KHIÊM TỐN

KHIÊM TỐN

1) Nhân một bữa tiệc

Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.

Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.

Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.

Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.

2) Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.

Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.

Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.

Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.

Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.

Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.

3) Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời

Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời.

Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.

Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.

Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.

Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.

Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.

Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?

2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?

3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?

4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Khiêm nhường phục vụ

Khiêm nhường phục vụ

Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được bình an, cho mọi người được no ấm. Ai cũng mong cho quê hương mỗi ngày được giầu đẹp hơn. Ai cũng khát khao niềm an hoà trên quê hương đất nước. Thế nhưng ước mơ đó không thể từ trời rơi xuống. Ước mơ đó cần phải có những con người dựng xây, biết kiến tạo bằng cả cuộc sống dấn thân vì lợi ích của dân tộc. Một đất nước muốn an vui thịnh vượng, không thể có những con người “ăn trên ngồi trốc” mọi người, càng không thể có những loại người dùng địa vị của mình để vun quén cho bản thân, để hưởng thụ đến mức độ tha hoá đạo đức, những loại người như thế chỉ làm nghèo đất nước và khổ người dân. Một đất nước muốn được yên vui đầm ấm không thể có sự chia rẽ nội bộ hay phân biệt giai cấp và chủng tộc. Cần phải có sự đoàn kết yêu thương, và biết tôn trọng quyền lợi chung của mọi người. Mỗi người bất luận là ai, già hay trẻ, khoẻ mạnh hay tật nguyện đều phải được đối xử trong tôn trọng và yêu thương. Có như vậy cuộc sống mới yên vui, tình người mới đầm ấm.

Lời Chúa hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu để đối xử với nhau một cách vô vị lợi. Chúa đã kết án thói trưởng giả của những người biệt phái. Thích dệnh dạng trong đám tiệc. Thích ngồi”mân cao cỗ đầy”. Họ dùng quyền bính để được người khác cúi mình phục vụ. Lối sống của họ chẳng có ích cho cộng đoàn mà còn làm khổ anh em. Chúa còn dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu “có qua có lại”, mà quan yếu là tình người với nhau. Con người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, nhưng hãy dùng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời.

Đó cũng chính là cách sống mà Chúa đã thực thi trong suốt cuộc đời dương gian. Ngài đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiaret. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây đều được mời gọi tham dự yến tiệc mà Chúa đã dọn sẵn.

Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.

Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên còn đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên hai con dê qúa bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực thẳm và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã qùy mọp xuống đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng ta tiếp tục con đường của mình.

Vâng, thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.

LM Jos. Tạ duy Tuyền

Đức Thánh Cha tiếp kiến Quốc Vương Giordani

Đức Thánh Cha tiếp kiến Quốc Vương Giordani

VATICAN. Tòa Thánh và Quốc Vương Giordani tái khẳng định rằng đối thoại và thương thuyết là giải pháp duy nhất để chấm dứt bạo lực và xung đột tại Siria.

Lập trường trên đây được bày tỏ trong cuộc tiếp kiến của ĐTC Phanxicô dành cho Quốc vương Abdullah II và hoàng hậu Raina của Giordani sáng 29-8-2013 tại Vatican.

Thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết sau khi gặp ĐTC, Quốc vương đã gặp ĐHY Quốc vụ khanh Tarcisio Bertone và Ngoại trưởng Dominique Mamberti.

”Trong các cuộc hội kiến thân mật, các vị đã duyệt qua những đề tài có liên hệ chung, nhất là việc thăng tiến hòa bình và sự ổn định tại Trung Đông, đặc biệt là việc mở lại các cuộc thương thuyết giữa người Israel và Palestine, cũng như vấn đề thành Jerusalem.

”Các vị đặc biệt chú ý đến tình trạng bi thảm tại Siria. Về vấn đề này, có sự tái khẳng định rằng con đường đối thoại và thương thuyết giữa mọi thành phần trong xã hội Siria, với sự hỗ trợ của Cộng đồng quốc tế, là giải pháp duy nhất để chấm dứt xung độg và bạo lực, hằng ngày gây ra chết chóc cho bao nhiêu người, nhất là nơi các thường dân vô phương thế tự vệ.

”Ngoài ra, Tòa Thánh đánh giá cao sự dấn thân của Vua Abdullah trong lãnh vực đối thoại liên tôn và sáng kiến triệu tập tại thủ đô Amman vào đầu tháng 9 này, một Hội nghị về những thách đố mà các tín hữu Kitô tại Trung Đông phải đương đầu, đặc biệt trong giai đoạn thay đổi xã hội chính trị hiện nay. Sau cùng, các vị nói đến sự đóng góp tích cực mà các cộng đồng Kitô mang lại cho các xã hội trong vùng mà họ là thành phần trọn vẹn”.

Tháp tùng quốc vương và hoàng hậu nước Giordani trong cuộc viếng thăm tại Tòa Thánh có một đoàn 7 người. (SD 29-8-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi tha thiết tìm kiếm Chúa

Đức Thánh Cha kêu gọi tha thiết tìm kiếm Chúa

ROMA. ĐTC Phanxicô kêu gọi tín hữu hãy thao thức liên lỷ tìm Chúa, theo gương thánh Augustino.

Ngài đưa ra lời mời gọi trên đây trong bài giảng thánh lễ lúc 6 giờ chiều ngày 28-8-2013 tại Vương cung thánh đường thánh Augustino ở Roma, trước sự tham dự của 90 đại biểu Tổng tu nghị dòng thánh Augustino và hàng trăm tín hữu khác. Ngài quảng diễn câu nói thời danh của thánh nhân trong cuốn ”Tự Thú”: ”Chúa dựng nên con vì Chúa và tâm hồn con bất an cho đến khi được an nghỉ trong Chúa” (Le Confessioni, I,1,1).

ĐTC cho biết ngài cầu nguyện cho các tu sĩ dòng thánh Augustino cũng được thao thức liên lỷ trong cuộc tìm kiếm Chúa, mong muốn chia sẻ Tin Mừng và cố gắng chứng tỏ tình yêu thương đối với mỗi người họ gặp. Ngài nhận xét rằng từ ”bất an” mà thánh Augustino sử dụng gây ấn tượng mạnh cho ngài và khiến ngài nghĩ đến 3 lãnh vực cơ bản trong đó mỗi tín hữu Kitô phải cảm thấy ”bất an”, đó là trong đời sống thiêng liêng, trong việc tìm kiếm Chúa và trong tình yêu thương đối với tha nhân.

Augustino đã sống cuộc sống như nhiều người trẻ ngày nay, Thánh nhân đã được bà mẹ Monica giáo dục trong đức tin Kitô mặc dù chưa được rửa tội, nhưng rồi khi lớn lên Augustino đã xa lìa đức tin ấy. Augustino không tìm thấy trong đó câu trả lời cho những vấn nạn, cho ước muốn của tâm hồn, để rồi bị cám dỗ vì những điều khác. Augustino đã học hành, vui chơi, đã trải qua tình yêu nồng nhiệt và bắt đầu sự nghiệp vẻ vang, như một giáo sư dạy môn hùng biện, và được coi là thành đạt.

”Nhưng trong tâm hồn Augustino vẫn có sự bất an, trong cuộc tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của cuộc sống. Tâm hồn thánh nhân không yên nghỉ, không bị gây mê vì thành công, vì của cải, vì quyền hành.. Augustino tiếp tục tìm kiếm Chúa, và đã khám phá thấy rằng Thiên Chúa đang chờ đợi và không ngừng tìm kiếm Augustino trước..”
ĐTC nói rằng: các tín hữu Kitô cũng phải nhìn vào tâm hồn mình và tự hỏi phải chăng tâm hồn mình có ao ước những điều cao cả hay là một tâm hồn đang ngái ngủ. Tâm hồn bạn có duy trì một sự bất an hay bị những sự vật bóp nghẹt? Mỗi Kitô hữu cũng phải để cho mình bị bất an vì Chúa, như thánh Augustino, không bao giờ mệt mọi trong việc chia sẻ Tin Mừng tình thương của Thiên Chúa và lời hứa cứu độ với tha nhân là những người đã bị lạc lối như Augustino trước kia.

ĐTC Phanxicô cũng nhận xét rằng chắc hẳn thánh Augustino đã học được từ nơi mẹ Người, thánh nữ Monica, về tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. ”Bao nhiêu dòng lệ người phụ nữ thánh thiện này đã đổ ra cho sự hoán cải người con trai mình. Và bao nhiêu bà mẹ ngày nay đã khóc để con người được trở về cùng Chúa Kitô..Anh chị em đừng đánh mất niềm hy vọng nơi ơn thánh của Chúa! .. Cũng như thánh nữ Monica, các tín hữu Kitô được kêu gọi yêu thương tha nhân đến độ rơi lệ cho an sinh và phần rỗi của họ.”

Và ĐTC cảnh giác rằng quá nhiều khi trong đời sống tu trì, cộng đoàn có nghĩa là tiện nghi thoải mái. ”Nhiều khi người ta sống trong cộng đoàn mà chẳng biết ai sống bên cạnh; hoặc có thể họ sống trong cộng đoàn mà không thực sự biết người anh em của mình: tôi đau khổ nghĩ đến những người thánh hiến không có khả năng sinh sản, họ như những ”trai già”. Sự ”bất an vì yêu thương” luôn thúc đẩy ta đi tẳp tha nhân, không chờ đợi người khác bày tỏ nhu cầu của họ. Sự ”bất an vì tình yêu” mang lại cho chúng ta hồng ân phong phú về mục vụ, và mỗi người chúng ta phải tự hỏi: khả năng sinh sản tinh thần của tôi ra sao? Đâu là khả năng sinh sản của tôi về mục vụ?
Dòng thánh Augustino có khoảng 2.800 tu sĩ. Cha Bề trên Tổng quyền Prevost nói với báo Quan sát viên Roma của Tòa Thánh rằng đề nghị của ĐTC chủ sự thánh lễ khai mạc Tổng tu nghị của dòng thực là một sự chỉ quảng đại lớn lao. Chúng tôi ngạc nhiên sau khi chúng tôi xin được ĐTC tiếp kiến nhân dịp Tổng hội, và được biết ĐTC quyết định cử hành thánh lễ với chúng tôi”. (CNS 28-8-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ người tị nạn

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ người tị nạn

Đức Giáo Hoàng thông báo nhận lời mời

Trong vài tuần tới, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thực hiện chuyến đi ngắn đến trung tâm thành phố Roma để thăm một nhóm người tị nạn.

Vào chiều ngày 10 tháng 9 tới, ngài sẽ chào đón những người tị nạn đang được nuôi ăn miễn phí tại Trung tâm Tị nạn của dòng Tên, tọa lạc tại nhà thờ mẹ của hội dòng.

Dòng Tên – hay các anh em dòng Tên – điều hành Trung tâm Astalli nằm ​​phía sau Nhà thờ Chúa Giêsu trong 13 năm nay, cùng với sự giúp đỡ của các tình nguyện viên.

Trung tâm cung cấp cho người tị nạn chỗ tắm giặt, mỗi ngày một bữa ăn, và còn trợ giúp pháp lý để họ trở thành công dân Italy hợp pháp, tìm việc làm và có nơi sinh sống.

Giám đốc Trung tâm Astalli là cha Giovanni La Manna đã viết thư mời Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến thăm hồi tháng Tư.

Vài ngày sau, Đức Giáo Hoàng đã gọi điện thoại cho cha La Manna nói rằng ngài đồng ý tới thăm.

Cuộc gặp giữa Đức Giáo Hoàng Phanxicô và những người tị nạn thuộc các tín ngưỡng khác nhau sẽ mang tính cá nhân chứ không theo nghi thức dành cho các chuyến thăm chính thức.

Tuần tới, những người đứng đầu trung tâm sẽ gặp viên chức Vatican để bàn cách tổ chức chuyến đi này.

Trung tâm có mục đích nâng cao nhận thức đối thoại liên tôn giáo và văn hóa, chú trọng các thế hệ trẻ cũng như các dự án giáo dục.

Nguồn: Catholic News Agency

Trích từ UCANEWS

Phim ăn khách năm tới: Chuyện ông Nô-ê

Phim ăn khách năm tới: Chuyện ông Nô-ê

Sử thi Kinh thánh đầu tiên của Hollywood trong 50 năm qua sẽ do Russell Crowe thủ vai chính.

Russell Crowe as Noah in Darren Aronofsky's biblical epic of the same nameTài tử Russell Crowe

Theo tờ Phóng viên Hollywood, phần đầu tiên trong phim Nô-ê của đạo diễn Darren Aronofsky vừa được chiếu cho người hâm mộ phim Kitô giáo xem tại một hội nghị nhà thờ ở Texas. Câu chuyện về người được chọn thoát khỏi đại hồng thủy cùng với các loài động vật sẽ được công chiếu tại các rạp vào tháng 3-2014.

Trong đoạn video giới thiệu cuốn phim được đưa lên mạng nhưng sau đó bị gỡ xuống, đạo diễn Aronofsky kể bài thơ ông viết về Nô-ê khi ông học lớp bảy (12 hay 13 tuổi) đã được chọn đọc tại Liên hiệp quốc. Những trải nghiệm sau đó đã gợi hứng cho nhà sản xuất phim này theo đuổi sự nghiệp viết lách.

“Nô-ê là vị thánh bảo trợ trong đời sống tôi và dẫn dắt tôi đi tới những hoạt động sáng tạo” – Aronofsky nói với khán giả tại hội nghị nhà thờ Echo, nơi gặp gỡ của các nghệ sĩ, nhà chuyên môn và nhà văn. Aronofsky nói thêm ông hy vọng bộ phim bám sát các từ ngữ trong Kinh thánh.

“Tôi phấn khích vì cuối cùng Hollywood đã đồng ý thực hiện phim sử thi Kinh thánh đầu tiên trong gần 50 năm qua, ông nói. Đã lâu lắm rồi kể từ khi những bộ phim Kinh thánh xuất hiện trên màn hình, và cũng có rất nhiều tiến bộ công nghệ và hiệu ứng đặc biệt, đó là lý do tại sao phim Nô-ê chưa bao giờ được thực hiện trước đây, bởi vì quy mô, mức độ dồn dập và nhiều loài động vật khác nhau… Nhưng cuối cùng, giờ đây với sự hỗ trợ của Hollywood, chúng ta có thể thực sự làm được và đem nó vào cuộc sống”.

Ngôi sao Russell Crowe thủ vai Nô-ê trong phim, cùng với Anthony Hopkins, diễn viên gạo cội vào vai Methuselah, là ông nội sống rất thọ của Nô-ê.

Nguồn: The Guardian

Trích từ UCANEWS

Phỏng vấn linh mục Josè Maria Di Paola, cha sở xóm nghèo ngoại ô Buenos Aires

Phỏng vấn linh mục Josè Maria Di Paola, cha sở xóm nghèo ngoại ô Buenos Aires

Trong các ngày từ 18 đến 24 tháng 8 năm 2013 Đại hội tình bạn các dân tộc lần thứ 34 đã diễn ra tại Rimini, trung Italia, với sự tham dự của 800.000 người đến từ nhiều nước trên thế giới. Đề tài của đại hội lần này lá ”Tình trạng khẩn cấp con người”. Đã có hàng trăm sinh hoạt khác nhau: các buổi cử hành phụng vụ, canh thức cầu nguyện, suy tư, chia sẻ chứng từ, các bài thuyết tình của các chuyên viên chính trị, kinh tế, tài chánh, xã hội, văn hóa và tôn giáo, cũng như các cuộc hội luận bàn tròn về hàng trăm vấn đề khác nhau của con người trên thế giới hiện nay như: các thảm cảnh của chiến tranh, xung khắc, các kỳ thị, bách hại, đàn áp tôn giáo, các chế độ độc tài đảng trị, các chủ thuyết quốc gia qúa khích, các khuynh hướng tôn giáo cuồng tín, các bất công xã hội, cảnh sống nghèo đói, hố sâu ngăn cách giữa thiểu số giầu sụ và đại đa số dân nghèo trong mọi xã hội trên thế giới, các vi phạm trầm trọng quyền con người, đặc biệt là quyền sống, quyền tự do lương tâm, tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do di chuyển vv… Ngoài ra cũng có các buổi hòa nhạc, trình diễn văn nghệ, các cuộc triển lãm, các buổi giao lưu văn hóa đặc biệt là giữa các người trẻ vv…

Trong số những người tham dự đại hội tình bạn các dân tộc tại Rimini cũng có linh mục Josè Maria Di Paola, người Argentina, thuộc tổng giáo phận Buenos Aires, và là một trong các linh mục đã được Đức Hồng Y Jorge Bergoglio mạnh mẽ ủng hộ và khích lệ trong công tác tông đồ mục vụ thăng tiến cuộc sống của dân nghèo sống trong các khu xóm ổ chuột vùng ngoại ô thủ đô Buenos Aires.

Sau khi kết thúc đại hội cha đã về Roma thăm vị Tổng Giám Mục cũ của mình là Đức Thánh Cha Phanxicô.

Từ nhiều năm nay cha vẫn hăng say dấn thân lo cho dân nghèo sống trong các khu xóm ổ chuột Buenos Aires, và người dân âu yếm gọi cha là ”Cha Pepe”, cũng như họ đã gọi Đức Hồng Y Tổng Giám Mục là ”Cha Bergoglio”. Pepe hay Pepino là kiểu gọi tắt thân tình của tên gọi Giuseppe hay Giuse. Cha Di Paola là người rất can đảm, vì cha đã mạnh mẽ lên tiếng tố cáo các tổ chức buôn bán ma túy và tội phạm hoạt động trong các khu xóm nghéo ngoại ô Buenos Aires. Các sinh hoạt mục vụ giới trẻ của cha ngăn cản tầm hoạt động và sự hữu hiệu của các tổ chức này, chuyên dụ dỗ người trẻ đi vào con đường nghiện ngập ma túy và gia nhập các băng đảng tội phạm, bụi đời. Chính vì thế cha đã cha bị các tổ chức buốn bán ma túy thù ghét và đe dọa giết nhiều lần.

Hỏi: Thưa cha Pepe, cha đã gặp Đức Thánh Cha Phanxicô, cha có cảm tưởng gì, và cha nhận thấy Đức Thánh Cha ra sao?

Đáp: Sự thực đó đã là một cuộc gặp gỡ rất cảm động đối với tôi. Tôi đã không gặp ngài từ khi ngài rời Buenos Aires. Tôi tới, tôi trông thấy ngài như vậy thật lạ lùng qúa, đồng thời tôi cũng rất là cảm động trông thấy ngài như là một Giáo Hoàng. Ngài khỏe mạnh lắm. Tôi thấy ngài đầy nghị lực và rất là mạnh mẽ. Ngài trẻ trở lại. Tôi sẽ trở về Argentina rất hài lòng, bởi vì cho dù trách nhiệm hướng dẫn Giáo Hội có lớn lao, tôi thấy Đức Thánh Cha có đủ sức lực cần thiết để chu toàn nó.

Hỏi: Đức Thánh Cha có nhớ Argentian và Buenos Aires không thưa cha?

Đáp: Tôi tin là không. Tôi tin rằng ngài biết hiện tại của ngài ra sao. Tôi đã đem theo bình thủy và trà mate, và chúng tôi đã uống với nhau. Đức Thánh Cha hài lỏng khi nghe nói tới Buenos Aires và Argentina, nhưng ngài biết là hiện tại của ngài là ở đây, để phục vụ dân chúng. Ngài rất ý thức được điều này, nhưng mà chắc chắn là Đức Thánh Cha không quên nguồn gốc của mình đâu.

Hỏi: Từ Tổng Giám Mục Buenos Aires trở thành Giáo Hoàng, cha thấy Đức Bergoglio có thay đổi gì không?

Đáp: Nói một cách nền tảng thì tôi thấy ngài vẫn vậy. Cả kiểu ngài tiếp chúng tôi cũng thế, bởi vì khi chúng tôi tới tòa tổng giám mục ở Buenos Aires ngài tới gặp chúng tôi một cách rất đơn sơ. Ngài có một bàn viết, ngoài ra không có gì khác, và rồi ngài đích thân tiễn chân chúng tôi và chào chúng tôi. Sự đơn sơ này người ta cũng nhận thấy ở Vaticăng. Ngài tiếp tục là người như trước kia, nghĩa là không phải là một ông hoàng của Giáo Hội, mà một người tôi tớ của Giáo Hội. Đây là đặc thái đã luôn luôn rất hiện diện nơi con người của ngài. Và đây cũng là điều đã luôn luôn khích lệ chúng tôi. Tôi cũng nhận thấy có sự tiếp nối, bởi vì ngài liên lỉ nghĩ tới người khác, đặc biệt là dân nghèo và những người cần được giúp đỡ nhất, và ngài muốn có một tương quan rất gần gũi đối với họ. Đó, nói chung tôi thấy ngài vẫn vậy và với rất nhiều nghị lực, với nhiều ước muốn làm việc. Tôi thấy ngài đã thực sự được tái tiếp sức.

Hỏi: Thưa cha Pepe, cha đã đem theo rất nhiều thứ giáo dân gửi cho Đức Thánh Cha Phanxicô. Tín hữu Buenos Aires có thương nhớ Đức Thánh Cha Phanxicô không?

Đáp: Vâng, tôi đã đem theo biết bao nhiêu thứ mà không có quảng cáo. Người ta biết tin tôi sẽ thăm Đức Thánh Cha, nên họ cứ thế đưa đến và nói: ”Cái này cho Đức Thánh Cha Phanxicô”. Tôi đã mang cho Đức Thánh Cha nào là các thư của những người đau yếu, sách, trong đó có cuốn mà ”Nhóm phục hồi” của các người nghiện ma túy viết chung với nhau trong ”các biệt thự” do chính Đức Thánh Cha đã thành lập cho người nghiện ma túy tại Buenos Aires cách đây 5 năm. Và cách đây 5 năm ngày Thứ Năm Tuần Thánh Đức Tổng Giám Mục Bergoglio cũng đã cử hành nghi thức rửa chân cho 12 thanh niên nghiệm ma túy tại Buenos Aires. Ngày nay các bạn trẻ đó đã có một cuộc sống mới và họ vô cùng nhớ ơn Đức Thánh Cha. Chính vì thế các bạn trẻ muốn Đức thánh Cha nhận lấy cuốn sách mà chính họ đã cùng viết với nhau, ấn bản thứ nhất vừa mới in xong, vẫn còn thơm mùi mực. Chắc chắn rồi tôi đã mang theo nhiều thứ lắm, và tôi tin rằng chiếc vali của tôi chứa đựng biết bao nhiêu tâm tình của biết bao nhiêu người.

Hỏi: Đức Thánh Cha Phanxicô có tiếp tục theo dõi công việc mà các cha đang làm với giới trẻ trong các vùng ngoại ô của thủ đô Buenos Aires hay không?

Đáp: Ngài muốn chúng tôi tiếp tục công việc ấy. Tôi thực sự tin rằng kiểu phục vụ tốt nhất đối với Đức Giáo Hoàng từ phía chúng tôi là trung thành với công viêc của ngài, như trước đây. Và cũng là để góp phần cùng với người dân của chúng tôi và kinh nghiệm chín mùi với Đức Thánh cha, để khích lệ các linh mục khác sống trong các vùng ngoại ô. Chúng tôi biết rằng có nhiều linh mục làm việc trong các vùng ngoại ộ đó đây trên thế giới, nhưng cần phải khích lệ các vị, bởi vì đó là một chứng tá tin mừng đối với tất cả mọi người. Không phải chỉ cho những người sống ở vùng ngoại ô, mà cả cho những người đi tới đó nữa. Nó có thể là một sự hiệp nhất giữa hai thế giới mà đôi khi chúng bị tách biệt nhau bởi xã hội duy vật và cá nhân chủ nghĩa. Khi còn ở Buenos Aires Đức Bergoglio nhìn thành phố từ các vùng ngoại ô. Cái nhìn này của Đức Bergoglio là phần đóng góp lớn lao cho Giáo Hội tại Buenos Aires.

Hỏi: Thưa cha Pepe, cha cũng đã mang sang cho Đức Thánh Cha một chiếc áo của đội banh Huracàn. Đức Thánh Cha đã phản ứng ra sao, vì đội banh Huracàn là đối thủ của đội banh Thánh Lorenzo được Đức Thánh Cha ủng hộ. Đức Thánh Cha có nhận chiếc áo đó với tinh thần thể thao không?

Đáp: Có, sự quảng đại của ngài cũng đi tới mức này nữa. Đức Thánh Cha đã nhận chiếc áo của đội Huracan, là đội banh đối thủ vĩnh cửu với đội San Lorenzo. Và bên Argentina thì các gà nhà của hai đội banh luôn luôn tranh luận với nhau, không bên nào chịu bên nào: vì họ là đối thủ với nhau mà! Và khi Đức Bergolgio đã trở thành Giáo Hoàng, thì ở đâu cũng có cờ và áo của đội San Lorenzo. Và điều này làm cho tôi hơi khó chịu một chút. Vì thế nên các ông bầu của đội banh Huracàn mới nói với tôi: ”Pepe, cha là gà nhà của đội banh Huracàn, tại sao lại không mang tặng Đức Thánh Cha một cái gì đó của chúng mình, một chiếc áo, một lá thư? Vì thế tôi đã đem cho Đức Thánh Cha chiếc áo của đội banh ”giỏi nhất” là đội banh Huracàn.

Hỏi: Như là nhà thể thao, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là một người am tường về bóng đá, về kỹ thuật và và chiến thuật của túc cầu, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng, đúng thế, và ngài áp dụng nó cho Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng là một giám đốc kỹ thuật giỏi …

(RG 25-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Tưởng niệm 5 năm cuộc bách hại các Kitô hữu trong bang Orissa bên Ấn Độ

Tưởng niệm 5 năm cuộc bách hại các Kitô hữu trong bang Orissa bên Ấn Độ

Một số nhận định của Linh Mục Ajay Kumar Singh, chuyên hoạt động xã hội tranh đấu công lý cho các nạn nhân cuộc bách hại.

Cách đây 5 năm, ngày 25 tháng 8 năm 2008, các nhóm Ấn giáo cuồng tín đã tấn công 450 làng Kitô trong bang Orissa mạn đông Ấn Độ, đặc biệt là trong vùng Kandhamal. Các cuộc bách hại quy mô này đã khiến cho 100 tín hữu Kitô bị giết, hàng ngàn người bị thương, 5,600 nhà bị thiêu hủy, 296 nhà thờ, tu viện, trường học và các cơ sở tôn giáo bị đốt phá, và hơn 50,000 người phải trốn chạy vào rừng. Trong số các người thiệt mạng cũng có một linh mục và có một nữ tu là nạn nhân của các vụ hãm hiếp phụ nữ.

Lý do của chiến dịch bách hại này là vụ ông Laxmanananda, một lãnh tụ ấn giáo địa phương và bốn cận vệ, bị phong trào du kích quân Mao Trạch Đông ám sát ngày 23 tháng 8 trước đó. Ông Laxmanananda và lực lượng của ông chuyên hoạt động trong tỉnh Tumudi Bandh, để bắt các nhóm thiểu số đã bỏ Ấn giáo phải theo đạo trở lại. Mặc dù phong trào du kích quân nói trên đã ra thông cáo nhận trách nhiệm vụ ám sát, nhưng các lực lượng Ấn giáo cuồng tín vẫn vu khống cho các Kitô hữu dính líu trong vụ này. Và thế là trong nhiều ngày liên tiếp họ đã truy lùng và tấn công các Kitô hữu trong toàn bang, đặc biệt tại Kandhamal.

Năm năm đã trôi qua, nhưng các vấn đề của người dân vùng Kandhamal vẫn còn đó: công lý không được giải quyết cho các nạn nhân, việc tái xây cất các nhà thờ và nhà của dân tiến hành rất chậm chạp, các Kitô hữu bị bắt buộc phải sống trong bất an. Đã có hơn 3,000 đơn tố cáo, nhưng cảnh sát đã chỉ nhận phân nửa, và chỉ có 824 đơn kết thúc với việc xử án. Trong số 169 vụ xử các bị can đều được tha bổng, vì có các đe dọa chống lại các nhân chứng chính. Trong 86 vụ xử khác các bị can đã chỉ bị kết án nhẹ, không phải vì các tội phạm cướp của và giết các tín hữu Kitô người như đã kể trên, nhưng chỉ vì các tội thường phạm, và vì thế họ chỉ bị giam tù 2-3 năm. Trong 90 trường hợp khác vẫn còn đang có các cuộc điều tra. Nhưng thời gian càng qua đi, thì khả thể thu góp các chứng cớ không thể chối cãi được càng ít đi. Đây là một tình trạng mà cả Tòa Thượng Thẩm ấn độ cũng không thể chấp nhận được. Hồi mùa thu năm 2012 Tòa Thượng Thẩm Ấn đã gửi một thông tư cho cho chính quyền, cho lực lượng cảnh sát và các văn phòng điều tra trong bang Orissa để hỏi về số các vụ tha bổng qúa cao liên quan tới các tội phạm chống lại các tín hữu Kitô hồi năm 2008. Trên tổng số hơn 500 người đã bị bắt giữ hiện nay chỉ còn có 27 người còn bị giam.

Tình hình an ninh cũng bấp bênh hơn, vì đa số các tay tội phạm đã được trả tự do lại vẫn sẵn sàng tấn công các Kitô hữu, xét vì các bản án qúa nhẹ và họ không sợ bị trừng phạt. Điển hình như trường hợp của ông Manoj Pradhan, dân biểu bang Orissa, thuộc đảng Ấn Giáo Bharatiya Janata, bị tố cáo đã sát hại 9 Kitô hữu, nhưng ông vẫn được tại ngoại và tiếp tục đe dọa các nhân chứng và các người chống đối ông.

Vì các thiên vị như thế chính quyền bang Orissa đã không thành công trong việc tái trao ban tin tưởng cho dân chúng, và cũng bất lực không bảo đảm an ninh cho dân. Nhiều gia đình nạn nhân đã không nhận được trợ giúp nào của chính quyền, và họ bị bó buộc phải di cư ra khỏi biên giới, và phải đương đầu với các nguy hiểm mới.

Theo các cuộc điều tra của các chuyên viên tranh đấu cho các quyền con người, các vụ bách hại nói trên đã được mưu toan từ lâu trước, và đã được tổ chức một cách rất quy mô tỉ mỉ.

Từ năm 2008 đến nay tình hình tại Orissa vẫn chưa được cải tiến bao nhiêu, vì vẫn còn có các vụ tấn kích chống lại các tín hữu Kitô. Mới nhất là vụ xảy ra ngày 18-8-2013 tại Karon, nơi một một nhóm 150 người ấn cuồng tín đã tấn công một linh mục dòng Tên và hai nữ tu.

Cha Kumar Singh cho biết tuy sợ các vụ trả thù, nhưng Kitô hữu vùng Kandhamal vẫn quyết định tổ chức lễ tưởng niệm các nạn nhân với cuộc tuần hành có sự tham dự của thành viên các tổ chức bảo vệ nhân quyền. Nhân dịp này các Kitô hữu cũng trao cho chính quyền lời thỉnh cầu trả lại công lý cho các nạn nhân và bảo đảm an ninh cho các Kitô hữu.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của cha Kumar Singh, là người chuyên hoạt động xã hội tranh đấu công lý cho các nạn nhân cuộc bách hại tín hữu Kitô trong bang Orissa bên Ấn Độ.

Hỏi: Thưa cha tình hình trong bang Orissa hiện nay ra sao?

Đáp: Vào năm tới đây sẽ có các cuộc bầu cử, và lực lượng Sangh Parivar, thuộc gia đình các phong trào Ấn giáo cuồng tín, đang huy động các nhóm của họ. Sự kiện này cũng khiến cho các cộng đoàn Kitô tại Kandhamal bắt đầu lo sợ, không ai biết sẽ có thể xảy ra những gì.

Hỏi: Năm năm sau khi xỷy ra vụ bách hại các Kitô hữu trầm trọng như vậy, có các dấu vết nào còn tồn tại trong các làng Kitô ở bang Orissa hay không?

Đáp: Có khoảng 10,000 người chạy trốn cuộc bách hại vẫn chưa trở về nhà của họ. Trong rất nhiều trường hợp họ đã mất hết nhà cửa cũng như các dung cụ làm việc, và hoàn toàn trắng tay không còn gì cả. Nhưng sự trợ giúp của chính quyền và các tổ chức khác qua ít, và lại không cân xứng với những gì họ đã mất. Số tiền 15-20 ngàn rupie nhận được qúa ít ỏi, và trong rất nhiều trường hợp số tiền trợ giúp này cũng không tới tay những người còn sống sót. Tình hình bất ổn rất cao, vì thế trong nhiều vùng các Kitô hữu cũng không thể vào rừng để kiếm các chất liệu giúp tái thiết nhà cửa. Các phụ nữ và trẻ em cũng không dám đi tới các làng mạc hay các chợ lân cận, nếu họ phải đi qua các vùng có tín hữu Ấn sinh sống.

Hỏi: Giáo Hội địa phương đã làm những gì để giảm bớt các khổ đau của các tín hữu bị bách hại và của những người đòi hỏi công lý, thưa cha?

Đáp: Cuộc bách hại hồi năm 2008 đã là vụ bách hại lớn nhất chống lai các Kitô hữu trong lịch sử của Ấn Độ. Giáo Hội đã bị tấn công bất thình lình, và vì thế việc đáp trả của Giáo Hội cũng đã không tương xứng với các vụ tấn kích. Đã có 415 làng trong quận Kandhamal bị tấn công và đốt phá, cộng thêm hàng chục làng khác trong 13 quận khác nhau của bang Orissa. Điều này cũng giải thích tại sao trong số 3,331 đơn tố cáo người ta đã chỉ ghi nhân 837 vụ, và các đơn tới được tòa án lại còn ít hơn nữa. Tôi thấy rằng các hoạt động pháp luật của Giáo Hội để trả lời cho thảm cảnh này không thích đáng, nhưng cũng là điều khích lệ khi thấy Giáo Hội đã trợ giúp được nhiều cá nhân.

Hỏi: Thưa cha, vậy hiện nay đâu là các viễn tượng đối với những anh chị em Kitô còn sống sót đã phải đau khổ trên thân xác và trong tinh thần như vậy?

Đáp: Thách đố mà các cộng đoàn Kitô đã bị bách hại đang phải đương đầu trước mắt là tìm cách sống còn. Các Kitô hữu vẫn còn tìm cách trở về làng cũ của mình, và ngoại trừ vài trường hợp, họ vẫn tìm cách xây dựng lại nhà cửa. Tuy nhiên, không có các bồi thường các mất mát mùa màng và súc vật, họ phải kiếm sống từng ngày. Công lý đã trở thành một giấc mơ xa vời; thêm vào đó là thiếu chương trình bảo vệ các nhân chứng. Thiểu số Kitô bị cám dỗ chịu nhượng bộ các quyền của họ để đánh đổi lấy một chút bình an. Cả khi họ muốn có công lý đi nữa, họ cũng không thể đương đầu với các khó khăn kinh tế, các đe dọa và sự thờ ơ của guồng máy chính quyền địa phương hiện nay.

Hỏi: Thưa cha, mới đây cha đã nhận được phần thưởng vì dấn thân bênh vực các quyền của các nhóm thiểu số, có đúng thế không?

Đáp: Tôi coi giải thưởng tặng cho tôi như là một khích lệ đối với các tiếng nói đòi hỏi công lý trong nước Ấn này thôi. Tôi chỉ là một trong các tiếng nói đòi công lý đó. Các Kitô hữu vùng Kandhamal than khóc vì các bất công họ phải gánh chịu. Họ than khóc trong thinh lặng vì sự hiểu lầm họ đã phải gánh chịu. Các tòa án đã trả tự do cho đa số các người đã tấn công, cướp bóc tài sản, đốt nhà và giết chết các thân nhân của họ. Nhà nước Ấn từ chối trả bồi thường cho họ, và muốn rằng họ phải bằng lòng với một chút mà Nhà nước cho họ. Điều này khiến cho họ cảm thấy bị tước đoạt, trong khi kỷ niệm về các bạo lực đã phải chịu khiến cho họ sống trong tình trạng bất an.

(Avvenire 22-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

TỰ DO TÔN GIÁO LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI HÒA BÌNH

TỰ DO TÔN GIÁO LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI HÒA BÌNH

RIMINI: Chiều ngày 23-8-2013 tại đại hội tình bạn các dân tộc ở Rimini, Đức Hồng Y Jean Louis Tauran, Chủ tịch Hội đồng tòa Thánh đối thoại liên tôn, đã thuyết trình về đề tài ”Tự do tôn giáo như con đường dẫn tới hòa bình”. Ngài khẳng định rằng tôn giáo là sức mạnh giúp xây dựng hòa bình trên thế giới.

Đức Hồng Y nhắc lại lời Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mạnh mẽ lên án nạn khủng bố bạo lực đội lốt tôn giáo trong diễn văn nói với ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh năm 2006. Khủng bố đội lốt tôn giáo có nhiều lý do phức tạp, như ý thức hệ chính trị trộn lẫn với các ý niệm tôn giáo lệch lạc. Nó không ngần ngại tấn kích các người vô tội, không phương thế tự vệ, hay đưa ra các điều kiện vô nhân, gieo kinh hoàng sợ hãi cho dân chúng, nhằm gây áp lực với các giới hữu trách chính trị, để họ phải tuân theo các dự án của chính những kẻ khủng bố. Không có gì có thể biện minh cho các hành động tội phạm xấu xa, dùng tôn giáo làm bình phong, và hạ thấp sự thật về Thiên Chúa xuống mức độ mù quáng của luân lý tồi bại. Không thể làm ngơ Thiên Chúa, vì con người là sinh vật tôn giáo. Không có nền văn minh nào mà không có tôn giáo.

Trong bài tham luân Đức Hồng Y Tauran nhấn mạnh rằng tự do tôn giáo là một quyền nền tảng của con người. Nó là sự tự do thiết lập một tương quan cá nhân với sự siêu việt, tự do thực hành niềm tin của mình một cách công khai, và tự do tuyên xưng nó. Trong một xã hội và trong một quốc gia nó là quyền của con người được trật tự pháp lý thừa nhận. Nhà nước phải trung lập trong nghĩa tích cực, bằng cách bảo đảm sự tự do đó của con người, và phục vụ công ích. Nhà nước tân tiến dân chủ không thừa nhận tôn giáo nào hết, để có thể thừa nhận tất cả mọi tôn giáo. Vì thế quyền tự do tôn giáo lớn hơn sự tự do phụng tự và cả tự do tư tưởng.

Tiếp đến Đức Hồng Y Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đối Thoại Liên Tôn khẳng định rằng tin không chỉ là một thực tại cá nhận, mà cũng là một thực tại tập thể của cộng đoàn tín hữu nữa. Việc lựa chọn một tôn giáo tốt nhất là một hành động nội tại, trong khi quyết định theo một tôn giáo xác định bao gồm các hành động bề ngoài: phụng tự, giảng dậy, phổ biến giáo lý vv… Lựa chọn và quyết định có một tương quan với Thiên Chúa là hành động quan trọng nhất con người có thể làm. Nó phải xảy ra, mà không có các áp lực bên ngoài.

Đức Hồng Y Tauran cũng phân biệt giữa tôn giáo là tương quan tùy thuộc Thiên Chúa và các giáo phái chủ trương thống trị các sức mạnh siêu nhiên để phục vụ mình. Liên quan tới việc cộng tác giữa Nhà nước và cộng đoàn tôn giáo ngài ghi nhận rằng nó phải là tương quan tin tưởng hai chiều, nhằm phục vụ công ích và bảo vệ các giá trị dân chủ, bảo đảm một số khía cạnh nền tảng của tôn giáo như các biểu lộ của phụng tự, tự do thành lập hội đoàn và đề nghị đức tin với mọi người. Sau cùng Đức Hồng Y Tauran khẳng định rằng niềm tin tôn giáo là một sức mạnh giúp xây dựng hòa bình. Khi tin nơi phẩm giá duy nhất của con người và các quyền bất khả nhượng của nó trong việc phục vụ tha nhân và thăng tiến toàn nhân loại, người ta hiểu khả năng xây dựng hòa bình của tôn giáo. Các tín hữu là một tài nguyên cho xã hội, vì họ củng cố thiện ích chung, giáo dục tình huynh đệ và liên đới, chứng minh cho thấy sự khác biệt là sự phong phú, chứ không phải một nguy hiểm. Với cuộc sống trung thực của mình, tín hữu nhắc nhở quyền tối thượng của luân lý đạo đức trên ý thức hê, con người trên sự vật, và trí tuệ trên vật chất. Thật chí lý lời của luật gia Luigi Tapparelli người Ý: ”Lấy mất đi tôn giáo khỏi xã hội, con người sẽ mau chóng biến thành hàng hóa” (SD 23-8-2013).

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Các sinh hoạt cuối trong Năm Đức Tin ở Roma

Các sinh hoạt cuối trong Năm Đức Tin ở Roma

VATICAN. Từ nay cho đến khi kết thúc Năm Đức Tin, có 3 sinh hoạt lớn sẽ tiến hành tại Roma.

1. Hội nghị quốc tế các giáo lý viên
Sẽ tiến hành từ ngày 26 đến 28-9-2013 tại Đại thính đường Phaolô 6 ở nội thành Vatican, với sự tham dự của các vị chủ tịch các Ủy ban GM đặc trách về huấn giáo, truyền giáo và những đề tài tương tự; cùng với các vị lãnh đạo các văn phòng giáo lý quốc gia và giáo phận cùng nhiều giáo lý viên khác. Ngoài ra mỗi giáo phận có thể gửi một số giáo lý viên đại diện. Sau cùng là đại diện của các tổ chức giảng huấn dấn thân trong việc suy tư về đề tài huấn giáo.

Trong thông cáo giới thiệu hội nghị này, Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng khẳng định rằng:

“Trong số các mục đích của Năm Đức Tin, có nhu cầu phục hồi sự ”thống nhất sâu xa giữa hành vi đức tin và nội dung mà chúng ta chấp nhận tin” (Porta fidei, 10), vì đức tin, trước tiên là một hồng ân của Thiên Chúa và tiếp đến là hành động cảm tạ biến đổi con tim của người tin. Ngoài ra, ”sự hiểu biết về các nội dung cần tin sẽ không đủ nếu tâm hồn, vốn là cung thánh đích thực của mỗi người, không cởi mở đối với ơn thánh, giúp tín hữu có đôi mắt để nhìn sâu và hiểu được loan báo, tức là Lời Chúa” (Porta fidei 10).

”Trong sự mô tả vừa nói có bao hàm con người và vai trò của giáo lý viên. Trong thời đại kiến thức và kinh nghiệm bị phân tán như ngày nay, điều cấp thiết là nâng đỡ, thăng tiến và huấn luyện các giáo lý viên có khả năng đương đầu với những thách đố ngày nay, để cống hiến một chứng tá có khả năng khơi dây nơi cộng đoàn Kitô một năng động giúp trình bày đề nghị của Thiên Chúa với con người ngày nay, qua Đức Giêsu Kitô.
Hội nghị quốc tế về giáo lý muốn trình bày một suy tư về phần đầu trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo và nhắm đến các vị hữu trách về huấn giáo của các Giáo Hội địa phương.

Hội nghị muốn đặt hình ảnh cuộc gặp gỡ của các môn đệ trên đường làng Emmaus với Đấng Phục Sinh như khuôn mẫu lịch sử các tín hữu. Việc huấn giáo và giáo lý viên là những dụng cụ để phong phú hóa cuộc gặp gỡ với Chúa và soi sáng sự chọn lựa bước theo Chúa.

Tiếp nối Hội nghị quốc tế có tính chất lý thuyết và thực hành trên đây, là cuộc hành hương của các Giáo Lý viên trong năm Đức tin, bắt đầu từ thứ bẩy, 28-9.

Theo chương trình, từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều, là cuộc hành hương tại Mộ Thánh Phêrô: các nhóm giáo lý viên sẽ vào Đền thờ Thánh Phêrô để tuyên xưng đức tin; đồng thời tại các địa điểm gần Đền Thờ này có một số nơi để cử hành bí tích hòa giải và chầu Mình Thánh Chúa.

Lúc 3 giờ chiều, có các buổi huấn giáo tùy theo ngôn ngữ tại một số nhà thờ ở Roma, và tiếp theo đó là thánh lễ.

Sáng chúa nhật 29-9 vào lúc 10 giờ rưỡi, có thánh lễ do ĐTC Phanxicô chủ sự tại Quảng trường thánh Phêrô.

2. Cuộc hành hương của các Hội đoàn Thánh Mẫu
Sinh hoạt này sẽ diễn ra trong hai này 12 và 13-10-2013 với sự tham dự của hàng chục ngàn thành viên các Hội đoàn Thánh Mẫu, chuyên cổ võ lòng sùng kính Đức Mẹ.

Theo chương trình tổng quát: sáng thứ bẩy 12-10, từ 8 đến 12 giờ, các nhóm tín hữu sẽ hành hương tại mộ Thánh Phêrô, trong khi đó từ 9 đến 12 giờ có chầu Thánh Thể và cử hành bí tích hòa giải tại một số nhà thờ gần Quảng trường thánh Phêrô.

Ban chiều vào lúc 7 giờ có cuộc cung nghinh tượng Đức Mẹ Fatima tại Quảng trường thánh Phêrô với sự hiện diện của ĐTC, và có các bài giáo lý về Thánh Mẫu.

Từ 7 giờ tối, Tượng Đức Mẹ Fatima sẽ có mặt tại Đền thánh Đức Mẹ tình yêu Thiên Chúa cách trung tâm Roma 15 cây số. Tại đây giáo phận Roma sẽ tổ chức buổi canh thức cầu nguyện suốt đêm, trong đó có buổi đọc kinh Mân Côi được nối với các Trung Tâm Thánh Mẫu trên thế giới, kế đến là canh thức từ lúc 10 giờ.

Sáng hôm sau, chúa nhật 13-10, tượng Đức Mẹ được đưa trở lại Quảng trường Thánh Phêrô. Tại đây lúc 10 giờ có đọc kinh Mân Côi và nửa tiếng sau đó là thánh lễ do ĐTC Phanxicô cử hành.

Đón rưc tưng Đức Mẹ Fatima và thánh hiến cho Đức Mẹ

Hồi đầu tháng 8 năm nay, Ban giám đốc Đền thánh Đức Mẹ Fatima ở Bồ đào nha, cho biết chính ĐTC Phanxicô đã yêu cầu đưa nguyên bản tượng Đức Mẹ Fatima về Vatican cho dịp cử hành này. Đây sẽ là lần thứ 11 tượng Đức Mẹ Fatima, tạc hồi năm 1920, được đưa khỏi Đền thánh Đức Mẹ. Trong lần thứ 7, cách đây 29 năm (1984), tượng Đức Mẹ được đưa về Vatican trong lễ nghi thánh hiến thế giới cho Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ do ĐTC Gioan Phaolô 2 cử hành tại Đền thờ Thánh Phêrô sáng ngày 25-3-1984.

Sau đó, ngày 8-10 năm thánh 2000, tượng Đức Mẹ Fatima lại được đưa về Vatican và trong dịp đó, Đức Gioan Phaolô 2 đã thánh hiến Ngàn Năm Mới cho Đức Mẹ trước sự hiện diện của 1500 GM đến từ các nơi trên thế giới.

ĐTC Gioan Phaolô 2 có một liên hệ đặc biệt với Đức Mẹ Fatima và ngài xác tín đã được Đức Mẹ gìn giữ trong cuộc mưu sát ngài ngày 13-5-19081 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Về sau ngài đã tặng cho Đức GM Fatima viên đạn mà ngài bị bắn và Đức Cha đã cho gắn viên đạn đó vào triều thiên bằng vàng của tượng Đức Mẹ.

Về phần ĐTC Phanxicô, ngài đã nhắc đến tượng Đức Mẹ Fatima trong buổi đọc kinh truyền tin đầu tiên chúa nhật 17-3 năm nay, tức là 4 ngày sau khi được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài nói đến một bản sao tượng Đức Mẹ Fatima được rước đi các nơi trên thế giới và kể lại rằng: ”Tôi còn nhớ hồi năm 1992, khi tôi mới làm Giám Mục, tượng Đức Mẹ Fatima được rước đến thành phố Buenos Aires và đã có một thánh lễ trọng thể được cử hành cho các bệnh nhân. Tôi đã đi giải tội trong dịp thánh lễ ấy. Gần cuối thánh lễ, tôi đứng lên vì phải ban phép thêm sức. Lúc ấy có một bà cụ già, khiêm tốn, rất khiêm tốn, đến gặp tôi, bà cụ đã hơn 80 tuổi, bà xin xưng tội. Và tôi ngạc nhiên vì đức tin đơn sơ nhưng sâu xa của bà. Bà nói: ”Nếu Chúa không tha thứ tất cả, thì thế giới này không hiện hữu được”.

Một tháng sau, ĐHY José Policarpo, Thượng Phụ thành Lisboa, cho biết ĐTC Phanxicô đã hai lần xin ngài phó thác sứ vụ Phêrô của Người cho Đức Mẹ Fatima.” Việc phó thác và dâng hiến ấy đã được ĐHY Policarpo thực hiện ngày 13-5 năm nay và đọc kinh như sau:

”Chúng con, các GM Bồ đào nha cùng với đông đảo các tín hữu hành hương, trong ngày kỷ niệm 96 năm Đức Mẹ hiện ra với các mục đồng, đứng dưới chân Mẹ đây, để thực hiện ước muốn của ĐGH Phanxicô, được bày tỏ rõ ràng, thánh hiến sứ vụ GM Roma và mục tử hoàn vũ của Người cho Mẹ, Đức Trinh Nữ Fatima”.

Cũng nên nhắc lại rằng việc thánh hiến thế giới cho Đức Mẹ Fatima được cử hành lần đầu tiên do ĐGH Piô 12 ngày 30-11 năm 1942 giữa lúc thế chiến thứ 2 đang hoành hành. Ngài nói bằng tiếng Bồ đào nha, qua đài phát thanh, dâng hiến thế giới cho Khiết Tâm Đức Mẹ, và ám chỉ tới cả nước Nga.

Sự kiện ĐGH Phanxicô không gặp vấn đề gì khi công khai bày tỏ lòng gắn bó với Đức Mẹ cũng được biểu lộ qua 5 lần ngài đến viếng thăm cầu nguyện tại Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma. Lần đầu vào sáng ngày 14-3 năm nay, tức là chưa đầy 15 tiếng đồng hồ sau khi được bầu làm Giáo Hoàng. Ngài đã đặt vòng hoa trước ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi của dân Roma và xin Đức Mẹ phù hộ cho dân thành này… Lần thứ 5 sáng ngày 29-7-2013, khi ĐTC từ phi trường Ciampino về Vatican sau chuyến viếng thăm tại Brazil nhân dịp Ngày Quốc Tế giới trẻ. Ngài dừng lại tại Đền thờ Đức Bà Cả để cảm tạ Đức Mẹ.

3. Cuộc gặp gỡ các gia đình Công Giáo thế giới

Biến cố chót dịp Năm Đức Tin được cử hành ở Roma là cuộc gặp gỡ các gia đình Công Giáo từ các nơi trên thế giới trong hai ngày 26 và 27 tháng 10 với ĐTC Phanxicô để cử hành ngày đời sống gia đình.

Cuộc hành hương có chủ đề là ”Hỡi gia đình, hãy sống niềm vui đức tin! Cuộc hành hương của các gia đình tại Mộ Thánh Phêrô nhân Năm Đức tin”.

Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng cũng là cơ quan tổ chức biến cố này, cho biết cuộc hành hương là cơ hội chia sẽ vui mừng của các gia đình trên thế giới. Các đôi vợ chồng sẽ được con cái và các ông bà nội ngoại tháp tùng. Họ được mời làm chứng về đức tin trong vui tươi và tín thác tại Mộ Thánh Phêrô. Tầm quan trọng của gia đình như nơi ưu tiên để thông truyền đức tin thúc đẩy chúng ta cầu nguyện và suy tư về gia trị của chính gia đình và làm chứng về đức tin của chúng ta trong toàn thế giới.

Theo chương trình đại cương, các gia đình tại Quảng trường Nhân Dân (Piazza del Popolo) sáng thứ bẩy, 26-10, và lúc 2 giờ họ tuần hành về Quảng trường thánh Phêrô và cầu nguyện tại đây. Lúc 6 giờ chiều, ĐTC Phanxicô sẽ đến gặp gỡ họ.

Sáng chúa nhật 27-10, có buổi đọc kinh Mân Côi, tiếp đến là thánh lễ do ĐTC cử hành lúc 10 giờ cũng tại Quảng trường thánh Phêrô và sau đó là kinh Truyền Tin.

Năm Đức Tin nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, do ĐTC Biển Đức đề xướng và khai mạc ngày 11-10 năm 2012 sẽ kết thúc với thánh lễ trọng thể do ĐTC Phanxicô chủ sự lúc 10 giờ sáng chúa nhật 24-11 tới đây tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong 14 tháng qua, rất nhiều sinh hoạt đã được cử hành tại các Giáo Hội địa phương cũng như tại Roma nhân dịp Năm Đức Tin.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

KITÔ HỮU PHẢI TRẢ GIÁ MẮC MỎ NHẤT VÌ CÁC CHIẾN CUỘC VÙNG TRUNG ĐÔNG

KITÔ HỮU PHẢI TRẢ GIÁ MẮC MỎ NHẤT VÌ CÁC CHIẾN CUỘC VÙNG TRUNG ĐÔNG

BEIRUT: Đức Hồng Y Becharai Rai, Thượng Phụ Maronít Antiokia, bầy tỏ lo âu vì thấy các cuộc chiến trong vùng Trung Đông tàn phá toàn vùng, và khiến cho các Kitô hữu phải trả giá qúa mắc mỏ.

Trong cuộc phỏng vấn đành cho đài Vaticăng ngày 23-8-2013, Đức Hồng Y nói rằng tất cả những gì xảy ra trong vùng Trung Đông, tại Ai cập cũng như Siria và Irak, đều có hai mặt: Tại Irak và Siria đó là chiến tranh giữa các tín hữu Sunnít và Schiít; tại Ai cập đó là chiến tranh giữa các lực lượng hồi cuồng tín, trong đó có các nhóm Anh em hồi giáo, và những người hồi hòa hoãn. Có những nước tây phương và cả những nước đông phương khơi lên các xung khắc này. Từ 1,400 năm nay các Kitô hữu chung sống với các tín hữu hồi, và đã phổ biến trong các vùng đất này các giá trị nhân bản, luân lý, các giá trị của xã hội đa tôn giáo, đa chủng tộc và tân tiến.

Nhờ sự hiện diện của các Kitô hữu trong cuộc sống thường ngày của các quốc gia A rập này có bầu khí hòa hoãn. Ngày nay các Kitô hữu Trung Đông đang chứng kiến sự tàn phá những gì mà họ đã xậy dưng trong 1,400 năm qua. Các tín hữu Kitô phải trả giá mắc mỏ cho các cuộc chiến giữa người hồi Sunnít và người hồi Schiít, giữa các người hồi hòa hoãn và các người hồi cuồng tín.

Mỗi khi có chiến tranh, căng thẳng là người hồi lại tấn công các tín hữu Kitô, làm như thể các Kitô hữu luôn luôn là con dê đền tội. Bên ai Cập chính các lực lượng Anh em hồi giáo đã cướp bóc đốt phá các nhà thờ của Kitô hữu cũng như tấn công họ. Đó là tâm thức của một số người hồi. Cứ mỗi khi có hỗn loạn là họ lại tấn công các Kitô hữu, mà không biết lý do tại sao. Đó là điều đã xảy ra tại Irak, Siria và giờ đây tại Ai Cập.

Đức Hồng Y Rai cho biết các tín hữu Kitô trong toàn thế giới A rập đã luôn luôn tôn trọng các cơ cấu, chính quyền và hiến pháp tại các nơi họ sinh sống. Tại Ai cập vì đảng các Anh em Hồi giáo muốn áp đặt luật Sharia trên toàn dân nên dân chúng mới xuồng đường biểu tình yêu cầu có các cải tổ.

Theo Đức Hồng Y có một chương trình tàn phá vùng Trung Đông và đường lối chính trị này đến từ bên ngoài. Cũng có chương trình tạo căng thẳng giữa các nhóm hồi Sunnít và Schilít, nghĩa là để tàn phá vùng Trung Đông. Và các Kitô hữu là những người phải trả giá cho sự tàn phá ấy (RG 23-8-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

HỘI ĐỒNG ĐẠI KẾT CÁC GIÁO HỘI KITÔ PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH CHỐNG GIAN THAM HỐI LỘ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

HỘI ĐỒNG ĐẠI KẾT CÁC GIÁO HỘI KITÔ PHÁT ĐỘNG CHIẾN DỊCH CHỐNG GIAN THAM HỐI LỘ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

GENÈVE: Ngày 22-8-2013 Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô có trụ sở tại Genève bên Thụy sĩ, đã ra thông cáo kêu gọi tín hữu thuộc hơn 300 giáo hội thành viên phát động chiến dịch chống gian tham hối lộ trên toàn thế giới.

Trong các ngày 14-20 tháng 10 năm 2013 Kitô hữu toàn thế giới được mời gọi mạnh mẽ lên tiếng phản đối nạn gian tham hối lộ, trốn thuế và lừa đảo đang làn tràn khắp nơi, khiến cho cuộc sống của các thành phần yếu đuối nhất trong xã hội phải thiệt thòi.

Sáng kiến này đã do một liên minh các tổ chức Kitô có tên gọi là ”Thách đố Micah” đề xướng. Sẽ có một loạt các hoạt động như các buổi canh thức cầu nguyuện, các cuộc gặp gỡ suy tư, và thu thập chữ ký để gửi đến đại diện các chính quyền sẽ tham dự hội nghị thượng đỉnh G20 vào tháng 11 năm 2014.

Mục sư Olav Fykse Tveit, Tổng thư ký Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô, cho biết nạn gian tham hối lộ đã đâm rễ sâu và được quảng cáo bởi các cơ cấu kinh tế và nền văn hóa, cũng như các hệ thống giá trị bị lèo lái bởi ước muốn tham lam kiếm tìm lợi nhuận. Đương đầu với nạn gian tham hối lộ có hệ thống là vấn đề bênh vực công lý của Thiên Chúa chống lại bất công kinh tế. Song song chiến dịch cũng nhắm khích lệ các thái độ sống tích cực và liêm chính.

Hồi tháng 9 năm 2009 Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô cũng đã phổ biến một tài liệu nêu bật sự cần thiết phải xậy dựng một trật tự kinh tế tài chánh mới nhằm bảo vệ các người nghèo và bị gạt bỏ ngoài lề xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh là cơ may giúp tín hữu Kitô dấn thân hoạt động để chữa lành xã hội đang lún sâu trong cảnh nghèo đói, thất nghiệp và hố sâu ngăn cách giữa thiểu số giầu và đại đa số nghèo. Nạn gian tham hối lộ và bất công xã hội là dấu chỉ mức độ vô luân của một hệ thống chỉ đề cao tiền bạc, quyền bính, tham lam vô độ và vô nhân. Trong các ngày 23-25 tháng 8 cũng có hội nghi quốc tế về nạn gian tham hối lộ và hệ thống kinh tế tài chánh liêm chính (SD 23-80-2013)

Linh Tiến Khải- Vatican Radio

CÁC GIÁM MỤC HOA KỲ DẤN THÂN CỐNG HIẾN CHO CON CÁI NGƯỜI DI DÂN NHỮNG CƠ HỘI GIÁO DỤC MỚI

CÁC GIÁM MỤC HOA KỲ DẤN THÂN CỐNG HIẾN CHO CON CÁI NGƯỜI DI DÂN NHỮNG CƠ HỘI GIÁO DỤC MỚI

WASHINGTON: Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cống hiến những cơ hội giáo dục mới cho con cái các gia đình di dân cũng như gây ý thức và kêu gọi thẩm quyền chính trị trong nước cải tổ luật pháp hầu mở rộng lãnh vực đón tiếp và giúp mọi người dễ dàng hội nhập vào xã hội Mỹ hơn.

Mữ tu Mary Mary Walsh phát ngôn viên của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng hệ thống giáo dục học đường công giáo cống hiến nhiều cơ hội hội nhập lớn cho các gia đình. Các trẻ di dân cần biết nhiều hơn về các trường học của chúng ta. Vì thế các linh mục nên khuyến khích các gia đình đến với các học viện công giáo và kêu gọi chính quyền dấn thân hỗ trợ để các bậc cha mẹ được tự do hơn trong việc chọn lựa hệ thống giáo dục cho con cái, theo kiểu mẫu của bang Pennsylvania trợ cấp cho các gia đình nghèo muốn chuyển con cái từ trường công vào các trường tư, có trình độ giáo dục cao hơn.

Từ nhiều năm nay, các Giám Mục Hoa Kỳ cũng cộng tác với những cơ cấu Kitô khác trong lãnh vực di dân. Hồi năm 2001, một tổ chức đại kết có tên là Christian Churches Together đã được thành lập, quy tụ hơn 40 Giáo Hội Kitô trong đó có Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Trong kỳ đại hội khoáng đại sau cùng, triệu tập từ ngày 29-1 đến 1-2-2013, tổ chức đại kết này đã bày tỏ hy vọng sớm đạt đến một tài liệu về phẩm giá của người di dân nội trong năm 2013 này. (CSD 22-08-13)

Mai Anh – Vatican Radio

Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm nhiều vị trí mới

Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm nhiều vị trí mới

Đức Hồng y Bertone có thể sẽ thôi làm Bộ trưởng ngoại giao Vatican.

Việc bổ nhiệm các vị trí nhỏ gần đây có thể là những báo hiệu của cuộc “cách mạng” cải tổ Giáo triều Rôma của Đức Thánh cha Phanxicô – ngài chỉ muốn giữ lại một ít người xung quanh. Nguồn tin thân cận Phủ quốc vụ khanh Vatican nói với CNA hôm 13 tháng 8 rằng “Một cuộc chuyển giao đã sẵn sàng và Đức Giáo Hoàng có dự tính riêng mà ngài chỉ chia sẻ cho một vài người xung quanh”.

Theo nguồn tin, sự chuyển giao này có thể được nhìn thấy bởi những việc ‘bổ nhiệm phụ”, chẳng hạn như Tổng giám mục Guido Pozzo, Đức ông Konrad Krajewski và Đức ông Francesso Camaldo.

Những bổ nhiệm này dọn đường cho những bổ nhiệm quan trọng của Đức Giáo Hoàng – nguồn tin tiết lộ – và “cuộc cách mạng có thể sẽ bắt đầu bằng việc bổ nhiệm Bộ trưởng ngoại giao Vatican vào tháng 9.”

Bộ trưởng ngoại giao hiện tại là Đức Hồng y Tarcisio Bertone đã được Đức Bênêdictô bổ nhiệm cách đây 7 năm. Đây là vị trí quan trọng thứ hai trong giáo triều Rôma chỉ sau Đức Giáo Hoàng.

Trong số “những bổ nhiệm phụ”, thông báo hôm thứ bảy mồng 3 tháng 8 nói rằng Tổng Giám mục Pozzo sẽ đảm nhận vị trí trước đây của ngài là thư ký Ủy ban Giáo hoàng Eccesia Dei, văn phòng giáo triều phụ trách hoà giải với những người theo Hội Thánh Giáo Hoàng Piô X.

Đồng thời, Đức Ông Krajewski, người dẫn chương trình cho Đức Giáo Hoàng và là linh mục tổng giáo phận Lódz ở Ba Lan, sẽ thay Đức Tổng Giám mục Pozzo làm giám đốc văn phòng từ thiện của Đức Giáo Hoàng. Theo một nguồn tin thân cận Hội Piô X nói với CNA hôm 14 tháng 8 yêu cầu không nêu tên cho biết, việc tái bổ nhiệm Tổng Giám mục Pozzo là thư ký hội có thể “có ý nghĩa nhấn mạnh vai trò của Ecclesia Dei, và điều này có nghĩa là Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang suy nghĩ và tìm cách tiếp cận lại sau thất bại hồi tháng Hai”.

Nguồn: Catholic News Agency (Andrea Gagliarducci cho Catholic News Agency, Vatican )

Trích từ UCANEWS

Đừng sợ hãi bước qua cửa hẹp của Chúa Giêsu để gia nhập gia đình của Thiên Chúa

Đừng sợ hãi bước qua cửa hẹp của Chúa Giêsu để gia nhập gia đình của Thiên Chúa

Chúa Giêsu là cửa dẫn chúng ta vào trong gia đình ấm êm của Thiên Chúa và sự hiệp thông với Người. Chúng ta đừng sợ hãi bước qua cửa niềm tin nơi Chúa Giêsu, để cho Người luôn ngày càng bước vào trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta ra khỏi các ích kỷ, các khép kín, các thờ ơ của chúng ta đối với tha nhân.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời khích lệ như trên trước mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyên Tin trưa Chúa Nhật 25-8-2013 tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy tư về đề tài ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu đang từ Galilea đi lên thành Giêrusalem và dọc đường, thánh sử Luca kể, có một người nọ tới gần và thưa với Người: ”Lậy Chúa, có ít người được cứu rỗi phải không?” (Lc 13,23). Chúa Giêsu không trả lời cậu hỏi một cách trực tiếp: không là điều quan trọng biết xem có bao nhiêu người đươc cứu rỗi, mà quan trọng hơn biết đâu là con đường của ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu trả lời câu hỏi băng cách nói: ”Các con hãy cố gắng vào cửa hẹp, bởi vì nhiều người sẽ tìm vào mà không thành cộng” (c. 24). Chúa Giêsu muốn nói gì vậy? Đâu là cửa mà chúng ta phải vào? Và tại sao Chúa Giêsu lại nói về cửa hẹp? Đức Thánh Cha trả lời như sau:

Cửa đó là chính Chúa Giêsu (x. Ga 10,9). Người là cửa, là đường cho sự cứu rỗi. Người dẫn chúng ta tới Thiên Chúa Cha. Và cửa là Giêsu không bao giờ đóng, cửa này không bao giờ đóng, nó luôn luôn mở và mở cho tất cả mọi người, không phận biệt, không loại trừ, không đặc ân. Bởi vì anh chị em biết không, Chúa Giêsu không loại trừ ai hết. Có lẽ có ai đó trong anh chị em sẽ có thể nói với tôi rằng: Nhưng mà thưa cha, chắc chắn là con bị loại trừ rồi, bởi vì con là một kẻ tội lỗi lắm: con đã làm những điều xấu xa, con đã làm biết bao nhiêu, trong cuộc sống…” Không, bạn không bị loại trừ đâu! Chính vì điều đó mà ban là người được ưa thích, bởi vì Chúa Giêsu luôn luôn ưa thích kẻ có tội hơn. Để tha thứ cho họ, để yêu thương họ… Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn để ôm bạn vào vòng tay của Người, để tha thứ cho bạn… Đừng sợ: Ngài chờ đợi bạn. Hãy linh hoạt lên, hãy can đảm bước vào cửa của Người.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói hình ảnh cái cửa hay trở lại trong Phúc Âm, và nhắc nhờ tới cửa nhà, của tổ ấm gia đình, nơi chúng ta tìm thấy an ninh, tình yêu và hơi ấm. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng có một cửa làm cho chúng ta bước vào trong gia đình của Thiên Chúa, trong sự ấm áp của nhà Thiên Chúa, của sự hiệp thông với Người. Tất cả chúng ta đều được mời gọi bước qua cửa đó, bước qua cửa của đức tin và vào trong cuộc sống của Người, để cho Người vào trong cuộc sống của chúng ta, để Người biến đổi nó, canh tân nó, ban cho nó niềm vui tràn đầy và lâu bền.

Ngày nay chúng ta đi qua trước biết bao nhiêu cửa mời gọi vào bằng cách hứa hẹn một hạnh phúc, mà rồi chúng ta nhận ra rằng nó chỉ kéo dài một lát, nó cạn kiệt trong chính nó, và không có tương lai. Nhưng tôi xin hỏi anh chị em: Chúng ta vào qua cửa nào đây? Và chúng ta muốn cho ai vào qua cửa cuộc sống chúng ta? Và Đức Thánh Cha mạnh mẽ mời gọi như sau:

Tôi muốn mạnh mẽ nói rằng: chúng ta đừng sợ hãi bước qua cửa niềm tin nơi Chúa Giêsu, để cho Người ngày càng bước vào hơn trong cuộc sống chúng ta, để ra khỏi các ích kỷ của chúng ta, ra khỏi các đóng kín của chúng ta, ra khỏi các thờ ơ của chúng ta đối với các người khác. Bởi vì Chúa Giêsu soi sáng cuộc sống chúng ta với một ánh sáng không tắt nữa. Nó không phải một pháo bông, không phải là một ánh chớp: không. Nó là một ánh sáng yên tĩnh kéo dài luôn mãi, và trao ban cho chúng ta hòa bình. Chúa Giêsu là ánh sáng mà chúng ta gặp, nếu chúng ta qua cửa của Chúa Giêsu. Dĩ nhiên cửa của Chúa Giêsu là một cửa hep, không phải bởi vì nó là một phòng tra tấn. Không, không phải vì vậy! Nhưng bởi vì người đòi hỏi chúng ta mở con tim ra cho Người, nhận biết chúng ta là kẻ tội lỗi, cần đến ơn cứu rỗi của Người, sự tha thứ của Người, tình yêu của Người, khiêm tốn tiếp nhận lòng thương xót của Người và để cho Người canh tân chúng ta. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng là tín hữu kitô không phải là một nhãn hiệu! Tôi xin hỏi anh chị em: anh chị em là tín hữu kitô của nhãn hiệu hay của sự thật? Mỗi người hãy tự trả lời trong lòng mình nhé. Không bao giờ là tín hữu kitô của nhãn hiệu! Nhưng là kitô hữu thực thụ của con tim. Là kitô hữu là sống và làm chứng cho đức tin trong lời cầu nguyện, trong các việc bác ái, trong việc thăng tiến công lý, và thực thi điều thiện. Toàn cuộc sống chúng ta phải đi qua cửa hẹp là Chúa Kitô.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Chúng ta hãy xin Đức Trinh Nữ Maria, là Cửa Trời, giúp chúng ta đi qua cửa đức tin, để cho Con Mẹ biến đổi cuộc sống chúng ta như đã biến đổi cuộc sống của Mẹ, để đe, tin vui của Phúc Âm tới cho tất cả mọi người.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cất Kinh Truyền Tin và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Sau Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha đã lại kêu goi hòa bình cho dân nước Siria. Ngài nói: Tôi tiếp tục theo đõi tình hình tại Siria với nỗi đau đớn lớn lao và sự âu lo. Việc gia tăng bạo lực trong một trận chiến huynh đệ với, các tai ương và hành động tàn ác gia tăng, mà chúng ta tất cả cũng đã có thể trông thấy trong các hình ảnh kinh khủng của những ngày này, lại một lần nữa thúc đẩy tôi lên tiếng để cho tiếng súng im lặng. Không phải xung đột cống hiến các viễn tượng hy vọng giúp giải quyết các vấn đề, nhưng là khả năng gặp gỡ và đối thoại.

Từ cùng tận trái tim tôi, tôi muốn bầy tỏ sự gần gũi của tôi, qua lời cầu nguyên và tình liên đới, với tất cả các nạn nhân của cuộc xung đột này, với tất cả những người đau khổ, đặc biệt là các trẻ em, và tôi xin mời gọi họ luôn giữ cho niềm hy vọng hòa bình cháy sáng. Tôi kêu gọi Cộng đồng quốc tế tỏ ra nhậy cảm hơn đối với tình hình thê thảm này và dấn thân để trợ giúp Quốc gia Sirai thân yêu tìm ra một giải pháp cho một cuộc chiến gieo tàn phá và chết chóc. Chúng ta tất cả cùng cầu nguyện, Chúng ta tất cả cùng xin Đức Mẹ, Nữ Vương Hòa Bình: Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình cầu cho chúng con. Xin tất cả mọi người: Lậy Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình cầu cho chúng con.

Đức Thánh Cha đã chào nhiều nhóm tín hữu khác nhau và chúc mọi người trở về với cuôc sống thường ngày an lành và cùng nhau nhìn tương lai với niềm hy vọng.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

THIÊN CHÚA KHÔNG XÉT LÝ LỊCH

THIÊN CHÚA KHÔNG XÉT LÝ LỊCH

Lời của Chúa là Tin Mừng, không thể nào là tin buồn cả. Nhưng, thiết tưởng,  trang Tin Mừng hôm nay gợi lên cho mỗi người một nỗi buồn chính đáng, nỗi lo chính đáng. Nỗi buồn chính đáng về đoạn hành trình chúng ta đã đi qua, và nỗi lo chính đáng về hành trình chúng ta đang đi tới.

Chúa Giê-su cho chúng ta biết trước về sự tuyển chọn công dân Nước Trời, tuyển chọn người vào dự tiệc trong Nước Trời theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Thật đáng buồn thay khi phải đón nhận những lời yêu rất thẳng thắn mà cũng rất đáng buồn, đáng khiếp sợ nếu mỗi chúng ta phải nhận lấy lời này:

“Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!”

“Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!”

 Thiên Chúa không xét lý lịch

 Rõ ràng là Thiên Chúa không phán xét mỗi chúng ta theo tiêu chuẩn lý lịch. Đáng buồn thay! Lâu nay chúng ta vẫn tự hào rằng chúng ta là con cháu của các Thánh Tử Đạo, của các chứng nhân anh dũng đã từng bị bách hại, bị giết chết ngàn ngàn người, bị chôn tập thể ở nhiều gò nhiểu nỗng mà bây giờ vẫn còn gọi là Gò Mã Thánh, hay Gò Thánh. Lại cũng có người khoe khoang rằng dòng họ nhà mình có vài người làm Đức Cha, có cả chục người làm Linh Mục, tu sĩ nam nữ thì vô kể. Người khác lại tự hào rằng dòng mình thì không có cha, có sơ nhưng ông cố, ông sơ theo đạo thời xửa thời xưa vài trăm năm trước. Đáng buồn thay khi không chỉ tự hào khoe khoang về lí lịch của mình, mà đôi khi còn lên mặt dạy đời cho những người tân tòng, chê bai dè bỉu những người mới theo đạo trong một hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Theo đạo khi lập gia đình với người có đạo, theo đạo sau một cơn bạo bệnh được giúp đỡ, chẳng hạn… Đáng buồn thay! Chúng ta thật vô lý vì rõ ràng là chính mình đã có đạo, nhưng gần như chỉ là đạo danh nghĩa, đạo giấy tờ mà chửa thực sự sống tinh thần của Đạo. Chúng ta chẳng khác nào những người Do Thái ngày xưa lấy lí lịch của mình ra mà kỳ kèo với Thiên Chúa để được vào Nước Trời rằng: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”.

Trong lý lịch ở đời, người ta có yêu cầu phải khai rõ làm nghề gì, ở đâu, nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài không hỏi chi tiết này. Thế thì chúng ta có nhận ra sự vô duyên của mình khi mãi tự hào về chức vụ của mình trong Hội Thánh Chúa. Cần thiết để được chuẩn vào Nước Trời sao, mà có người cứ phải tranh giành làm ông kia bà nọ trong Giáo Xứ. Và khi không được bầu vào chỗ mà mình ước ao, thì đâm ra bất mãn, chê bai, tìm cách bêu xấu, hạ bệ những người đương chức. Không phải là hiếm những trường hợp kiện cáo vô duyên nơi các giáo xứ, các hội đoàn chỉ vì lòng ganh tỵ không đáng có. Đáng buồn thay. Chúa không tuyển vào Nước Trời theo tiêu chuẩn chức vị, chức vụ hay công trạng làm việc cho Chúa, cho Hội Thánh lâu năm.

Chúa cũng không xét về trình độ hiểu biết về Thiên Chúa. Vậy mà trong chúng ta vẫn có người rất tự mãn về vốn học, vốn tu nghiệp, vốn đào tạo một mớ kiến thức thần học. Cũng có người tự hài lòng về tài năng giảng thuyết về Thiên Chúa rất thuyết phục, rất hấp dẫn. Người khác lại tự hào về những tác phẩm viết về Thiên Chúa, những suy tư, những ca khúc, những bài văn, bài thơ, những công trình nghiên cứu đồ sộ… Đáng buồn thay! Chúa cũng không xét về trình độ, về tác phẩm.

Nhờ Lời Chúa hôm nay soi sáng, chúng ta có thể thấy còn nhiều điều đáng buồn cho cái suy nghĩ kém cỏi của mình, cái lầm tưởng của mình, khi tự vẽ ra cho mình một Nước Thiên Chúa y chang như một đất nước trần gian về chuyện thưởng, phạt. Vì quả thực, các nước ở trần gian thưởng không đúng người, phạt không đúng tội vẫn là chuyện cơm bữa. Nước nào càng kém văn minh về tình thương, kém hiểu biết về Thiên Chúa thì càng bất công, bất chính tồi tệ hơn.

 Tiêu chuẩn của Thiên Chúa

Chúa Giê-su biết rõ lòng dạ con người chúng ta đang quá vấn vương mùi đời và không muốn cho chúng ta suy nghĩ lầm lạc về Nước Thiên Chúa. Ngài đã trả lời cho thắc mắc của một người rằng “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” bằng câu nói “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”.

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” chính là tiết lộ tiêu chuẩn của Thiên Chúa dành cho những ai muốn được vào Nước Trời.

Câu trả lời ấy là Lời Vàng cho mỗi chúng ta, nhắc nhở cho chúng ta một nỗi lo rất chính đáng trên đoạn hành trình còn lại của mỗi người: vào Nước Trời qua lối hẹp, lối mà Chúa Giê-su đã đi.

Hai từ “lối hẹp” hay “cửa hẹp” mà Chúa Giê-su dùng hôm nay như phần kết luận, hay bản tóm tắt cả một cuộc đời của Ngôi Con Thiên Chúa, tóm tắt bao nhiêu Lời đã mạc khải, Lời đã giảng dạy trong hành trình rao giảng Nước Thiên Chúa.

-Lối hẹp của lòng khiêm cung và vâng phục tuyệt đối: Con Thiên Chúa cao trọng quyền phép lại khiêm cung vô cùng để con người kiêu căng phải biết cúi đầu nhận tội. Con Thiên Chúa chịu bước xuống làm người, để con người được bước lên cùng Thiên Chúa. Con Thiên Chúa chấp nhận bỏ trời xuống đất, để con người biết buông bỏ mọi sự phù vân dưới đất mà lên trời vĩnh cửu. Con Thiên Chúa toàn năng, chí thánh, chí thiện bằng lòng mang thân phận tội nhân, để tội nhân được vinh phúc thông chia sự thánh thiện của Ngài…

-Lối hẹp của tình yêu thương tuyệt đối: Con Thiên Chúa yêu thương con người để con người hẹp hòi ích kỷ biết thương nhau. Con Thiên Chúa hiến thân chịu chết cứu chuộc con người để con người biết hy sinh cho nhau được sống và sống vui. Con Thiên Chúa biết chạnh lòng trước nỗi đau của con người để con người cũng biết chạnh lòng thương xót bao mảnh đời cơ cực. Con Thiên Chúa khoan dung tha thứ cho con người tội lỗi tày trời, để con người cũng biết thứ tha cho nhau và xây dựng bình an hạnh phúc…

Vâng, nói cách khác, tiêu chuẩn của Thiên Chúa: “qua lối hẹp”, “qua cửa hẹp mà vào” là hãy nên giống Chúa Giê-su trong mọi sự, hãy đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su trong hành trình cuộc đời hành hương, hãy đi con đường Thánh Giá mà Chúa Giê-su đã đi mới mong được vào Nước Thiên Chúa.

Bấy giờ, Thiên Chúa Cha không xét lý lịch, nhưng hẳn là ai đã nên giống Chúa Giê-su trong mọi sự, thì sẽ được Ngài đón tiếp, được cho vào Nước Thiên Chúa trước. Và dĩ nhiên là, cả tôi, cả bạn, cả những người trông mong và kỳ kèo Ngài xét cho cái lý lịch con ông cháu cha, chức vụ, hay tài năng trình độ của mình mà không nên giống Chúa Giê-su thì hẳn là chỉ còn biết trông nhờ vào Lòng Thương Xót của Ngài mà thôi, nếu không nói là bị quăng ra ngoài nơi khóc lóc, nghiến răng, trầm luân muôn kiếp.

 “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.

Nỗi lo thật chính đáng: “Tôi là kẻ đứng hàng đầu, lại xuống hàng chót đấy sao?”.

Cuộc đời là chuyến hành hương

Người đi phải chọn đúng Đường mà đi…

(Hương Nam)

 Lạy Chúa Giê-su, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con biết tiêu chuẩn vào Nước Trời. Xin cho chúng con biết chọn con đường Thánh Giá của Chúa mà can đảm và kiên trì bước đi. A men.

 PM. Cao Huy Hoàng, 24-8-2013

 

Đường vào Nước Trời

Đường vào Nước Trời

Có nhiều hay ít người được cứu độ? Những ai được cứu độ? Phải làm gì để được cứu độ? Đây là những câu hỏi rất quan trọng. Sở dĩ người Do thái đặt câu hỏi nhiều hay ít người được cứu độ, vì họ tin là chỉ có người Do thái, chỉ có dân tộc Do thái là dân riêng mới được cứu, còn dân ngoại thì Thiên Chúa tiêu diệt hết. Nơi Cựu ước chúng ta cũng có thể thấy quan niệm này nơi tiên tri Giona, ông không vâng lời Chúa, trốn đi để khỏi phải rao giảng lời Chúa cho Israel và dân ngoại, mà dân ngoại thì Chúa đâu có cứu cho nên giảng làm gì. Người biệt phái thì họ càng tin chắc hơn quan điểm này. Quan điểm này sau đó nhiễm luôn cả giám mục Jancénius, có muốn nên thánh mà Chúa không cho thì cũng hư đi thôi, hậu quả là người ta sống buông thả, hưởng thụ, không được đời sau thì phải bám lấy cái đời này thôi.

Thật sự tìm hiểu kỹ Thánh Kinh thì không phải như thế, mà Chúa cứu cả dân ngoại. Lịch sử cứu độ Cựu ước, sau thời kỳ Babylon Chúa đã làm cho dân ngoại qui về Thiên Chúa, đến nỗi cả đế quốc Ba Tư là dân ngoại cũng yểm trợ cho dân Israel trở về tái thiết quê hương.

Isaia nơi bài đọc I cho thấy Chúa tập họp các dân nước đến và cho thấy vinh quang Chúa. Isaia trình bày cho chúng ta rất rõ ý muốn và tình yêu của Giavê Thiên Chúa qui tụ mọi dân tộc, biến họ thành một dân duy nhất. Dân Israel trở về quê hương đầy phấn khởi và hy vọng sau một thời kỳ dài làm nô lệ bi đát, ghê tởm. Khi trở về rồi thì họ phải đương đầu với thực tế khó khăn ghê gớm. Vì tế, Isaia cố gắng đem lại cho họ nghị lực đã bị suy giảm và có thể rơi vào tuyệt vọng bằng cách là diễn tả một tương lai sáng chói cho một dân được tuyển chọn, dân đó chính Chúa chọn lựa làm dấu chỉ cho sự hiệp nhất mọi dân nước, mà dân nước này cũng được tiếp nhận cùng với dân riêng thuộc về Thiên Chúa, tôn thờ Thiên Chúa. Đó chính là sự hướng dẫn tuyệt diệu trong Hội thánh do Đức Kitô thiết lập cho cả nhân loại, cho cả thế giới ở mọi thời và mọi nơi.

Với ý chí ham hiểu biết, với tính tò mò, chúng ta muốn hỏi nhiều hoặc ít người được cứu độ như người Do thái đã hỏi Chúa Giêsu. Nơi đoạn Tin Mừng chúng ta đọc lại hôm nay, Chúa Giêsu đã không trả lời thẳng câu hỏi nhiều hay ít. Nếu Ngài trả lời nhiều người được cứu độ thì người ta sẽ sống buông thả. Nếu Ngài trả lời ít người được cứu độ thì người ta sẽ thất vọng buông xuôi, hoặc sẽ rơi vào tâm trạng của người Do thái bấy giờ là tự đắc, tự mãn, vênh váo là chỉ có Chúa cứu dân tộc Do thái thôi.

Tuy nhiên, trong Phúc âm có lời Chúa châm biếm họ: “Không phải những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Chúa. Trong ngày phán xét nhiều kẻ nói chính tôi nhân danh Chúa làm được cái này, làm cái kia, nhân danh Chúa trừ quỉ, nói tiên tri, làm phép lạ… Bấy giờ chủ tuyên bố: Ta không biết các ngươi là ai, hãy xéo đi khỏi mặt Ta hỡi những phường tác quái”.

Vì thế, lẽ ra người ta phải đặt câu hỏi: Làm sao để được cứu độ? Làm gì để được cứu độ? Cho nên Chúa trả lời các người hỏi là: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời”, chứ Ngài không trả lời là nhiều hay ít người được cứu. Như thế, đường vào Nước Trời hẳn không phải là thênh thang mà là cửa hẹp, cho nên phải chiến đấu. Mà nói đến chiến đấu thì chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước và được tiếp nối qua bài Tin Mừng hôm nay thì cuộc đời Giáo Hội lữ hành là một cuộc đời dân Chúa chiến đấu. Có nhiều lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưng chiến đấu với chính mình là quan trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh của tự kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to vì tự hào, tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có cái tôi cồng kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho nên không vào được.

Lucife đã phình to, Ađam Eva đã phình to, vì thế Chúa nói hãy chiến đấu, chiến đấu cho cái tôi nhỏ lại trước anh em, chiến đấu cho cái tôi khiêm hạ trước Thiên Chúa rất cần thiết. Ai trong chúng ta cũng cảm thấy rằng, có những lúc trong mình cái tôi có khuynh hướng muốn bành trướng để thu tích. Thu tích trí thức, thu tích đạo đức, thu tích chức vụ, thu tích sự tín nhiệm và có khuynh hướng muốn vượt lên trên người khác. Do đó nó làm cho lòng chúng ta sơ cứng, khép lại trong mức độ khác nhau tùy mỗi người. Vì thế, Chúa muốn chúng ta chiến đấu vào của hẹp, một cuộc chiến đấu vào của hẹp là không phải tự mình đặt vào mà chính Chúa dẫn đem chúng ta vào.

Thánh Phaolô trong thơ gởi tín hữu Do thái hôm nay trình bày cho chúng ta thấy chiến đấu là phải trải qua những đau khổ thử thách. Tất nhiên chiến đấu là phải can trường; tất nhiên chiến đấu là gặp những thử thách, gặp những thương tích, gặp những đau khổ. Nhưng Thiên Chúa như một người Cha vừa nhân hậu xót thương, vừa tài trí khôn ngoan, Ngài quan tâm, Ngài sửa dạy, Ngài bổ sức, nâng đỡ, vì thế thánh Phaolô khích lệ chúng ta nơi bài đọc II: “Đừng để mình vấp phạm trước nghịch cảnh, nhưng hãy can đảm và kiên trì”.

Bước đường xem ra càng khó khăn, chúng ta càng cần phải hy vọng, tin tưởng để chiến đấu. Chúng ta cần tin Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lấy tình phụ tử chăm sóc và nâng đỡ. Ngài chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, được sự lành, dù Ngài có sửa dạy, có quở trách, có đánh đòn là chỉ vì Ngài đã chọn chúng ta làm con riêng của Ngài. Chúng ta cần tin vào Ngài để chiến đấu và chắc chắn chúng ta sẽ vào được cửa trời, cửa xem ra rất hẹp.

Qua kinh tin kính mà chúng ta sẽ tuyên xưng, cậy nhờ Mẹ Maria giúp chúng ta tin mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng xin Mẹ giúp chúng ta quảng đại, can đảm để chiến đấu thật lực.

Veritas Radio

Vào khung cửa hẹp

Vào khung cửa hẹp

khung_cua_hep

Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được vào.

Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.

Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.

Trước hết phải phấn đấu hạ mình xuống. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc 10,15).

Sau đó phải phấn đấu để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. “Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5,3).

Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.

Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.

Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.

Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập giá mình”mà theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?
2. Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến qua cửa hẹp?
3. Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?
4. Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Cửa Hẹp

Cửa Hẹp

Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.

Thiên Chúa đã chọn dân Do-thái làm dân riêng để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa đã từng bước dẫn dắt lịch sử của Dân riêng qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Qua dân này, Thiên Chúa đã mạc khải về chính mình, về vũ trụ và con người. Được chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là một ưu quyền. Tuy nhiên, Ơn Cứu Độ lại phổ quát ban cho hết mọi người. Không người nào hay dân tộc nào có đặc quyền sở hữu ơn cứu độ. Để nhận lãnh ơn cứu độ, mỗi cá nhân phải biết mở rộng tâm hồn đón nhận. Nước Trời được mở ra cho mọi người tiến vào. Không một ai là ưu tuyển được tự động bước vào Nước Trời. Tiên tri Isaia đã trình bày: Đây Chúa phán: “Ta đã biết các việc làm và tư tưởng của chúng; Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ: Chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta (Is 66, 18). Chúa sẽ qui tụ mọi dân từ khắp nơi, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ hay bất cứ sự khác biệt nào. Ai muốn tham dự Nước Chúa, hãy bước vào qua cửa hẹp.

Isaia đã nói tiên tri về một trời mới và đất mới. Một dòng dõi trường tồn. Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi người tin về một mối: Vì chưng lời Chúa rằng: Cũng như Ta tạo thành trời mới, đất mới đứng vững trước mặt Ta thế nào, thì dòng dõi ngươi và danh tánh các ngươi sẽ vững bền như vậy” (Is 66, 22). Một viễn tượng cao vời và một niềm hy vọng tuyệt đối vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đã hơn hai ngàn năm trăm năm từ khi tiên tri Isaia xuất hiện, cuộc lữ hành đức tin tiếp tục diễn tiến từ đời này qua đời kia. Niềm hy vọng trời mới và đất mới là cùng đích của mọi loài thụ tạo. Thiên Chúa hiện hữu tự đời đời. Các thế hệ con người nối tiếp và hành trình sống niềm tin vẫn luôn tiến tới. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào chương trình cứu độ và chung kết sẽ được diện kiến vinh quang Thiên Chúa.

Chúng ta biết rằng cửa Nước Trời rộng mở nhưng không phải tất cả mọi người đều vào được. Trong khi Chúa giảng: Có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?” Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít người được cứu độ, nhưng Chúa đã mở ra một lối vào. Không ai có vé đặc biệt hay ưu quyền dành riêng. Mọi người đều bình đẳng trên con đường tiến về quê trời. Chúa Giêsu phán rằng: “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được (Lc 13, 24). Cửa rộng rãi thênh thang sẽ dẫn vào nơi hoan lạc của trần thế hưởng thụ và tiêu xài. Cửa rộng rãi tự do sẽ dẫn chúng ta vào con đường cụt. Chúa Giêsu nhập thế qua cửa hẹp. Cửa hẹp là lối đi lên. Cửa hẹp đòi hỏi phải từ bỏ, hy sinh và tiết chế. Cửa hẹp dẫn lối vào Nước Trời. Đúng thế, không mấy người thích đi vào cửa hẹp. Vì qua cửa hẹp đòi hỏi phải sống khiêm hạ, trau dồi nhân đức và sống khổ hạnh. Sống khoan dung độ lượng tha thứ bỏ qua những vướng bận cuộc đời.

Chúa Giêsu ví Ngài như là cửa chuồng chiên, ai qua cửa mà vào sẽ tìm được nơi an nghỉ thỏa thuê. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Ngài qua lối cửa hẹp. Ngài không thường hiện diện ở những nơi nhà cao cửa rộng hoặc nơi biệt thự khang trang, mà là nơi sườn núi, ngoài cánh đồng, nơi hoang mạc, chỗ nghèo hèn, bên bãi biển và nơi cung đường. Chúa mở lối vào qua cửa hẹp bằng Tám Mối phúc thật và luật yêu thương bác ái. Cửa hẹp là cửa an lạc, thanh thản và thánh thiện. Con đường hẹp cũng là con đường đi lên núi sọ. Con đường Chúa đã đi qua là con đường thánh giá, đau khổ và từ bỏ. Mọi tín hữu, dù sống trong bậc tu trì hay bậc sống gia đình đều được mời gọi đi vào con đường hẹp. Con đường hy sinh và từ bỏ ý riêng, để cùng nhau sánh bước trên con đường trọn lành. Bước theo Chúa vào con đường hẹp sẽ dẫn tới hạnh phúc Nước Trời.

Đi theo Chúa vào con đường hẹp thì không dễ. Không phải mọi người đều hưởng ứng chấp thuận. Thực tế, chúng ta rất ngại phải từ bỏ hay buông bỏ những sự lỉnh kỉnh ở đời như những thói hư tật xấu gắn liền với con người trong đời sống hằng ngày. Bỏ đi những thói xấu hay tội lỗi, chúng ta tiếc xót lắm. Chúng ta than van rằng đã vất vả làm việc cả tuần, cuối tuần phải hưởng thụ nhậu nhẹt chơi bời chút đỉnh cho vui cuộc đời. Vào cuối tuần mới có giờ rảnh rang, chúng ta phải đi giải trí Casino đôi chút chứ. Cửa rộng hay cửa hẹp có khác gì. Nghĩ rằng cuộc sống có là bao, hưởng thụ đi kẻo muộn. Có tiền bạc rủng rỉnh, nên tiêu xài mua sắm cho thỏa lòng ước mong. Chúng ta không muốn bị gò bó trong những luật lệ bị cấm đoán. Cùng thi đua với chúng bạn, chúng ta cứ thong dong hưởng phước cuộc đời. Tin là đời chúng ta còn dài, không cần phải lo lắng chi nhiều. Thế là chúng ta đang chuyển bước sang con đường rộng rãi thênh thang với hoa thơm cỏ lạ.

Đôi khi nghĩ thầm rằng chúng ta là những tín hữu ngoan đạo rồi. Chúng ta đã lãnh nhận các Bí Tích đầy đủ, tham dự các ngày lễ Chúa Nhật và lễ Trọng, xưng tội một năm một lần và đọc kinh sáng tối mỗi ngày. Hơn nữa, chúng ta yên trí mình là đạo gốc nhiều đời đã có ông bà, cha mẹ và bà con lối xóm gia hộ để có vé vào cửa Nước Trời. Chúng ta cũng đã cố gắng gia nhập các Hội Đoàn để sống đạo. Chúng ta cũng không muốn ai can thiệp vào đời sống riêng tư. Chúng ta không muốn bị nghe lời cảnh tỉnh và sửa dậy qua lời Chúa hằng tuần nơi tòa giảng. Thích nghe (tiếng ngoại quốc) mà không hiểu thì vẫn vui hơn, vì không bị lương tâm cắn rứt. Chúng ta an vui với cách sống riêng của mình và thù ghét những ai chắn đường cản lối bước ta đi. Đôi khi nghĩ rằng chúng ta độc lập tự do quyết định đường đời của mình, không cần ai nhắc nhở sửa dậy. Hãy biết lắng nghe!

Thánh Phaolô tha thiết mời gọi thái độ khiêm hạ: Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: “Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con (Dt 12, 5). Chúa đánh động tâm hồn chúng ta qua nhiều cách. Có rất nhiều khi chúng ta đang xa lạc vào đường lầm nhưng không nhận ra. Như Vua Đavít chỉ nhận ra lỗi lầm khi tiên tri Nathan gợi ý và sửa dạy. Những thói quen cuộc sống tạo thành tính tình cỗ hữu sai lầm, có người nói rằng tính tôi là vậy đó, ai chịu được thì chịu. Cần có những ánh sáng dọi chiếu để nhận diện ra chính mình. Chúa thương chúng ta nên Chúa sửa dạy: Vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con (Dt 12, 6). Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những thách thức gian truân trong cuộc sống là những bước thang thanh luyện và lối hẹp tiến lên.

Không phải cứ mang danh Kitô hữu là chúng ta bảo đảm được dự phần phúc thiên đàng. Không chỉ thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà chúng ta được vào Nước Trời, mà là dành cho những ai làm theo thánh ý Chúa. Việc sống và thực hành lời của Chúa phải sinh hoa kết qủa tốt. Đức tin phải có hành động tốt mới phát triển. Chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa như thánh Phaolô đã dậy rằng hãy chạy đến cùng đường và giữ vững đức tin. Đừng để công lao cuộc sống đạo của chúng ta ra vô ích. Chúng ta phải chiến đấu tới cùng để đạt triều thiên sự sống. Chung hưởng hạnh phúc với các tổ phụ cha ông, đừng để bị gạt ra ngoài như kẻ gian ác: Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng (Lc 13, 28).

Lạy Chúa, cửa Nước Trời luôn rộng mở. Ngõ vào cửa Nước Trời là ngõ hẹp. Xin cho chúng con biết trút bỏ những tham sân si và bận vướng cuộc đời để thanh thản bước theo Chúa. Xin Chúa dẫn dắt chúng con đi vào đường ngay nẻo chính. Amen.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

ĐI VÀO CỬA HẸP

ĐI VÀO CỬA HẸP

Vấn đề được cứu rỗi luôn là vấn đề được mọi người Kitô hữu quan tâm và trân trọng. Đối với quan niệm hẹp hòi của người Do Thái xưa: “Chỉ có ít người được cứu rỗi”. Việc nhiều hay ít người được cứu rỗi hay không, không phải là điều quan trọng. Do đó, đừng tò mò, đừng quá lo lắng, mà con người hãy xem mình có được kể vào số những người được chọn, được cứu rỗi hay không? Thực tế, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp vấn đề này, không muốn mạc khải về việc này mà Chúa đã rất khôn ngoan trả lời và câu trả lời của Ngài cũng là điều kiện tiên quyết, căn bản để được cứu rỗi: “Hãy cố gắng đi vào cửa hẹp”.

Đối với Chúa Giêsu đường rộng thênh thang dẫn chúng ta vào chốn hư đốn. Đường rộng hay cửa rộng là những thái quá của cuộc sống, những đam mê của cải, những ham mê danh vọng, thú vui ở đời. Đường rộng là con người tự ý làm theo mình, tự xô đẩy mình vào chỗ tối tăm, hư đốn. Cửa rộng là những sa hoa phung phí, của cải đầy kho nhưng không biết chia sẻ như dụ ngôn ông Phú hộ mà Chúa Giêsu minh họa trong Tin Mừng. Đường rộng là con đường mà người thanh niên giầu có tuy đã thực hành nhiều điều luật tốt lành trong đới sống Đạo nhưng lại không muốn phân chia, chia sẻ của cải cho người nghèo khó, mà lại cứ thích thẳng cánh cò bay, thích đi trên những con đường nhựa rộng thênh thanh, tự do chạy nhảy… Chúa Giêsu đề cập đến cửa hẹp ở đây không có nghĩa rằng Ngài hẹp hòi, ích kỷ, bo bo giữ của, nhưng chỉ tại con người chưa sẵn sàng, chưa nhỏ đủ để bước vào Nước Trời, bởi vì con người còn quá cồng kềnh, còn quá khổ, còn quá to để không thể bước vào cửa hẹp. Cửa hẹp là sự cồng kềnh của những vướng mắc, của những hưởng thụ v.v… Cửa hẹp là sự cồng kềng của cái tôi cứng cỏi, hẹp hòi, ích kỷ, của cái tôi hèn nhát không dám dấn thân, không dám tiến bước.Nên, cánh cửa Nước Trời mà những người thiện chí, những người tốt dễ dàng bước vào thì đối với nhiều người đã trở thành khung cửa hẹp, vì cái tôi của họ quá cồng kềnh. Cho nên, vấn đề vào Nước Trời hay không, không phải do Chúa không muốn con người vào mà do con người làm cho mình quá khổ, quá cồng kềnh khiến con người không vào được cửa hẹp.

Nữ tu Bênêđita Thánh Giá-Dòng Xitô đã viết một đoạn rất hay: “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ‘Thưa Ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em. ‘Ta không biết các anh từ đâu đến!’. Những lời nói của ông chủ quả thật làm lung lay thái độ của chúng ta.Lời Chúa muốn kết hiệp với chúng ta hơn là những ảo tưởng vô nghĩa của chúng ta, từ nơi sâu thẳm chúng ta nhận ra mình trống rỗng, yếu đuối tầm thường. Chúng ta nghe Chúa Giêsu nhắc đến hai lần: “Ta không biết các anh từ đâu đến!”. Lúc đó tiếng kêu của người mù có thể phát xuất từ nơi sâu kín của con tim chúng ta bị rỉ máu: “Lạy ông Giêsu, con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (Lc 18, 38 ). Nếu chúng ta chấp nhận sự bất lực của chúng ta để thực hiện việc giải thoát chính mình đơn thuần bằng những nỗ lực của chúng ta, lúc ấy, cửa hẹp sẽ rộng mở và đôi mắt chúng ta cũng mở ra. “Cửa Chuồng Chiên” (Ga 10,7), đó là Chúa Giêsu với đôi tay giang rộng trên thánh giá và ôm lấy toàn thể vũ trụ. Được Thiên Chúa Cha gọi mời, Người cũng mời gọi những con người đến từ mọi quốc gia và ngôn ngữ. Cha Christian de Chergé đã viết: “Thánh giá là chìa khóa của ngôi nhà mà chúng ta phải bước vào và là chìa khóa của những điều bí ẩn”.

Nói tóm lại con đường vào Nước Trời là do mỗi người chứ không phải Chúa. Chính vì thế, không phải chúng ta đòi Thiên Chúa nới rộng cửa, nhưng chính chúng ta phải biết trở thành bé nhỏ như Chúa đã dạy: “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Thầy vì Nước Trời về những ai giống như chúng”. Trở nên nhỏ bé là biết trở nên đơn sơ, trong trắng, thánh thiện và biết từ bỏ tất cả những gì không phù hợp, không theo ý của Chúa. Chúng ta thực sự phải khám phá Nước Trời qua Tình Yêu của Thiên Chúa như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa ngày 11.08.2013: “Tình yêu của Thiên Chúa là kho tàng đích thật của chúng ta. Đó là một tình yêu trao ban giá trị và vẻ đẹp cho tất cả mọi sự, một tình yêu trao ban sức mạnh cho gia đình, công ăn việc làm, học hành, tình bạn, nghệ thuật và mọi sinh hoạt của con người. Nó cũng trao ban ý nghĩa cho cả các kinh nghiệm tiêu cực và tội lỗi của chúng ta nữa”. Sống tình yêu của Chúa và chấp nhận nói lời “Xin Vâng” như Đức Mẹ là chúng ta đang bước vào con đường hẹp, bước cửa Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con mau mắn tìm kiếm Nước Trời, cởi bỏ con người cũ để mặc lấy Đức Kitô. Xin cho chúng con biết tìm kiếm thánh ý Chúa hơn là tìm kiếm con người của mình. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Cửa hẹp là gì?
2. Tại sao chúng ta phải cởi bỏ con người cũ?
3. Con người cồng kềnh là gì?

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT