Đức Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 sắp được phong hiển thánh

Đức Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 sắp được phong hiển thánh

VATICAN. Đức Gioan 23 và ĐGH Gioan Phaolô 2 sắp được phong hiển thánh trong tương lai gần đây.

Trong thông cáo công bố hôm 5 tháng 7-2013, Bộ Phong Thánh cho biết với sự chấp thuận ĐTC Phanxicô, Bộ công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lợi chuyển cầu của Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2.

Ngoài ra, ĐTC cũng phê chuẩn ý kiến thuận của Hội đồng HY và GM thành viên Bộ Phong Thánh về việc
phong hiển thánh cho Đức Gioan 23 tuy rằng không có phép lạ thứ hai của ngài.

ĐTC cũng sẽ triệu tập một công nghị Hồng y về việc phong thánh trong đó có 2 vị Giáo Hoàng vừa nói. Trong công nghị đó Ngài sẽ công bố ngày cử hành lễ tôn phong.

Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh giải thích rằng Đức Gioan 23 sẽ được phong hiển thánh mà không cần phải có phép lạ thứ 2. Ngài đã có 1 phép lạ khi được phong chân phước. Các nhà thần học và giáo luật từ lâu vẫn tranh luận về việc có cần phép lạ thứ hai nữa không để được phong hiển thánh. Dầu sao quyền quyết định vẫn tùy thuộc ĐTC và nay Đức Phanxicô đã chấp thuận ý kiến thuận của các HY và GM thuộc Bộ Phong Thánh.

Cũng ngày 5-7-2013, Bộ Phong Thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận phép lạ của Chúa nhờ lời chuyển cầu của vị Tôi Tớ Chúa Alvaro del Portillo, GM Bề trên Giám Hạt tòng nhân Opus Dei (1914-1994) người Tây Ban Nha. Một phép lạ khác của Vị Tôi Tớ Chúa Speranze di Gesù, người Tây Ban Nha, sáng lập dòng các Nữ Tỳ Tình yêu thương xót và dòng các Nam Tử Tình Yêu Thương Xót (1893-1983).

Có 5 sắc lệnh khác nhìn nhận các cuộc tử đạo của nhiều vị Tôi Tớ Chúa trong thời nội chiến 1936-1939 ở Tây Ban Nha, sau cùng là 5 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 5 vị Tôi tớ Chúa.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô: ”Lumen Fidei”

Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô: ”Lumen Fidei”

VATICAN. Thông điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô đã được công bố sáng ngày 5 tháng 7-2013 với tựa đề ”Lumen Fidei” (Ánh sáng Đức Tin).

Thông điệp được công bố bằng 6 thứ tiếng: Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha và được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh, do ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Văn kiện này được gửi đến các GM, LM, Phó Tế, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân. Như chính ĐTC Phanxicô giải thích: văn kiện này hầu như đã được ĐGH Biển Đức 16 hoàn thành và ngài chỉ đóng góp thêm mà thôi. Mục đích của Thông Điệp là phục hồi đặc tính ánh sáng của chính đức tin, có thể soi sáng cho toàn thể cuộc sống con người.

Ngoài phần nhập đề (1-7) và kết luận (58-60), Thông Điệp ”Ánh Sáng Đức Tin” gồm 4 chương:

I. Chúng tôi đã tin nơi tình yêu (1 Ga4,6) (8-22)
II. Nếu các ngươi không tin, thì sẽ không hiểu (Is 7,9) (23-36)
III. Tôi truyền lại cho anh chị em điều tôi đã nhận lãnh (1 Cr 15,3) (37-49)
IV. Thiên Chúa chuẩn bị cho họ một thành thị (Dt 11,16) (50-60)

Nội dung tổng quát của Thông Điệp

– Ai tin thì thấy. Ai tin thì không bao giờ lẻ loi vì đức tin là một thiện ích cho tất cả mọi người, một công ích giúp phân biệt thiện và ác, xây dựng xã hội chúng ta, mang lại hy vọng. Nội dung nòng cốt của Thông điệp “Ánh sáng đức tin” là ý tưởng này: đức tin không tách rời con người ra khỏi thực tại, nhưng giúp con người đón nhận ý nghĩa sâu xa nhất của thực tại. ĐGH nhận xét rằng: Trong một thời tại như thời nay, trong đó người ta coi việc tin tưởng là điều trái ngược với sự tìm kiếm và nghiên cứu, đức tin bị người ta coi là một ảo tưởng, một thái độ nhảy vào khoảng không, ngăn cản tự do của con người, điều quan trọng là tin tưởng và tín thác vào tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa với lòng khiêm tốn và can đảm, vì Thiên Chúa chữa lành mọi quanh co sai trái trong lịch sử chúng ta.

– Chứng nhân đáng tin cậy về đức tin chính là Chúa Giêsu, qua Ngài Thiên Chúa thực sự hoạt động trong lịch sử. Ai tin tưởng nơi Chúa Giêsu thì không những nhìn lên Ngài, nhưng còn nhìn với quan điểm của Ngài nữa. Và cũng như trong đời sống thường nhật, chúng ta tín nhiệm kiến trúc sư, dược sĩ, trạng sư, vì họ là những người biết rõ hơn chúng ta, cũng vậy đức tin làm cho chúng ta tín thác nơi Chúa Giêsu, là chuyên gia trong những điều thuộc về Thiên Chúa, Đấng giải thích cho chúng ta về Thiên Chúa.
ĐGH cũng nhấn mạnh rằng đức tin không phải là một sự kiện riêng tư, vì chúng ta tuyên xưng đức tin giữa lòng Giáo Hội, như một cộng đồng hiệp thông cụ thể của các tín hữu. Và theo thể thức đó, cuộc sống của tín hữu cũng trở thành cuộc sống của Giáo Hội.

-Tiếp đến, ĐGH chứng tỏ mối liên hệ chặt chẽ giữa đức tin, sự thật và tình thương, là những điều đáng tin cậy của Thiên Chúa. Đức tin mà không có sự thật thì không cứu thoát. Nó chỉ là một chuyện ngụ ngôn hay đẹp, nhất là ngày nay người ta đang trải qua một cuộc khủng hoảng sự thật vì một nền văn hóa chỉ tin tưởng nơi kỹ thuật hoặc những chân lý của mỗi người, có lợi cho cá nhân chứ không có lợi cho công ích. Sự quên sót lớn lao của thế giới hiện tại là từ chối chân lý cao cả, là quên đi câu hỏi về Thiên Chúa, vì người ta lo sợ thái độ cuồng tín và ưa thích thái độ duy tương đối hơn.

-Trái lại, đức tin không phải là điều cố chấp, tín hữu không phải là người kiêu căng, vì chân lý xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa không phải là điều bị áp đặt bằng bạo lực và không đè bẹp mỗi người. Vì thế, có thể có cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí: trước tiên vì đức tin thức tỉnh cảm thức phê bình và mở rộng chân trời của lý trí; tiếp đến vì Thiên Chúa là ánh sáng rạng ngời và cả những người không tin cũng có thể tìm thấy Chúa khi họ tìm kiếm Ngài với con tim chân thành. Ai lên đường để thực thi điều thiện thì họ là người đã đến gần Thiên Chúa rồi.

-Một điểm thiết yếu khác của Thông điệp 'Ánh sáng đức tin' là việc rao giảng Tin Mừng. ĐGH viết: Ai cởi mở đối với tình thương của Thiên Chúa thì không thể giữ riêng hồng ân này cho mình. Như ngọn lửa được một ngọn lửa khác khơi lên, ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu sáng trên khuôn mặt các tín hữu Kitô và thông truyền từ đời này sang đời khác, qua những chứng nhân đức tin. Vì thế, có một liên hệ chặt chẽ giữa đức tin và ký ức, vì tình thương của Thiên Chúa liên kết mọi thời đại và làm cho chúng ta trở thành những người đồng thời với Chúa Giêsu.

-Nhưng có một phương thế đặc biệt nhờ đó đức tin có thể được thông truyền, đó là các bí tích. Trước tiên là bí tích rửa tội nhắc nhở chúng ta rằng đức tin phải được lãnh nhận, trong niềm hiệp thông với Giáo Hội, vì không ai tự rửa tội cho mình; và phép rửa tội làm nổi bật sự hợp lực giữa Giáo Hội và gia đình trong việc thông truyền đức tin. Tiếp đến, là bí tích Thánh Thể, lương thực quí giá nuôi dưỡng đức tin, dạy cho chúng ta nhìn thấy chiều sâu của thực tại. Và việc tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính và Kinh Lạy Cha làm cho tín hữu can dự vào những chân lý mà họ tuyên xưng và cho họ thấy bằng đôi mắt của Chúa Kitô. Sau cùng là 10 giới răn: đây không phải là những giới luật tiêu cực, chỉ có tính chất cấm đoán, nhưng là những chỉ dẫn cụ thể để đi vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa. ĐGH nhấn mạnh rằng đức tin là duy nhất và sự hiệp nhất đức tin chính là sự hiệp nhất của Giáo Hội.

-Đức tin cũng soi sáng cho cả thiên nhiên, giúp chúng ta ta tôn trọng thiên nhiên, ”tìm thấy những kiểu mẫu phát triển không phải chỉ dựa trên sự hữu ích hoặc lợi lộc, nhưng coi thiên nhiên như một hồng ân”, đức tin dạy chúng ta tìm ra những hình thức cai trị đúng đắn, trong đó quyền bính đến từ thiên Chúa và để phục vụ công ích; đức tin giúp chúng ta khả năng tha thứ, giúp khắc phục những cuộc xung đột. ĐTC viết: ”Khi đức tin bị suy yếu và thiếu sót, thì người ta gặp nguy cơ là cả những nền tảng của cuộc sống sẽ bị thiếu sót. Vì thế, chúng ta đừng xấu hổ khi công khai tuyên xưng Thiên Chúa, xét vì đức tin soi sáng cho toàn thể cuộc sống xã hội.

-ĐGH cũng khẳng định rằng cả đau khổ và sự chết cũng nhận được một ý nghĩa nhờ sự tín thác nơi Thiên Chúa: với những ngừơi đau khổ, Chúa ban cho họ một lý do giải thích tất cả, nhưng ngài cũng trao tặng sự hiện diện của Ngài tháp tùng họ. Theo nghĩa đó, đức tin đi chung với niềm hy vọng. Và tại đây, ĐGH đưa ra một lời kêu gọi: ”Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hy vọng, chứng ta đừng để cho niềm hy vọng bị tan biến với những giải pháp và đề nghị tức khắc, ngăn cản hành trình của chúng ta”.
Và thông điệp kết thúc với một lời kinh dâng lên Đức Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt vời của đức tin, xin Mẹ dạy chúng ta biết nhìn với đôi mắt của Chúa Giêsu.

-Trong chương cuối cùng của Thông điệp ”Ánh sáng đức tin” ĐGH giải thích liên hệ giữa việc tin và xây dựng công ích: đức tin nảy sinh từ tình yêu Thiên Chúa, làm cho những liên hệ giữa con người được vững chắc và đặt mình phục vụ công lý, công pháp, hòa bình. Đức tin không làm cho người ta xa lìa thế giới, trái lại: nếu loại bỏ đức tin ra khỏi xã hội chúng ta, thì chúng ta không còn tín nhiệm nhau và chúng ta chỉ liên kết với nhau vì sợ hãi hoặc vì quyền lợi mà thôi. Trái lại có bao nhiêu lãnh vực được đức tin soi sáng như gia đình dựa trên hôn nhân, được hiểu như một sự kết hợp bền vững giữa một người nam và một người nữ; tiếp đến là thế giới của những người trẻ mong ước một cuộc sống cao cả, và cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô mang lại cho họ niềm hy vọng vững chắc, không đánh lừa. 'Đức tin không phải là một nơi nương náu cho những người thiếu can đảm” và trong lãnh vực này những Ngày Quốc Tế giới trẻ giúp các bạn trẻ chứng tỏ niềm vui đức tin và dấn thân sống đức tin một cách kiên cường và quảng đại.

Đức tin cũng soi sáng cho cả thiên nhiên, giúp chúng ta ta tôn trọng thiên nhiên, ”tìm thấy những kiểu mẫu phát triển không phải chỉ dựa trên sự hữu ích hoặc lợi lộc, nhưng coi thiên nhiên như một hồng ân”, đức tin dạy chúng ta tìm ra những hình thức cai trị đúng đắn, trong đó quyền bính đến từ thiên Chúa và để phục vụ công ích; đức tin giúp chúng ta khả năng tha thứ, giúp khắc phục những cuộc xung đột. ĐTC viết: ”Khi đức tin bị suy yếu và thiếu sót, thì người ta gặp nguy cơ là cả những nền tảng của cuộc sống sẽ bị thiếu sót. Vì thế, chúng ta đừng xấu hổ khi công khai tuyên xưng Thiên Chúa, xét vì đức tin soi sáng cho toàn thể cuộc sống xã hội.

ĐGH cũng khẳng định rằng cả đau khổ và sự chết cũng nhận được một ý nghĩa nhờ sự tín thác nơi Thiên Chúa: với những ngừơi đau khổ, Chúa ban cho họ một lý do giải thích tất cả, nhưng ngài cũng trao tặng sự hiện diện của Ngài tháp tùng họ. Theo nghĩa đó, đức tin đi chung với niềm hy vọng. Và tại đây, ĐGH đưa ra một lời kêu gọi: ”Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hy vọng, chứng ta đừng để cho niềm hy vọng bị tan biến với những giải pháp và đề nghị tức khắc, ngăn cản hành trình của chúng ta”.

Và thông điệp kết thúc với một lời kinh dâng lên Đức Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt vời của đức tin, xin Mẹ dạy chúng ta biết nhìn với đôi mắt của Chúa Giêsu.

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm người tị nạn tại đảo Lampedusa

Đức Thánh Cha Phanxicô viếng thăm người tị nạn tại đảo Lampedusa

Thứ hai mùng 8 tháng 7-2013 Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm đảo Lampedusa để tưởng niệm sự hy sinh của biết bao nhiêu người di cư đã liều mình vượt hiểm nguy của biển khơi, đương đầu với cái chết để tìm đến vùng đất tự do.

Lampedusa là quần đảo rộng hơn 20 cây số vuông, bao gồm hai đảo nhỏ khác là Linosa và Pampione, nằm cách xa bờ biển Tunisia 113 cây số và đảo Sicilia 176 cây số. Quần đảo này thuộc tỉnh Agrigento của Sicilia và có 5,000 dân sống về nghề đánh cá và trồng tỉa. Từ thời xa xưa Lampedusa đã là nơi dừng chân và là căn cứ của các tầu thuyền của người Phênêxi, Hy lạp, Roma và A rập. Người Roma đã thiết lập các xưởng sản xuất một loại nước mắm cá gọi là Garum. Vì đây là nơi hay xảy ra các vụ cướp biển nên sau này trên đảo không có người sinh sống.

Ông hoàng đầu tiên của đảo Lampedusa và Linosa là Giulio Tomassi. Đây là tước hiệu do vua Carlo II của Tây Ban Nha ban cho dòng tộc Tomassi năm 1630. Một thế kỷ sau đó gia đình Tomassi bắt đầu chương trình định cư dân chúng. Trong thập niên 1840 gia tộc Tomassi bán đảo này cho vương quốc Napoli để về sống trong đất liền của Italia, rồi di cư sang Anh quốc trong thời Đệ nhị thế chiến.

Sau khi trại lính của Mussolini đầu hàng, đảo Lampedusa bị hải quân Anh chiếm đóng vào tháng 6 năm 1943. Năm 1972 bờ biển phía tây của đảo do lính biên phòng của Hoa Kỳ kiểm soát. Năm 1994 căn cứ quân sự của khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương chuyển quyền kiểm soát cho quân đội Italia.

Bắt đầu từ năm 2000 Lampedusa ngày càng trở thành điểm chuyển tiếp đầu tiên của người di cư đến từ nhiều nước Phi châu, Trung Đông và Á châu tìm đến các nước Âu châu. Năm 2004 hai chính quyền Italia và Libia ký thỏa hiệp ngầm bắt buộc Libia nhận các người di cư bị Italia trục xuất. Giữa các năm 2004-2006 đã có hàng ngàn người tị nạn bị trả về Libia. Trong năm 2006 các người di cư đã trả tiền cho các tổ chức du nhập người di cư lậu vào Italia. Khi tới đảo Lampedusa đa số đã được chính quyền Italia đưa vào các trại tị nạn trong đất liền. Nhưng thỉnh thoảng cũng có các vụ đắm tầu khiến cho hàng trăm người di cư bị thiệt mạng.

Năm 2009 số người di cư tới đảo Lampedusa qúa đông khiến cho trại tiếp cư không đủ điều kiện đáp ứng các nhu cầu cần thiết. Trại tiếp cư chỉ có 850 chỗ nhưng phải tiếp nhận 2000 người, vì thế một số đông đã phải ngủ dưới lều. Trong cùng năm đã xảy ra một cuộc ẩu đả giữa các người di cư tiếp theo đó là trận hỏa hoạn phá hủy một phần của trại tiếp cư. Đây đã là dịp để Cao Ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc chỉ trích chính quyền Italia sơ sót trong nhiệm vụ tiếp đón người tị nạn.

Tháng 5 năm 2011 số người di cư tới Lampedusa tăng vọt lên tới 35,000 người vì các cuộc nổi loạn của dân chúng bên Tunisia và Libia. Ba tháng sau số người di cư vọt lên 48,000, đa số trong lứa tuổi 20-30. Tình hình nóng bỏng đã gây chia rẽ giữa các nước trong Liên Hiệp Âu châu. Chính quyền Pháp cho rằng đa số các người di cư bỏ nước ra đi vì lý do kinh tế, chứ không ghải vì các cuộc bách hại chính trị. Đại sứ Libia tại Italia tiết lộ là chính đại tá Gaddafi kiểm soát làn sóng người ti nạn, vì muốn biến Lampedusa thành vùng đất của người Phi châu.

Trong các tháng qua đã có gần 8,000 người tị nạn tìm đến Italia, trong đó có hơn 3,600 người cặp bến Lampedusa. Năm 2012 Lampedusa đã tiếp nhận hơn 4.000 người di cư. Tháng 2 năm 2011 số người Phi châu tìm đến Lampedusa gia tăng liên tục và trong 58 ngày liên tiếp Lampedusa đã trở thành một trại tị nạn lộ thiên. Nhưng không phải mọi người đều gặp may mắn. Vụ đắm tầu ngày 6 thàng 4 năm 2011 đã khiến cho hàng chục người chết. Lampedusa trở thành biểu tượng của thảm cảnh tị nạn, và đây là một trong các lý do chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Đức Cha Francesco Montenegro, Tổng Giám Mục giáo phận Agrigento, tuyên bố rằng: ”Sự kiện Đức Thánh Cha Phanxicô chọn Lampedusa cho chuyến viếng thăm mục vụ đầu tiên của ngài tại Italia đem theo một sứ điệp rất mạnh mẽ, giúp chúng ta đọc hiểu lịch sử với con mắt của Thiên Chúa.

Đó là câu trả lời đẹp nhất cho người dân Lampedusa phải một mình tiếp đón các anh chị em ti nạn. Đó cũng là hình ảnh đẹp nhất của Mục Tử Nhân Lành. Một chuyến viếng thăm dành cho các người rốt hết của thế giới giữa những người rốt hết của Âu châu”. Đức Cha Montenegro, cũng là Chủ tịch Ủy ban di cư của Hội Đồng Giám Mục Italia, cho biết tin Đức Thánh Cha viếng thăm Lampedusa đã khiến cho tín hữu toàn tổng giáo phận vừa ngạc nhiên vừa vui sướng. Các lời kêu gọi Đức Phanxicô đưa ra từ mấy tháng qua chứng minh cho thấy Đức Giáo Hoàng không chỉ nói, mà còn thực thi những gì ngài khuyến khích tín hữu nữa: đi ra các vùng ngoại ô xa xôi để gặp gỡ các anh chị em khác.

Lampedusa, vùng đất hội tụ của người di cư đến từ nhiều nơi, diễn tả hiện tượng di cư trên thế giới ngày nay với tất cả các khổ đau và phức tạp của nó. Nó diễn tả một nhu cầu công lý liên quan tới hàng chục triệu con cái Chúa. Đức Cha Montenegro nói: Sự hiện diện của Giám Mục Roma tại Lampedusa sẽ nâng đỡ chúng tôi trong dấn thân thực thi các giáo huấn Tin Mừng liên quan tới tự do, công lý và hòa bình, tinh thần bác ái, tiếp đón và liên đới với các anh chị em di cư tị nạn. Đây cũng là dịp giúp các cộng đoàn địa phương chuẩn bị tinh thần sống biến cố này như một chặng đường đức tin của mình.

Khi nhận được tin từ Tòa Thánh, Linh Mục Stefano Nastasi, cha sở giáo xứ Lampedusa, tưởng mình nghe lầm. Cha nói chính cha và tín hữu không tin được là Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm phần đất hoang vu nằm giữa Địa Trung Hải xa xôi hẻo lánh này. Lampedusa từ nay đi vào lịch sử vì là nơi đầu tiên trong toàn nước Italia và trên thế giới được Đức Thánh Cha viếng thăm, ba tháng sau khi lên giữ chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội hoàn vũ. Trong một ngày hòn đảo này sẽ trở thành con tim của Địa Trung Hải và con tim của toàn thế giới, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ nói với toàn thế giới.

Cha Federico Lombardi cho biết Đức Thánh Cha đến Lampedusa để cầu nguyện cho các nạn nhân di cư và gặp gỡ cộng đoàn địa phương. Đây là một chuyến viếng thăm đơn sơ và kín đáo. Đức Thánh Cha đã rất cảm động vì tin một chiếc tầu chở người di cư bị đắm, vì thế ngài quyết định viếng thăm Lampedusa. Đoàn tùy tùng sẽ rất hạn chế và không có sự hiện diện của chính quyền.

Lúc 8 giờ sáng thứ hai mùng 8 tháng 7-2013 máy bay chở Đức Thánh Cha sẽ cất cánh tại phi trường Ciampino và đến Lampedusa lúc 9 giờ 15 phút. Tiếp đón Đức Thánh Cha có ông thị trưởng Giusi Nicolini, Đức Cha Francesco Montenegro Tổng Giám Muc Agrigento. Sau đó Đức Thánh Cha sẽ đến Cala Pisana và từ đây đi tầu đến hải cảng Lampedusa, theo sau là các tuyền đánh cá của dân chúng địa phương cũng như các tầu chở du khách đang nghỉ hè và thăm viếng đảo này.

Đức Thánh Cha sẽ ném một vòng hoa xuống biển để tưởng niệm tất cả các nạn nhận đã chết trên đường đi tìm tự do và một cuộc sống mới an lành hơn. Tiếp đến Đức Thánh Cha sẽ dừng tại mũi Favarolo, là nơi các người di cư được các tầu tuần tiễu duyên hải của Italia vớt trên biển và đưa vào bờ. Ngài sẽ gặp một nhóm người di cư. Sau đó Đức Thánh Cha sẽ chủ sự thánh lễ cho tín hữu và mọi người tại sân đá bóng thành phố Lampedusa. Sau thánh lễ ngài viếng thăm giáo xứ thánh Gerlando trước khi trở về Roma vào lúc 13 giờ cùng ngày.

Cha xứ Nastasi nói Đức Thánh Cha Phanxicô muốn rằng cuộc viếng thăm của ngài kín đáo với một cuộc gặp gỡ trực tiếp thân tình với dân chúng địa phương, không lễ nghi rườm rà và mầu mè. Cha cho biết hồi tháng 3 vừa qua cha đã viết thư cho Đức Thánh Cha, và thư đã được đưa lên trang mạng của Tổ chức di cư. Thư trình bầy với Đức Thánh Cha thảm cảnh của người di cư và các vụ đắm tầu đã biến Địa Trung Hải trở thành mồ chôn họ và các giấc mơ của họ. Trong thư cha nhắc đến các giọt nước mắt cảm động của Đức Thánh Cha khi biết mình được bầu làm Chủ Chăn, khiến cho chúng hòa với các giọt nước mắt khổ đau của thế giới và của biết bao nhiêu người lê lết cuộc đời trong các xó xỉnh của trái đất này; như các giọt nước mắt của chính Đức Thánh Cha là con của một người Ý di cư đến một vùng đất xa xôi giờ đây trở về chiếc nôi nguồn gốc của mình. Và cha kết thúc lá thư với câu: ”Thưa Đức Thánh Cha, con tim của Địa Trung Hải đợi chờ Đức Thánh Cha”.

Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ Phêrô Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ toàn thể Giáo Hội đi đến các vùng ngoại ô của thế giới, các vùng ngoại ô của cuộc sống, mà người dân Lampedusa sờ mó được hằng ngày qua việc tiếp đón và trợ giúp các anh chị em di cư tị nạn. Giờ đây với chuyến viếng thăm Lampedusa này chính Đức Thánh Cha nêu gương đi tới các vùng ngoại ô xa xôi của cuộc sống.

(Avvenire 2-7-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Công bố kết toán chi thu 2012 của Tòa Thánh

Công bố kết toán chi thu 2012 của Tòa Thánh

VATICAN. Trong năm 2012, ngân sách của Tòa Thánh dư được hơn 2 triệu Euro và ngân sách Quốc Gia thành Vatican dư được 23 triệu Euros.

Con số trên đây được Hội đồng Hồng Y đặc trách nghiên cứu các vấn đề tổ chức và kinh tế của Tòa Thánh, công bố hôm 4 tháng 7-2013, sau 2 ngày nhóm họp, mùng 2 và 3 tháng 7, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và với sự tham dự của 15 HY thành viên đến từ nhiều nước trên thế giới và các chức sắc liên hệ của Tòa Thánh. Đặc biệt ngày 3 tháng 7, ĐTC Phanxicô đã gặp và nói chuyện với Hội đồng HY. Ngài tái khẳng định mục đích và sự hữu ích của Hội đồng và mời gọi tiếp tục các vị nhóm họp định kỳ.

Theo thông cáo, kết toán chi thu năm 2012 của Tòa Thánh dư được 2 triệu 185 ngàn Euros (2,185,622), nhờ sự quản trị tốt về tài chánh. Phần lớn chi phí trong ngân sách của Tòa Thánh là để trả lương cho nhân viên, với 2.823 người tính đến cuối năm vừa qua; tiếp đến là chi phí cho các phương tiện truyền thông xã hội, và trả thuế mới về bất động sản, tăng 5 triệu Euro so với quá khứ.

Phủ Thống đốc quốc gia thành Vatican có ngân sách độc lập với Tòa Thánh, và kết toán chi thu trong năm 2012 dư được hơn 23 triệu Euros (23,079,800), tức là tăng 1 triệu so với năm trước đó. Tính đến cuối năm ngoái số nhân viên của Phủ này là 1936 người.

”Đồng tiền thánh Phêrô”, tức là số tiền các tín hữu đóng góp cho các hoạt động bác ái của ĐTC trong năm qua (2012) được gần 66 triệu mỹ kim (65,922,637.08), tức là giảm gần 3 triệu 800 ngàn mỹ kim (3,789,085). Số tiền các giáo phận đóng góp cho Tòa Thánh chiếu theo khoản giáo luật số 1271 là 28 triệu 303 ngàn mỹ kim tức là giảm gần 12% so với năm 2011 trước đó. Cũng vậy số tiền các dòng tu giúp Tòa Thánh giảm 5.09% tức là được 1 triệu 133 ngàn mỹ kim.

Viện Giáo Vụ, tức là Ngân Hàng Vatican, đã dâng tặng ĐTC số tiền 50 triệu Euro trong tài khóa 2012. Thêm vào đó Viện này còn giúp 1 triệu Euro cho ngân quỹ Amazzonia, 1 triệu 500 ngàn Euros cho Quỹ trợ giúp các nữ đan viện chiêm niệm, 1 triệu rưỡi Euros giúp quỹ thánh Sergio, nâng đỡ các Giáo Hội tại cựu Liên Xô, 1 triệu Euro cho Ủy ban Tòa Thánh về Mỹ châu la tinh.

Hội đồng Hồng Y chân thành cám ơn sự hỗ trợ của các tín hữu, nhiều khi dưới hình thức ẩn danh, dành cho sứ vụ hoàn vũ của ĐTC, mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, và các HY kêu gọi tiếp tục kiên trì trong việc thiện này (SD 4-7-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Vatican: Phong Thánh cho Chân Phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gần kề

Vatican: Phong Thánh cho Chân Phước Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gần kề

Blessed John Paul II

Rome  – Giáo hội Công giáo đang sắp sửa tuyên bố Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một vị thánh. Một nguồn tin quen thuộc từ Vatican trong quá trình phong thánh  được đưa ra vào ngày thứ Ba 2 tháng 7 năm 2013 vừa qua.

Hội đồng  xem xét các ứng cử viên cho việc phong thánh đã bỏ phiếu vào ngày Thứ Ba cho vị Giáo Hoàng qua đời gần đây nhất với một phép lạ thứ hai. Nguồn tin do một giới chức Vatican không nêu tên cho biết.

Có nhiều phép lạ của Cố Giáo Hoàng được xem xét nhưng chưa biết rõ phép lạ nào sẽ được công nhận ghi chép vào Thánh sử. Đức Thánh Cha Phanxicô phải quyết định và ký nhận để trở thành văn bản chánh thức.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhậm chức từ năm 1978 cho đến khi ông qua đời vào năm 2005, và Ngài là Giáo Hoàng nổi bật  – thu hút số đông trên toàn cầu.

Ngày tang lễ của Chân Phước Gioan Phaolô, hàng ngàn khách hành hương tụ tập tại quảng trường Thánh Phêrô đều hô vang "Santo Subito" nghĩa là “Phong Thánh ngay!”

 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô rất nhanh chóng được phong chân phước khi ông qua đời chỉ trong 6 năm kể từ khi qua đời vào năm 2005, đây là việc phong chân phước nhanh nhất trong thế kỷ.

Có ba giai đoạn cơ bản để trở thành một vị thánh Công giáo sau khi qua đời.

-Đầu tiên, danh hiệu "đáng kính" được chính thức Đức Giáo Hoàng để đánh giá một người nào đó để được thừa nhận các " nhân đức anh hùng."

-Thứ hai: Cần có một phép lạ , hoặc phải hy sinh vì đạo.(trở thành Chân Phước)

-Thứ ba : Phong thánh đòi hỏi một phép lạ thứ hai.

Vào năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chấp thuận cho Đức Gioan Phaolô II phép lạ đầu tiên: một nữ tu người Pháp được chữa khỏi bệnh run rẩy tay chân (Parkinson).

Sơ Marie-Simon-Pierre, một nữ tu đã cầu nguyện đến Cố Đức Giáo Hoàng sau khi ông qua đời, sau đó Sơ đã được chữa khỏi bệnh, chứng bệnh này cũng là căn bệnh của Chân Phước Gioan Phaolô khi còn sống.

Phép lạ thứ hai được báo cáo xảy ra ở Costa Rica, nơi một phụ nữ cho biết cô hồi phục từ một chấn thương não nghiêm trọng nhờ sự can thiệp của Đức Gioan Phaolô II, nguồn  tin phát xuất từ Vatican.

Patrick Kelly, giám đốc điều hành John Paul II Đền Thánh tại Washington, giải thích tiến trình điều tra các phép lạ của giáo hội.

"Một nhóm bác sĩ đầu tiên kiểm tra các phép lạ. Thứ hai, nhóm nghiên cứu của các nhà thần học nhìn vào phép lạ và sau đó họ thảo luận với nhau về tính hợp pháp và tất cả các sự kiện xung quanh những điều phép lạ", ông nói:

Kỷ lục về phong thánh nhanh nhất là thời hiện đại là Thánh Jose Maria Escriva, người Tây Ban Nha sáng lập ra dòng tu Công giáo Opus Dei của giáo dân và các thánh được hiến dâng cho việc tìm đến Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Escriva đã được phong thánh 27 năm sau khi ông qua đời.

Riêng Chân Phước Gioan Phaolô II có thể phá vỡ kỷ lục đó.

Theo nguồn tin tại Roma thì rất có thể Đức Giáo Hoàng Phan Xi Cô sẽ tuyên phong hiển thánh cho ĐGH Gioan Phaolô II vào ngày 8 tháng 12 là ngày đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đồng thời năm nay lễ trùng vào ngày Chúa Nhật, thích hợp cho việc tổ chức lễ phong thánh.

Một nguồn tin khác cũng đang được nói tới tại Roma là theo một giới chức của Vatican, xin được dấu tên, cho biết rất có thể Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng được phong thánh trong cùng ngày với ĐGH Gioan Phaolô II. Nguồn tin trên được hãng thông tấn ANSA xác nhận.

Truớc tin ĐGH Gioan Phaolô II sắp được phong thánh, dân chúng Ba Lan rất vui mừng. Linh Mục Robert Necek, phát ngôn viên của Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz tuyên bố với đài truyền thình TVN24 của Ba Lan rằng “ Hồ sơ đã đến chặng đường cuối cùng. Còn lại chỉ là quyết định của Đức Thánh Cha Phanxicô".

Thái Trọng (Phỏng dịch từ CNN và AP)

NGÀY ƠN GỌI : ĐỨC PHANXICÔ SẼ LÀM CHỨNG VỀ ƠN GỌI CỦA MÌNH

NGÀY ƠN GỌI : ĐỨC PHANXICÔ SẼ LÀM CHỨNG VỀ ƠN GỌI CỦA MÌNH

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm chứng về ơn gọi của mình nhân Ngày ơn gọi trong khuôn khổ Năm Đức Tin.

Hôm 1 tháng 7/2013, Đức cha Rino Fisichella, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Thăng Tiến Công Cuộc Tân Phúc Âm Hóa, Đức cha José Octavio Ruiz Arenas, thư ký, và Đức cha Graham Bell, phó thư ký, đã giới thiệu « Ngày của các chủng sinh, các tập sinh, và của những ai đang bước theo một hành trình ơn gọi ».

Những ngày này sẽ diễn ra từ 4 đến 7 tháng 7/2013, về đề tài « Con tin tưởng nơi Chúa ! ». Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ làm chứng về ơn gọi của mình và đồng thời sẽ chủ tế một thánh lễ với các tham dự viên.

Theo Đức cha Fisichella, khoảng 6000 bạn trẻ sẽ đến Rôma từ 66 nước, trong đó có Papouasie Tân Ghi-nê, Đảo Salomon, Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Chi-lê…

Các tham dự viên sẽ hành hương viếng mộ thánh Phêrô vào ngày 4/7. Ngày 5/7, các bài giáo lý sẽ được tổ chức theo nhóm ngôn ngữ (Pháp, Ý, Anh, Balan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Đức) và buổi chiều sẽ dành cho việc thăm viếng các nơi thánh, theo dấu chân của thánh Augustin và mẹ ngài, thánh Phanxicô Assidi, thánh Philipphê Nêri, thánh Inhaxio Loyola, thánh Têrêxa Lisieux…Ban tối, các chủng sinh và tập sinh sẽ làm chứng về ơn gọi của mình.

Chiều 6/7, các tham dự viên sẽ gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô tại thính đường Phaolô VI, sau một suy tư của ĐHY Piacenza, Tổng trưởng Bộ Giáo Sĩ. Đức Thánh Cha sẽ nói với các bạn trẻ về ơn gọi của mình và sẽ cho họ những điểm suy tư cho hành trình của họ.

Ngày Ơn Gọi sẽ kết thúc bằng cuộc rước kiệu Đức Mẹ trong vườn Vatican cho đến quảng trường thánh Phêrô. Tại đây, ĐHY Joao Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ Đời Sống Thánh Hiến sẽ có một bài suy niệm.

Cuối cùng, ngày 7/7, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ tế thánh lễ với các tham dự viên, lúc 9g30 tại Vương cung thánh đường Vatican.

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo ZENIT

Tệ nạn của bệnh cờ bạc

Tệ nạn của bệnh cờ bạc

Một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập nhà thương chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc

Trong mọi thành phố lớn khắp thế giới hiện nay đều có các nhà đánh bạc Casino, nơi con người bị cám dỗ tới ”nướng tiền” cho các chủ sòng bài và guồng máy ăn chơi khổng lồ của nó. Nổi tiếng nhất phải kể đến Las Vegas bên Hoa Kỳ, là thành phố đỏ đen nằm giữa sa mạc, nhưng là nơi ăn chơi vô cùng sầm uất, với các sòng bài và đủ mọi màn giải trí cho du khách. Bên Á châu thì có các sòng bài Dubai và Macao. Nhưng các loại máy kéo tiền đủ loại hiện diện ở khắp mọi thành phố lớn nhỏ trên thế giới. Điều đáng ghi nhận là máu mê đánh bạc máy và ham kéo máy không phải chỉ là của người trẻ, mà của cả người già nữa.

Old people gambing 1

Bên Hoa Kỳ, trong thành phố nào bắt đầu mở khu phố đánh bạc, thì chỉ một thời gian sau là cộng đoàn thấy vắng vài cụ ông cụ bà trong các giờ phụng vụ và sinh hoạt. Các cụ bắt đầu mê cờ bạc và giải trí bằng cách đi kéo máy. Có cụ sau lễ Chúa Nhật là đi giải trí cho tới khi hết tiền mới về nhà. Biết đi kéo mày là chỉ có rỗng túi, nhưng không đi không được, vì qủy cờ bạc xúi bẩy xỏ mũi kéo đi. Thế là tiền hưu và tiền của con cháu biếu tặng tới đâu cúng hết cho sòng bài tới đó.

Nghiện cờ bạc là một trong các tệ nạn trên thế giới hiên nay, khiến cho hàng triệu người lâm cảnh tán gia bại sản, gia đình tan nát. Nó đã trở thành một bệnh nguy hiểm. Thống kê của tổ chức sức khỏe thế giới OMS của Liên Hiệp Quốc cho biết trên thế giới hiện có 3% tổng số dân toàn cầu bị bệnh cờ bạc. Chỉ riêng Italia đã có tới 800 ngàn người bị bệnh cờ bạc và 1,7 triệu người có ”máu đỏ đen”. Mỗi năm số người này làm mất đi 69,7 triệu giờ làm việc, vì nạn cờ bạc. Theo kết qủa nghiên cứu của tổ chức ESPAD-Italia, do phân bộ bệnh dịch và nghiên cứu trên các cơ cấu y tế của Học viện vật lý bệnh xá, kiểu chơi ”Cạo và thắng”, Sổ số tự phát, và Siêu xổ số được 58% thiếu nữ ưa thích. Trong khi 30% thanh niên thì thích đánh cá về các trận đấu thể thao. Trong số đó có 52,5% người chơi trong các quán giải khát, 39,1% chơi tại nhà bạn bè và 22,5% chơi tại các phòng chơi. Giới trẻ thanh niên chơi bạo tay hơn, trong khi các thiếu nữ thường không chơi quá 10 Euros.

Theo các thống kê mới nhất nạn cờ bạc tại Italia là dịch vụ hàng năm thu vào 80 tỷ Euros, tức tương đương với 5% tổng sản lượng quốc gia, nghĩa là Italia chỉ đứng sau Anh quốc. Bà Katia Lanosa, chủ tịch Hiệp hội các trạng sư về hôn nhân vùng Emilia Romagna trung Italia, cho biết nạn cờ bạc ngày càng là vấn đề gây đổ vỡ trong gia đình. Nó khiến cho một phần mười các cuộc hôn nhân bị đổ bể, và gia tăng số các trẻ em ăn cắp ăn trộm để có tiền kéo máy hay đánh bạc. Nạn cờ bạc cũng ngày càng gia tăng các cuộc khủng hoảng trong gia đình dẫn đến chỗ ly dị ly thân. Ngoài ra, hậu qủa của cuộc khủng hoảng trong tương quan hôn nhân là cảnh mất công ăn việc làm. Đồng lõa với nạn cờ bạc là thời giờ rảnh rỗi và tình trang không thỏa mãn trong cuộc sống. Bà Katia Lanosa cũng cho biết bệnh cờ bạc cũng thường là lý do của các cảnh bạo lực nghiêm trọng trong gia đình và ngoài xã hội. Nhu cầu cần tiền để đánh bạc khiến cho người bệnh có thể đi đến chỗ hành hạ vợ con và giết người thân, hay cướp bóc vũ trang. Ông Ugo Pastore, Biện lý trưởng vùng Emiglia Romagna, đặc trách về người trẻ vị thành niên cho biết càng ngày càng có nhiều thanh thiếu niên bị lôi cuốn vào tệ nạn cờ bạc. Lý do vì chúng là con cái các gia đình có cha mẹ nghiện cờ bạc, bị bỏ rơi không được săn sóc các nhu cầu tối thiểu, hay chúng bị lây bệnh cờ bạc của cha mẹ. Và số người trẻ trộm cắp tiền của bạn bè người thân gia tăng.

Tại Bergamo, miền bắc Italia, dân chúng của một khu chung cư đã phẫn nộ phát động phong trào tẩy chay các quán đặt máy đánh bạc. Hiện đã có hàng chục quán, nhưng trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều quán khác. Ông Anselmo Parolini, cha gia đình nói: ”Thật là xấu hổ. Chúng tôi lo âu cho con cái của chúng tôi. Chính vì thế chúng tôi đã phát động phong trào phản đối, tẩy chay các quán có đặt máy đánh bạc. Đã có 500 người ký tên, và chúng tôi sẽ đưa vấn đề lên văn phòng tài vụ của tình Bergamo. Chúng tôi cũng sẽ tổ chức môt cuộc biểu tình phản đối việc mở thêm các sòng bài điện tử và gây ý thức đối với tệ nạn xã hội ngày càng lan tràn và trầm trọng này. Nhưng thật ra, tuy có luật ban hành hồi tháng 12 năm 2012 thiết định các sòng bài điện tử phải ở xa các vùng nhậy cảm 400 mét, nhưng đã không có luật nào cấm mở các sòng bài điện tử như thế. Giới trẻ và cả người già ngày càng bị cám dỗ ghé vào kéo máy nơi các sòng bài điện tử này”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vi và các bạn một số nhận định của bà Henrietta Bowden-Jones, người thành lập bệnh viện quốc gia chữa trị bệnh cờ bạc đầu tiên tại Anh quốc, về căn bệnh cờ bạc. Bà Henrietta hiện cũng điều khiển nhóm 12 chuyên viên nghiên cứu thuộc 4 đại học Anh quốc trong nhiều chương trình khác nhau nhắm thám hiểm não bộ của những người mắc ”bệnh cờ bạc”. Bà cũng là cố vấn của chính quyền Anh quốc về vấn đề này.

Hỏi: Thưa bà Henrietta, có thể thiết định số người mắc bệnh cờ bạc trên thế giới và tại Âu châu hiện nay là bao nhiêu không?

Đáp: Không phải mọi quốc gia trên thế giới đều đã làm các cuộc nghiên cứu chuyên biệt. Vấn đề đó là khi dùng các dụng cụ khác nhau, chẳng hạn như SOGS và CPGI để chẩn đoán bệnh cờ bạc, thì khó mà có thể làm thống kê. Vì thế tại sao lại quan trọng việc chỉ nên dùng một phương pháp, ít nhất là tại Âu châu. Bên anh quốc, có 0,9% dân nghiện cờ bạc, tức khoảng nửa triệu người tất cả.

Hỏi: Những người bị bệnh cờ bạc có nguy cơ phạm pháp không thưa bà?

Đáp: Có khoảng một phần ba những người bị bệnh cờ bạc phạm pháp. Tuy nhiên, đây cũng là tỷ lệ của tất cả những người bị bệnh cờ bạc trên toàn thế giới. Các tội phạm thông thường nhất là lừa đảo và trộm cắp. Thường họ cũng ăn cắp trong nơi làm việc, sau khi đã trộm cắp nơi bạn bè và người thân.

Hỏi: Thưa bà vậy chi phí chữa trị cho một người bị bệnh cờ bạc tại Anh quốc hiện nay là bao nhiêu?

Đáp: Việc chữa trị hoàn toàn miễn phí, và được tài trợ bởi tổ chức bác ái chuyên trợ giúp việc hồi phục các người mắc bệnh cờ bạc. Bệnh viện quốc gia chữa các bệnh nhân có vấn đề cờ bạc vẫn còn là nhà thương công duy nhất chữa bệnh cờ bạc tại Anh. Chúng tôi gặp gỡ các bệnh nhân lần đầu tiên để tư vấn, rồi sau đó có 8 lần gặp riêng hay gặp theo nhóm. Chúng tôi cũng cống hiến việc trị liệu trong gia đình nữa và trợ giúp để họ biết sử dụng tài chánh, ngoài các lần gặp gỡ chuyên biệt cho các phụ nữ hay những người vô gia cư.

Hỏi: Thưa bà, chính quyền Anh quốc có đang hoạt động đủ để chống lại bệnh cờ bạc hay không?

Đáp: Tôi tin rằng chính quyền thực sự đang làm nhiều cho vấn đề này. Ủy ban chiến thuật đặc trách cờ bạc lo lắng bảo vệ người lớn và trẻ em dễ bị thương tổn vì nạn cờ bạc. Ngoài ra Ủy ban cũng tung ra các cuộc nghiên cứu và tài trợ việc chữa trị. Tổ chức bác ái trợ giúp các bệnh nhân cờ bạc mỗi năm đầu tư hơn 5 triệu Euros cho công tác này; tôi cầu mong tổ chức gia tăng các việc đầu tư, và tôi nhận thấy rằng Anh quốc đã đi trước rất nhiều trong việc chống lại bệnh cờ bạc.

Hỏi: Hủy bỏ việc quảng cáo thăng tiến chơi cờ bạc có thể giúp gì cho cuộc chiến đấu này hay không thưa bà?

Đáp: 0,9% tổng số dân Anh quốc mắc bệnh cờ bạc, nhưng trong năm 2012 đã có tới 70% chơi cờ bạc ít nhất là một lần. Theo tôi nghĩ hủy bỏ việc quảng cáo xem ra không là điều thực tế. Tôi thấy điều phải làm là phối hợp việc quảng cáo làm sao để các nội dung ít lôi cuốn mời mọc hơn nhất là đối với người trẻ. Ngoài ra, chúng ta cũng bảo đảm làm sao để các quảng cáo đó không được thường xuyên qúa, và nhất là khi có trẻ em theo dõi các chương trình truyền hình.

Hỏi: Thế có các chiến thuật nào khác nữa hay không thưa bà?

Đáp: Có chứ. Một đường lối chính trị tự loại trừ cho phép các cá nhận tự loại mình ra khỏi các cuộc đánh cá là điều sống còn giúp che chở các người có máu mê cờ bạc. Vấn đề là làm thế nào để đạt được mục tiêu này. Tôi hiện đang hướng dẫn một nhóm cộng tác với chính quyền để tìm hiểu xem làm thế nào để đạt mục đích này mà không gây thiệt hại cho sự tự do lựa chọn của một cá nhân.

Hỏi: Thưa bà Henrietta, bệnh cờ bạc đang ngày càng trở thành tệ hại hơn hay sao?

Đáp: Năm 2000 và năm 2007 các phỏng đoán cho biết có khoảng 0,7% dân số toàn cầu bị bệnh cờ bạc. Năm 2010 con số này đã gia tăng lên 0,9%. Thống kê cuối cùng cho biết tại Anh quốc mỗi năm có 4.500 người bị bệnh cờ bạc, và số trẻ em vị thành niên dưới 16 tuổi đông gấp đôi. Nhưng cần phải chờ đợi kết qủa của cuộc nghiên cứu tới để hiểu xem bệnh mê cờ bạc có gia tăng hay không. Nếu là như vậy, thì vấn đề có thể tùy thuộc nơi các dụng cụ mới, trong đó có hệ thống liên mạng Internet. Vì những người mê cờ bạc có thể chơi ngay trên Internet tại nhà, trong phòng của mình, mà không cần phải đi tới các sòng bài.

Hỏi: Theo bà mỗi năm có thêm bao nhiêu người bị bệnh cờ bạc?

Đáp: Trong bệnh viện của chúng tôi mỗi năm có ít nhất 700 người bị bệnh cờ bạc điều trị. Phổ biến nhất là các vụ cá độ thể thao, kéo các máy điện tử, và đánh bạc trên Internet. Tôi mong ước rằng các phụ nữ mắc bệnh bài bạc cũng đến bệnh viện của chúng tôi để được chữa trị. Hiện nay số phụ nữ chỉ chiếm 10% các bệnh nhân đang được trợ giúp để chữa bệnh cờ bạc.

(Avvenire 15-5-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Ngày 5-7-2013: công bố thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô

Ngày 5-7-2013: công bố thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô

VATICAN. Thông điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô sẽ được công bố vào ngày thứ sáu 5 tha1ng 7-2013 với tựa đề ”Lumen Fidei” (Ánh sáng Đức Tin).

Thông điệp sẽ được giới thiệu với giới báo chí trong cuộc họp báo tại phòng báo chí Tòa Thánh, do ĐHY Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM, Đức TGM Gerhard Mueller, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin và Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Thông điệp được công bố bằng 6 thứ tiếng: Ý, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Bồ đào nha. Hãng tin Ansa của Italia cho biết ấn bản tiếng Ý đầu tiên của thông điệp này, 90 trang khổ nhỏ, sẽ được ấn hành với nửa triệu bản và giá bán là 3,5 Euro.

Cách đây ít lâu chính ĐTC Phanxicô cho biết Thông điệp này được viết bằng ”4 tay”, nghĩa là ĐTC Biển Đức 16 đã soạn thông điệp này nhân dịp chuẩn bị kết thúc Năm Đức Tin, nhưng rồi ngài từ nhiệm nên chưa hoàn thành và công bố. ĐTC Phanxicô dùng tài liệu đó để hoàn thành Thông điệp đầu tiên của ngài.

Báo chí Italia nhận xét rằng đây là một kỷ lục: thông điệp được ban hành chỉ có 113 ngày sau khi Đức Phanxicô bắt đầu làm Giáo Hoàng, so với 8 tháng trong trường hợp thông điệp đầu tiên của ĐTC Biển Đức 16; 5 tháng đối với Đức Gioan Phaolô 2, 8 tháng trong trường hợp Đức Gioan 23 và 14 tháng đối với Đức Phaolô 6.
Cũng ngày 1-7-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết sáng thứ hai 8-7 tới đây, ĐTC sẽ thực hiện một cuộc viếng thăm ngắn tại đảo Lampedusa ở miền cực nam Italia.

Ngài đã xúc động sâu xa vì vụ đắm tàu mới đây gần Lampesuda của những người vượt biên từ Phi châu. Đây là thảm trạng mới nhất trong một loạt những biến cố thuộc loại này.

Trong cuộc viếng thăm, ĐTC có ý cầu nguyện cho những người bị mất mạng trên biển, viếng thăm những người sống sót và những người tị nạn trên đảo Lampedusa, khích lệ dân chúng tại đảo này và kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tất cả mọi người hãy săn sóc những anh chị em này đang ở trong tình cảnh khốn cùng.
Cha Lombardi cho biết vì hoàn cảnh đặc biệt, cuộc viếng thăm của ĐTC sẽ diễn ra dưới hình thực âm thầm bao nhiêu có thể, kể cả về sự hiện diện của các GM và chính quyền địa phương, nghĩa là chỉ có sự hiện diện của Đức GM giáo phận Agrigento sở tại và thị trưởng ở đảo Lampedusa.

Theo chương trình do tòa TGM giáo phận Agrigento công bố, ĐTC sẽ khởi hành từ Roma lúc 8 giờ sáng và đến Lampedusa hơn 1 giờ sau đó. Ngài sẽ xuống thuyền có các ngư phủ Sicilia tháp tùng, và thả vòng hoa xuống biển để tưởng niệm các nạn nhân. Sau đó ĐTC sẽ đến Punta Favarolo chào thăm một nhóm người di dân. Sau cùng tại sân thể thao Arena, ĐTC sẽ cử hành thánh lễ, rồi ngài thăm giáo xứ thánh Gerlando, trước khi trở lại phi trường lúc 12 giờ rưỡi để trở về Roma.

Cha sở Stefano Nastasi ở Lampedusa cho biết cộng đoàn Công Giáo địa phương đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc viếng thăm của ĐTC. Sân thể thao ở địa phương có thẻ chứa được từ 5 đến 10 ngàn người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáo xứ Tam Biên đóng cửa, chuyển sang Nhà Thờ Kiếng cũ

Giáo xứ Tam Biên đóng cửa, chuyển sang Nhà Thờ Kiếng cũ

Thiên An/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV)Giáo dân gốc Việt cùng các sắc dân khác tại giáo xứ Tam Biên, Garden Grove, vừa tổ chức nghi thức đóng cửa, rời ngôi nhà thờ quen thuộc, để chuyển sang nhà thờ Chúa Kitô Vua (Nhà Thờ Kiếng trước đây), vào trưa Thứ Bảy, 29 Tháng Sáu.

 

Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên (trái) và Giám Mục Kevin Vann đóng cửa thánh đường Tam Biên, Garden Grove, trước sự chứng kiến của giáo dân. (Hình: Thiên An/Người Việt)

Ngôi thánh đường nổi tiếng, Nhà Thờ Kiếng, với 10,661 tấm kiếng lớn dựng thành 7 tòa nhà khác nhau trên khuôn viên rộng 34 mẫu, như vậy chính thức trở thành nhà thờ chánh tòa mới của Giáo Phận Orange, một trong 10 giáo phận lớn nhất Hoa Kỳ.

Vì khu vực Little Saigon thuộc giáo phận này, sự kiện dời giáo xứ sang nhà chính tòa hôm Thứ Bảy có ý nghĩa quan trọng với hàng chục ngàn giáo dân gốc Việt.

Bị ảnh hưởng đáng kể nhất là các cộng đoàn giáo dân tại giáo xứ Tam Biên, những người được lệnh giáo phận rời nhà thờ để sinh hoạt tôn giáo tại địa điểm mới. Tam Biên có tỉ lệ đông đảo giáo dân là người Việt Nam. Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên hiện là linh mục chánh xứ của nhà thờ.

Bên cạnh nhiều người trung niên, cao niên đã chọn giáo xứ Tam Biên từ những năm 1975 làm nơi nâng đỡ tinh thần khi chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ, còn có những em thiếu nhi được mang đến nhà thờ này để được rửa tội khi mới chào đời, rồi sau đó học tiếng Việt, tập múa với các anh chị Việt Nam. Giáo dân gốc Việt tại nơi này thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cùng chọn Tam Biên làm nơi sinh hoạt tinh thần đều đặn mỗi tuần.

Vì ngôi nhà thờ Tam Biên chứa đựng nhiều kỷ niệm quan trọng trong đời người giáo dân tại đây, từ ngày vui đám cưới đến lễ tiễn đưa người quá cố, nhiều giáo dân, và cả linh mục, nữ tu, không cầm được nước mắt trong buổi lễ chia tay thánh đường.

Nghi thức đóng cửa, dời xứ

Buổi lễ bao gồm các nghi thức cầu nguyện, chia sẻ Phúc Âm và làm dấu thánh tại các địa điểm thánh bên trong và xung quanh Thánh đường.

 

Giám Mục Kevin Vann (trái) bắt đầu Thánh lễ Công Giáo đầu tiên tại Nhà Thờ Kiếng cũ, nay là Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô Vua. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Nghi lễ do Giám Mục Kevin Vann, giám mục giáo phận, làm chủ tế. Ðồng tế có ba linh mục của giáo xứ Tam Biên và một số linh mục khách mời. Thánh lễ được cử hành bằng ba thứ tiếng: Việt ngữ, Anh ngữ, và Tây Ban Nha.

Các em thiếu nhi nam nữ gốc Việt mặc áo dài đỏ, vàng, trắng, múa mở đầu. Tiếp theo là các giám mục và linh mục tiến lên bàn thánh.

Ba linh mục của nhà thờ Tam Biên, Nguyễn Văn Tuyên, Trần Cao Thượng, và Juan B. Navarro, bắt đầu chia sẻ lời nguyện với giáo dân.

“Với niềm tin và lòng cậy tín, chúng ta sẽ có thể biến ngôi thánh đường mới thành một nơi để cùng nhau làm việc phụng thờ. Cùng nhau, chúng ta sẽ đến thánh đường mới,” Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên mở đầu phần chia sẻ bằng tiếng Anh.

Tiếp đó là phần chia sẻ bằng tiếng Việt của Linh Mục Trần Cao Thượng, nhắc lại thời gian đầu khi giáo dân gốc Việt đặt chân đến giáo xứ Tam Biên và sự gắn bó giữa cộng đồng Việt Nam và ngôi thánh đường này.

Linh Mục Thượng nói thêm: “Như các tông đồ bỏ hết để theo Chúa, hôm nay, theo lời mời gọi của giáo phận, chúng ta sẵn sàng hy sinh để cùng hy vọng, đoàn kết, xây dựng…”

Nói đến đây, nước mắt Linh Mục Thượng tuôn chảy, giọng nghẹn lại, khiến nhiều người cảm động, khóc theo.
Linh Mục Juan B. Navarro sau đó nói chuyện với giáo dân bằng tiếng Tây Ban Nha, một số giáo dân làm dấu Thánh giá, cúi đầu.

Nghi thức đóng cửa nhà thờ chính thức bắt đầu vào khoảng 1 giờ 30 phút.

 

Thiếu nhi Việt Nam múa mở đầu Thánh Lễ di chuyển giáo xứ Tam Biên. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)


Thánh giá và hương trầm được đưa đến những địa điểm khác nhau bên trong nhà thờ. Tại mỗi địa điểm, các linh mục dừng lại đôi phút để cầu nguyện cùng giáo dân. Họ làm nghi thức này đầu tiên là tại cung thánh, sau đó là tòa giải tội, giếng rửa tội, và cuối cùng là nhà nguyện.

Sau nghi thức làm dấu thánh, toàn bộ người bên trong Thánh đường được mời ra ngoài để giáo xứ chính thức đóng cửa Thánh đường. Trong lời cầu nguyện của đại diện giáo dân Mỹ, Việt, và Hispanic, Giám Mục Kevin Vann và Linh Mục Nguyễn Văn Tuyên từ từ khép lại cánh cửa ngôi nhà thờ Tam Biên.

Tiếp đó, linh mục và giáo dân đến cầu nguyện tại một số địa điểm khác, trước khi cùng lái xe sang Nhà Thờ Chánh Tòa Ki tô Vua. Các xe đều gắn nơ màu vàng lớn phía trước, nối đuôi nhau tiến vào “ngôi nhà Chúa” mới.

Vì nhà thờ chánh tòa còn đang sửa chữa, buổi lễ đầu tiên của người Công Giáo tại nơi này được diễn ra bên ngoài ngôi thánh đường.

Hàng ngàn chiếc ghế trắng muốt được xếp dài, nhưng vẫn không đủ cho số giáo dân tham dự đông đảo.
Cũng như tại buổi lễ chia tay nhà thờ Tam Biên cũ, lễ mừng ngôi Thánh đường mới thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau, thương nhớ có, hân hoan có, của các giáo dân tại đây.

Tâm tình giáo dân

Các giáo dân chia sẻ nhiều cảm xúc khác nhau, vui có, buồn có, tiếc nuối bên cạnh hân hoan, hy vọng… Mọi người đều nói “vâng theo lời giáo phận” và sẽ “cầu nguyện cho tương lai cộng đoàn Việt Nam.”
 

 

Quang cảnh Thánh Lễ tại sân Nhà Thờ Chánh Tòa Chúa Kitô Vua, Garden Grove. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Ông Nguyễn Văn Lạc, 61 tuổi, người sinh hoạt tại nhà thờ Tam Biên từ Tháng Mười, 1975, nói: “Rất là buồn, nơi đây cộng đoàn Việt Nam đã phát triển mạnh, giờ phải đi là đi thôi.”

Bà Huệ Phạm, thuộc giáo xứ Tam Biên khoảng 20 năm trước khi vừa qua Mỹ, nói: “Cũng buồn đó, bây giờ là chia ra với đông đảo các sắc dân khác, nhưng phải vâng lời thôi. Chúng ta sẽ đoàn kết, cầu nguyện cho cộng đoàn Việt Nam.” Bà cũng là một thành viên ban tổ chức nghi lễ chào mừng giáo đường mới.

Ông Nguyễn Văn Bảy, thuộc giáo xứ Tam Biên từ năm 1980, nói: “Không buồn cũng không vui, cả hai đều là nơi thờ phượng Thiên Chúa.”

Ông Vũ Tràng, một người Việt Nam mới sang, nói: “Thánh đường mới này lớn, đẹp hơn rất nhiều. Tôi mừng cho sự phát triển mạnh mẽ của giáo phận.”

Ba em nhỏ mặc áo dài truyền thống, trong độ tuổi 10 đến 14, Diana Nguyễn, Lina Thạch, và Crystal Ðinh, cùng nói: “Tụi em có nhiều kỷ niệm với nhà thờ Tam Biên lắm, nơi tụi em được mang đến rửa tội lúc mới sinh được vài tháng, rồi đi học múa, rồi sinh hoạt thiếu nhi thánh thể.”

“Nhưng không sao mà, rồi tụi em sẽ có những kỷ niệm còn đẹp hơn tại ngôi thánh đường mới này.”

Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao tấm gương của ĐGH Biển Đức 16

Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao tấm gương của ĐGH Biển Đức 16

VATICAN. ĐTC Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương ĐGH Biển Đức 16 lắng nghe và tuân theo tiếng lương tâm.
Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật 30-6-2013 với khoảng 60 ngàn tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn, ĐTC đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng Chúa nhật 13 thường niên năm C trích từ Tin Mừng theo thánh Luca (9,51-62) kể lại sự kiện Chúa Giêsu đã cương quyết lên đường đi Jerusalem, để chu toàn sứ vụ cứu độ. ĐTC Phanxicô nói:

”Tin Mừng chúa nhật hôm nay (Lc 9,51-62) trình bày một giai đoạn rất quan trọng trong cuộc đời của Chúa Kitô: như thánh Luca đã viết, đó là lúc mà ”Chúa Giêsu đưa ra quyết định quyết liệt lên đường đi Jerusalem” (9,51). Jerusalem là mục tiêu chót, nơi Chúa Giêsu, trong lễ Vượt Qua cuối cùng, phải chịu chết và sống lại, và qua đó ngài chu toàn sứ mạng cứu độ.

Từ lúc ấy, sau khi nhất quyết, Chúa Giêsu hướng thẳng tới đích, và cả những người mà ngài gặp, và họ xin theo Ngài, Chúa nói rõ đâu là những điều kiện: không có nơi ở nhất định; biết từ bỏ lòng quí mến của con người; không chiều theo sự hoài tưởng quá khứ”.

'Nhưng Chúa Giêsu cũng nói với các môn đệ, những người được ủy thác đi trước Ngài trên đường tiến về Jerusalem để loan báo là Ngài sẽ đi qua, Chúa bảo họ đừng áp đặt gì cả: nếu họ không thấy người ta sẵn sàng đón nhận Ngài, thì hãy đi tiếp, tiếp tục tiến bước.. Chúa Giêsu thật là khiêm tốn, Ngài không bao giờ áp đặt. Nếu bạn muốn, thì bạn hãy theo Ngài. Nhưng Ngài không bao giờ áp đặt”.

”Tất cả những điều đó làm cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn, điều ấy nói với chúng ta về tầm quan trọng của lương tâm, kể cả đối với Chúa Giêsu: lắng nghe lương tâm trong tâm hồn mình, tiếng nói của Chúa Cha và tuân theo. Có thể nói, Chúa Giêsu, trong cuộc sống trần thế của Ngài, Ngài không bị điều khiển từ xa: Ngài là Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa làm người, và một lúc nào đó, Ngài đi đến quyết định cương quyết lên Jerusalem lần cuối cùng; một quyết định được đề ra trong lương tâm Ngài, nhưng không phải một mình: nhưng cùng với Chúa Cha, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Cha! Ngài đã quyết định trong sự vâng phục Chúa Cha, trong sự lắng nghe sâu xa ý Cha của Ngài trong thâm tâm sâu thẳm. Và vì thế quyết định của Ngài thật là kiên cường, vì được đề ra cùng với Chúa Cha. Và trong Cha, Chúa Giêsu tìm được sức mạnh và ánh sáng cho hành trình của Ngài. Và Chúa Giêsu là người tự do. Trong quyết định ấy Ngài tự do. Chúa Giêsu muốn các tín hữu Kitô cũng tự do như Ngài, với thứ tự do đến từ cuộc đối thoại với Chúa Cha, từ cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Chúa Giêsu không muốn các tín hữu Kitô ích kỷ, họ theo cái tôi của họ, họ không nói với Thiên Chúa; Ngài cũng không muốn các tín hữu Kitô yếu nhược, không có ý chí, những Kitô hữu bị ”điều khiển từ xa”, không có khả năng sáng tạo, luôn tìm cách gắn liền với ý chỉ của một người khác, và vì thế họ không tự do. Chúa Giêsu muốn chúng ta tự do, nhưng thứ tự do ấy được thực hiện ở đâu? Thưa ở trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, trong chính lương tâm của mình. Nếu một Kitô hữu không biết nói với Thiên Chúa, không biết nghe thấy Thiên Chúa trong lương tâm, thì họ không phải là người tự do”.

Vì thế – ĐTC nói – chúng ta phải học cách lắng nghe lương tâm chúng ta hơn nữa. Nhưng xin chú ý! Điều này không có nghĩa là đi theo cái tôi của mình, làm điều mình thích, hợp với mình, làm cho mình hài lòng.. Không phải vậy! Lương tâm là không gian nội tâm của sự lắng nghe sự thật, sự thiện, lắng nghe Thiên Chúa; là nơi nội tâm quan hệ của ta với Chúa,Đấng nói với tâm hồn ta và giúp ta phân định, hiểu con đường ta phải đi, và một khi đã quyết định, thì tiến bước, trung thành với quyết định đó”.

Như một thí dụ về sự tuân phục Thiên Chúa và lương tâm, ĐGH Phanxicô trưng dẫn một chứng nhân đặc biệt và nói rằng:

”Chúng ta đã có một tấm gương tuyệt vời về quan hệ như thế với Thiên Chúa trong lương tâm của mình, một tấm gương tuyệt vời gần đây. ĐGH Biển Đức 16 đã nêu gương sáng theo nghĩa này, khi Chúa làm cho Người hiểu trong kinh nguyện, đâu là bước đường phải thực hiện. Người đã tuân theo lương tâm, với một ý thức lớn về sự phân định và can đảm, nghĩa là ý Thiên Chúa nói với con tim của Người. Và tấm gương này của người Cha chúng ta mưu ích cho tất cả chúng ta, như một tấm gương phải noi theo”.

Khi ĐTC Phanxicô nhắc đến tên ĐGH Biển Đức 16, các tín hữu đã nhiệt liệt vỗ tay. Và ngài kết luận: Đức Mẹ, trong sự đơn sơ của Mẹ, đã lắng nghe và suy niệm trong lòng chính Lời Thiên Chúa và điều này cũng xảy ra cho Chúa Giêsu. Mẹ đã theo Chúa Con với xác tín sâu xa, với niềm hy vọng vững chắc. Xin Mẹ Maria giúp chúng con ngày càng trở thành những con người của lương tâm, tự do trong lương tâm vì trong lương tâm có cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con trở thành những ngừơi nam nữ có khả năng lắng nghe tiếng Thiên Chúa và quyết liệt tuân theo”.

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc nhở rằng hôm nay tại Italia có cử hành ”Ngày bác ái của ĐGH”. Tôi muốn cám ơn các GM và tất cả các giáo xứ, đặc biệt là những giáo xứ nghèo nhất, vì lời cầu nguyện và đóng góp hỗ trợ những sáng kiến mục vụ và bác ái của Người Kế Vị Thánh Phêrô ở các nơi trên thế giới. Xin cám ơn tất cả mọi người”.

ĐTC cũng ngỏ lời chào thăm tất cả các tín hữu hành hương hiện diện, đặc biệt là đông đảo các tín hữu đến từ nước Đức. Và ngài kết luận rằng: ”Tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Tôi cầu chúc tất cả một chúa nhật tốt đẹp và dùng bữa ngon!”.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Ông Nunzio Scarano bị bắt liên quan đến ngân hàng Vatican

Đức Ông Nunzio Scarano bị bắt liên quan đến ngân hàng Vatican

 Đức Ông Nunzio Scarano,  một nhân viên của cơ quan mật vụ Ý Mr. Zito và một người môi giới tài chính Giovanni Carenzio đã bị bắt ngày 28 tháng 6-2013 trong khuôn khổ cuộc điều tra của tòa án Ý liên quan đến Viện Giáo Vụ (Ngân hàng Vatican).

Theo trang Corriere della Sera, Đức Ông Nunzio Scarano, Giám chức giáo phận Salerne ở miền Nam nước Ý, đã bị bắt. Đài truyền hình Sky TG-24 cho biết ba người bị tình nghi gian lậu và hối lộ. Việc bắt giữ ba người đã được thực hiện trong khuôn khổ của cuộc điều tra rộng lớn được tòa án Ý thực hiện vào tháng 9/2010, vốn nhắm đến vị chủ tịch của Viện Giáo Vụ là ông Ettore Gotti Tedeschi và ông Tổng giám đốc Paolo Cipriani thời đó vì đã vi phạm luật pháp liên quan đến việc rửa tiền. Hàng chục triệu tiền Euro đã bị phong tỏa để điều tra.

Đức Ông đã bị cáo buộc mang 20 triệu Euro (khoảng $26 triệu USD) bằng tiền mặt từ Thụy Sĩ vào Ý Đại Lợi bằng máy bay phản lực tư nhân. Công tố viên Nello Rossi cho biết Đức Ông Nunzio Scarano  là người trung gian, bị cáo buộc tham ô, gian lận, bắt nguồn từ một kế hoạch tổ chức tại một nhà tù tại Rome.

Trong cuộc họp báo, Công tố viên Rossi nói rằng, Ông Zito đã thuê bao một phản lực cơ bay đến Thụy Sĩ, nhưng kế hoạch đã không thành bởi vì có sự rạng nức trong nhóm. Theo dự trù thì sẽ dùng danh nghĩa của Zito làm việc cho cơ quan cảnh sát Carabinieri của Ý. Ông Zito yêu cầu phải trả tiền chi phí cho việc làm này là 600 ngàn Euros và Đức Ông Scarano đã trả trước bằng một chi phiếu 400 ngàn Euros, chi phiếu này đã được lãnh ra. Sau đó chi phiếu thứ nhì 200 ngàn Euros cũng được gởi ra, nhưng Đức Ông lại nói là mất, nên số tiền còn lại bị chận ,không được giải ngân.

Các công tố viên nói rằng họ đang điều tra số tiền này kết quả của sự trốn thuế, mặc dù họ không chắc chắn về mục đích của việc chuyển ngân vào nước Ý, vì đây là bất hợp pháp nếu mang hơn 10,000 Euros mà không khai báo.

Đức Ông Scarano hiện bị tạm giam trong nhà tù tại Naples, Carenzo bị giam tại Rome và Zito bị giam tại nhà tù quân đội gần thành phố Naples.

Trang lexpress.fr cho biết truyền thông Ý đều loan tin Đức Ông Nunzio Scarano là Giám mục, nhưng trên thực tế ngài không phải là một Giám mục, nhưng chỉ là một linh mục được ban tước Đức Ông. Trang tin này cũng cho biết Đức Ông Scarano đã bị Tòa Thánh cho ngưng việc từ khoảng một tháng nay, khi các bề trên của ngài biết rằng ngài đang bị điều tra.

Cuộc bắt giữ này diễn ra trong bối cảnh cách đây hai hôm Đức Phanxicô đã thành lập một ủy ban đặc biệt để kiểm soát các hoạt động của Viện Giáo Vụ.

Thái Trọng

Ơn gọi sống theo Chúa

Ơn gọi sống theo Chúa

Các bài đọc thánh lễ hôm nay đều qui về một chủ đề chính là “Ơn Gọi Sống Theo Chúa”, hay nói theo ngôn ngữ của bài Phúc âm hôm nay là cùng với Chúa tiến về Giêrusalem, tiến về vận mạng cuối cùng của đời Ngài và đó cũng là vận mạng của mọi đồ đệ. Khi tiến về Giêrusalem, Chúa Giêsu mạc khải cho các đồ đệ số phận hay đúng hơn sứ mệnh mà Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để thực hiện. Đó là hiến mạng sống mình trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu đã phán: “Ai muốn theo Ta thì cũng phải từ bỏ chính mình vác lấy thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Trọn cả cuộc đời của Chúa đều hướng về sứ mạng cuối cùng này tại Giêrusalem, nơi mà Ngài sẽ phải hy sinh chính mình làm giá cứu chuộc nhân loại, và mọi người đồ đệ chúng ta cũng được mời gọi cùng tiến lên Giêrusalem với Chúa để thực hiện sứ mạng của Chúa. Trên đường đi Chúa muốn kêu gọi những đồ đệ mới cùng nhập cuộc, và bài Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta nhiều thái độ phản ứng khác nhau trước lời mời gọi nhập cuộc đồng hành với Chúa tiến về Giêrusalem. Trước hết, có những người không chấp nhận chút nào cả, chối từ Ngài thẳng thừng, nhưng Chúa Giêsu không ép buộc, không trả thù, không phạt tội. Có hai tông đồ trong nhóm bực tức muốn xin Chúa lửa bởi trời xuống thiêu hủy họ để trả thù, nhưng Chúa Giêsu trách: “Các con không biết thần trí nào xúi giục. Con Người đến không phải để giết đi nhưng để cứu chữa”.

Chúa Giêsu sống và thực hiện thái độ tha thứ và sẵn sàng chấp nhận kẻ chống đối, mong họ trở về với Ngài, và trên thập giá Chúa Giêsu cũng đã thực hiện điều này: “Lạy Cha xin hãy tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Với người trộm lành ăn năn Chúa phán: “Hôm nay con sẽ lên thiên đàng cùng với Ta”. Không bao giờ Chúa thất vọng về thái độ chống đối của con người, Ngài luôn chờ đợi và kiên nhẫn chờ đợi con người.

Đối với những kẽ chấp nhận theo Chúa: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” thì Chúa Giêsu mời gọi họ hãy theo Ngài một cách cương quyết hơn, trọn vẹn hơn, chấp nhận những hy sinh từ bỏ: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu”. Theo Chúa không phải để được hưởng lợi lộc trần gian hay địa vị xã hội. Bao ơn gọi đã bị lung lay, chết khô, bị bỏ cuộc chỉ vì lúc đó không còn những lợi lộc hay địa vị để người đồ đệ Chúa hưởng thụ nữa.

Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bị điệu ra trước mặt quan tòa yêu cầu ngài từ chối đức tin không chấp nhận mình là người Kitô, là người đồ đệ của Chúa nữa để được sống thì thánh giáo phụ đã mạnh mẽ trả lời cho những quan tòa rằng: “Không, tôi không thể nào chối bỏ Chúa tôi, tôi hết lòng yêu mến Ngài”. Và trong khi quan tòa nói những lời hăm dọa thì ngài vẫn bình tĩnh nói nhỏ những lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”. Quan tòa không chịu nổi thái độ thách thức này nên ra lệnh bảo ngài im và hăm dọa: “Nếu ông không ngưng nói những lời này thì ta sẽ ra lệnh phân thây ông thành muôn mảnh ngay”. Thánh Giáo phụ Ignhaxiô bình tĩnh trả lời: “Tôi không thể ngưng yêu mến Chúa tôi. Nếu ông cắt đầu tôi, miệng tôi không nói được lời này nữa, nhưng bao lâu tim tôi còn đập thì bấy lâu lòng tôi vẫn còn nói lời yêu mến Chúa”.

Để được trung thành và kiên trì đến cùng trên con đường theo Chúa, dám liều bỏ mọi sự thì mỗi người chúng ta cần phải có tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Tình yêu này cũng không phải là do tự sức riêng của mỗi người chúng ta, nhưng là hồng ân của Chúa, là món quà Thánh Thần tình yêu mà Chúa Giêsu hứa ban và đã ban thật sự cho mỗi người chúng ta qua Bí tích Rửa tội và nhất là qua Bí tích Thêm sức. Tình yêu đó cần được nuôi dưỡng mỗi ngày một lớn thêm qua Bí tích Thánh thể, qua Mình và Máu Thánh Chúa.

Nơi bài đọc II của thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô đã khuyên anh chị em giáo đoàn Galata hãy sống theo Thánh Thần mà đối xử với nhau để được tự do khỏi làm nô lệ cho những tội lỗi. Nhờ tình yêu của Chúa Thánh Thần chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của mình, theo Chúa cho đến cùng, cho đến Giêrusalem, cho đến đồi Golgotha và phục vụ anh chị em.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Đó là lời cầu nguyện liên lỉ của các thánh, của những đồ đệ cương quyết theo Chúa cho đến cùng. Ước chi đó cũng là những lời nguyện của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”. Xin Chúa củng cố mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

Veritas Radio

Không quay đầu lại

Không quay đầu lại

Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.

Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới trói buộc.

Tiên tri Êlisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một nhà nông. Khi Thầy Êlia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Êlia kêu gọi, Êlisa đã chẻ cày làm củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi lên đường theo Thầy.

Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu còn chỗ trở về nữa.

Thái độ của tiên tri Êlisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng. Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ đừng theo xác thịt. Hơn nữa, ma quỷ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ. Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách mà ta đã nói ở đầu.

Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm cày rồi thì đừng quay lại sau lưng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh nghiệm đau đớn về điều này chưa? Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc, tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn cản bạn tiến bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Êlisa dạy ta điều gì?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

PHẢI DỨT KHOÁT THEO CHÚA

PHẢI DỨT KHOÁT THEO CHÚA

I. HOC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 9,51-62

2. Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm này gồm hai phần:

Phần thứ nhất thuật lại câu chuyện Đức Giê-su bị dân làng ở miền Sa-ma-ri từ chối không cho trọ. Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an tức giận yêu cầu được sai lửa từ trời xuống thiêu hủy làng đó. Nhưng Đức Giê-su quở mắng các ông và Thầy trò đi sang làng khác.

Phần thứ hai ghi lại ba trường hợp người ta xin đi theo làm môn đệ Đức Giê-su. Trong mỗi trường hợp Đức Giê-su đều đòi người ta phải chọn lựa dứt khoát như sau:

+ Đối với kẻ thứ nhất xin theo, Người đòi anh ta phải chấp nhận cuộc sống thiếu thốn vật chất và không ổn định.

+ Với người thứ hai, Đức Giê-su đòi anh ta phải coi nhẹ bổn phận lo cho gia đình để ưu tiên lo công việc của Chúa.

+ Còn người thứ ba, Đức Giê-su đòi anh ta một trái tim không san sẻ, để chỉ lo phục vụ Nước Thiên Chúa mà thôi.

3. CHÚ THÍCH:

– C 51-52): + Được rước lên trời: Đây là thành ngữ ám chỉ cái chết cũng như cuộc lên trời của Đức Giê-su (Tin Mừng Lu-ca 9,31 chú thích về cuộc xuất hành của Người). + Nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem: Lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc Vượt Qua. + Vào một làng người Sa-ma-ri: Người Do Thái tránh giao thiệp với người Sa-ma-ri và còn khinh dễ họ, vì họ không còn thuần chủng nữa, và vì niềm tin của họ đã có nhiều dị biệt với người Do thái. Nhưng Đức Giê-su lại cố ý vào trọ trong một làng người Sa-ma-ri. Điều này cho thấy Người chính là chủ chiên đến để tìm chiên lạc và đưa về đàn. Về sau, trước khi lên trời, Đức Giê-su truyền cho các Tông Đồ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, trong đó có dân Sa-ma-ri (x. Cv 1,8). Các ông đã vâng lời Người: Phi-líp-phê loan báo Tin Mừng ở Sa-ma-ri (x. Cv 8,5). Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem cũng cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ (Cv 8,14).

C 53-56: + Dân làng không đón tiếp: Người Sa-ma-ri có ác cảm với người Do thái, đặc biệt những ai đi hành hương lên Giê-ru-sa-lem. + Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy…?: Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an được gọi là “con của sấm sét” (x. Mc 3,17). Hai ông mới được nhìn thấy ngôn sứ Ê-li-a trong cuộc biến hình của Đức Giê-su (x. Lc 9,28-36), nên giờ đây muốn dùng hình phạt mà giáng xuống trên kẻ thù giống như vị ngôn sứ này đã làm (x. 2V 1,10-12). + Quở mắng các ông: Đức Giê-su muốn các môn đệ hành xử theo giáo huấn mà Người đã dạy về cách đối xử với kẻ thù: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình (x. Lc 6,27-35). + Và Người nói với các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”: Đức Giê-su dạy cho các môn đệ biết việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Đức Giê-su xuống thế gian để kiện toàn luật Mô-sê là luật cho phép trả thù những kẻ làm hại mình. Đối với Đức Giê-su: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa của tình thương. Tình thương thay thế hận thù, tha thứ thay thế báo oán và trừng phạt. Đó chính là tinh thần mà các môn đệ phải học tập cho bằng được. + Thầy trò đi sang làng khác: Điều này nói lên sự nhẫn nhịn của Đức Giê-su đối với những kẻ đối xử không tốt với mình.

C 57-58: + Thầy trò còn đang đi trên đường, thì có kẻ thưa Người rằng: Lu-ca ghi lại ở đây ba trường hợp về ơn kêu gọi theo Chúa. Trong ba trường hợp này thì hai trường hợp được Mát-thêu thuật lại khi Đức Giê-su bắt đầu đi giảng đạo ở Ga-li-lê (x. Mt 6,19-22). Còn trường hợp thứ ba chỉ có trong Tin Mừng Lu-ca. Qua ba trường hợp này, Lu-ca muốn trình bày những đòi hỏi dứt khoát đối với những ai muốn làm môn đệ của Đức Giê-su. + “Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo… Con chồn có hang…”: Người này tự ý xin theo làm môn đệ và sẽ đi đến bất cứ nơi nào. Nhưng Đức Giê-su cho anh ta thấy cuộc sống khó nghèo và thiếu ổn định. “Không có chỗ dựa đầu”, nghĩa là không có sự bảo đảm về vật chất như một con thú rừng!

C 59-60: + “Xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, người xin làm môn đệ ngỏ lời trước (x. Mt 8,21-22), còn trong Tin Mừng Lu-ca, chính Đức Giê-su kêu gọi anh ta trước. Anh ta tỏ thái độ thiếu dứt khoát qua lời cầu xin về nhà phụng dưỡng cha. Đợi đến khi cha chết và được mai táng, rồi anh ta mới đi theo. Ở đây không nhất thiết là cha anh ta mới chết sắp đem đi chôn. Vì tại Pa-les-tin việc chôn cất một người chết phải thực hiện ngay trong ngày, nên khó mà nghĩ rằng Đức Giê-su lại không đồng ý cho anh ta lưu lại vài giờ để chôn cất cha cho tròn chữ hiếu. + “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”: Chắc chắn Đức Giê-su không cho bổn phận hiếu thảo với cha mẹ là không đáng kể (x. Mt 15,5-9 ; 1 Tm 5,8). Nhưng khi phải lựa chọn giữa tình thân gia đình với sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, thì Người đòi môn đệ phải ưu tiên chọn đi theo Chúa.

4. CÂU HỎI: 1) Khi dùng thành ngữ “Được rước lên trời”, tác giả Luca muốn ám chỉ điều gì về cuộc xuất hành của Người? 2) Đức Giê-su nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem để làm gì? 3) Tại sao người Do Thái tránh giao thiệp và còn khinh dể người Sa-ma-ri, trái ngược với Đức Giê-su sẵn sàng đến với họ? Hãy kể ra một số trường hợp cụ thể Người đã làm? 4) So sánh phản ứng cua hai môn đệ Gia-cô-bê Gio-an va cua Đức Giê-su trước sự từ chối đón tiếp của dân làng Sa-ma-ri? Đức Giê-su muốn môn đệ Người phải phản ứng thế nào? 5) Người dạy và hành xử thế nào để nêu gương nhẫn nhịn cho các ông? 6) Hãy kê ba trường hợp người ta xin đi theo làm môn đệ Đức Giê-su và đòi hỏi của Người với mỗi người như thế nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9,60).

2. CÂU CHUYỆN:

Một vị linh sư Ấn độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông thì có một thanh niên ăn mặc bảnh bao đến xin làm đệ tử. Anh ta rón rén đến bên và đặt dưới chân vị linh sư hai viên ngọc quí để làm lễ vật ra mắt. Vị linh sư cầm lấy một viên và ném xuống sông. Tiếc của, anh thanh niên giàu có vội nhảy xuống sông và lặn xuống đáy hồ cố tìm lấy lại viên ngọc quí giá. Nhưng sau một ngày vất vả tìm kiếm mà viên ngọc vẫn biệt tăm. Chiếu đến, với vẻ mặt thất vọng, anh thanh niên đến chỗ vị linh sư xin chỉ đích xác chỗ đã ném viên ngọc. Bấy giờ vị linh sư liền cầm viên ngọc thứ hai, lại ném xuống sông và nói: “Ta đã ném vào chỗ đó. Anh hãy lặn xuống mà tìm”. Chàng thanh niên hiểu rằng thầy muốn anh phải bỏ lòng ham mê của cải như một điều kiện tiên quyết để theo học với thầy.

3. SUY NIỆM:

Qua 3 trường hợp theo Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đòi hỏi những kẻ muốn theo Người cũng phải có thái độ từ bỏ dứt khoát như thế:

+ Người thứ nhất xin theo Đức Giê-su đến bất cứ nơi nào. Những người đòi anh phải chọn lựa: theo Thầy thì phải biết chấp nhận nay đây mai đó, không có chỗ gối đầu.

+ Người thứ hai được Đức Giê-su kêu gọi đã sẵn sàng đi theo. Nhưng anh ta xin về nhà phụng dưỡng cha già, đến khi cha chết rồi mới đi theo. Nhưng Người đòi anh phải dứt khoát chọn đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.

+ Người thứ ba xin đi theo Đức Giê-su, nhưng xin được về nhà từ giã gia đình trước đã. Nhưng Người đòi anh ta phải chọn lựa, dứt khoát với tình cảm gia đình: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”.

Thực ra, Đức Giê-su rất coi trọng việc hiếu kính cha mẹ (x. Mt 15,4). Nhưng Người cũng dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa (x. Lc 14,26).

Nhìn lại mình, chúng ta thường hay chọn mình, chọn theo sở thích của mình, gia đình của mình… đang khi Đức Giê-su lại dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người. Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

4. THẢO LUẬN: 1) Trong cuộc sống hàng ngày, hãy kể ra ba điều bạn cho là quan trọng và cần thiết phải làm ngay. Tại sao? 2) Sống đúng tinh thần khoan dung của Đức Giê-su dễ hay khó? Tại sao? 3) Bạn quyết tâm sẽ phản ứng thế nào khi bị kẻ khác đối xử không tốt để xứng đáng làm môn đệ Đức Giê-su?

5. NGUYỆN CẦU

1) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Giàu sang, danh vọng, khoái lạc… là những điều hấp dẫn chúng con và trói buộc không cho chúng con ngước đầu lên cao. Xin giải thoát chúng con khỏi sự say mê tìm kiếm kho tàng ở dưới trần gian, để ưu tiên tìm Nước Thiên Chúa. Lạy Chúa. Ước gì chúng con có thái độ dứt khoát hy sinh những gì đang có, để mua được viên ngọc quí giá là Nước Trời. Ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước lời mời gọi của Chúa dành cho chúng con.

2) LẠY CHÚA. Con cảm thấy Chúa đòi hỏi những ai muốn đi theo làm môn đệ Chúa hơi nhiều: Vì Chúa không có chỗ dựa đầu, nên Chúa đòi con phải biết hy sinh, sống đơn sơ và phó thác. Chúa còn muốn con phải tận lực rao truyền Triều Đại Thiên Chúa. Chúa đòi con phải đặt tình cảm gia đình sau bổn phận theo Chúa. Thật đúng như lời Chúa dạy: “Ai muốn theo Thầy phải bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà đi theo Thầy. Nếu chỉ dựa vào sức riêng tự nhiên, chắc là con khó đi theo Chúa. Nhưng nếu có ơn Chúa giúp con tin mình sẽ làm được mọi sự. Xin giúp con sống quảng đại với Chúa như Chúa đã từng quảng đại với con. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn quên mình và nghĩ tới người khác, để con xứng đáng trở nên môn đệ đích thực của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM Đan Vinh

NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

 NGƯỜI KHÔNG NHÌN LẠI

Chủ đề: “Bí quyết để không nhìn lại là hướng về Đức Giêsu”

Vào năm 1924, ông Eric Liddell là lực sĩ chạy bộ 100 thước nhanh nhất nước Anh. Ai ai cũng tin rằng ông sẽ giựt huy chương vàng Thế Vận Hội ở Balê vào năm đó. Nhưng đột nhiên có vấn đề làm xôn xao dư luận.

Khi chương trình Thế Vận Hội được quảng bá, cuộc chạy đua 100 thước lại xảy ra vào ngày Chúa Nhật. Với ông Eric, giới răn “giữ ngày Chúa Nhật thánh thiện” có nghĩa ông không được chạy đua vào ngày Chúa Nhật. Ông thật buồn.

Khi tin đồn khắp nơi là ông Eric sẽ không dự cuộc đua 100 thước, bao nhiêu áp lực đổ lên ông. Ngay cả Hoàng Tử xứ Wales cũng cố can thiệp vào lương tâm của ông. Khi ông quyết định từ chối tham dự cuộc đua, báo chí Anh quốc gọi ông là kẻ phản quốc. Nhưng ông Eric vẫn từ chối không muốn đi ngược với điều ông tin tưởng.

Ông gặp các huấn luyện viên và đề nghị một toán lực sĩ sẽ thay ông chạy đua 100 thước. Còn ông sẽ tham dự cuộc đua 400 thước, dù rằng chưa bao giờ trong đời ông tham dự loại này.

Để rút ngắn câu chuyện, không những ông Eric đã đoạt huy chương vàng cuộc đua 400 thước mà toàn đội của ông cũng đoạt huy chương vàng cuộc đua 100 thước. Thay vì chỉ được một huy chương vàng, các lực sĩ chạy đua của nước Anh đã đoạt được hai huy chương vàng.

Một vài năm sau Thế Vận Hội, ông Erich làm thế giới ngạc nhiên khi ông tình nguyện sang Trung Quốc truyền giáo. Sau đó, người yêu của ông cùng tham gia với ông. Họ kết hôn và có được ba người con xinh đẹp.

Sau đó Thế Chiến II xảy ra, khi nước Nhật tham dự cuộc chiến, ông Eric đưa gia đình sang Gia Nã Đại. Sau đó không lâu, Nhật xâm lăng Trung Quốc. Ông Eric bị bắt và bị đưa vào trại tập trung của Nhật. Ở đây ông tiếp tục sứ vụ, làm việc với các tù binh khác.

Một vài năm sau, ông từ trần một cách anh hùng trong trại tù.

Sau cái chết của ông, vợ ông nhận được rất nhiều lá thư nói về cử chỉ anh hùng của ông Eric khi ở trong trại. Trong các thư khác, có hai người viết là nhờ ông Eric mà họ đã không tự tử.

Vào năm 1980 có người muốn thực hiện cuốn phim về ông Eric và Thế Vận Hội 1924. Khi vợ ông nghe được, lúc ấy bà đang sống ở Toronto, bà nói, “Có ai để ý đến một biến cố xảy ra đã quá lâu về một người không muốn chạy đua vào ngày Chúa Nhật chỉ vì đức tin Kitô Giáo?”

Kết quả không ngờ là cả hàng triệu người muốn lưu ý. Cuốn phim, được gọi là Chariots of Fire, không chỉ phá kỷ lục số vé bán mà còn chiếm Giải Academy năm 1982.

Câu chuyện của ông Eric Liddell cho thấy khía cạnh tích cực của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay. Chúa Giêsu nói:

Ai bắt đầu cầy cấy mà còn nhìn lại thì không phục vụ cho Nước Trời.”

Ông Eric Liddel không bao giờ nhìn lại. Một khi ông đã quyết định theo Chúa Giêsu, ông luôn nhìn tới trước. Ông không bao giờ nhìn lại, ngay cả khi phải đương đầu với áp lực của quần chúng. Ông không bao giờ nhìn lại ngay cả khi bị gọi là kẻ phản quốc.

Bí quyết nào giúp ông Eric can đảm không bao giờ nhìn lại?

Bí quyết nào giúp ông trung thành với Chúa Giêsu, ngay cả khi phải đương đầu với sự chống đối trùm lấp?

Bí quyết này nằm trong sự nhận xét của bà quả phụ Eric khi được tờ Toronto Star phỏng vấn. Nói về ông Erich, bà cho biết, “Ông ta luôn luôn dùng giờ phút đầu tiên, thật sớm của một ngày để đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hoạch định chương trình trong ngày.”

Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự can đảm của ông Eric. Đó, chúng ta đã có bí quyết đằng sau sự trung thành của ông đối với Chúa Giêsu. Ông Erich Liddell là một người siêng cầu nguyện. Ông đã có thể luôn cầm lấy cái cầy và không nhìn lại đằng sau vì mỗi sáng ông đều gặp Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện.

Vào năm 1982, cùng năm cuốn phim Chariots of Fire được Giải Academy, có một bài báo đăng trong tờ Reader’s Digest. Bài này nói về một giám đốc quảng cáo người Công Giáo, dù rất thành công, bà vẫn cảm thấy cuộc đời trống rỗng.

Một sáng kia, trong cuộc họp với ông cố vấn về tiếp thị, bà đề cập đến sự trống rỗng này.

Ông cố vấn hỏi, “Bà có muốn lấp đầy nó không?” “Dĩ nhiên là có,” bà trả lời. Ông nhìn thẳng vào mắt bà và nói, “Hãy bắt đầu mỗi ngày với một giờ cầu nguyện.”

Bà nhìn ông và nói, “Này ông Don, ông không đùa đấy chứ. Nếu tôi làm như vậy thì còn thời giờ đâu để nghỉ ngơi.” Ông mỉm cười và nói, “Đó cũng là điều mà tôi đã nói cách đây 20 năm.” Sau đó ông nói thêm vài điều khiến bà phải suy nghĩ. Ông nói, “Bà chỉ muốn Thiên Chúa phải phù hợp với chương trình của bà. Thật ra, bà phải thay đổi cuộc đời bà theo chương trình của Thiên Chúa.”

Bà rời cuộc họp trong sự bối rối. Mỗi sáng bắt đầu bằng sự cầu nguyện sao? Mỗi sáng bắt đầu bằng một giờ đồng hồ cầu nguyện sao? Tuyệt đối không thắc mắc!

Dù vậy, vào sáng hôm sau bà đã thi hành đúng như vậy. Và kể từ đó trở đi bà luôn luôn cầu nguyện vào sáng sớm.

Bà thú nhận là lúc đầu điều đó không dễ. Có những sáng bà cảm thấy bình an và vui sướng. Nhưng cũng có những sáng bà chẳng thấy gì ngoài sự buồn chán. Và chính những sáng mệt mỏi này bà nhớ lại những điều mà ông cố vấn tiếp thị đã nói: “Có những lần khi tâm trí bà không muốn đi vào cung thánh của Thiên Chúa. Đó là khi bà phí một giờ đồng hồ trong phòng chờ đợi Thiên Chúa. Tuy nhiên, bà vẫn cố ở đó, và Thiên Chúa quý trọng sự cố gắng của bà. Điều quan trọng là lời hứa.”

Câu chuyện của ông Eric Liddell và bà giám đốc quảng cáo đã thách đố chúng ta. Chúng ta không thể chỉ nghe qua những câu chuyện này và không cảm thấy một tiếng nói bên trong mời gọi chúng ta thi hành điều gì đó tương tự trong đời sống chúng ta.

Nếu chúng ta có khó khăn khi phải để ý đến Chúa Giêsu, nếu chúng ta có khó khăn nắm chặt cái cầy và đừng nhìn lại đằng sau, nếu chúng ta cảm thấy cuộc đời trống rỗng, có lẽ chúng ta phải nghĩ đến lời hứa hằng ngày với Chúa Giêsu.

Lời hứa đó phải là gì? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó cho chúng ta. Chúng ta phải tự trả lời. Nhưng chúng ta phải thi hành điều gì đó. Như ông cố vấn tiếp thị đã nói, “Điều quan trọng là lời hứa.”

Hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin dạy con biết quảng đại.
Xin dạy con biết phục vụ Chúa cách xứng đáng;
biết cho đi mà không quan tâm đến giá cả;
biết tranh đấu mà không để ý đến thương tích;
biết cần cù mà không tìm sự an nhàn;
biết lao nhọc và không tìm phần thưởng,
ngoại trừ được biết là con đang thi hành thánh ý Chúa
.”

LM Mark Link, SJ

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho 34 vị Tổng Giám Mục chính tòa

Đức Thánh Cha trao giây Pallium cho 34 vị Tổng Giám Mục chính tòa

VATICAN. Sáng 29-6-2013, ĐTC Phanxicô đã chủ sự thánh lễ mừng kính Thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ và trao dây Pallium cho 34 vị TGM chính tòa.

Dây Pallium là dây làm bằng lông chiên màu trắng, có 6 hình thánh giá màu đen, biểu tượng quyền của vị TGM đứng đầu giáo tỉnh và sự hiệp thông với người kế vị Thánh Phêrô.

34 vị TGM thuộc 21 quốc tịch, trong đó đông nhất là 4 vị người Mỹ (San Francisco, Indianapolis, Oregon, Dubuque) và 3 vị người Italia; tiếp đến Brazil, Ấn độ và Ba Lan mỗi nước có 2 vị. Trong số các TGM, có 7 vị thuộc các dòng tu: gồm 2 vị dòng Don Bosco, 2 vị dòng Thừa Sai Chúa Thánh Thần, các vị còn lại thuộc dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (S.C.I), dòng Camêlô nhặt phép, và một vị nguyên là Bề trên Tổng Quyền dòng Chúa Cứu Thế, Joseph Tobin, từng làm Tổng thư ký Bộ các dòng tu, và nay là TGM giáo phận Indianapolis, Hoa Kỳ.
Hiện diện trong thánh lễ có 50 HY và hơn 60 GM, cùng với trên 8 ngàn tín hữu. Đặc biệt ở chỗ danh dự có phái đoàn của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople do Đức TGM Ioannis Zizioulas hướng dẫn. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn ca đoàn Nhà thờ thánh Tôma ở thành phố Leipzig của Giáo Hội Tin Lành Luther.

Nghi thức trao dây Pallium thật đơn sơ và diễn ra vào đầu thánh lễ. ĐHY Jean Louis Tauran, Trưởng Đẳng Phó Tế, giới thiệu các vị TGM chính tòa lên ĐTC và xin ngài trao dây Pallium cho các vị. ĐHY cũng nhắc đến các vị TGM không thể đến Roma được và xin được nhận dây Pallium này trong giáo phận thuộc quyền, từ vị Đại diện Tòa Thánh. Đây là trường hợp Đức Cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng, TGM chính tòa giáo phận Huế.
Kế đến các TGM tuyên thệ luôn trung thành và vâng phục Thánh Phêrô Tông Đồ, Tòa Thánh, Giáo Hội, ĐTC và các Đấng Kế vị hợp pháp.

Tiếp đến ĐTC làm phép các dây Pallium và lần lượt trao vào cổ của các vị TGM tiến lên quì trước ngài.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng thánh lễ, dựa vào các bài đọc của ngày lễ, ĐTC quảng diễn sứ vụ Phêrô là củng cố các anh em trong đức tin, trong đức mến và trong tình hiệp nhất.

Nhắc đến sự kiện thánh Phêrô tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng ít lâu sau đó, khi Chúa Giêsu báo trước cuộc khổ nạn của Người, thì thánh Phêrô lại theo lối suy tư trần tục, muốn cản trở Người. Và ĐTC nói rằng: ”Khi chúng ta để cho những tư tưởng, tình cảm, tiêu chuẩn quyền bính nhân trần trổi vượt, và khi chúng ta không để cho đức tin, cho Thiên Chúa giáo huấn và hướng dẫn, thì chúng ta trở thành viên đá vấp phạm. Đức tin nơi Chúa Kitô là ánh sáng cho đời sống các tín hữu Kitô và các thừa tác viên của Giáo Hội”.

Về sứ vụ của thánh Phêrô củng cố trong tình hiệp nhất, ĐTC giải thích dây Pallium như biểu tượng tình hiệp nhất với Người Kế Vị Thánh Phêrô, là ”nguyên lý và là nền tảng trường cửu và hữu hình của sự hiệp nhất đức tin và tình hiệp thông, LG 18). Ngài nói với các vị TGM:

”Anh em GM thân mến, sự hiện diện của anh em hôm nay là dấu chỉ tình hiệp thông của Giáo Hội không có nghĩa là sự đồng nhất… Trong Giáo Hội, sự khác biệt là một sự phong phú cao độ, luôn dựa trên sự hòa hợp của hiệp nhất, như một bức tranh khảm lớn trong đó mọi mảnh đều góp phần hợp thành một đại kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Điều này phải thúc đẩy chúng ta luôn khắc phục mọi xung đột làm thương tổn thân mình của Giáo Hội. Hiệp nhất trong sự khác biệt chính là con đường của Chúa Giêsu! Dây Pallium, nếu là dấu chỉ sự hiệp thông với GM Roma, với Giáo Hội hoàn vũ, cũng là một quyết tâm đối với mỗi người anh em trở thành dụng cụ của sự hiệp thông”.

Kinh Truyền Tin

Sau thánh lễ, lúc 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin với khoảng 35 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ ngắn, ngài nói đến ”Thánh Phêrô là vị đầu tiên đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Còn Thánh Phaolô đã phổ biến Tin Mừng trong thế giới Hy lạp La Mã. Và Chúa Quan Phòng đã muốn hai vị đến Roma này đổ máu vào vì đức tin. Vì thế, Giáo Hội Roma đã tự nhiên trở thành điểm tham chiếu cho tất cả các Giáo Hội rải rác trên thế giới. Không phải vì quyền lực của Đế Quốc, nhưng do sức mạnh cuộc tử đạo của hai vị, do chứng tá của hai vị về Chúa Kitô. Xét cho cùng, luôn luôn và chỉ có tình yêu của Chúa Kitô sinh ra đức tin và làm cho Giáo Hội tiến bước”.

ĐTC cũng nhắc đến một truyền thống tốt đẹp, đó là sự hiện diện của Phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, có vị bổn mạng là thánh Anrê Tông đồ. ”Tất cả chúng ta hãy gửi lời chào thân ái đến Đức Thượng Phụ Bartolomaios I và cầu nguyện cho Người và Giáo Hội tại Constantinople. ĐTC cũng mời gọi người đọc một kinh Kính Mừng để cầu cho Đức Thượng Phụ.”

Sau khi đọc kinh Truyền Tin và ban phép lành, ĐTC xin các tín hữu cầu nguyện cho các vị TGM chính tòa mới nhận dây Pallium, biểu tượng tình hiệp thông. Ngài nói: ”Trong số các vị có Đức TGM Diedonné Nzapalainga, của giáo phận Bangui, thủ đô cộng hòa Trung Phi. Chúng ta hãy nhớ cầu nguyện cho cộng đồng dân chúng ở Trung Phi, bị thử thách cam go, để họ tiến bước trong niềm tin và hy vọng”.

Quốc gia này đã bị tàn phá vì bạo lực do phiến quân Séléka, sau cuộc đảo chánh ngày 24-3 năm nay, đưa thủ lãnh phiến quân là Michel Djotodia lên cầm quyền. Nhiều thánh đường cũng như nhà dân chúng đã bị cướp bóc (SD 29-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople

Đức Thánh Cha tiếp phái đoàn Tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái khẳng định sự cấp thiết của sự hiệp nhất các tín hữu Kitô để làm cho chứng tá chung của các tín hữu đáng tin.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 28-6-2013 dành cho phái đoàn của tòa Thượng Phụ Chính Thống Constantinople, là tòa đứng đầu trong Chính Thống giáo, đến Roma để viếng thăm Tòa Thánh nhân dịp lễ kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Đồ, theo một truyền thống từ 44 năm qua (1969).

Phái đoàn do Đức TGM Ioannis Zizioulas của giáo phận Pergamo hướng dẫn. Ngài cũng là Đồng Chủ tịch Ủy ban hỗn hợp quốc tế đối thoại thần học giữa Chính Thống và Công Giáo. Cùng đi với Đức TGM có Đức Cha Sinope Athenagoras, phụ tá Đức TGM Chính Thống giáo tại Bỉ, và Tổng LM Prodromos Xenakis, Phó Tổng thư ký của Thánh Hội đồng giáo phận Chính Thống tại đảo Creta.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC nói: ”Việc tìm kiếm sự hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô là điều ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta không thể tránh né. Trong thế giới chúng ta ngày nay người ta đang khao khát sự thật, tình thương, hy vọng, hòa bình và hiệp nhất, điều quan trọng là, nhờ chính chứng tá của chúng ta, có thể loan báo bằng cùng một tiếng nói Tin Mừng và cùng nhau cử hành các mầu nhiệm thánh của đời sống mới trong Chúa Kitô! Chúng ta biết rằng hiệp nhất trước tiên là một hồng ân của Thiên Chúa mà chúng ta phải không ngừng cầu xin, nhưng tất cả chúng ta cũng có nghĩa vụ phải chuẩn bị những điều kiện, vun trồng môi trường thuận tiện trong tâm hồn, để ân phúc đặc biệt này được đón nhận”.

ĐTC cũng đề cao tầm quan trọng của sự đối thoại thần học giữa Công Giáo và Chính Thống qua Ủy ban quốc tế đối thoại thần học. Ủy ban này đã công bố nhiều văn kiện chung và ngày nay đang cùng nhau suy tư về những đề tài liên quan đến những điểm tương đồng, không quên những điều còn chia cách chúng ta. Ngài nói:

”Tôi cảm thấy được an ủi khi biết rằng các tín hữu Công Giáo và Chính Thống có cùng quan niệm về việc đối thoại: không phải để tìm kiếm những điểm tối thiểu về thần học để đạt tới một thỏa hiệp với nhau, nhưng dựa trên sự đào sâu về chân lý duy nhất mà Chúa Kitô đã ban cho Giáo Hội của Ngài và chúng ta không bao giờ hiểu rõ hơn về những sự đánh động của Chúa Thánh Linh. Vì thế, chúng ta không bao giờ được sự gặp gỡ và đối thoại chân thành”.

ĐTC ám chỉ tới sự kiện nhiều Giáo Hội Tin Lành có quan niệm khác biệt về đối thoại đại kết. Theo họ đối thoại không phải để giải quyết các vấn đề đạo lý, nhưng chỉ tìm điểm chung tối thiểu để gọi là hiệp nhất với nhau.
Sáng thứ bẩy 29-6-2013, Phái đoàn Chính Thống sẽ tham dự thánh lễ kính thánh Phêrô và Phaolô do ĐTC Phanxicô cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô và trao giây Pallium cho 34 vị Tổng GM chính tòa của 21 quốc gia.
Đức TGM Huế, Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng, cũng có tên trong danh sách các vị nhận dây Pallium, nhưng ngài xin nhận giây này tại Huế do Đức TGM Leopoldo Girellia đại diện ĐTC trao. (SD 28-6-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Ngày bi thảm cho Hôn Nhân ở Hoa Kỳ

Ngày bi thảm cho Hôn Nhân ở Hoa Kỳ

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ngày 26 tháng 6 đã phán quyết với tỷ lệ 5-4 một phần quan trọng của Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân (DOMA: Defense of Marriage Act) là vi hiến, chính phủ liên bang phải công nhận những "hôn nhân đồng tính" cuả các tiểu bang.

Tư pháp Anthony Kennedy, viết cho đa số như sau: Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân "vi phạm thủ tục cơ bản và nguyên tắc được bảo vệ công bình".

Tòa án nói rằng phần 3 của DOMA, định nghĩa hôn nhân như sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, vi phạm sự bảo đảm bình đẳng của Hiến pháp Hoa Kỳ.

"Hiệu lực thực tế của bộ luật này là áp đặt một bất lợi, một tình trạng phân biệt đối xử, và do đó, một sự kỳ thị trên tất cả những ai tham gia vào những cuộc hôn nhân đồng tính được hợp pháp hoá bởi quyền lực không thể tranh cãi cuả các Tiểu Bang HK".

Tư Pháp Antonin Scalia, đại diện cho thiểu số bất đồng, đã bác bỏ giả định của phe đa số là bộ luật có mục đích "chê bai", "làm tổn thương", "xuống cấp", "hạ thấp" và "làm nhục" cá nhân đồng tính.

Thay vào đó, ông giải thích, DOMA "chỉ làm một việc là hệ thống hóa một khía cạnh của hôn nhân mà xã hội của chúng ta chưa từng bao giờ đặt câu hỏi trong hầu hết lịch sử của nó – Thực ra, hầu như tất cả các xã hội trong tất cả lịch sử nhân loại cũng đã không bao giờ đặt câu hỏi như thế"

"Nếu một xã hội muốn có thay đổi thì đó là một điều," ông nói, "nhưng lại là một điều khác khi mà một tòa án dùng pháp luật để áp dụng thay đổi" bằng cách tuyên bố những người chống đối (hôn nhân đồng tính) là "kẻ thù của nhân loại."

Những người phản đối "hôn nhân đồng tính" đã lên tiếng lo ngại về quyền tự do tôn giáo nếu hôn nhân được định nghĩa lại.

ở các tiểu bang công nhận "hôn nhân đồng tính," các cơ sở bác ái xã hội cuả Công Giáo đã bị buộc phải đóng cửa vì chỉ đặt con nuôi cho một gia đình có một người mẹ và một người cha. Các cơ quan phi lợi nhuận và chủ doanh nghiệp tư nhân cũng đã phải đối mặt với nhiều áp lực và các vụ kiện buộc họ phải công nhận hôn nhân đồng tính, đi ngược với với niềm tin tôn giáo của họ.

Hậu quả cuả phán quyết về hôn nhân này sẽ có những tác động sâu rộng, vì luật DOMA có ảnh hưởng đến hơn 1.000 luật của liên bang và cả một khối to lớn cuả các quy định liên bang khác.

Cùng ngày, Tòa án tối cao cũng bác bỏ đơn kháng cáo bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California (California’s Proposition 8)

Nhắc lại sau khi một tòa án California phán quyết rằng "hôn nhân đồng tính" phải được công nhận trong tiểu bang, những người bảo vệ hôn nhân đã phát động một chiến dịch sửa đổi hiến pháp để công nhận hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ.

Trưng Cầu Dân Ý số 8 đã được phê duyệt bởi cử tri nhưng nhanh chóng bị thách thức tại tòa án. Một tòa cấp dưới đã phán quyết rằng các đề xuất là không hợp hiến, và trường hợp được kháng cáo lên toà trên.

Tòa án tối cao đã bác bỏ kháng cáo dựa trên cơ sở kỹ thuật chứ không phải là trên cơ sở giá trị, có nghĩa là phán quyết của tòa cấp dưới bãi bỏ Trưng Cầu Dân Ý số 8 vẫn có hiệu lực. Nói cách khác vấn đề 'hôn nhân đồng tính' sẽ được đấu lại tại California.

Theo phán quyết này, các tiểu bang có thể chọn định nghĩa hôn nhân cho phù hợp với mình. Về các tiểu bang hợp pháp hóa "hôn nhân đồng tính" thì chính phủ liên bang phải công nhận giá thú cuả họ. Hiện nay, chỉ có 12 tiểu bang và District of Columbia công nhận "hôn nhân đồng tính".

Hội Đồng Giám Mục HK, Đức Hồng Y Timothy Dolan của New York, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ, và Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco, Chủ tịch Tiểu ban khuyến khích và bảo vệ hôn nhân, đã nhanh chóng ra một tuyên bố về phán quyết cuả Tối Cao Pháp Viện là một “Ngày bi thảm cho Hôn Nhân và cuả Quốc Gia"
 
Lời tuyên bố như sau.

"Hôm nay là một ngày bi thảm cho hôn nhân và cuả đất nước chúng ta. Tòa án Tối cao đã thực hiện một sự bất công sâu sắc cho người dân Mỹ bằng cách bác bỏ một phần của bộ luật Bảo Vệ Hôn Nhân cuả Liên Bang. Tòa án đã làm sai. Chính phủ liên bang phải tôn trọng sự thật rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, ngay cả khi các tiểu bang không làm như vậy. Việc bảo tồn tự do và công lý đòi hỏi tất cả các luật lệ, dù là cuả liên bang hay tiểu bang, phải tôn trọng sự thật, kể cả sự thật về hôn nhân. Cũng là bất hạnh khi mà Tòa án đã không nắm lấy cơ hội để bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California mà thay vào đó quyết định không đưa ra phán quyết nào về vấn đề này. Lợi ích chung của tất cả mọi người, đặc biệt là cuả các con em cuả chúng ta, phụ thuộc vào một xã hội có sự cương quyết để duy trì sự thật về hôn nhân. Bây giờ là thời gian để nỗ lực hơn nữa trong việc làm chứng cho sự thật này. Những quyết định này là một phần của một cuộc tranh luận chung có những hậu quả nghiêm trọng. Tương lai của hôn nhân và hạnh phúc của xã hội chúng ta đang bị treo trên một sợi dây đu.

"Hôn nhân là định chế duy nhất, kết hợp một người nam và một người nữ trong cuộc sống, cung cấp một nền tảng vững chắc là Có Cha Có Mẹ cho mọi đứa trẻ sinh ra từ sự kết hợp của họ.

"Nền Văn hóa của chúng ta đã quá lâu khinh thường những gì đã được xác nhận qua bản chất cuả con người, kinh nghiệm, sự hợp lẽ, và qua sự thiết kế khôn ngoan của Thiên Chúa: đó là sự khác biệt giữa một người nam và một người nữ là quan trọng, và sự khác biệt giữa một người mẹ và một người cha cũng là quan trọng. Trong khi văn hóa thất bại nhiều trong việc tăng cường hôn nhân, nhưng điều này không phải là lý do để từ bỏ hôn nhân. Bây giờ phải là thời gian để củng cố hôn nhân thêm lên, không phải là lúc để tái định nghiã nó.

"Khi Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của hôn nhân – là suốt đời, là sự kết hợp một vợ một chồng – Chuá đã nhắc lại rằng sự sáng tạo ra con người của Thiên Chúa ngay từ "thuở ban đầu" là có nam có nữ (x. Mt 19). Khi đương đầu với phong tục và pháp luật của thời đó, Chúa Giêsu đã dạy một chân lý phổ biến mà mọi người có thể hiểu được. Sự thật của hôn nhân sẽ tồn tại, và chúng tôi sẽ tiếp tục mạnh dạn tuyên bố với sự tự tin và với lòng từ thiện.

"Bây giờ thì Tòa án tối cao đã ban hành quyết định rồi, với một quyết tâm mới chúng tôi kêu gọi tất cả các nhà lãnh đạo và tất cả mọi người dân của đất nước tốt đẹp này hãy đứng lên để chung nhau kiên định việc thúc đẩy và bảo vệ ý nghĩa độc đáo của hôn nhân: một người nam, một người nữ, cho sự sống. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho việc xét lại quyết định của Tòa án và những hậu quả được giải thích rõ ràng thêm."

Trần Mạnh Trác (Vietcatholic)

Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa

Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa

Giáo Hội là ”nhà của Thiên Chúa”, là đền thờ tinh thần mà chính Chúa Kitô Đền Thờ sống động của Thiên Chúa Cha, xây dựng, trong đó có Chúa Thánh Thần ở, linh hoạt, hướng đẫn và nâng đỡ, và chúng ta là các viên đá sống động.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên với 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 26-6-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển hình ảnh cuối cùng giúp minh giải mầu nhiệm của Giáo Hội: đó là hình ảnh Giáo Hội là đền thờ của Thiên Chúa (LG, 6). Ngài nói: Từ đền thờ khiến chúng ta nghĩ tới một dinh thự, một việc xây cất. Một cách đặc biệt tâm trí của nhiều người trở về với lịch sử của Dân Israel được kể trong Thánh Kinh Cựu Ước. Tại Giêrusalem Đền Thờ của vua Salomon đã là nơi găp gỡ với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện: bên trong Đền Thờ có Hòm Bia Giao Ước, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người; và trong Hòm Bia Giao Ước có các Bảng Lề Luật, có Bánh Manna và cây gậy của ông Aharon: một nhắc nhớ tới sự kiện Thiên Chúa đã luôn luôn ở trong lịch sử của dân Người, đồng hành với họ trên đường và hướng dẫn bước chân họ. Đền Thờ nhắc nhớ lịch sử này.

Cả chúng ta nữa khi chúng ta đến Đền Thờ chúng ta cũng phải nhớ tới lịch sử này, lịch sử của tôi, của mỗi người trong chúng ta, lịch sử của chúng ta, như Chúa Giêsu đã gặp gỡ tôi, như Chúa Giêsu đã đồng hành với tôi, như Chúa Giêsu yêu thương tôi và chúc lành cho tôi.

Đây, điều đã được hình dung trước trong Đền Thờ xưa kia đã được thực hiện bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: Giáo Hội là ”nhà của Thiên Chúa”, là nơi Người hiện diện, là nơi chúng ta có thể tìm thấy Chúa và gặp gỡ Chúa. Giáo Hội là Đền Thờ trong đó có Chúa Thánh Thần ở, Người là Đấng linh hoạt, hướng dẫn và đỡ nâng Giáo Hội. Nếu chúng ta tự hỏi chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở đâu? Chúng ta có thể bước vào sự hiệp thông với Người qua Chúa Kitô ở đâu? Chúng ta có thể tìm thấy ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi sáng cuộc sống chúng ta ở đâu? Câu trả lời là: trong dân của Thiên Chúa, giữa chúng ta, chúng ta là Giáo Hội. Giữa chúng ta, trong dân của Thiên Chúa và Giáo Hội, trong đó chúng ta gặp Chúa Thánh Thần, chúng ta gặp Thiên Chúa Cha.

Đền thờ xưa kia đã do tay con người làm ra: người ta muốn cho Thiên Chúa ”một ngôi nhà” để có một dấu chỉ hữu hình sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người. Với sự Nhập Thể của Con Thiên Chúa, lời tiên tri ngôn sứ Nathan nói với Vua Đavít (x. 2 Sm 7,1-19) được thành toàn: không phải nhà vua, không phải chúng ta ”cho Thiên Chúa một ngôi nhà”, nhưng chính Thiên Chúa ”xây nhà của Người” để đến ở giữa chúng ta, như thánh Gioan viết trong phần dẫn nhập Phúc âm (x. Ga 1,14). Chúa Kitô là Đền Thờ sống động của Thiên Chúa Cha, và chính Chúa Kitô xây ”ngôi nhà tinh thần của Người”, là Giáo Hội, được làm không phải bằng các viên đá vật chất, mà bằng các ”viên đá sống động” là chúng ta. Thánh Tông Đồ Phaolô nói với các tín hữu Êphêxô rằng: anh em ”đã được xây trên nền tảng của các tông đồ và các ngôn sứ, có cùng ”đá tảng góc tường là chính Chúa Kitô Giêsu. Trong Người toàn công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí (Ep 2,20-22). Điều này thật là đẹp! Chúng ta là các viên đá sống động trong ngôi nhà của Thiên Chúa, hiệp nhất một cách sâu đậm với Chúa Kitô là dá tảng nâng đỡ và cũng là sự nâng đỡ giữa chúng ta với nhau, phải không? Và điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa chúng ta là Đền Thờ, là Giáo Hội, nhưng chúng ta là Giáo Hội sống động, chúng ta là Đền Thờ sống động, và trong chúng ta khi chúng ta hiệp nhất cùng nhau, thì có Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta lớn lên như là Giáo Hội. Chúng ta không cô đơn, chúng ta là dân của Thiên Chúa và Đức Thánh Cha chỉ mọi người hiện diện và nói: đây là Giáo Hội, dân của Thiên Chúa.

Rồi Đức Thánh Cha nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần như sau:

Và Chúa Thánh Thần với các ơn của Người chỉ định sự khác biệt: điều này quan trọng. Thế Chúa Thánh Thần làm gì giữa chúng ta? Người chỉ định sự khác biệt, sự khác biệt là sự phong phú trong Giáo Hội và hiệp nhất tất cả và mọi người, để xây nên một ngôi đền tinh thần, trong đó chúng ta không dâng lên các lễ tế vật chất, mà dâng lên chính chúng ta, cuộc sống của chúng ta (x. 1 Pr 2,4-5). Giáo Hội không phải là một giao thoa của các sự vật và các lợi lộc, mà là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, Đền Thờ trong đó Thiên Chúa hoạt động, Đền Thờ trong đó với ơn bí tích Rửa Tội, mỗi một người trong chúng ta là viên đá sống động. Điều này nói với chúng ta rằng không có ai là vô ích trong Giáo Hội cả. Nếu có người tình cờ nói tới ai đó rằng: ”Thôi về nhà đi, bạn là một người vô ích”. Điều này không thật đâu! Không có ai vô ích trong Giáo Hội cả: Tất cả chúng ta đều cần thiết để xây dựng Đền Thờ này. Không có ai là phụ thuộc cả! ”Ô tôi là người quan trọng nhất trong Giáo Hội!” Không. Tất cả chúng ta đều bằng nhau trước mắt Thiên Chúa, tất cả, tất cả. Nhưng mà một ai đó trong anh chị em có thể nói: ”Nhưng mà xin Đức Thánh Cha nghe đây, Đức Thánh Cha đâu có ngàng hàng với chúng con được!” Có chứ, tôi cũng như mọi người trong anh chị em thôi, chúng ta tất cả đều bằng nhau, chúng ta tất cả là anh em với nhau! Không có ai là vô danh cả. Tất cả chủng ta làm thành và xây dựng Giáo Hội. Điều này cũng mời gọi chúng ta suy tư về sự kiện nếu thiếu viên đá cuộc sống kitô của chúng ta, thì thiếu một cái gì đó cho vẻ đẹp của Giáo Hội.

Và vài người cũng có thể nói: ”A, tôi với Giáo Hội à không, tôi không ăn nhập gì tới Giáo Hội cả!” Nhưng mà thiếu viên đá đời bạn trong ngôi Đền Thờ xinh đẹp này! Không ai có thể bỏ đi được, phải không? Tất cả chúng ta đều phải đem đến cho Giáo Hội cuộc sống, con tim, tình yêu tư tưởng công việc làm… Tất cả cùng nhau!

Kết luận bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nêu lên câu hỏi sau đây:

Chúng ta sống sự kiện là Giáo Hội của chúng ta như thế nào? Chúng ta có là các viên đá sống động hay chúng ta là các viên đá mỏi mệt, chán nản, thờ ơ? Mà anh chị em có thấy một kitô hữu mệt mỏi, chán nản, thờ ơ là điều xấu xa không? Một kitô hữu như thế thất là xấu. Không được như vậy! Kitô hữu phải sinh động tươi vui là tín hữu kitô! Phải sống vẻ đẹp là thành phần dân của Thiên Chúa, là Giáo Hội. Vậy chúng ta có rộng mở cho hoạt động của Chúa Thánh Thần để là thành phần tích cực trong các cộng đoàn của chúng ta hay không, hay chúng ta khép kín trong chính mình và nói: ”Tôi có biết bao nhiêu điều phải làm, đó không phải là nhiệm vụ của tôi làm điều này điều nọ?” Đừng khép kín trong chính mình.

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn của Người, sức mạnh của Người để chúng ta có thể hiệp nhất một cách sâu xa với Chúa Kitô, là đá góc, là cột trụ, là đá đỡ nâng cuộc sống chúng ta và toàn cuộc sống của Giáo Hội. Chúng ta hãy cầu nguyện để được linh hoạt bởi Thần Khí của Người. Chúng ta luôn là các viên đá sống động của Giáo Hội.

Sau khi chào nhiều phái đoàn tín hữu và chúc họ có những ngày hành hương Roma tươi vui và được nhiều ơn ích, Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Đức Thánh Cha cũng đã để ra gần một giờ đồng hồ để chào một số Hồng Y Giám Mục tham dự buổi tiếp kiến cũng như tín hữu đứng hai bên khán đài, các cặp vợ chồng mới cưới và đặc biệt là các người tàn tật ngồi trên xe lăn. Hôm qua có nhiều em bé khi được Đức Thánh Cha hôn, cứ ôm chặt và không muốn rời cổ ngài nữa. Tín hữu tặng Đức Thánh Cha đủ thứ. Các em bé thì tặng hình chúng vẽ, cầu thủ các đội banh thì tặng Đức Thánh Cha áo của họ. Nhiều người đem các ảnh tượng, kể cả chén thánh để xin Đức Thánh Cha làm phép. Ngài dừng lại lắng nghe và nói chuyện lâu với một số người và không bao giờ tỏ ra vội vã. Đây là điểm đã thu hút tín hữu rất mạnh.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Thêm một tù nhân (Thanh niên Công Giáo) lương tâm tuyệt thực trong tù

Thêm một tù nhân (Thanh niên Công Giáo) lương tâm tuyệt thực trong tù

Hiện tù nhân thanh niên Công giáo Paul Trần Minh Nhật đang tuyệt thực tại trại giam Nghi Kim ở Nghệ An và luật sư Lê Quốc Quân tịch cốc trong Trại giam Số 1 ở Hà Nội.

Paul Tran Minh

Phản đối hành xử hà khắc

Biện pháp tuyệt thực lại được một tù nhân lương tâm tại Việt Nam thực hiện là thanh niên Công giáo Paul Trần Minh Nhật. Anh là người bị tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An hồi ngày 9 tháng giêng năm nay kết án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế cùng với 13 người khác trong cùng vụ việc theo điều 79 Bộ luật hình sự về tội danh âm mưu hay có hành động nhằm lật đổ chính quyền hiện nay.

Phiên phúc thẩm hôm ngày 23 tháng 5 y án đối với Paul Trần Minh Nhật vì anh này tiếp tục không nhận tội về những hoạt động xã hội mà bản thân anh tham gia cho đến khi bị bắt.

Trong trại giam Nghi Kim ở Nghệ An, anh này tiếp tục đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi căn bản cho bản thân. Do bị đối xử quá hà khắc từ ngày 21 tháng 6 vừa qua anh này bắt đầu tuyệt thực.

Chị Nguyễn thị Kim Chi, một người em dâu của anh Nguyễn Đình Cương, người cũng bị kết án chung cùng Trần Minh Nhật trong vụ án vừa nêu cho biết cơ hội mà chị này có thông tin việc Paul Nguyễn Minh Nhật tuyệt thực trong nhà giam:

Trại Nghi Kim tuy là nhà giam nhưng sát nhà dân; có người nhắn tôi ra nói chuyện về việc anh ( Cương) bị công an kỷ luật chuyển sang phòng khác trong ba ngày. Nhân dịp đó có anh ở phòng cùng dãy nhưng ở phòng cuối hét lên để nói chuyện. Ngày đầu hét lên hỏi thì anh Nhật nói sức khỏe bình thường; ngày thứ hai tức 21 tháng 6 hét lên anh nói là nhịn ăn; nhưng tôi không hỏi lý do. Ngày thứ ba, tức ngày 22, anh Nhật hét lên nói lý do nhịn ăn để phản đối chế độ nhà tù. Vì ở Nghệ An hiện nay thời tiết rất nóng lên đến 40 độ C không chịu được, tiếp đến là việc không cho đưa sách vào, tiếp nữa là để đòi lại nhân phẩm cho những người trong tù.

Chị Nguyễn thị Kim Chi đã thông tin cho gia đình anh Paul Trần Minh Nhật biết về việc Paul Trần Minh Nhật quyết định tuyệt thực. Người anh trai Trần Khắc Đạt của người tuyệt thực cho biết việc đi thăm hồi ngày 10 tháng 6 vừa qua và được người em cho biết ý định sử dụng biện pháp tuyệt thực để đấu tranh lại sự hà khắc của trại giam:

Khi tôi đi gửi đồ thì Nhật có dặn tôi gửi cho một ít sách ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Pháp và một số sách tham  khảo, tự điển cũng như một số sách gương các Thánh như Gioan Phao lô 2, Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận… Tôi nói chắc trại giam không cho đâu; Nhật nói anh cứ gửi đi; nếu chừng nào họ không cho thì làm biên bản, em có cách. Tôi hỏi cách gì vì trong trại giam vì mọi quyền hạn của người ta. Nhật nói anh cứ yên tâm; nếu đến lúc đòi mà không có em sẽ tuyệt thực. Sau tôi hỏi thì  họ nói không cho gửi sách vở gì ngoài báo Tiền Phong, Công An của họ.

Vì nay không nhận được những sách theo yêu cầu cộng với những hà khắc của trại giam nữa, em tin chắc Nhật tuyệt thực theo điều báo trước như thế.

Trong thời gian vừa qua nhiều người trong và ngoài nước đều rất quan tâm đến vụ tuyệt thực của triến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ ở trại giam số 5, Yên Định, tỉnh Thanh Hóa từ ngày 27 tháng 5 cho đến ngày 21 tháng 6 vừa qua để đòi hỏi cán bộ trại giam phải trả lời đơn thư tố cáo của bản thân ông. Khi nguyện vọng của ông bước đầu được đáp ứng, ông đã ngưng tuyệt thực.

Tịch cốc cám ơn mọi người

Trước ông, thì một số tù nhân khác cũng từng tuyệt thực để phản đối những điều bất hợp lý quá đáng của nhà tù. Một trường hợp đáng chú ý là của luật sư Lê Quốc Quân từ hôm bị bắt giam hồi ngày 27 tháng 12 năm ngoái cũng tuyệt thực suốt 15 ngày sau đó.

Nay sắp đến ngày bị đưa ra xét xử, ông quyết định tịch cốc, tức không ăn, chỉ uống nước. Mục đích không phải để phản đối nhà tù mà là để cám ơn tất cả những người đã ủng hộ ông bên ngoài. Người em của ông là anh Lê Quốc Quyết cho biết thông tin này như sau:

Khi luật sư vào thăm anh, anh nhắn ra từ ngày 23 tháng 6 anh sẽ tịch cốc; đến ngày 30 tháng 6 sẽ ăn lại để đến ngày 9 tháng 7 ra tòa. Anh nói mục đích tịch cốc nhằm tri ân những ai quan tâm và cầu nguyện cho anh trong thời gian qua cũng như sắp tới. Còn đây không phải tuyệt thực như lần trước để ra yêu sách phản đối việc bắt giữ tùy tiện và không cho anh nhận Kinh Thánh nên tuyệt thực.

Anh Lê Quốc Quyết cũng thông tin thêm về điều mà gia đình anh này cho rằng qua đó chứng tỏ sự phân biệt đối xử của trại giam đối với người bị giam Lê Quốc Quân:

Một điều mà gia đình mới biết gần đây là từ khi bị bắt đến bây giờ, anh Quân vẫn bị phân biệt đối xử- không có đủ nước sạch để uống. Nước trong trại giam bẩn lắm, tắm bị ghẻ đầy người, nên không thể dùng nước đó để uống, mà cũng không có nước đun sôi nên phải gửi nước suối ở ngoài vào. Đối với anh Quân mỗi tuần chỉ nhận được 10 chai nước suối nhỏ; trong khi những người khác gia đình gửi vào bao nhiêu cũng được nhận.

‘Thiên biến, vạn biến’ của người tù

Gia đình luật sư Lê Quốc Quân cho biết chỉ trong diện tích 60 mét vuông nhưng số người bị nhốt chung nhau khá đông; tuy vậy luật sư Lê Quốc Quân tìm cách ứng xử tích cực trong tình cảnh nghiệt ngã như thế. Anh Lê Quốc Quyết cho biết:

Luật sư được vào nhiều nên thông tin ra ngoài cũng đều đặn. Ngoài chuyện bị phân biệt đối xử, anh còn cho biết trong trại giam anh khá bận bịu, anh dạy tiếng Anh cho mọi người và làm thơ. Trước anh thấy buồng giam 60 mét vuông mà nhốt bốn mươi mấy người, anh thấy chật quá; nhưng nay đông người như thế nên có nhiều việc cho anh ấy làm.

Chế độ nhà tù của Việt Nam hiện nay được các cựu tù nhân lương tâm lên tiếng tố cáo sau khi họ được ra khỏi trại giam. Theo họ thì mục tiêu là nhằm triệt hạ những con người dám công khai có những chính kiến khác với quan điểm của nhà nước hay dám chống lại Nhà nước. Dù có người chết rũ tù; tuy nhiên vẫn tiếp tục có những người kiên định và sử dụng mọi biện pháp như tuyệt thực để đòi hỏi quyền chính đáng dành cho con người dù họ là tù nhân.

Gia Minh RFA Bangkok