời mời của ông, đến dự tiệc với ông, ngồi đồng bàn với ông, chia sẻ món ăn và câu chuyện với ông. Không chỉ chấp nhận ông Simon, Chúa còn chấp nhận người phụ nữ bị coi là tội lỗi công khai. Chị vào nhà trong ánh mắt khinh thị của mọi người. Nhưng Chúa vẫn điềm nhiên để chị khóc ướt chân mình. Chúa đã để chị hôn chân mình. Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình. Chúa đã để chị xức dầu tràn đầy trên chân mình. Còn hơn thế nữa, Chúa lên tiếng công khai bênh vực chị. Nếu Chúa công khai bày tỏ thịnh tình với ông Simon khi đến nhà ông dự tiệc thì Chúa cũng công khai bày tỏ thịnh tình với người phụ nữ khi lên tiếng bênh vực chị. Chúa chấp nhận tất cả mọi người.

Đó là tình yêu bao dung tha thứ mọi tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ tội lỗi là thái độ bao dung tha thứ. Chúa để cho chị vào nhà. Hơn thế nữa, Chúa để cho chị gục đầu vào chân Chúa, khóc ướt chân Chúa, lấy tóc lau chân Chúa và xức dầu thơm lên chân Chúa. Chị làm điều ấy ở nơi kín đáo còn đỡ gây chống đối, đằng này chị làm điều ấy công khai trước mắt mọi người, mà lại là những người ghen ghét, chống đối và kết án chị. Aùnh mắt và thái độ của những người chung quanh, đặc biệt là của ông Simon không lọt ngoài tầm mắt Chúa. Nhưng Chúa vẫn để chị làm những gì biểu lộ lòng thống hối, lòng yêu mến của Chị. Sau đó Chúa còn công khai lên tiếng ca ngợi tình yêu và niềm tin của Chị và công khai tha thứ cho chị.

Đó là tình yêu bao dung hoán cải. Chúa không ưa thói hợm hĩnh, giả hình của người biệt phái. Nhưng Chúa vẫn tìm cách hoán cải họ. Vì thế hôm nay Chúa nhận lời đến nhà ông Simon dự tiệc. Thấy thái độ của ông đối với người phụ nữ và những ý nghĩ thầm kín của ông phê phán Chúa, Chúa không để ông trong lầm lạc, nhưng đã lên tiếng giải thích cho ông hiểu những điều then chốt trong đời sống đạo và những gì có giá trị thực sự trước mặt Chúa. Chúa phải tốn công giải thích cặn kẽ vì Chúa yêu thương ông, muốn ông hiểu và hoán cải tâm hồn.

Đó là tình yêu ban ơn cứu độ. Tất cả những gì Chúa làm là mong đem ơn cứu độ cho loài người, cho tất cả mọi người không loại trừ một ai. Chúa muốn cứu độ cả ông Simon là người tưởng lầm mình đạo đức nhưng chỉ là đạo đức bên ngoài. Chúa muốn cứu độ cả người phụ nữ bị mang tiếng tội lỗi, bị mọi người khinh miệt, loại trừ. Tình yêu của Chúa không phải là thứ cảm tính nhất thời, đem đến an ủi nhất thời. Đó là tình yêu đem đến ơn cứu độ, đem đến hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu cho con người.

Lạy Chúa, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Lạy Chúa, xin cứu độ con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có thường xét đoán và khinh miệt, loại trừ người khác như ông Simon biệt phái không?
2- Bạn có thái độ khiêm nhường thống hối, tha thiết yêu mến như người phụ nữ tội lỗi không?
3- Chúa Giêsu nêu gương gì cho bạn trong cách đối xử với mọi người, người tội lỗi cũng như người tự xưng mình công chính?
4- Khi yêu thương người khác, bạn có dẫn người khác đến ơn cứu độ không?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Hãy sám hối ăn năn

Hãy sám hối ăn năn

Trong tiểu thuyết “Giường đàn bà” đã kể lại những cuộc tình bị đồng tiền làm hoen ố. Tình yêu chỉ là một món hàng mà người có tiền hay không có tiền đều dùng nó để mua bán trao đổi. Câu chuyện xoay quanh các nhân vật: Mạch – một phóng viên trẻ, đang học đại học, là nhân tình của một tổng biên tập giàu có và đa tình – người trả tiền nhà và đóng học phí cho cô.

Sau khi tan vỡ mong ước được làm mẹ do người tình một mực đòi cô phá thai, cuộc sống tinh thần của Mạch bị đảo lộn. Cô quyết định trả thù người tình bằng cách cặp với Bob – một nhà văn nghèo đang tìm kiếm vốn tài trợ cho bộ phim mà anh chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết của mình.

Tình yêu khó khăn giữa Mạch và Bob vừa nhen nhóm đã bị những giá trị vật chất trong cuộc sống lấn lướt và dập tắt. Bob phải ngủ với bà Thẩm Xán – một chủ doanh nghiệp giàu sang để hòng moi tiền đầu tư làm phim. Mạch bị sự giàu sang và phong trần của giám đốc đẹp trai Trần Tả – chồng của Thẩm Xán – quyến rũ. Bob chấp nhận cầm tiền của Trần Tả để bỏ rơi Mạch. Mạch bị Thẩm Xán đánh ghen tới trụy thai…

Tiểu thuyết hé lộ một phần sự thật về cuộc sống tàn nhẫn ở các thành phố lớn, hiện đại – nơi giá trị vật chất chiến thắng giá trị đạo đức và con người không vượt qua nổi chính mình. Đồng tiền trôi nổi cũng kéo theo phận người nổi trôi đầy sóng gió nghi nan. Con người lao vào vòng xoáy của vật chất đến vong thân chính mình. Con người đã quên mất mục đích sống của mình nên cũng đánh mất phẩm giá làm người của mình.

Nhân loại hôm nay dường như người ta chỉ cần tiền và bằng mọi cách kiếm ra tiền. Vì tiền mà người ta bỏ ra ngoài tất cả những giá trị đạo đức, tình yêu, lòng chung thuỷ…; Cuộc sống nếu đề cao đồng tiền lên trên mọi thứ luân lý, đạo đức thì đó là một xã hội suy đồi, nơi đó con người khó mà có những giây phút hạnh phúc đích thực, mà chỉ là những hạnh phúc giả tạo, mong manh dễ tan vỡ mà thôi.

Điều đáng tiếc cho xã hội hội hôm nay là người ta mất ý thức về tội. Người ta đề cao tự do đến nỗi luôn làm theo ý mình mà gạt bỏ lề lật của Chúa hay những luân thường đạo lý. Người ta luôn dùng mục đích để biện minh cho phương tiện, cho dù đó là phương tiện xấu xa, đê tiện. Có biết bao cô gái trẻ bán thân vì lý do để lấy tiền trang trải cho gia đình, hay cho việc học bản thân. Có biết bao người ngoại tình vì để đền ơn cho kẻ giúp đỡ thi ân. Có biết bao người phá thai vì đông con, vì nghèo đói…; Có phải vì nghèo đói để rồi mình có thể làm tất cả mọi chuyện cho dù đó là những chuyện phi nhân thất đức hay không? Có phải vì tiền mà mình có thể loại bỏ luân thường đạo lý hay không? Cuộc sống nếu không còn những giá trị đạo đức sẽ là một bể khổ đối với con người. Vì con người luôn phải đối đầu với biết bao con người xấu, với biết bao tệ nạn xấu. Xã hội loài người sẽ hỗn loạn nếu con người đặt vật chất lên trên mọi giá trị tinh thần. Nếu con người đề cao vật chất thì người ta sẽ dễ dàng chà đạp lên nhau chỉ vì một chút vật chất tầm thường mau qua.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có một tấm lòng sám hối chân thành như Đa-vít, hay như người phụ nữ tội lỗi đã khóc dưới chân Chúa và lấy tóc mà lau chân Chúa. Họ đều là những con người có quá khứ tội lỗi. Họ đều mang thân phận yếu đuối của con người. Họ đã phạm tội nhưng họ đã biết trỗi dậy. Cuộc đời họ đã ngụp lặn trong biết bao đam mê lầm lạc nhưng lương tâm luôn làm họ cắn rứt. Họ đã từng chọn những phù phiếm trần gian hơn là những giá trị đạo đức. Thế nhưng, họ không có bình an tâm hồn khi sống xa luật Chúa để lao vào những chuyện phi nhân thất đức. Họ đã trở về với lòng sám hối chân thành. Đa-vít đã mặc áo nhặm để sám hối ăn năn. Người phụ nữ đã quyết tâm đập bể bình ngọc như phá bỏ những hào nhoáng, phù phiếm mau qua. Họ đã nhận ra giá trị đích thực của con người là biết làm chủ chính mình, biết giữ được phẩm giá làm người của mình. Một con người có lý trí để biết đâu là thiện là ác, có ý chi để hướng dẫn hành vi mình đi theo lẽ phải. Giá trị của con người là biết làm chủ bản thân để sống đúng với phẩm giá làm người, với luân thường đạo lý. Nếu con người không còn khả năng làm chủ bản thân để đi theo lề luật thì con người đâu hơn loài vật. Nếu con người sống chỉ biết tranh giành nhau danh lợi thú trần gian thì con người đang tự đầy đoạ mình trong khổ ải trần gian.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết chọn Chúa hơn là những vinh hoa phú quý trần gian. Ước gì mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng nói sự thật như Đa-vít để thật lòng ăn năn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót xin giúp sức để chúng ta can đảm sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày một tốt hơn. Amen.

LM JOS Tạ Duy Tuyền

THA THỨ

THA THỨ

Thỉnh thoảng bạn đọc thấy một câu chuyện khiến bạn tự nhủ, “Đó là câu chuyện mà Chúa Giêsu thường nói đến.” Nó thật nồng ấm và đơn giản đến độ một đứa trẻ cũng có thể hiểu được và nhớ mãi.

Trong cuốn Jesus Make Me Laugh, tác giả David Redding cũng có một câu chuyện tương tự.

David sống trong một nông trại hẻo lánh. Người bạn duy nhất của cậu là con chó Teddy.

Con Teddy thường chờ David về nhà sau khi tan học. Nó ngủ bên cạnh cậu. Khi David huýt gió, Teddy chạy ngay đến dù nó đang ăn. Và rồi Thế Chiến II xảy đến.

David phải xa nhà vào hải quân. Anh không biết phải từ giã con Teddy như thế nào. Anh nói, “Làm thế nào bạn có thể giải thích cho một người thân yêu là bạn phải từ giã họ?”

Sau cùng, giây phút chia ly phải xảy đến. Con Teddy biết David phải xa nhà, nhưng nó không biết bao lâu và tại sao phải như vậy.

Ngày dần trôi, từ tuần sang tháng, từ tháng sang năm. Sau cùng, chiến tranh chấm dứt và David được tự do về nhà.

Chặng xe buýt cuối cùng để David dừng chân thì cách nhà đến 14 dặm. Lúc ấy khoảng nửa đêm và trời đen như mực khi anh rảo bước.

Gần bốn tiếng đồng hồ sau, anh còn cách nhà chừng nửa dặm. Bỗng dưng con Teddy cất tiếng sủa như khi có ai đó đến gần nông trại.

Và rồi anh David huýt gió. Có tiếng kêu ăng ẳng mừng rỡ. Một vài phút sau, con Teddy đã nhẩy vào lòng anh.

David kết thúc câu chuyện bằng nhận xét rằng, khi con Teddy mừng đón anh về nhà, giây phút không thể quên được đó đã nhắc nhở anh về Thiên Chúa. Nếu một con thú như Teddy có thể yêu mến và chào đón anh trở về dù bao năm xa cách, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không hành động giống như vậy?

Câu chuyện của con chó Teddy đặc biệt thích hợp với các bài đọc hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho Vua David trong bài đọc một.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu hành xử trong suốt cuộc đời của Người.

Chúa tha thứ cho người đàn ông bị bại liệt. Chúa tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa tha thứ cho tên trộm lành. Chúa tha thứ cho những lý hình tra tấn hành hạ Người.

Những gì Chúa Giêsu sống trong cuộc đời ở trần thế, Người cũng muốn các môn đệ thi hành.

Tha thứ cho những người lỗi phạm đến chúng ta là tâm điểm của rất nhiều dụ ngôn.

Thí dụ, đó là chủ đề của dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc.

Đó là chủ đề của dụ ngôn bà goá đánh mất một đồng bạc và gắng sức đi tìm.

Đó là chủ đề của dụ ngôn người cha nhân hậu đón mừng người con hoang đàng trở về.

Mỗi một dụ ngôn này nói lên cùng một điểm. Cha trên trời thì luôn tha thứ. Bởi đó, chúng ta, là con cái Người, cũng phải biết tha thứ.

Chúng ta cũng không được giới hạn sự tha thứ. Chúa Giêsu nói với ông Phêrô là chúng ta phải tha thứ không chỉ bảy lần, nhưng “bảy mươi lần bảy.” Mt 18:22

Nhưng tha thứ cho người khác không có nghĩa bỏ qua sự công bằng.

Bà Marcia Hootman và Patt Perkin đã nói rõ điểm này trong cuốn sách của họ, How to Forgive Your Ex-Husband (Làm thế nào để tha thứ cho người chồng cũ).

Họ kể ra trường hợp của ĐGH Gioan Phaolô II. Người đã vào nhà tù ở Ý để tha thứ cho Mehmet Ali Agca, tên hung thủ muốn sát hại đức giáo hoàng. “Nhưng,” các bà ấy viết, “bạn có để ý là đức giáo hoàng không xin cho Agca được tại ngoại đâu?”

Tướng James Oglethorpe của Anh có rất nhiều đức tính cao thượng, nhưng ông thú nhận là ông thấy bứt rứt khi phải tha thứ cho người sái quấy với ông.

Người ta nói rằng, ông đã từng nói với John Wesley rằng “Tôi không bao giờ tha thứ.” Và rồi Wesley nói với ông, “Vậy thì thưa ngài, tôi hy vọng là ngài không bao giờ phạm tội.”

Wesley nhắc nhở tướng Oglethorpe về điều Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu anh em không tha thứ cho nhau, thì Cha anh em cũng sẽ không tha thứ cho anh em khi làm điều sái quấy.” Mt. 6:15

Không nơi đâu chúng ta thấy sự tha thứ thật rõ ràng như trong kinh Lậy Cha.

Trong kinh đó, chúng ta xin Cha trên trời “tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Nhận xét về lời cầu xin này, thần học gia Tô Cách Lan là William Barclay nói:

Thật là một ý nghĩ đáng sợ khi người ta xin Thiên Chúa đừng tha thứ cho họ. Tuy nhiên, đó chính là điều mà một người không tha thứ hành động khi họ đọc kinh này.

Để giải thích điều này, Barclay đã đưa ra trường hợp của Robert Louis Stevenson, tác giả cuốn Treasure Island .

Ngày kia, khi đang đọc kinh Lạy Cha với gia đình, Stevenson bước ra khỏi phòng. Vợ ông đi theo, tưởng rằng ông bị đau yếu.

Khi gặp chồng, bà hỏi, “|Anh đau hay sao vậy?” Ông nói, “Không, hôm nay anh không xứng đáng để đọc kinh Lạy Cha.”

Chúng ta hãy kết thúc với tư tưởng của thi sĩ George Herbert:

Ai không thể tha thứ cho người khác thì đã làm đứt cây cầu mà họ phải đi qua nếu muốn đến thiên đường; vì bất cứ ai cũng cần được sự tha thứ.

Cha Mark Link, SJ

Thỉnh thoảng bạn đọc thấy một câu chuyện khiến bạn tự nhủ, “Đó là câu chuyện mà Chúa Giêsu thường nói đến.” Nó thật nồng ấm và đơn giản đến độ một đứa trẻ cũng có thể hiểu được và nhớ mãi.

Trong cuốn Jesus Make Me Laugh, tác giả David Redding cũng có một câu chuyện tương tự.

David sống trong một nông trại hẻo lánh. Người bạn duy nhất của cậu là con chó Teddy.

Con Teddy thường chờ David về nhà sau khi tan học. Nó ngủ bên cạnh cậu. Khi David huýt gió, Teddy chạy ngay đến dù nó đang ăn. Và rồi Thế Chiến II xảy đến.

David phải xa nhà vào hải quân. Anh không biết phải từ giã con Teddy như thế nào. Anh nói, “Làm thế nào bạn có thể giải thích cho một người thân yêu là bạn phải từ giã họ?”

Sau cùng, giây phút chia ly phải xảy đến. Con Teddy biết David phải xa nhà, nhưng nó không biết bao lâu và tại sao phải như vậy.

Ngày dần trôi, từ tuần sang tháng, từ tháng sang năm. Sau cùng, chiến tranh chấm dứt và David được tự do về nhà.

Chặng xe buýt cuối cùng để David dừng chân thì cách nhà đến 14 dặm. Lúc ấy khoảng nửa đêm và trời đen như mực khi anh rảo bước.

Gần bốn tiếng đồng hồ sau, anh còn cách nhà chừng nửa dặm. Bỗng dưng con Teddy cất tiếng sủa như khi có ai đó đến gần nông trại.

Và rồi anh David huýt gió. Có tiếng kêu ăng ẳng mừng rỡ. Một vài phút sau, con Teddy đã nhẩy vào lòng anh.

David kết thúc câu chuyện bằng nhận xét rằng, khi con Teddy mừng đón anh về nhà, giây phút không thể quên được đó đã nhắc nhở anh về Thiên Chúa. Nếu một con thú như Teddy có thể yêu mến và chào đón anh trở về dù bao năm xa cách, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không hành động giống như vậy?

Câu chuyện của con chó Teddy đặc biệt thích hợp với các bài đọc hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho Vua David trong bài đọc một.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu hành xử trong suốt cuộc đời của Người.

Chúa tha thứ cho người đàn ông bị bại liệt. Chúa tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa tha thứ cho tên trộm lành. Chúa tha thứ cho những lý hình tra tấn hành hạ Người.

Những gì Chúa Giêsu sống trong cuộc đời ở trần thế, Người cũng muốn các môn đệ thi hành.

Tha thứ cho những người lỗi phạm đến chúng ta là tâm điểm của rất nhiều dụ ngôn.

Thí dụ, đó là chủ đề của dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc.

Đó là chủ đề của dụ ngôn bà goá đánh mất một đồng bạc và gắng sức đi tìm.

Đó là chủ đề của dụ ngôn người cha nhân hậu đón mừng người con hoang đàng trở về.

Mỗi một dụ ngôn này nói lên cùng một điểm. Cha trên trời thì luôn tha thứ. Bởi đó, chúng ta, là con cái Người, cũng phải biết tha thứ.

Chúng ta cũng không được giới hạn sự tha thứ. Chúa Giêsu nói với ông Phêrô là chúng ta phải tha thứ không chỉ bảy lần, nhưng “bảy mươi lần bảy.” Mt 18:22

Nhưng tha thứ cho người khác không có nghĩa bỏ qua sự công bằng.

Bà Marcia Hootman và Patt Perkin đã nói rõ điểm này trong cuốn sách của họ, How to Forgive Your Ex-Husband (Làm thế nào để tha thứ cho người chồng cũ).

Họ kể ra trường hợp của ĐGH Gioan Phaolô II. Người đã vào nhà tù ở Ý để tha thứ cho Mehmet Ali Agca, tên hung thủ muốn sát hại đức giáo hoàng. “Nhưng,” các bà ấy viết, “bạn có để ý là đức giáo hoàng không xin cho Agca được tại ngoại đâu?”

Tướng James Oglethorpe của Anh có rất nhiều đức tính cao thượng, nhưng ông thú nhận là ông thấy bứt rứt khi phải tha thứ cho người sái quấy với ông.

Người ta nói rằng, ông đã từng nói với John Wesley rằng “Tôi không bao giờ tha thứ.” Và rồi Wesley nói với ông, “Vậy thì thưa ngài, tôi hy vọng là ngài không bao giờ phạm tội.”

Wesley nhắc nhở tướng Oglethorpe về điều Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu anh em không tha thứ cho nhau, thì Cha anh em cũng sẽ không tha thứ cho anh em khi làm điều sái quấy.” Mt. 6:15

Không nơi đâu chúng ta thấy sự tha thứ thật rõ ràng như trong kinh Lậy Cha.

Trong kinh đó, chúng ta xin Cha trên trời “tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Nhận xét về lời cầu xin này, thần học gia Tô Cách Lan là William Barclay nói:

Thật là một ý nghĩ đáng sợ khi người ta xin Thiên Chúa đừng tha thứ cho họ. Tuy nhiên, đó chính là điều mà một người không tha thứ hành động khi họ đọc kinh này.

Để giải thích điều này, Barclay đã đưa ra trường hợp của Robert Louis Stevenson, tác giả cuốn Treasure Island .

Ngày kia, khi đang đọc kinh Lậy Cha với gia đình, Stevenson bước ra khỏi phòng. Vợ ông đi theo, tưởng rằng ông bị đau yếu.

Khi gặp chồng, bà hỏi, “|Anh đau hay sao vậy?” Ông nói, “Không, hôm nay anh không xứng đáng để đọc kinh Lậy Cha.”

Chúng ta hãy kết thúc với tư tưởng của thi sĩ George Herbert:

Ai không thể tha thứ cho người khác thì đã làm đứt cây cầu mà họ phải đi qua nếu muốn đến thiên đường; vì bất cứ ai cũng cần được sự tha thứ.

– See more at: http://www.lamhong.org/2013/06/12/chu-giai-va-chia-se-tin-mung-chua-nhat-xi-tn-nam-c/#CN11C_15

Thỉnh thoảng bạn đọc thấy một câu chuyện khiến bạn tự nhủ, “Đó là câu chuyện mà Chúa Giêsu thường nói đến.” Nó thật nồng ấm và đơn giản đến độ một đứa trẻ cũng có thể hiểu được và nhớ mãi.

Trong cuốn Jesus Make Me Laugh, tác giả David Redding cũng có một câu chuyện tương tự.

David sống trong một nông trại hẻo lánh. Người bạn duy nhất của cậu là con chó Teddy.

Con Teddy thường chờ David về nhà sau khi tan học. Nó ngủ bên cạnh cậu. Khi David huýt gió, Teddy chạy ngay đến dù nó đang ăn. Và rồi Thế Chiến II xảy đến.

David phải xa nhà vào hải quân. Anh không biết phải từ giã con Teddy như thế nào. Anh nói, “Làm thế nào bạn có thể giải thích cho một người thân yêu là bạn phải từ giã họ?”

Sau cùng, giây phút chia ly phải xảy đến. Con Teddy biết David phải xa nhà, nhưng nó không biết bao lâu và tại sao phải như vậy.

Ngày dần trôi, từ tuần sang tháng, từ tháng sang năm. Sau cùng, chiến tranh chấm dứt và David được tự do về nhà.

Chặng xe buýt cuối cùng để David dừng chân thì cách nhà đến 14 dặm. Lúc ấy khoảng nửa đêm và trời đen như mực khi anh rảo bước.

Gần bốn tiếng đồng hồ sau, anh còn cách nhà chừng nửa dặm. Bỗng dưng con Teddy cất tiếng sủa như khi có ai đó đến gần nông trại.

Và rồi anh David huýt gió. Có tiếng kêu ăng ẳng mừng rỡ. Một vài phút sau, con Teddy đã nhẩy vào lòng anh.

David kết thúc câu chuyện bằng nhận xét rằng, khi con Teddy mừng đón anh về nhà, giây phút không thể quên được đó đã nhắc nhở anh về Thiên Chúa. Nếu một con thú như Teddy có thể yêu mến và chào đón anh trở về dù bao năm xa cách, thì lẽ nào Thiên Chúa lại không hành động giống như vậy?

Câu chuyện của con chó Teddy đặc biệt thích hợp với các bài đọc hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho Vua David trong bài đọc một.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm hôm nay.

Nó cho thấy loại tha thứ mà Chúa Giêsu hành xử trong suốt cuộc đời của Người.

Chúa tha thứ cho người đàn ông bị bại liệt. Chúa tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình. Chúa tha thứ cho tên trộm lành. Chúa tha thứ cho những lý hình tra tấn hành hạ Người.

Những gì Chúa Giêsu sống trong cuộc đời ở trần thế, Người cũng muốn các môn đệ thi hành.

Tha thứ cho những người lỗi phạm đến chúng ta là tâm điểm của rất nhiều dụ ngôn.

Thí dụ, đó là chủ đề của dụ ngôn người mục tử đi tìm con chiên lạc.

Đó là chủ đề của dụ ngôn bà goá đánh mất một đồng bạc và gắng sức đi tìm.

Đó là chủ đề của dụ ngôn người cha nhân hậu đón mừng người con hoang đàng trở về.

Mỗi một dụ ngôn này nói lên cùng một điểm. Cha trên trời thì luôn tha thứ. Bởi đó, chúng ta, là con cái Người, cũng phải biết tha thứ.

Chúng ta cũng không được giới hạn sự tha thứ. Chúa Giêsu nói với ông Phêrô là chúng ta phải tha thứ không chỉ bảy lần, nhưng “bảy mươi lần bảy.” Mt 18:22

Nhưng tha thứ cho người khác không có nghĩa bỏ qua sự công bằng.

Bà Marcia Hootman và Patt Perkin đã nói rõ điểm này trong cuốn sách của họ, How to Forgive Your Ex-Husband (Làm thế nào để tha thứ cho người chồng cũ).

Họ kể ra trường hợp của ĐGH Gioan Phaolô II. Người đã vào nhà tù ở Ý để tha thứ cho Mehmet Ali Agca, tên hung thủ muốn sát hại đức giáo hoàng. “Nhưng,” các bà ấy viết, “bạn có để ý là đức giáo hoàng không xin cho Agca được tại ngoại đâu?”

Tướng James Oglethorpe của Anh có rất nhiều đức tính cao thượng, nhưng ông thú nhận là ông thấy bứt rứt khi phải tha thứ cho người sái quấy với ông.

Người ta nói rằng, ông đã từng nói với John Wesley rằng “Tôi không bao giờ tha thứ.” Và rồi Wesley nói với ông, “Vậy thì thưa ngài, tôi hy vọng là ngài không bao giờ phạm tội.”

Wesley nhắc nhở tướng Oglethorpe về điều Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Nếu anh em không tha thứ cho nhau, thì Cha anh em cũng sẽ không tha thứ cho anh em khi làm điều sái quấy.” Mt. 6:15

Không nơi đâu chúng ta thấy sự tha thứ thật rõ ràng như trong kinh Lậy Cha.

Trong kinh đó, chúng ta xin Cha trên trời “tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Nhận xét về lời cầu xin này, thần học gia Tô Cách Lan là William Barclay nói:

Thật là một ý nghĩ đáng sợ khi người ta xin Thiên Chúa đừng tha thứ cho họ. Tuy nhiên, đó chính là điều mà một người không tha thứ hành động khi họ đọc kinh này.

Để giải thích điều này, Barclay đã đưa ra trường hợp của Robert Louis Stevenson, tác giả cuốn Treasure Island .

Ngày kia, khi đang đọc kinh Lậy Cha với gia đình, Stevenson bước ra khỏi phòng. Vợ ông đi theo, tưởng rằng ông bị đau yếu.

Khi gặp chồng, bà hỏi, “|Anh đau hay sao vậy?” Ông nói, “Không, hôm nay anh không xứng đáng để đọc kinh Lậy Cha.”

Chúng ta hãy kết thúc với tư tưởng của thi sĩ George Herbert:

Ai không thể tha thứ cho người khác thì đã làm đứt cây cầu mà họ phải đi qua nếu muốn đến thiên đường; vì bất cứ ai cũng cần được sự tha thứ.

– See more at: http://www.lamhong.org/2013/06/12/chu-giai-va-chia-se-tin-mung-chua-nhat-xi-tn-nam-c/#CN11C_15

Bắc Hàn có khoảng 10,000 người Công giáo bí mật

Bắc Hàn có khoảng 10,000 người Công giáo bí mật

“Chúng ta nghi ngờ sau một thời gian dài bắt bớ mà vẫn còn khoảng 10,000 người nhớ đến đức tin Công giáo trong lòng. Nhưng tôi thấy khó tin có một Giáo hội bí mật có tổ chức ở Bắc Hàn”, linh mục Lee Eun-hyung, tổng thư ký “Ủy ban Hòa giải người Triều Tiên” của Công giáo, nói trong một cuộc phỏng vấn với Aid to the Church in Need (quỹ hỗ trợ công tác mục vụ ở những nơi người Công giáo bị ngược đãi).

Trong cuộc phỏng vấn, cha Eun-hyung miêu tả cảnh sống bi thảm của người dân Bắc Hàn và nói về các chuyến đi của ngài, chuyến cuối cùng là chuyến thăm thủ đô Bắc Hàn vào năm 2011. “Trong mỗi chuyến đi, tôi dâng lễ tại nhà thờ Công giáo “Jangchung”, lấy tên theo tên quận trong thành phố này, và có tín hữu Bắc Hàn tham dự. Thế nhưng, các nhà chức trách Bắc Hàn nói với tôi rằng nghiêm cấm tôi và những người làm việc với tôi tiếp xúc riêng với công dân nước này”. Cha Eun-hyung giải thích nhà thờ Jangchung có một không hai vì giáo dân của nhà thờ do một giáo dân cử hành phụng vụ Lời Chúa hướng dẫn vào mỗi Chủ nhật”. Điều này hẳn là đúng vì “theo tôi biết, hiện nay không có linh mục nào sống ở Bắc Hàn”, ngài nói.

Khi được hỏi còn bao nhiêu người Công giáo ở Bắc Hàn, cha Eun-hyung trả lời: “Khó nói lắm. Chính quyền Bắc Hàn nói với chúng tôi rằng có 3,000 người Công giáo trong nước này. Nhưng chúng tôi không biết con số này có đúng không, hay làm sao họ có được con số đó”. Lần cuối cùng có được con số thống kê chính xác là vào năm 1945, khi Triều Tiên bị chia thành hai miền Nam, Bắc. “Theo tài liệu trước đây cho thấy có khoảng 50.000 người Công giáo sống ở miền bắc trước khi đất nước bị phân chia. Công tác thừa sai hoạt động rất mạnh xuất phát từ đây. Chẳng hạn, mẹ của nhà độc tài Kim Il-sung (1948-1994) xuất thân từ một gia đình Tin lành rất sùng đạo”, vị linh mục kể. Vào lúc đó cũng có nhiều nhà thờ Kitô giáo, nhưng hầu như tất cả – ngoại trừ nhà thờ Jangchung – đã bị phá hủy trong cuộc chiến 1950-1953 hay được dùng vào các mục đích khác dưới chế độ này.

Ngày nay, Bắc Hàn là một trong những nước đứng đầu về tước đoạt quyền tự do tôn giáo,  nhưng mặc dù xảy ra bách hại tôn giáo trong nhiều năm qua, cha Eun-hyung tin rằng “vẫn còn khoảng 10,000 người còn nhớ đức tin Công giáo trong lòng”. Điều này có thể được xác nhận qua các lời chứng của một số người tị nạn Bắc Hàn, họ kể những phụ nữ lớn tuổi ngồi thành vòng tròn đếm hạt đậu và thì thầm như thể là họ đang lần hạt vậy. Nhưng vị linh mục khẳng định không chắc có một Giáo hội bí mật tồn tại ở Bắc Hàn, mặc dù một số người nói có một Giáo hội gần biên giới với Trung Quốc.

“Khi bước qua đường biên giới bằng xe tải, tôi thấy như mình đang đi trong một cỗ máy thời gian. Tôi cảm thấy như trở lại từ 40- 50 năm về trước … ngoài vấn đề lớn về lương thực, Bắc Hàn còn rất thiếu nhiên liệu”, cha Eun-hyung nhận xét. “Vì thế nhiều người Bắc Hàn lên núi chặt cây làm củi đốt. Do đó núi ở Bắc Hàn đang ngày càng trở thành đồi trọc, dẫn tới gia tăng các trận thiên tai như lũ lụt và lở đất, gây tổn hại về nông nghiệp và càng làm cho vấn đề lương thực trầm trọng hơn. Để người dân không phải ngồi trong trời lạnh, chúng tôi mở các hoạt động mùa đông vào năm 2007 và cho đến nay chúng tôi đã dùng xe tải đưa được 300,000 bánh than đá đến gần vùng Kaesong, cách đường ranh giới quân sự một vài cây số”, ngài cho biết. Ngài kể thêm mặc dù “tiếp xúc riêng với cư dân Bắc Hàn bị nghiêm cấm”, nhân viên tình nguyện cuối cùng cũng nói chuyện được với người dân địa phương và lắng nghe những vấn đề của họ.

Nhưng hồi tháng 5-2010, “chính quyền tại Seoul đình chỉ công tác cứu trợ Bắc Hàn. Vào lúc này, những nỗ lực cứu trợ Bắc Hàn của chúng tôi phải tạm hoãn. Ngay khi hết vụ khủng hoảng này, chúng tôi sẽ đợi cho đến khi chính sách về Bắc Hàn ở Hàn Quốc thay đổi so với chính sách của chính quyền Tổng thống Lee Myung-bak (năm 2008 đến tháng 2-2013)”, vị linh mục nói. Ủy ban Hòa giải người Triều Tiên liên tục nhận được yêu cầu trợ giúp thông qua Hội Công giáo Joseon, tổ chức duy nhất được chế độ Kim Jong-uk công nhận. Và nhà thờ Jangchung cần nâng cấp gấp.

Sau nhiều tháng căng thẳng, gần đây Bắc Triều Tiên tỏ ý muốn nối lại đàn phán với Seoul. Cha Eun-hyung tin rằng đối thoại giữa hai miền Triều Tiên là giải pháp duy nhất. Các vụ căng thẳng này khiến cho cuộc sống của người dân Bắc Hàn khổ hơn, và kinh tế của Hàn Quốc cũng bị ảnh hưởng. “Để thoát khỏi cảnh ác mộng này, Hàn Quốc và Bắc Hàn cần đối thoại và thỏa thuận, cộng tác và giao lưu”, cha Eun-hyung kết luận.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

UCANEWS

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đức Giáo Chủ Liên hiệp Anh giáo

Đức Thánh Cha tiếp kiến Đức Giáo Chủ Liên hiệp Anh giáo

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 14 tháng 6-2013, dành cho Đức TGM Justin Welby, Giáo chủ liên hiệp Anh giáo, ĐTC Phanxicô cổ võ sự cộng tác giữa hai Giáo Hội trong việc thăng tiến các giá trị Kitô và hòa bình.

Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ĐTC Phanxicô và Đức Giáo Chủ Welby. Tháp tùng Đức TGM có phu nhân và đoàn tùy tùng. Ngoài ra, hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có Đức Cha Vincent Nichols, TGM Công Giáo của giáo phận Westminster, cũng là Chủ tịch HĐGM Anh quốc.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhắc đến những quan hệ giữa Anh giáo và Công Giáo, đặc biệt trong thập niên gần đây với hành trình xích lại gần nhau và trong tinh thần huynh đệ, cũng như công cuộc đối thoại thần học qua Ủy ban quốc tế. Ngài cũng cám ơn nỗ lực chân thành của Giáo Hội Anh giáo tại Anh quốc đã tỏ ra thông cảm đối với những lý do khiến Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 thiết lập Giáo hạt tòng nhân để đón nhận các tín hữu Anh giáo xin gia nhập Công Giáo và vẫn giữ nguyên truyền thống phụng vụ của Anh giáo.

ĐTC nói: ”Tôi chắc chắn rằng kiện này cũng giúp thế giới Công Giáo biết rõ hơn và quí chuộng những truyền thống linh đạo, phụng vụ và mục vụ thuộc gia sản của Anh giáo”.

”Ngoài ra, qua việc cầu nguyện, sự dấn thân tiến bước trên con đường tiến về hiệp nhất được canh tân hằng ngày, và có thể được biểu lộ trong sự cộng tác với nhau thuộc nhiều lãnh vực của cuộc sống. Trong số này, đặc biệt có chứng tá về sự tham chiếu Thiên Chúa và thăng tiến các giá trị Kitô, đứng trước một xã hội nhiều khi đặt lại vấn đề cả những nền tảng của sự sống chung, như sự tôn trọng đặc tính thánh thiêng của sự sống con người, hoặc sự ổn định vững chắc của định chế gia đình dựa trên hôn nhân”.

ĐTC cũng nhắc đến sự dấn thân hoạt động để có công bằng xã hội nhiều hơn, một chế độ kinh tế phục vụ con người và công ích. Ngài nói: ”Trong các nghĩa vụ của chúng ta với tư cách là chứng nhân tình yêu của Chúa Kitô, có nghĩa vụ phải lên tiếng thay cho những người nghèo, để họ không bị bỏ mặc cho những luật lệ kinh tế nhiều khi chỉ coi con người là người tiêu thụ”.

ĐTC đề cập đến và ca ngợi sự kiện Đức Giáo chủ Welby của Anh giáo đã cùng với Đức TGM Vincent Nichols can thiệp với chính phủ Anh để tìm một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột tại Siria, bảo đảm an ninh cho toàn dân, kể cả những nhóm dân thiểu số, trong đó có các cộgn đoàn Kitô địa phương. Các tín hữu Kitô chúng ta mang hòa bình và ân phúc như một kho tàng để trao tặng thế giới, nhưng những món quà này chỉ mang lại thành quả nếu các tín hữu Kitô sống và hoạt động với nhau trong sự hàp hợp. Như thế sẽ dễ góp phần xây dựng những quan hệ tôn trọng và sống chung hòa bình với những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác và cả những người không tín ngưỡng”. (SD 14-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam kết thúc cuộc gặp gỡ tại Vatican

Phái đoàn Tòa Thánh và Việt Nam kết thúc cuộc gặp gỡ tại Vatican

VATICAN. Trưa ngày 14-6-2013, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố thông cáo chung về cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm việc chung Việt Nam và Tòa Thánh tại Vatican.

Nguyên văn thông cáo chung như sau:

”Thực hiện thỏa thuận đã đạt được trong cuộc gặp gỡ lần thứ 3 của Nhóm Làm Việc chung Tòa Thánh và Việt Nam tại Hà Nội hồi tháng 2 năm 2012, cuộc gặp gỡ lần thứ 4 của Nhóm Làm việc chung đã diễn ra tại Vatican trong hai ngày 13 và 14-6-2013. Đức Ông Antoine Camilleri, Thứ Trưởng ngoại giao Tòa Thánh và Ông Bùi Thanh Sơn, Thứ trưởng ngoại giao, Trưởng đoàn Việt Nam, đã đồng chủ tọa cuộc gặp gỡ.

Hai bên đã trao đổi tin tức về tình trạng liên hệ, duyệt qua và thảo luận về những quan hệ giửa Việt Nam và Tòa Thánh, và về những vấn đề liên hệ tới Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.

Phái đoàn Việt Nam đã nhấn mạnh sự kiên trì thực thi và những cải tiến liên tục trong chính sách của Đảng và Nhà Nước Việt Nam về việc tôn trọng và bảo đảm tự do tôn giáo và các tín ngưỡng cũng như luôn khích lệ các tôn giáo khác và đặc biệt là Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tích cực tham gia tiến trình xây dựng đất nước và phát triển kinh tế và xã hội.

Phía Tòa Thánh đánh giá cao và cám ơn sự quan tâm của chính quyền các cấp đối với hoạt động của Giáo Hội Công Giáo, đặc biệt là Đại Hội kỳ 10 của Liên HĐGM Á châu nhóm tại Xuân Lộc và Thành Phố Hồ chí Minh hồi tháng 12 năm 2012, cũng như các cuộc viếng thăm mục vụ của Đại diện không thường trú của Tòa Thánh, Đức TGM Leopoldo Girelli. Tòa Thánh nêu bật ước muốn phát triển thêm các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh, nhấn mạnh nhu cầu cần có một vị Đại Diện Tòa Thánh thường trú tại Việt Nam, có lợi ích cho tất cả những phe liên hệ.

Cả hai bên nhìn nhận việc rao giảng của Giáo Hội về việc ”sống Tin Mừng giữa lòng Đất Nước” và về sự kiện ”là một người Công Giáo tốt cũng có nghĩa là một công dân tốt”. Tòa Thánh đã khẳng định ý chí của Giáo Hội Công Giáo góp phần theo cách thế đặc thù của mình vào công ích của xã hội, thông truyền và thực thi các giáo huấn liên lục của các vị Giáo Hoàng về vấn đề này.

Cả hai bên đã đồng ý rằng các quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh đã tiến triển tích cực trong tinh thần thiện chí, trao đổi tích cực và tôn trọng các nguyên tắc trong quan hệ giữa hai bên. Trong tinh thần này, và đứng trước cam kết phát triển thêm các quan hệ hỗ tương, công việc của vị Đại Diện Tòa Thánh không thường trú sẽ được dễ dàng hơn để Ngài có thể chu toàn sứ vụ một cách phong phú hơn.

Cuộc gặp gỡ đã diễn ra trong một bầu không khí chân thành thân mật, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau.
Hai bên đã thỏa thuận sẽ gặp lại nhau tại Hà Nội trong cuộc gặp gỡ thứ năm của Nhóm Làm việc chung Việt Nam và Tòa Thánh. Ngày giờ cuộc gặp gỡ sẽ được thiết định qua đường ngoại giao.

Nhân dịp này, Phái đoàn Việt Nam cũng đã thăm Ngoại Trưởng Tòa Thánh, Đức TGM Dominique Mamberti (SD 14-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công bố một văn kiện

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công bố một văn kiện

VATICAN. ĐTC Phanxicô cho biết ngài sẽ viết tiếp văn kiện của Đức Biển Đức 16 về đức tin và sẽ công bố.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 13 tháng 6-2013, dành cho Hội đồng Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, cùng với chức sắc khác tổng cộng 25 vị, nhóm họp tại Roma trong những ngày này dưới quyền chủ tọa của Đức TGM Tổng thư ký Nikola Eterovic, với mục đích giúp ĐTC soạn Tông Huấn đúc kết thành quả của Thượng HĐGM năm ngoái về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”, đồng thời cũng để giúp ĐTC chọn chủ đề cho Thượng HĐGM kỳ thứ 14.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC Phanxicô đã ứng khẩu tóm tắt bài diễn văn dọn sẵn và loan báo ngài sẽ công bố văn kiện về đức tin đã được ĐGH Biển Đức 16 khởi sự: ”Bây giờ sẽ có một thông điệp 'viết bằng 4 tay' như người ta vẫn nói. Đó là văn kiện ĐGH Biển Đức 16 đã bắt đầu và đã trao cho tôi. Đó là một văn kiện mạnh mẽ và công việc lớn chính Người đã làm và tôi sẽ tiếp tục”.

ĐTC Biển Đức 16 dự định công bố một thông điệp về đức tin nhân dịp kết thúc Năm Đức Tin, nhưng vì tình hình sức khỏe ngài từ chức và Văn kiện chưa được hoàn thành.

ĐTC xác nhận ngài đã nhận được dự thảo Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM thứ 13 nhóm tại Vatican hồi tháng 10-2012, nhưng e rằng việc công bố văn kiện này đồng thời với Thông Điệp về đức tin thì Tông Huấn sẽ bị mất hút. Vì thế ngài này ra ý định công bố một tông huấn về truyền giảng Tin Mừng nhân dịp kết thúc Năm Đức Tin, nhưng trong đó có du nhập những đề nghị của Thượng HĐGM trong một bối cảnh truyền giáo rộng lớn hơn.

ĐTC tiết lộ: ”Tôi đã viết phần nào, nhưng tháng 8 tới đây tôi sẽ ở nhà, công việc yên hàn hơn và tôi sẽ tiếp tục”.
ĐTC đã trao diễn văn soạn sẵn để mọi người đọc sau đó. Trong Văn kiện này ngài nhận xét rằng thành ngữ ”nuova evangelizzazione”, tái truyền giảng Tin Mừng, làm nổi bật ý thức ngày càng rõ ràng rằng cả nơi những quốc gia có truyền thống Kitô kỳ cựu, người ta thấy cần phải canh tân việc rao giảng Tin Mừng, để dẫn đưa con người trở lại gặp gỡ Chúa, Đấng thực sự biến đổi cuộc sống, chứ không hời hợt do thói quen. Điều này có hậu quả trong hoạt động mục vụ, như Vị Tôi Tớ Chúa Phaolô 6 đã nhân xét: ”Những hoàn cảnh xã hội bó buộc chúng ta phải xét lại các phương pháp, dùng mọi phương thể để tìm cách nghiên cứu xem làm để nào để đưa sứ điệp Kitô cho người tân tiến ngày nay, vì chỉ trong sứ điệp này con người mới có thể tìm được câu trả lời cho những vấn nạn của họ và tìm được sức mạnh để dấn thân liên với với nhân loại” (Diễn văn trước Hồi y đoàn 22-6-1973).

Trong chiều hướng đó, ĐTC viết thêm rằng ”Tôi muốn khích lệ toàn thể cộng đoàn Giáo Hội hãy rao giảng Tin Mừng, đừng sợ ”ra khỏi chính mình” để loan báo, nhất là tín thác nơi sự hiện diện từ bi của Thiên Chúa Đấng hướng dẫn chúng ta. Các kỹ năng tuy quan trọng, nhưng dù những kỹ năng hoàn hảo nhất vẫn không thể thay thế hoạt động âm thần nhưng hiệu quả của Đấng là tác nhân chính của công cuộc rao giảng Tin Mừng, nghĩa là Chúa Thánh Linh (Xc ibid. 75). Cần để mình được Chúa hướng dẫn, dù Ngài dẫn chúng ta đi trên những con người mới; cần phải để Chúa biến đổi chúng ta để việc rao giảng của chúng ta được diễn ra luôn luôn được đi kèm bằng đời sống đơn sơ, tinh thần cầu nguyện và lòng bác ái đối với mọi người, nhất là những người bé nhỏ và nghèo khổ, bằng tinh thần khiêm tốn, từ bỏ chính mình, và bàng đời sống thánh thiện (Xc ibid. 76). Chỉ như thế việc rao giảng mới thực sự có những thành quả phong phú”.

Sau cùng, ĐTC ca ngợi thành quả của các Thượng HĐGM như một trong những kết quả của Cộng đồng chung Vatican 2 và nói thêm rằng ”Cởi mở đối với ơn của Chúa Thánh Linh là linh hồn của Giáo Hội, chúng ta tín thác rằng Thượng HĐGM sẽ được phát triển thêm để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự đối thoại và cộng tác giữa các GM với nhau và với GM Roma”.

Trong cuộc đối thoại với các thành viên Hội đồng của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13, ĐTC cho biết có thể là ngài sẽ biến Hội đồng thành một cơ quan thường trực và ngài triệu tập cơ quan này khi cần để hỏi ý kiến.

G. Trần Đức Anh, O.P – Vatican Radio
 

 

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa có luật lệ là tình yêu thương đại đồng

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa có luật lệ là tình yêu thương đại đồng

Giáo Hội là Dân Thiên Chúa bao gồm mọi dân tộc, có luật lệ là tình yêu thương đại đồng, có sứ mệnh loan báo Chúa Kitô, là dấu chỉ, muối men và áng sáng dẫn đưa mọi người đến với Thiên Chúa và tiến về quê hương thiên quốc.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với khoảng 90,000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung sáng thứ tư 12 tháng 6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Giáo Hội dân của Thiên Chúa”, như Công Đồng Chung Vaticăng II và Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa (LG 9; GLGHCG 782). Đức Thánh Cha đã khai triển bài giáo lý bằng các câu hỏi. Trả lời câu hỏi Giáo Hội là gì Đức Thánh Cha nói:

Trước hết nó có nghĩa là Thiên Chúa không thuộc riêng một dân tộc nào; bởi vì chính Người mời gọi chúng ta, triệu tập chúng ta, mời gọi chúng ta là thành phần dân của Người, và lời mời gọi này hướng tới tất cả mọi người, không phân biệt, bời vì lòng thương xót của Thiên Chúa ”muốn ơn cứu rỗi cho mọi người” (q Tm 2,4). Chúa Giêsu không nói với các Tông Đồ và chúng ta làm thành một nhóm độc hữu, một nhóm ưu tú. Chúa Giêsu nói: Hãy đi và lam cho mọi dân tộc trở thành môn đệ (x. Mt 28,19). Thánh Phaolô khẳng định rằng trong dân của Thiên Chúa, trong Giáo Hội ”không còn do thái hy lạp… bởi vì anh em tất cả là một trong Chúa Kitô Giêsu” (Gl 3,28). Tôi cũng muốn nói với người cảm thấy xa Thiên Chúa và Giáo Hội, với người sợ hãi hay thờ ơ, với người nghĩ rằng không còn có thể thay đổi được nữa: Chúa cũng mời gọi bạn là thành phần của dân Người, và Chúa làm điều này với lòng kính trọng lớn và tình yêu thương! Người mời gọi chúng ta làm thành phần của dân này, dân của Thiên Chúa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đưa ra câu hỏi thứ hai: Làm thế nào để trở thành chi thể của dân Thiên Chúa? Và ngài trả lời: Không phải qua việc sinh ra thể lý, mà qua một cuộc sống mới. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo rằng cần phải sinh ra từ bên trên, từ nước và từ Thần Khí để vào Nước Thiên Chúa (x. Ga 3,3-5). Chính qua bí tích Rửa Tội mà chúng ta được đưa vào dân tộc này, qua niềm tin nơi Chúa Kitô, là ơn Thiên Chúa ban, và nó phải được dưỡng nuôi và làm cho lớn lên bằng toàn cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy tự hỏi mình xem: tôi làm thế nào để cho đức tin mà tôi đã nhận trong bí tích Rửa Tội được lớn lên? Tôi làm thế nào để đức tin mà tôi đã nhận và dân Chúa được lớn lên? Tôi làm thế nào để cho nó lớn lên? Đó là một câu hỏi khác.

Câu hỏi thứ ba là: Đâu là luật của dân Thiên Chúa? Đức Thánh Cha trả lời:

Đó là luật yêu thương, yên mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân theo giới răn mới Chúa ban cho chúng ta (x. Ga 13,34). Tuy nhiên, một tình yêu không phải là thuyết duy tình cảm cằn cỗi hay là một cái gì mơ hồ, mà là việc nhận biết Thiên Chúa như là Chúa duy nhất của cuộc sống, đồng thời là việc tiếp nhận tha nhân như là người anh em thật, bằng cách thắng vượt các chia rẽ, các tranh đua, các hiểu lầm, các ích kỷ; cả hai đi chung với nhau. Chúng ta còn phải đi biết bao nhiêu đường để sống luật mới này một cách đúng đắn, luật của Chúa Thánh Thần, Đấng hành động trong chúng ta, luật của tình bác ái, của tình yêu thương! Khi chúng ta nhìn thấy trên báo chí hay truyền hình, chúng ta thấy biết bao nhiêu chiến tranh giữa các tín hữu kitô. Làm sao có thể hiểu được điều này? Nhưng trong các khu phố, trong các nơi làm việc có biết bao nhiêu chiến tranh vì thèm muốn, ghen tương. Cả trong chính gia đình cũng có biết bao nhiêu chiến tranh bên trong. Chúng ta phải xin Chúa làm cho chúng ta hiểu rõ ràng luật của tình yêu này. Thật là tốt lành, xinh đẹp biết bao, khi chúng ta yêu nhau như anh em đích thật. Điều đó thật đẹp biết bao! Hôm nay chúng ta hãy làm một điều: Có lẽ tất cả chúng ta đều có thiện cảm hay không thiện cảm và có lẽ có nhiều người trong chúng ta giận dữ với vài người. Ít nhất chúng ta hãy nói với Chúa: Lậy Chúa, con giận ông này, bà này qúa. Con cầu nguyện cho ông ấy, cho bà ấy. Con xin Chúa”. Cầu nguyện cho những người chúng ta giận. Đó là một bước tiến đẹp trong luật yêu thương này. Hôm nay chúng ta hãy làm điều đó nhé!

Câu hỏi thứ tư liên quan tới dân Chúa. Dân Chúa có sứ mệnh đem niềm hy vọng và ơn cứu độ của Thiên Chúa vào trong thế giới: là dấu chỉ tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng mời gọi tất cả vào tình bạn với Người; là men làm dậy tất cả bột, là muối trao ban hương vị và giữ cho khỏi hư thối, là ánh sáng chiếu soi.

Chung quanh chúng ta, chỉ cần mở báo ra, tôi đã nói, là chúng ta thấy rằng có sự hiện diện của sự dữ, Qủy hành động. Nhưng tôi muốn nói lớn tiếng rằng: Thiên Chúa mạnh hơn! Anh chị em có tin điều này không? Tin rằng Thiên Chúa mạnh hơn không? Nhưng chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau nói điều đó. Thiên Chúa mạnh hơn! Tất cả nào! Và tín hữu tại quảng trưởng, đặc biệt là các trẻ em cùng nói to ” Thiên Chúa mạnh hơn”. Rồi Đức Giáo Hoàng nói tiếp: Và anh chị em có biết tại sao Chúa mạnh hơn không? Bởi vì Người là Chúa, là Chúa duy nhất. Thiên Chúa mạnh hơn. Tốt lắm! Và tôi cũng muốn thêm rằng thực tại đôi khi đen tối, bị ghi dấu bởi sự dữ, nhưng có thể thay đổi, nếu chúng ta là những người đầu tiên đem ánh sáng Phúc Âm vào, nhất là với cuộc sống chúng ta. Nếu trong một sân thế vận, chúng ta hãy nghĩ tới sân thế vận Roma, hay sân thế vận Thánh Lorenzo ở Buenos Aires, trong một đêm tối trời có một người thắp lên một ánh sáng, thì người ta chỉ thấy một chút, nhưng nếu cả 70.000 khán giả mỗi người đều thắp lên ánh sáng của mình, thì sân vận động sáng lên. Chúng ta hãy làm cho cuộc sống của chúng ta là một ánh sáng của Chúa Kitô; cùng nhau chúng ta sẽ mang ánh sáng Phúc Âm vào trong toàn thực tại.

Câu hỏi sau cùng đâu là mục đích của dân Chúa? Mục đích là Nước Thiên Chúa, đã được chính Thiêm Chúa bắt đầu trên trái đất và phải được trải rộng cho tới ngày thành toàn, khi Chúa Kitô, sự sống của chúng ta sẽ tái xuất hiện (LG 9). Khi đó mục đích là sự hiệp thông tràn đầy với Chúa, gia đình cùng với Chúa bước vào trong chính cuộc sống của Thiên Chúa, nơi chúng ta sẽ sống niềm vui tình yêu vô cùng của Người. Niềm vui tràn đầy.

Anh chị em thân mến, là Giáo Hội, là dân của Thiên Chúa, theo chương trình tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa Cha, có nghĩa là men của Thiên Chúa trong nhân loại này, có nghĩa là loan báo và đem ơn cứu rỗi của Thiên Chúa vào trong thế giới này của chúng ta, thường lạc đường, cần đến các câu trả lời khích lệ trao ban hy vọng, trao ban sức mạnh mới cho con đường cuộc sống. Ườc chi Giáo Hội là nơi của lòng thương xót và niềm hy vọng của Thiên Chúa, nơi mỗi người có thể cảm thấy mình được tiếp nhận, yêu thương và khích lệ sống theo cuộc sống tốt lành của Tin Mừng. Và để cảm thấy mình được tiếp đón, yêu thương, tha thứ và khích lệ, các cánh cửa của Giáo Hội phải luôn luôn rộng mở, để mọi người có thể đến và chúng ta phải ra khỏi các cửa ấy và loan báo Tin Mừng.

Đức Thánh Cha đã đặc biệt chào Ủy Ban quốc tế Hiệp hội thánh Vinh Sơn Phaolô nhân kỷ niệm 200 năm ngáy sinh của người sáng lập là ông Frederic Ozanam. Ngài cũng chào các phái đoán đến từ Nhật Bản, Nam Hàn và Việt Nam cũng như Úc, Argentina, Mexico, Puerto Rico, Costa Ricca, Colombia và Brasil.

Ngài cũng chào nhóm các tân Linh Mục giáo phận Brescia và thân nhân cũng như đoàn hành hương các giáo phận Assisi, Nocera Umbria, Gualdo Tadino, Liên hiệp nông nghiệp và món qùa họ tặng ngài cho các công tác trợ giúp bác ái.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Cũng như các lần trước hôm qua Đức Thánh Cha cũng dành ra một giờ rưỡi để chào tín hữu và những người tàn tật. Việc tặng mũ calốt trắng cho ngài đã trở thành mốt, nên hầu như lần nào Đức Thánh Cha cũng có mũ mới và ngài tặng mũ đang đội lại cho tín hữu làm kỷ niệm. Hôm qua có một em gái tàn tật ôm hôn Đức Thánh Cha đến mấy lần. Còn các trẻ em nhớ lời ngài nói trong một buổi tiếp kiến khi Đức Thánh Cha tiến đến chào, các em không gọi tên Francesco nữa, gân cổ lên mà gọi tên Giêsu.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Đức Thánh Cha kêu gọi chống nạn bóc lột lao động trẻ em

Đức Thánh Cha kêu gọi chống nạn bóc lột lao động trẻ em

VATICAN. ĐTC Phanxicô mạnh mẽ lên án nạn bóc lột sức lao động trẻ em đang lan tràn tại nhiều nơi, nhất là tại các nước nghèo.

Lên tiếng vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 12 tháng 6-2013, tại Quảng trường Thánh Phêrô, ĐTC nói:

”Hôm nay trên toàn thế giới có cử hành 'Ngày Thế Giới chống nạn lao động trẻ em', đặc biệt nói về nạn bóc lột trẻ em trong công việc trong nhà: đây là một hiện tượng đáng lên án đang liên tục gia tăng, nhất là tại các nước nghèo. Hàng triệu trẻ vị thành niên, nhất là các trẻ nữ, nạn nhân của nạn bóc lột âm thầm này, nhiều khó có cả những vụ lạm dụng tính dục, ngược đãi và kỳ thị. Đây thực là một sự nô lệ.

”Tôi nhiệt liệt cầu mong Cộng đồng quốc tế có thể đề ra những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để đương đầu với tai ương đích thực này. Tất cả các trẻ em phải được chơi đùa, học hành, cầu nguyện và tăng trưởng, trong gia đình của các em, trong một khung cảnh hòa hợp, yêu thương và thanh thản. Những người ấy, thay vì để các em chơi đùa, thì lại biến các em thành nô lệ. Thực là một tai ương. Đây là một quyền của các em và cũng là một nghĩa vụ của chúng ta. Một tuổi thơ thanh thản giúp các em tin tưởng nhìn về cuộc sống và tương lai. Khốn cho kẻ nào bóp nghẹt nơi các em niềm hy vọng vui tươi!” (SD 12-6-2013)

Lời kêu gọi của Đức TGM Thissen

Mặt khác, Đức Cha Werner Thissen, TGM giáo phận Hamburg ở miền bắc Đức, kêu gọi phát động một cuộc chiến quyết liệt chống lại lao động trẻ em.

Tuyên bố hôm 12-6-2013 tại Hamburg, Đức TGM Thissen đặc biệt tố giác nạn bóc lột sức lao động trẻ em tại Ấn độ, nhất là trong kỹ nghệ sản xuất thảm. Tình trạng bóc lột này gây thiệt hại cho sức khỏe của các em.
Đức TGM Thissen cũng là Chủ tịch cơ quan bác ái Misereor của HĐGM Đức chuyên trợ giúp phát triển. Ngài cho biết ”Những người cộng tác với các dự án của tổ chức Misereor ở bang Uttar Pradesh báo động rằng tệ nạn bóc lột sức lao động trẻ em tại bang này lại gia tăng”.

Đức TGM Thissen kêu gọi hoàn toàn áp dụng Hiệp ước của LHQ về quyền của các trẻ em. Hiệp ước này bắt đầu có hiệu lực tại Đức từ năm 1992. Hiệp ước cấm bóc lột sức khỏe trẻ em trong lãnh vực kinh tế, để bảo vệ các em về mặt sức khỏe và tâm lý. Ngoài ra, Đức Cha yêu cầu du nhập quyền của các trẻ em vào trong Hiến Pháp nước Đức và nói rằng: ”Chúng tôi hy vọng nhờ biện pháp này có sự củng cố ý thức của mọi người về quyền của các trẻ em, tại Đức cũng như trên toàn thế giới”.

Theo tổ chức Misereor, có khoảng 190 triệu trẻ em nam nữ, từ 5 đến 14 tuổi phải làm việc trong những điều kiện như bị bóc lột và có hại cho sức khỏe” (KNA 12-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tòa Thánh và Việt Nam tiếp tục đàm phán, vòng thứ tư.

Tòa Thánh và Việt Nam tiếp tục đàm phán, vòng thứ tư.

Nhằm mục đích tăng cường và phát triển quan hệ song phương giữa Việt Nam và Tòa Thánh, Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam – Tòa Thánh sẽ nhóm họp vòng 4 vào ngày 13 và 14 tháng Sáu tại Vatican. Sáng nay thứ Ba 11-06, Hôm thứ Ba, Cha Federico Lombardi, giám đốc Văn phòng báo chí của Tòa Thánh, đã đưa ra lời tuyên bố

Cuộc họp này đã được quyết định tại cuộc họp vòng 3 vào tháng Hai năm 2012 tại Hà Nội. Thông cáo chung chính thức cho biết cuộc họp lần trước đã diễn ra “trong bầu khí thân ái, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau”. Hai bên đều đề cao những phát triển tích cực, thiện chí và đối thoại xây dựng. Phái đoàn Tòa Thánh mong muốn vai trò và sứ mạng của Vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam, Đức Tổng Giám mục Girelli, được củng cố và mở rộng, và công việc của ngài được thuận lợi. Đoàn đại biểu Việt Nam đã khuyến khích Giáo hội Công giáo tích cực tham gia phát triển đất nước.Cuộc họp thứ tư sẽ đi vào sâu hơn và phát triển những sự quan hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh.

Ngoài ra, theo Thông tấn xã Việt Nam, tại cuộc họp vòng 4, Đoàn Việt Nam sẽ do Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn làm Trưởng đoàn và Đoàn Tòa Thánh Vatican do Thứ trưởng Ngoại giao Antonio Camilleri làm Trưởng đoàn.

Theo Vatican Radio

 

 

 

Thánh Tâm Chúa Giêsu là tình yêu tinh tuyền và lòng thương xót thứ tha

Thánh Tâm Chúa Giêsu là tình yêu tinh tuyền và lòng thương xót thứ tha

Thánh Tâm Chúa Giêsu diễn tả tột đỉnh tình yêu và lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa đối với con người. Nó là suối nguồn ơn cứu độ cho toàn thế giới. Chúng ta hãy học biết sống khiêm nhường và thương xót đối với tha nhân.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với gần 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin chung với Đức Thánh Cha tại quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 9 tháng 6-2013.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về tháng 6 là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, là kiểu loài người diễn tả tột đỉnh tình yêu thương của Thiên Chúa. Ngài nói thật thế, thứ sáu vừa qua chúng ta đã cử hành lễ trọng Thánh Tâm Chúa Kitô, và ngày lễ này trao ban cung điệu cho toàn tháng 6. Đức Thánh Cha giải thích ý nghĩa biểu tượng Thánh Tâm Chúa như sau:

Lòng đạo đức bình dân đánh gía rất cao các biểu tượng, và Trái tim Chúa Giêsu là biểu tượng tuyệt diệu lòng thương xót của Thiên Chúa: nhưng nó không là một biểu tượng tưởng tượng, nó là biểu tượng thực sự, diễn tả trung tâm, diễn tả suối nguồn, từ đó vot ra ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Trong các Phúc âm chúng ta tìm thấy các quy chiếu khác nhau về Trái Tim Chúa Giêsu, chẳng hạn trong văn bản trong đó Chúa Kitô nói: ”Các con tất cả là những kẻ mệt nhọc và bị áp bức, hãy đền cùng Thầy, và Thầy sẽ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của Thầy và học nơi Thầy, là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,28-29). Thế rồi nền tảng là trình thuật cái chết của Chúa Kitô theo thánh Gioan. Thật thế, thánh sử làm chứng điều thánh nhân đã trông thấy trên núi Sọ, nghĩa là sự kiện khi Chúa Giêsu đã chết, một người lính lấy đòng đậm cạnh sườn Người và từ vết thương đó máu và nước chảy ra (x. Ga 19,33-34). Thánh Gioan nhận ra trong dấu chỉ ấy, xem ra là tình cờ, việc thành toàn các lời tiên tri: từ tim của Chúa Giêsu, là Chiên Con bị sát tế trên thập giá, nảy sinh ra ơn tha tội và sự sống cho tất cả mọi người. Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dự:

Nhưng lòng thương xót của Chúa Giêsu không chỉ là một tâm tình, còn hơn thế nữa, nó là một sức mạnh trao ban sự sống, làm cho con người sống lại! Tin Mừng hôm nay cũng nói với chúng ta về điều này, trong giai thoại bà góa làng Naim (Lc 7,11-17). Với các môn đệ Chúa Giêsu đang đến Naim, một làng trong vùng Galilea, chính trong lúc diễn ra một đám tang: người ta đem chôn một thanh niên, con trai duy nhất của một bà góa. Cái nhìn của Chúa Giêsu lập tức dán chặt trên bà mẹ đang khóc. Thánh sự Luca nói rằng: ”Khi trông thấy bà, Chúa cảm thấy một sự xót thương lớn đối với bà” (c. 13). Sự xót thương này là tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, là sự thương xót, nghĩa là thái độ của Thiên Chúa tiếp xúc với sự khốn cùng của con người, với sự nghèo nàn của chúng ta, với khổ đau và sự âu lo của chúng ta. Từ xót thương trong Thánh Kinh gợi lại lòng dạ của bà mẹ: thật vậy, người mẹ cảm nhận một phản ứng hoàn toàn là của bà trước nỗi khổ đau của con cái. Thánh Kinh nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế.

Và đâu là hoa trái của tình yêu thương, của lòng thương xót của Thiên Chúa? Đó là sự sống! Chúa Giêsu nói với bà góa thành Naim: ”Đừng khóc!”, rồi Người gọi thanh niện đã chết, và đàmh thức anh ta dậy như từ một giấc ngủ (x. cc. 13-15). Đức Thánh Cha chú thích cử chỉ này của Chúa Giêsu như sau:

Chúng ta hãy nghĩ tới điều này, thật là đẹp: lòng thương xót của Thiên Chúa trao ban sự sống cho con người, cho nó sống lại từ cái chết. Chúa luôn luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, chúng ta đừng quên điều này, Người luôn luôn nhìn chúng ta với lòng thương xót, Người chờ đợi chúng ta với lòng thương xót. Chúng ta đừng sợ đến gần Người! Người có một con tim thương xót! Nếu chúng ta cho Người thấy các vết thương nội tâm của chúng ta, tội lỗi của chúng ta, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta. Người là lòng thương xót tinh tuyền. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu!

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Chúng ta hướng lên Đức Trinh Nữ Maria: con tim vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, con tim bà mẹ, đã chia sẻ tột đỉnh lòng thương xót của Thiên Chúa, đặc biệt trong giờ của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết khiêm nhường và thương xót với các anh chị em khác.

Đức Thánh Cha đã đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin chào các tín hữu Đức Thánh Cha nói hôm nay tại Cracovia có hai nữ tu Ba Lan được tôn phong Chân phước: đó là chị Sofia Czeska Maciejowska, là người hồi tiền bán thế kỷ XVII đã thành lập Dòng các Trinh nữ dâng Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc, và chị Margherita Lucia Szewczyk, là người hồi thế kỷ XIX đã thành lập Dòng các Nữ tử Trinh Nữ Maria Sầu Bi Diễm Phúc. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa với Giáo Hội tại Cracovia.

Tôi xin thân ái chào tất cả các khách hành hương hiện diện hộm nay: các nhóm giáo xứ, các gia đình, các học sinh, các hội đoàn, các phong trào. Tôi xin chào tất cả mọi người. Tôi cũng xin chào một đoàn hành hương đến từ Mombay bên Ấn Độ. Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào các nhóm đến từ nhiều nơi trong nước Italia, Cuối cùng ngài nhắc lại: Hôm nay chúng ta đừng quên tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu của Chúa Giêsu: Người luôn nhìn chúng ta, yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta. Người là tất cả con tim và lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu với lòng tin tưởng, Người luôn luôn tha thứ cho chúng ta.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

HÃY TRỖI DẬY

HÃY TRỖI DẬY

Một số người cho rằng Đức Giê-su đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng bận tâm. Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Đức Ki-tô còn luôn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa. Một bằng chứng cụ thể là Người luôn đến với kẻ nghèo hèn, tật bệnh để an ủi và chữa lành cho họ. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Người đã dạy: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 7-8). Và Người đã thực hiện đúng như Lời Người đã giảng dạy. Ấy cũng bởi vì con người là một hữu thể có nhị nguyên tính luôn tồn tại trong nhau: thân xác (vật thể) và tâm hồn (linh thể).

Thật thế, khi dựng nên con người, “ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2, 7). Điều đó cho thấy, con người là một hữu thể bao gồm cả tâm linh và thân xác. Hiến chế về Mục Vụ (“Gaudium et Spes”, số 14) đã khẳng định: “Con người duy nhất với xác hồn. Xét về thể xác, con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc thế giới vật chất… Nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật… Như vậy, khi nhìn nhận mình có một linh hồn thiêng liêng, bất tử, con người không phải là bị mê hoặc bởi một thứ ảo tưởng phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội. Trái lại, nhìn nhận như thế là con người đã đạt tới chính chân lý sâu xa.” Đức Giê-su Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi, đương nhiên Người không bao giờ chỉ chú trọng tới phần tâm linh, mà còn chú ý tới cả phần thể xác của các tín hữu nữa.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.X/TN-C – Lc 7, 11-17) là một minh hoạ: Trước hoàn cảnh bi thương của một bà goá ở thành Na-in khóc tiễn đứa con trai duy nhất, mặc dù bà mẹ không cầu xin, nhưng Đức Ki-tô vẫn chạnh lòng thương, sờ vào quan tài và phán: “Hãy trỗi dậy!”, tức thì người chết sống lại. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Phải chân nhận rằng ngay từ khi bắt đầu khai mạc sứ vụ, Đức Giê-su đã chứng tỏ Người không những chỉ lo cho phần rỗi (tâm linh) của con người, mà Người còn lo cho cả phần xác của họ nữa (câu chuỵên “Tiệc cưới Ca-na” – Ga 2, 1-12). Tương tự như phép lạ cho con trai bà goá ở Na-in được sống lại, Chúa Giê-su đã truyền cho La-da-rô (em của Mac-ta và Maria) chết chôn trong mồ đã 4 ngày được sống lại; nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui (Ga 11, 32-43). Và rất nhiều phép lạ khác Đức Giê-su đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, người đói được ăn…

Tất cả những biện giải trên minh hoạ cho Lời dạy của Đức Ki-tô: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4). Nghĩa là con người sống trên đời cần cả cơm bánh (nuôi dưỡng thể xác) và Lời Chúa (dưỡng nuôi tâm hồn). Và vì thế, song song với việc lo cho thể xác những người đi theo, Đức Giê-su còn lo cả về đời sống tâm linh của họ nữa. Người không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn; nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt trên nền tảng tình yêu (“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” – Ga 13, 34). Như vậy, đem lại niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu cho những người chung quanh là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giê-su. Vì thế, Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể làm lương thực trường tồn cho mọi tín hữu, cho Giáo Hội lữ hành đang trên đường tiến về quê Trời vĩnh cửu.

Đức Giê-su Ki-tô đã vì tình yêu mà chữa lành thân xác cho những kẻ đui mù câm điếc, phong hủi què quặt, kể cả những thân xác không còn sinh khí (đã chết). Song song với việc chữa lành thân xác cho con người, Người vẫn tiến hành sứ vụ chữa lành chứng bệnh đui mù câm điểc, phong hủi què quặt về đường tâm linh và nhất là sự chết trong tội lỗi của nhân loại. Ấy cũng bởi vì Người chính là hiện thân của Thiên Chúa Tình Yêu, vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người, dùng chính thân mình làm của lễ toàn thiêu tiêu diệt sự chết, giải thoát con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại. Lời Đức Ki-tô gọi con của bà goá ở thành Na-in “Hãy trỗi dậy”, cũng là Lời Chúa gọi từng mỗi người Ki-tô hữu hôm nay.

Vâng, người Ki-tô hữu hôm nay đã được cùng chết với Đức Ki-tô và cùng được trỗi dậy với Người “nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl 3, 1-4). Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới bằng chính cuộc sống thực hành Lời Chúa nơi hạ giới, ấy mới là những kẻ khôn ngoan. Một cách cụ thể là chúng ta cũng được mời gọi cộng tác với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an vui.

Tóm lại, Đấng Ban Sự Sống đến trần gian ban cho nhân loại không chỉ sự sống mau qua (như trường hợp con trai bà goá ờ thành Na-in, trường hợp anh La-da-rô hoặc những phép lạ hoá bánh ra nhiều, phép lạ chữa cho những người đui, què, câm, điếc được khỏi…), mà nhất là còn ban cho nhân loại sự sống đời đời. Người luôn kêu gọi con người “Hãy trỗi dậy” từ cõi chết, để được chung hưởng hồng ân Phục Sinh nơi Cõi Phúc Trường Sinh. Nào, xin mời “Hãy trỗi dậy hỡi ai ngủ mê. Hãy trỗi dậy từ cõi chết, Chúa sẽ chiếu ngời ánh quang vinh trên đầu ngươi. TK: Ðã bao năm qua gian trần miệt mài sống trong vòng u tối. Giờ được Chúa dẫn vào nguồn sống, ta hãy bước theo đường quang vinh.” (TCCĐ “Hãy trỗi dậy”). Ước được như vậy. Amen.

JM. Lam Thy ĐVD

Tổng thống Italia viếng thăm chính thức Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Tổng thống Italia viếng thăm chính thức Đức Giáo Hoàng Phanxicô

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến Tổng thống Giorgio Napolitano của Italia sáng 8 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô nhấn mạnh nghĩa vụ bênh vực tự do tôn giáo, và kêu gọi giữ vững hy vọng trong nỗ lực vượt thắng các cuộc khủng hoảng hiện nay.

Đây là cuộc viếng thăm chính thức của Tổng thống Napolitano sau lần gặp gỡ ĐTC Phanxicô vào cuối buổi lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ngài. Tháp tùng ông có phu nhân và đoàn tùy tùng gồm 13 người.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC ca ngợi quan hệ tốt đẹp giữa Tòa Thánh và Italia cũng như sự cộng tác chặt chẽ giữa hai bên. Ngài nhắc đến sự kiện năm nay là dịp kỷ niệm 1.700 năm, sắc chỉ Milano được Hoàng đế Constantino ban hành năm 313 để tha bách hại Kitô giáo. Nhiều người coi đây là biểu tượng sự khẳng định đầu tiên về nguyên tắc tự do tôn giáo.

ĐTC nói: ”Trong thế giới ngày nay, tự do tôn giáo thường được khẳng định hơn là được thực hiện. Thực vậy, tự do tôn giáo phải chịu nhiều loại đe dọa và nhiều khi bị vi phạm. Những vụ chà đạp trầm trọng quyền tự do cơ bản này là nguồn mạch gây ra lo âu và phải được các nước trên thế giới đồng thuận phản ứng, tái khẳng định phẩm giá bất khả nhượng của con người, chống lại mọi vi phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ bảo vệ tự do tôn giáo và thăng tiến tự do này cho mọi người. Trong việc cùng nhau bảo vệ thiện ích luân lý ấy, có một sự bảo đảm cho việc tăng trưởng và phát triển toàn thể cộng đồng”.

ĐTC cũng đề cập đến những cuộc khủng hoảng hiện nay tại Italia cũng như nhiều nước trên thế giới, làm cho các vấn đề kinh tế và xã hội thêm trầm trọng, đè nặng đặc biệt trên các thành phần yếu thế nhất trong xã hội. Nhất là có những hiện tượng đáng lo âu như gia đình và các liên hệ xã hội bị suy yếu, dân số giảm sút, lợi lộc được coi trọng hơn lao công, sự lưu tâm không đủ đối với các thế hệ trẻ và việc huấn luyện cho họ để có một tương lai thanh thản và chắc chắn hơn”.

ĐTC nói: ”Trong thời điểm khủng hoảng như hiện nay, một điều cấp thiết là, trong các nỗ lực chính trị, cần có sự quan tâm nhiều hơn đối với người trẻ, và các tín hữu cũng như những người không tí ngưỡng càn cộng tác với nhau để thăng tiến một xã hội trong đó bất công được khắc phục và mỗi người được đón nhận, cũng như có thẻ góp phần vào công ích theo phẩm giá của mình”.

Sau cùng, ĐTC kêu gọi đừng đánh mất hy vọng và nói rằng: ”Bao nhiêu tấm gương trong chiều hướng này đã được các ông bà chúng ta nêu lên, khi đương đầu với những thử thách cam go trong thời đại các ngài, với lòng can đảm và tinh thần hy sinh. Nhiều lần ĐGH Biển Đức 16 đã lập lại rằng cuộc khủng hoảng hiện nay phải là cơ hội để canh tân các quan hệ nhân bản trong tình huynh đệ. Cả dân tộc Italia, kín múc từ truyền thống Kitô rất phong phú của mình trong tinh thần tín thác và sáng tạo, cũng như từ tấm gương của các vị thánh bổn mạng Phanxicô Assisi và Catarina Siena và nhiều nhân vật đạo đời, từ chứng tá âm thầm của bao nhiêu người nam nữ, Italia có thể và phải khắc phục mọi chia rẽ và tăng trưởng trong công lý và hòa bình, nhờ đó tiếp tục giữ vai trò đặc thù trong bối cảnh Âu Châu và trong gia đình các dân nước”.

Sau khi gặp ĐTC, Tổng thống Napolitano và đoàn tùy tùng đã gặp ĐHY Bertone Quốc vụ khanh, và ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh (SD 8-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

VATICAN. Sáng 7 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến hơn 8 ngàn học sinh và giáo chức, phụ huynh các trường trung tiểu học của Dòng Tên tại Italia và Albani.

Trong số các học sinh hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, đông nhất là 2,030 em thuộc trường Massimo ở Roma, 1.800 em từ trường Lêô 13 ở Milano, 1.500 em từ trường Sociale ở Torino. Ngoài ra cũng có 60 em học sinh từ trưởng Mashkalla ở thành phố Scutari, bắc Albani.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC tóm tắt bài huấn từ dọn sẵn dài 5 trang, và trả lời các câu hỏi do các em học sinh nêu lên như về ơn gọi dòng Tên, về cuộc khủng hoảng kinh tế với căn cội là khủng hoảng con người; về sự dấn thân của giáo dân trong chính trị để phục vụ công ích, v.v.

Trả lời một em bé, ĐTC cho biết đã quyết định không ở trong dinh Tông Tòa vì những lý do tâm lý, muốn ở giữa dân chúng, không muốn ở một mình, chứ không phải vì căn hộ Giáo Hoàng là sang trọng.

ĐTC cho biết sở dĩ ngài đi tu dòng Tên vì đặc tính truyền giáo của dòng. Ngài đã viết thư xin cha Bề trên Tổng quyền Arupe cho đi truyền giáo bên Trung Quốc, nhưng bị BT từ chối vì lý do sức khỏe (đau phổi)..

Trong bài huấn từ dọn sẵn, mà ĐTC khuyên các học sinh đọc sau đó, ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các em học sinh hãy có tâm hồn đại đảm, ước muốn những lý tưởng cao thượng, mong ước thực hiện được những công việc lớn lao để đáp lại điều Chúa muốn, chu toàn tốt đẹp những công việc hằng ngày, làm những công tác nhỏ bé thường nhật với một con tim cởi mở đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để có tâm hồn đại đảm với tự do nội tâm và tinh thần phục vụ thì cần được huấn luyện về linh đạo. Các bạn trẻ thân mến, hãy yếu mến Chúa Kitô ngày càng nồng nhiệt hơn! Đời sống chúng ta là một lời đáp trả tiếng Chúa gọi và các bạn sẽ hạnh phúc và kiến tạo cuộc sống tốt đẹp nếu các bạn biết đáp lại tiếng gọi của Chúa. Hãy cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong đời sống các bạn. Chúa gần gũi với mỗi người trong các bạn như một người bạn đồng hành, biết giúp đỡ và cảm thông, khuyến khích các bạn trong những lúc khó khăn và không bao giờ bỏ rơi các bạn”.

ĐTC không quên nhắc nhở các tu sĩ dòng Tên, các nhà giáo dục và phụ huynh đừng nản chí trước những khó khăn mà thách đố giáo dục đang đề ra! Ngài nói:

”Giáo dục không phải là một nghề, nhưng là một thái độ, một lối sống; để giáo dục, cần phải ra khỏi chính mình và ở giữa các bạn trẻ, tháp tùng họ trong những giai đoạn tăng trưởng của họ, đứng cạnh họ. Hãy mang lại hy vọng, lạc quan cho hành trình của các học sinh giữa lòng thế giới. Hãy dạy họ nhìn vẻ đẹp và sự tốt lành của công trình tạo dựng và của con người, vốn luôn mang vết tích của Đấng Tạo Hóa. Nhưng nhất là anh chị em hãy làm chứng bằng chính cuộc sống những gì anh chị em truyền đạt”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Một nhà giáo dục – là tu sĩ dòng Tên, là giáo chức, phụ huynh – thông truyền các kiến thức, các giá trị bằng lời nói, nhưng những lời này sẽ ảnh hưởng quyết định trên người trẻ nếu có chứng tá cuộc sống đi kèm lời nói, nếu cuộc sống đi đôi với lời nói, nếu không thì không thể giáo dục. Anh chị em là những nhà giáo dục, và không có sự ủy quyền trong lãnh vực này” (SD 7-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

NIỀM VUI GÓA PHỤ

NIỀM VUI GÓA PHỤ

“Trông thấy bà, Chúa động lòng thương”.

Ôi, con mắt của Thiên Chúa, cái nhìn thấy của Thiên Chúa có khác con mắt và cái nhìn của con người trần gian.

Trước cái chết của một con người, ai cũng ngậm ngùi thương tiếc người đã ra đi, ai cũng thở than cuộc người sao ngắn ngủi. Có người lại còn suy luận rằng: “Ta rồi cũng phải chết. Thế thì không hưởng thụ cho hết cuộc đời này trước khi chết, thì thật là dại dột”. Họ còn tự cho cái suy luận của mình như thế là có khoa học, là văn minh, là kim chỉ nam cho mình, là chủ trương, là đường lối cho những thuộc hạ mình noi theo! Thật tồi tệ!
 
Trong Tin Mừng hôm nay, trước cái chết của thanh niên, con trai duy nhất của bà góa thành Naim, điều mà Chúa Giê-su thấy trước tiên lại là nỗi đau của người mẹ đã mất chồng, nay lại mất con, nỗi đau của người sẽ cô độc trong đời. Và Chúa động lòng thương bà ấy.

Người đã chết rồi còn đau khổ gì không?
Kẻ góa bụa tan nát lòng, đứt ruột
Một đời yêu trên dương trần cơ cực
Được mấy ngày thực hạnh phúc bên nhau
 
Chút con trai niềm vui sống ngọt ngào
Lấp khoảng trống trước sau căn nhà nhỏ
Tình mẹ con sớm chiều thương bày tỏ
Cũng vội vàng từ  bỏ mẹ mà đi….
(“Chúa  đã viếng thăm” – Ba Chuông)

Không chỉ động lòng thương theo kiểu của người thường là một chút xúc động hời hợt bất thường, một tình cảm tự nhiên chóng qua, Chúa Giê-su còn thể hiện tình thương ấy bằng việc “đưa tay chạm vào quan tài” người thanh niên, một việc mà thời bấy giờ người ta cho là ô uế, nhớp nhúa. Ngay cả thời nay, lúc hãy còn sống, thì thân người ôi thơm tho, người muốn nắm tay người, người muốn hôn lên môi người, người muốn ôm lấy thân người để biểu tỏ tình cảm với người, nhưng khi người đã nhắm mắt xuôi tay, nào ai dám đến gần vuốt mặt, cầm tay….nghĩ cũng đáng buồn cho kiếp người.

Chúa chạm tay vào quan tài, và Lời Chúa tuyên phán: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy chỗi dậy". Nắp áo quan bỗng mở ra. Một thi hài bất động bỗng ngồi lên cười nói trước mắt mọi người, trước mắt nhóm người theo Chúa và trước mắt nhóm người đi trong đám tang.

“Thanh niên hỡi, hãy chỗi dậy rỡ ràng”
Tấm nắp mở toang, người chết đang ngồi dậy
“Này góa phụ, con trai bà sống lại”
Thật diệu kỳ, mẹ  ôm lấy con yêu
(“Chúa  đã viếng thăm” – Ba Chuông)

Tất cả mọi người sững sờ trước chuyện xưa nay chưa từng có. Có thể họ đã bàn tán xôn xao: Con mắt của Người nhìn thấu tận tâm can, thấu từng nỗi đau mà người đời khó  thấy. Bàn tay của Người thực hiện bao việc lạ lùng. Lòng thương của Người thật vĩ đại. Lời Người thật quyền năng. Thánh Luca ghi rõ tâm trạng của những người chứng kiến việc thanh niên kia sống lại là “sợ hãi và ngợi khen”. Đây hẳn không phải sự sợ hãi trước một sự dữ khủng khiếp kinh hoàng, nhưng là sự nghiêng mình kính phục trước quyền năng và lòng từ ái vô biên của Thiên .

“Mọi người đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã thăm viếng dân Người".

Và  khi đã mục kích, đã hết lòng khâm phục, đã yên tâm tin tưởng vào quyền năng và lòng từ ái ấy, họ trở thành chứng nhân cho Thiên Chúa:

“Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận”.

Cho mọi người hiểu biết về Thiên Chúa qua Đức Ki-tô, kính phục tôn thờ mến yêu tin tưởng Thiên Chúa nơi Người, và loan truyền ơn cứu độ của Người khắp cùng thiên hạ, là mục đích của Người qua phép lạ làm cho con trai bà góa thành Naim sống lại.

“Xin ngợi ca lòng nhân Chúa tỏ tường
Vinh hiển Chúa khắp mười phương thiên hạ
Hằng hà sao hằng hà ơn phước cả
Vạn niềm đau, muôn phép lạ lẫy lừng”
(“Chúa đã viếng thăm”  – Ba Chuông)

Qua trang Tin Mừng hôm nay, ước gì mỗi chúng ta được:

– Mặc lấy cái nhìn yêu thương, thông cảm của Chúa, để biết chạnh lòng xót thương những mảnh đời đau khổ.

– Không ngại khiêm cung cúi thấp mình xuống để chạm vào nỗi đau của anh em, không ngại tanh hôi, thối vữa, không ngại những lời chỉ trích phê phán của những kẻ chỉ thích ăn trên, ngồi trước, sống chết mặc ai dưới chân mình.

– Tin tưởng Lời Chúa có sức làm cho chính mình được  ơn Phục Sinh, ơn đổi mới, ơn công chính và cũng dùng chính Lời Chúa làm động lực thi thố lòng thương xót của Chúa đối với tất cả mọi người.

– Tạ ơn Chúa, tôn vinh Chúa trong cuộc sống chúng ta bằng cách sống trọn vẹn ơn công chính để trở thành lời chứng cho Tin Mừng, lời chứng cho danh Thiên Chúa trên khắp vũ hoàn.
 
Lạy Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa Uy Quyền và Giàu Lòng Thương Xót, xin cứu sống linh hồn chúng con, và cho chúng con ca tụng danh Chúa đến muôn đời. A men.

PM. Cao Huy Hoàng

ĐỪNG KHÓC NỮA

ĐỪNG KHÓC NỮA

Mỗi người sinh ra trong đời khởi đầu bằng tiếng khóc. Tiếng khóc chào đời báo hiệu một niềm vui, một sự sống mới đi vào trần thế. Nhưng khi con người giã từ cuộc đời thì  không tự mình khóc được, bao nhiêu người khác sẽ khóc thay trong đau buồn thương tiếc. Một người ra đi sẽ không còn hiện hữu trên trần gian này nữa. Vì thế, đây là tiếng khóc da diết, thảm buồn nhất. Sự chết quy tụ người ta lại trong tiếng khóc. Và chính tiếng khóc này là nơi gặp gỡ của tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu đem niềm vui đến, tiếng khóc không còn, chỉ còn nụ cười hân hoan và lời ca ngợi khen.

Thánh Luca là một y sĩ cho nên bài tường thuật về phép lạ con trai bà góa sống lại thắm đượm tình người. “Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim… đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ”. Naim, nay là một làng nhỏ ở phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin.Naim cũng gần Sunem là nơi tiên tri Êlisê đã làm cho con bà chủ nhà trọ được sống lại.

Thường thường việc chôn cất người chết vào lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong làng thì gặp đám tang đang đi ra.

Một người thanh niên chết và anh là con trai duy nhất của một bà góa.Bà mẹ rất đau khổ vì chồng đã chết nay con trai duy nhất cũng ra đi.

Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, và rất đông dân làng đã đi tiễn biệt con trai vắn số của bà. Thông thường lúc chết, người ta được mọi người quan tâm và yêu thương hơn lúc nào hết.

Có một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Đó là Đức Giêsu. Với lòng thương xót những người cùng khốn, với con tim nhạy bén trước nổi đau của con người, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và an ủi bà: “Bà đừng khóc nữa”, rồi Ngài sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy chỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa…”. Câu chuyện đã được loan truyền khắp vùng.

Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xảy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Từ thời Vua Achab (874-853 A.C) có xảy ra hai lần người chết sống lại.Ngôn sứ Êlia cho con của bà góa thành Sarepta sống lại. “Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó.Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại” (1V 17, 21-22). Lần khác, “Êlisê vào nhà Bà Sunem và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại…Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó… thịt mình đứa trẻ nóng lên … đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra” (2V. 4, 32-35).

Thời các tông đồ, Sách Công vụ kể, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại: “Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em … kéo dài đến mãi nửa đêm… một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: “Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”. Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít” (Cv 20, 7-12).

So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36, do tiên tri Êlia và tiên tri Êlisê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlisê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Chúa Giêsu chỉ phán một lời, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên liền sống lại. Trong Phúc Âm kể lại câu chuyện Chúa cho con gái ông Giairô đã chết được sống lại (Mc 5, 22-42); Chúa cho Ladarô đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11, 43-44)…

Tuy nhiên, những người đã chết được Chúa cho sống lại rồi họ cũng chết lần nữa và thân xác về bụi đất. Sứ điệp chính của Tin mừng là sự sống viên mãn, sự sống dồi dào đằng sau cái chết.

Qua phép lạ cho con trai bà góa thành Naim chết được sống lại, Chúa Giêsu đã tiên báo sự phục sinh của Ngài. Đây chính là niềm tin, là niềm hy của Kitô hữu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Chúa Giêsu đến thế gian để cứu độ con người. Sự hiện diện này đem lại niềm an ủi, khích lệ và còn đưa lại sự sống, khôi phục sự sống và kiến tạo sự hiệp nhất. Những người có đức tin nhìn cuộc đời dưới khía cạnh lạc quan và tích cực. Họ coi cuộc đời chỉ là một cuộc hành trình về quê trời, mỗi người chỉ là khách lữ hành nơi trần thế. Trong cuộc hành trình, họ phải nỗ lực vừa chịu đựng vừa vượt qua khó khăn để đi tới đích. Họ nhớ lời Chúa đã dặn dò: “Thầy đi để dọn chỗ cho các con… Thầy sẽ trở lại đón các con…”. Họ cũng tin tưởng và lạc quan với lời thánh Phaolô nói với tín hữu Philipphê: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng chờ đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Đồng thời, thánh Phaolô cũng cho tín hữu Côrintô biết thêm về ngôi nhà vĩnh cửu của chúng ta ở trên trời:”Chúng ta biết rằng : nếu ngôi nhà chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều này bị phá hủy đi, thì chúng ta có nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, ngôi nhà vĩnh cữu ở trên trời, không do tay người thế làm ra” (2 Cr 5,1).Những người có lòng tin như thế coi đời sống là một cuộc thử thách, đau khổ sẽ qua đi và chính đau khổ sẽ là phương tiện tiến tới vinh quang.

Trên những phần mộ thường có cây Thánh giá. Cây Thánh giá nói lên niềm tin: Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên đó để cứu chuộc con người khỏi vòng liên lụy của tội lỗi. Thánh giá Chúa Giêsu là ơn cứu độ niềm hy vọng cho con người.
 
Trên phần mộ cũng thường có tấm bia có khắc ghi di ảnh người quá cố với ngày tháng năm cùng nơi sinh ra và ngày tháng qua đời. Cũng trên tấm bia có khắc 3 chữ : R. I. P. Ðây là 3 chữ tắt của câu bằng Latinh : requiescat in pace – Ông, bà, anh, chị, em an giấc ngàn thu ! Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng ximăng cát đá, nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi, vì Ngài là Cha đời tôi. Và tôi biết Ngài hằng yêu mến tôi.
 
Ðứng trước nấm mồ người quá cố, tâm tình buồn thương tiếc nhớ làm sống lại những hình ảnh kỷ niệm buồn vui năm xưa. Thánh Giá Chúa Giêsu và cây nến cháy sáng trên phần mộ tựa như những lời nhắn nhủ của người quá cố nói với người đang sống: tôi đi về cùng Thiên Chúa Cha, về cùng Ðấng là nguồn sự sống và nguồn tình yêu. Con người không có quyền gì trên sự chết và sự sống. Sống và chết là kỳ công và đều bởi Thiên Chúa. Sự sống là mong manh, thế mà Thiên Chúa lại phải đánh đổi bằng máu của các tiên tri, bằng mạng sống của Con yêu dấu là Chúa Giêsu.

Mọi người, một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa nhân lành là Chúa của sự sống viên mạn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

Đức Thánh Cha đối thoại với các học sinh các trường dòng Tên

VATICAN. Sáng 7 tháng 6-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến hơn 8 ngàn học sinh và giáo chức, phụ huynh các trường trung tiểu học của Dòng Tên tại Italia và Albani.

Trong số các học sinh hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, đông nhất là 2.030 em thuộc trường Massimo ở Roma, 1.800 em từ trường Lêô 13 ở Milano, 1,500 em từ trường Sociale ở Torino. Ngoài ra cũng có 60 em học sinh từ trưởng Mashkalla ở thành phố Scutari, bắc Albani.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC tóm tắt bài huấn từ dọn sẵn dài 5 trang, và trả lời các câu hỏi do các em học sinh nêu lên như về ơn gọi dòng Tên, về cuộc khủng hoảng kinh tế với căn cội là khủng hoảng con người; về sự dấn thân của giáo dân trong chính trị để phục vụ công ích, v.v.

Trả lời một em bé, ĐTC cho biết đã quyết định không ở trong dinh Tông Tòa vì những lý do tâm lý, muốn ở giữa dân chúng, không muốn ở một mình, chứ không phải vì căn hộ Giáo Hoàng là sang trọng.

ĐTC cho biết sở dĩ ngài đi tu dòng Tên vì đặc tính truyền giáo của dòng. Ngài đã viết thư xin cha Bề trên Tổng quyền Arupe cho đi truyền giáo bên Trung Quốc, nhưng bị BT từ chối vì lý do sức khỏe (đau phổi)..

Trong bài huấn từ dọn sẵn, mà ĐTC khuyên các học sinh đọc sau đó, ĐTC đặc biệt nhắn nhủ các em học sinh hãy có tâm hồn đại đảm, ước muốn những lý tưởng cao thượng, mong ước thực hiện được những công việc lớn lao để đáp lại điều Chúa muốn, chu toàn tốt đẹp những công việc hằng ngày, làm những công tác nhỏ bé thường nhật với một con tim cởi mở đối với Thiên Chúa và tha nhân”.

ĐTC nhấn mạnh rằng ”để có tâm hồn đại đảm với tự do nội tâm và tinh thần phục vụ thì cần được huấn luyện về linh đạo. Các bạn trẻ thân mến, hãy yếu mến Chúa Kitô ngày càng nồng nhiệt hơn! Đời sống chúng ta là một lời đáp trả tiếng Chúa gọi và các bạn sẽ hạnh phúc và kiến tạo cuộc sống tốt đẹp nếu các bạn biết đáp lại tiếng gọi của Chúa. Hãy cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trong đời sống các bạn. Chúa gần gũi với mỗi người trong các bạn như một người bạn đồng hành, biết giúp đỡ và cảm thông, khuyến khích các bạn trong những lúc khó khăn và không bao giờ bỏ rơi các bạn”.

ĐTC không quên nhắc nhở các tu sĩ dòng Tên, các nhà giáo dục và phụ huynh đừng nản chí trước những khó khăn mà thách đố giáo dục đang đề ra! Ngài nói:

”Giáo dục không phải là một nghề, nhưng là một thái độ, một lối sống; để giáo dục, cần phải ra khỏi chính mình và ở giữa các bạn trẻ, tháp tùng họ trong những giai đoạn tăng trưởng của họ, đứng cạnh họ. Hãy mang lại hy vọng, lạc quan cho hành trình của các học sinh giữa lòng thế giới. Hãy dạy họ nhìn vẻ đẹp và sự tốt lành của công trình tạo dựng và của con người, vốn luôn mang vết tích của Đấng Tạo Hóa. Nhưng nhất là anh chị em hãy làm chứng bằng chính cuộc sống những gì anh chị em truyền đạt”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”Một nhà giáo dục – là tu sĩ dòng Tên, là giáo chức, phụ huynh – thông truyền các kiến thức, các giá trị bằng lời nói, nhưng những lời này sẽ ảnh hưởng quyết định trên người trẻ nếu có chứng tá cuộc sống đi kèm lời nói, nếu cuộc sống đi đôi với lời nói, nếu không thì không thể giáo dục. Anh chị em là những nhà giáo dục, và không có sự ủy quyền trong lãnh vực này” (SD 7-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhà ngoại giao tương lai của Tòa Thánh

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhà ngoại giao tương lai của Tòa Thánh

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 6 tháng 6-2013, dành cho các sinh viên trường ngoại giao Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô nhắn nhủ các Linh mục sinh viên luôn vun trồng tự do nội tâm và đời sống thiêng liêng.

Trong số 45 người hiện diện tại buổi tiếp kiến, ngoài hơn 30 LM sinh viên, còn có ban giám đốc, và các nữ tu phục vụ tại trường, dưới sự hướng Đức TGM Giám đốc Benjamin Stella.

Trong bài huấn dụ, ĐTC nói: ”Công việc phục vụ tại các Sứ quán của Tòa Thánh là một công việc đòi phải có một tự do nội tâm sâu xa, giống như mọi loại sứ vụ linh mục. Các con hãy sống những năm chuẩn bị cho sứ vụ ấy với tinh thần dấn thân, quảng đại và tâm hồn cao thượng, để tự do nội tâm ấy thực sự hình thành nơi các con!”.

ĐTC giải thích các khía cạnh khác nhau của tự do nội tâm. ”Trước tiên có nghĩa là tự do khỏi các dự phóng cá nhân, khỏi một số cách thức cụ thể mà có lẽ các con đã nghĩ ra để sống chức LM của mình, khỏi khả thể hoạch định tương lai.. Tự do nội tâm cũng có nghĩa là trở nên tự do một cách nào đó đối với nền văn hóa và não trạng xuất xứ của các con, để cởi mở, cảm thông với các nền văn hóa khác, trong tinh thần bác ái.. Nhất là tự do nội tâm có nghĩa là cảnh giác để tránh những tham vọng hoặc mục tiêu cá nhân, chúng có thể gây thiệt hại rất nhiều cho Giáo Hội. Tóm tắt một lời, sứ vụ mà chúng con đang chuẩn bị đòi các con phải ra khỏi chính mình, một sự tách biệt chỉ có thể đạt được nhờ một hành trình thiêng liêng khẩn trương, nghiêm túc liên kết cuộc sống của các con với mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa và kế hoạch khôn lường trong ơn gọi của Chúa”.

ĐTC không quên nhắn nhủ các LM sinh viên trường ngoại giao Tòa Thánh hết sức chăm sóc đời sống thiêng liêng là nguồn mạch tự do nôi tâm, vun trồng đời sống cầu nguyện, công việc hằng ngày thành môi trường thánh hóa bản thân. Ngài nêu bật tấm gương của Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 trong khi phục vụ như một nhà ngoại giao của Tòa Thánh, tại Bulgari, rồi Thổ nhĩ kỳ và Pháp (SD 6-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thư ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩ gửi các chủng sinh nhân Ngày Thánh Hóa các Linh Mục

Thư ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo sĩ gửi các chủng sinh nhân Ngày Thánh Hóa các Linh Mục

Thứ Sáu 7 tháng 6-2013, Lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày Thánh Hóa các Linh Mục, do ĐTC Gioan Phaolô 2 thiết lập ngày 25 tháng 3 năm 1995. Trong thư gửi các LM nhân ngày Thứ năm Tun Thánh năm đó, ngài viết: ”Dưng như là điều thích hợp hơn bao giờ hết, đề nghị do Bộ giáo sĩ đưa ra về việc cử hành trong mỗi giáo phận một Ngày Thánh Hóa các linh mục, nhân dịp lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu”.

Lễ này do Đức Giáo Hoàng Piô 9 ấn định cho Giáo Hội hoàn vũ hồi năm 1856.
Nhân dịp Ngày Thánh Hóa các LM năm nay, ĐHY Mauro Piacenza, Tng trưởng Bộ giáo sĩ, đã công bố một thư gửi các chủng sinh trên thế giới, với nội dung như sau:

Các chủng sinh rất thân mến,

Với lễ trọng kính Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, ngày Thánh Hóa các linh mục cũng được cử hành với đầy ý nghĩa, và vì các thầy ở trong chủng viện là để đáp lại ơn gọi một cách thích hợp tối đa, tôi thân ái gửi đến các thầy lá thư này để các thầy cảm thấy được can dự và được nhớ đến trong dịp ý nghĩa này.

Chúng ta cùng nhau suy niệm về thực tại nguyên thủy của ơn Chúa gọi. Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh về tính chất cụ thể của tình yêu mà tất cả các linh mục của Chúa Kitô và của Giáo Hội phải thực hành. Trong bài giảng nhân dịp thánh lễ dầu đầu tiên ngài cử hành (28-3-2013), Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: ”Đây là điều tôi xin anh em: anh em hãy trở thành những mục tử ”với mùi của đoàn chiên”. Qua hình ảnh xúc tích này, Người Kế Nhiệm thánh Phêrô mời gọi chúng ta hãy có một tình yêu nồng nhiệt và cụ thể đối với Dân Chúa, tình yêu này, như chính ĐGH đã nhận xét, không được nuôi dưỡng bằng những động lực hoàn toàn phàm nhân, cũng chẳng được củng cố nhờ những kỹ năng tự kỷ ám thị. Chính cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa, sự luôn ý thức sinh động chúng ta được Ngài kêu gọi, mang lại sức mạnh thực sự trổi vượt, siêu nhiên, để trở thành Linh Mục theo hình ảnh Vị Mục Tử nhân lành của mọi người, là Chúa Giêsu Kitô. Nhưng để được như thế trong tương lai, ngay từ bây giờ các thầy phải chuẩn bị. Với những lời rất rõ ràng, ĐGH Phanxicô nhắc nhở về chỗ đứng tối thượng của ơn thánh trong đời sống linh mục: ”Không phải nhờ tự cảm nghiệm, hoặc nhờ liên tục nhìn vào nội tâm mà chúng ta gặp gỡ Chúa: các khóa học về cách tự giúp đỡ mình trong cuộc sống có thể là hữu ích, nhưng sống đời sống linh mục của chúng ta bằng cách đi từ khóa học này đến khóa học khác, từ phương pháp này sang phương pháp khác, sẽ thúc đẩy linh mục trở thành những người chỉ cậy trông vào sức riêng và coi nhẹ sức mạnh của ơn thánh” (Ibidem).

Đối với người môn đệ, đồng hành với Chúa Kitô, bước đi trong ơn thánh, có nghĩa là mang trên vai gánh nặng của thánh giá Linh Mục với một niềm vui thiêng liêng. Chúng ta hãy nghe tiếp giáo huấn của Đức Thánh Cha về vấn đề này. Ngài viết: ”Khi chúng ta tiến bước mà không có thánh giá, khi chúng ta xây dựng mà không có thánh giá, và khi chúng ta tuyên xưng một Đức Kitô không có thánh giá, thì chúng ta không phải là môn đệ của Chúa, chúng ta là người của thế gian” (Bài giảng Thánh lễ với các Hồng Y ngày 14-3-2013). Trái lại, sống sứ vụ của chúng ta như một sự phục vụ Chúa Kitô của thập giá, làm cho chúng ta không coi Giáo Hội như một tổ chức phàm nhân, ”một tổ chức phi chính phủ (ONG) có màu sắc tôn giáo, chứ không phải là Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa” (Ibidem).

”Dưới ánh sáng những giáo huấn đầu tiên của ĐGH Phanxicô, tôi mời gọi các thầy hãy coi cuộc sống của mình như một hồng ân của Thiên Chúa, và đồng thời, như một nghĩa vụ được ủy thác cho các thầy, không phải như do con người mà thôi, nhưng xét cho cùng -qua sự trung gian cần thiết của Giáo Hội,- sự ủy nhiệm ấy là do chính Chúa, Đấng đã có một chương trình cho đời sống của các thầy và đời sống của những anh chị em mà các thầy sẽ được kêu gọi phục vụ”.

”Cần đọc lại toàn thể cuộc sống chúng ta như một ơn gọi của Chúa, chứ không phải chỉ là một sự quảng đại đáp trả của con người. Vấn đề ở đây là vun trồng nơi chúng ta sự ”nhạy cảm về ơn gọi”, giải thích cuộc sống như một cuộc đối thoại liên tục với Chúa Giêsu, Đấng phục sinh và hằng sống. Trong mọi thời đại, Chúa Kitô đã và đang kêu gọi một số người theo sát Ngài, cho họ tham gia vào chức Linh Mục của Ngài – điều này ngụ ý rằng, trong mỗi thời đại của lịch sử Giáo Hội, Chúa đã dệt lên một cuộc đối thoại ơn gọi với các tín hữu mà Chúa chọn, để họ trở thành những đại diện của Ngài giữa lòng Dân Chúa, và là những người trung gian giữa Trời và đất, đặc biệt là qua việc cử hành phụng vụ và bí tích. Thực vậy, chúng ta có thể nói, phụng vụ mở rộng cho chúng ta Trời trên trái đất này”.
”Trong viễn tượng đó, các thầy được kêu gọi, qua việc truyền chức, mà không có công trạng gì từ phía ta,- để trở thành những người trung gian giữa Thiên Chúa và dân, và làm cho cuộc gặp gỡ cứu độ có thể diễn ra nhờ việc cử hành các mầu nhiệm của Chúa. Mặc dù có những giới hạn, các thầy đã quảng đại và vui mừng đáp lại tiếng gọi ấy. Điều cần là các thày luôn giữ cho tâm hồn trẻ trung của các thầy được luôn sinh động: một con tim trẻ trung, dù 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung! Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua” (ĐGH Phanxicô, bài giảng Chúa nhật lễ lá, 24-3-2013, n.3).

”Sự trẻ trung của tinh thần linh mục, kiên trì trong ơn gọi, được bảo đảm nhờ kinh nguyện, nghĩa là nhờ thái độ liên tục giữ thinh lặng nội tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lắng nghe lời Chúa hằng ngày. Sự cởi mở liên tục của tâm hồn như thế, dĩ nhiên diễn ra trong một sự ổn định, – sau khi đã đi tới những quyết định nền tảng của cuộc sống – có khả năng trung thành cho đến chết, với những lời cam kết long trọng, nhờ ơn Chúa. Tuy nhiên, sự vững chắc cần thiết như thế không có nghĩa là khép kín con tim đối với những tiếng gọi của Chúa, vì mặc dù luôn củng cố chúng ta mỗi ngày trong ơn gọi cơ bản, Chúa luôn đứng ở cửa tâm hồn chúng ta và gõ (Xc Kh 3,20), chờ đợi chúng ta mở cửa cho Ngài với cùng một lòng quảng đại như khi chúng ta thưa ”xin vâng” lần đầu tiên với Ngài, noi gương thái độ luôn sẵn sàng của Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa (Xc Lc 1,38). Vì thế, không bao giờ chúng ta có thể đặt ra những giới hạn cho kế hoạch mà Thiên Chúa đề xướng và được thông báo cho chúng ta, ngày qua ngày, suốt trong cuộc đời chúng ta.

”Sự cởi mở đối với ơn gọi như thế cũng là con đường chắc chắn nhất để sống niềm vui Tin Mừng. Thực vậy, chính Chúa làm cho chúng ta được hạnh phúc thực sự. Niềm vui của chúng ta không phát xuất từ sự thỏa mãn phàm tục, làm cho ta hân hoan một lúc ngắn ngủi và tan biến mất, như thánh Ignatio Loyola đã nhận xét trong sự phân định đầu tiên của Ngài (Xc Phụng vụ các Giờ Kinh, Giờ độc vụ ngày 31-7, Bài đọc 2). Niềm vui của chúng ta là Chúa Kitô! Trong cuộc đối thoại hằng ngày với Chúa, tinh thần được sảng khoái và đà tiến cũng như lòng nhiệt thành đối với các linh hồn liên được đổi mới.

”Chiều kích cầu nguyện này của ơn gọi linh mục nhắc nhở chúng ta những khía cạnh khác có tầm quan trọng đặc biệt. Trước kiên là sự kiện chúng ta có được những ơn gọi, cốt yếu không phải nhờ một chiến lược mục vụ, nhưng nhất là bằng việc cầu nguyện. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: ”Các con hãy xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Ngài” (Lc 10,2). Khi bình luận những lời này, ĐGH Biển Đức 16 nhận xét rằng: ”Chúng ta không thể 'sản xuất' ơn gọi, ơn gọi phải đến từ Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm như trong các nghề nghiệp khác, nhờ sự tuyên truyền quảng cáo nhắm đúng đích, nhờ các chiến lược thích hợp, tuyển mộ được nhiều người. Ơn gọi, xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, phải luôn tìm được con đường dẫn đến tâm hồn con người” (Cuộc gặp gỡ với hàng giáo sĩ miền Baviera, 14-9-2006).

Hỡi các chủng sinh quí mến,

Các thầy được Chúa kêu gọi, nhưng có nhiều người rải rác trên thế giới đã và đang cộng tác vào câu trả lời của các thầy qua lời cầu nguyện và hy sinh của họ. Các thầy hãy có tâm hồn biết ơn và hiệp với những người ấy để tạo điều kiện dễ dàng cho việc đáp lại ơn gọi. Tiếp đến, cùng với vị thế tối thượng của việc cầu nguyện, cũng có hoạt động lành mạnh và hăng say do công việc mục vụ ơn gọi từ phía Giáo Hội, trong tư cách là máng chuyển ơn thánh Chúa. Về sự cộng tác này của Giáo Hội với việc Chúa ban các vị mục tử cho Dân Chúa và Nhiệm Thể Chúa Kitô, cũng nên nhắc lại vắn tắt ở đây vài khía cạnh phải làm nổi bật sự cộng tác ấy, nghĩa là lòng quí chuộng đối với ơn gọi linh mục, cuộc sống chứng tá của các linh mục, hoạt động chuyên biệt của các nhà đào tạo trong các chủng viện.

Điều cần thiết trước tiên là trong Giáo Hội phải có sự quí chuộng ơn gọi Linh Mục, xét vì sự kiện Cộng đồng các môn đệ của Chúa Kitô không thể hiện hữu nếu không có công tác phục vụ của các thừa tác viên thánh chức. Vì thế, cần phải chăm sóc, lưu tâm và tôn trọng chức linh mục. Thứ đến, các ơn gọi được nâng đỡ rất nhiều nhờ tấm gương và sự chăm sóc mà các LM dành cho ơn gọi. Một linh mục gương mẫu không thể không gợi lên nơi tâm trí các bạn trẻ câu hỏi: phải chăng tôi cũng được kêu gọi sống một cuộc sống tươi đẹp và hạnh phúc như thế? Chính qua cách thức đó các linh mục là những máng qua đó Thiên Chúa, làm cho tiếng gọi của Chúa tái vang dội trong tâm hồn của những người mà Ngài đã chọn! Rồi các Linh mục hãy chăm sóc những mầm mống ơn gọi qua bí tích giải tội, linh hướng, giảng thuyết và linh hoạt mục vụ. Tôi nghĩ rằng nhiều người trong các thầy đã chứng kiến và được hưởng những điều ấy.

”Ngoài ra tôi muốn nói một lời về vai trò quan trọpg của các linh mục mà các GM ủy thác việc huấn luyện các thầy. Các nhà đào tạo trong chủng viện được kêu gọi tiếp tục và đào sâu việc chăm sóc các ơn gọi linh mục, trong khi cung cấp tất cả những trợ giúp thích hợp cho sự phân định bản thân cần thiết của mỗi ứng sinh. Về điểm này, cần nhắc lại hai nguyên tắc phải hướng dẫn việc thẩm định ơn gọi: đó là sự đón tiếp nồng nhiệt và sự nghiêm khắc đúng đắn. Trong khi cần phải tránh mọi thành kiến, cũng như mọi thái độ ngặt nghèo khi đón nhận các chủng sinh, một điều rất quan trọng là cẩn thận tránh thái độ cẩu thả và lơ là trong phán đoán. Chắc chắn Giáo Hội cần các linh mục, nhưng không phải bất kỳ loại linh mục nào! Vì thế tình thương đón nhận phải đi kèm sự thật phán đoán một cách rõ ràng để xem nơi ứng sinh có những dấu hiệu ơn gọi và những yếu tố nhân bản cần thiết để có câu trả lời đáng tin cậy hay không. Nhu cầu mục vụ cấp thiết của các Giáo Hội địa phương không thể đưa tới sự vội vã trong việc truyền chức thánh. Khi có hồ nghi, thì tốt hơn nên dành thời giờ cần thiết và lượng định thích hợp, và loại trừ những ứng sinh không có những bảo đảm đầy đủ.

”Các chủng sinh rất thân mến, với những chỉ dẫn vắn tắt trên đây, tôi muốn tái lưu ý về hồng ân vô biên và mầu nhiệm, hoàn toàn nhưng không của ơn gọi đặc biệt của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác cho sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh và thánh Giuse hồng ân trung thành và bền đỗ trong ơn gọi của Chúa, mà Ngài rộng ban cho chúng ta và tìm cách đáp lại lòng quảng đại của Chúa, Đấng luôn gửi các mục tử đến chăm sóc đoàn chiên của Ngài, với đà tiến tông đồ được đổi mới. Các thầy hãy kiên trì, luôn nhớ rằng danh xưng của tình yêu trong thời gian là ”lòng trung thành”.

Tôi nhớ đến các thày mỗi ngày trong kinh nguyện với lògn quan tâm và quí mến, và tôi thành tâm khẩn cầu phúc lành của Chúa trên các thầy.Hồng Y Mauro Piacenza
Tổng trưởng Bộ giáo sĩ

(G. Trần Đức Anh O.P chuyển ý) – Vatican Radio