Đức Hồng Y Dolan bên vực thành tích giám mục Hoa Kỳ về các vấn đề nghèo đói

Đức Hồng Y Dolan bên vực thành tích giám mục Hoa Kỳ về các vấn đề nghèo đói

BALTIMORE – New York Đức Hồng Y Timothy Dolan đã đồng ý vào thứ hai với cuộc gọi Đức Thánh Cha Phanxicô cho một mối quan tâm cao đối với người nghèo, nhưng đã tranh luận về ý tưởng mà các giám mục Hoa Kỳ đã không quan tâm nhiều đến vấn đề này.

"Đó là một kiên trì, kiên trì liên tục của các cuộc họp của hàng giám mục của chúng tôi từ khi thành lập vào năm 1917, " Đó là lời của Dolan, Chủ tịch mãn nhiệm của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo, và cuộc họp trong tuần này để chọn nhà lãnh đạo mới cho giáo hội Hoa Kỳ .

Nhưng ĐHY Dolan nói với phóng viên ông đã đồng ý rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang yêu cầu các nhà lãnh đạo thậm chí còn "mạnh mẽ" hơn về vấn đề này.

Hội nghị các Giám mục, coi quản 69 triệu người Công giáo Hoa Kỳ hay khoảng một phần tư dân số, đã bị chỉ trích bởi một số nhóm Công giáo tự do cho là ít quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội như nghèo đói hơn so với tấn công vấn đề hôn nhân đồng tính, phá thai và ngừa thai .

Các việc làm của giám mục là dưới xem xét kỷ lưỡng liên quan tới người nghèo trên thế giới được đưa ra bởi Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Trong một cuộc phỏng vấn được công bố trong tháng chín, ĐTC Phanxicô nói rằng Giáo Hội không thể chỉ tập trung vào các vấn đề liên quan đến phá thai, hôn nhân đồng tính và ngừa thai, và phải trở thành đáng thương hơn hoặc có nguy cơ suy sụp " như một ngôi nhà giấy ."

Ông cũng nói rằng Giáo Hội đã "tự khóa chính mình  từ trong những việc nhỏ, trong những luật nhỏ nhen hẹp hòi " và không nên quá nghiêng về một phía để bị chỉ trích .

Trong bài phát biểu Đức Tổng Giám Mục Carlo Viganò vào ngày thứ Hai 11-11-2013, đại sứ của Vatican tại Hoa Kỳ, ĐTC Phanxicô muốn giám mục phải hòa điệu với dân chúng, " giám mục  mục vụ ", và không giám mục nào giảng dạy hoặc theo một thuyết tư tưởng đặc biệt (Ideology). "

Đức Thánh Cha cũng đã kêu gọi các giám mục để duy trì một lối sống " đặc trưng bởi sự đơn giản và sự thánh thiện " sống những gì họ rao giảng, (Lời chủa ĐTGM Carlo Vigano nói).

Trong cuộc họp, Đức Tổng Giám Mục  về hưu Joseph Fiorenza Galveston-Houston hỏi hội nghị " Hãy ghi nhận lại cũng như đang cố gắng để đạt được thành quả những gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa ra trước cho chúng ta, là nhà thờ cho người nghèo và của người nghèo . "

Đức Giám mục Robert Lynch tại St Petersburg, Florida, cho biết sự chú ý của hội nghị đã tập trung trong những năm gần đây về các vấn đề  phiên dịch thánh lễ và  tự do tôn giáo, chẳng hạn như yêu cầu các bệnh viện và trường học Công giáo thực hiện bảo hiểm cung cấp các biện pháp ngừa thai, trong đó nghiêm cấm giáo lý nhà thờ.

Hội nghị Giám mục sẽ bầu ra một Chủ tịch và phó chủ tịch cho nhiệm kỳ ba năm vào thứ ba. Theo tin hành lang thì Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz của Louisville, Kentucky, có nhiều triển vọng cho chức chủ tịch kế tiếp. ĐTGM Kurtz được xem như là một người bảo thủ đáng tin cậy, được nhiều người ưa thích và có nhiều ảnh hưởng.

Trong số các ứng cử viên phó chủ tịch là Đức Tổng Giám Mục Jose Gomez của giáo phận Los Angeles, Ngài là một người gốc Mexico rất thẳng thắn về vấn đề cải cách cho người di cư .

( Báo cáo của Mary Wisniewski ; Editing by Lisa Shumaker )

Thái Trọng phỏng dịch

ĐTC Chia buồn và kêu gọi giúp đở nạn nhân bảo Haiyan tại Phi Luật Tân

ĐTC Chia buồn và kêu gọi giúp đở nạn nhân bảo Haiyan tại Phi Luật Tân

VATICAN. ĐTC chia buồn với Philippines về thiên tai siêu bão Haiyan. Ngài kêu gọi quảng đại giúp đỡ các nạn nhân, và đóng góp 150 ngàn mỹ kim cho việc cứu trợ.

ĐTC đã bày tỏ tình liên đới với các nạn nhân trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 10-11-2013 và Đức TGM Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh cũng đã nhân danh ngài gửi điện đến Tổng Thống Benigno Aquino III, trong đó Đức TGM cho biết ”ĐTC Phanxicô rất đau buồn vì sự tàn phá và thiệt hại nhân mạng so siêu bão gây ra. Ngài chân thành liên đới với những người bị thương tổn vì thiên tai này và hậu quả sau đó. Ngài nghĩ đến những người đang khóc thương những người thân yêu bị thiệt mạng và những người bị mất gia cư. ĐTC cầu nguyện cho Philippines đồng thời khích lệ các chính quyền dân sự và các nhân viên cứu trợ cấp thời, đang giúp đỡ các nạn nhân bão này. Ngài cầu xin Chúa chúc lành, ban sức mạnh và ơn an ủi cho quốc dân Philippines.”

Hôm 11-11-2013, Hội đồng Tòa Thánh Cor Unum (Đồng Tâm) đã nhân danh ĐTC gửi giúp phần đóng góp đầu tiên là 150 ngàn mỹ kim, qua Giáo Hội tại Philippines để nâng đỡ các nạn nhân bão lụt. Cử chỉ này là sự biểu lộ cụ thể tâm tình gần gũi và liên đới của ĐTC.

Mặt khác, HĐGM Italia dành 3 triệu Euro để cứu trợ các nạn nhân bão Hayan ở Philippines.
Trong thông cáo công bố tại Roma, Đoàn Chủ tịch HĐGM Italia nhắc lại lời ĐTC Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa chúa nhật 10-11-2013. Ngài nói: ”Tôi muốn bày tỏ sự gần gũi với nhân dân Philippines và dân chúng tại miền này bị bão kinh khủng. Rất tiếc là con số các nạn nhân rất cao và thiệt hại rất lớn. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người anh chị em chúng ta bị nạn, và tìm cách chuyển sự trợ giúp cụ thể của chúng ta cho họ”.

Đáp ứng tình liên đới đã được ĐTC Phanxicô bày tỏ, Đoàn Chủ tịch HĐGM Italia đã dành ngay ngân khoản 3 triệu Euro rút từ số tiền ”8 phần ngàn” (tiền các tín hữu đóng cho Giáo Hội) mang lại, để cứu trợ khẩn cấp.

Ngoài ra, LM Francesco Soddu, Giám đốc Caritas Italia, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự trợ giúp cụ thể và cấp thời. Giờ đây bão đó gây thiệt hại tại các nước khác nữa như Việt Nam và Lào. Caritas Italia đã dành 100 ngàn Euro cho việc cứu trợ khẩn cấp.

Cũng tại Italia, Quỹ Di dân của Công Giáo kêu gọi cầu nguyện và liên đới với những đau khổ và lo âu của Cộng đoàn Công Giáo Philippines tại Italia. Hiện nay có 150 ngàn người Philippines sinh sống và làm việc ở Italia, phần lớn là tín hữu Công Giáo. Roma có 34 ngàn và Milano có 35 ngàn người Philippines và là hai thành phố có cộng đoàn kiều dân này đông đảo nhất.

Theo thống kê sơ khởi có khoảng hơn 10 ngàn người thiệt mạng vì siêu bão tại Philippines, nhất là tại các đảo Leyte và Samar; 800 ngàn người phải di tản, phần lớn bị mất hết sản nghiệp và gia cư. Các nạn nhân khác ở cấp độ khác nhau vào khoảng hơn 9 triệu 500 ngàn người. Ngoài ra, sở khí tượng Philippines cho biết bão Zoraida sẽ thổi đến miền bắc thành phố Tacloban ở nước này với sức gió 50 cây số giờ.

Tổ chức Caritas của Công Giáo Thụy Sĩ đã dành 500 ngàn quan, tương đương với gần 550 ngàn mỹ kim để góp phần cứu trợ các nạn nhân siêu bão tại Philippines. Tổ chức bác ái Misereor của HĐGM Đức dành ngay ngân khoản 50 ngàn Euro để góp phần cứu trợ.

Hôm 11-11-2013 Đức TGM José Palma, Chủ tịch HĐGM Philippines cũng mời gọi các tín hữu toàn quốc cầu nguyện và quảng đại đóng góp để trợ giúp các nạn nhân (Tổng hợp 11-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP

HỘI NGHỊ GIÁM MỤC CÔNG GIÁO HOA KỲ SẼ CHỌN NGƯỜI LÃNH ĐẠO MỚI

HỘI NGHỊ GIÁM MỤC CÔNG GIÁO HOA KỲ SẼ CHỌN NGƯỜI LÃNH ĐẠO MỚI

USCCB logo

BALTIMORE – Giám mục Công giáo Hoa Kỳ sẽ chọn các nhà lãnh đạo mới tại một hội đồng tại Baltimore Waterfront Marriott Hotel tuần này từ 11 đến 14 tháng 11 năm 2013 và có thể báo hiệu một hướng đi mới cho giáo hội Hoa Kỳ dưới sự ảnh hưởng theo đường lối của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Hội nghị bắt đầu hôm thứ hai và hướng vào việc chọn lựa các nhà lãnh đạo mới cho Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ mà vẫn luôn tiếp tục phản đối mạnh mẽ vấn đề hôn nhân đồng tính và biện pháp ngừa thai của chương trình Obamacare, hoặc nâng cao để giúp đỡ người nghèo và người di dân cho Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh vào vấn đề công bằng xã hội.

Các nhà lãnh đạo mới cũng sẽ chuẩn bị cho " Thượng Hội Đồng đặc biệt" của các giám mục ở Rome để thảo luận về lời giáo huấn liên quan đến gia đình . Vatican đã yêu cầu các giám mục và các linh mục giáo xứ trên toàn thế giới về quan điểm của địa phương về hôn nhân đồng tính , ly dị và ngừa thai trước cuộc họp năm 2014 tháng Mười.

" Giám mục đã bị mắc kẹt trong một căn hầm chiến đấu với cuộc chiến tranh văn hóa ", Đây là lời nói của John Gehring , là người từng giữ chức vụ trong văn phòng truyền thông của hội nghị và bây giờ là giám đốc chương trình Đức tin Công giáo trong đời sống công cộng, một nhóm vận động tự do cho biết . " Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng chúng ta có thể không chỉ được biết đến bởi những gì chúng tôi phản đối . "

Trong một cuộc phỏng vấn với một tạp chí Dòng Tên xuất bản trong tháng Chín, Đức Thánh Cha Francis cho biết Giáo Hội không thể khẳng định chỉ về các vấn đề liên quan đến phá thai , hôn nhân đồng tính và ngừa thai, và phải trở thành đáng thương hơn hoặc có nguy cơ sụp đổ, “giống như nhà giấy”

Russell Shaw , một nhà văn về các vấn đề Công giáo và một cựu phát ngôn viên cho hội nghị , nói rằng ông không nghĩ rằng các giám mục sẽ quay trở lại vấn đề xã hội như hôn nhân đồng tính và phá thai , chỉ cần như thánh Phanxicô đã tái khẳng định giáo huấn Giáo Hội về các đối tượng này . Nhưng họ có thể thay đổi cách nhìn của họ.

Ông Russell Shaw cũng nói rằng:

" Họ có thể làm cho một nỗ lực lớn hơn để gắn kết những gì họ nói về các vấn đề như thế với những thông điệp của việc có một giai điệu mục vụ nhiều hơn, đặt những gì họ nói về các câu hỏi của hôn nhân đồng tính trong bối cảnh mối quan tâm đích thực và mục vụ cho cùng một cặp vợ chồng quan hệ tình dục, ".

Hội Đồng Giám Mục  đã ủng hộ cho việc cải cách nhập cư và các chương trình chống đói nghèo dưới sự lãnh đạo của Đức Hồng Y Timothy Dolan, New York trong ba năm qua .

Nhưng đó là điều rất cực lực cổ võ hô hào về " tự do tôn giáo " – phản đối chính sách Obama bắt buộc các trường học Công giáo, các bệnh viện phải có bảo hiểm cung cấp các biện pháp tránh thai miễn phí mà bị cấm bởi Giáo Hội. Thúc đẩy quan tâm một số người Công giáo , những người cảm thấy các nhà lãnh đạo của giáo hội đã trở nên quá phù hợp với quyền chính trị .

“Đây là vấn đề nổi bật phía trước cho cuộc vận động chống lại hôn nhân đồng tính, phá thai và những liên quan đến việc ngừa thai”. Đây là lời nói của Cha Thomas Reese, là một nhà văn thuộc dòng Tên có ý kiến giống như ĐTC Phanxicô

Chủ tịch và phó chủ tịch được bầu từ một danh sách gồm 10 Tổng Giám Mục và Giám mục . Các ứng cử viên sau đây:

• Đức Tổng Giám Mục Gregory M. Aymond của New Orleans
• Đức Tổng Giám Mục Charles J. Chaput , OFM Cap . , Philadelphia
• Giám mục Blase J. Cupich của Spokane, Washington
• Đức Hồng Y Daniel N. DiNardo của Galveston-Houston
• Đức Tổng Giám Mục José H. Gomez của Los Angeles
• Đức Tổng Giám Mục Joseph E. Kurtz của Louisville, Kentucky
• Đức Tổng Giám Mục William E. Lori của Baltimore
• Tổng giám mục Dennis M. Schnurr của Cincinnati
• Tổng giám mục Allen H. Vigneron của Detroit
• Đức Tổng Giám Mục Thomas G. Wenski ở Miami

Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội Đồng được bầu vào nhiệm kỳ ba năm , sẽ bắt đầu vào lúc kết thúc cuộc họp. Đức Hồng Y Timothy M. Dolan của New York và Đức Tổng Giám Mục Joseph E. Kurtz của Louisville, Kentucky, hoàn thành nhiệm kỳ của họ là chủ tịch và phó chủ tịch , tương ứng, tại thời điểm đó .

Hội Ðồng Giám Mục theo pháp luật quy định rằng các cuộc bầu cử tổng thống sẽ diễn ra từ đầu tiên trong danh sách 10 ứng cử viên. Sau cuộc bầu cử của Chủ tịch bằng đa số phiếu đơn giản , phó Chủ tịch được bầu từ chín ứng cử viên còn lại. Trong cả hai cuộc bầu cử , nếu một ứng cử viên không nhận được hơn một nửa số phiếu bầu trên lá phiếu đầu tiên , một cuộc bỏ phiếu thứ hai được thực hiện . Nếu lần thứ ba bỏ phiếu là cần thiết, sẽ chọn hai người cao phiếu nhất của cuộc bỏ phiếu lần thứ hai để bầu chọn ra Phó Chủ Tịch.

Tại cuộc họp, các giám mục cũng sẽ bỏ phiếu cho Chủ tịch Ủy ban Hội Ðồng Giám Mục về Giáo Dục Công Giáo , đồng thời bầu 5 chủ tịch cho ủy ban Hội Ðồng Giám Mục Hoa Kỳ và các thành viên hội đồng quản trị mới cho Hệ thống Pháp Lý Di Trú  Công giáo Inc. và Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo -Catholic Relief Services.

Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ và Reuters

Thái Trọng

Gặp Gỡ Đức Giáo Hoàng

Gặp Gỡ Đức Giáo Hoàng

VATICAN. Vào lúc 12h00, ngày 10 tháng 11, hàng người đã quy tụ tại quảng trường thánh Phêrô để gặp gỡ Đức Thánh Cha và nghe ngài giáo huấn.

Đức Thánh Cha đã dựa vào nội dung đoạn Tin Mừng CN 32TN để ban huấn từ. Ngài nói:

“Bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu tranh luận với những người phái Sa Đốc, những người chối bỏ việc phục sinh. Đây chính là vấn đề mà dựa vào đó họ chất vấn Đức Giêsu, đặt người vào thế khó giải quyết để chế nhạo niềm tin vào việc người chết sẽ sống lại. Họ bắt đầu bằng một tình huống tưởng tượng ra: "Một người phụ nữ có bảy đời chồng, lần lượt chết" và họ hỏi Đức Giêsu: "Người này sẽ là vợ của ai trong ngày kẻ chết sống lại?" Đức Giêsu, luôn hiền lành và kiên nhẫn, trước hết trả lời rằng cuộc sống sau cái chết không dựng vợ gả chồng như cuộc sống đời này. Cuộc sống vĩnh cửu là một cuộc sống khác, thuộc về một chiều kích khác nơi mà, giữa những điều khác, con người không còn lấy vợ lấy chồng nữa,vốn là điều gắn liền với ta ở cuộc sống tại thế này. Đức Giêsu còn nói thêm rằng những người sống lại sẽ giống như các thiên thần và sống ở một tình trạng khác mà bây giờ không thể trải nghiệm và tưởng tượng ra được. Đức Giêsu đã giải thích như thế.”

Sau đó, Đức Thánh Cha nói về mối dây hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa “Người là Chúa của ta”

“…Đức Giêsu tìm thấy bằng chứng về sự phục sinh trong trình thuật Môsê và bụi gai bốc cháy (x.Xh 3,1-6), Thiên Chúa tự mặc khải mình là Thiên Chúa của Abraham, Ixaac và Giacop. Danh xưng của Thiên Chúa có mối ràng buộc với tên của những người nam nữ mà Người dính dáng đến và mối gắn kết này mạnh hơn cả sự chết. Từ đó, Giêsu khẳng định với những người thuộc phái Sa Đốc rằng: "Thiên Chúa không là Thiên Chúa của người chết nhưng là của người sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống" (x. Lc 20,38) Và mối dây quyết định này, sự kết hiệp nền tảng này chính là Giêsu: chính là Sự Hiệp Thông, là Sự Sống và là Sự Phục Sinh, vì với tình yêu hiến tế, Ngài đã chiến thắng sự chết. Trong Giêsu, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, Người ban nó cho tất cả mọi người và tất cả những lời cảm tạ dâng lên Người đều chứa đựng một niềm hy vọng về một cuộc sống mới chân thực hơn cuộc sống này. Sự sống mà Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta không là một sự tô điểm cho thực tại này, nhưng nó vượt qua sức tưởng tượng của chúng ta, vì Thiên Chúa luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên bởi tình yêu và lòng thương xót của Người.”

Đức Thánh Cha cũng giải thích thêm về quan niệm của chúng ta về cái chết. Không phải cái chết đón đầu chúng ta, nhưng là một sự sống mới, vĩnh cửu trong Thiên Chúa

“… Không phải từ cuộc sống này mà ta suy luận đến cuộc sống vĩnh cửu, nhưng là cuộc sống vĩnh cửu soi sáng và ban cho chúng ta niềm hy vọng nơi cuộc sống tại thế này. Nếu chúng ta chỉ nhìn bằng cặp mắt con người, chúng ta cũng sẽ nói rằng hành trình của con người đi từ sự sống đến cái chết. Đức Giêsu đã đảo ngược cái nhìn này và nói rằng cuộc hành trình của chúng ta là đi từ cái chết đến sự sống: một sự sống viên mãn! Vì thế, cái chết nằm ở sau, chứ không phải ở trước chúng ta. Phía trước chúng ta là một vị Thiên Chúa của kẻ sống, là một sự chiến thắng chung cuộc tội lỗi và cái chết, là khởi đầu của một kỷ nguyên mới của niềm vui và ánh sáng không bao giờ tàn. Nhưng ngay từ bây giờ, trên trái đất này, trong lời cầu nguyện, bí tích, tình huynh đệ, chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giêsu và tình yêu của Người, và như thế chúng ta có thể nếm trước một chút gì đó sự sống phục sinh. Kinh nghiệm mà chúng ta đã có về tình yêu và lòng trung tín của Người sẽ bừng sáng lên như ngọn lửa trong con tim chúng ta và làm cho đức tin của chúng ta lớn lên hơn nữa trong sự phục sinh. Thực ra, nếu Thiên Chúa là Đấng trung tín và yêu thương, thì Người không thể giới hạn sự trung tín và yêu thương ấy trong thời gian được”

Sau kinh truyền tin, Đức Thánh Cha nhắc đến việc tôn phong chân phước của chị Maria Teresa Bonzel ở Đức. Ngài cho biết, chính Thánh Thể là nguồn mạch đã ban cho chị sức mạnh thiêng liêng để chị có thể dấn thân không mệt mỏi, phục vụ người những người yếu thế.
Ngài cũng bày tỏ sự gần gũi của mình đến nhân dân Philipin và đất nước này. Do ảnh hưởng của cơn bão, nhiều người đã chết và những tổn thất nghiêm trọng khác đi kèm theo. Ngài kêu gọi mọi người cùng cầu nguyện cho họ và giúp đỡ họ cách thiết thực.

Ngài cũng nói về biến cố 75 năm kỷ niệm sự kiện "Đêm thủy tinh" diễn ra vào tối 9 và 10 tháng 11 năm 1938, một cuộc bạo hành chống lại người Do Thái, các hội đường, tư gia, cửa hàng, đánh dấu một thảm kịch của cuộc thảm sát có tên là Holocaust. Ngài mời gọi mọi người cùng nâng đỡ và liên đới với các anh em Do Thái và cầu nguyện cùng Thiên Chúa giúp chúng ta biết nhìn về ký ức trong quá khứ với một sự tỉnh thức chống lại mọi hình thức ghen ghét và bất bao dung

Ngày hôm nay, ở Ý cũng là ngày lễ tạ ơn. Đức Thánh Cha bày tỏ sự hiệp thông với các Giám Mục với thế giới nông nghiệp, đặc biệt là với những người trẻ đã chọn việc lao tác trên đất đai. Ngài khuyến khích họ hãy cố gắng để không còn ai bị đói khát nữa.

Ngài cũng gửi lời chào đến các khách hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới, các gia đình, giáo xứ, hiệp hội khác.

Phêrô Lê Hoàng Nam, SJ

CHẾT ĐỂ ĐƯỢC SỐNG LẠI

CHẾT ĐỂ ĐƯỢC SỐNG LẠI

Xác tín có đời sau

 Câu chuyện của người Mẹ và 7 bảy anh em trong sách 2 Macabe 7, 1-2.9-14  đã gửi đến cho chúng ta những xác tín về sự sống lại, về đời sau. Niềm xác tín ấy được soi sáng bởi Thánh Linh và cũng chính niềm xác tín quan trọng ấy đã giữ họ trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa, qua truyền dạy của Moise: Không ăn thịt heo. Không phải họ không quí trọng thân xác, nhưng họ được linh hứng cho biết thân xác nầy được Chúa ban cho và dù có mất  đi dưới tay người phàm họ cũng sẽ lấy lại được. Họ “sẵn sàng thà chết hơn là vi phạm luật của cha ông” (c.2). Họ xác tín “Vua Vũ Trụ sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (c.9). Đối với họ , sự sống và tất cả những gì thuộc về sự sống ở đời nầy đều là của Chúa ban, và dù có mất đi, họ vẫn đặt hy vọng nhờ Thiên Chúa họ sẽ lấy lại được (c.11). Họ thà chết trong khi dựa vào Lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại (c.14).

Điểm ưu việt của đoạn sách nầy là : niềm xác tín Phục sinh vào thời kỳ Tin Mừng và Tin Mừng Phục sinh chưa xuất hiện.  Một cõi sống ở đời sau có thể nói là còn mơ hồ trong tâm tưởng loài người, thì bảy anh em đã tuyên tín về sự sống lại trước mặt vua chúa quan quyền thế gian. Dấu ấn mạc khải do Thánh Linh thật rõ nét và sống động đến nỗi người đời sau, những người đã tiếp nhận ánh sáng Tin mừng Chúa Giêsu và Tin Mừng Phục Sinh của Ngài, phải ngẫm nghĩ mà tự hổ thẹn về cách đón nhận và cách tuyên xưng niềm tin của mình.

 Đức tin không lý luận

 Không chỉ các người thuộc nhóm Sađốc, thời Chúa Giêsu, mà cả loài người, cả chúng ta nữa, cho đến hôm nay vẫn thích dùng cái lý trí nhỏ bé của mình mà suy luận về những mầu nhiệm cao siêu thuộc về Thiên Chúa, trong đó có Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô và sự sống lại của thân xác chúng ta. Từ cái suy luận duy lý trí nảy sinh những ảo tưởng về một thực tại thuộc phạm vi Đức Tin. “ Vậy, trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy anh em đều lấy nàng làm vợ”.(Lc 20,33).  Một suy luận hoàn toàn con người thì còn gì là mầu nhiệm.

Câu tuyên tín “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại” bắt đầu bằng hai từ “Tôi tin”, cho thấy rằng lý trí của tôi không nhất thiết phải tham gia gì thêm nữa. Không phải là một đức tin mù quáng, nhưng là sự hy sinh của lý trí một cách chính đáng, để niềm tin của tôi không bị chao đảo lung lay hay thay đổi, vì với lòng khiêm tốn, tôi biết lý trí của tôi không thể làm điều vượt qua khả năng của lý trí.

Cơn cám dỗ về  đức tin là một cơn cám dỗ nguy hiểm nhất, do bởi thần kiêu ngạo dữ tợn nhất, luôn thúc bách lý trí ta lý luận không phải để chấp thuận, mà tìm mọi cách để từ chối, phản bác.

Nhóm Sađốc đã bị sập bẫy của Satan khi dùng những lý luận để bảo thủ cho mình cái chủ trương không có sự sống lại, không có đời sau. Những lý luận chỉ dựa trên những gì có thể thấy được, có thể sờ đụng, có thể trải nghiệm thực tiễn. Họ hiểu sự sống lại và đoàn viên trong Nước Thiên Chúa như là một thế giới  khác với thế giới hôm nay, nhưng giống y như thế giới hôm nay về mọi sinh hoạt con người.

Chúa Giêsu nói: “Con cái đời nầy cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết  thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,34-36)

Tôi nghĩ lời giải thích của Chúa Giêsu là một định tín. Chỉ có Đức Tin mới thấu đạt được, chứ không dễ chấp nhận theo lý luận con người. Không thể lấy một thực tại hữu hình, mà so sánh mới một thực tại vô hình; không thể lấy một sự đã trải nghiệm thực tiến đem so sánh với sự chưa trải nghiệm, mà sự chưa trải nghiệm ấy lại thuộc về tương lai của mỗi người, của nhân loại.

 Con đường dẫn đến cái chết để phục sinh

 Người tín hữu hôm nay có một ưu thế hơn anh em nhà Macabê vì nền tảng  niềm tin “xác loài người sẽ sống lại” được đặt vào “sự phục sinh của Chúa Giêsu”.

Chính vì tôi tin Chúa Giêsu Phục Sinh mà tôi cũng tin tôi sẽ được sống lại với người. Tôi không  nhất thiết phải dùng lý trí con người, suy luận, tưởng tượng hay hình dung sự sống lại ấy thế nào, sinh hoạt như thế nào. Tôi chỉ cần biết một điều là  để được Phục sinh với Chúa Giêsu, để sống lại như Ngài, tôi phải đi theo con đường của Ngài: “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”. Vì nếu không đi theo con đường của Ngài, tôi sẽ lao vào “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh”.

Vậy con đường của Chúa Giêsu  là con đường khiêm hạ, con đường từ bỏ, con đường yêu thương phục vụ cho đến chết. Có thể tôi chưa thấy một người bằng xương bằng thịt phục sinh trở về để tôi hỏi người ấy về sinh hoạt của thế giới bên kia, nhưng tôi có thể thấy chung quanh tôi có những người sống trọn vẹn cho Thiên Chúa theo đường hướng của Chúa Giêsu khi họ từ bỏ tất cả cho vinh danh Chúa. Họ có thể chia sẻ cho tôi  những cảm nghiệm về sự sống đời sau mà họ đang có ngay ở đời nầy. Vâng chính họ đang sống trước mầu nhiệm phục sinh ngay ở dương gian nầy khi họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và theo ý định của Ngài qua việc kết hiệp với Chúa Giêsu và đi theo con đường Chúa Giêsu đã vạch ra, “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.

Lời Chúa hôm nay cho tôi thêm một cơ hội xác tín điều tôi vẫn tuyên xưng: “tôi tin xác loài người sẽ sống lại”, “ tôi tin một cuộc sống đời đời” và còn là cơ hội nhắc nhớ tôi không những phải hy sinh cái lý trí nhỏ bé của mình mà còn phải biết tránh “con đường dẫn tới cái chết không phục sinh”  để đi vào con đường của Chúa Giêsu, con đường từ bỏ, hy sinh, yêu thương, phục vụ… “con đường dẫn đến cái chết để phục sinh”.

Lạy Chúa, xin cho con yêu mến và tín thác hoàn toàn vào Chúa, xin cho con khát khao sống sự sống của Chúa, để không còn phải thắc mắc nào khác hơn là con luôn tự hỏi: “ Tôi có từ bỏ mọi sự để hoàn toàn thuộc về Chúa khi còn ở dương gian này hay chưa?”.

PM.Cao Huy Hoàng

Đức Thánh Cha tiếp kiến các bệnh nhân và những người tháp tùng

Đức Thánh Cha tiếp kiến các bệnh nhân và những người tháp tùng

VATICAN. ĐTC Phanxicô ca ngợi tổ chức Unitalsi ở Italia và khích lệ việc mục vụ cho các bệnh nhân trong các giáo xứ và hội đoàn.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 9-11-2013 tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội Thành Vatican dành cho 7 ngàn người thuộc Hiệp hội toàn quốc Italia chuyên chở các bệnh nhân đến Lộ Đức và các Đền thánh quốc tế, gọi tắt là Unitalsi, nhân dịp kỷ niệm 110 năm thành lập.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến cũng có một số HY, GM, các bệnh nhân, người khuyết tật và hàng ngàn người thuộc tổ chức Unitalsi tháp tùng và săn sóc họ.

Tổ chức này do Ông Giovanni Battista Tomassi thành lập sau khi được Đức Mẹ hoán cải ở Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức và trở về Italia. Thực vậy, năm 1903, Ông bị bệnh nặng và đến Lộ Đức với ý định tự sát trước hang đá Đức Mẹ như một hành vi nổi loạn. Nhưng chính tại đó ông đã được ơn ánh sáng nội tâm và hiểu sâu rộng về giá trị sứ điệp Kitô. Hiện nay hàng chục ngàn người thiện nguyện, từ các bác sĩ, đến Italia, LM, tu sĩ, và giáo dân nam nữ, gia nhập tổ chức UNITALSI để giúp đỡ các bệnh nhân, đặc biệt trong các cuộc hành hương.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi sự dấn thân của hội Unitalsi cũng như của các thành viên và nhấn nạnh rằng: ”Hoạt động của anh chị em không phải chỉ là một công việc từ thiện, nhưng là một sự loan báo chân thực Tin Mừng bác ái, là một sứ vụ an ủi.. Như người Samaritano nhân lành, đứng trước sau khổ, anh chị em không ngoảnh mặt đi, trái lại, anh chị em tìm cách trở thành một cái nhìn đón nhận, một bàn tay thoa dịu và tháp tùng, một lời an ủi, một vòng tay thân ái dịu dàng. Anh chị em đừng nản chí vì những khó khăn và mệt nhọc, nhưng hãy tiếp tục dành thời gian, trao tặng nụ cười và tình thương cho các anh chị em khác đang cần đến. Ước gì mỗi bệnh nhân và những người mong manh có thể thấy nơi khuôn mặt của anh chị em tôn nhan của Chúa Giêsu và cả anh chị em cũng có thể nhận ra nơi người đau khổ thân xác của Chúa Kitô”.

Nhắc đến bối cảnh văn hóa và xã hội ngày nay có xu hướng che đậy sự yếu ớt và bệnh tật thể lý, để rồi có thái độ cam chịu hoặc gạt bỏ con người, ĐTC nói: ”Tổ chức Unitalsi được kêu gọi trở thành dấu chỉ ngôn sứ và đi ngược lại xu hướng trần tục đó, bằng cách giúp đỡ những người đau khổ trở thành người giữ vai chính trong xã hội, trong Giáo Hội và cả trong chính hội đoàn nữa. Để giúp bệnh nhân thực sự hội nhập vào trong cộng đồng Kitô và khơi dậy nơi họ cảm thức mạnh mẽ thuộc về Giáo Hội, cần có một nền mục vụ bao gồm mọi người trong các giáo xứ và hội đoàn. Vấn đề ở đây là thực sự đề cao giá trị sự hiện diện và chứng tá của những người yếu đau, không những như đối tượng việc loan báo Tin Mừng, nhưng như những chủ thể tích cực của hoạt động tông đồ này”.

Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các anh chị em bệnh nhân, đừng chỉ có mình là đối tượng của tình liên đới và bác ái của người khác, nhưng hãy hội nhập vào đời sống và sứ mạng của Giáo Hội, cầu nguyện, dâng đau khổ hằng ngày trong niềm kết hiệp với những đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đanh để cứu độ thể giới, kiên nhẫn và vui tươi chấp nhận hoàn cảnh của mình.. Anh chị em đừng xấu hổ vì là một kho tàng quí giá của Giáo Hội”.

Tại buổi tiếp kiến, các em bé đã chào mừng ĐTC và trao tặng ngài một cuốn sách vĩ đại với những hình vẽ của các em.

Sau buổi tiếp kiến, ĐTC còn dành hàng tiếng đồng hồ để chào thăm các anh chị em bệnh nhân, những người khuyết tật và một số người thiện nguyện tháp tùng họ (SD 9-11-2013)


G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

TRẺ SINH ĐÔI

TRẺ SINH ĐÔI

“Chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách nhằm đảm bảo niềm vui vĩnh cửu ở đời sau.”

Có một bà mẹ mang thai đôi. Một đứa là gái, đứa kia là trai. Nhiều ngày tháng trôi qua, và chúng lớn dần. Khi càng lớn, chúng càng vui mừng ca hát: “Có được sự sống thật là vĩ đại!”

Cùng nhau chúng thám hiểm lòng mẹ. Khi chúng tìm thấy chiếc nhau của bà mẹ, chúng la lên vui sướng: “Mẹ thương chúng ta biết là chừng nào đến nỗi chia sẻ sự sống cho chúng ta!”

Không bao lâu, hai đứa ngày càng thay đổi đáng kể. Đứa con trai hỏi, “Thế nghĩa là gì?”

“Có nghĩa cuộc sống của chúng ta trong lòng mẹ sẽ chấm dứt,” đứa con gái trả lời.

“Nhưng mình không muốn rời lòng mẹ,” đứa con trai nói. “Mình muốn ở đây mãi.”

Đứa con gái trả lời, “Mình đâu có lựa chọn được. Nhưng mà biết đâu có đời sống sau khi sinh.”

“Làm sao được?” đứa con trai hỏi. “Chúng ta sẽ bị tách khỏi cái nhau của mẹ mình thì làm sao sống nổi? Hơn nữa, trong bụng mẹ có những chứng cớ rõ ràng là có những đứa sống trước mình, và chưa có đứa nào trở lại đây cho mình biết là có sự sống sau khi sinh. Không được đâu, đến đây là chấm dứt.”

Và rồi đứa con trai thấy tuyệt vọng, suy nghĩ. “Nếu đời sống trong bụng mẹ chấm dứt bằng cái chết, thì mục đích của đời sống đó là gì? Ý nghĩa của nó là gì? Có lẽ mình không có mẹ. Có lẽ mình chỉ bịa ra người mẹ để cảm thấy an tâm.”

“Nhưng chúng ta phải có một người mẹ,” đứa con gái nói. “Vì làm thế nào mà chúng ta vào đây được? Làm thế nào chúng ta sống được?”

Và rồi những ngày cuối cùng trong bụng mẹ đầy những thắc mắc và lo sợ.

Sau cùng, giây phút chào đời đã đến. Khi hai đứa mở mắt nhìn, chúng đã khóc vì sung sướng. Những gì chúng thấy còn hơn cả mơ ước.

Dĩ nhiên, câu chuyện trên chỉ là một ngụ ngôn. Nó so sánh đời sống ở thế giới này với đời sống trong lòng mẹ.

Cũng như hai đứa trẻ song sinh tự hỏi về đời sống sau khi sinh giống như thế nào thì chúng ta cũng tự hỏi về đời sống sau khi chết và thế giới ấy giống như gì.

Và cũng như đời sống sau khi sinh vượt quá những mơ ước của hai đứa song sinh thì đời sống sau khi chết cũng vượt quá ước mơ của chúng ta. Theo lời Thánh Phaolô:

Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người” (1 Corinthians 2:9)

Chuyện ngụ ngôn của hai đứa song sinh thích hợp với các bài đọc hôm nay. Vì cả Phúc Âm và bài đọc một đều rõ ràng đối phó với sự sống sau khi chết.

Và vì thế, có lẽ thật thích hợp cho chúng ta để suy nghĩ về đề tài đó.

Một cách cụ thể, chúng ta có thể suy nghĩ về câu hỏi rất thực tế: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau?

Câu hỏi này được đề cập đến trong một cuốn sách của Doris Lee McCoy có tựa đề là Megatraits: Twelve Traits of Successful People. (Vô Số Đặc Điểm: 12 Đặc Điểm của Người Thành Công).

Một trong những người mà cô McCoy phỏng vấn khi thực hiện cuốn sách là ông Peter Coors, chủ tịch ngành bia của công ty Adolph Coors.

Ông Adolph Coors từ nước Đức vào Mỹ dưới dạng hành khách đi tầu lậu vé. Ông đến Hoa Kỳ mà không có giấy thông hành, không một đồng xu, không có gì cả.

Từ một khởi đầu không ai dám nghĩ đến, ông đã sáng lập một trong những công ty thành công và giầu có nhất Hoa Kỳ.

Peter Coors là chắt của Adolph Coors. Khi cô McCoy hỏi ông Peter nghĩ gì về sự thành công, ông trả lời như sau:

“Sự thành công đối với tôi thật căn bản. Thứ nhất, khi cuộc đời tôi chấm dứt, sự thành công sẽ là đứng trước mặt Thiên Chúa, và cảm thấy rằng dù tôi có những lầm lỗi, tôi luôn luôn coi Thiên Chúa như tâm điểm của đời tôi.

“Thứ hai, sự thành công đối với tôi là có được một gia đình tốt đẹp và một hôn nhân tốt đẹp. Đó là một phần rất quan trọng của đời tôi.

“Thứ ba, sự thành công đối với tôi là, sau thời gian làm việc với công ty chấm dứt, tôi có thể nói rằng tôi đã giúp đỡ, không chỉ công ty, nhưng còn các nhân viên nữa.”

Ba nhận xét của ông Peter Coors bao gồm câu trả lời cho thắc mắc của chúng ta: Trong thế giới bận rộn này, làm sao một con người có thể sống theo một phương cách nào đó nhằm đảm bảo sự sống vĩnh cửu ở đời sau?

Thứ nhất, chúng ta phải sống ở đời này theo một phương cách mà sau khi chết, trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đoan chắc rằng Thiên Chúa luôn luôn ở tâm điểm của đời sống chúng ta.

Thứ hai, chúng ta phải sống theo một phương cách mà, sau việc yêu mến Thiên Chúa, việc yêu mến gia đình chiếm địa vị ưu tiên trong đời sống.

Sau cùng, chúng ta phải sống ơn gọi của mình theo một phương cách không những tích cực góp phần cho ngành nghề và lãnh vực hoạt động nhưng còn cho những người mà chúng ta cùng làm việc.

Nếu chúng ta có thể thi hành như vậy, quả thật cuộc đời chúng ta đã sống theo một phương cách được cam đoan bởi lời hứa của Thánh Phaolô:

“Điều mà chưa ai từng thấy hay nghe biết, điều mà chưa ai dám nghĩ sẽ xảy ra, thì đó chính là điều mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người”

Chúng ta hãy kết thúc với một bài thơ. Bài thơ này là một kết luận thực tế, thích hợp với những gì chúng ta vừa nói. Bài thơ mang tên “Dẫu Vậy.”

Con người thì vô lý, sai lầm, và ích kỷ,
Dẫu vậy hãy cố yêu thương họ!

Nếu bạn làm điều tốt, đời sẽ lên án bạn là vì nhiều ẩn ý.
Dẫu vậy hãy làm tốt cho họ!

Nếu bạn thành công, bạn sẽ có thêm những người giả dối và kẻ thù ghét bạn.
Dẫu vậy hãy thành công!

Những điều tốt bạn làm sẽ rơi vào quên lãng.
Dẫu vậy hãy làm tốt!

Sự thành thật và thẳng thắn khiến bạn dễ bị tổn thương.
Dẫu vậy hãy thành thật và thẳng thắn!

Những người vĩ đại với các tư tưởng vĩ đại có thể bị hạ nhục bởi những người ti tiện.
Dẫu vậy hãy nghĩ đến điều vĩ đại!

Những gì bạn bỏ công xây dựng cả năm có thể bị tiêu hủy sau một đêm.
Dẫu vậy hãy xây dựng!

Người ta thực sự cần được giúp đỡ nhưng họ có thể tấn công bạn nếu bạn giúp đỡ họ.
Dẫu vậy hãy giúp đỡ họ!

Bạn hết sức xây dựng thế giới và chỉ nhận được những đắng cay.
Dẫu vậy hãy hết sức trao ban cho thế giới
!

Cha Mark Link, S.J.

Đời Này và Đời Sau

Đời Này và Đời Sau

Bạn đã làm người được bao nhiêu năm?

Chết hết làm người, bạn dự định sẽ làm gì?

Sống và chết là điều mà mọi người đều nghĩ tới. Và hơn thế nữa, ý nghĩa và cùng đích của cuộc đời này luôn luôn là điều mà ta hằng quan tâm suy nghĩ. Ngay cả những người vô thần, dù không tin có cuộc sống ở đời sau, vẫn băn khoăn lo lắng cho những gì xảy ra sau khi ta chết: Lúc đó ta sẽ ra sao? Sẽ làm gì? Sẽ đi về đâu? Về cõi trường sinh vĩnh phúc, hay nơi trầm luân đời đời?

Bạn thân mến! Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến đời sau, nơi mà con người không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng cần lấy vợ lấy chồng. Sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Nhưng đời sau vẫn là một nhiệm mầu, vì chẳng ai tận mắt nhìn thấy đời sau, chẳng ai chụp hình quay phim được thiên đàng hay hỏa ngục. Người đã chết cũng chẳng bao giờ trở lại đời này để kể cho ta nghe về đời sau. Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau. Đời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ, cho nên con người bị cuốn hút bởi “tham sân si” của đời này, sống như thể chỉ có đời này, bám dính lấy đời này.

Thế nhưng, đời này được kết thúc bằng cái chết. Mọi người đều phải đi qua sự chết. Cái chết là cánh cửa mở ra cho con người đi vào cuộc sống mới ở đời sau. Nơi đó những người công chính không còn phải chết nữa, nhưng được sống lại, và sống đến muôn muôn đời.

Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp. Giáo lý Công giáo khẳng định chỉ có một kiếp người, đó là cuộc đời ta đang sống. Chính cuộc đời duy nhất này định đoạt số phận của ta ở đời sau. Lúc đó ta sẽ ra sao? Sẽ đi về đâu? Về nơi trường sinh vĩnh phúc hay cõi trầm luân đời đời?

Chúng ta chỉ đi qua cuộc đời này một lần mà thôi, không có một cơ hội thứ hai để ta làm lại. Chính vì thế ta phải cố gắng nỗ lực sống hết mình trong cuộc đời này, để đời sau ta được sống lại với Thiên Chúa, vì “Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, và đối với Ngài, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38). Và đó cũng là cơ sở vững chắc cho ta mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.

Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng. Hy vọng vì đời ta sẽ không đi trong bất định, không lạc vào hư vô, nhưng có một cùng đích là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta. Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên trong hạnh phúc; hạnh phúc được làm con cái Thiên Chúa, hạnh phúc được chia sẻ sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Chúng ta tin tưởng vững vàng và hy vọng chắc chắn rằng: Cũng như Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì sau khi chết, người công chính cũng được sống mãi với Đức Kitô Phục sinh và Người sẽ cho họ sống lại ngày sau hết. (GLHTCG, số 989)

Lạy Chúa Giêsu, trần gian này quá đẹp khiến con mải mê, quên mình là lữ khách. Thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong lòng con. Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân, như thể con sẽ sống mãi trong cuộc đời này. Xin khơi dậy trong con niềm khát khao những điều cao cả trên trời, và đừng để con mãn nguyện với những cái tầm thường nơi trần thế tạm bợ này. Amen.

Veritas Radio

CUỘC SỐNG MAI HẬU

CUỘC SỐNG MAI HẬU

Giáo lý của Chúa Giêsu dạy có sự sống lại. Tuy nhiên vào thời của Ngài, hai nhóm: nhóm Pharisêu và nhóm Sađucêô luôn đối nghịch nhau về quan điểm, lập trường. Nhóm Pharisêu là nhóm bảo thử, nhóm Sađucêô là nhóm cấp tiến không tin vào sự sống lại. Như thế họ đối nghịch với Chúa Giêsu và giáo lý của Ngài dạy. Nhóm Sađucêô hầu hết là giới giáo sĩ, giới lãnh đạo về mặt tôn giáo. Họ liên hệ với Chính quyền để hưởng lợi cá nhân.

Nhóm Sađucêô cho rằng chết là hết, ở đời phải tự do hưởng thụ. Sống cứ buông thả, cứ chơi bời và không cần gì phải lập công tích đức. Do đó, để đánh lừa dư luận, để gây khó dễ cho Chúa và để gây hỏa mù, gây niềm tin cho quần chúng, họ đã tự bầy ra một câu chuyện để gây thắc mắc, xin Chúa giải quyết cho họ. Họ dựa vào một điều luật của Môsê gọi là luật Lévirat để phịa ra một câu chuyện giả tưởng, buồn cười nhưng làm cho người khác có thể hiểu lầm. Theo luật Lévirát khi trong gia đình có một người anh em chết tuyệt tự, thì người em phải lấy chị dâu hoặc em dâu làm vợ, để nối dõi tông đường. Và họ hỏi Chúa như thế nếu có bảy anh em chết thì khi sống lại “người đàn bà góa bụa ấy là vợ của ai?”. Câu chuyện giả tưởng, không có thật này lại là dịp, là cơ hội để Chúa Giêsu giải thích cho mọi người về sự sống lại.

Ở đây, chúng ta quan tâm đến hai điểm giáo lý căn bản. Điểm thứ nhất: cuộc sống mai sau là cuộc sống của Thiên Chúa. Con người được sống trước Thánh Nhan Chúa, ca tụng Chúa như các thiên thần. Điểm thứ hai, cuộc sống sau này, cuộc sống mai sau là một cuộc sống hoàn toàn linh thiêng, cuộc sống Phục sinh nghĩa là cuộc sống hoàn toàn được đổi mới, cuộc sống linh thiêng như các thiên thần, cuộc sống như Chúa Phục sinh. Chúa Giêsu quả quyết có sự sống lại vì chính Ngài đã Phục sinh như lời Ngài đã nói trước. Chúa Giêsu xác quyết người sống lại sẽ giống như các thiên thần. Người sống lại ở Thiên Đàng không còn lấy vợ lấy chồng vì họ không còn sống thân xác như trước khi chết. Để trả lời cho các tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã viết như sau : “cũng vậy về sự kiện kẻ chết sống lại : gieo xuống trong hư hoại, sống lại trong bất hoại; gieo xuống trong ô nhục, sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại là xác thần thiêng” (1 Co 15, 42).

Để giải thích cho một số người đặt Môsê như một vị ngôn sứ cao cả, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề và hỏi họ . Thánh Kinh đã cho thấy gì ? Khi Thiên Chúa hiện ra với Ông Môsê trong bụi gai bốc cháy nhưng không tiêu hao, Ngài đã phán : “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp”. Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống, chứ Ta đâu có phải Thiên Chúa của kẻ chết. Nhóm đó và nhiều người đã im lặng không nói được gì.

Các bài đọc, đặc biệt là bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta hay rằng : “Kẻ chết sẽ sống lại”. Chết không phải là hết.Cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm bợ. Chết là đi vào cõi trường sinh, đi vào một cuộc sống mới. Như Chúa chết là để sống lại. Vậy, chúng ta là Kitô hữu, chúng ta chết là để sống lại. Chúng ta tin Ông bà Cha mẹ, những người thân yêu hay chính chúng ta chết là để sống lại. Đây là niềm tin, là niềm cậy trông, niềm hy vọng vì chết là bước vào cõi sống.

Xin mượn lời của Luc Fritz để kết luận bài chia sẻ này : …Bước vào thế giới của Thiên Chúa là đi vào một chiều kích khác.Chiều kích ấy đã thay đổi các điểm mốc : cái chết không còn nữa. Trong đó, thế giới của con người không bị phủ nhận, nhưng nó mang một chiều sâu, một sức sống mới. Sự Phục sinh của Đức kitô củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào sự phục sinh của chính ta. Sự Phục sinh là sự sống viên mãn.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Nhóm Pharisêu là nhóm nào ?

2. Bè Sađucêô có tin sự sống lại ?

3. Chúa Giêsu đã trả lời thế nào với các nhóm ?

4. Chúng ta phải làm gì để củng cố niềm tin vào sự Phục sinh ?

5. Sự sống mai sau sẽ thế nào ?

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

ĐỜI SAU KHÁC ĐỜI NÀY

ĐỜI SAU KHÁC ĐỜI NÀY

Ðức Cha Fulton J. Sheen trong tác phẩm “Trên đỉnh caoThập Giá” đã kể rằng: Sau khi bị Thiên Chúa đuổi ra khỏi Ðịa Ðàng và gánh chịu hình phạt lao dịch, A-đam đã phải vất vả khổ cực tìm kiếm của ăn. Một lần kia, trên đường ra nương rẫy, A-đam vấp phải thân xác bất động của A-ben. A-đam nâng dậy vác con lên vai đưa về nhà đặt trong vòng tay E-và. Ông Bà lay gọi nhưng A-ben không đáp trả. Trước đây A-ben là đứa con ngoan, lanh lợi, không có trầm lặng như vậy. Ông Bà nâng tay A-ben lên, bàn tay lại rơi xuống đất bất động, trước đây A-ben không hề như thế. Ông Bà nhìn vào đôi mắt của con: lạnh lùng, trắng dã, vô tư một cách bí mật, trước đây đôi mắt của A-ben có vô tình như vậy bao giờ đâu. Ông Bà kinh ngạc, nỗi kinh ngạc tăng dần lên. Thế rồi hai Ông Bà chợt nhớ lời Thiên Chúa: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ phải chết“.

Cái chết của A-ben là cái chết đầu tiên của nhân loại. Khi Nguyên tổ phạm tội, Ðịa Ðàng đã đóng ngõ cài then. Ðau khổ và sự chết đã tràn vào thế giới và chảy dọc theo thời gian. Thiên Chúa đã sinh ra sự sống, nhưng tội lỗi đã khởi phát ra sự chết. Sống và chết là hai thái cực đối chọi nhau. Sự sống và sự chết đều là kỳ công của Thiên Chúa. Con người không thể làm ra được sự sống cũng không tài nào cản ngăn được sự chết. Thế giới càng văn minh thì Tử Thần càng xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng khác nhau. Có cái chết êm đềm thư thái, có cái chết đau đớn khốn khổ, muốn chết không được, muốn sống không yên. Càng chạy trốn Tử Thần, thì Tử Thần càng đến gần. Càng tránh đau đớn thì đau đớn càng nhiều.

Ở mọi thời đại, cái chết vẫn là một mầu nhiệm thách thức lý trí con người. Tại sao con người lại phải chết ? Chết là gì ? Ðó luôn luôn là những câu hỏi làm xao xuyến tâm não con người trong mọi không gian và thời gian. Sự chết là một đề tài suy niệm phong phú. Mỗi tôn giáo, mỗi con người nhìn và hiểu một cách tuỳ theo quan niệm của mình, tuỳ theo niềm tin, tuỳ theo chọn lựa và thái độ cuộc sống.

Ðối với Ki-tô giáo chúng ta, Thiên Chúa là Chúa của sự sống, ý định của Người là thông ban sự sống chứ không phải sự chết. Vậy sự chết bởi đâu mà có ? Kinh Thánh trả lời rằng: sự chết là hậu quả của tội lỗi (Rm 5, 12; 6, 23). Nhưng Thiên Chúa “vì quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài để những ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16) và lời tuyên bố của Chúa Giê-su trước khi làm cho La-da-rô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Lời mặc khải này có nhiều người tin vào Chúa, nhưng cũng không ít người nghi ngờ, không tin.

Bài Phúc Âm hôm nay kể về phái Xa-đốc không tin có sự sống lại, họ đặt ra những vấn nạn vô lý để chất vấn Chúa Giê-su. Họ trích sách Ðệ nhị luật 25, 5-6 để hỏi Người: Nhà kia có 7 anh em trai. Người anh cả cưới vợ rồi chết không con. Theo luật Mô-sê, người em phải lấy chị goá để có con nối dõi, và cả 7 anh em đều chết không con. Khi sống lại, chị goá đó vợ sẽ là của ai ?. Họ đưa ra ví dụ mà chẳng thể xảy ra trong thực tế. Trong thế giới mai sau, bà vợ thuộc về ai trong số 7 ông chồng? Chẳng lẽ 7 ông đánh nhau để dành 1 bà trên thiên đàng? Kiểu lý luận hàm ẩn một quan niệm, thế giới mai sau cũng như hiện tại, nối dài hiện tại. Người Việt Nam cũng vậy, thói quen đốt vàng mã, đốt đôla, đốt xe honda, đốt nhà lầu…cho người cõi âm xài…Người ta tin rằng thế giới mai sau cũng giống như thế giới mình đang sống cho nên người đã chết cũng cần xe, cần tiền…

Chúa Giê-su trả lời với hai nét độc đáo: thế giới mai sau là một thế giới hoàn toàn khác, hoàn toàn được biến đổi, và sự sống mới hoàn toàn được bắt đầu từ hôm nay.

Ðời sau khác đời này. Người ta không lấy vợ gả chồng, không cần con nối dõi, nhưng sống như các thiên thần, chỉ lo phụng sự và ca ngợi Chúa. Ðời sau không còn bóng dáng của Thần Chết. Con người thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh. Toàn bộ con người cả xác lẫn hồn được sống lại. Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian, nhưng sẽ được biến đổi cách kỳ diệu để chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với linh hồn. Bởi vì: “Ðức Chúa là Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, đối với Người tất cả đều đang sống”.

Qua mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh sắp tới, Ðức Giê-su sẽ hoàn tất mạc khải này. Ðức Giê-su đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết trên Thập Giá và Người đã sống lại để trao ban sự sống mới, sự sống của Ðấng Phục Sinh. Chính bởi sự yêu mến, vâng phục và dâng hiến nên cái chết của Chúa Ki-tô là một sự chiến thắng, bẻ gãy mũi nhọn của thần chết (1 Cr 15, 14). Thánh Phê-rô đã nói một cách sâu sắc: “Tội lỗi của chúng ta, chính Ðức Ki-tô đã mang vào thân thể, mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta được sống cuộc đời công chính” (1 Pr 2, 24).

Vì Ðức Giê-su đã thắng được những xao xuyến, thắng được những tuyệt vọng, nên Người đã biến cái hố thẳm hay biển cả mênh mông ngàn trùng xa cách giữa con người và Thiên Chúa thành biển cả tình thương liên kết hiệp nhất Thiên Chúa và loài người. Ðức Ki-tô đã trở nên con đường giao hoà và Thập Giá Ðức Ki-tô đã trở thành như chiếc thang nối liền trời và đất, kết hợp Thiên Chúa và loài người. Yếu tính sự chết đã được biến đổi. Sự chết không còn là tang tóc nữa mà đã trở thành Lễ Vượt Qua để tiến tới Vinh Quang Thiên Quốc. Từ nay Ðức Giê-su không còn lệ thuộc vào thân xác vật chất nữa, những gì thuộc về thân xác vật chất đều đã chết trên Thập Giá. Chúa Ki-tô đã được Thần Khí hoá (Rm 8, 11; 1 Pr 3, 18), và sự sống của Người thuộc về Thiên Chúa (Rm 6, 10).

Niềm tin vào Ðức Giê-su, Ðấng đã chết và sống lại là niềm tin cao cả nhất. Khi trái tim một người Ki-tô hữu ngừng đập thì chuông Nhà Thờ vang lên báo tin cho mọi người biết linh hồn một người đã được Chúa gọi về. Nghe chuông báo tử, mọi người đến tang gia để thăm viếng, phân ưu, đọc kinh cầu nguyện, tham dự nghi thức tẩm liệm, cùng đưa người chết đến Nhà Thờ. Linh cửu được đặt ngay trước Nhà Tạm của Chúa Giê-su. Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho sự sống lại của Chúa và của những ai theo Người được thắp sáng lên đặt cạnh quan tài. Thánh Lễ được cử hành để hiệp thông cầu nguyện cho người chết, nói lên việc Giáo Hội trân trọng với cả xác chết. Ðại diện cho Giáo Hội là Linh Mục tiễn đưa người quá cố từ Nhà Thờ đến Ðất Thánh, làm phép huyệt để thánh hoá nơi người chết an nghỉ và nói lên niềm hy vọng tuyệt vời: “Chúng ta gởi thân xác người thân yêu ở lại đây, đợi ngày sống lại gặp nhau trên Thiên Ðàng.”

Sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô không những đã chuộc lại được cho con người những gì nó đã mất vì tội lỗi, nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Bởi vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà nhịp cầu liên kết giữa Thiên Chúa và con người được nối lại và một tương quan mới được thiết lập, đó là tương quan Cha Con. Nhờ cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Ki-tô, con người được tha thứ, được gội rửa sạch tội lỗi, khỏi án chết đời đời và trở nên con cái Thiên Chúa. Từ nay con người được gọi Thiên Chúa là Áp-ba, Cha ơi (Rm 8, 15).

Tin và sống trong ân tình của Chúa Ki-tô chính là chiến thắng sự chết, chính là đã mang trong mình mầm sống của sự sống đời đời: “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1 Ga 3, 14). Không bao giờ chết chính là không bao giờ mất sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay. Niềm tin đó thôi thúc chúng ta sống theo Tin Mừng Chúa Giê-su. Niềm hy vọng ấy thôi thúc chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ, làm việc lành phúc đức nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho những người thân yêu và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.

Thiên Chúa dựng nên con người để con người được hưởng hạnh phúc đời này và cả đời sau. Sống là một cuộc hành trình tiến về đời sau. Đừng mải mê với những hạnh phúc mau qua, những lạc thú chóng tàn mà quên đi cùng đích cuộc đời là gặp được Chúa. Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Người.

Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và chúng con còn khắc khoải mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa (Thánh Augustinô). Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

ĐTC Phanxicô ôm hôn và cầu nguyện cho người bệnh dị dạng

ĐTC Phanxicô ôm hôn và cầu nguyện cho người bệnh dị dạng

POPE FRANCIS' GENERAL AUDIENCE

Đức Thánh Cha Phanxicô , tạm dừng một chút thời gian để cầu nguyện và đặt tay trên một người đàn ông với một chứng bệnh dị dạng . Người đàn ông nhẹ nhàng vùi đầu vào ngực của Đức Giáo Hoàng , nhiều khối u trên khuôn mặt có thể nhìn thấy được.

Cuộc gặp gỡ với người đàn ông ốm yếu xảy ra tại Vatican hôm thứ tư vào cuối buổi tiếp kiến ​​chung , trong đó có khoảng 50,000 người tham dự.

Hình ảnh của vòng tay của Đức Thánh Cha tại quảng trường Thánh Phêrô lan truyền khắp nơi trên phương diện truyền thông xã hội .

Ông Donna Hosie nói trên mạng xã hội rằng:

"Tôi là một người vô thần , nhưng tôi càng nghe về Đức Giáo Hoàng Phanxicô , tôi càng thích Ông ấy, "

Một số người nói Đức Thánh Cha Phanxicô là sống theo những lý tưởng theo tên gọi của mình, Thánh Phanxicô Assisi , một vị Thánh nổi bật, coi mình là một người đầy tớ cho người nghèo và thiếu thốn.

Tại sao vòng tay của Đức Giáo Hoàng là mạnh mẽ như vậy

POPE FRANCIS' GENERAL AUDIENCE

Kể từ khi là người lãnh đạo của 1.2 tỷ người Công Giáo trên thế giới , Đức Thánh Cha đã nêu bật sự cần thiết phải tiếp cận với những người nghèo khổ.

"Lạy Chúa , xin dạy chúng con bước ra ngoài bản thân mình , " đây là lời ĐTC tweet trong tháng Tám. " Xin dạy chúng con đi ra đường phố và biểu hiện tình yêu của chúng con . "

Một tháng sau, ĐTC cũng lập lại như vậy.

"Sự từ thiện chân chính đòi hỏi lòng can đảm: Hãy vượt qua nỗi sợ hãi, dùng bàn tay của mình để giúp đỡ những người đang cần đến ",.

Đức Thánh Cha đã kêu gọi sự tương tác cởi mở với mọi người trong tất cả các tầng lớp xã hội , đặc biệt là người nghèo yếu và dễ bị tổn thương.

Và ông đang thực hành giảng dạy ông những gì .

Người đàn ông Đức Giáo Hoàng an ủi bị mang bệnh neurofibromatosis. Các rối loạn di truyền gây ra đau đớn và hàng ngàn khối u mọc khắp cơ thể. Nó dẫn đến mất thính giác và thị lực , các biến chứng tim mạch , và mất chức năng  từ sự đè nén dây thần kinh do khối u.

Đây là điểm nổi bật mới nhất trong các cuộc gặp gỡ đáng nhớ đối với Đức Giáo Hoàng.

Thái Trọng

 

ĐỨC THÁNH CHA BỔ NHIỆM GIÁM MỤC GIÁO PHẬN ROCHESTER, NEW YORK

ĐỨC THÁNH CHA BỔ NHIỆM GIÁM MỤC GIÁO PHẬN ROCHESTER, NEW YORK

bishop salvatore

(Vatican Radio) Đức Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Giám Mục Salvatore Ronald Matano, người đứng đầu giáo phận Rochester, tiểu bang New York. Ông đã phục vụ Giám Mục tại Burlington, Vermont, cùng thời điểm được bổ nhiệm.

Giám mục Matano sinh năm 1946 ở Providence, Rhode Island, thụ phong linh mục vào năm 1971. Ông nhận bằng tiến sĩ trong giáo luật từ Đại học Giáo hoàng Gregorian vào năm 1972, và sau đó phục vụ việc giảng dạy và mục vụ giáo xứ trong giáo phận nhà của Providence, và nhiều nơi trong giáo phận khác nhau, bao gồm như tổng đại diện và điều phối viên của giáo triều. Ông cũng làm việc trong Tòa Khâm sứ Tòa Thánh tại Washington, DC.

Thánh lễ nhậm chức sẽ vào ngày 3 tháng 1 năm 2014, và là vị Giám mục thứ 9 của giáo phận Rochester.

Ngài được tấn phong Giám Mục vào năm 2005 và từng là Giám Mục phó của Burlington cho đến tháng mười của năm đó, khi ông bắt đầu làm giám mục. Ông là thành viên của Ủy ban Giáo lý Hoa Hội Đồng Giám Mục Kỳ.

Thái Trọng phỏng dịch

Đức Thánh Cha đề cao vai trò vị bảo hệ tại tòa án hôn phối

Đức Thánh Cha đề cao vai trò vị bảo hệ tại tòa án hôn phối

VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 8-11-2013, dành cho các thành viên Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh, ĐTC đặc biệt đề cao vai trò của vị bảo hệ (difensor vincoli) trong các tòa án hôn phối của Giáo Hội.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có 55 người tham dự khóa họp toàn thể của Tối Cao Pháp viện Tòa Thánh về vai trò của vị bảo hệ, tức là người có nhiệm vụ làm mọi cách để bảo vệ mối dây hôn phối trong các vụ án xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Khóa họp được đặt dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Raymond Burke, người Mỹ, và trong số các tham dự viên có 16 HY và 6 GM thành viên.

Lên tiếng tại buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao một chức năng của Tối Cao Pháp Viện Tòa Thánh là giúp các tòa án trong toàn thể Giáo Hội chu toàn nhiệm vụ thi hành công lý của Giáo Hội cho các tín hữu. Tòa này cũng giúp đỡ các GM trong việc huấn luyện các chức sắc tư pháp thích hợp, trong đó có vị bảo hệ. Ngài nói:

”Vị bảo hệ chu toàn một chức năng quan trọng, đặc biệt trong các vụ án tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Điều cần thiết là vị bảo hệ phải chu toàn phận vụ của mình một cách hữu hiệu, để giúp đạt tới sự thật trong phán quyết chung kết, mang lại thiện ích mục vụ cho các phe liên hệ”.

ĐTC nhắc đến Huấn thị ”Dignitas connubii” (Phẩm giá hôn nhân, số 56, 1-2; 279,1) và đặc biệt nhắc đến vai trò của vị bảo hệ trong các vụ án tuyên bố hôn nhân vô hiệu vì thiếu khả năng tâm lý. Trong một số tòa án, đây là lý do duy nhất thường được nại đến để tuyên bố hôn nhân kết ước bất thành.

Ngài nói: ”Vị bảo hệ nào muốn phục vụ tốt đẹp thì không thể chỉ đọc vội vã các văn kiện trong vụ án, hoặc trả lời cho có lệ theo kiểu bàn giấy và trống trống. Trong công tác tế nhị này, vị bảo hệ được kêu gọi tìm cách hòa hợp những qui định của bộ giáo luật và hoàn cảnh cụ thể của Giáo Hội và xã hội.. Khi trung thành chu toàn trọn vẹn nghĩa vụ của mình, vị bảo hệ không làm tổn thương quyền của vị thẩm phán tòa án Giáo Hội, vì vị thẩm phán là người duy nhất có quyền phán quyết về vụ án. Khi vị bảo hệ thi hành nghĩa vụ kháng án, kể cả tại tòa Thượng thẩm Rota ở Roma, để chống lại một phán quyết mà vị ấy thấy là làm thương tổn chân lý về mối giây hôn phối, nghĩa vụ của vị ấy không làm thương tổn nghĩa vụ của vị thẩm phán. Đúng hơn các thẩm phán có thể tìm được một trợ lực cho hoạt động của mình trong công việc kỹ lưỡng của vị bảo vệ mối giây hôn phối”.

Theo giáo luật số 1445, ngoài việc xét xử những vụ thượng tố chống lại phán quyết hoặc hành động của tòa Thượng Thẩm Rota, Tối Cao Pháp Viện của Tòa Thánh còn cứu xét những tranh tụng phát nguyên từ hành vi của quyền hành chánh trong Giáo Hội; phán xử những tranh tụng hành chánh khác được ĐTC hay cơ quan giáo triều đưa tới, và giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan ấy. Ngoài ra, Tối Cao Pháp viện của Tòa Thánh cũng có chức năng như một bộ tư pháp với nhiệm vụ canh phòng việc điều hành công lý cách đúng đắn, nới rộng thẩm quyền của các tòa án, xúc tiến và phê chuẩn việc thành lập các tòa án đệ nhị cấp (SD 8-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI CHO TRẺ EM ĐƯỢC RỬA TỘI CÀNG SỚM CÀNG TỐT

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI CHO TRẺ EM ĐƯỢC RỬA TỘI CÀNG SỚM CÀNG TỐT

“Các Bí tích không phải là những nghi thức, chúng là sức mạnh của Đức Kitô.” Đức Phanxicô huấn dụ về những điểm chính yếu của đức tin và sự thực hành trong các Giáo hội Châu Âu

Trong buổi tiếp kiến chung hôm Thứ tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về sức mạnh của các Bí tích, trong khi nhấn mạnh và giải thích một số điểm để thổi sức sống mới vào trong những bản văn được chuẩn bị sẵn. Ngài nói các Bí tích không phải là những nghi thức; chúng là sức mạnh của Đức Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở trong các Bí tích. Khi chúng ta dâng Thánh lễ, chính Chúa Giêsu sống động ở đó trong phép Thánh Thể. Ngài đem chúng ta lại với nhau như một cộng đoàn, để tôn thờ Chúa Cha.

Sau đó đức Bergoglio nhấn mạnh rằng “mọi cuộc gặp gỡ với Đức Kitô trong các Bí tích ban ơn cứu độ cho chúng ta, mời gọi chúng ta “ra đi” và thông truyền cho người khác một ơn cứu độ mà chúng ta có thể nhìn thấy, có thể đụng chạm, gặp gỡ, đón nhận, và điều đó thật sự đáng tin cậy vì nó là tình yêu.” ” Theo cách nầy, các bí tích đưa dẫn chúng ta thành những nhà truyên giáo, và sự dấn thân tông đồ thúc đẩy chúng ta đem tin Mừng đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, ngay cả nơi chống đối nhất, là hoa trái đích thực của một đời sống bí tích chuyên chăm, nó như là sự dự phần vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Đấng muốn trao tặng ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người.”

Đức Thánh Cha đã nói trong một nhận xét ứng khẩu rằng: “Và như thế có được sự hiệp thông là điều rất quan trọng. Quan trọng là trẻ em cần được rửa tội sớm, quan trọng là chúng được xác nhận là thành viên. Tại sao, vì đây là sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong chúng ta, Ngài giúp đỡ chúng ta. Quan trọng là, khi chúng ta cảm nhận rằng chúng ta đã phạm tội, chúng ta đến với Bí tích Giao hòa. ‘Không, thưa Cha, con sợ lắm, bởi vì linh mục sẽ la mắng con!’ Không, vị linh mục sẽ không la mắng bạn. Bạn có biết bạn sẽ gặp ai trong Bí tích Giao hòa không? Chúa Giêsu, Chúa Giêsu tha thứ cho bạn. Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn ở đó, và đây là một bí tích. Nó làm nên toàn thể Giáo Hội.”

Do đó Đức Phanxicô nhấn mạnh vào sự quan trọng của việc rửa tội trẻ em từ sớm và của việc có sự hiệp thông. Đức Bergoglio nhắc lại rằng Giáo Hội cần phải “tạo điều kiện” cho đức tin của người ta chứ không phải ra qui định cho nó. Đức Thánh Cha đã làm một ví dụ bằng việc rửa tội một số người trong các chuyến hành hương của ngài và những ngày lễ các thánh. Ngài luôn ban phép Rửa tội sau các bài giáo lý ngắn gọn.

Trong một cuốn sách phỏng vấn với Francesca Ambrogetti và Sergio Rubin, vị TGM của Buenos Aires hồi đó đã nói: “Có một ngày tôi đã rửa tội cho bảy em bé của cùng một người mẹ, một góa phụ nghèo vốn là một người trông coi việc nhà và đã có con với hai người đàn ông khác nhau. Tôi đã gặp bà năm vừa qua tại Lễ Thánh Cayetano. Bà ấy nói với tôi: Thưa Cha, con đã phạm một tội thật lớn, con có 7 đứa con nhưng con chưa bao giờ rửa tội cho một đứa nào cả. Đó là vì bà ấy không có tiền để trả cho những người đỡ đầu, họ vốn ở xa, để đến dự phép rửa tội, hoặc để chi tiền cho những lễ mừng sau đó, vì bà ta phải làm việc liên tục… Tôi đề nghị gặp gỡ để nói về chuyện nầy. Chúng tôi đã nói chuyện qua điện thoại, bà ấy đến gặp tôi, bà nói không bao giờ có thể tìm được tất cả những người đỡ đầu và qui tụ họ lại với nhau..Cuối cùng tôi nói với bà ấy: chỉ cần hai người đỡ đầu đại diện cho những người khác. Tất cả bọn họ đã đến đây và sau một bài giáo lý ngắn tôi đã rửa tội đám trẻ trong nhà nguyện của tòa Tổng Giám Mục. Sau nghi lễ có một ít giải khát, ít Coca và ít mì sandwich. Bà ấy nói với tôi: Thưa Cha, con không thể tưởng tượng được, Cha làm cho con cảm thấy quan trọng… Tôi đã trả lời: thưa bà không phải là tôi, đó là Chúa Giêsu, Đấng làm cho bà nên quan trọng.”

“Sau một bài giáo lý ngắn…” Điều nầy gợi nhớ đến tiến trình khai tâm Kitô giáo trong các Giáo hội Âu châu. Ban bí tích cho trẻ em, thường là một cơ hội tuyệt vời để nhắc nhở các bậc cha mẹ về sứ điệp của Tin Mừng. Có thể hiểu được rằng các khóa học có một khoảng thời gian nhất định. Trong khi các gia đình trì hoãn về phép rửa tội, các giáo phận đang gia tăng trì hoãn sự hiệp thông và xác nhận. Bằng cách làm như thế họ có nguy cơ làm cho phép bí tích có vẻ như là điểm kết thúc, mục tiêu cuối cùng của con đường chuẩn bị nầy. Và rằng nó tùy thuộc vào sự chuẩn bị của người nhận lãnh bí tích. Dĩ nhiên sự chuẩn bị là cần thiết. Nhưng điều quan trọng là đừng làm mất đi điểm nhấn trên “sức mạnh” của bí tích, như Đức Thánh Cha đã thể hiện. Hiệu quả của bí tích không tùy thuộc hoàn toàn vào chiều dài của gian đoạn chuẩn bị của ứng viên.

XT (theo Vatican Insider) – Trích từ Xuân Bích VN

Đức Thánh Cha ấn định đề tài cho 3 Ngày Quốc Tế giới trẻ

Đức Thánh Cha ấn định đề tài cho 3 Ngày Quốc Tế giới trẻ

VATICAN. ĐTC Phanxicô đã ấn định đề tài cho 3 ngày Quốc Tế giới trẻ sắp tới đây, như 3 giai đoạn của hành trình chuẩn bị tinh thần, đi tới cuộc cử hành Ngày Quốc Tế giới trẻ cấp hoàn cầu vào tháng 7 năm 2016 tại thành phố Cracovia Ba Lan với sự hiện diện của ĐTC.

3 đề tài đó là:
– Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 29 vào năm 2014: ”Phúc cho những ngừơi có tinh thần thanh bần, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
– Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 30 vào năm 2015: ”Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8)
– Ngày Quốc Tế giới trẻ thứ 31 vào năm 2016: ”Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được xót thương” (Mt 5,7).
3 đề tài này rút từ các Mối Phúc Thật theo Tin Mừng. Tại Rio de Janeiro, ĐTC Phanxicô đã yêu cầu các bạn trẻ, với tất cả tâm hồn, hãy đọc lại các Mối Phúc Thật để biến nó thành một chương trình sống cụ thể: ”Bạn hãy nhìn, hãy đọc các Mối Phúc Thật mang lại điều tốt lành cho bạn!” (Xc Cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ Argentina tại Nhà Thờ Chính Tòa thánh Sebastian, 25-7-2013)

ĐTC Phanxcicô sẽ tiếp kiến Tổng thống Nga

Một tin khác từ Vatican: Cha Lombardi, Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh xác nhận tin đã được một số báo chí loan đi, đó là chiều ngày 25-11 tới đây, ĐTC Phanxcicô sẽ tiếp kiến Tổng thống Nga, Vladimir Putin.

Báo chí cho biết tổng thống Nga rất muốn có cuộc gặp gỡ với ĐTC Phanxicô; các nhà ngoại giao Nga đã hoạt động trong vài tuần qua theo chiều hướng này và Tòa Thánh đã mau lẹ chấp nhận.

Trong dịp hội nghị thượng đỉnh mới đây của khối 20 cường quốc kinh tế ở thành phố San Pietroburgo, ĐTC đã viết thư cho tổng thống Putin, để kêu gọi các vị nguyên thủ khối G-20 tìm giải pháp cho những cuộc xung đột và giải quyết các cuộc khủng hoảng ở một số miền trên thế giới.

Lần cuối trước đây khi một Tổng thống Nga được ĐGH tiếp kiến tại Vatican là hồi tháng 2-2011: tổng thống Dimitri Medvedev được ĐGH Biển Đức 16 tiếp kiến lần thứ 2. Về phần Ông Vladimir Putin, ông đã được ĐGH Biển Đức tiếp kiến hồi tháng 3-20-7. (SD 7-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Không có tình yêu tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội

Không có tình yêu tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội

Không có tình yêu, tất cả mọi ơn không ích lợi gì cho Giáo Hội, bởi vì ở đâu không có tình yêu thương, thì có sự trống rỗng, một sự trống rỗng được lấp đầy bởi sự ích kỷ. Sống sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp thông bác ái có nghĩa là không tìm lợi lộc cho riêng mình, mà chia sẻ các khổ đau và các vui mừng của các anh chị em khác (x. 1 Cr 12,26), sẵn sàng mang các gánh nặng của những người yếu đuối và nghèo nàn hơn và biến chúng trở thành các niềm vui và khổ đau của chính mình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ chung với ngài tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 6-11-2013.

Trong buổi tiếp kiến, đã có hàng trăm người tàn tật trong đó có rất đông các trẻ em. Đức Thánh Cha đã dành ra hơn một giờ đồng hồ để chào thăm, hôn, vuốt ve và an ủi họ. Cũng có một phái đoàn trong sắc phục thời trung cổ rất đẹp với trống và cờ giàn hàng chào danh dự rước Đức Thánh Cha lên khán đài.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển khía cạnh thứ hai của sự hiệp thông trong Giáo Hội: đó là sự hiệp thông với các điều thánh thiện, nghĩa là các thiện ích thiêng liêng. Hai khía cạnh gắn liền nhau, thật vậy sự hiệp thông giữa các kitô hữu lớn lên nhờ việc tham dự vào các thiện ích thiêng liêng. Một cách đặc biệt, Đức Thánh Cha nói, chúng ta duyệt xét các Bí Tích, các đặc sủng và tình bác ái (x. GLGHCG ss. 949-953). Chúng ta lớn lên trong sự hiệp nhất, trong sự hiệp thông với các Bí tích, với các đặc sủng mà mỗi người có bởi vì Chúa Thánh Thần đã ban chúng cho họ với tình bác ái.

Trước hết là sự hiệp thông với các Bí Tích. Đức Thánh Cha giải thích như sau:

Các Bí Tích diễn tả và thực hiện một sự hiệp thông hữu hiệu và sâu xa giữa chúng ta, bởi vì trong các Bí Tích chúng ta gặp Chúa Kitô Cứu Thế, và qua Người, gặp gỡ các anh em khác trong đức tin. Các Bí tích không phải là các vẻ bề ngoài, không phải là các nghi thức. Các Bi Tích là sức mạnh của Chúa Kitô, có Chúa Giêsu Kitô trong các Bí Tích. Khi chúng ta cử hành Thánh Lễ, trong Bí Tích Thánh Thể có Chúa Giêsu sống động, chính Ngài sống động quy tụ chúng ta, làm cho chúng ta trở thành cộng đoàn, làm cho chúng ta thờ phượng Thiên Chúa Cha.

Mỗi người trong chúng ta, qua các Bí Tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, được tháp nhập vào Chúa Kitô và hiệp nhất với toàn cộng đoàn các tín hữu. Vì thế nếu một đàng Giáo Hội ”làm ra” các Bí Tích, đàng khác chính các Bí Tích ”làm ra” Giáo Hội, xây dựng Giáo Hội, bằng cách sinh ra các con cái mới, kết hiệp họ với dân thánh của Thiên Chúa, bằng cách củng cố sự tùy thuộc của họ.

Mỗi một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong các Bí tích trao ban cho chúng ta ơn cứu rỗi, mời gọi chúng ta ”ra đi”, và thông truyền cho người khác một sự cứu rỗi mà chúng ta đã có thể trông thấy, sờ mó được, gặp gỡ, tiếp đón; và nó thật là đáng tin cậy, bởi vì là tình yêu. Trong cách thế đó, các Bí Tích thúc đẩy chúng ta trở thành thừa sai, và dấn thân tông đồ đem Tin Mừng vào trong mọi môi trường, cả những môi trường thù nghịch nhất, làm thành hoa trái đích thật nhất của một cuộc sống kiên trì lãnh nhận các Bí Tích, trong việc tham dự vào sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, là Đấng muốn ban tặng ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Ơn thánh của các Bí Tích dưỡng nuôi trong chúng ta một đức tin mạnh mẽ và tươi vui, một đức tin biết kinh ngạc trước các ”sự kỳ diệu” của Thiên Chúa và biết chống trả lại các ngẫu tượng của thế giới.
Khía cạnh thứ hai là sự hiệp thông của các đặc sủng. Đức Thánh Cha nói:

Chúa Thánh Thần phân phát cho các tín hữu nhiều quà tặng và ơn thánh thiêng liêng. Sự phong phú ”tuyệt vời” này trong các ơn của Chúa Thánh Thần có mục đích xây dựng Giáo Hội. ”Đặc sủng” là một từ hơi khó. Các đặc sủng là các món qùa mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta: người thì được món qùa là như vậy, hay có tài khéo này hoặc khả năng khác… Nhưng chúng là các món qùa, mà Người ban cho chúng ta không để bị cất dấu đi: Người ban cho chúng ta để chia sẻ với các ngươi khác.

Chúng không được ban cho lợi ích của người nhận chúng, nhưng cho lợi ích của dân Chúa. Trái lại, nếu một ơn, một trong các món qùa này dùng để tự khẳng định chính mình, thì cần phải nghi ngờ rằng đây là một đặc sủng đích thực hay được sống một cách trung thành. Thật ra, các đặc sủng là các ơn thánh đặc biệt, các gợi hứng và các thúc đẩy nội tâm, nảy sinh trong lương tâm và trong kinh nghiệm của các người nhất định, được mời gọi dùng các ơn đó để phục vụ cộng đoàn. Một cách đặc biệt các ơn thiêng liêng này là để mưu ích cho sự thánh thiện của Giáo hội và sứ mệnh của Giáo Hội. Tất cả đều được mời gọi tôn trọng các đặc sủng ấy nơi chúng ta và nơi người khác, tiếp nhận chúng như các khích lệ ích lợi cho sự hiện diện và công việc phong phú của Giáo Hội. Thánh Phaolô đã cảnh cáo: ”Anh em đừng dập tắt Thần Khí” (1 Tx 5,19). Đừng dập tắt Thần Khí, Đấng ban cho chúng ta các món qùa đó, các tài khéo, các nhân đức, các điều xinh đẹp biết bao khiến cho Giáo Hội lớn lên.

Rồi Đức Thánh Cha nêu lên vài câu hỏi như sau: Đâu là thái độ của chúng ta trước các ơn này của Chúa Thánh Thần? Chúng ta có ý thức được rằng Thần Khí Chúa tự do ban chúng như Người muốn không? Chúng ta có coi các đặc sủng ấy như là một sự trợ giúp thiêng liêng, qua đó Chúa nâng đỡ đức tin của chúng ta, củng cố nó và cũng củng cố sứ mệnh của chúng ta trong thế giới hay không?

Khía cạnh thứ ba của sự hiệp thông với các điều thánh thiện, nghĩa là sự hiệp thông của tình bác ái. Sự hiệp nhất giữa chúng ta làm ra tình bác ái là tình yêu. Khi trông thấy các kitô hữu tiên khởi, các người ngoại giáo nói: ”Mà những người này yêu nhau biết chừng nào! Họ không ghét nhau, không bép xép người này chống người kia. Thật là tốt đẹp! Tình bác ái đó là tình yêu của Thiên Chúa mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta trong con tim.

Các đặc sủng quan trọng trong cuộc sống của cộng đoàn kitô, nhưng chúng luôn luôn là các phương thế giúp lớn lên trong tình bác ái, trong tình yêu, mà thánh Phaolô đặt lên trên tất cả mọi đặc sủng (x. 1 Cr 13,1-13). Thật vậy, không có tình yêu thì cả các ơn ngoại thường nhất cũng là hư vô. Nhưng người này chữa lành dân chúng, có đặc tính này, có nhân đức này chữa lành dân chúng. Nhưng ông ta có tình yêu trong con tim không? Có tình bác ái không? Nếu có thì tiến lên, nhưng nếu không, thì không phục vụ Giáo Hội. Không có tình yêu, tất cả mọi ơn không lợi gì cho Giáo Hội, bởi vì ở đâu không có tình yêu thương, thì có sự trống rỗng, một sự trống rỗng được lấp đầy bởi sự ích kỷ. Và tôi xin hỏi anh chị em nhé: nếu tất cả chúng ta đều ích kỷ, chỉ ích kỷ, thì có thể sống trong hòa bình được không? Có thể sống trong hòa bình không, nếu mọi người chúng ta là một người ích kỷ? Có thể hay không có thể? Người ta trả lời là không. Không thể được. Vì thế, cần có tình yêu để hiệp nhất chúng ta, cần có tình bác aí. Cử chỉ bé nhỏ nhất của tình yêu thương có các hiệu qủa tốt cho mọi người. Và Đức Thánh Cha khẳng định như sau:

Vì vậy sống sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự hiệp thông bác ái có nghĩa là không tìm lợi lộc cho riêng mình, mà chia sẻ các khổ đau và các vui mừng của các anh chị em khác (x. 1 Cr 12,26), sẵn sàng mang các gánh nặng của những người yếu đuối và nghèo nàn hơn. Tình liên đới huynh đệ này không phải là một hình ảnh hùng biện, một kiểu nói, nhưng là phần toàn vẹn của sự hiệp thông giữa các tín hữu kitô. Nếu chúng ta sống nó, chúng ta sẽ là dấu chỉ trong thế giới, chúng ta là ”bí tích” tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta là bí tích tình yêu cho nhau và cho tất cả mọi người! Đây không chỉ là tình bác ái, cái bác ái tiền lẻ mà chúng ta có thể cống hiến cho nhau, nhưng là cái gì sâu xa hơn: đó là một sự hiệp thông khiến cho chúng ta có khả năng bước vào niềm vui và khổ đau của người khác để biến chúng trở thành niềm vui và khổ đau của chúng ta một cách chân thành.

Đức Thánh Cha nói thêm: Thường khi chúng ta quá khô khan, thờ ơ, xa cách và thay vì thông truyền tình huynh đệ, chúng ta thông truyền sự khó chịu, chúng ta thông truyền sự lạnh lùng, chúng ta thông truyền sự ích kỷ. Và với sự khó chịu, với sự lạnh lùng, với sự ích kỷ có thể làm cho các giáo đoàn lớn lên không? Có thể làm cho toàn Giáo Hội lớn lên không? Không. với sự khó chịu, với sự lạnh lùng với sự ích kỷ Giáo Hội không lớn lên: nó chỉ lớn lên với tình yêu thương, với tình yêu thương đến từ Chúa Thánh Thần. Chúa mời gọi chúng ta rộng mở cho sự hiệp thông với Người trong các Bí Tích và trong tình bác ái, để sống một cách xứng đáng với ơn gọi kitô của chúng ta.

Và bây giờ tôi xin cho phép mình xin anh chị em một cử chỉ bác ái. Anh chị em yên tâm, sẽ không có việc quyên tiền đâu. Một cử chỉ bác ái. Trước khi đến quảng trường tôi đã đi thăm một bé gái một tuổi rưỡi bị bệnh rất nặng. Cha mẹ em cầu nguyện và xin Chúa ban sức khỏe cho bé gái xinh đó. Bé tên là Noemi. Bé cười, thật tội nghiệp. Chúng ta hãy làm một cử chỉ bác ái. Chúng ta không biết em, nhưng em là một bé gái đã được rửa tội, là một người trong chúng ta, một kitô hữu. Chúng ta hãy làm một cử chỉ bác ái đối với em, và trong thinh lặng trước hết chúng ta xin Chúa giúp em trong lúc này và ban cho em sức khỏe. Trong thinh lặng, một chút, rồi chúng ta đọc Kinh Kính Mừng. Và bây giờ tất cả chúng ta cầu xin Đức Mẹ cho sức khỏe của Noemi.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã cùng mọi người đọc kinh Kính Mừng. Rồi ngài nói: xin cám ơn anh chị em vì cử chỉ bác ái này.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Họp báo chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt

Họp báo chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám Mục khóa đặc biệt

VATICAN. Sáng 5 tháng 11-2013, các chức sắc Thượng HĐGM đã mở cuộc họp báo về tiến trình chuẩn bị Thượng HĐGM thế giới, khóa đặc biệt kỳ III, sẽ tiến hành vào tháng 10 năm tới về đề tài: ”Những thách đố đối với gia đình trong khuôn khổ công cuộc rao giảng Tin Mừng”. Tham dự khóa họp này có khoảng 150 GM thế giới.

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh có ĐHY Peter Erdoer người Hungari, Tổng tường trình viên, Đức TGM Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng HĐGM thế giới và Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt.

Đức TGM Baldisseri cho biết cơ cấu và hướng đi của Thượng HĐGM được thay đổi theo ý muốn rõ rệt của ĐTC để tăng cường việc thực thi đoàn thể tính của hàng GM và tình hiệp thông trong Giáo Hội.

Theo qui chế, các vị đương nhiên có quyền tham dự Thượng HĐGM khóa đặc biệt là: các Chủ tịch HĐGM và Hội đồng của Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương, các vị thủ lãnh các cơ quan trung ương Tòa Thánh (25), ngoài ra có 3 LM Tổng Quyền do Hiệp Hội các Bề trên tổng quyền dòng nam bầu lên.

Thượng HĐGM về các thách đố của gia đình sẽ tiến hành qua 2 giai đoạn: giai đoạn thứ I là Thượng HĐGM khóa đặc biệt từ mùng 5 đến 19-10 năm 2014 với mục đích xác định tình hình và thu thập chứng từ cũng như những đề nghị của các GM. Giai đoạn thứ II sẽ là một Thượng HĐGM thường kỳ vào năm 2015, để tìm kiếm những đường hướng hoạt động cho việc mục vụ con người trong gia đình”.

Hôm 18-10-2013, Văn Phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM đã gửi đến 136 HĐGM, các Công Nghị của các Giáo Hội Công giáo đông phương và các vị liên hệ khác, một tài liệu đề cương, gọi là Lineamenta, một văn kiện ngắn gọn dài 7 trang gồm 3 phần:

Phần I về gia đình và việc rao giảng Tin Mừng,

Phần II: Giáo Hội và Tin Mừng về gia đình, trong đó lần lượt nói về:

– Kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và Cứu Chuộc

– Giáo huấn của Giáo Hội về Gia đình

Phần III gồm một bản tổng cộng 38 câu hỏi, phân làm 9 tiết mục, với mục đích tham khỏi ý kiến các Giáo Hội địa phương, hầu chuẩn bị cho Thượng HĐGM thế giới năm tới.

Vì thời gian gần kề, Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM yêu cầu các HĐGM và các cơ quan khác được tham khảo ý kiến gửi các bản trả lời góp ý về Roma trước cuối tháng giêng năm tới, 2014, để dựa vào đó, một Tài liệu làm việc sẽ được soạn thảo ngay trong tháng 2-2014.

Việc tham khảo ý kiến này không phải là một cuộc ”trưng cầu dân ý” hay là thăm dò dư luận, nhưng là trình bày những kinh nghiệm trong đức tin. Các GM giáo phận được yêu cầu soạn một tổng hợp – chứ không phải trình bày ý kiến riêng của các vị – đi từ những tổng hợp do các cha sở thực diện, dựa theo kết quả cuộc điều tra trong các xứ đạo liên hệ. Vì thế, một cách nào đó, cuộc tham khảo ý kiến này cũng đi tới các giáo dân.

Trong cuộc họp báo, Đức TGM Bruno Forte, Tổng thư ký đặc biệt nói đến những thách đố gia đình ngày nay đang gặp phải. Ngài nói: ”Ngày nay người ta đang thấy xuất hiện những vấn đề chưa từng có cách đây ít năm, từ sự lan tràn các cặp sống chung không kết hôn, và nhiều khi loại bỏ cả ý tưởng về vấn đề này, cho đến các cặp đồng phái, mà nhiều khi họ cũng được phép nhận con nuôi”. Ngoài ra cũng có nhiều hoàn cảnh đòi Giáo Hội phải đặc biệt quan tâm: từ nền văn hóa không muốn cam kết dấn thân và không chấp nhận tính chất bất khả phân ly của hôn phối, cho tới việc định nghĩa lại gia đình, quan niệm đa nguyên duy tương đối với hôn nhân, và những dự luật làm mất giá trị của sự bền vững và trung thành của giao ước hôn nhân.”

Đức TGM Forte nhận xét rằng ”những thách đố đó có kéo theo những hậu quả quan trọng về mục vụ. Chẳng hạn nếu ta nghĩ tới nguyên sự kiện trong hoàn cảnh hiện nay, nhiều người trẻ sinh ra từ một hôn phối bất hợp lệ, thì có thể các em sẽ không bao giờ thấy cha mẹ lãnh nhận các bí tích, và từ đó chúng ta hiểu những thách đố cấp thiết dường nào mà tình trạng hiện nay đề ra cho việc loan báo Tin Mừng”.

Đức TGM Forte cho biết trong số nhiều đề nghị được gửi về Tòa Thánh, cũng có một vấn đề rất tế nhị là loạn luân. (SD 5-11-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Thánh lễ và buổi tưởng niệm cố TT Ngô Đình Diệm

Thánh lễ và buổi tưởng niệm cố TT Ngô Đình Diệm



Quang cảnh trước lễ đài trong ngày Tưởng Niệm Cố TT Ngô Đình Diệm hôm thứ Bảy. Gần 50 vòng hoa của các hội đoàn, đoàn thể lần lượt rước lên đặt xung quanh lễ đài. Những bài phát biểu đã nêu cao tinh thần bất khuất của chí sĩ Ngô Đình Diệm.
 
LITTLE SAIGON – Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày cố Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm hy sinh vì độc lập và chủ quyền quốc gia, một thánh lễ cầu hồn cho cố TT được cử hành vào lúc 10 giờ sáng thứ Bảy ngày 2-11-2013 tại thánh đường Saint Barbara, thành phố Santa Ana, và vào lúc 1 giờ 30 chiều cùng ngày, một buổi Tưởng Niệm cố Tổng Thống và các chiến sĩ Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã hy sinh vì lý tưởng quốc gia được tổ chức hết sức trang trọng tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ ở thành phố Westminster.
 
Mỗi năm càng có nhiều tổ chức, hội đoàn và cá nhân tham gia Ban Tổ Chức lễ Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Năm nay một Ủy Ban Tổ Chức gồm đại diện: Cộng Đồng: Người Việt Quốc Gia Nam Cali, CĐ Người Việt Tỵ Nạn Los Angeles; CĐ Người Việt Liên Bang Hoa Kỳ; CĐ Người Việt Pomona; CĐ Người Việt San Diego; CĐ Công Giáo Việt Nam và trên 30 Đoàn thể, Hiệp Hội tại miền Nam Cali. Đặc biệt có nhiều hội đoàn trẻ như Tổng Hội Sinh Viên miền Nam Cali, Đoàn Thnah Niên Phan Bội Châu, Giới trẻ Công Giáo, Hội Anh Em Yêu Nước, Đoàn Thanh Thiếu Niên Thủy Quân Lục Chiến, Trường Quân Đội QTD International; Hội Phụ Nữ Vì Nhân Quyền.

 

 

 

 

     Thánh lễ cầu hồn cho cố TT Ngô Đình Diệm tại nhà thờ Saint Barbara.
 

Thánh lễ cầu hồn cho cố TT Ngô Đình Diệm do Linh mục Đỗ Thanh Hà chủ tế, các Linh mục Vũ Ngọc Long, Vũ Hân, Nguyễn Đức Minh, Vũ Đảo cùng và Phó Tế Nguyễn Ánh cùng đồng tế. Trong bài chia sẻ, Linh mục Vũ Đảo đã nhắc lại một chút lịch sử về hai quốc sĩ Công giáo đã làm rạng danh cho Giáo Hội và cho dân tộc Việt Nam, đó là cụ Ngô Đình Khả và ông Nguyễn Hữu Bài.
 
Từ tấm gương của các người cha đó, con cháu sau này là anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã biết noi gương của cha ông, hy sinh bản thân, hết lòng phục vụ, vì dân vì nước. Theo Linh mục, được như vậy là do các ngài đã hấp thụ đức bác ái và giáo lý Công giáo, người cha làm tròn bổn phận người cha, người con làm tròn bổn phận người con.
 
Vì thế, Linh mục khuyên tất cả tín hữu, mỗi người hãy làm tròn bổn phận của mình, sống xứng đáng với vai trò của mình, và luôn luôn hết lòng phục vụ mọi người, đem yêu thương và tha thứ đến với mọi người, đồng thời cầu nguyện cho linh hồn Gioan Baotixita cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, các bào đệ của người và các chiến sĩ QL/VNCH đã hy sinh vì tổ quốc.
 
Cuối thánh lễ, giáo sư Lê Tinh Thông, đại diện Hội Người Việt Quốc Gia, lên cám ơn quý Linh mục, tu sĩ, Hội Columbus, Ca Đoàn Vui Mừng và Hy Vọng, Ban Chấp hành Cộng Đoàn Saint Barbara, anh em cựu chiến sĩ QL/VNCH và đồng hương đã đến tham dự thánh lễ giỗ cố TT hôm nay, Giáo sư Thông cũng nhắc lại câu nói của Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch.
 
Ngay khi được tin TT Ngô Đình Diệm bị sát hại, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã phải thốt lên: “Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề về vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp. Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu. Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tìm được một người lãnh tụ cao quý như vậy.”
 
Tại tượng Đài Chiến Sĩ: Buổi lễ do Đại Tá Lê Văn Trang chủ tọa. Bên cạnh có Nghị sĩ Lê Châu Lộc cựu Tùy Viên cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tham dự có rất đông cựu sĩ quan từ cấp Đại tá trở xuống và các quân nhân QL/VNCH, CSQG, Cán Bộ XDNT, Ban Tù Ca Xuân Điềm, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ, Hội Bà Triệu cùng rất nhiều hội đoàn, đoàn thể. Quốc Quân Kỳ, Lệnh kỳ và di ảnh cố Tổng Thống được rước lên lễ đài giữa hai hàng quân thuộc Hải Lục Không Quân, CSQG mặc quân phục chào kính.
 
Về quan khách có Thị Trưởng Tạ Đức trí và các nghị viên thành phố Westminster; ông Michael Võ, Phó Thị Trưởng Fountain Valley; đại diện Nghị Sĩ Lou Correa, đại diện Giám Sát Viên Janet Nguyễn, và đại diện một số dân biểu liên bang cũng như tiểu bang.
 
Sau lời chào mừng của ông Nguyễn Mạnh Chí, Trưởng Ban Tổ Chức, gần 50 vòng hoa của các Hội đoàn, đoàn thể lần lượt rước lên đặt xung quanh lễ đài. Sau đó, Hội Đền Hùng Hải Ngoại làm nghi thức tế lễ cổ truyền.
 
Vị chủ tọa buổi lễ cùng một số quan khách và đại diện giới trẻ phát biểu, nêu cao tinh thần bất khuất của chí sĩ Ngô Đình Diệm mà ngày nay, các hồ sơ mật đã lần lần phơi bày, cho thấy một số tướng lãnh đã phản bội, đưa đến cái chết bi thảm cho cố Tổng Thống và anh em ông, khiến đất nước đi vào chỗ suy vong như ngày nay.

Các vị phát biểu đều kêu gọi giới trẻ hãy noi gương chí sĩ Ngô Đình Diệm đem tài năng, đức độ của mình để cứu quốc hầu mang lại thanh bình, tự do, no ấm cho dân tộc Việt nam.

Thanh Phong / Viễn Đông

Tòa Thánh Vatican Sự thăm dò về các vấn đề gia đình bao gồm cả hôn nhân đồng tính

Tòa Thánh Vatican Sự thăm dò về các vấn đề gia đình bao gồm cả hôn nhân đồng tính

VATICAN CITY (Reuters) – Tòa thánh Vatican đang yêu cầu các giám mục và các linh mục trong giáo xứ trên toàn thế giới tại địa phương quan sát về vấn đề hôn nhân đồng tính , ly dị và ngừa thai trước cho cuộc họp của các Giám mục vào năm tới để thảo luận về Giáo Hội Công Giáo La Mã giáo liên quan đến gia đình.

Trong khi đó, đây là việc thực tế phổ biến để gửi ra các bản thăm dò  trước cuộc họp, thượng hội đồng. Các câu hỏi thăm dò thể hiện sự cảm nhận lớn hơn đến các vấn đề từng được coi là điều cấm kỵ , như làm thế nào để bao gồm các con nuôi của các cặp vợ chồng đồng tính trong Giáo Hội.

Việc này cũng cho thấy Đức Thánh Cha Phanxicô đang tiếp cận với giáo xứ địa phương và không chỉ dựa vào hệ thống giai cấp Giáo hội về việc triển khai giáo huấn Công giáo.

Các câu hỏi đã được gửi cho các Giám mục vào ngày 18, theo một lá thư từ Đức Tổng Giám Mục Lorenzo Baldisseri , Tổng thư ký của cuộc họp Thượng Hội Đồng, các giám mục Công giáo trên toàn thế giới.

Các lá thư và khảo sát câu hỏi đã được đăng trên trang web Công giáo của phóng viên quốc gia vào thứ năm, và xác nhận của Tòa Thánh vào thứ Sáu.

" Mối quan tâm đó là chưa từng có cho đến khi một vài năm trước đây đã xuất hiện hôm nay là kết quả của tình huống khác nhau, từ việc chung sống với nhau … liên hệ của những người đồng tính, không bình thường, cho phép nhận con nuôi "

Cuộc thăm dò không báo hiệu bất kỳ sự thay đổi trong học thuyết Giáo hội đối với hôn nhân đồng tính hay ngừa thai, nhưng cho thấy bằng chứng Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn tiếp cận với những người Công giáo bình thường về các vấn đề liên quan đến gia đình hiện đại .

Trong một cuộc phỏng vấn được công bố trong tháng Chín, Đức Thánh Cha nói Giáo Hội phải thoát khỏi nỗi ám ảnh với việc phá thai, ngừa thai và đồng tính luyến ái và trở thành xót thương hơn, hoặc có nguy cơ sụp đổ của toàn bộ đạo đức.

Các câu hỏi cho một mối quan tâm về cách thức tốt hơn để chuẩn bị người trẻ để kết hôn, hiệu quả của phương pháp ngừa thai tự nhiên, và làm thế nào để hỗ trợ các " hành trình đức tin " của ly dị và tái hôn với những người bị loại ra khỏi các bí tích.
Tuy nhiên, chưa đầy hai tuần trước Vatican xác nhận rằng người Công giáo, những người đã tái hôn sau khi ly hôn đang bị ngăn chận không được phép rước lễ.

Cuộc điều tra hỏi những gì " chú ý mục vụ " có thể được trao cho những người đã chọn một sự kết hợp đồng tính, và " trong trường hợp của các đoàn thể của người cùng giới đã thông qua trẻ em, những gì có thể được thực hiện về mục vụ trong ánh sáng của truyền đức tin ? "

Ở Anh, các giám mục đã đăng các khảo sát trực tuyến để bất cứ ai , kể cả giáo dân và cha mẹ Công giáo, có thể vào website. ( http://r.reuters.com/vyh44v )

Các kết quả thăm dò ý kiến ​​sẽ được đưa vào một bài báo làm việc cho một cuộc họp bất thường của Thượng Hội Đồng các giám mục tiếp theo tháng Mười.


( Tường trình của Steve Scherer và Philip Pullella ; Viết bởi Steve Scherer ; Editing by Robin Pomeroy )

Thái Trọng phỏng dịch

Hàng ngàn giáo dân dự lễ cầu hồn

Hàng ngàn giáo dân dự lễ cầu hồn tại Quận Cam

 

Một cụ ông thắp nhang và đặt hoa tưởng nhớ người thân trong khi hàng ngàn tín hữu tham dự thánh lễ cầu hồn tại Nghĩa trang Chúa Chiên Lành trưa thứ Bảy.

HUNTINGTON BEACH, Quận Cam – Hàng năm vào ngày 1 tháng 11, Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ cử hành trọng thể lễ kính Các Thánh Nam Nữ. Sau đó vào ngày mùng 2 Giáo Hội cử hành lễ Cầu Hồn. Đối với tín hữu Công Giáo, đây là hai ngày lễ rất quan trọng vì các thánh nam nữ hay linh hồn các người đã qua đời có thể là ông bà, cha mẹ, con, cháu, thân bằng quyến thuộc hoặc bạn hữu xa gần.

Ngày mùng 1-11, giáo dân đến tham dự thánh lễ để tôn vinh các thánh, học hỏi, noi gương các Ngài mà ăn ở cho phải đạo làm người, làm con cái Thiên Chúa. Ngày mùng 2-11, giáo dân đến nhà thờ hay nghĩa trang tham dự thánh lễ, cầu nguyện cho linh hồn các người đã ra đi được về quê thật trên Trời, nơi những người khi còn sống đã vững lòng tin tưởng và cầu xin.

Vào lúc 12 giờ trưa ngày 02.11.2013 hàng ngàn tín hữu Công giáo đã đến nghĩa trang Chúa Chiên Lành (The Good Sheperd) góc Talbert và Beach Blvd, Huntington Beach để tham dự thánh lễ, viếng các phần mộ tại nghĩa trang. Thánh lễ do Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange tổ chức. Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Orange chủ tế và một số Linh mục đồng tế.

Trong bài giảng, Đức Cha Mai Thanh Lương cũng nhắc đến vai trò của các vị Thánh, làm sao nên thánh? Và khuyên nhủ giáo dân, cuộc sống trên trần gian chỉ là chốn tạm, sau khi chết, Thiên Đàng mới là quê thật, nên khi còn sống phải sống cho xứng đáng, ăn ở thuận hòa, yêu thương và giúp đỡ mọi người như Chúa đã dạy trong 8 mối phúc thật để được vào Thiên Đàng hưởng phúc vĩnh cửu.

Trước khi thánh lễ kết thúc, Đại diện ban tổ chức ngỏ lời cám ơn Đức Giám mục, quý Linh mục, tu sĩ nam nữ cùng toàn thể cộng đồng dân Chúa đã sốt sắng tham dự thánh lễ để cầu nguyện, xin Thiên Chúa cho linh hồn những người thân yêu đã ra đi sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Sau thánh lễ, nhiều người đã đến các phần mộ thắp hương, đọc kinh cầu nguyện cho các người đang an nghỉ tại đây.

Giáo Hội Công Giáo từ rất xa xưa đã chọn tháng 11 hàng năm là Tháng Các Linh Hồn, để nhắc nhở giáo dân nhớ đến những người đã ra đi. Không chỉ trong tháng 11, mỗi ngày khi cử hành Thánh lễ, Linh mục và giáo dân đều cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc và tất cả những linh hồn đã ly trần được hưởng phúc vĩnh cửu trên Thiên quốc. Ngoài thánh lễ hôm nay, vào lúc 10 giờ trưa ngày Chủ Nhật 10 tháng 11.2013 tại nghĩa trang Làng Vĩnh Phúc cũng sẽ có thánh lễ do Hội Việt Nam Tương Tế tổ chức.

Thanh Phong / Viễn Đông