DÒNG TỘC

DÒNG TỘC

Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.

Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.

Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.

Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.

Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”

Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.

Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống côn chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.

Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.

Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?

Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.

Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.

Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.

Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.

Asia Veritas Radio

Đức Thánh Cha tiếp các Hồng Y và Giáo Triều Roma

Đức Thánh Cha tiếp các Hồng Y và Giáo Triều Roma

VATICAN. ĐTC Phanxicô nêu bật 3 đặc tính những người phục vụ trong các cơ quan trung ương Tòa Thánh cần phải có, đó là khả năng chuyên môn, tinh thần phục vụ và đời sống thánh thiện.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-12-2013, dành cho các Hồng Y và các chức sắc thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh, đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và đầu năm mới.

Sau khi nồng nhiệt cám ơn sự cộng tác và phục vụ của các vị tại Tòa Thánh, đặc biệt là các vị chuẩn bị về hưu, ĐTC nhấn mạnh đến các đặc tính của những người phục vụ tại Tòa Thánh:

Trước tiên là khả năng chuyên môn, bao gồm cả việc học hỏi nghiên cứu và cập nhật. Ngài nói: ”Đây là điều kiện cơ bản để làm việc tại Tòa Thánh. Dĩ nhiên khả năng chuyên môn là do sự huấn luyện và một phần do sự thủ đắc, và để được vậy ngay từ đầu cần có một căn bản tốt.”

Đặc tính thứ hai là phục vụ: phục vụ Giáo Hoàng và các GM, Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội địa phương. Trong các cơ quan trung ương Tòa Thánh, người ta học hô hấp một cách đặc biệt hai chiều kích của Giáo Hội, chiều kích hoàn vũ và địa phương thấu nhập vào nhau.

ĐTC nhận xét rằng ”nếu không có khả năng chuyên môn thì dần dần người ta sa vào sự tầm thường. Những hồ sơ trở thành những phúc trình rập theo khuôn mẫu và những thông báo không có men sự sống, không có khả năng tạo ra những chân trời cao cả. Đàng khác một khi thái độ không phải là phục vụ các Giáo Hội địa phương và các GM của các Giáo Hội ấy, thì cơ cấu giáo triều tăng trưởng như một sở quan thuế bàn giấy nặng nề, thanh tra và hạch hỏi, không để cho Chúa Thánh Linh hoạt động và dân Chúa được tăng trưởng”.

ĐTC nói thêm rằng: ”Thêm vào hai đức tính đó, – khả năng chuyên môn và tinh thần phục vụ,- tôi muốn kể đến một đức tính thứ ba, đó là đời sống thánh thiện. Chúng ta biết rõ đây là điều quan trọng nhất trong thứ tự các giá trị. Thực vậy, nó ở nơi nền tảng chất lượng làm việc, và phục vụ. Sự thánh thiện có nghĩa là đời sống được chìm đắm trong Thánh Linh, cởi mở tâm hồn đối với Thiên Chúa, cầu nguyện liên lỷ, khiêm tốn sâu xa, bác ái huynh đệ trong tương quan với các đồng nghiệp. Thánh thiện cũng có nghĩa là làm tông đồ, làm việc mục vụ kín đáo, trung thành, nhiệt thành và có tiếp xúc trực tiếp với dân Chúa. Đây là điều không thể thiếu được đối với một linh mục”.

ĐTC đặc biệt nhấn mạnh điều này: ”Sự thánh thiện trong các cơ quan Tòa Thánh cũng có nghĩa là phản kháng lương tâm, chống lại thói nói hành nói xấu! Chúng ta có lý mà nhấn mạnh đến sự giá trị của sự phản kháng lương tâm, nhưng có lẽ chúng ta cũng phải thực thi điều này để bảo vệ chống ta chống lại một luật bất thành văn trong môi trường của chúng ta, rất tiếc môi trường này là môi trường nói hành nói xấu. Vì thế, tất cả chúng ta hãy thực thi việc phản kháng lương tâm, và xin anh chị em chú ý: tôi không muốn làm một diễn văn luân lý ở đây! Những vụ nói hành nói xấu làm thiệt hại chất lượng con người, công việc và môi trường chung quanh”.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã đứng lại bắt tay chào thăm từng vị Hồng Y và GM tại Tòa Thánh (SD 21-12-2013).


G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà thương nhi đồng Gesù Bambino

Đức Thánh Cha viếng thăm nhà thương nhi đồng Gesù Bambino

ROMA. Lúc 4 giờ chiều thứ bẩy ngày 21-12-2013, ĐTC Phanxicô đã đến viếng thăm bệnh viện Chúa Hài Đồng Giêsu (Gesù Bambino) ở Roma.

Bệnh viện này tọa lạc trên đồi Gianicolo, cạnh trường Truyền giáo và Học viện của các chủng sinh Bắc Mỹ, và là tài sản của Tòa Thánh, được thành lập năm 1869 như nhà thương nhi đồng đầu tiên ở Italia, do sáng kiến quảng đại của bá tước Arabella và Scipione Salviati.

Ngày nay, bệnh viện Chúa Hài Đồng Giêsu là nhà thương đa khoa nhi đồng và trung tâm nghiên cứu nhi đồng lớn nhất tại Âu Châu. Bệnh viện này có gần 2600 bác sĩ, nghiên cứu gia, y tá, cán sự bệnh viện và nhân viên. Mỗi năm có hơn 1 triệu trẻ em được khám bệnh, 27 ngàn em được điều trị, 25 ngàn cuộc giải phẫu, và 71 ngàn vụ cứu cấp. Tổng cộng bệnh viện có 607 giường tại Trung tâm ở đồi Gianicolo, thị trấn Palidoro và Santa Marinella.

Bệnh viện Gesù Bambino quen được gọi là ”bệnh viện của ĐGH”, và theo truyền thống vốn được các vị Giáo hoàng viếng thăm vào dịp gần lễ Giáng Sinh. ĐTC Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 5 đến thăm nhà thương này.

ĐTC đến nhà thương lúc 4 giờ chiều, có Đức TGM Quốc vụ khanh Pietro Parolin, và vị tiền nhiệm là ĐHY Tarcisio Bertone, tháp tùng. Có tới 4 ngàn người chào đón ngài, đặc biệt có cả anh Saverio, 18 tuổi, bị bệnh teo bắp cơ, và Simone, một em bé 5 tuổi người Ý-Etiopia bị bệnh ung thư máu, và em Adriana, người Ecuador.

ĐTC viếng thăm khu cứu cấp, trị liệu khẩn trương và hồi sinh. Trong các phòng bệnh chỉ có một mình ngài với các em bệnh nhân. ĐTC nói với các bác sĩ giám đốc: ”Tôi đến đây để thăm các bệnh nhân chứ không phải thăm nhà thương”. Vì thế các bác sĩ và nhân viên đã để ngài một mình nói chuyện và thăm các em.

Tại khu điều trị khẩn trương, ĐTC cũng gặp hai em bé tên là Phanxicô và em bé gái tròn 1 năm ngày 22-12 này. Ngài hỏi thăm về các em và gia đình các em và ban phép lành cho họ.

Sau các khu vực trên đây, ngài tiến về nhà nguyện của bệnh viện, dọc đường ngài chào thăm các nhân viên và các thân nhân các em. Rồi ĐTC làm phép khu vực hồi sinh mới.

Khi gặp các bác sĩ ĐTC nói: ”Anh chị em không đánh mất thời giờ, điều quan trọng là gieo vãi, chúng ta không biết bao giờ sẽ được gặt hái, nhưng việc anh chị em gieo vãi thật là quan trọng”.

Hai em bé đã đón tiếp ngài và dẫn vào nhà nguyện. Tại đây có 30 em bệnh nhân bị ung thư và thân nhân các em chào đón ngài. Cũng có các LM tuyên úy, các nữ tu dòng Nữ Tử Bác Ái dòng Phan Sinh Thánh gia Maria, hội đồng quản trị nhà thương.

Một em bé đã đọc thánh vịnh 27 và trao cho ngài một rổ các trang giấy với những ”giấc mơ và kinh nguyện” do các em bé bệnh nhân viết và được thu thập lại trong những ngày chờ đợi cuộc viếng thăm của ĐTC.

ĐTC cám ơn các em vì những ”giấc mơ và kinh nguyện” và nói: ”Chúa Giêsu biết đâu là điều sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta và với các con, Chúa có một liên hệ đặc biệt, và luôn gần gũi các con”. Rồi ngài cùng các em đọc một kinh Kính Mừng trước khi ban phép lành cho mọi người.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Chính quyền Trung Quốc và Giáo hội bất đồng về vụ mai táng đức giám mục

Chính quyền Trung Quốc và Giáo hội bất đồng về vụ mai táng đức giám mục

Phóng viên ucanews.com từ Hồng Kông

Chính quyền Trung Quốc và Giáo hội bất đồng về vụ mai táng đức giám mục thumbnail

      Các lãnh đạo Giáo hội thông báo từ chối chôn cất Đức Giám mục Paul Liu Jinghe

                trong lễ truy điệu tại nhà thờ chính tòa Tangshan hôm thứ Ba          

      

Giáo phận Tangshan thông báo sẽ không mai táng Đức Giám mục quá cố Paul Liu Jinghe cho đến khi chính quyền trả lại nghĩa trang trước đây của Giáo hội, và đã dẫn đến việc các quan chức bắt giáo sĩ đưa đi thẩm vấn hôm thứ Tư.

Giữa lúc bất đồng giữa Giáo hội và Nhà nước leo thang, thông báo trì hoãn chôn cất này được đưa ra tại lễ truy điệu Đức cha Liu tại nhà thờ chính tòa Tangshan hôm thứ Ba, được 3,000 người tập trung tại đây vỗ tay hoan nghênh trong hai phút.

Trước tình hình đó, các quan quan chức đã đến bắt các giáo sĩ đưa về các văn phòng Ban Tôn giáo Nhà nước ở từng giáo xứ hôm sáng thứ Tư.

Điện thoại di động của tất cả các linh mục và nữ tu ở Tangshan, phía đông Bắc Kinh, hiện đang bị theo dõi, theo một nguồn tin yêu cầu giấu tên.

Vụ bất đồng về nghĩa trang này leo thang sau khi Đức cha Liu qua đời ở tuổi 92 hôm 11-12, một năm sau khi ngài bị một cơn đau tim khiến ngài nằm liệt giường.

Trước khi qua đời, đức cha đã yêu cầu được chôn tại nghĩa trang Lulong, nơi an nghỉ cuối cùng của vị giám mục tiên khởi giáo phận là Đức cha Ernst Geurts của Hà Lan, ngài qua đời năm 1940.

Nơi này trở thành nghĩa trang của Giáo hội sau khi các linh mục và nữ tu sau đó được chôn ở đây nhưng đã bị phá hoại trong cuộc bất ổn chính trị vào thập niên 1950, ngay sau khi Cộng sản lên nắm quyền.

Kể từ đó, nơi này được dùng làm đất canh tác, và vào năm 1993 được sự cho phép của chính quyền Đức cha Liu đã hốt cốt Đức cha Geurts và các giáo sĩ khác rồi chôn lại trong một góc của khu đất rộng 6,6 mẫu Anh này.

Đức cố giám mục đã yêu cầu trả lại khu đất này nhiều lần trong lúc còn sống. Sau khi ngài qua đời, giáo phận bắt đầu thương lượng với chính quyền và rốt cuộc đã bác bỏ lời đề nghị nhận 200,000 tệ (33,000 Mỹ kim) mua một lô đất khác chôn Đức cha Liu.

Vẫn không ai biết tại sao chính quyền không chịu trả lại khu đất đó cho Giáo hội nhưng sau những vụ thanh trừ tôn giáo kéo dài đến đầu thập niên 1980, chính quyền thường chỉ trả lại những nơi thờ tự đã được cung hiến. Để trả lại nghĩa trang này, chính quyền sẽ phải bồi thường cho những người canh tác trên khu đất này.

Các thành viên trong Giáo hội đang thay phiên nhau canh xác đức cha bên trong nhà thờ chính tòa Tangshan trong khi đợi giải quyết vụ tranh chấp này.

Đức cha Liu là một trong ba vị linh mục còn sống sau trận động đất mạnh 7.8 độ Richter tàn phá Tangshan, khiến hơn 240,000 người bị thiệt mạng vào tháng 7-1976.

Đức cha Liu được tấn phong giám mục bất hợp pháp, không có sự ủy quyền của Đức Thánh cha vào năm 1981. Cuối cùng ngài cũng được Đức Thánh Cha công nhận vào năm 2008, và ngài nghỉ hưu hai năm sau đó.

Đức giám mục cao tuổi được tưởng nhớ vì từ chối tham dự lễ tấn phong giám mục bất hợp thức không có sự ủy quyền của Đức Thánh cha năm 2010, và một nguồn tin Giáo hội trích lời ngài nói lúc đó rằng: “Thời đại bây giờ đã khác. Ở tuổi này tôi không thể làm bất cứ điều gì trái với đức tin của tôi nữa”.

UCANEWS VN

Một người tự thiêu tại Quảng trường thánh Phêrô

Một người tự thiêu tại Quảng trường thánh Phêrô

A Man self burn at Peter covered in a jacket

Photo courtesey Zuma/Rex

VATICAN. Lúc 8.50 sáng ngày 19-12-2013, một người Ý 51 tuổi đã tự thiêu tại Quảng Trường Thánh Phêrô.

Ông ta đã rưới xăng vào áo và bật lửa. Toán cảnh sát Ý tuần tiểu đi qua đó trong lúc ấy đã cứu ông ta. Một linh mục dòng Tên làm việc trong Tòa Thánh cũng có mặt lúc ấy, cha đã cởi áo lạnh toan tính dập tắt ngọn lửa trên người đương sự, nhưng ngọn lửa chỉ tắt hắn khi cảnh sát dùng bình xịt lửa.
Một xe cứu thương đã chở ông ta vào nhà thương Santo Spirito ở bờ sông gần đó, và trước tình trạng phỏng nặng của ông, các bác sĩ tại đây đã quyết định chuyển ông ta đến nhà thương Sant'Eugenio chuyên về chữa phỏng nặng.

Có hai nhân viên cảnh sát cũng được chữa trị ở nhà thương vì hít phải khói độc và bị phỏng ở tay khi cứu giúp ông ta.

Người ta chưa biết lý do tại sao đương sự tự thiêu. Cạnh ông ta chỉ có mảnh giấy ghi số điện thoại con gái của ông. Đương sự có gia đình và làm nghề bán rong. Vụ này đang được nhà chức trách tư pháp của Ý điều tra.

(Tin do sở cảnh sát Italia cạnh Vatican cung cấp)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng

Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng

Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng. Nó cử hành biến cố Chúa Giêsu xuống thế làm người để sống với chúng ta trong lịch sử loài người, với tất cả gánh nặng các hạn hẹp và thảm cảnh của nó.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư  ngày 18 tháng 12-2013.

Vì buổi tiếp kiến diễn ra trong bầu khí thiêng liêng của mùa Vọng trở thành sâu đậm hơn nhờ tuần cửu nhật nên Đức Thánh Cha đã suy tư về ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Ngài nói:

Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Và lý do niềm hy vọng của chúng ta là điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Anh chị em hãy nghĩ tới điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.

Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất như nơi ở của mình để cùng sống với con người và để làm cho mình được tìm thấy tại nơi con người trải qua các ngày của mình trong niềm vui và trong khổ đau. Vì thế trái đất không chỉ còn là ”thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.

Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Nhưng còn có điều gì đó gây ngạc nhiên hơn nữa. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta như nó là, với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy một cách không thể vượt hơn được khuynh hướng xót thương và tràn đầy tình yêu của Ngài đối với con người. Ngài là Thiên Chúa ở với chúng ta; Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với chúng ta. Anh chị em có tin điều này không? Tín hữu trả lời ”Có”. Chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng điều này: Đức Giêsu là Thiên Chúa ờ cùng chúng ta. Tất cả mọi người lập lại. Một lần nữa. Đó tốt lắm xin cám ơn anh chị em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, từ luôn luôn và sẽ mãi mãi ở với chúng ta trong khổ đau và khốn khó của của lịch sử.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau:

Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa!

Từ việc tươi vui chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Con Thiên Chúa sinh ra vì chúng ta, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.

Thứ nhất đó là nếu trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa không tự mạc khải như một người ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng như Đấng tự hạ mình xuống trên trái đất bé nhỏ và nghèo nàn này, thì điều này có nghĩa là để giống như Ngài chúng ta không được ở bên trên các người khác, nhưng trái lại phải hạ mình xuống, để phục vụ, để trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ và nghèo với người nghèo. Thật là một điều xấu, khi thấy một Kitô hữu không muốn hạ mình xuống, không muốn phục vụ, một Kitô hữu vênh váo khắp nơi: thật là xấu có phải không? Người đó không phải là tín hữu Kitô, mà là một người ngoại giáo. Kitô hữu thì hạ mình và phục vụ. Chúng ta hãy làm sao để các anh chị em này không bao giờ cảm thấy cô đơn! Sự hiện diện liên đới của chúng ta bên cạnh họ không chỉ diễn tả bằng lời nói nhưng bằng sự hùng hồn của các cử chỉ cho thấy Thiên Chúa gần gũi tất cả mọi người.

Đề cập tới khía cạnh thứ hai Đức Thánh Cha nói:

Nếu qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã liên lụy với con người cho tới nỗi trở thành như một người trong chúng ta, thì có nghĩa là bất cứ gì chúng ta sẽ làm cho một người anh chị em, là chúng ta làm cho Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc cho chúng ta nhớ điều đó: ai cho ăn, lắng nghe, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã làm cho chính Con Thiên Chúa. Trái lại, ai khước từ, quên lãng, không biết tới một trong các người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã bỏ quên và khước từ chính Thiên Chúa (x. Mt 25,35-46). Như thánh Gioan đã viết: ”Thật ra ai không yêu thương người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4,20).

Chúng ta hãy phó thác cho sự cầu bầu hiền mẫu của Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta trong lễ Giáng Sinh thánh gần kề này, nhận biết nơi gương mặt của tha nhân, đặc biệt của những người yếu đuối và bị gạt bỏ ngoài lề nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người. Xin Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta trong quyết tâm trao ban cho tất cả mọi người tình yêu thương, lòng tốt và sự quảng đại của chúng ta. Trong cách thế này chúng ta sẽ phản ánh và kéo dài ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng từ hang đá Bếtlêhem tiếp tục tỏa lan trong các con tim, bằng cách hiến tặng niềm vui và hòa bình, mà chúng ta ngưỡng vọng từ tận thẳm sâu con người chúng ta.

Sáng thứ tư 18-12-2013 đã có vài ca đoàn và ban nhạc ”Viva la Gente” của phong trào Tổ Ấm hát thánh ca Giáng Sinh và trình tấu chào mừng Đức Thánh Cha cũng như tạo bầu khí tươi vui cho buổi tiếp kiến.

Chào các tín hữu Đức Thánh Cha chúc mọi người những ngày hành hương sốt sắng, lễ Giáng Sinh và Năm mới tươi vui an lành và thịnh vượng.

Chào các tín hữu Ba Lan hiện diện tại quảng trường cũng như bên Ba lan và khắp nơi trên thế giới Đức Thánh Cha xin mọi người hãy nghĩ tới các người nghèo, người đói, người cô đơn, người vô gia cư, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, cũng như các nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là các trẻ em.

Ngài cũng đã chào nhiều người đau yếu ngồi trên xe lăn, ôm hôn vuốt ve và an ủi họ. Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiến tới với mầu nhiệm Giáng Sinh với cùng các tâm tình đức tin và sự khiêm nhường của Mẹ Maria. Ngài cầu mong cho các anh chị em đau yếu kín múc được niềm vui và sự bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét và noi gương các nhân đức của Thánh Gia.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio
 

ĐHY OUELLET TIẾP TỤC ĐỨNG ĐẦU BỘ GIÁM MỤC

ĐHY OUELLET TIẾP TỤC ĐỨNG ĐẦU BỘ GIÁM MỤC

Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác nhận ĐHY Marc Ouellet, pss, tiếp tục giữ chức vụ Tổng trưởng Bộ Giám Mục. ĐHY Ouellet, 69 tuổi, người Canada, được Đức Bênêđictô XVI bổ nhiệm vào vị trí này vào năm 2010.

ĐTC  cũng bổ nhiệm các thành viên của Bộ này : ĐHY Francisco Robles Ortega, Tổng Giám mục Guadalajara (Mêhicô) ; ĐHY Donald William Wuerl, Tổng Giám mục Washington (Hoa Kỳ) ; ĐHY Rubén Salazar Gómez, Tổng Giám mục Bogota (Colombia) ; ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch ủy ban thăng tiến hiệp nhất Kitô ; ĐHY João Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ Đời sống thánh hiến và Hội đời sống tông đồ ; Đức cha Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh ; Đức cha Beniamino Stella, Tổng trưởng Bộ Giáo Sĩ ; Đức cha Baldisseri, Tổng thư ký của THĐ Giám mục ; Đức cha Vincent Gerard Nichols, nguyên Tổng Giám mục của Ferrara-Comacchio (Ý) ; Đức cha Gualtiero Bassetti, Tổng Giám mục của Perugia-Città della Pieve (Ý) ; Đức cha Felix Genn, Giám mục giáo phận Münster (Đức).

Đức Thánh Cha cũng xác nhận các thành viên của Bộ là các ĐHY Tarcisio Bertone, Zenon Grocholewski, George Pell, Agostino Vallini, Antonio Cañizares Llovera, André Vingt-Trois, Jean-Louis Tauran, William Joseph Levada, Leonardo Sandri, Giovanni Lajolo, Stanislaw Rylko, Francesco Monterisi, Santos Abril y Castelló, Giuseppe Bertello, Giuseppe Versaldi; các Đức cha Claudio Maria Celli, José Octavio Ruiz Arenas,  Zygmunt Zimowski. Ngài cũng xác nhận các cố vấn của Bộ.

Tý Linh (Xuân Bích VN)

Theo Radio Vatican

Đức Giáo Hoàng mừng sinh nhật thứ 77 với 4 người vô gia cư

Đức Giáo Hoàng mừng sinh nhật thứ 77 với 4 người vô gia cư

Pope-francis-birthday and 4 homeless-men

VATICAN. 4 người vô gia cư đã được mời tham dự thánh lễ và dùng bữa ăn sáng với ĐTC Phanxicô tại Nhà trọ thánh Marta sáng ngày 17-12-2013, nhân dịp sinh nhật thứ 77 của ngài.

Đồng tế với ĐTC có ĐHY Angelo Sodano, niên trưởng Hồng Y đoàn, và Đức TGM Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh. ĐHY niên trưởng đã đại diện các HY chúc mừng ĐTC, còn Đức TGM Parolin chúc mừng ngài nhân danh các nhân viên trong Phủ Quốc vụ khanh. Đức TGM Konrad Krajewski, người Ba Lan, đặc trách văn phòng từ thiện của ĐGH và là người giới thiệu 4 người vô gia cư lên ĐTC.

Hiện diện trong thánh lễ có tất cả các nhân viên nhà trọ thánh Marta.

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa bài Tin Mừng theo thánh Mathêu ghi lại gia phả của Chúa Giêsu. Ngài nhận xét rằng gia phả này nhắc nhớ chúng ta: ”Sau tội đầu tiên trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đồng hành với chúng ta. Chúa đã gọi Abraham người đầu tiên trong gia phả, rồi đến các tổ phụ khác.. Chúa đã muốn làm lịch sử với chúng ta, một lịch sử đi từ thánh thiện đến tội lỗi, như trong gia phả có những người thánh nhưng cũng có những người tội lỗi cao độ, như vua Salomon.. Đó chính là sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự kiên nhẫn và tình thương của Thiên Chúa.”

pope-francis-birthday-cake


Sau lễ, như thường lệ, ĐTC đã bắt tay chào thăm từng người, kể cả 4 người vô gia cư, ở khu vực quanh Vatican. Tất cả họ được mời ăn sáng với ngài sau đó. (SD 17-12-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Ký giả báo La Stanpa phỏng vấn Đức Thánh Cha

Ký giả báo La Stanpa phỏng vấn Đức Thánh Cha

VATICAN. Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo La Stampa ở Italia, ĐTC Phanxicô gọi ”chủ thuyết mác xít là một ý thức hệ sai lầm”.

ĐTC đã dành cho ký giả Andrea Tornielli của báo La Stampa một cuộc phỏng vấn dài 1 giờ 30 phút về nhiều vấn đề thời sự và văn bản phỏng vấn được đăng trên báo này số ra ngày 15-12 vừa qua.

Ký giả Tornielli hỏi: Một số đoạn trong Tông Huấn ”Niềm Vui Phúc Âm” (Evangelii gaudium) của ĐTC bị những người siêu bảo thủ tại Mỹ phê bình và họ tố cáo ngài là người ”hoàn toàn theo chủ thuyết mác xít”. Một vị Giáo Hoàng cảm thấy thế nào khi bị định nghĩa là người mác xít?. ĐTC đáp:

”Ý thức hệ mác xít là điều sai lầm. Nhưng trong đời, tôi đã quen biết bao nhiêu người mác xít tốt lành trong tư cách là người, và vì thế tôi không cảm thấy bị xúc phạm”. Những lời gây ấn tượng mạnh nhất là những lời nói về nền kinh tế ”giết hại”… Trong Tông Huấn không có điều gì mà không ở trong Đạo lý xã hội của Hội Thánh. Tôi không nói theo quan điểm của một chuyên gia, tôi tìm cách trình bày như chụp hình những gì đang xảy ra. Trích dẫn đặc thù duy nhất là về những lý thuyết gọi là ”được hưởng lợi ké”, theo đó mỗi sự phát triển kinh tế do thị trường tự do tạo điều kiện thuận lợi để nó diễn ra, thì tự nó cũng tạo nên một sự công bình và làm cho nhiều người được tham gia xã hội và sự sung túc hơn trên thế giới. Đó là một lời hứa khi chiếc ly nước chưa đầy, nếu ly nước ấy đầy tràn thì người nghèo cũng được hưởng nước tràn ra từ chiếc ly ấy. Nhưng thực tế là khi chiếc ly tràn đầy nước, thì nó phình ra một cách huyền nhiệm và thế là chẳng bao giờ người nghèo được hưởng những gì từ ly nước ấy. Đó là điều tham chiếu duy nhất về lý thuyết ấy. Tôi xin lập lại là tôi không nói như một chuyên gia, nhưng theo đạo lý của Giáo Hội. Và điều này không có nghĩa là tôi là người mác xít”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐTC cho biết ngài đặt vấn đề đại kết các tín hữu Kitô lên hàng ưu tiên; và tái bày tỏ mong ước và sẵn sàng gặp Đức Thượng Phụ Chính Thống Bartolomaios I, Giáo chủ chính thống Constantinople, nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc gặp gỡ lịch sử tại Thánh Địa giữa Đức Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras của Constantinople. Ngoài ra, ĐTC bày tỏ hài lòng về tiến trình cải tổ Viện giáo vụ, quen gọi là ngân hàng Vatican.
Về vấn đề những người ly dị tái hôn, ĐTC không bày tỏ lập trường, nhưng ngài cho biết vấn đề này sẽ được bàn đến trong công nghị Hồng y đoàn vào tháng 2 tới đây, rồi sẽ được bàn đến trong Thượng HĐGM thế giới khóa đặc biệt vào tháng 10 năm tới, 2014, cũng như trong Thượng HĐGM thường kỳ vào năm 2015 sau đó. ”Tại những khóa họp ấy, bao nhiêu điều sẽ được đào sâu và làm sáng tỏ”. Ngoài ra, ĐTC chống lại quan niệm cho rằng việc Giáo Hội không cho những người ly dị tái hôn được rước lễ, đó là một hình phạt.

Về vấn đề cải tổ các cơ quan trung ương Tòa Thánh cũng như Hội đồng 8 Hồng y cố vấn, ĐTC cho biết đó là một công việc lâu dài. ĐHY Bertello đã thu thập ý kiến của các cơ quan trung ương Tòa Thánh và chúng tôi đã nhận được những gợi ý đề nghị của các GM trên thế giới. Trong khóa họp mới đây, 8 HY cố vấn nói là chúng ta đã đi tới lúc đưa ra những đề nghị cụ thể và trong khóa họp vào tháng 2 tới đây, các Hồng Y sẽ trao cho tôi những đề nghị đầu tiên.

Trả lời câu hỏi: liệu Giáo Hội sẽ có các Hồng y phụ nữ hay không, ĐTC đáp: ”Đó là một câu nói đùa, tôi không biết từ đâu mà ra. Các phụ nữ trong Giáo Hội phải được đề cao giá trị, chứ không phải được ”giáo sĩ hóa”. Ai nghĩ đến các phụ nữ làm Hồng y thì là người phần nào có não trạng ”giáo sĩ trị”. (SD 16-12-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

“Phép lạ” của Đức Phaolô VI được y khoa công nhận

"Phép lạ" của Đức Phaolô VI được y khoa công nhận

Paul VI PP

Đức Phaolô VI đến gần thêm một bước để được tuyên chân phước theo như Uỷ ban Y khoa của Bộ Tuyên Thánh tuyên bố, rằng việc chữa lành nhờ sự chuyển cầu của Đức cố Giáo hoàng của Ý cho một em bé chưa chào đời là không thể giải thích được.

(VATICAN INSIDER, 13-12-2013) – Uỷ ban Y khoa của Bộ Tuyên Thánh dưới sự chủ trì của Tiến sĩ Patrizio Polisca, bác sĩ riêng của ĐGH Bênêđictô XVI và ĐGH Phanxicô, đã gọi việc chữa lành nhờ sự chuyển cầu của Đức Giovanni Battista Montini – Giáo hoàng Phaolô VI – là "không thể giải thích được". Phép lạ sẽ được thẩm tra bởi các nhà thần học và các hồng y trước khi nhận được sự chấp thuận của Đức Giáo hoàng; nhưng phần khó khăn nhất đã vượt qua và hy vọng việc tuyên chân phước Đức Montini sẽ diễn ra trong vài tháng tới.

 Từ danh sách các trường hợp được tường trình chữa lành mà cáo thỉnh viên của ĐGH Phaolô VI, Cha Antonio Marrazzo, nhận được, ngài đã chọn một trường hợp thử nghiệm lâm sàng cho thấy là "không thể giải thích được". Cha Marrazzo đã chọn trường hợp chữa lành này cách đây không lâu.

Một năm trước, vào ngày 20-12-2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã chấp thuận các nhân đức anh hùng của Đức Phaolô VI, kết thúc tiến trình theo Giáo luật; chỉ cần một phép lạ để tiến tới việc tuyên chân phước.
 
Phép lạ do Cha Marrazzo chọn để trình bày cho uỷ ban là việc chữa lành một em bé chưa chào đời ở California trong khoảng đầu thập niên 1990. Trong chu kỳ mang thai của người phụ nữ, các bác sĩ nhận thấy một vấn đề nghiêm trọng nơi bào thai, thường dẫn đến tổn thương não, và khuyên người mẹ huỷ bỏ thai nhi. Người mẹ từ chối và quyết định tiếp tục mang thai, tin tưởng vào sự cầu bầu của Đức Phaolô VI, vị Giáo hoàng đã viết Thông điệp “Humanae Vitae” (Sự sống Con người) vào năm 1968.

Đứa trẻ được sinh ra mà không có bất kỳ khuyết tật nào, nhưng chỉ khi đứa trẻ đến tuổi dậy thì các bác sĩ mới có thể chắc chắn em hồi phục hoàn toàn mà không có bất kỳ vấn đề nào.

Một năm trước, Cha Marrazzo nói với Đài Phát thanh Vatican rằng "một sự kiện thực sự phi thường và siêu nhiên đã xảy ra nhờ lời cầu bầu của Đức Phaolô VI". Vụ chữa lành này là hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Đức Phaolô VI, người đã viết Thông điệp "Humanae Vitae" về bảo vệ sự sống con người, nhưng đồng thời cũng để bảo vệ gia đình, bởi vì tài liệu còn nói đến tình yêu vợ chồng, chứ không phải chỉ nói đến sự sống chưa sinh mà thôi. Việc chữa lành này phù hợp với cách suy nghĩ của Đức Montini.
 
Cuộc tranh luận về án tuyên chân phước của Đức cố Giáo hoàng Phaolô VI đã gia tăng trong năm qua, từ việc các bác sĩ trao đổi những ý kiến về y khoa cho đến khi có phán quyết cuối cùng vào ngày hôm qua.

Phát biểu tại một hội nghị vào cuối tháng 11 về chuyến thăm của Đức Phaolô VI đến Đất Thánh, Đức Tổng Giám mục Milan, Đức Hồng y Angelo Scola, cho biết việc tuyên chân phước Đức cố Giáo hoàng "sắp diễn ra".

Hùng Nguyễn
Nguồn: Emty

 

 

 

Sống Niềm Vui Tin Mừng

Sống Niềm Vui Tin Mừng

VATICAN. Chúa Nhật 15.12 vừa qua, nhằm ngày Chúa Nhật thứ 3 mùa Vọng. Các tín hữu hành hương đã quy tụ về quảng trường Thánh Phêrô, Vatican, đứng dưới trời mưa để nghe giáo huấn của Đức Thánh Cha và nhận phép lành từ ngài.

Sau lời chào dành cho mọi người, Đức Thánh Cha gợi nhắc mọi người về ý nghĩa của Chúa Nhật này trong Mùa Vọng. Ngài nói: “ Hôm nay là Chúa Nhật thứ 3 mùa Vọng, hay vẫn thường được gọi là Chúa Nhật Vui. Phụng vụ hôm nay cứ lặp đi lặp lại nhiều lần lời mời gọi vui lên, hớn hở lên vì Thiên Chúa đã đến gần, Giáng Sinh đã đến gần. Thông điệp Kitô giáo được gọi là "Phúc Âm" hay "Tin Mừng", là lời công bố niềm vui cho tất cả mọi dân; Giáo Hội không là nơi trú ngụ của những con người buồn phiền, Giáo Hội là nhà của niềm vui!”

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha cũng nói thêm rằng không phải bất cứ niềm vui nào cũng là niềm vui của Tin Mừng. Niềm vui của Kitô giáo được đặt nền trên tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa. Ngài mượn lời của Tiên Tri Isaia trong phụng vụ Chúa Nhật Mùa Vọng tuần III để chia sẻ với các tín hữu:

“Niềm vui của Tin Mừng hệ ở chỗ biết được rằng mình luôn được Thiên Chúa lắng nghe và yêu mến. Giống như Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia nhắc nhớ chúng ta hôm nay (x.Is 35,1-6a.8a.10, Thiên Chúa là Đấng đến để cứu độ chúng ta, và cứu giúp những ai tâm hồn đau khổ. Ngài đến giữa chúng ta ban cho ta sức mạnh, mang đến sự vững vàng, ban cho ta sự can đảm, sẽ làm nở hoa nơi sa mạc và hoang địa khô cằn là chính đời sống của chúng ta mỗi khi ta khô khan, thiếu nguồn nước Lời Chúa và Thánh Thần tình yêu của Người. Vì dù những giới hạn và những thiếu hụt của chúng ta có lớn như thế nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng không được phép trở nên yếu nhược và dao động trước những khó khăn và chính sự yếu đuối của chúng ta. Trái lại, chúng ta được mời gọi để làm cho đôi bàn tay thêm mạnh mẽ hơn, làm cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng, có được sự can đảm và không sợ hãi vì Thiên Chúa của chúng ta luôn bày tỏ lòng thương xót vĩ đại của Người. Cậy nhờ vào sự trợ giúp của Người, chúng ta có thể luôn khởi đầu lại, mở đôi mắt ra, vượt qua nỗi buồn và nước mắt và lại cất lên một bài ca mới. Và đích thực là niềm vui này vẫn luôn còn đó trong những thử thách, trong nỗi khổ đau, vì nó không phải là cái gì đó hời hợt, nhưng đi vào trong tận chiều sâu của những ai phó thác cho Thiên Chúa và vững tin vào Người.”

“Niềm vui cũng như niềm hy vọng Kitô giáo có nền tảng từ lòng trung tín của Thiên Chúa, trong sự đảm bảo rằng Người vẫn luôn giữ lời hứa của mình. Tiên tri Isaia khuyến khích những ai đang lạc lối và trong cơn tuyệt vọng hãy tín thác vào lòng trung tín của Thiên Chúa vì ơn của độ của Người sẽ nhanh chóng đến bên đời họ. Những ai đã gặp được Đức Giêsu trên hành trình thì sẽ cảm nghiệm được trong con tim mình một sự thanh thản và niềm vui mà không ai hay không gì có thể làm hư hoại. Niềm vui của chúng ta là Đức Kitô, tình yêu trung tín và vô tận của Người! Vì thế, khi nào một Kitô hữu buồn phiền, điều đó có nghĩa là người ấy đang ở xa Giêsu. Chúng ta không nên để người ấy đơn côi một mình! Chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy và giúp người ấy cảm nghiệm được hơi ấm của tình cộng đoàn.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hãy hướng nhìn về Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã đón nhận lời mời gọi hãy vui lên từ Thiên Sứ trong cuộc truyền tin, để xin Mẹ giúp mình sống niềm vui Tin Mừng trong mọi khoảnh khắc buồn vui của cuộc sống. Ngài nói: “Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta mau tiến bước đến Bêlem, để gặp gỡ Hài Nhi, Đấng đã sinh ra làm người vì ta, vì ơn cứu độ và niềm vui của tất cả mọi người. Thiên Sứ đã nói với Mẹ: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phước: Thiên Chúa ở cùng bà" (Lc 1:28). Mẹ sẽ giúp chúng ta sống niềm vui Tin Mừng trong gia đình, nơi công sở, nơi giáo xứ và trong mọi môi trường. Một niềm vui thân thiết, với những điều tuyệt vời và dịu ngọt. Niềm vui ấy hệt như niềm vui của một người mẹ khi nhìn đứa con vừa mới chào đời, và nghiệm thấy rằng đó là một món quà từ Thiên Chúa, một phép màu mà chỉ có thể nói lời cảm ơn.”

Sau kinh truyền tin, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến các tín hữu hành hương, mà trước hết là các em thiếu nhi ở Rôma. Ngài xin các em cầu nguyện cho ngài cũng như ngài vẫn luôn nhớ đến các em. Ngài nói: “Hôm nay, tôi xin được dành lời chào đầu tiên của tôi đến các em thiếu nhi ở Rôma, đã đến đây để xin phép lành truyền thống của "Hài Nhi Giêsu". Các con thiếu nhi thân mến, khi nào các con cầu nguyện trước hang đá, các con hãy nhớ đến cha, cũng như cha nhớ đến các con. Cha cảm ơn các con, chúc các con Giáng Sinh an lành!”

“Tôi cũng gửi lời chào đến các gia đình, các nhóm giáo xứ, các hội đoàn, các nhóm hành hương từ Rôma, Ý và nhiều vùng khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là Tây Ban Nha và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Tôi nồng nhiệt gửi lời chào đến các bạn trẻ ở Zambia, và tôi cầu chúc cho họ trở thành "viên đá sống động" để xây dựng một xã hội nhân văn hơn. Tôi cũng gửi lời chào đến tất cả các bạn trẻ đang hiện diện ở đây.”

Đức Thánh Cha cũng gởi lời chào đến nhiều nhóm khác và chúc họ một ngày Chúa Nhật an lành.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – vatican radio

Đức Thánh Cha viếng thăm bệnh xá nhi đồng tại Vatican

Đức Thánh Cha viếng thăm bệnh xá nhi đồng tại Vatican

VATICAN. Sáng 14 tháng 12-2013, ĐTC Phanxicô đã viếng thăm bệnh xá nhi đồng Thánh Marta gần nhà trọ nơi ngài cư ngụ.

Đến nơi vào lúc gần 12 giờ, ĐTC đã được mọi người tiếp đón nồng nhiệt. Trong lời chào ĐTC, nữ tu Antonietta Collacchi, dòng Nữ Tử bác ái, Bệnh xá trưởng, đã nhắc lại lai lịch của cơ sở này được Đức Piô 11 thành lập cách đây hơn 90 năm, tức là vào năm 1922, sau thế chiến thứ I và giao cho các nữ tử bác ái thánh Vinh Sơn Phaolô đảm trách. Cho đến nay hàng ngàn trẻ em đã được giúp đỡ với sự cộng tác của các bác sĩ và nhân viên y tế khác, cũng như những người thiện nguyện.

Bệnh xá này chuyên săn sóc các trẻ em sơ sinh, con của những người ngoài Liên hiệp Âu Châu, phần lớn là Mỹ châu la tinh và Bắc Phi. Các em được trợ giúp các vật dụng cần thiết cũng như săn sóc về y khoa và nâng đỡ tâm lý. Ngoài ra, bệnh xá cũng tổ chức những ngày nghỉ mùa hè ở biển và phân phát miễn phí các xe chở trẻ em, y phục và đồ chơi.

Năm ngoái có khoảng 360 gia đình thuộc nhiều nước và nhiều tôn giáo được tiếp đón và săn sóc tại bệnh xá Thánh Marta ở Vatican. Mới đây có 27 gia đình đến từ Ai Cập, 20 gia đình từ Marốc, 10 từ Libia, sau mùa xuân Arập và phần lớn là người Hồi giáo. Cũng có những gia đình đến từ Moldavia, Nigeria, Thổ nhĩ kỳ và Ấn độ.
Một bà mẹ người Peru, có người con nhỏ đang được trợ giúp, đã đại diện mọi người khác chào mừng ĐTC và kể lại những may mắn vì được trợ giúp tại bệnh xá này, và cám ơn ngài vì cuộc viếng thăm. Bà gọi đây là món quà giáng sinh đẹp nhất mà những người ở đây có thể nhận được.

Các em cũng tặng ĐTC một bánh sinh nhật với những lời chúc mừng ngài nhân dịp sinh nhật thứ 77 của ngài vào thứ ba, 17-12 tới đây.

Sau khi viếng thăm bệnh xá, ĐTC đã gặp chung tất cả gồm 800 người, các em và gia đình, các nhân viên, bác sĩ, y tá và những người thiện nguyện tại đại thính đường Phaolô 6. (SD 14-12-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

 

Toàn văn Sứ điệp hòa bình của Đức Thánh Cha

Toàn văn Sứ điệp hòa bình của Đức Thánh Cha

TÌNH HUYNH ĐỆ, NỀN TẢNG VÀ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI HÒA BÌNH
Trong sứ điệp Ngày Thế Giới Hòa Bình đầu tiên của mình, tôi ước ao gửi đến mọi người, cá nhân cũng như các dân tộc, ước mong về một đời sống được đổ đầy với niềm vui và hy vọng. Trong trái tim của mỗi người nam và người nữ luôn thường trực một nỗi khao khát về một đời sống sung mãn, bao gồm khao khát không thể kìm nén được về tình huynh đệ vốn là điều lôi kéo chúng ta đến với người khác và giúp chúng ta đối xử với họ không như là kẻ thù hay người đối địch, nhưng như là anh chị em được đón nhận và ôm ấp.

Vì chúng ta là một hữu thể tương quan, tình huynh đệ là một phẩm chất thiết yếu của con người. Một ý thức sống động về mối tương quan này giúp chúng ta nhìn và đối xử với nhau như là anh chị em đích thực. Không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã hội công bình và một nền hòa bình bền vững và viên mãn. Chúng ta nên nhớ rằng tình huynh đệ cách chung được học biết tại gia đình, trên hết là nhờ vào vai trò trách nhiệm và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, đặc biệt là người cha và người mẹ. Gia đình là nguồn mạch của tình huynh đệ, và như thế gia đình chính là nền tảng và là con đường đầu tiên dẫn đến hòa bình, vì ơn gọi của gia đình chính là thông truyền tình yêu cho thế giới xung quanh.

Việc gia tăng về các mối liên hệ nối kết với nhau và truyền thông trong thế giới hôm nay khiến chúng ta ý thức nhiều hơn về sự hiệp nhất và số phận chung của các quốc gia. Trong sự năng động của lịch sử, trong sự đa dạng của các nhóm chủng tộc, xã hội và văn hóa, chúng ta nhìn thấy những hạt giống, là ơn gọi hình thành một cộng đoàn gồm những anh chị em biết đón nhận và chăm sóc lẫn nhau. Nhưng ơn gọi này vẫn thường xuyên bị khước từ và lờ đi trong một thế giới bị ghi dấu bởi “sự toàn cầu hóa dửng dưng”, điều làm cho chúng ta dần quen với sự đau khổ của người khác và khép mình lại.

Tại nhiều nơi trên thế giới, những tội ác chống lại những quyền nền tảng của con người dường như không kết thúc, đặc biệt là quyền sống và quyền tự do tôn giáo. Những thảm cảnh về tệ nạn buôn bán người, mà trong đó đời sống và nỗi tuyệt vọng của người khác là miếng mồi ngon của những kẻ vô đạo đức, là một ví dụ điển hình cho vấn đề này. Cùng với các cuộc xung đột vũ trang công khai là các cuộc chiến tranh ít nhìn thấy hơn, nhưng không kém phần độc ác, đó là các cuộc chiến trong các lĩnh vực kinh tế và tài chính, chúng phá hủy cuộc sống, phá hủy gia đình cũng như doanh nghiệp.

Toàn cầu hóa, như ĐTC Biển Đức 16 chỉ ra, làm cho chúng ta trở thành “hàng xóm” nhưng không giúp chúng ta trở thành anh chị em của nhau.[1] Nhiều tình huống bất bình đẳng, nghèo đói và bất công không chỉ là dấu chỉ của việc thiếu tình huynh đệ sâu sắc mà còn là dấu chỉ của sự vắng mặt một nền văn hóa liên đới. Những ý thức hệ mới, được đặc trưng bởi sự lan tràn của chủ nghĩa cá nhân, việc tự coi mình là trung tâm và chủ nghĩa tiêu thụ vật chất, làm suy yếu đi các mối tương quan xã hội và làm nảy sinh não trạng “thải bỏ” dẫn đến thái độ xem thường và loại bỏ những người yếu đuối nhất và những người bị xem là “vô dụng”. Trong cách này, sự đồng tồn tại của con người ngày càng có xu hướng trở thành một hành vi “có qua có lại” (do ut des) đầy thực dụng và ích kỷ.

Đồng thời, rõ ràng là hệ thống đạo đức đương đại không có khả năng tạo ra những mối tương quan huynh đệ đích thực, vì tình huynh đệ này không muốn tham chiếu đến một vị Cha chung là nền tảng tội hậu giúp nó tồn tại.[2] Tình huynh đệ đích thực giữa con người giả thiết và đòi hỏi một Tình Phụ tử siêu vượt. Nếu đặt nền tảng trên việc thừa nhận tình phụ tử này, tình huynh đệ nhân loại sẽ được củng cố: Mỗi người trở thành một “bạn hữu” để chăm lo cho người khác.

Em ngươi đâu?” (St 4,9)

2. Để hiểu đầy đủ hơn về ơn gọi của con người đối với tình huynh đệ, để nhận ra một cách rõ ràng hơn những cản trở trên bước đường hiện thực hóa ơn gọi này và để nhận ra những con đường nhằm vượt qua những cản trở ấy, điều quan trọng nhất là chúng ta hãy để cho mình hiểu biết kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch được trình bày trong một cách thức trổi vượt trong Kinh Thánh.

Theo tường thuật Thánh Kinh về sáng tạo, tất cả con người có nguồn gốc từ một cha mẹ, Adam và Eve, đôi bạn được Thiên Chúa sáng tạo theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài (xem St 1,26), từ họ, Cain và A-ben được sinh ra. Trong lịch sử của gia đình đầu tiên này, chúng ta nhìn thấy nguồn gốc của xã hội và sự tiến triển của các mối tương quan giữa các cá nhân và dân tộc.

A-ben là một người chăn cừu, Cain là một người trồng trọt. Căn tính sâu sắc của họ và ơn gọi của họ chính là anh em bất chấp sự đa dạng trong hoạt động và văn hóa, trong cách thức họ tương quan với Thiên Chúa và tạo vật. Việc Cain đã giết em mình là A-ben cho thấy một thảm kịch của sự khước từ triệt để ơn gọi làm anh em của Cain. Câu chuyện của họ (xem. St 4,1-16) chỉ ra nhiệm vụ khó khăn mà mọi người nam và nữ được mời gọi, để sống như một, mỗi người phải quan tâm đến người khác. Cain vì không thể chấp nhận việc Thiên Chúa yêu mến A-ben hơn, vì A-ben đã dâng cho Ngài lễ vật tốt nhất, – “Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt (St 4,4-5) – nên đã giết A-ben vì ghen tị. Theo cách này, ông từ chối xem A-ben là anh em, có mối liên hệ đúng đắn với A-ben và sống trong sự hiện diện của Thiên Cháu bằng cách đón nhận trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ người khác. Khi Thiên Chúa hỏi Cain “Em ngươi đâu?” (St 4,9), Thiên Chúa muốn Cain giải thích điều ông đã làm. Ông trả lời: "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao? "
. Sau đó, sách Sáng Thế nói cho chúng ta biết, “Ông Cain đi xa khuất mặt Ðức Chúa” (4:16).

Chúng ta tự hỏi đâu là lý do đích thực khiến Cain xem thường mối tương quan huynh đệ và, đồng thời, mối tương quan hỗ tương và huynh đệ nối kết ông với em mình là A-ben. Chính Thiên Chúa đã kết án và quở trách Cain vì ông đã thông đồng với sự dữ: “tội lỗi đang nằm phục ở cửa” (St 4,7). Nhưng Cain đã khước từ, ông đồng lõa với sự dữ và quyết định “xông đến giết A-ben, em mình.” (St 4,8), như thế là ông xem thường kế hoạch của Thiên Chúa. Và như thế, ông đã phá vỡ lời mời gọi ban sơ của mình để trở nên con cái Thiên Chúa và sống trong tình huynh đệ.

Câu chuyện của Cain và A-ben dạy cho chúng ta biết rằng chúng ta có một lời mời gọi huynh đệ, nhưng nó cũng có thể trở thành thảm kịch khi phản bội lại lời mời gọi này. Điều này được chứng thực bởi những hành động ích kỷ hàng ngày của chúng ta, chúng là nguồn gốc của quá nhiều chiến tranh và bất công: nhiều người nam và người nữ đã chết dưới bàn tay của anh chị em mình, những người không có khả năng để nhận ra nơi người khác như chính họ là, nghĩa là như là những hữu thể được dựng nên trong mối tương quan với người khác, trong sự hiệp thông và trao ban.

Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23:8)

3. Một câu hỏi tự nhiên nảy sinh là: Người nam và người nữ trên thế giới này có khả năng để đáp trả một cách trọn vẹn khao khát tình huynh đệ mà Thiên Chúa là Cha đã đặt để trong họ không? Họ sẽ tự mình nỗ lực bởi chính khả năng của họ để vượt qua sự khác biệt, ích kỷ và ghen ghét và đón nhận những khác biệt chính đáng nơi anh chị em mình không?

Nhờ vào việc diễn giải lời của Đức Giê-su, chúng ta có thể tóm tắt câu trả lời mà Ngài đã đưa ra: “Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là "rápbi", vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (xem Mt 23,8-9). Nền tảng của tình huynh đệ được dựa trên tình phụ tử của Thiên Chúa. Chúng ta không nói về tình phụ tử giống loài, đầy mơ hồ và bất toàn trong lịch sử, nhưng đúng hơn là một tình yêu cụ thể đầy trổi vượt và đặc biệt của Thiên Chúa dành cho mỗi người nam và nữ (xem Mt 6,25-30). Vì thế, chính tình phụ tử ấy làm nảy sinh một cách hiệu quả tình huynh đệ, bởi vì tình yêu Thiên Chúa, một khi được đón nhận, trở thành một phương tiện lớn lao biến đổi đời sống chúng ta và các mối tương quan của chúng ta với người khác, giúp chúng ta mở mình ra với tình liên đới và sự chia sẻ đích thực.

Trong một cách cụ thể, tình huynh đệ nhân loại được tái tạo trong và qua Đức Giê-su Ki-tô, qua cái chết và phục sinh của Người. Thánh giá chính là điểm nền tảng cuối cùng mà con người không thể tự mình tái tạo nên. Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã mặc lấy bản chất con người để cứu độ nó, yêu mến Chúa Cha cho đến chết trên Thập Giá (xem Pl 2,8), qua sự phục sinh của mình đã biến chúng ta thành một nhân loại mới, trong sự hiệp thông trọn vẹn với ý muốn của Thiên Chúa, với kế hoạch của Người, bao gồm một sự hiện thực hóa trọn vẹn ơn gọi làm huynh đệ.

Từ khởi đầu, Đức Giê-su đã đón nhận kế hoạch của Cha, thừa nhận tính ưu việt của nó trên mọi sự. Nhưng Đức Ki-tô, khi từ bỏ chính mình cho đến chết vì tình yêu dành cho Cha, Ngài đã trở thành nguyên lý chung kết và mới mẻ dành cho tất cả chúng ta; trong Ngài, chúng ta được mời gọi để đối xử với nhau như anh chị em, bởi vì chúng ta là con cái của cùng một Cha. Chính Ngài là Giao ước; nơi Ngài, chúng ta được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau như anh chị em. Cái chết của Đức Giê-su trên Thập giá cũng chấm dứt sự chia cách giữa mọi người, giữa dân của Giao ước và Dân Ngoại, những người cho đến giây phút đó không còn hy vọng, vì họ không phải là một phần của Lời hứa. Như chúng ta đọc thấy trong thư gửi Tín hữu Ê-phê-sô, Đức Giê-su Ki-tô là Đấng hòa giải mọi người nơi chính Ngài. Ngài chính là sự bình an, vì Ngài làm hai người trở nên một, phá vỡ bức tường phân cách chia rẽ họ, là sự thù nghịch giữa họ. Ngài đã tạo nên nơi chính mình một dân, một con người mới, một nhân loại mới (xem 2,14-16).

Tất cả những ai đón nhận đời sống của Đức Ki-tô và sống nơi Ngài biết rằng Thiên Chúa là Cha và họ sẽ trao ban trọn vẹn thân mình cho Ngài, bằng cách yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Một người đã được hòa giải sẽ nhận ra Thiên Chúa là Cha của mọi người, và kết quả là, họ được mời gọi để sống đời sống đệ huynh dành cho hết mọi người. Nơi Đức Ki-tô, người khác được chào đón và được yêu thương như người con trai hay con gái của Thiên Chúa, như một người chị, một người anh, chứ không phải như người xa lạ, hay tệ hơn là như một kẻ đối địch và thậm chí là kẻ thù. Trong gia đình của Thiên Chúa, nơi mọi người con trai và con gái có cùng một Cha, và vì họ được tháp nhập vào Chúa Ki-tô, những người con trai và con gái này sẽ ở trong Người Con, không phải là “đời sống đáng vứt đi”. Tất cả người nam và nữ chung hưởng một phẩm giá như nhau và không ai có thể xâm phạm được. Mọi người đều được Thiên Chúa yêu mến. Mọi người đều được cứu chuộc bởi máu của Đức Ki-tô, Đấng đã chết trên Thập giá và đã sống lại vì hết thảy chúng ta. Đây chính là lý do tại sao không ai có thể tiếp tục dửng dưng trước số phận của anh chị em mình.

Tình huynh đệ, nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình

4. Điều này muốn nói rằng, thật dễ để nhận ra rằng tình huynh đệ chính là nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình. Liên quan đến vấn đề này, các thông điệp xã hội mà các vị tiền nhiệm của tôi đã viết trở nên hữu ích. Có lẽ chỉ cần trích dẫn lại những định nghĩa về hòa bình trong các Thông điệp Populorum Progressio của Đức Thánh Cha Phaolô VI và Sollicitudo Rei Socialis của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thì đã khá đầy đủ. Qua thông điệp thứ nhất, chúng ta biết rằng sự phát triển hội nhất của các dân tộc là một danh xưng mới của nền hòa bình.[3] Từ thông điệp thứ hai, chúng ta kết luận rằng hòa bình là thành quả của sự liên đới (Opus solidaritatis pax).[4]

Đức Phaolô VI đã trình bày rằng, không chỉ cá nhân mà các quốc gia cũng phải gặp gỡ nhau trong tình huynh đệ. Ngài nói: “Trong tình bạn và trong sự hiểu biết lẫn nhau, trong sự hiệp thông thánh này, chúng ta cũng phải… cùng nhau lao tác để xây dựng tương lai chung cho nhân loại”.[5] Trước hết, nhiệm vụ này dành cho những người được ưu tuyển. Trách nhiệm của họ được cắm rễ sâu trong tình huynh đệ nhân loại và mang tính siêu vượt, và được biểu lộ trong ba cách: bổn phận liên đới, vốn đòi hỏi các nước giàu hơn trợ giúp các nước kém phát triển hơn; bổn phận công bình xã hội, cần tổ chức lại các mối tương quan giữa kẻ mạnh hơn và người yếu thế hơn để có sự công bằng hơn; và bổn phận đức ái chung, bao gồm sự thăng tiến một thế giới nhân bản hơn dành cho mọi người, một thế giới mà nơi ấy mỗi người có một điều gì đó để trao và nhận, mà không xem sự thăng tiến của người này là sự cản trở cho sự phát triển của người khác.[6]

Vậy, nếu chúng ta xem hòa bình là thành quả của sự liên đới, chúng ta không thể không ý thức rằng tình huynh đệ chính là nguyên lý nền tảng của nó. Hòa bình, như ĐTC Gioan Phaolô II khẳng định, là một sự thiện không thể phân chia. Nó là một sự thiện dành cho tất cả và nó cũng là một sự thiện không thuộc về ai. Hòa bình chỉ có thể đạt được và được hưởng dùng, như là một phẩm chất cao nhất của đời sống và một sự phát triển bền vững của nhân loại, nếu tất cả mọi người được hướng dẫn bởi tình liên đới như “là một quyết tâm mạnh mẽ và bền bỉ trong việc dấn thân cho lợi ích chung”.[7] Điều này có nghĩa là đừng để mình được hướng dẫn bởi “ham hố lợi nhuận” hay “khao khát quyền lực”. Điều cần thiết là khao khát “từ bỏ chính mình” vì lợi ích của người khác hơn là khai thác họ, và “phục vụ họ” thay vì áp bức họ vì lợi ích của bản thân mình. “Tha nhân” – cho dẫu là một người hay một quốc gia – không được xem như một loại công cụ, với khả năng làm việc hay sức mạnh thể lý được khai thác với chi phí rẻ mạt, và rồi loại bỏ khi không còn hữu dụng, nhưng là như “đồng loại của chúng ta”, một “trợ tá.”[8]

Tình liên đới Kitô giáo giả thiết rằng tha nhân cần được yêu mến không chỉ “là một con người với những quyền lợi và sự bình đẳng căn bản đối với mọi người, mà còn trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, được máu Đức Kitô cứu chuộc và là đối tượng hoạt động của Chúa Thánh Thần”,[9] như biết bao nhiêu anh chị em khác. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lưu ý: “Lúc đó ý thức về tình phụ tử chung của Thiên Chúa, về tình huynh đệ của mọi người trong Đức Kitô, ‘những người con trong Chúa Con’, về sự hiện diện và họat động ban sự sống của Chúa Thánh Thần, đem lại cho cái nhìn của chúng ta về thế giới một tiêu chuẩn mới để giải thích nó,”[10] để thay đổi nó.

Tình huynh đệ, một đòi hỏi cho cuộc chiến chống đói nghèo

5. Trong Thông Điệp Bác ái trong Chân Lý, vị tiền nhiệm của tôi đã nhắc nhở thế giới về sự thiếu hụt tình huynh đệ giữa các dân tộc và giữa người nam và nữ là một nguyên nhân quan trọng của nghèo đói.[11] Trong nhiều xã hội, chúng ta kinh nghiệm về một sự nghèo nàn về các mối tương quan là kết quả của việc thiếu các mối tương quan vững chắc trong gia đình và xã hội. Chúng ta bận tâm nhiều đến các khó khăn, bị gạt ra bên lề, cô lập và các chứng phụ thuộc bệnh lý ngày càng gia tăng. Loại nghèo khó này chỉ có thể vượt qua nhờ vào việc tái khám phá và tôn trọng các mối tương quan huynh đệ trong trái tim của các gia đình và cộng đoàn, thông qua sự chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, những thất bại cũng như thành công, vốn là một phần của đời sống con người.

Hơn nữa, nếu như một mặt chúng ta đang chứng kiến một sự giảm sút trong nghèo khó thuần túy, thì mặc khác, chúng ta cũng không thể không nhận ra rằng có một sự gia tăng rất nghiêm trọng về tình trạng nghèo đói tương đối, nghĩa là những bất công giữa những người và giữa các nhóm cùng chung sống trong một vùng cụ thể hay trong một bối cảnh văn hóa lịch sử xác định. Trong ý nghĩa này, các chính sách hiệu quả cần thăng tiến nguyên lý huynh đệ, nhằm đảm bảo cho con người – những người bình đẳng trong phẩm giá và trong các quyền nền tảng – có thể tiếp cận đến các nguồn vốn, các dịch vụ, hệ thống giáo dục, sức khỏe và kỹ thuật để mỗi người có cơ hội diễn tả và hiện thực hóa dự án đời sống mình và có thể phát triển một cách trọn vẹn như một con người.

Một người cũng thấy rất cần có những chính sách nhằm giảm thiểu một sự bất công quá lớn trong thu nhập. Chúng ta đừng quên rằng Giáo huấn của Giáo hội về điều được gọi là khế ước xã hội, mà cho rằng, như thánh Tôma Aquinô nói, điều hợp luật và thực sự cần thiết là “người ta có quyền sở hữu”,[12] trong những gì liên quan đến việc sử dụng của mình, “họ sở hữu chúng không giống như tài sản của mình nhưng cũng là tài sản chung cho người khác, nghĩa là chúng có thể mang lại lợi ích cho người khác cũng như chính bản thân họ”.[13]

Cuối cùng, có một cách thức khác để thăng tiến tình huynh đệ – và thực sự đánh bại sự nghèo đói – mà cũng là nền tảng của tất cả những điều khác. Nó là sự tách mình ra của những người chọn một lời sống đơn sơ và đích thực, của những người mà, bằng cách chia sẻ tài sản của mình, họ thực sự đang cố gắng để kinh nghiệm sự hiệp thông huynh đệ với người khác. Đây chính là nền tảng cho việc theo Đức Ki-tô và trở nên Ki-tô hữu đích thực. Đây không chỉ là trường hợp của những người sống đời sống thánh hiến, những người tuyên khấn lời khấn nghèo khó, nhưng là của biết bao nhiêu gia đình và người dân đầy trách nhiệm, những người xác tín rằng, chính mối tương quan huynh đệ của họ với tha nhân mới hình thành nên sự thiện quý giá nhất.

Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế

6. Các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính nghiêm trọng trong thời gian gần đây – mà nhận ra gốc rễ của chúng chính là con người dần lạc xa Thiên Chúa và tha nhân, một mặt là do việc theo đuổi những của cải vật chất, và mặt khác là do sự bần cùng hóa các mối tương quan liên vị và cộng đoàn – đã thúc đẩy con người tìm kiếm sự thỏa mãn, hạnh phúc và an toàn trong việc tiêu thụ và lợi lộc từ tất cả những gì liên quan đến các nguyên lý của một nền kinh tế vững mạnh. Vào năm 1979, ĐTC Gioan Phaolô II đã mời gọi mọi người lưu ý tới “một lối nhận thức thật sự nguy hại là, trong khi sự thống trị của con người trên thế giới sự vật đang có những bước tiến lớn lao, thì trong sự thống trị của mình, con người đang dần đánh mất những mối dây thiết yếu và trong những cách thế khác nhau, bản tính nhân loại đang bị lệ thuộc vào thế giới và tự mình trở nên một điều phụ thuộc và bị sử dụng, và thậm chí việc sử dụng này không được nhận thức một cách đúng đắn – thông qua toàn thể tổ chức đời sống cộng đoàn, qua hệ thống sản xuất và áp lực từ các phương tiện truyền thông xã hội.”[14]

Các cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau nói cho chúng ta biết chúng ta cần suy nghĩ lại về những khuôn mẫu phát triển kinh tế của chúng ta và tiến tới một sự thay đổi trong cách sống. Các cuộc khủng hoảng ngày nay, thậm chí với những hậu quả nghiêm trọng cho đời sống con người, cũng cung cấp cho chúng ta một cơ hội quý giá để tái khám phá các nhân đức khôn ngoan, tiết độ, công bình và can đảm. Các nhân đức này có thể giúp chúng ta vượt qua những thời khắc khó khăn để tái khám phá mối dây huynh đệ nối kết chúng ta với người khác, với một niềm tin tưởng sâu sắc rằng con người cần và có khả năng đạt được điều gì lớn hơn là việc tối đa hóa lợi ích cá nhân. Trên hết, các nhân đức này cần thiết để xây dựng và giữ gìn một xã hội hợp với phẩm giá con người.

Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh

7. Trong năm qua, nhiều anh chị em của chúng ta tiếp tục phải gánh chịu kinh nghiệm hủy hoại của chiến tranh, gây nên một vết thương sâu và nghiêm trọng ảnh hưởng đến tình huynh đệ. Nhiều cuộc xung đột đang diễn ra giữa sự thờ ơ chung. Với những anh chị em đang sống trong những vùng đất nơi đó vũ khí áp đặt khủng bố và sự hủy diệt, tôi đảm bảo sự gần gũi cá nhân tôi và sự gần gũi của toàn thể Giáo hội, sứ mạng của Giáo hội là mang tình yêu của Chúa Ki-tô đến với những nạn nhân không có khả năng tự vệ, bị lãng quên bởi chiến tranh thông qua lời cầu nguyện cho sự hòa bình, qua sự phục vụ cho những người bị thương tích, đói kém, di dân, những người phải thay đổi nơi ở và tất cả những người đang sống trong sợ hãi. Giáo hội cũng sẽ lên tiếng để giúp các vị lãnh đạo lắng nghe được tiếng khóc than của những người đang gặp đau khổ và đặt một dấu chấm hết cho mọi hình thức của hận thù, lạm dụng và bạo lực đối với các quyền nền tảng của con người.[15]

Vì lý do này, tôi mạnh mẽ khuyến cáo những ai gieo rắc bạo lực và cái chết bằng sức mạnh của vũ khí: Trong con người mà hôm nay bạn chỉ thấy đơn thuần là một kẻ thù bị đánh đập, hãy khám phá ra rằng họ là anh chị em của bạn, và hãy ôm họ vào vòng tay bạn! Hãy từ bỏ những con đường của vũ khí và đi ra ngoài để gặp gỡ người khác trong đối thoại, tha thứ và hòa giải, để tái xây dựng hòa bình, tin tưởng và hy vọng xung quanh bạn! “Từ quan điểm này, rõ ràng là, đối với các dân tộc trên thế giới, xung đột vũ trang luôn luôn là một sự phủ định có chủ ý đối với sự hòa hợp quốc tế, và tạo ra sự chia rẽ sâu sắc và những vết thương sâu đòi hỏi nhiều năm để chữa lành. Chiến tranh là một sự khước từ cụ thể trong việc theo đuổi các mục tiêu kinh tế và xã hội to lớn mà cộng đồng quốc tế đã đề ra".[16]

Dầu vậy, bao lâu vẫn còn lượng vũ khí rất lớn đang lưu hành như hiện nay, những cái cớ mới có thể luôn được tìm thấy để bắt đầu hận thù. Vì lý do này, chính bản thân tôi cũng như các vị tiền nhiệm của tôi khẩn khoản mời gọi hạn chế sử dụng vũ khí giết người hàng loạt và các bên cần giải trừ quân bị, bắt đầu với việc giải trừ vũ khí hạt nhân và hóa học.

Tuy chúng ta không thể không nhận ra rằng các thỏa thuận và các luật lệ quốc tế – là điều cần thiết và rất đáng ao ước – nhưng tự chúng không đủ để bảo vệ con người ra khỏi những rủi ro của xung đột vũ trang. Một cuộc hoán cải con tim cần thiết sẽ cho phép mỗi người nhận ra nơi người khác là người anh người chị cần chăm sóc, và để cùng làm việc với nhau trong việc xây dựng một đời sống viên mãn cho mọi người. Chính tinh thần này đã gợi hứng cho nhiều sáng kiến trong xã hội dân sự, bao gồm các tổ chức tôn giáo trong việc thăng tiến hòa bình. Tôi bày tỏ hy vọng rằng các cam kết hàng ngày sẽ tiếp tục đơm hoa kết trái và áp dụng hiệu quả trong luật pháp quốc tế về quyền đối với hòa bình, như là một quyền cơ bản của con người và điều kiện tiên quyết cần thiết cho tất cả các quyền khác.

Tham nhũng và tội ác có tổ chức đe dọa tình huynh đệ

8. Chiều kích huynh đệ là điều cần thiết cho sự hoàn thiện của mỗi người nam và nữ. Những tham vọng hợp lý của con người, đặc biệt nơi những người trẻ, không nên bị cản trở hay chống đối, người ta cũng không nên bị cướp đi niềm hy vọng hiện thực hóa những tham vọng này. Dầu vậy, tham vọng không được lẫn lộn với việc lạm dụng quyền lực. Trái lại, mọi người cần thương mến nhau với tình huynh đệ (xem Rm 12,10). Trong những bất đồng, là điều không thể tránh khỏi trong cuộc sống, chúng ta luôn nhớ rằng chúng ta là anh chị em, và do đó cần khuyên nhủ người khác và khuyên nhủ nhau để không xem tha nhân là kẻ thù hay một địch thủ cần bị loại trừ.

Tình huynh đệ tạo ra bình an cho xã hội bởi vì nó tạo ra một sự quân bình giữa tự do và công bình, giữa trách nhiệm cá nhân và liên đới, giữa lợi ích cá nhân và ích chung. Và vì thế, một cộng đồng chính trị cần hoạt động trong một cách thức rõ ràng và trách nhiệm để hỗ trợ cho điều này. Các công dân phải cảm thấy mình là người đại biểu của chính quyền công cộng liên quan đến tự do của mình. Nhưng lợi ích của các bên đã chen vào giữa công dân và các tổ chức và phá vỡ mối quan hệ đó, điều này đã thúc đẩy tạo ra một bầu khí xung đột lâu dài.

Một tình huynh đệ đích thực vượt qua sự ích kỷ cá nhân, điều vốn xung đột với khả năng con người sống trong tự do và hòa hợp với nhau. Sự ích kỷ như thế phát triển về mặt xã hội – cho dẫu nó ở dưới nhiều hình thức của tham nhũng, rất phổ biến ngày nay, hay trong sự huấn luyện của các tổ chức tội ác, từ những nhóm nhỏ đến những nhóm được tổ chức trên phạm vi toàn cầu. Các nhóm này phá vỡ các luật lệ và công bình, đụng chạm đến trái tim của phẩm giá con người. Các tổ chức này chống lại Thiên Chúa một cách nghiêm trọng, họ làm tổn thương người khác và làm hại đến công trình sáng tạo, điều này càng nghiêm trọng hơn khi chúng có âm điệu tôn giáo.

Tôi cũng nghĩ về thảm kịch đau lòng về việc lạm dụng thuốc nhằm mang về lợi nhuận mà xem thường các luật luân lý và dân sự. Tôi nghĩ về sự tàn phá các nguồn lực tự nhiên và sự ô nhiễm vẫn còn tiếp diễn, và thảm kịch bóc lột lao động. Tôi cũng nghĩ đến nạn buôn tiền bất hợp pháp và sự đầu cơ tài chính, là điều thường minh chứng cho việc bóc lột cũng như gây thiệt hại cho toàn thể hệ thống kinh tế xã hội. Tôi nghĩ về tệ nạn mãi dâm, mỗi ngày thu lợi từ những nạn nhân vô tội, đặc biệt là người trẻ, cướp đi tương lai của họ. Tôi nghĩ về sự kinh tởm của nạn buôn người, các tội ác, và lạm dụng chống lại các dân tộc thiểu số, nỗi kinh hoàng của tình trạng nô lệ vẫn con hiện diện ở nhiều nơi trong thế giới hôm nay; thảm kịch của người di dân thường bị xem nhẹ, họ là những nạn nhân thường xuyên của việc đối xử bất công và bất hợp pháp. Như Đức Thánh Cha Gioan 23 đã viết: “Con người không thể tồn tại trong một xã hội chỉ dựa trên các mối tương quan quyền lực. Thay vì khích lệ sự thành tựu và phát triển của con người như nó nên làm, quyền lực thường cản trở và hạn chế tự do của con người”.[17] Nhưng con người có thể hoán cải; họ sẽ không bao giờ phải thất vọng vì họ có thể thay đổi cuộc sống của mình. Tôi ước mong điều này trở thành một sứ điệp hy vọng và tin tưởng cho mọi người, kể cả những ai đang phạm những tội ác tày trời, vì Thiên Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn họ hoán cải và được sống (xem Ed 18,23).

Trong bối cảnh rộng lớn của các mối liên hệ xã hội, khi chúng ta nhìn vào tội ác và hình phạt, chúng ta không thể giúp gì ngoại trừ việc nghĩ về những điều kiện thiếu tình thương trong các nhà tù, nơi đó, những người bị giam giữ thường bị giản lược vào một tình trạng không giống người (subhuman status), vi phạm đến phẩm giá con người và cướp khỏi họ niềm hy vọng và khao khát phục hồi. Giáo hội đã dấn thân nhiều trong môi trường này, hầu như là trong thầm lặng. Tôi khích lệ mọi người tiếp tục dấn thân, và hy vọng rằng những nỗ lực được thực hiện trong môi trường này của biết bao nhiêu người nam và người nữ đầy can đảm sẽ dần được các chính quyền dân sự hỗ trợ trong sự công bằng và chân thật.

Tình huynh đệ giúp giữ gìn và nuôi dưỡng tự nhiên

9. Gia đình nhân loại đã đón nhận một quà tặng chung từ Đấng Sáng Tạo: đó là tự nhiên. Quan điểm Ki-tô giáo về sáng tạo bao hàm một lối đánh giá tích cực về những can thiệp hợp lý vào tự nhiên nếu những sự can thiệp này đem lại lợi ích và được thực thi với tinh thần trách nhiệm, nghĩa là ý thức về “ngữ pháp” được khắc ghi trong tự nhiên và sử dụng một cách khôn ngoan các nguồn lực để mang lại lợi ích cho hết thảy mọi người, trong sự tôn trọng vẻ đẹp, cùng đích và sự hữu ích của mọi hữu thể sống và vị trí của nó trong hệ sinh thái. Tóm lại, tự nhiên được dành sẵn cho chúng ta và chúng ta được mời gọi để trở nên một người quản lý đầy trách nhiệm trên nó. Nhưng quá thường xuyên, bị thúc đẩy bởi lòng tham và khao khát thống trị, sở hữu, sử dụng và khai thác; chúng ta không gìn giữ tự nhiên, chúng ta cũng không tôn trọng hay xem tự nhiên như một quà tặng nhưng không mà chúng ta cần phải chăm sóc và dành để phục vụ cho anh chị em mình, kể cả thế hệ tương lai.

Cụ thể, lĩnh vực nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất quan trọng nhất, với ơn gọi quan trọng là nuôi dưỡng và bảo vệ các nguồn lực tự nhiên để nuôi sống con người. Trong lĩnh vực này, nỗi hổ thẹn về nạn đói vẫn tiếp diễn khiến tôi muốn chia sẻ với anh chị em câu hỏi này: Chúng ta đang sử dụng các nguồn lực của trái đất này như thế nào? Các xã hội đương đại cần phản tỉnh về trật tự ưu tiên mà sản phẩm hướng đến. Nó là một nhiệm vụ thực sự áp lực để sử dụng các nguồn lực trên trái đất này sao cho mọi người được giải phóng khỏi nạn đói. Các sáng kiến và các giải pháp khả thi thì rất nhiều, và không chỉ giới hạn trong việc gia tăng sản phẩm. Ai cũng biết rằng sản phẩm hiện nay đang đủ dùng, nhưng một tỉ người tiếp tục chịu đau khổ và chết vì đói, và đây là một điều đáng xấu hổ thực sự. Vì vậy, chúng ta cần tìm kiếm những con đường mà ngang qua đó mọi người có thể hưởng được ích lợi từ hoa trái của đất đai, không chỉ để tránh sự gia tăng khoảng cách giữa người có nhiều hơn và những người hài lòng với những mảnh vụn của mình, nhưng trên hết nó là vấn đề công bình, bình đẳng và tôn trọng mỗi người. Liên quan đến vấn đề này, tôi ước mong nhắc nhở mọi người về mục đích chung tất yếu của tất cả tài sản là một trong những nguyên lý nền tảng trong học thuyết xã hội của Giáo hội. Tôn trọng nguyên lý này chính là điều kiện thiết yếu giúp người ta dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những tài sản thiết yếu và quan trọng, là điều mọi người cần và là quyền lợi của mỗi người nam và người nữ.

Kết luận

10. Tình huynh đệ cần được khám phá, yêu mến, kinh nghiệm công bố và làm chứng. Nhưng chỉ có tình yêu, là một quà tặng từ Thiên Chúa, mới có thể giúp chúng ta đón nhận và kinh nghiệm một cách trọn vẹn tình huynh đệ này.

Chủ nghĩa duy thực thiết yếu là điều phù hợp với chính trị và kinh tế không thể được giảm thiểu đến những bí quyết kỹ thuật đầy lý tưởng mà không quan tâm đến chiều kích siêu việt của con người. Khi thiếu việc mở ra với Thiên Chúa, mỗi hoạt động của con người trở nên nghèo nàn và con người bị giản lược thành đối tượng có thể bị khai thác. Chỉ khi các thể chế chính trị và kinh tế mở ra để chuyển động trong một không gian rộng lớn được đảm bảo bởi Đấng duy nhất yêu mến mỗi người nam và người nữ, khi ấy chúng mới có thể đạt được một trật tự đặt nền tảng trên tinh thần đức ái đích thực và trở nên những khí cụ hữu hiệu trong việc phát triển hội nhất và hòa bình của nhân loại.

Chúng ta, những người Ki-tô hữu tin rằng trong Giáo hội, chúng ta là các chi thể của một thân thể duy nhất, hỗ trợ nhau, bởi vì mỗi người được trao ban một ân sủng theo tiêu chuẩn quà tặng của Đức Ki-tô, vì lợi ích chung (xem Eph 4,7.25; 1 Cor 12,7). Đức Ki-tô đã đến thế gian để mang cho chúng ta ân sủng thần linh, nghĩa là khả năng chia sẻ đời sống trong Ngài. Điều này đòi hỏi một sự thêu dệt một cơ cấu các mối tương quang huynh đệ được đánh dấu bởi mối tương quan hỗ tương, sự tha thứ và sự trao ban trọn vẹn, theo chiều sâu và chiều rộng của tình yêu Thiên Chúa được trao ban cho con người nơi Đấng Duy Nhất, đã chịu chết và sống lại, để lôi cuốn mọi người đến với Ngài: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13, 34-35). Đây chính là một tin tốt lành đòi hỏi mỗi người bước về phía trước, thực thi lòng thương xót vô hạn, lắng nghe những đau khổ cũng như hy vọng của người khác, kể cả những người ở xa tôi, và bước đi trên con đường đầy đòi hỏi của tình yêu, một tình yêu biết trao ban và tiêu tốn chính mình một cách tự do cho lợi ích của anh chị em chúng ta.

Đức Ki-tô ôm trọn tất cả nhân loại và mong muốn không ai bị hư mất. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Ngài làm điều ấy mà không đàn áp hay cưỡng bức bất cứ ai mở cánh cửa trái tim và tâm hồn ra với Ngài. “Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 26-27). Do đó, mọi hành động cần được nhận ra bởi thái độ phục vụ con người, đặc biệt là những người ở xa nhất và không được biết đến. Phục vụ chính là linh hồn của tình huynh đệ, điều xây dựng hòa bình.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giê-su, xin giúp chúng con hiểu và sống mỗi ngày tình huynh đệ xuất phát từ trái tim Con Mẹ, để chúng con mang bình an đến với mỗi người trên trái đất thân yêu của chúng con.

Từ Vatican, 8 tháng 12 năm 2013

Nguyễn Minh Triệu sj chuyển ngữ

[1] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng 6 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655.
[2] Xem ĐTC Phanxicô, Thông Điệp Lumen fidei (29 tháng 6 2013), 54: AAS 105 (2013), 591-592.
[3] Xem ĐTC Phaolô VI, Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 87: AAS 59 (1967), 299.
[4] Xem ĐTC Gioan Phaolô II, Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 39: AAS 80 (1988), 566-568.
[5] Thông Điệp Populorum progressio (26 tháng 3 năm 1967), 43: AAS 59 (1967), 278-279).
[6] Xem ibid., 44: AAS 59 (1967), 279.
[7] Thông Điệp Sollicitudo rei socialis (30 tháng 12 năm 1987), 38: AAS 80 (1988), 566.
[8] Ibid., 38-39: AAS 80 (1988), 566-567.
[9] Ibid., 40: AAS 80 (1988), 569.
[10] Ibid.
[11] Xem Thông Điệp Caritas in veritate (29 tháng 5 năm 2009), 19: AAS 101 (2009), 654-655.
[12] Summa Theologiae II-II, q. 66, art. 2.
[13] Conc. Ecum. Vat. II, Cost. past. sulla Chiesa nel mondo contemporaneo Gaudium et spes, 69. Cfr Leone XIII, Lett. enc. Rerum novarum (15 maggio 1891), 19: ASS 23 (1890-1891), 651; Giovanni Paolo II, Lett. enc. Sollicitudo rei socialis (30 dicembre 1987), 42: AAS 80 (1988), 573-574; Pontificio Consiglio della Giustizia e della Pace, Compendio della Dottrina sociale della Chiesa, n. 178.
[14] Thông Điệp Redemptor hominis (4 tháng 3 năm 1979), 16: AAS 61 (1979), 290.
[15] Ủy ban Công Lý và Hòa Bình, Tóm lược Giáo Thuyết xã Hội Công Giáo, số 159.
[16] ĐTC Phanxicô, Thử gửi Tổng thống Putin, 4 tháng 9 năm 2013: L’Osservatore Romano, 6 tháng 9 năm 2013, trang 1.
[17] Thông Điệp Pacem in terris (11 tháng 4 năm 1963), 17: AAS 55 (1963), 265.

 

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới

Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới

VATICAN. Sáng ngày 12-12-2013, Sứ điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô nhân ngày hòa bình thế giới lần thứ 47 đã được công bố về đề tài: ”Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường tiến tới hòa bình”.

ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã cùng với Đức Cha Tổng thư ký Mario Toso SDB, giới thiệu Sứ điệp của ĐTC trong cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh.

Văn kiện này được giới báo chí chào mừng như một tổng hợp đạo lý của ĐTC Phanxicô về xã hội, qua đó ngài kêu gọi tái khám phá tình huynh đệ trong gia đình, trong nền kinh tế và trong tương quan của các dân tộc với nhau. Ngài khẳng định rằng ”Nếu không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã hội công chính và một nền hòa bình liên đới và lâu bền”.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng mạnh mẽ kêu gọi những kẻ gieo rắc bạo lực và chết chóc hãy từ bỏ con đường võ khí, đồng thời ngài cũng lên án nạn tham nhũng, nạn mafia hay là tội phạm có tổ chức.

Sứ điệp được phổ biến bằng 11 thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Arập và Nga, Hindi và Tamil bên Ấn Độ, không kể các ngôn ngữ chính ở Tây Phương. Ngoài đoạn nhập đề và kết luận, Sứ điệp còn được chia làm 8 đoạn khác với những tiểu đề: ”Cain, em ngươi ở đâu?” (St 4,9) (1), ”Tất cả các con là anh em với nhau” (Mt 23,8) (2); Tình huynh đệ, nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình (3); Tình huynh đệ, tiền đề để chiến thắng nghèo đói (5); Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế (6); Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh (7); Nạn tham ô và tội ác có tổ chức cản trở Tình huynh đệ (8) và sau cùng: Tình huynh đệ giúp bảo tồn và vun trồng thiên nhiên (9).

Trình bày của ĐHY Turkson

ĐHY Turkson nhận xét rằng ”Trong sứ điệp này, ĐTC tự hỏi tại sao trong thế giới ngày nay có sự thiếu thốn trầm trọng tình huynh đệ như vậy? Tại sao lòng ích kỷ làm cho chúng ta trở nên mù quáng trước tình huynh đệ không thể thiếu được như thế? Phải chăng sự sợ hãi và cạnh tranh đã gây nhiễm độc cho phẩm giá khôn sánh của chúng ta là con cái Thiên Chúa, làm ô nhiễm quan hệ giữa anh chị em với nhau?

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và hòa bình nêu bật một số điểm trong sứ điệp của ĐTC Phanxicô. Ngài suy tư về người nghèo, về hòa bình, về thiên nhiên dưới một tựa đề bao quát và đầy ý nghĩa, đó là ”tình huynh đệ”. Ngài cũng mời gọi chúng ta suy tư, cầu nguyện và hành động theo xác tín và niềm tin. Những điều xúc phạm đến tình huynh đệ tạo thành một danh sách thật dài, danh sách đau buồn và ô nhục. Sau mỗi tội ác sát nhân của con người, Thiên Chúa kêu lên: ”Em ngươi ở đâu?”. Con tim ích kỷ và tội lỗi đáp lại: ”Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu!”. Trong khi đó con tim huynh đệ trả lời với lòng biết ơn: 'Cám ơn Cha, vì đã làm cho con trở thành người canh giữ các anh chị em con! Cám ơn Cha vì đã làm cho họ trở thành những người canh giữ con!”.

Đoạn thứ 5 và thứ 6 của Sứ điệp được ĐTC dành để nói về nền kinh tế, và trình bày một số phương dược thực sự để chữa trị nghèo đói. Ngài nhận xét rằng những chênh lệch kinh tế chính là kẻ thù của hòa bình. ”Những cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau phải làm cho những người hữu trách suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế”.

Sự cộng tác trong việc theo đuổi công ích phải thay thế sự cạnh tranh tai hại làm cho tất cả mọi người đều lâm vào tình trạng rủi ro nguy hiểm.

Các quan hệ huynh đệ cũng phải được biểu lộ trong các chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân được hưởng an sinh và sung túc; các quan hệ ấy cũng phải diễn tả trong một lối sống điều độ hơn, giới hạn vào những điều thiết yếu; và trên bình diện rộng lớn hơn, cần ”mau lẹ suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế của chúng ta”.

Trong đoạn thứ 7 và thứ 8 của Sứ điệp Hòa bình, ĐTC trình bày những ý tưởng nhắm giúp giảm bớt và loại trừ chiến tranh đủ mọi loại, cũng như loại trừ nạn tham ô và tội các có tổ chức. Tình huynh đệ chiến thắng thái độ dửng dưng lãnh đạm, dửng dưng đứng trước bao nhiêu chiến tranh. Tình huynh đệ chiến thắng xu hướng coi kẻ thù không phải là người, coi họ là ma quỉ. Tình huynh đệ thúc đẩy làm việc cam go cần thiết để đạt tới mục tiêu không làm cho võ khí lan tràn, giải giáp, kể cả việc giải trừ các võ khí hạt nhân, võ khí hóa học, qui ước và các võ khí gọi là 'thông minh' và võ khí nhẹ.

ĐTC viết: ”Tôi lập lại lời kêu gọi của các vị tiền nhiệm về việc không làm lan tràn võ khí và giải giáp từ phía tất cả mọi người, bắt đầu là võ khí hạt nhân và hóa học.. Bao lâu vẫn còn số lượng võ khí lớn như thế được lưu hành như ngày nay, thì người ta sẽ luôn tìm ra những cớ mới để khởi sự chiến tranh”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Tôi muốn mạnh mẽ kêu gọi những người đang dùng võ khí gieo rắc bạo lực và chết chóc: họ hãy tái khám phá người anh em nơi người mà ngày nay họ chỉ coi là một kẻ thù phải triệt hạ, và hãy dừng tay lại.. Hãy từ bỏ con đường võ khí, và đi gặp tha nhân trong cuộc đối thoại, tha thứ và hòa giải, để xây dựng công lý, sự tín nhiệm và hy vọng quanh chúng ta”.

Trong các cuộc xung đột xã hội, tình huynh đệ chống lại nạn tham nhũng, mafia, buôn bán ma túy, nạn nô lệ, buôn người, mại dâm và những hình thức gọi là 'chiến tranh kinh tế và tài chánh” hủy hoại sự sống, các gia đình, và các hoạt động doanh nghiệp”.

Trong đoạn số 9 của Sứ điệp, ĐTC nói đến một nhu cầu cấp thiết là phải bảo tồn và vun trồng thiên nhiên như thể đó là căn nhà trần thế của chúng ta và là nguồn mạch mọi thiện ích vật chất, bây giờ và cho các thế hệ tương lai. Trong tinh thần huynh đệ, chúng ta phải họ cách xử lý môi trường thiên nhiên như một món quà của Đấng Tạo Hóa, một món quà cần được hưởng chung, một cách nhưng không và công bằng. Canh nông sản xuất trong tinh thần trách nhiệm, và các xí nghiệp kiểm soát sự phân phối đúng đắn, và tránh phí phạm, đó là những cách biểu lộ tình huynh đệ cần thiết trong thế giới ngày nay.

Trình bày của Đức Cha Mario Toso, SDB

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo cũng có Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Ngài nêu nhận xét về những đoạn đầu của Sứ điệp, qua đó ĐTC khẳng định rằng tình huynh đệ nói lên liên hệ tính của con người, và hướng tới sự viên mãn của con người. Xét vì tình huynh đệ có tính chất nội tại nơi con người, ảnh hưởng lớn tới cuộc sống và hoạt động của con người, nên nó là điều tối quan trọng để kiến tạo một xã hội công chính và an bình. Nếu không có tình huynh đệ, thì thật là khó lòng chấp nhận và hòa hợp những khác biệt hợp pháp, sống sự tha thứ và hòa giải, và chắc chắn là rất khó bài trừ nạn tham những lan tràn, sự trốn thuế vì ích kỷ, sự loại trừ và bất công trong các cơ cấu xã hội, cũng vậy rất khó bài trừ sự ”hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng” và phá đổ thần tượng tiền bạc, chế độ độc tài của một nền kinh tế vô nhân đạo và không có mục tiêu thực sự là nhân bản. Đó cũng là những tai ương và tệ nạn mà ĐTC Phanxicô đã tố giác trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm”.

Đức Cha Toso cũng nhận xét rằng trong sứ điệp Hòa bình, ĐTC chỉ trình bày một số con đường có thể dẫn đến hòa bình, xuất phát từ sự đón nhận và liên kết nguyên tắc huynh đệ. Những con đường này đi qua các lãnh vực quan trọng như nạn nghèo đói, kinh tế, nạn tham nhũng, chiến tranh, và thiên nhiên. Trong các lãnh vực ấy, ĐTC chỉ đường, nêu lên phương pháp cần theo, và có thể áp dụng chúng cho một số vấn đề khác, nhờ đào sâu và nghiên cứu và thí nghiệm. ĐTC kêu gọi dấn thân mạnh mẽ về phương diện văn hóa, sư phạm và quan điểm, cần có sự động viên của cộng đoàn, khởi hànhtừ sự loan báo tin mừng, hoán cải và giáo dục ở mọi cấp độ, từ tiểu học cho đến đại học.

Trong Sứ điệp, ĐTC kêu gọi cảnh giác đối với thứ tình huynh đệ không tham chiếu siêu việt, thứ huynh đệ này sẽ không tồn tại được. Con người và xã hội nào loại bỏ Thiên Chúa và không nhìn nhận Ngài đang sống giữa họ, thì khó lòng nhìn nhận nhau và sống với nhau như con của cùng một Cha. Tiếp đến, ĐGH Phanxicô nêu rõ rằng đối với mỗi ngừơi và mỗi xã hội, việc đạt tới kinh nghiệm về tình phụ tử của Thiên Chúa, và từ đó đạt tới tình huynh đệ, sẽ trở nên dễ dàng hơn nhờ đón nhận Chúa Giêsu Kitô là Adong mới, được hòa giải với Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc mỗi người với mọi chiều kích của họ, kể cả lý trí được tăng cường hơn. Nhờ sự nhập thể, sự chết và sống lại, Chúa Giêsu gieo vãi trong lịch sử và nơi tâm hồn con người, một tình người huynh đệ hơn, vì hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa và nhờ đó có khả năng nhìn nhận và sống tình huynh đệ với những người đồng lại, và sống với cả thiên nhiên trên một bình diện khác.

Đức Cha Toso nêu rõ một nhận xét của ĐTC trong sứ điệp, đó là trong thế giới hoàn cầu hóa của chúng ta, có sự gia tăng giàu có và tài nguyên, nhưng đồng thời cũng có sự gia tăng sự chênh lệch và nghèo đói tương đối. Gia đình nhân loại bị chia thành những dân tộc và các nhóm, trong đó một thiểu số ngày càng giàu hơn, trong khi đa số khác ngày càng bị nguy cơ gạt ra ngoài lề. Tình trạng di cư gia tăng mạnh mẽ, kèm theo những hiện tượng đau buồn như nạn buôn người, một số kẻ lợi dụng tình trạng tuyệt vọng của những người khác để làm giàu không chút băn khoăn do dự, và nhiều khi gây ra cái chết cho các nạn nhân.

Ngoài những cuộc chiến bằng võ khí, còn có những cuộc chiến tranh khác ít tỏ tường hơn, nhưng không kém phần tàn ác: nó diễn ra trong lãnh vực kinh tế, tài chánh, bằng những phương thế tàn hạn không kém đối với con người, gia đình, xí nghiệp. Chế độ thực dân xưa kia nay được thay thế bằng những chế độ mới, buộc các nước khác phải tùng phục về kinh tế và chính trị, với những cuộc khai thác bóc lột đất đai và khoáng sản, từ phía các quốc gia hoặc các xí nghiệp nước ngoài, mà dân chúng địa phương không được hưởng các tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ; tệ hơn nữa, đất đai và môi trường sống của họ bị ô nhiễm. Tất cả sự chênh lệch, nghèo đói và bất công đó không những cho thấy sự thiếu nền văn hóa liên đới, nhưng còn là dấu hiệu chứng tỏ sự thiếu tình huynh đệ, tạo nên tình trạng nghèo nàn về quan hệ. Vì thế, để có thể sống trong hòa hợp và an bình, nhân loại chúng ta cần có thêm tình huynh đệ được cảm nghiệm, tôn trọng gia đình là tế bào của xã hội, vốn là một nguồn mạch vô tận (1).

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

ĐẤNG PHẢI ĐẾN, ĐÃ ĐẾN

ĐẤNG PHẢI ĐẾN, ĐÃ ĐẾN

Thánh Gioan Tiền Hô không thể không lên tiếng cảnh cáo cách sống vô luân của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê chung sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphê, anh ông ta. Và kết quả là ông bị giam trong tù.

Rõ ràng là Thánh Gioan không chỉ kêu gọi mọi người hãy sám hối, hãy dọn đường cho Chúa đến, mà còn chỉ rõ ra việc cần làm ngay, cần khắc phục chấn chỉnh ngay, mà không hề ngán sợ vòng ngục tù lao lý.

Việc Thánh Gioan ở tù, không phải là thất bại của vị ngôn sứ, nhưng là việc phải đến cho người dọn đường cho Chân Lý của Thiên Chúa. Thiên Chúa tôi luyện niềm tin và hy vọng của ngôn sứ của Ngài trong ngục tù trần gian.

Ngục tù trần gian có thể làm cho lòng người ta hoang mang nao núng, nhưng Thánh Gioan đã tìm được phương thế vượt qua điều ấy bằng cách sai các môn đệ mình gặp trực tiếp Chúa Giêsu. “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 3-6)

Nghe thuật lại thế nầy, thì chắc chắn Thánh Gioan sẽ liên hệ ngay tới lời tiên báo của Tiên Tri Is 35,1-6a, 10, và như thế, niềm tin của Ông và các môn đệ được Thánh Kinh soi dẫn và củng cố: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35, 4-6)

Đấng Cứu Thế, “Đấng Phải Đến, Đã Đến” là ông Giêsu quá tầm thường như thế, là một con người thật, sống giữa con người và sẻ chia những nỗi bi thương nhất của con người. Ngài đã sẻ chia cách cụ thể là đến thăm dân người, và thi thố quyền năng và tình thương của Thiên Chúa qua các phép lạ. Ở nơi Ngài, chúng ta gặp được bình an, niềm vui, và hạnh phúc mà con người trần gian không ban tặng được. Đó phải là niềm tin của mỗi chúng ta trong những ngày Mừng Đón Chúa Giáng Sinh.

Bởi vậy, Chúa nhật 3 mùa vọng là Chúa Nhật Hồng, một màu hồng của niềm vui Giao Duyên Trời với Đất, niềm vui của Đôi Tân Hôn mà chàng rể là Chúa Giêsu Kitô và hiền thê của Ngài là Giáo Hội, là chúng ta, là mỗi người. Một màu hồng hạnh phúc.

Niềm hạnh phúc là được sống với Chúa Giêsu “Đấng Phải Đến, Đã Đến”. Và cụ thể niềm hạnh phúc ấy, là được sống trong Giáo Hội của Ngài, nơi đây, không chỉ là dung mạo, là khuôn mặt là hình ảnh của Chúa Giêsu mà còn là chính Chúa Giêsu đang tác động trong và qua Giáo Hội.

Bạn và tôi đều có thể đã có hơn một lần cảm nghiệm tuyệt vời về nỗi mong đợi “Đấng Cứu Thế” đến trong Giáo Hội, nơi các Bí tích, và trong cuộc đời

– Hơn một lần bạn và tôi cùng với cả bà con trong Giáo Xứ ước mong và khẩn xin có một Linh Mục đến để dâng Thánh Lễ, và ban các bí tích. Nhất là ở các Giáo xứ vùng sâu, vùng xa thì nỗi khát mong càng mãnh liệt hơn. Một lần như thế, cho chúng ta mỗi cảm thông sâu sắc với những nơi, đến hôm nay, vẫn còn một Mùa Vọng dài đôi ba chục năm, năm bảy chục năm mà chưa thấy bóng dáng “Đấng phải đến, đã đến”.

Hơn một lần, cảm xúc sung sướng trào dâng khi được đón Linh Mục Quản xứ Tiên khởi như đón chính “Đấng phải đến, đã đến”. Có người mừng đến rơi lệ vì cảm nghiệm được ơn Chúa đã thương đáp lại nỗi khát mong của dân Ngài. Và từ cảm nghiệm ấy, chúng ta sống được niềm vui của bao nhiêu giáo xứ, bao nhiêu con người thỏa niềm khao khát

– Gần hơn, thường xuyên hơn, chúng ta đã hồi hộp đợi chờ gặp được Đấng Cứu Thế nơi tòa Giải tội, để xưng thú tội lỗi, để quyết tâm sám hối, để được thứ tha và nhất là để tình yêu nên trọn vẹn.

– Và gần hơn nữa, lòng chúng ta thấy đói, thấy khát của ăn của uống Thường Sinh là chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể.

– Hình ảnh “Đấng Phải Đến, Đã Đến” còn là hình ảnh của những con người đang đứng ngay trước cửa nhà mình, ngay trong cuộc sống thường ngày, nơi những người ta gặp, và nhất là nơi những người nghe và thực hiện công việc của Đấng Cứu Thế là yêu thương nhân loại. Cho dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân và kể cả những người bần cùng tội lỗi bệnh tật yếu đuối nhất trong nhân loại, khi đã đến với mỗi chúng ta, thì thiết nghĩ việc tiếp đón của chúng ta cũng phải đàng hoàng như tiếp đón “Đấng phải đến, đã đến”.

Một người bạn làm gương cho tôi việc nầy, là anh ta chọn cho mình câu “Đấng phải đến, đã đến” làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Và điều đã xảy ra là anh ta luôn sẵn lòng lịch sự, yêu thương và sẻ chia với hết mọi người. Anh ta có một cuộc sống bình an, hạnh phúc, vì anh ta không những tiếp đón “đấng phải đến đã đến” mà còn sống tinh thần của Đấng Cứu Thế là đem lại niềm vui cho mọi người.

Gần đây, trong Giáo Hội và ngay tại Giáo Hội Việt nam, lại trổ ra những tâm thức nghi hoặc, hoang mang, bất ổn, vẫn đặt câu hỏi với Giáo Hội rằng “Ông có phải đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi đấng khác”. Xảy ra điều ấy, vì có tư tưởng nghi hoặc rằng người này, người kia, không phải “Đấng Nhân Danh Chúa Mà Đến”, nhưng lại là nhân danh mình hoặc nhân danh nhà nước thế gian mà đến.

Đáng tiếc thay, vì thiếu cảnh giác hoặc vì chủ quan, đã tạo cơ hội cho những sự hỗn độn của trần gian len lõi vào bên trong nội thất của Giáo Hội để làm mất đi sự bình an hiệp nhất và cả sự thánh thiện cần có. Vì thế, thay vì “Đấng phải đến đã đến” đem niềm vui, niềm hy vọng cho dân Chúa thì “người đã đến” đem lại cho dân Chúa bao nỗi sầu thương thất vọng, thay vì giải thoát dân Chúa khỏi những bức bách thì lại đặt vào cổ dân đen những ách nặng nề.

Trong giai đoạn hỗn độn do những kịch bản của ma quỷ, làm chúng ta bán tín bán nghi về sự chân chính của sứ vụ mỗi người, tạo nên những thất vọng và mất kiên nhẫn, Thánh Giacôbê đã kịp thời gửi thông điệp đến chúng ta. “Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa” (Jac 5, 9-10)

Lời Chúa chúa nhật thứ ba mùa vọng mang đến cho chúng ta niềm vui nhưng cũng nhắc nhở cho mỗi chúng ta phải trở thành một niềm vui cho người khác.

Niềm vui ấy là làm cho “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Và cụ thể hơn trong toàn cảnh Việt Nam, niềm vui ấy là làm cho người xa rời nhà thờ trở về với Hội Thánh Chúa, người nghèo khổ bất hạnh có được niềm an ủi, được thăm viếng; người bệnh tật được giúp đỡ, người bị áp bức được đồng thanh tiếp cứu, công lý, sự thật được tôn trọng và nhất là nhân phẩm con cái của Thiên Chúa được bảo vệ đúng mức, không thể để cho thế lực gian tà chà đạp.

Lạy Chúa, chúng con được vui mừng tiếp đón Đấng Cứu Thế. Xin cho cuộc sống chúng con mang lại niềm vui cho mọi người. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

VỞ KỊCH CÒN DANG DỞ

VỞ KỊCH CÒN DANG DỞ

Chủ đề: Thánh Gioan tiền hô là sứ giả, còn Chúa Giêsu là Ðấng Thiên Sai (Mêsia). Chúng ta phải hoàn tất công việc của hai Ðấng.

Nathaniel hawthorne là một văn sĩ người Mỹ, vào năm 1864 ông mất đi mà trên bàn viết vẫn còn bản phác thảo của một vở kịch mà không may ông chưa hoàn tất được. Vở kịch này tập trung vào một nhân vật chưa hề xuất hiện trên sân khấu. Mọi người đều nói, đều mơ, đều chờ đợi nhân vật này đến nhưng vị ấy chẳng hề đến. Tất cả các nhân vật phụ đều đồng loạt mô tả nhân vật chính ấy. Họ kể cho mọi người nhân vật chính ấy sẽ như thế nào, sẽ làm những gì. Tuy nhiên nhân vật chính ấy đã chẳng xuất hiện.

Toàn bộ Cựu ước cũng giống như vở kịch của Nathaniel Hawthorne bỏi vì Cựu ước chấm dứt mà không có đoạn kết.

Trên dòng sông Giôđan có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ, đây là chỗ băng qua sống thuận tiện cho các đoàn tuần hành có xe ngựa kéo, các thương buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Ðây cũng là chỗ đại chúng thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại chỗ này, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo da thú giống như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc: “Ông này là ai vậy? Ông ta có phải là Ðấng Mesia được Chúa hứa không? Hay ông là vị sứ giả dọn đừơng cho Ðấng Mesia?”

Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu sẽ trả lời cho những câu hỏi này.

Ngài nói với dân chúng: “Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: “Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước con để mở đường cho con”. Chúa Giêsu cũng trả lời câu hỏi khác mà đám môn đệ của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Ngài: “Có phải Ngài là Ðấng mà Gioan bảo sẽ phải đến, hay chúng tôi còn phải mong chờ Ðấng khác?” Ðể trả lời câu hỏi này, Chúa Giêsu liền trưng ra những lời của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Khi nói về Ðấng Mesia, Isaia bảo rằng những dấu hiệu sau đây sẽ là bằng cứ xác nhận lai lịch vị ấy: “Người mù sẽ thấy được và người điếc sẽ nghe được. Kẻ què sẽ nhảy múa và người câm sẽ reo vui”.

Chủ ý của Giêsu thực là rõ ràng. Ngài trình bày ra những phép lạ Ngài đã làm – cho người mù thấy, kẻ điếc nghe, người què bước, kẻ câm nói được. Ðây là những dấu hịêu mà các lời tiên tri báo trước rằng sẽ phải ứng nghiệm khi Ðấng Mesia đến.

Như vậy, bài Phúc Âm hôm nay muốn nói gì cho anh chị em cũng như cho tôi? Xin thưa đó là sứ điệp sau: Chúa Giêsu là Ðấng Mesia đã được các vị ngôn sứ tiên báo và Ngài đã thiết lập vương quốc Thiên Chúa trên trần gian đúng như các tiên tri báo trước. Tuy nhiên Chúa Giêsu uỷ thác cho chúng ta nhiệm vụ hoàn tất vương quốc ấy. Ngài giao phó cho chúng ta việc xây dựng nước Chúa trên trần gian này. Vào lúc thế mạt, Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét chúng ta về công việc này.

Người Roma xưa có thời một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ January (tháng giêng). Vị thần này được các hoạ sĩ mô tả bằng hình đầu người có hai mặt: một mặt nhìn về đằng sau, mặt kia nhìn về đằng trước. Mùa vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn về hai phía: một đàng nhìn lại lần giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu trong lịch sử, đằng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.

Anh chị em cũng như tôi đang đứng ở giữa hai biến cố lịch sử trọng đại này. Phận vụ chúng ta không phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngoái cổ về đằng sau và ngóng trông về đằng trước, mà phải xăn tay áo lên dấn thân vào công việc Chúa Giêsu đã trao phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.

Nói một cách cụ thể, điều này có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta phải xây dựng nước Chúa trên trần gian, phải đem yêu thương lắp đầy ganh ghét, đem thứ tha che phủ hận thù, đem chân lý thay cho giả trá, đem sự cảm thông Kitô giáo thay cho sự vô cảm lạnh lùng. Tóm lại, chúng ta phải xây dựng một kiểu thế giới mà chính Chúa Giêsu sẽ dụng xây nếu Ngài ở vào vị trí chúng ta.

Ðó chính là sứ điệp trong các bài đọc hôm nay. Sứ điệp ấy minh chứng Chúa Giêsu là Ðấng Mesia, Ngài sẽ trở lại vào chung cục lịch sử và sẽ phán xét chúng ta về việc chúng ta đã xây dựng nước Chúa trên trần gian này như thế nào.

Vậy chúng ta hãy kết thúc với lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, là Ðấng Mêsia cũng là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin Chúa đã đến trần gian đầy ganh ghét này để giúp chúng con xây dựng nó thành thế giới của tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Chúa đã đến với chúng con để giúp chúng con cũng biết đến kẻ khác.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Chúa hiểu chúng con, ngay cả khi chúng con không hiểu được chính mình.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Chúa luôn luôn ở với chúng con cho dù chúng con không luôn luôn sống với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúng con tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng con, bởi vì chính Chúa đã đối xử với chúng con như anh chị em của Chúa.

Lm. Mark Link, S.J.

ĐI ĐẾN CÙNG SỨ VỤ

ĐI ĐẾN CÙNG SỨ VỤ

Ngày 5/12, cựu tổng thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong trào xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi, giúp cho người da đen được hưởng các quyền bình đẳng như thiểu số da trắng.

Bước ra ánh sáng sau 27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải một dân tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu rằng hòa giải không thể thiếu sự thật: nếu tội ác của chế độ Apartheid không được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam Phi sẽ sống trong một nền hòa bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố nhỏ là bạo lực sẽ lại bùng phát.

Ông biết rằng, nếu đi tìm công lý bằng một cuộc tắm máu khác, chắc chắn đất nước sẽ bị đẩy vào vòng nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung của mình để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một mặt ông đi gặp những nhà lãnh đạo của người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm quyền trong chế độ apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Mặt khác, ông tích cực thuyết phục quần chúng giận dữ phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.

Ông nói với những thành phần cực đoan muốn trả nợ máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm 1993: “Tôi là lãnh đạo của các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi sẽ lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh đạo, tôi phải lên tiếng rằng: điều chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó tự động giải tán.

Để xử lý vấn đề tội ác của chế độ Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà chưa từng một lãnh đạo nào trong hoàn cảnh của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn xét xử tội ác của chế độ như thông thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và Hòa giải” với mục đích đúng như tên gọi của nó: làm lành đi những vết thương quá khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà họ đã chứng kiến hoặc trải qua dưới chế độ apartheid, và những kẻ cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng nếu thừa nhận những tội ác mà họ gây ra.

Với tài năng của một chính trị gia, và hơn tất cả là một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã tạo ra sự khởi đầu cho điều kỳ diệu ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một “đất nước cầu vồng,” nơi tất cả màu da đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành quốc gia giàu nhất ở lục địa Đen, có mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới” BRICS, và xây dựng lên một xã hội tự do và hiện đại (x. Khắc Giang, tuanvietnam.net).

Ông Mandela đã trải qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu. Vị Tổng thống này đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.

Lên tiếng cho Sự thật và lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý bị nhốt vào tù ngục. Xã hội Do Thái thời Gioan có rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân, cướp vợ của em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình. Người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực và ham mê sắc dục, gian dìu với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính. Hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói. Chỉ có Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.

Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục, ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua Akháp và vua Giôakim, và cũng có thể dưới triều đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật cương nghị với lối sống không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý nên Gioan là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).

Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe.

Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.

Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).

Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ítraen cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?

Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù, Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.

Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn: ″Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).

Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Người là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.

Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo : “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.

Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.

Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

DUNG MẠO ĐỨC KITÔ

DUNG MẠO ĐỨC KITÔ

Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.

Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.

Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:

1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo

Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.

2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù

Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.

Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.

Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.

Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.

Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.

Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.

Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đức Thánh Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?

2) Bạn muốn một Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?

3) Bạn nghĩ gì về những lầm lỗi trong Giáo Hội?

4) Bạn phải làm gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng ngày?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Vững tâm

Vững tâm

Vào một ngày đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen: “Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này, ông đang chờ đợi ai vậy?” Ông nói: “Cháu còn quá nhỏ làm sao hiểu được điều ông mong đợi.” “Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ hơn.” Nghe cô bé nói thế, ông liền thổ lộ tâm tình: “Ông đang chờ đợi Chúa đến.” Cô bé kinh ngạc, ông già giải thích: “Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à.” Bấy giờ cô bé lên tiếng: “Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông dấu hiệu rồi: Mỗi khi ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi… Chúa cho ông dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện nơi đây.”

Thiên Chúa vô hình hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài đã chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được hé mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân chúng. Tiên tri Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan.” (Is 35,1). Hình ảnh cảnh hoang địa trơ trọi, khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia hy vọng của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm khổ ải qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.” (Is 35,4).

Trong bất cứ một dự kiến nào muốn đạt kết quả tốt, chúng ta đều phải kiên nhẫn đợi chờ mọi sự diễn tiến. Vấn đề niềm tin sống đạo cũng thế, chúng ta không thể cắt bớt thời gian. Sự gì đến ắt sẽ đến. Thánh Giacôbê nhắc nhở các tín hữu: “Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu.” (Gc 5,7). Hình ảnh của bác nông phu nơi ruộng rãy cày bừa và trồng trọt là hình ảnh rất đẹp và chính xác. Chính xác cả về phẩm lẫn lượng, cả về thời gian và không gian. Kiên nhẫn đợi chờ là một đức tính tốt trong đời sống đạo. Mọi sinh họat của đời sống Giáo Hội trên trần thế cần phải được thử thách, tôi luyện để phát triển và trưởng thành. Thời gian là của Chúa. Mầu nhiệm ơn cứu độ được lồng vào đời sống của con người theo sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể đi những bước nhảy vọt trong cuộc sống đạo nhưng phải kiên trì phấn đấu từng bước.

Sự kiên tâm sống đạo đòi hỏi mỗi tín hữu phải cố gắng không ngừng. Mời gọi tu tâm luyện tính và tập tành các nhân đức trong đời sống hằng ngày. Đời sống đạo, nếu chúng ta không gieo, lấy gì mà gặt. Trong Giáo Hội có biết bao nhiêu dòng tu, tu hội và hội đoàn, các tu sĩ nam nữ miệt mài thanh luyện đời sống trong cầu nguyện và tu thân để nên trọn lành. Là người tín hữu cũng thế, chúng ta cần trải nghiệm những thử thách, phấn đấu, kiên trì sống đạo và hành đạo. Không hy sinh khổ luyện, làm sao có thể vững bước trên đường nhân đức. Chúng ta đừng nhẹ dạ để rơi vào những hình thức kéo lôi phù phiếm và cảm xúc nhất thời. Muốn được lãnh nhận ân sủng của Chúa, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thanh sạch, sống đời ngay thẳng và thực hành tin yêu. Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào những nghi thức bề ngoài thì không thể sinh hiệu quả biến đổi nội tâm. Trong hiện tại có nhiều khuynh hướng hành đạo giống như kiểu ‘mì ăn liền’. Họ nghĩ rằng cứ thực hành đủ các thủ tục nghi thức là đương nhiên sẽ nhận ân sủng nhãn tiền. Sự kiên trì tin đạo, sống đạo và hành đạo trưởng thành đòi hỏi niềm tin và cam kết nhiệt thành. Chúng ta cần vun xới và củng cố lòng tin qua mọi biến cố cuộc đời.

Ông Gioan Tẩy Giả đang bị giam giữ cũng nóng lòng muốn biết Chúa Giêsu có chính thật là Đấng Cứu Thế hay không. Ông sai môn đệ đến thưa Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,2). Ông Gioan muốn các môn đệ của mình nhận biết Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa không chỉ cho riêng ông Gioan, nhưng cho các môn đệ của ông. Các ông đã an tâm nhận diện ra sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ qua các dấu chỉ: Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” (Mt 11,4-5). Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời mà các tiên tri đã loan báo về Ngài.

Các dấu hiệu từ trời cao với quyền năng của Chúa đã đem lại hiệu qủa thực sự biến đổi môi trường và chữa lành toàn diện con người. Suốt dọc lịch sử nhân loại, từ tạo thiên lập địa, ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có vị nào có thể trực tiếp thực hiện các phép lạ từ chính sức mạnh nội tâm của mình. Biết rằng đôi khi Thiên Chúa cũng trao ban các đặc sủng cho một số vị tổ phụ và các thánh như Thánh Gioan Vianney, Piô Năm Dấu quê ở Pietrelcina, Antôn Pađua, Vinh Sơn Ferrier…, các ngài có thể thực hiện một số việc lạ lùng trong giới hạn. Các thánh sống là những người có đời sống kết hợp sâu xa, chuyên tâm ăn chay, cầu nguyện và chìm đắm trong ân sủng của Chúa. Những trường hợp có sự lạ ngoại thường này cũng rất hiếm xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ của Tin Mừng cứu độ. Tuy nhiên, qua mọi thời, đều có những người tự thần thánh hoá chính mình để chiêu hồn người khác. Họ cũng không khác gì các tiên tri giả và những nhà làm ảo thuật đại tài dùng kỹ xảo để dễ dàng qua mắt mọi người. Chúng ta phải luôn cảnh giác và tỉnh thức học hỏi kỹ lưỡng những hình thức mị dân này. Họ không phải là Chúa có uy quyền biến đổi chữa lành thân xác và linh hồn, mà chỉ có thể tạo gây cảm giác thân, sinh, lý và xúc động tâm linh nhất thời chóng qua.

Chúa Giêsu xác nhận Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô dọn đường: “Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: ‘Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con.’” (Mt 11,10). Gioan được vinh dự giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Biết bao người đã nghe Chúa giảng, gặp gỡ và nhận lãnh các dấu lạ nhưng có mấy người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong đám đông theo Chúa, có người chỉ tò mò nhìn xem cho biết, có người chỉ muốn được nhận lãnh ân huệ và có người ùa theo đám đông vì hiếu kỳ. Đâu có mấy người thực sự muốn đi theo Chúa để thực sự đổi đời và canh tân cuộc sống. Xưa cũng như nay, tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì dân Dothái xưa. Chúng ta nghe, đọc, viết và suy gẫm thật nhiều lời của Chúa, các giáo huấn của Giáo Hội và chứng kiến biết bao sự lạ lùng trong cuộc sống nhưng mấy ai tin theo Chúa cho trọn.

Lạy Chúa, đời sống đạo của chúng con hầu như vẫn cứ dậm chân tại chỗ. Tinh thần thì nguội lạnh và mệt mỏi, còn thân xác nặng nề và yếu đuối kéo lôi chúng con lùi bước. Chúng con chỉ tìm kiếm sự hơn thua ở đời trọc này mà quên đi sứ mệnh cao cả là mong tìm ơn cứu độ. Thánh Giacôbê nhắc nhở: “Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa.” (Gc 5,9).

Giuse Trần Việt Hùng

Có phải Đức Giáo Hoàng Phanxicô rời Vatican vào ban đêm để giúp đở cho người vô gia cư ?

Có phải Đức Giáo Hoàng Phanxicô rời Vatican vào ban đêm để giúp đở cho người vô gia cư ?

Before Pope, Jorge Mario Bergoglio on streetCourtesy photo – ĐTC khi còn là ĐHY tại Á Căn Đình thường đi thăm viếng người nghèo

Một cuộc phỏng vấn gần đây với Đức Tổng Giám Mục Konrad Krajewski , " Công tác xã hội của Đức Thánh Cha, " nâng lên suy đoán rằng Đức Giáo Hoàng tham gia các chuyến đi đêm của mình vào Rome để bố thí cho người nghèo, những tin đồn này có thể là sự thật.

Một nguồn tin tại Rome nói với tờ The Huffington Post rằng " Các vệ binh Thụy Sĩ xác nhận rằng Đức Giáo Hoàng đã mạo hiểm ra ngoài vào ban đêm, ăn mặc như một linh mục bình thường, để tiếp xúc với những người đàn ông và đàn bà vô gia cư. " và đồng thời phân phát tiền bạc cho những người nghèo.

Krajewski trước đó cho biết : "Khi tôi nói với ĐTC :" Tôi đang đi ra ngoài vào thành phố vào buổi tối này , sẽ có hiểm nguy liên lục khi Ông ta sẽ đến với tôi ", và Ngài chỉ mỉm cười và tránh né câu hỏi khi phóng viên hỏi anh thẳng thừng cho dù Đức Giáo Hoàng cùng đi với ĐTGM đi vào thành phố.

Pope Francis was Cardinal at Agentina on the public bus

                                                                                        Courtesy photo from Reuters

ĐTC không phải duy là Đức Giáo Hoàng lang thang về đêm . Có những câu chuyện của Đức Giáo Hoàng Gioan XIII lén ra để thưởng thức vẻ đẹp của Rome vào buổi tối , và các báo cáo nói của Đức Giáo Hoàng Piô XII mặc quần áo như một tu sĩ Phanxicô trong thế chiến thứ hai để giúp dân Do Thái của Roma đến nơi an toàn . Gần đây, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đi ra không báo trước để thăm một triển lãm nghệ thuật .

Khi Đức Giáo Hoàng Francis là Hồng Y Jorge Bergoglio , ông thường lẻn ra ngoài vào ban đêm để phân phát bánh mì cho người vô gia cư, ngồi chung với họ trên đường phố cùng ăn uống với họ để cho thấy rằng họ cũng được thương yêu.

Và chúng tôi yêu mến Ngài đang làm việc đó trong lúc này.

 

Thái Trọng