ĐỒNG TÂM

ĐỒNG TÂM

Mẹ Têrêxa kể câu truyện xảy ra tại Melbourne, Úc Đại Lợi: Tôi tới thăm viếng một cụ già cô đơn vì chẳng có ai để tâm ngó dòm. Tôi thấy ông cụ cư ngụ trong một căn phòng tối tăm và bẩn thỉu. Sàn nhà phủ đầy cát bụi và rác rưởi. Màng nhện giăng khắp nơi. Không có chút ánh sáng trong phòng. Cụ già sống trong đêm tối sau bức màn. Tình trạng bên ngoài không khác gì tâm trạng của tâm hồn. Cụ sống trong chán chường, thất vọng và buồn tủi đơn côi. Cụ không có bà con bạn bè trong cuộc sống. Tôi hỏi: Tôi có thể giúp gì cho ông? Tôi bắt đầu lau chùi và sắp đặt ngăn nắp các đồ đặc trong phòng. Lúc đầu, cụ nói: Thôi cứ để vậy, mọi sự tốt mà! Nhưng tôi cố tình thuyết phục, và cuối cùng cụ đã để tôi dọn dẹp.

Tôi lau chùi cẩn thận mọi chỗ và tôi phát hiện ra một cái đèn dầu. Đèn hết sạch dầu và bụi phủ dày. Tôi có thể nhìn thấy chiếc đèn còn tốt. Tôi đã rửa ráy, đánh sáng và châm dầu. Tôi hỏi: Sao cụ không đốt đèn? Cụ trả lời: Tại sao tôi phải đốt đèn chứ? Chính tôi không cần đến nó. Tôi sống quen với màn đêm rồi. Chẳng có ai đến gặp tôi cả. – Vậy cụ có hứa với tôi là sẽ đốt đèn sáng khi có một trong các Dì của tôi đến thăm cụ không? Cụ trả lời: Tôi hứa. Nếu tôi nghe có tiếng người đi vào nhà, tôi sẽ thắp đèn sáng. Một nữ tử Dòng Thừa sai Bác ái đã bắt đầu đến viếng thăm ông. Cụ đã bắt đầu có một cuộc sống mới. Cuộc sống cụ được soi rọi bởi ánh sáng không chỉ là đèn dầu mà là ánh sáng của niềm hy vọng và tình yêu được thắp lên trong trái tim của mình.

Ánh nắng mặt trời rọi sáng khắp nơi và là nguồn sưởi ấm cho mọi loài. Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh ánh sáng và đêm tối để diễn tả về nguồn ơn giải thoát. Ánh sáng đã dọi chiếu vào thế gian mang lại niềm hy vọng cho muôn dân. Isaia đã đồng hành cùng Dân Thánh qua mọi thăng trầm của cuộc sống. Cả những ngày lưu đầy xa xứ trong cảnh nô lệ và bị áp bức. Với niềm hy vọng vào một tươi lai tươi sáng, Isaia có tư tưởng rất tích cực để khích lệ và nuôi ý chí phấn đấu. Phấn đấu với những ảnh hưởng dị dạng của ngoại bang và đời sống dung tục của con người xã hội. Isaia đã nhắc nhớ cho Dân về chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ. Ánh sáng công chính sẽ soi dọi vào tâm tư mọi người để đốt nóng lên niềm cậy trông và hy vọng cứu độ: “Dân chúng đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng vĩ đại, và một ánh sáng đã chiếu soi trên dân ở vùng bóng sự chết.” (Is 9,1).

Lịch sử của Dân Dothái cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Dân Thánh được Thiên Chúa ưu ái, giữ gìn và bảo vệ. Ngay từ thời lưu lạc tại Aicập, con dân phát triển không ngừng. Vua Pharaô đã phải diệt trừ các trẻ trai mới sinh ra để giảm bớt dân số. Trong cuộc lữ hành sa mạc về Đất Hứa, hầu hết những người rời Aicập đã chết trong hoang địa. Dân Thánh vẫn tồn tại và sinh sôi nẩy nở thêm đông. Cho dù dân Dothái bị tản mát khắp nơi và bị vùi dập, nhưng họ vẫn có thể đứng dậy và thiết lập cơ đồ. Isaia đã diễn tả sự phú túc và phát triển của dân tộc: “Người đã gia tăng dân số, đã ban một nguồn vui lớn; thiên hạ hân hoan trước mặt Người, như hân hoan khi được mùa, nhảy mừng như khi phân chia chiến lợi phẩm.” (Is 9,2). Isaia đã khơi dậy sự phấn chấn và an ủi lớn lao cho toàn dân. Họ hãnh diện là Dân được chọn và một Dân có lề luật hướng dẫn. Họ tôn thờ một Thiên Chúa độc thần.

Khởi đầu sứ vụ rao giảng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!” (Mt 4,17). Chúa muốn một sự đổi mới thật sự trong tâm hồn, chứ không phải chỉ có thái độ ỡm ờ. Cần có một thái độ dứt khoát để hưởng nhờ ơn cứu độ. Một sự đụng chạm nội tâm sâu thẳm. Sự hối cải phải là một sự đổi đời thực sự. Bỏ lại quá khứ sai lầm và tội lỗi để sống một đời sống mới trong Nước Trời. Những lời mời gọi về sự sám hối, thống hối, hối cải, sửa đổi hay thay đổi là lời mời khẩn thiết cho mọi người ở mọi thời. Thường thì tâm tình yếu đuối của con người là ưa dễ dãi, thích khất lần, sống hời hợt và che lấp bằng lớp vỏ đạo đức nào đó. Tất cả những việc đạo đức biểu tỏ bên ngoài sẽ không xoá nhoà hay khoả lấp cuộc sống hai mặt phía sau. Thái độ dứt khoát với sự dữ, sự tội và sự xấu không luôn dễ, vì chúng ta quá quen chung sống với đêm tối. Hối cải là đối diện thật với lòng và với cuộc sống. Soi mình trước lương tâm, huấn lệnh, các giới răn và luật Chúa và luật Hội Thánh để canh tân đời sống.

Chúa Giêsu đã bắt đầu thành lập Giáo Hội trên trần gian để tiếp tục sứ vụ của Ngài. Chúa đã chọn những môn đệ đầu tiên để huấn luyện, dạy dỗ và sống niềm tin. Chúa đã chọn gọi các thợ chài lưới ít học nhưng có tâm hồn đơn sơ chân thành. Với lời mời gọi nhẹ nhàng và trìu mến: Người bảo hai ông Phêrô và Anrê: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta.” (Mt 4,19). Các ông đã đi theo Chúa và đi theo tới cùng: “Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.” (Mt 4,20). Chúa gọi đích danh từng người và chọn gọi họ làm môn đệ của Chúa. Các ngài là những người rường cột của một Hội Thánh: “Người cũng gọi hai anh là Giacô bê và em là Gioan con ông Giêbêđê. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.” (Mt 4,22).

Bốn môn đệ đầu tiên đã dứt khoát bỏ mọi sự đi theo Chúa. Chúa đã làm cho các ngài trở thành những kẻ chài lưới người. Những con người bình thường đã thực hiện những việc khác thường và phi thường. Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy trở nên nhân chứng của sự sáng. Niềm tin vào Chúa Kitô là nguồn ánh sáng sẽ dẫn dắt chúng ta bước vào con đường sự sáng. Đèn sáng của chúng ta phải đặt trên giá và chiếu toả cho mọi người chung quanh. Góp phần tích cực vào sứ vụ truyền rao Tin Mừng Nước Trời, chúng ta phải đứng về phía ánh sáng và sống như con cái sự sáng.

Chúa Kitô, mặt trời công chính và là ánh sáng đã đến trong thế gian. Ánh sáng của Chúa Kitô soi rọi vào đêm tối của tội lỗi và sự dữ. Chúa đã đến cứu thoát con người ra khỏi vùng âm u sự chết và dẫn vào ánh sáng vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã mời gọi các Kitô hữu hãy biết đồng tâm hiệp ý liên kết trong một niềm tin: “Anh em thân mến, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi xin anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý với nhau, giữa anh em đừng có chia rẽ; hãy đoàn kết chặt chẽ trong cùng một thần khí và cùng một tâm tình.” (1 Cr 1,10). Sự giao thời giữa Cựu ước và Tân ước đã tách biệt dân Dothái ra nhiều nhóm khác nhau. Ngay cả trong các nhóm Kitô hữu tiên khởi đã nhen nhúm sự phân rẽ vì niềm tin.

Chỉ có một Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có một Đấng cứu độ là Con Một Thiên Chúa. Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta. Ngay từ thời các Tông đồ bắt đầu sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, các tín hữu đã có sự tranh giành, gây ảnh hưởng và chia rẽ nội bộ vì quá để tâm đến quyền tư lợi. Thánh Phaolô phải lên tiếng nhắc nhở: “Tôi có ý nói điều này, là mỗi người trong anh em nói: “Tôi, tôi thuộc về Phaolô; “Tôi về phe Apollô”; “Còn tôi, tôi về phe Kêpha”; “và tôi thuộc về phe Chúa Kitô”.” (1 Cr 1,12). Chúa Kitô là trung tâm của tất cả niềm tin. Chúa Kitô duy nhất không thể phân rẽ. Sứ mệnh của Chúa Kitô là đem Tin Mừng giải thoát nhân loại. Chúa cứu độ tâm hồn con người khỏi sự ràng buộc của ma quỷ, tội lỗi và sự dữ.

Lạy Chúa, ngày qua ngày đèn tâm hồn của chúng con bị bụi mù vây phủ. Xin cho chúng con biết can đảm lau sạch, đánh bóng, châm dầu và khơi đốt ánh đèn để tâm hồn chúng con được toả sáng và sưởi ấm trong tình yêu của Chúa.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Đức Thánh Cha kêu gọi tăng cường sự hiện diện và hoạt động của phụ nữ

Đức Thánh Cha kêu gọi tăng cường sự hiện diện và hoạt động của phụ nữ

VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi tăng cường sự hiện diện và hoạt động của phụ nữ trong các lãnh vực của Giáo Hội và xã hội dân sự.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng thứ bẩy 25-1-2014, dành cho 300 tham dự viên hội nghị toàn quốc do Trung Tâm Phụ Nữ Italia tổ chức, một trung tâm được thành lập cách đây gần 70 năm với mục đích huấn luyện và thăng tiến con người.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, sau khi nhắc đến giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò quan trọng của phụ nữ, ĐTC khẳng định rằng: ”Cả tôi cũng đã từng nhắc đến sự đóng góp không thể thiếu được của phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là với sự nhạy cảm và trực giác của phụ nữ đối với tha nhân, người yếu thế và người vô phương thế tự vệ; tôi vui mừng khi thấy nhiều phụ nữ chia sẻ một số trách nhiệm mục vụ với các LM, qua việc tháp tùng các cá nhân, gia đình và nhóm, cũng như trong việc suy tư thần học. Và tôi cầu mong không gian dành cho sự hiện diện của phụ nữ được mới rộng một cách sâu rộng và quan trọng hơn trong Giáo Hội”.

ĐTC không quên vai trò quan trọng, không thể thay thế được, của phụ nữ trong gia đình. Ngài nói: ”Những năng khiếu tế nhị, đặc biệt nhạy cảm và dịu dàng, mà tâm hồn phụ nữ vốn rất phong phú, không những là một sức mạnh chân thực cho đời sống gia đình, làm lan tỏa bầu không khí thanh thản và hòa hợp, nhưng còn là một thực tại mà nếu không có, thì ơn gọi của con người không thể thực hiện được”.

Sau cùng, ĐTC nhắc nhở bí quyết để chị em phụ nữ hiện diện và tăng trưởng trong bao nhiêu lãnh vực công cộng, thế giới lao động và tại những nơi đề ra những quyết định quan trọng, cũng như trong gia đình, đó là sự siêng năng và kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: ”Chính trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, được Lời Chúa soi sáng, được ơn thánh của các bí tích tưới gội, mà phụ nữ Kitô luôn tìm cách đáp lại tiếng Chúa gọi trong hoàn cảnh cụ thể của mình.” (SD 25-1-2014).

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất Kitô

Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều bế mạc tuần cầu nguyện hiệp nhất Kitô

ROMA. Lúc 5 giờ rưỡi chiều ngày 25-1-2014 lễ Thánh Phaolô trở lại, ĐTC Phanxicô đã chủ sự buổi hát kinh chiều trọng thể tại Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành ở Roma, để bế mạc tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các tín hữu Kitô.

Tuần này đã tiến hành từ 18 đến 25-1 vừa qua với chủ đề ”Chúa Kitô bị phân rẽ sao” (Xc 1 Cr 1,1-17).

Hiện diện tại buổi cầu nguyện, ngoài hàng chục HY, còn có các GM, giáo sĩm tu sĩ và giáo dân Roma, nhiều đại diện của các cộng đoàn Kitô khác, nhất là Đức TGM Gennadios Zervos, Đại diện tòa Thượng Phụ chung của Chính Thống giáo, đặc trách các tín hữu Chính Thống tại Italia, Malta và miền nam Âu Châu, ĐGM David Moxon người New Zealand, đại diện Đức Giáo Chủ Anh giáo tại Roma.

Trước khi kinh chiều bắt đầu, ĐHY Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô, đã đại diện mọi người hiện diện chào mừng và cám ơn ĐTC đã đến chủ sự Kinh Chiều này.

Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn chủ đề tuần cầu nguyện hiệp nhất năm nay, rút từ thứ thứ I của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cộng đoàn Corinto đang bị chia rẽ, người thì quả quyết mình thuộc về Phaolô, người khác nói mình thuộc về Apollo, cũng có người nói mình thuộc về Chúa Kitô. Tình trạng đó cho thấy ”kinh nghiệm riêng của mỗi người, sự tham chiếu một số nhân vật quan trọng của cộng đoàn, đã trở thành thước đo để phán đoán đức tin của người khác.. Trong tình trạng chia rẽ ấy, thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu thành Corinto, ”vì danh Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tất cả hãy đồng tâm nhất chí trong lời nói, để giữa họ không có chia rẽ, trái lại được hiệp nhất trọn vẹn với nhau trong tư tưởng và cảm thức”.

ĐTC cũng nói rằng: ”Các bạn thân mến, Chúa Kitô không thể bị phân rẽ! Xác tín này phải khích lệ và nâng đỡ chúng ta khiêm tốn và tín thác tiếp tiến bước trong hành trình tiến về sự hiệp nhất hữu hình giữa mọi tín hữu của Chúa Kitô”.

ĐTC nhắc đến sự nghiệp của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm từ Đức Gioan 23 đến Phaolô 6 và Gioan Phaolô 2 trong nỗ lực đại kết, Người đã đề nghị đối thoại đạt kết như một chiều kích thông thường và không thể tách rời khỏi đời sống của mỗi giáo hội địa phương.

Ngài nói thêm rằng: ”Hoạt động của các vị Giáo Hoàng làm cho chiều kích đối thoại đại kết trở thành một khía cạnh thiết yếu trong sứ vụ của Giám Mục Roma, đến độ ngày nay người ta không thể hiểu trọn vẹn sứ vụ của Phêrô mà không bao gồm trong đó cả sự đợi mở đối thoại với tất cả những người tin nơi Chúa Kitô. Chúng ta có thể nói rằng hành trình đại kết đã giúp đào sâu sự hiểu biết về sứ vụ của người Kế vị Thánh Phêrô và chúng ta phải tín thác rằng Người sẻ tiếp tục hành động theo nghĩa đó cả trong tương lai”. (SD 25-2-2-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha biệt kiến Tổng thống Obama

Đức Thánh Cha biệt kiến Tổng thống Obama

Hai nhà lãnh đạo sẽ gặp nhau tại Vatican vào ngày 27-3

Jim Kuhnhenn cho Christian Science Monitor

Tổng thống Barack Obama sẽ hội kiến Đức Thánh cha Phanxicô tại Vatican vào tháng 3, và hai nhà lãnh đạo sẽ dùng ngôn ngữ kinh tế chung theo những quan điểm giống nhau về nghèo đói và mức thu nhập chênh lệch, làm nổi bật vấn đề được tổng thống Mỹ lấy làm chủ đề chính trong nhiệm kỳ hai của mình.

Trong quan hệ phức tạp giữa chính quyền Obama và Giáo hội Công giáo, Tòa Bạch Ốc xem Đức tân Giáo hoàng được nhiều người yêu mến và việc ngài chú trọng đến cảnh ngộ khốn khổ của người nghèo là hình thức công nhận giá trị đạo đức nghị trình kinh tế của tổng thống. Khi đọc bài diễn văn về kinh tế hồi tháng trước, ông Obama viện dẫn tình trạng bất bình đẳng gia tăng trong thế giới phát triển và lưu ý rằng “chính Đức Thánh Cha đã nói về vấn đề này cách hết sức hùng hồn”.

Tòa Bạch Ốc và Vatican thông báo hôm thứ Ba rằng ông Obama sẽ hội kiến Đức Thánh Cha vào ngày 27-3 trong chuyến công du châu Âu dài 4 ngày, trong đó ông Obama còn tham dự cuộc họp thượng đỉnh về an ninh hạt nhân ở Hà Lan và cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-Liên minh châu Âu tại Brussels. Đây là cuộc hội kiến đầu tiên giữa Tổng thống Obama và Đức Phanxicô.

Ông Obama có cuộc biệt kiến Đức cựu Giáo hoàng Bênêđictô XVI vào tháng 7-2009. Vào lúc đó, Vatican nhấn mạnh sự bất đồng sâu sắc giữa họ về phá thai. Đức Bênêđictô trao cho tổng thống một bản sao tài liệu của Vatican về đạo đức sinh học, khẳng định Giáo hội phản đối việc dùng phôi thai để nghiên cứu tế bào gốc, nhân bản và thụ tinh trong ống nghiệm, trong khi ông Obama ủng hộ việc nghiên cứu tế bào gốc.

Đức Phanxicô nói rõ rằng lập trường của Công giáo về đồng tính, hôn nhân đồng giới, và phá thai vẫn không đổi.

“Nhưng theo ngài những vấn đề gây mâu thuẫn cần bớt chú trọng một chút”, John C. Green, nhà khoa học chính trị chuyên về tôn giáo và chính trị tại đại học Akron, nói.

Đức Thánh Cha gây tranh luận xôn xao hồi tháng 11 khi công khai chỉ trích các thuyết khuếch tán lợi ích khẳng định tăng trưởng kinh tế có thể mang lại công bằng và hội nhập nhiều hơn dù không được chứng minh. “Những người bị gạt ra bên lề vẫn đang chờ đợi”, ngài viết.

Paul Begala, cựu cố vấn của Tổng thống Bill Clinton, nói ông Obama có thể được lợi từ việc Đức Phanxicô nhấn mạnh đến những khác biệt về kinh tế.

“Sẽ rất khó để những người bảo thủ chỉ trích Tổng thống Obama gây chia rẽ, khi nhân vật vĩ đại nhất thế giới về đoàn kết cũng đang nói gần giống như thế”, Begala phát biểu.

Nguồn: Christian Science Monitor

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh Cha xem xét thăm Hàn Quốc, Philippines và Sri Lanka

Đức Thánh Cha xem xét thăm Hàn Quốc, Philippines và Sri Lanka

Lacopo Scaramucci cho Vatican Insider/La Stampa

Hàn Quốc trong năm nay, Sri Lanka và Philippines vào năm 2015. Đức Thánh cha Phanxicô đang chuyển hướng chú ý đến châu Á, châu lục mà Đức Bênêđictô XVI “không có thời gian sang thăm”. Và ba nước này nằm trong danh sách các nước ngài sẽ viếng thăm. Linh mục phát ngôn cho Vatican Federico Lombardi xác nhận những tin đồn lan truyền trong những giờ gần đây, và khẳng định những chuyến viếng thăm này hiện “đang được xem xét”.

Đối với Đại Hàn , cha Lombardi cho biết chuyến viếng thăm này thật sự “đang được xem xét” và Đức Phanxicô đã nhận được “lời mời” từ các giám mục Hàn Quốc trùng với cuộc hội ngộ giới trẻ Á châu sẽ diễn ra tại Nam Hàn  vào giữa tháng 8. Về khả năng Đức Thánh Cha viếng thăm Sri Lanka và Philippines, cha Lombardi trả lời “đã có lời mời, và đang được xem xét” nhưng không phải trong năm nay. Cha Lombardi đưa ra câu trả lời ít chắc chắn hơn về khả năng viếng thăm Sarajevo: “Thật sự là Đức Thánh cha đã được mời”, nhưng “đây không phải là quyết định, và chưa có gì diễn ra”. Cha Lombardi thẳng thắn phủ nhận các chuyến viếng thăm khác, như thăm Uganda chẳng hạn.

Trên chuyến bay từ Rio trở về sau Ngày Giới trẻ thế giới, Đức Phanxicô nói ngoài chuyến viếng thăm Đất Thánh, được lên lịch đi vào tháng 5 tới: “Viếng thăm châu Mỹ Latinh, chúng ta phải đợi một chút! Tôi nghĩ có thể đi châu Á một chuyến, nhưng điều này còn viễn vông. Tôi đã nhận được lời mời sang Sri Lanka và còn Philippines nữa. Nhưng phải có một chuyến đi châu Á vì Đức Bênêđictô không có thời gian sang thăm châu Á và điều này quan trọng. Ngài đã sang Úc và sau đó sang châu Âu và Mỹ nhưng châu Á thì chưa …”.

Đức Thánh Cha nói về Đại Hàn trong bài diễn văn chúc mừng Năm Mới các nhà ngoại giao được chính thức công nhận tại Tòa Thánh gần đây: “Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại Hàn, tôi muốn cầu xin Chúa ban ơn hòa giải trên bán đảo này, và tôi tin rằng vì lợi ích của tất cả người dân Đại Hàn, các bên liên quan sẽ kiên trì tìm ra những điểm tương đồng và giải pháp khả thi”.

Nguồn: Vatican Insider/La Stampa

Trích từ UCANEWS VN

Đức Thánh cha tiếp kiến Tổng Thống Pháp

Đức Thánh cha tiếp kiến Tổng Thống Pháp

VATICAN. Sáng 24-1-2014, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến lần đầu tiên tổng thống Pháp Francois Hollande.

Đến Vatican lúc 10 giờ rưỡi, Tổng thống Pháp đã hội kiến với ĐTC trong 35 phút, trước khi đoàn tùy tùng của ông được vào chào ngài. Trong số này có bộ trưởng nội vụ Manuel Valls, và Cha Georges Vandenbeusch, người Pháp, thừa sai tại Camerun bị nhóm Hồi giáo Boko Haram bắt cóc rồi được giải thoát ngày 31 tháng 12 năm ngoái, bà Dominique Quinio, giám đốc báo Công Giáo ”La Croix”. ĐGH ôm hôn vị linh mục và nói: ”Mon frère! Je suis très heureux”.

Tổng thống Pháp đã tặng ĐTC cuốn sách của Maurice Boutet de Monvel năm 1929 tựa đề ”Saint Francois d'Assise”. ĐTC đã tặng Tổng thống huy hiệu lớn triều đại Giáo Hoàng của ngài trong một hộp màu trắng.

Thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết sau khi hội kiến với ĐTC, Tổng thống Pháp đã gặp Đức TGM Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cũng với Đức TGM ngoại trưởng Dominique Mamberti, người Pháp.

”Trong hai cuộc kiến, ĐTC và các vị đã đề cập đến sự đóng góp của tôn giáo cho công ích. Nhắc đến các mối quan hệ tốt đẹp giữa Pháp và Tòa Thánh, cả hai bên tái khẳng định quyết tâm duy trì một cuộc đối thoại đều đặn giữa Giáo hội Công giáo và Nhà Nước Pháp, đồng thời cộng tác với tinh thần xây dựng trong những vấn đề được cả hai quan tâm. Trong bối cảnh bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người, các vị duyệt qua một số đề tài thời sự như gia đình, đạo đức sinh học, tôn trọng các cộng đoàn tôn giáo và bảo vệ các nơi thờ phượng.”

”Cũng trong các cuộc hội kiến, phía Tòa Thánh và Pháp đã nói đến các vấn đề quốc tế như nạn nghèo đói và phát triển, di dân và môi sinh, đặc biệt là các cuộc xung đột ở Trung Đông và một số miền ở Phi châu, với mong ước rằng tại các nước liên hệ, cuộc sống chung hòa bình xã hội có thể được tái lập nhờ đối thoại và sự tham dự của mọi thành phần xã hội, trong niềm tôn trọng các quyền của mọi người, nhất là các nhóm thiểu số về chủng tộc và tôn giáo”.

Cuộc viếng thăm của Tổng thống Hollande tại Vatican thu hút đặc biệt sự chú ý của dư luận, giữa lúc ông đang gặp khó khăn nhiều trong dư luận tại Pháp, đụng độ với Công Giáo tại nước này, và cả những vấn đề đời tư của ông.

Trung tâm truyền hình Vatican đã bỏ thông lệ và trực tiếp truyền hình cuộc viếng thăm của Tổng thống Hollande.

Trong cuộc họp báo sau đó, Ông đã yêu cầu các ký giả đừng đặt những câu hỏi về đời tư của ông, nhưng sẵn sàng trả lời các câu hỏi khác.

Tổng thống Hollande nhấn mạnh sự đồng quan điểm giữa Pháp và Tòa Thánh về những vấn đề chính trị quốc tế và về vấn đề khí hậu. (SD 24-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp Tòa Thượng Thẩm Rota

Đức Thánh Cha tiếp Tòa Thượng Thẩm Rota

VATICAN. Sáng ngày 24-1-2014, trong buổi tiếp kiến đầu tiên dành cho Tòa Thượng Thẩm Rota ở Roma nhân dịp khai mạc năm tư pháp mới, ĐTC Phanxicô đã nêu rõ những đức tính thiết yếu của vị thẩm phán tòa án của Giáo Hội.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có khoảng 150 người, trong đó có hơn 20 vị thẩm phán của tòa Rota thuộc nhiều quốc tịch, các luật sư và viên chức khác, dưới sự điều động của vị niên trưởng là Đức Ông Pio Vito Pinto.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC nhấn mạnh rằng ”chiều kích pháp lý và chiều kích mục vụ trong thừa tác vụ của Giáo Hội không đối nghịch nhau, vì cả hai đều góp phần thực hiện mục tiêu và sự thống nhất hoạt động của Giáo Hội. Hoạt động tư pháp của Giáo Hội, trong tư cách là việc phục vụ cho sự thật trong công lý, có ý nghĩa sâu xa về mục vụ, vì nhắm đạt tới thiện ích cho các tín hữu và xây dựng cộng đoàn Kitô.. Vì thế, chức vụ của vị thẩm phán là một công tác phục vụ Dân Chúa, nhắm củng cố sự hiệp thông trọn vẹn giữa các tín hữu với nhau và giữa họ với cộng đoàn Giáo Hội”.

Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nêu rõ ba đặc tính thiết yếu của vị thẩm phán tòa án Giáo Hội:

– Trước tiên về mặt con người, vị thẩm phán phải trưởng thành về nhân bản, được biểu lộ qua phán đoán thanh thản, không để những quan điểm cá nhân của mình lèo lái. Thẩm phán phải có khả năng biết rõ tâm thức và những khát vọng hợp pháp của cộng đồng mà mình phục vụ, và không thể thực thi một thứ công lý vụ luật và trừu tượng, trái lại biết thích ứng với những đòi hỏi của thực tại cụ thể.

– Thứ hai về mặt pháp lý: ngoài những kiến thức về giáo luật và thần học, khi thi hành sứ vụ, vị thẩm phán phải có phán đoán khách quan và công chính, không thiên vị. Ngoài ra khi hành động vị thẩm phán phải để cho mình được ý hướng bảo vệ sự thật hướng dẫn, trong niềm tôn trọng luật pháp, không bỏ qua tính chất tế nhị và tình người của vị mục tử các linh hồn.

– Sau cùng về mặt mục vụ, vị thẩm phán phải có tinh thần mục vụ chân thành, trong tư cách là người biểu lộ mối quan tâm mục vụ của Đức Giáo Hoàng và các GM. Thẩm phán là người làm mục vụ công lý, được kêu gọi xử lý và phán đoán về tình trạng của các tín hữu tìm đến thẩm phán với niềm tín thác, noi gương vị Mục Tử nhân lành chăm sóc con chiên bị thương. Vì thế, thẩm phán phải được đức bác ái mục tử linh hoạt” (SD 24-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội lần thứ 48

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế Giới truyền thông xã hội lần thứ 48

VATICAN. Sáng ngày 23-1-2014, Đức TGM Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội, đã mở cuộc họp báo tại Vatican để công bố Sứ điệp của ĐTC Phanxicô, nhân Ngày Thế giới truyền thông xã hội lần thứ 48, sẽ được cử hành vào chúa nhật 1-6-2014, về đề tài ”Truyền thông phục vụ một nền văn hóa gặp gỡ đích thực”.

Trong sứ điệp, ĐTC đề cao tiềm năng của các phương tiện truyền thông xã hội ngày nay làm cho con người ngày càng trở nên gần gũi nhau hơn. Tuy cảnh giác về những khía cạnh tiêu cực mà các mạng truyền thông và xã hội có thể gây ra, nhưng ĐTC nhiệt liệt cổ võ các tín hữu dấn thân trong lãnh vực truyền thông, để làm chứng cho Chúa Kitô và ơn cứu độ của Chúa. Trong lãnh vực truyền thông ngày nay, các tín hữu Kitô cũng được mời gọi có những tâm tình và hành động như người Samaritano trong dụ ngôn Phúc Âm.

Sau đây là toàn văn Sứ điệp của ĐTC:

Anh chị em thân mến,

Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng ”nhỏ bé” hơn và vì thế, trong đó dường như người ta dễ gần gũi với nhau hơn. Những phát triển về giao thông và kỹ năng truyền thông đang làm cho chúng ta xích lại gần nhau, ngày càng nối kết với nhau hơn, và sự hoàn cầu hóa làm cho chúng ta lệ thuộc nhau. Nhưng giữa lòng nhân loại vẫn còn những chia rẽ, nhiều khi rất nặng nề. Trên bình diện hoàn cầu chúng ta thấy sự cách biệt ”gương mù” giữa sự sa hoa của những người giàu nhất và sự lầm than của những người nghèo nhất. Nhiều khi chỉ cần làm một vòng qua những con đường trong một thành phố là đủ để thấy những trái ngược giữa những người sống bên vệ đường và những ánh sáng chói lòa của các cửa tiệm. Thế giới đang đau khổ vì nhiều hình thức loại trừ, gạt ra ngoài lề và nghèo khổ.. cũng như những cuộc xung đột trong đó có trộn lẫn các nguyên nhân kinh tế, chính trị, ý thức hệ, và đáng tiếc là nhiều khi có các nguyên ngôn tôn giáo nữa.

Trong thế giới này, các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta cảm thấy gần gũi nhau hơn; làm cho chúng ta cảm thấy rõ ràng hơn mình thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất, thúc đẩy chúng ta liên đới và nghiêm túc dấn thân cho một cuộc sống xứng đáng hơn. Việc truyền thông tốt đẹp giúp chúng ta gần nhau hơn và biết nhau rõ hơn, liên kết với nhau hơn. Những bức tường chia cách chúng ta chỉ có thể bị vượt qua nếu chúng ta sẵn sàng lắng nghe nhau và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta cần giải quyết những dị biệt qua những hình thức đối thoại, giúp chúng ta tăng trưởng trong sự cảm thông và tôn trọng nhau. Nền văn hóa gặp gỡ đòi chúng ta phải sẵn sàng không những cho đi, nhưng còn tiếp nhận từ tha nhân. Các phương tiện truyền thông có thể giúp chúng ta trong lãnh vực này, đặc biệt là ngày nay, khi các mạng truyền thông giữa con người có những tiến bộ chưa từng thấy. Đặc biệt là Internet có thể cống hiến nhiều cơ hội gặp gỡ hơn và liên đới giữa tất cả mọi người, và đây là điều tốt lành, là một hồng ân của Thiên Chúa.

Nhưng cũng có những khía cạnh gây vấn đề: vận tốc thông tin mau lẹ vượt quá khả năng suy tư và phán đoán của chúng ta, và không giúp thực hiện một sự diễn tả chính mình một cách có suy xét và đúng đắn. Những ý kiến khác nhau được bày tỏ có thể được cảm nhận như một sự phong phú, nhưng cũng có thể làm ta khép kín mình trong một lãnh vực thông tin chỉ đáp ứng những mong đợi và ý tưởng của chúng ta, hoặc đáp ứng những lợi lộc chính trị và kinh tế nào đó của chúng ta mà thôi. Môi trường truyền thông có thể giúp chúng ta tăng trưởng, hoặc trái lại, nó làm cho chúng ta hoang mang mất định hương. Ước muốn nối kết qua kỹ thuật số (digitale) có thể rốt cuộc làm cho chúng ta bị cô lập với người thân cận, những người ở gần chúng ta nhất. Không quên nói đến những người, vì những lý do khác nhau, không vào các mạng xã hội, và họ có nguy cơ bị gạt ra ngoài.

Những giới hạn ấy là những điều có thực, nhưng chúng không biện minh cho sự phủ nhận các mạng xã hội; đúng hơn, chúng nhắc nhở chúng ta rằng truyền thông, xét cho cùng, là một sự chinh phục về mặt nhân sự hơn là kỹ năng. Vậy, đâu là điều giúp chúng ta, trong lãnh vực kỹ thuật số, được tăng trưởng về tình người và cảm thông lẫn nhau? Ví dụ, chúng ta phải phục hồi ý nghĩa sự chậm rãi và bình tĩnh. Điều này đòi thời gian và khả năng giữ im lặng để lắng nghe. Chúng ta cũng cần phải kiên nhẫn nếu chúng ta muốn hiểu người khác biệt với chúng ta: con người bộc lộ hoàn toàn không phải khi họ chỉ được dung thứ, nhưng khi họ biết mình được thực sự được đón nhận. Nếu chúng ta thực sự muốn lắng nghe người khác, thì chúng ta sẽ học cách nhìn thế giới với đôi mắt khác và quí chuộng kinh nghiệm của con người như nó được biểu lộ trong các nền văn hóa và truyền thống khác nhau. Nhưng chúng ta cũng biết quí chuộng hơn những giá trị lớn, lấy hứng từ Kitô giáo, ví dụ nhân sinh quan coi con người như nhân vị, hôn nhân và gia đình, sự phân biệt giữa lãnh vực tôn giáo và lãnh vực chính trị, các nguyên tắc liên đới và phụ đới (sussidiarietà), và nhiều điều khác.

Như vậy làm thế nào để truyền thông có thể phục vụ một nền văn hóa gặp gỡ đích thực? Và đối với chúng ta là môn đệ của Chúa, gặp gỡ một người theo tinh thần Tin Mừng có nghĩa là gì? Làm thế nào để chúng ta có thể thực sự là những người láng giềng của nhau mặc dù chúng ta có những giới hạn và tội lỗi? Những câu hỏi này có thể tóm gọn trong câu hỏi mà một hôm, một thầy thông luật, tức là một người truyền thông, hỏi Chúa Giêsu: ”Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10,29). Câu hỏi này giúp chúng ta hiểu truyền thông theo nghĩa sự gần gũi, thân cận. Chúng ta có thể dịch câu hỏi đó như thế này: làm thế nào biểu lộ ”sự thân cận” khi dùng các phương tiện truyền thông xã hội và trong môi trường mới do các kỹ thuật số tạo nên? Tôi thấy có một câu trả lời trong dụ ngôn người Samaritano nhân lành, và đó cũng là một dụ ngôn về người truyền thông. Thực vậy, ai truyền thông thì trở nên người thân cận. Và người Samaritano nhân lành không những trở thành người thân cận, nhưng còn vác người mà ông thấy nằm giở sống giở chết bên vệ đường. Chúa Giêsu đã đảo lộn viễn tượng: vấn đề ở đây không phải là nhìn nhận người khác như một người đồng loại của tôi, nhưng là khả của tôi trở nên giống người khác. Vì thế, truyền thông có nghĩa là ý thức là con người, là con cái Thiên Chúa. Tôi thích định nghĩa khả năng truyền thông như ”sự thân cận”.

Khi truyền thông có mục đích chủ yếu là khuyến dụ người ta tiêu thụ hoặc lèo lái con người, thì chúng ta đứng trước một sự gây hấn mạnh mẽ, như sự tấn công người bị cướp đánh và bỏ mặc bên đường, như chúng ta đọc thấy trong dụ ngôn. Thầy Lêvi và vị Tư tế không coi người bị thương ấy là tha nhân của mình, nhưng như một người xa lạ, tốt hơn nên tránh xa. Thời ấy, họ chịu ảnh hưởng của những qui luật về sự thanh tịnh tế tự. Ngày nay chúng ta cũng gặp nguy cơ một số phương tiện truyền thông ảnh hưởng trên chúng ta đến độ làm cho chúng ta cố tình không biệt người thân cận thực sự của chúng ta.

Không phải chỉ cần đi dọc những con đường kỹ thuật số, nghĩa là không phải chỉ nối vào mạng là đủ: còn cần làm sao để sự nối nạng ấy có kèm theo một cuộc gặp gỡ đích thực. Chúng ta không thể sống một mình, khép kín, co cụm vào mình. Chúng ta cần yêu và được yêu. Chúng ta cần sự dịu dàng, sự tốt lành và sự thật trong truyền thông. Cả thế giới của các phương tiện truyền thông cũng không thể trở nên xa lạ với sự chăm sóc nhân loại và nó được mời gọi biểu lộ sự dịu dàng. Mạng kỹ thuật số có thể là nơi đầy tình người, không phải là một hệ thống các đường giây điện, nhưng là hệ thống con người. Sự trung lập của các phương tiện truyền thông chỉ có vẻ bề ngoài thôi: chỉ ai truyền thông với tất cả con người của mình thì mới có thể thành một điểm tham chiếu. Sự can dự bằng chính con ngừơi của mình trong việc truyền thông chính là cội rễ làm cho người truyền thông đáng tín nhiệm. Chính vì thế, chứng tá Kitô có thể đạt tới các vùng ngoại biên của cuộc sống nhờ các mạng.

Tôi thường lập lại điều này: chắc hắn là tôi thà muốn một Giáo Hội đi ra đường mà gặp tai nạn, hơn là một Giáo Hội bị thứ bệnh tự tham chiếu chính mình. Và những con đường ở đây chính là những nẻo đường của thế giới nơi người dân sống, nơi chúng ta thực sự có thể tìm tới họ, qua hành động và qua lòng quí mến. Trong số những con đường ấy, cũng có cả những con đường kỹ thuật số, những con đường đầy chật người bị thương: những người nam nữ đang tìm ơn cứu độ hoặc một niềm hy vọng. Sứ điệp Kitô cũng có thể nhờ mạng mà đi tới ”tận bờ cõi cái đất” (Cv 1,8). Mở rộng những cánh cửa nhà thờ cũng có nghĩa là mở những cửa ấy trong môi trường kỹ thuật số, hoặc để cho dân chúng đi vào, dù họ ở trong hoàn cảnh sống thế nào đi nữa, hoặc để cho Tin Mừng có thể vượt qua những ngưỡng cửa đền thờ và ra đi gặp gỡ mọi người. Chúng ta được mời gọi làm chứng về một Giáo Hội là nhà của tất cả mọi người. Chúng ta có khả năng thông truyền khuôn mặt của một Giáo Hội như thế hay không? Truyền thông góp phần mang lại một hình thái cho ơn gọi thừa sai của toàn thể Giáo Hội và những mạng xã hội ngày nay là một trong những nơi để sống ơn gọi tái khám phá vẻ đẹp của đức tin, vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô. Cả trong bối cảnh truyền thông, cũng cần có một Giáo Hội biết mang lại hơi ấm, và làm cho con tim được nồng cháy.
Chúng ta không làm chứng tá Kitô bằng cách phổ biến ồ ạt các sứ điệp tôn giáo, nhưng bằng ý chí hiến thân cho tha nhân, ”qua thái độ sẵn sàng kiên nhẫn dấn thân và tôn trọng vào trong những vấn nạn và nghi ngờ của con người, trong hành trình của họ tìm kiếm chân lý và ý nghĩa cuộc sống con người” (Biển Đức 16, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới truyền thông xã hội lần thứ 47, 2013). Chúng ta hãy nghĩ đến giai thoại hai môn đệ trên đường làng Emmaus. Cần biết tham gia vào cuộc đối thoại với những người nam nữ ngày nay, để hiểu những mong đợi, nghi ngờ, hy vọng của họ và trao tặng họ Tin Mừng, nghĩa là Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm người, chịu chết và sống lại để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Thách đố này đòi phải có chiều sâu, chú ý đến cuộc sống, có sự nhạy cảm tinh thần. Đối thoại có nghĩa là xác tín rằng tha nhân có một điều gì tốt lành để nói, dành khoảng trống cho quan điểm của họ, cho những đề nghị của họ. Đối thoại không có nghĩa là từ bỏ những ý tưởng và truyền thống của mình, nhưng từ bỏ thái độ cho rằng ý tưởng và truyền thống của mình là có một không hai và là tuyệt đối.

Ước gì hình ảnh người Samaritano nhân lành, băng bó các vết thương của người bị đánh, đổ dầu và rượu trên vết thương, làm hướng đạo cho chúng ta. Ước gì sự truyền thông của chúng ta là dầu thơm thoa dịu đau khổ và là rượu ngon mang lại hoan lạc. Sự rạng ngời của chúng ta khống đến từ sự trang điểm hoặc xếp dàn cảnh đặc biệt, nhưng từ sự kiện chúng ta, với lòng yêu thương và dịu dàng, trở nên người thân cận của người mà chúng ta thấy bị thương trên đường. Anh chị em đừng sợ trở thành những công dân trong môi trường kỹ thuật số. Sự quan tâm và hiện diện của Giáo Hội trong thế giới truyền thông thực là điều quan trọng, để đối thoại với con người ngày nay và dẫn họ đến gặp Chúa Kitô: một Giáo Hội đồng hành biết cùng đi với mọi người. Trong bối cảnh này, cuộc cách mạng các phương tiện truyền thông xã hội và thông tin là một thách đố lớn lao và đầy thú vị, đòi phải có những nghị lực mới mẻ và óc sáng tạo mới để thông truyền cho tha nhân vẻ đẹp của Thiên Chúa.

Vatican ngày 24 tháng 1 năm 2014, lễ thánh Phanxicô đệ Salê

Phanxicô

G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ
 

Tệ nạn nô lệ mới trên thế giới

Tệ nạn nô lệ mới trên thế giới

Phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh

Trong hai ngày mùng 2-3 tháng 11 năm 2013 hội nghị về tệ nạn nộ lệ mới đã diễn ra trong nội thành Vaticăng. Hội nghị do Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức với Liên đoàn quốc tế các Hiệp hội bác sĩ công giáo.

Theo ước tính của Tổ chức Lao Động Quốc Tế trong các năm 2002-2010 trên thế giới đã có khoảng 21 triệu nạn nhân của nạn cưỡng bách lao động, trong đó cũng bao gồm cả nạn khai thác tình dục. Mỗi năm có khoảng 2 triệu người là nạn nhân của kỹ nghệ buôn bán tình dục, trong đó 60% là các thiếu nữ, trong khi nạn buôn cơ phận người chiếm 11%.

Buôn bán người là một sinh hoạt tội phạm bao gồm việc bắt, bắt cóc và tuyển lựa cũng như chuyên chở, chuyển rời, tiếp đón một hay nhiều người với các phương tiện bất hợp pháp, nhằm mục đích khai thác các nạn nhân.

Tệ nạn buôn bán nô lệ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Hàng bao ngàn năm trước công nguyên các Kim tự tháp bên Ai Cập đã do xương máu của các nô lệ xây lên. Trong mọi đế quốc thời xa xưa khắp nơi trên thế giới đều đã có hoạt động buôn bán nô lệ, nổi tiếng như dưới thời đế quốc Hy Lạp và Roma. Tại Roma hồi thế kỷ thứ I đã có 1 triệu nô lệ sinh sống, và rất nhiều đền đài dinh thự là do xương máu và mồ hội nước mắt của các nô lệ xây dựng, điển hình như Hý trường Colosseo do hoàng đế Tito khánh thành năm 80 sau công nguyên.

Vào thế kỷ XVI sau khi ông Cristoforo Colombo khám phá ra châu Mỹ, người dân các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Pháp và Anh bắt đầu di cư sang Mỹ châu lập nghiệp. Nhu cầu trồng cây trong các đồn điền bông ngày càng cần nhiều nhân công. Số nhân công thuộc các chủng tộc địa phương không đủ nữa nên bắt đầu nảy sinh ra phong trào nhập cảng nhân công từ các nước khác, đặc biệt là người nô lệ thuộc các nước mạn tây phi châu. Hàng chục triệu người Mỹ da đen ngày nay là con cháu những người nô lệ Phi châu bị bán sang Mỹ trong các thế kỷ XVI-XVIII. Người ta ước đoán có đến hàng chục triệu người bị bắt và bán làm nô lệ như thế. Không thể tả hết được các ngược đãi và khổ đau mà người nô lệ phải gánh chịu trong cuộc sống, từ khi bị bắt, bị xiềng xích mang xuống tầu, rồi bán cho các đại điền chủ da trắng khi đến Mỹ châu.

Năm 1770 sau một loạt các canh tân trên thế giới tại Pháp, Đan Mạch và Anh quốc người ta thấy nảy sinh ra các phong trào bài trừ nô lệ, đòi thay đổi các luật hình sự, bỏ luật treo cổ và thay đổi cách đối xử với các người bị bệnh tâm thần. Các nhà trí thức như Voltaire, Wesley và Rousseau đã góp phần đáng kể vào kiểu suy tư mới này. Vào thế kỷ XIX nhiều nước đã thành công trong việc giành độc lập bên Mỹ quyết định bỏ chế độ nô lệ. Chẳng hạn như Brasil năm 1822, Bolivia năm 1825, Anh quốc năm 1833, Pháp năm 1848 và sau cùng Hoa Kỳ năm 1865. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ luật năm 1910 vẫn cấm hôn nhân giữa những người khác chủng tộc, và có các biện pháp trục xuất các phụ nữ có các hành động vô luân. Vì thế 70% các phụ nữ bị bắt khi vượt biên giới bị rơi vào bẫy của hoạt động mại dâm.

Bắt đầu từ thập niên 1920 trở đi tại Hoa Kỳ việc buôn người không được coi như lá một vấn đề xã hội, ít ra cho tới năm 1990.

Chỉ với việc công bố Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948 nạn nô lệ cũng như việc buôn người mới bị bãi bỏ trên toàn thế giới. Nhưng đó đó chỉ là lý thuyết. Trên thực tế nạn nô lệ và buôn người vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhiều khi rất tinh vi và cũng không nhất thiết bắt buộc các nạn nhân phải vượt biên ra nước ngoài. Đó là trường hợp nộ lệ của nạn cho vay nặng lãi; nạn lao động đen hằng năm đem lại số tiền lời khổng lồ 31 tỷ mỹ kim. Bên cạnh đó có hàng triệu nạn nhân nô lệ của kỹ nghệ tình dục, nạn trẻ em lao động liên lụy tới 245 triệu trẻ em vị thành niên phải làm việc lam lũ mỗi ngày. Ngoài ra, còn có nạn buôn bán trẻ em vị thành niên. Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc năm 2003 có tới 1,3 triệu trẻ em bị bán làm nô lệ tình dục. Thêm vào đó nạn buôn người còn ẩn nấp cả đàng sau phong trào quốc tế nhận con nuôi nữa. Số tiền buôn bán người năm 2004 lên tới 9 tỷ mỹ kim, và đạt kỷ lục năm 2005 với 31,6 tỷ mỹ kim.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Cha Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội về hội nghị này.

Hỏi: Thưa Đức Cha, lý do nào đã khiến cho Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các Khoa học xã hội cùng tổ chức hội nghị này với Liên đoàn quốc tế các Hiệp Hội bác sĩ công giáo?

Đáp: Nguồn gốc của hội nghị này là Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã biết đến các vấn đề này. Ngay khi vừa mới được bầu làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha đã tiếp kiến các nhân viên của Hàn Làm Viện các Khoa học xã hội của Tòa Thánh. Trong thư gửi cám ơn ngài các cố vấn của Hàn Lâm Viện đã hỏi Đức Thánh Cha xem ngài có muốn chúng tôi làm một điều gì đặc biệt không. Đức Thánh Cha đã trả lời ngay lập tức với cùng bì thư ấy như sau: ”Marcelo, tôi muốn người ta nghiên cứu vấn đề các hình thức nô lệ mới và nạn buôn bán người, bao gồm cả việc buôn bán cơ phận người nữa”. Và như thế Hàn Lâm Viện đã bắt đầu làm việc. Nhưng chúng tôi đã thấy cần phải lôi cuốn cả các bác sĩ vào việc nghiên cứu này, và chúng tôi đã mời các bác sĩ công giáo, bởi vì bác sĩ José María Simón de Castelví, chủ tịch Liên đoàn các Hiệp hội bác sĩ công giáo đã muốn cộng tác, thế rồi cả Hàn Lâm viện Khoa học nữa, vì các giải pháp có thể có tính cách khoa học. Và thế là đã nảy sinh ra sáng kiến tổ chức hội nghị nói trên.

Hỏi: Thế hiện tượng buôn bán người hay nạn nô lệ tân thời đã được phân tích đưới các khía cạnh nào, thưa Đức Cha?

Đáp: Nó đã được phân tích đưới mọi khía cạnh. Điều mà chúng tôi muốn đó là tìm hiểu tầm rộng lớn của hiện tượng này, mà người ta đã từng biết tới một chút, nhưng chúng tôi muốn có các dữ kiện chính xác hơn. Chúng tôi cũng muốn đạt được môt ý tưởng chung cho Giáo Hội và cho các các Hội Đồng Giám Mục. Có các Hội Đồng Giám Mục, chẳng hạn như Hội Đồng Giám Muc Anh quốc và Hội Đồng Giám Mục Guatemala đã soạn thảo vài tài liệu liên quan tới vấn đề này, nhưng tôi tin rằng Giáo Hội, trong tổng thể của mình, vẫn chưa ý thức đủ về vấn đề này. Thế rồi chúng tôi cũng muốn tìm ra các hướng đi cụ thể. Chúng tôi đã hỏi tất cả các tham dự viên, các quan sát viên cũng như các tường trình viên gửi cho chúng tôi các đề nghị cụ thể và giờ đây chúng tôi đang lượng định các đề nghị đó. Có một đề nghị rất hay của một bác sĩ gợi ý là giữ lại yếu tố di truyền DNA của các trẻ em bị mất tích, và của cha mẹ các em đã tố cáo rằng các em mất tích rồi đối chiếu chúng với nhau. Thật ra điều đầu tiên mà những người bắt cóc các em làm là xóa các dấu tay của các em.

Hỏi: Chúng ta biết là trong nguồn gốc của tệ nạn buôn bán người có nạn nghèo túng cùng cực, chiến tranh, các cuộc xung khắc trong nước vv… Và có một phần của thế giới khai thác các tình trạng này, có đúng thế không thưa Đức Cha?

Đáp: Vâng đúng thế, và chúng tôi sẽ nói lên điều này. Bắt đầu từ các nước có luật lệ chơi hai chiều: một đàng thì tổ chức họp nói tới sự sống con người, đàng khác thì cũng chính các cơ cấu và tổ chức của họ không muốn nhìn vấn đề này, hay tệ hơn họ còn tạo thuận tiện cho nạn buôn bán người nữa. Chẳng hạn chúng ta lấy thí dụ như những gì đã xảy ra tại Bosnia liên lụy tới một vài người Mỹ, và không phải chỉ có người Mỹ, trong nạn buôn bán nữ nô lệ. Việc này đã bị một phụ nữ Mỹ tố cáo và sau đó bà này bị mất việc làm. Chính vì thế, chúng tôi thấy thật là thích hợp lôi cuốn các bác sĩ nhập cuộc nghiên cứu, bởi vì cả họ cũng bị liên lụy, các cơ cấu đáng lý ra phải bênh vực con người lại bị liên lụy nhiều nhất trong các tệ nạn này.

Như vậy một đàng chúng ta đang đứng trước một tình hình thê thảm, và người ta không muốn nói đến vấn đề này, không muốn xem xét chuyện gì xảy ra; đàng khác người ta lại chơi trò nước đôi. Thế rồi, còn có các nước thừa nhận mại dâm như là một công việc: các nước này cũng tạo ra thị trường buôn người.

Thí dụ bên Cộng hòa liên bang Đức vấn đề này thật là kinh khủng. Nhưng không phải chỉ có Đức, mà tại nhiều nước Bắc âu cũng thế. Như vậy, một đàng Nhà nước nói rằng cần phải can thiệp, trong khi đàng khác thì Nhà nước lại kiếm lợi nhuận từ tệ nạn buôn người này. Ngay từ khi còn là Tổng Giám Mục Buenos Aires Đức Thánh Cha Phanxicô đã trực giác được vấn đề xã hội nghiêm trọng đụng tới linh hồn của thế giới xã hội, đụng tới các Khoa học xã hội. Chúng tôi đã ngạc nhiên vì đã không hiểu nó trước.

Hỏi: Thưa Đức Cha, Giáo Hội sẽ làm gì với các tài liệu và kết qủa của hội nghị về nạn nô lệ mới này?

Đáp: Chúng tôi muốn triệu tập hội nghị lần thứ nhất và sẽ triệu tập nhiều hội nghị khác nữa để nghiên cứu vấn đề này. Nhưng đây đã là bước đầu tiên đáp ứng các nguyện vọng của Đức Thánh Cha. Chúng tôi sẽ làm công việc này tốt chừng nào có thể. Chúng tôi không yêu sách là đã tìm ra giải pháp cho vấn đề, nhưng ít nhất nó là một bước tiến tới. Chúng tôi đã hỏi Tòa Thánh, là tại sao lại chưa ủng hộ biên bản của Liên Hiệp Quốc về việc phòng ngừa, hủy bỏ và truy nã nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và các trẻ em, nhưng chúng tôi chưa nhận được câu trả lời. Điều này có nghĩa là chưa có một chính sách chung trong việc phòng chống và bài trừ tệ nạn buôn người. Chắc chắn là Đức Thánh Cha muốn cho tất cả các điều này được rõ ràng. Cần phải ca ngợi Đức Thánh Cha, vì với sự nhạy cảm của người Đức Thánh Cha đã đưa chúng tôi, là các nhân viên của Hàn Lâm Viện thường thảo luận các vấn đề trừu tượng, vào con đường cụ thể của thực tại toàn cầu có các khía cạnh kinh khủng, trong đó có sự thờ ơ như Đức Thánh Cha đã nói, khi viếng thăm các người tị nạn tại đảo Lampedusa nam Italia.

Con người bị bán đi nhưng không ai thèm ngó ngàng gì đến bản vị con người. Điều duy nhất mà người ta chú ý là tiền. Còn tệ hơn nữa, người ta dùng con người để làm tiền, như người ta đã làm đối với các người nô lệ xưa kia, bị bắt và bị bán như đồ vật. Và trong một nghĩa nào đó tệ nạn này ngày nay còn tệ hại hơn xưa kia rất nhiều! Xét vì mức độ văn minh mà xã hội loài người đã đạt được hiện nay. Nhất là nếu chúng ta duyệt xét vấn đề nô lệ tình dục, trong đó các bé trai bé gái là nạn nhân. Đây là một trong các điều thê thảm nhất của thế giới toàn cầu, cùng với nạn di cư, mà các hậu qủa chúng ta đã trông thấy tại đảo Lampedusa rồi.

(RG 1-11-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Các chia rẽ giữa các cộng đoàn kitô là gương mù gương xấu cần vượt thắng

Các chia rẽ giữa các cộng đoàn kitô là gương mù gương xấu cần vượt thắng

Các chia rẽ giữa các cộng đoàn kitô là gương mù gương xấu cần vượt thắng. Chúng làm suy yếu sự đáng tin cậy và hiệu lực dấn thân rao giảng Tin Mừng của chúng ta và có nguy cơ làm trống rỗng quyền năng của Thập Giá Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến chung các tín hữu và du khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 22 tháng 1 năm 2014.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nói về Tuần cầu nguyện cho hiệp nhất các tín hữu Kitô đã bắt đầu từ thứ bẩy tuần vừa qua và sẽ kết thúc vào thứ bẩy tới đây, ngày lễ Thánh Phaolô hoán cải. Đức Thánh Cha nói:

Sáng kiến tinh thần qúy báu này lôi cuốn các cộng đoàn kitô từ hơn một trăm năm nay. Đây là thời gian dành để cho lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất của tất cả mọi người đã được rửa tội theo ý muốn của Chúa Kitô: ”ước chi tất cả chỉ là một” (Ga 17,21). Hằng năm một nhóm đại kết của một vùng trên thế giới, dưới sự hướng dẫn của Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội Kitô và của Hội Đồng Tòa Thánh thăng tiến sự hiệp nhất của các tín hữu kitô, gợi ý đề tài và chuẩn bị các tài liệu cho Tuần cầu nguyện. Năm nay các tài liệu đến từ các Giáo Hội và cộng đoàn Canada, và quy chiếu về câu hỏi thánh Phaolô đưa ra cho kitô hữu Côrintô: ”Phải chăng Chúa Kitô bị chia rẽ?” (1 Cr 1,13).

Chắc chắn Chúa Kitô đã không bị chia rẽ. Nhưng chúng ta phải chân thành đau đớn thừa nhận rằng các cộng đoàn của chúng ta tiếp tục sống các chia rẽ là gương mù gương xấu. Sự chia rẽ giữa các kitô hữu chúng ta là một gương mù gương xấu. Không có một từ khác: một gương mù gương xấu! Thánh Phaolô viết: ”Mỗi người trong anh em nói: ”Tôi thuộc về Apollo”, ”Tôi thuộc về Cefa”, ”Tôi thuộc về Chúa Kitô” (1,12). Cả những người tuyên xưng Chúa Kitô như thủ lãnh của họ không được thánh Phaolô vỗ tay tán đồng, bởi vì họ đã dùng danh Chúa Kitô để chia rẽ nhau bên trong cộng đoàn kitô. Nhưng Danh Chúa Kitô tạo sự hiệp thông và hiệp nhất, chứ không chia rẽ! Bí tích Rửa Tội và Thập Giá là các yếu tố nòng cốt của việc là môn đệ kitô mà chúng ta có chung. Trái lại các chia rẽ làm suy yếu sự đáng tin cậy và hiệu lực dấn thân rao truyền Tin Mừng của chúng ta và có nguy cơ làm trống rỗng quyền năng của Thập Giá (x. 1,17).

Thánh Phaolô quở trách các tín hữu Côrintô vì các tranh luận của họ, nhưng người cũng cám tạ Chúa ”vì ơn thánh của Thiên Chúa đã được ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu, bởi vì nơi Người anh em đã được trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” (1 Cr 1,4-5). Các lời này không phải chỉ là một hình thức đơn sơ, mà là dấu chỉ mà thánh nhân trông thấy trước hết – và người thực sự vui mừng vì điều này – đó là các ơn Thiên Chúa ban cho cộng đoàn. Đức Thánh Cha rút tỉa ra từ thái độ này của thánh Phaolô kết luận sau đây:

Thái độ này của Tông Đồ Phaolô là một khích lệ đối với chúng ta và mọi cộng đoàn kitô vui mừng thừa nhận các ơn thánh của Thiên Chúa hiện diện trong các cộng đoàn khác. Mặc dù nỗi khổ đau của các chia rẽ rất tiếc còn tồn tại, chúng ta hãy tiếp nhận các lời của thánh Phaolô như là một lời mời gọi vui mừng một cách chân thành về những ơn thánh, mà Thiên Chúa đã rộng ban cho các anh chị em kitô khác. Chúng ta có cùng bí tích Rửa Tội, cùng Chúa Thánh Thần, Đấng đã ban các ơn thánh cho chúng ta, chúng ta hãy nhận biết và vui mừng.

Thật là xinh đẹp nhận biết ơn thánh, mà Thiên Chúa chúc phúc cho chúng ta và còn hơn thế nữa, tìm thấy nơi các kitô hữu khác một cái gì đó, mà chúng ta cần đến, một cái gì mà chúng ta có thể nhận lấy như một ơn từ các anh chị em khác của chúng ta. Nhóm Canada đã soạn các tài liệu của Tuần cầu nguyện này đã không mời gọi các cộng đoàn nghĩ tới điều mà chúng ta có thể trao ban cho các anh chị em kitô khác, nhưng đã khích lệ các cộng đoàn gặp gỡ nhau để hiểu điều tất cả có thể nhận được từ các cộng đoàn khác. Điều này đòi hỏi một cái gì hơn nữa. Nó đòi hỏi nhiều lời cầu nguyện, nó đòi hỏi sự khiêm nhường, nó đòi hỏi suy tư và hoán cải liên tục. Chúng ta hãy tiến bước trên con đường này, bằng cách cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các tín hữu kitô, để cho gương mù gương xấu giảm đi và không còn giữa chúng ta nữa. Xin cám ơn.

Kết thúc bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Anh chị em thân mến, giáo huấn của thánh Phaolô nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng chúng ta là con cái của Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa Tội, và chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu vác thập giá và theo Người. Nhưng vượt ngoài các cộng đoàn của chúng ta có các người con khác của Thiên Chúa, các môn đệ khác, mà cũng như chúng ta, họ được mời gọi nên thánh.

Đức Thánh Cha đã chào mọi tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô đặc biệt một nhóm sinh viên Học viện đại học Bossey. Ngài cầu chúc các học hỏi nghiên cứu của họ giúp thăng tiến cuộc đối thoại đại kết. Ngài cũng chào một nhóm các linh mục tuyên úy quân đội Anh quốc và phái đoàn của Liên hiệp Do thái Chicago. Đức Thánh Cha cũng chào các đoàn hành hương đến từ các nước Argentina, Mehicô, Brasil, cách riêng nhóm các linh mục giáo phận Catanduva, cũng như một đoàn hành hương đến từ Ai Cập và các nước A rập. Ngài xin Chúa ban sự hiệp nhất cho các kitô hữu để họ sống sự khác biệt như là nét phong phú và trông thấy nơi người khác một người anh em cần tiếp đón và yêu thương.

Chào các tham dự viên cuộc họp của các chuyên viên phối hợp công tác Tông đồ Biển và Đức Hồng Y Antonio Maria Vegliò, Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh đặc trách hoạt động này, Đức Thánh Cha khích lệ họ là tiếng nói của các công nhân phải sống xa các người thân và đương đầu với các tình trạng nguy hiểm và khó khăn. Ngài cũng chào các thành viên lực lượng cảnh sát vùng Macherio và Sovico do Đức Hồng Y Dionigi Tettamanzi hướng dẫn.

Chào đông đảo các bạn trẻ hiện diện tại quảng trường, Đức Thánh Cha cầu mong thánh Phaolô là mẫu gương môn đệ theo Chúa rao giảng Tin Mừng cho họ. Ngài xin các anh chị em đau yếu dâng khổ đau của họ để cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô, và nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới lấy hứng từ thánh Tông Đồ dân ngoại, thừa nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài trong cuộc sống gia đình.

Cũng như mọi khi Đức Thánh Cha đã bắt tay chào thăm vuốt ve an ủi hàng trăm bệnh nhân ngồi trên xe lăn.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Dấn thân của Tòa Thánh nhằm vãn hồi hòa bình cho Syria

Dấn thân của Tòa Thánh nhằm vãn hồi hòa bình cho Syria

Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh cạnh các tổ chức của Liên Hiệp tại Genève

Trong sứ điệp cho Ngày Hòa Bình thế giới năm 2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ rằng ”thế giới này có ơn gọi làm thành một cộng đoàn huynh đệ”, nhưng thực tại này bị chối bỏ bởi việc ”toàn cầu hóa của sự thờ ơ”. Vì thế cộng đoàn thế giới xem ra rất hờ hững với nỗi khổ đau của các dân tộc đang lâm cảnh chiến tranh, điển hình như trường hợp của Syria.

Sự thờ ơ đó đã được chứng minh qua sự thất bại của khóa họp của các nước ân nhân của Siria nhóm tại Kuweit ngày 15-1-2014. Ông Ban Ki-Moon Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã tỏ vẻ thất vọng, khi thông báo số tiền các nước này đã đóng góp chỉ được 2 tỷ 400 ngàn mỹ kim, tức một phần ba ít hơn ngân khoản hy vọng có được. Đức Tổng Giám Mục Mario Zenari, Sứ Thần Tòa Thánh tại Siria, đã tha thiết kêu gọi cộng đồng quốc tế lắng nghe tiếng than khóc và gào thét tuyệt vọng của nhân dân Siria đang bị đồn ngã trong cơn lốc bạo lực hiện nay.

Người ta hy vọng nơi hội nghị Genève II nhóm họp vào ngày 22-1-2014 bên Thụy Sĩ, với sự tham dự của phái đoàn 30 quốc gia gồm các phe lâm chiến và đại diện của hai khối phò chống chế độ của tổng thống Bashar al-Assad. Như đã biết, chính quyền của tổng thống Bashar al-Assad được Nga, Trung Quốc và Iran ủng hộ, trong khi Hoa Kỳ và các nước Âu châu ủng hộ các lực lượng đối lập. Một trong những lý do khiến cho cuộc nội chiến tại Siria đã kéo dài từ hơn 3 năm qua đó là Siria đã trở thành thị trường tiêu thụ và thử nghiệm vũ khí của tất cả các nước yểm trợ khí giới cho các phe lâm chiến. Từ nhiều thập niên qua Nga đã bán đủ mọi thứ vũ khí cho chính quyền Siria đến hơn 2 tỷ mỹ kim mỗi năm.

Và Syria cũng đã mua vũ khí của nhiều nước Tây Âu và nhiều nước A Rập. Với cuộc nội chiến bùng nổ sau Mùa Xuân A Rập, Siria lại càng trở thành ”chợ trời vũ khí”, giống như nhiều nước Phi châu đã là ”chợ trời vũ khí” của thế giới trong bao thập niên qua.

Có một sự thật sống sượng mà các phương tiện truyền thông quốc tế ít khi dám thẳng thắn đề cập tới, hay phân tích hoặc mạnh dạn tố cáo: đó là ”chiến tranh là một kiểu làm ăn của các quốc gia có kỹ nghệ chế tạo và buôn bán vũ khí.” Đứng đầu là Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc, rồi đến các nước Âu châu, trong đó Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha chiếm vị thế ưu tiên.

Cho tới các thập niên gần đây lại có thêm các nước có nền kinh tế đang lên như Ấn Độ, Brazil và Nam Phi. Thế rồi cũng có cả các nước Á Rập và nhiều nước Phi châu như Ai Cập, A Rập Sauđi, Camerun vv… Sự thật này khiến cho ngày nay chiến tranh là một thứ lợi nhuận, một loại chợ trời mà ai cũng có thể tham gia mua bán vũ khí tùy theo khả năng và tham vọng của mình. Và vì nó là một lợi nhuận đem lại các số tiền lời khổng lồ hàng trăm tỷ mỹ kim mỗi năm, nên việc ”tạo ra thị trường tiêu thụ vũ khí” cũng là một dịch vụ khác nữa trong kỹ nghệ chế tạo và buôn bán vũ khí trên thế giới. Ngày nay người ta không còn có thể chỉ quy tội cho các cường quốc hay nước tây âu hoặc đông âu chế tạo buôn bán khí giới nữa, mà trách nhiệm cũng tùy thuộc nơi hàng lãnh đạo các nước nghèo đang trên đường phát triển. Sự kiện giới lãnh đạo các nước nghèo dành rất nhiều ngân khoản cho việc mua và trang bị vũ khí cho quân đội là sự thật qúa hiển nhiên không thể che dấu và biện minh được nữa.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Silvano Maria Tomasi, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại các tổ chức của Liên Hiệp Quốc ở Genève, về tư tưởng của Đức Thánh Cha và hội nghị Genève II cho hòa bình Siria

Hỏi: Thưa Đức Cha Tomasi, Đức Cha nghĩ gì về khẳng định của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp cho Ngày Hòa Bình thế giới 2014?

Đáp: Ngày nay chế độ đa nguyên, các kiểu sống, các hệ thống chính trị là các thực tại hữu hình. Các phương tiện truyền thông xã hội cũng đem vào trong các gia đình tại những vùng xa xôi hẻo lánh nhất sự hiển nhiên của các lối sống khác nhau; và việc gia tăng tính đa nguyên cũng đã đem đến cho các xã hội hiệp nhất trên bình diện văn hóa sự hiện diện của các người khác, không phải chỉ là các công nhân, mà cũng là các bản vị đem theo với họ các tôn giáo và truyền thống rất đặc thù và khác biệt. Tái khẳng định rằng chúng ta là một gia đình duy nhất của Thiên Chúa, và chúng ta là anh chị em với nhau, không chỉ là một bổn phận loan báo sứ điệp của Tin Mừng, mà cũng là một sự cần thiết để có thể sống chung hòa bình với nhau. Tình huynh đệ được sống trở thành điều kiện của hòa bình và phát triển, vì thế nó cũng là điều kiện bao gồm tất cả mọi người trong các lợi ích và bổn phận tạo thành các xã hội lành mạnh và có tinh thần xây dựng.

Trực giác của Đức Thánh Cha Phanxicô dành ưu tiên cho tình huynh đệ – trong sứ điệp của Ngày Hòa Bình Thế Giới – tiếp nhận dấu chỉ ấy: tình huynh đệ là thuốc chữa cho tình trạng phân hóa xã hội, cho các ích kỷ, các cuộc chiến đang tiếp diễn, chỉ tạo ra bất công và khổ đau cho con người.

Hỏi: Thưa Đức Cha, làm thế nào để nói về tình huynh đệ trong một khung cảnh như khung cảnh của Liên Hiệp Quốc?

Đáp: Với Liên Hiệp Quốc và các tổ chức liên chính quyền quốc tế tiếng nói của Tòa Thánh nhấn mạnh giá trị của tình liên đới, là giá trị phát xuất từ sự kiện mỗi một bản vị con người đều có phẩm giá ngang nhau và đáng được tôn trọng và trợ giúp. Vì thế trong việc đề ra chương trình và ký kết các thỏa hiệp mới, chẳng hạn như thỏa hiệp về thương mại bình đẳng, hay thỏa hiệp che chở các người tàn tật như các người mù lòa, là hai thỏa hiệp đã đạt được trong năm vừa qua, phái đoàn của Tòa Thánh tại Genève đã hoạt động để ủng hộ các kết luận sinh hoạt sinh lợi cho hàng triệu người.

Hỏi: Thưa Đức Cha Tomasi, trong hội nghị triệu tập tại Genève ngày 22 tháng Giêng, đâu là các viễn tượng sẽ được đưa ra trong các cuộc thảo luận này?

Đáp: Việc tìm kiếm hòa bình trong vùng Trung Đông là một dấn thân dài hạn của cộng đoàn quốc tế. Chiến tranh đang tiếp diễn và các xung khắc bùng nổ bên Irak cũng như tại nhiều nơi khác trên thế giới bắt buộc gia tăng các nỗ lực để chấm dứt bạo lực và khổ đau cho hàng triệu người. Tình hình đã trở thành phức tạp bởi các lợi lộc chiến thuật chồng chéo của các cường quốc như Nga và Hoa Kỳ, cũng như các chồng chéo cạnh tranh để nắm quyền điều khiển chính trị tôn giáo giữa hai nước Iran và A Rập Sauđi, hay giữa hệ phái Hồi giáo Sciít và hệ phái Hồi giáo Sunnít, cũng như bởi các chồng chéo của đòi buộc sống còn đối với các tín hữu kitô trong vùng vốn đã phức tạp. Bước cấp thiết thứ nhất cần phải làm đó là ngưng cảnh bạo lực và tàn phá đang tiếp diễn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cho nghe tiếng nói rõ ràng của ngài đối với một giải pháp hoà bình công bằng cho vùng Trung Đông, nơi ngài sẽ viếng thăm trong vài tháng nữa. Theo gương ngài, Hàn Lâm Viện Khoa Học của Tòa Thánh đã triệu tập một cuộc họp giữa các chuyên viên và các nhân vật tôn giáo để suy tư và tìm ra đề nghị hoạt động cụ thể cho hội nghị do Liên Hiệp Quốc và tất cả các lực lượng chính trị liên hệ triệu tập tại Genève vào ngày 22 tháng Giêng.

Hỏi: Tòa Thánh có đề ra các sáng kiến chuyên biệt nào bên cạnh hội nghị tại Genève không thưa Đức Cha?

Đáp: Hội Đồng Đại Kết các giáo Hội Kitô có tổ chức một cuộc họp của các vị lãnh đạo tôn giáo kitô và hồi giáo trong hai ngày 16-17 tháng Giêng, để ủng hộ các nhà chính trị và làm chứng cho sự cấp thiết của hòa bình, để chầm dứt cảnh di cư của hàng triệu người gồm nhiều phụ nữ và trẻ em và cảnh tàn sát biết bao nhiêu thường dân vô tội. Sứ bộ của tòa Thánh can thiệp vào vấn đề của Siria và tiếp tục làm điều này bằng cách đề nghị việc tôn trọng quyền bình đẳng của mọi công dân, với tất cả các quyền con người trước nhà nước. Không phải việc tùy thuộc một chủng tộc hay tôn giáo có quyền đưa ra các bổn phận và các quyền lợi, mà trước hết là việc tôn trọng bản vị con người. Chính trên con đường này của quyền công dân bình đẳng đối với tất cả mọi người về lâu về dài có thể giúp tìm ra hòa bình và cộng tác cho vùng Trung Đông.

Hỏi: Thưa Đức Cha trong năm 2014 này đâu là các điều cấp thiết mà Liên Hiệp Quốc phải đương đầu?

Đáp: Cả năm 2014 này nữa cũng là một năm dấn thân đối với công việc bình thường của Ủy ban Nhân Quyền và Hội nghị giải trừ vũ khí của Liện Hiệp Quốc, cũng như đối với các đòi buộc cứu trợ nhân đạo tạo ra bởi các xung khắc đang xảy ra bên Phi châu, và vùng Trung Đông, chẳng hạn như các làn sóng tị nạn mới tại Cộng hòa Trung Phi và tại Nam Sudan. Sự hiện diện của Tòa Thánh là một chút tiếng nói của lương tâm. Nhưng ưu tiên là việc kiếm tìm hòa bình, vì không có hòa bình, thì không thể có phát triển kinh tế và một cuộc sống binh thường và xây dựng được. Ngoài ra, còn có các lo lắng khác nữa mà chúng tôi phải dấn thân: đó là sự tự do tôn giáo ngày nay, dấn thân cho giới trẻ, bảo vệ các trẻ em, chống nạn buôn người và lo lắng đối với các cuộc di cư. Tham dự vào tiến trình này như là kích thích của tình liên đới đích thực, đó là thực hiện tình huynh đệ, mà Đức Thánh Cha Phanxicô loan báo.

(RG 12-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Sứ điệp của Đức Thánh Cha gửi Diễn Đàn kinh tế thế giới ở Davos

Sứ điệp của Đức Thánh Cha gửi Diễn Đàn kinh tế thế giới ở Davos

DAVOS. ĐTC Phanxicô kêu gọi giới doanh nhân thế giới quan tâm tới phẩm giá con người, đặt kinh tế phục vụ công ích, chấm dứt tình trạng nhiều người bị gạt ra ngoài lề xã hội, chiến đấu chống nghèo đói và quan tâm đến người tị nạn.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong Sứ điệp gửi Diễn Đàn kinh tế thế giới lần thứ 44 đang tiến hành tại Davos, Thụy Sĩ, cho tới ngày 25-1 tới đây, với sự tham dự của 2,500 người, trong đó có 40 vị quốc trưởng và thủ tướng chính phủ, ông Tổng thư ký LHQ Ban Ki-Moon, chủ tịch Ngân hàng trung ương Âu châu Mario Draghi. Ngoài ra cũng có nhiều đại diện của các tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ (Ong). Về phía Công Giáo có ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, ĐHY Luis Tagle, TGM Manila, ĐHY John Onayekan, TGM Abuja, Nigeria, Đức TGM giáo phận Dublin, Diarmuid Martin.

Dưới đây là bản dịch toàn văn sứ điệp của ĐTC, được ĐHY Turkson tuyên đọc chiều ngày 21-1-2014.

Kính gửi Giáo Sư Klaus Schwab

Chủ tịch điều hành Diễn Đàn Kinh Tế thế giới

Tôi rất biết ơn vì Giáo Sư đã mời tôi lên tiếng tại cuộc gặp gỡ thường niên của Diễn Đàn Kinh Tế thế giới, tiến hành như thường lệ tại Davos-Klosters vào cuối tháng này. Tin tưởng rằng cuộc gặp gỡ này sẽ mang lại cơ hội để suy tư sâu xa hơn về những nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới trong những năm gần đây, tôi muốn cống hiến vài suy tư với hy vọng có thể làm cho cuộc thảo luận tại Diễn Đàn thêm phong phú và góp phần hữu ích vào công việc quan trọng của Diễn Đàn.

Thời đại chúng ta có những thay đổi đáng kể và những tiến bộ đầy ý nghĩa trong các lãnh vực khác nhau với những hệ luận quan trọng đối với đời sống của nhân loại. Thực vậy, ”chúng ta phải ca ngợi những biện pháp đã được đề ra để cải tiến an sinh của dân chúng trong các lãnh vực như săn sóc sức khỏe, giáo dục và truyền thông” (Niềm vui Phúc Âm, 52), không kể nhiều lãnh vực hoạt động khác của nhân loại, và chúng ta phải nhìn nhận vai trò cơ bản của các hoạt động kinh doanh tân thời trong việc tạo nên những thay đổi ấy, bằng cách kích thích và phát triển tiềm năng bao la của trí tuệ con người. Tuy nhiên, những thành công đã đạt được, cho dù đã giảm bớt nghèo đói cho nhiều người, nhưng chúng thường dẫn đến tình trạng gạt bỏ nhiều người hơn ra ngoài xã hội. Thực vậy, đa số dân chúng thời nay vẫn còn phải chịu tình trạng bất an hằng ngày, nhiều khi với những hậu quả bi thảm.

Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ của quí vị, tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của các lãnh vực chính trị và kinh tế khác nhau trong việc thăng tiến một lối tiếp cận bao gồm, để ý đến phẩm giá của mỗi người và công ích. Tôi muốn nói đến một quan tâm cần phải có khi đề ra mỗi quyết định về chính trị và kinh tế, nhưng nhiều khi quan tâm ấy chỉ là một suy nghĩ mà thôi. Những người làm việc trong các lãnh vực này có một trách nhiệm rõ ràng đối với tha nhân, đặc biệt là những người mong manh, yếu thế nhất và dễ bị thương tổn. Thật là điều không thể chấp nhận được sự kiện mỗi ngày có hàng ngàn người tiếp tục chết vì đói, mặc dù có đủ số lượng thực phẩm và nhiều khi lương thực ấy bị phung phí. Cũng thế, chúng ta không thể không xúc động vì nhiều người tị nạn đang tìm kiếm những điều kiện tối thiểu để sống xứng đáng, chẳng những họ không được tiếp đón, nhưng nhiều khi bị chết đau thương trên đường di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác. Tôi biết những lời này thật là mạnh, và bi thảm, nhưng những lời này đều tìm cách khẳng định và thách thức khả năng của đại hội này làm sao kiến tạo được một sự khác biệt. Thực vậy, những người đã chứng tỏ khả năng của họ trong việc đổi mới và cải tiến cuộc sống của nhiều người qua tài năng và nghề nghiệp chuyên môn của họ có thể góp phần thêm bằng cách dùng những năng khiếu của họ để phục vụ những người vẫn còn sống trong nghèo khổ lầm than.

Vì thế, điều đang cần bây giờ là một sự ý thức mới mẻ, sâu xa và bao quát về trách nhiệm của tất cả mọi người. ”Doanh nghiệp là một ơn gọi, một ơn gọi cao quí, với điều kiện những người dấn thân trong doanh nghiệp thấy mình được thách thức vì một ý nghĩa lớn lao hơn trong cuộc sống” (Niềm Vui Phúc Âm, 203). Những người nam nữ ấy có thể phục vụ công ích một cách hữu hiệu hơn và làm cho các tài nguyên của thế giới này có thể được nhiều người sử dụng hơn. Tuy nhiên, sự gia tăng bình đẳng đòi phải một cái gì rộng lớn hơn là sự tăng trưởng kinh tế, tuy rằng nó giả thiết phải có sự tăng trưởng kinh tế. Trước tiên nó đòi ”phải có một nhân sinh quan siêu việt” (Biển Đức 16, Bác ái trong chân lý, 11), vì ”nếu không có viễn tượng về sự sống đời đời, thì những tiến bộ của con người trong thế giới này sẽ bị thiếu sinh khí (ibid.). Nó cũng đòi phải có những quyết định, những cơ cấu và tiến trình nhắm tiến tới sự phân phối quân bình hơn của cải, kiến tạo những nguồn mạch công ăn việc làm, và thăng tiến toàn diện cho người nghèo, không phải chỉ giới hạn vào vấn đề an sinh mà thôi.

Tôi xác tín rằng từ thái độ cởi mở như thế đối với siêu việt, một tâm thức mới về chính trị và kinh doanh có thể thành hình, một tâm thức có khả năng hướng dẫn mọi hoạt động kinh tế và tài chánh trong viễn tượng một lối tiếp cận hợp luân lý đạo đức, thực sự là nhân bản. Cộng đồng doanh nhân thế giới có thể cậy dựa nơi nhiều người nam nữ có đời sống lương thiện và thanh liêm cao độ, công việc của họ được gợi hứng và hướng dẫn nhờ những lý tưởng cao cả như sự trong sạch, quảng đại và quan tâm đối với sự phát triển đích thực của gia đình nhân loại. Tôi kêu gọi quí vị tận dụng những tiềm năng lớn lao này về mặt nhân bản và luân lý và đương đầu với thách đố này một cách quyết liệt và nhìn xa trông rộng. Tôi biết trong mỗi bối cảnh đều phải có những đòi hỏi về khoa học và chuyên nghiệp, nhưng tôi xin quí vị đảm bảo sao nhân loại được sự giàu sang phục vụ chứ không bị giàu sang cai trị.

Ông Chủ tịch và các bạn thân mến,

Tôi hy vọng rằng quí vị có thể nhìn thấy trong những lời vắn tắt này một dấu chỉ mối quan tâm mục vụ của tôi và như một đóng góp xây dựng để giúp cho hoạt động của quí vị trở nên cao thượng và nhiều thành quả hơn. Tôi tái cầu chúc cho cuộc gặp gỡ này được thành công, trong lúc tôi cầu xin Chúa chúc lành cho quí vị và các tham dự viên diễn Đàn, cũng như cho gia đình và hoạt động của quí vị.

Vatican ngày 17 tháng giêng năm 2014

Phanxicô
,


G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio
 

Đức Thánh Cha viếng thăm Giáo Xứ Thánh Tâm của Dòng Don Bosco, Roma

Đức Thánh Cha viếng thăm Giáo Xứ Thánh Tâm của Dòng Don Bosco, Roma

ROMA. Mặc dù trời mưa, hàng ngàn tín hữu đã nồng nhiệt đón tiếp ĐTC Phanxicô khi ngài đến viếng giáo xứ Thánh Tâm, do thánh Gioan Bosco thành lập cạnh Nhà Ga Trung ương Termini ở Roma chiều chúa nhật 19-1-2014.

Cuộc viếng thăm kéo dài gần 4 tiếng đồng hồ. Khi đến nơi vào lúc quá 4 giờ chiều, ĐTC đã gặp các giáo dân ở khuôn viên giáo xứ rồi trong một phòng, ngài gặp khoảng 60 người vô gia cư. Tiếp đến, trong một phòng khác, ngài gặp khoảng 100 người tị nạn, trong đó có một số người trẻ tị nạn đến Italia và đã trú ngụ tại đảo Lampedusa, cực nam Italia. Tham dự cuộc gặp gỡ cũng có đại diện của những người thiện nguyện trong xứ đạo. Rồi ĐTC gặp các trẻ em được rửa tội trong năm cùng với cha mẹ các em, các đôi vợ chồng mới cưới và các gia đình trẻ.

Ngài đã giải tội cho 5 người, trước khi bắt đầu cử hành thánh lễ vào khoảng 6 giờ chiều. Trong bài giảng, ĐTC đã quảng diễn lời thánh Gioan Tẩy giả làm chứng về Chúa Giêsu, là ”Chiên Thiên Chúa Đấng gánh tội trần gian” và ngài mời gọi các tín hữu hãy tín thác nơi Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng: như chiên con trong sự yếu đuối, trong sự dịu dàng và yêu thương, Chúa đã đến để cất mọi tội lỗi của trần thế. Chúa Giêsu tha thứ tất cả, Chúa nhổ bỏ mọi tội lỗi.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”Niềm tín thác nơi Chúa chính là chìa khóa thành công trong đời”.

Sau thánh lễ, ĐTC còn chào thăm các bệnh nhân và gặp cộng đoàn các cha dòng Don Bosco tại đây, trước khi gặp các bạn trẻ.

Trong các cuộc gặp gỡ, ĐTC đã cám ơn sự đón tiếp nồng nhiệt của giáo xứ và nói: ”Giữa anh chị em, tôi cảm thấy sự nồng nhiệt trong sự tiếp đón, như đang ở trong gia đình, như đang ở trong nhà mình. Xin cám ơn anh chị em..!”

Giáo xứ Thánh Tâm, ngay từ khi thành lập hồi năm 1879 vẫn được ủy thác cho các cha dòng Don Bosco coi sóc. Đây là xứ đạo thứ 4 ở Roma được ĐTC Phanxicô viếng thăm. Tuy chỉ có hơn 2 ngàn giáo dân, giáo xứ hoạt động rất tích cực trong việc mục vụ giới trẻ, và giúp đỡ những người vô gia cư cũng như người tị nạn. Cha sở Valerio Baresi SDB nói với đài Vatican:

”Trong vòng một năm, chúng tôi đón tiếp và tiếp xúc với hơn 300 người tị nạn, họ đến giáo xứ để tham gia những hoạt động khác nhau như các lớp học tiếng Ý và có thể theo học để lấy bằng trung học, lớp tập lái xe, tin học, cách tìm việc làm trên Internet, v.v. (RG 19-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

“Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm”

“Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm”

Phỏng vấn Linh Mục Roberto D'Avanzo, giám đốc Caritas thánh Ambrosiana tổng giáo phận Milano bắc Italia

Năm 2014 là ”Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm”. Năm này có mục đích gây ý thức cho các dân tộc âu châu sống trong các xã hội giầu có tân tiến thừa bứa ý thức hơn đối với việc mua và dùng thực phẩm.

Khi tìm hiểu hệ thống thị trường sản xuất, di chuyển, đóng gói và tung vào thị trường tiêu thụ tại các nước Tây Âu tân tiến, người ta nhận ra một số luật lệ thương mại phải gọi là ”tàn ác”. Thứ nhất là luật giữ giá thị trường. Để giữ giá trên thị trường tiêu thụ các nông dân rất thường bị bắt buộc phải hủy bỏ số lượng rau trái sản xuất thặng dư. Điển hình như nông dân trên đảo Sicilia nam Italia, là nơi có các đồn điền trồng cam quít rất phong phú. Từ bao thập niên qua chính sách giữ giá thị trường tiêu thụ bắt buộc họ phải hủy bỏ hàng núi cam quít, bằng cách dùng xe ủi đất nghiền nát số cam quít sản xuất thặng dư để làm phân bón. Nông dân phải thường xuyên sống cảnh thấy mồ hôi nước mắt của họ bị các luật lệ của thị trường khinh thường vứt bỏ.

Thế rồi nếu theo đõi lộ trình của các nông sản từ lúc được gặt hái, chuyên chở tới các nhà máy sản xuất thực phẩm để được lựa chọn, rửa sạch, đóng thùng, đóng bịch, di chuyển vv… cho tới lúc được bầy bán trong các siêu thị, người ta mới nhận ra số thực phẩm bị lựa lọc và loại trừ vứt bỏ nhiều chừng nào. Tất cả rau trái bị dập, bị nát hay trầy trụa, dù chỉ là một tí hầu như đều bị loại bỏ. Vì tâm thức của khách hàng bỏ tiền ra mua, đòi hỏi mọi thứ đều phải nguyên vẹn, xinh đẹp, tươi mát, bắt mắt, nên tất cả những sản phẩm nào không đáp ứng các yêu sách đó đều bị loại bỏ và phế thải.

Trong tiến trình chuyên chở các sản phẩm đã được chuẩn bị sẵn sàng để phân phối trong hàng trăm ngàn siêu thị, thường cũng xảy ra sự hư hại: các thùng sản phẩm bị rơi, bị méo, bị rách vv… sẽ được loại bỏ một lần nữa.

Bên cạnh đó nghệ thuật quảng cáo bầy hàng ngày càng tinh vi, khiến cho các siêu thị ngày càng trở nên hấp dẫn đối với khách hàng tiêu thụ. Các chuyên viên quảng cáo, trưng bày đều là những người đã được huấn luyện có bài bản và rất sành tâm lý của khách hàng, nên cách trưng bầy trong các siêu thị, các màu sắc loại hàng cũng được nghiên cứu kỹ lưỡng, và cứ lâu lâu kiểu trưng bầy và sắp xếp lại được thay đổi sao cho ngày càng hấp dẫn hơn.

Ngoài hàng ngàn mặt hàng mà khách tiêu thụ tha hồ lựa chọn theo sở thích, yếu tố tâm lý thị hiếu, mầu sắc, mời mọc kích thích thú mua sắm của khách hàng, đến độ họ thường mua nhiều hàng hóa và thực phẩm hơn mức cần thiết cho cuộc sống thường ngày. Đó là chưa kể tới ”chiêu hạ giá” sản phẩm vào rất nhiều dịp khác nhau lại càng kích thích sở thích mua sắm của người tiêu thụ hơn nữa.

Trong số các sản phẩm và thực phẩm mỗi gia đinh mua về hàng tuần hay mỗi mười ngày, rất thường khi có nhiều thứ không cần thiết hay không hợp sở thích của mọi thành phần trong gia đình. Sau một thời gian để trong tủ lạnh hay chất đống đâu đó chúng đều bị vứt vào thùng rác, trong đó thường xuyên có nhiều thực phẩm như bánh, rau và trái cây. Chúng ta cứ nghĩ tới các thủ đô lớn đông người với hàng triệu hay hàng chục triệu dân cư trên thế giới, mỗi ngày có biết bao tấn thực phẩm còn tốt nguyên bị vứt vào thùng rác. Điển hình như Roma, một thủ đô có 4 triệu người. Mỗi ngày số bánh mì còn tốt nguyên nhưng là bánh cũ và ỉu bị vứt đi lên tới hàng tấn. Cứ thế mà nhân lên với số hàng trăm ngàn thành phố lớn nhỏ tại Âu châu và hàng triệu thành phố trên toàn thế giới, chúng ta có thể tưởng tượng được số thực phẩm phung phí nhiều chừng nào.

Hồi tháng 6 năm 2013 đề cập tới tệ nạn người dân các nước giầu tây âu phung phí thực phẩm Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: ”Thực phẩm mà người ta vứt đi giống như thể thực phẩm bị ăn trộm từ bàn của người nghèo, của người đói”.

Theo tổ chức Lương Nông Quốc Tế FAO, có trụ sở tại Roma, một phần ba tổng số thực phẩm trên thế giới bị phung phí, tức tổng cộng lên tới 1,3 tỷ tấn hàng năm. Trong năm 2013 tính đổ đồng mỗi một người dân âu châu đã vửt đi 180 kí thực phẩm. Trong buổi tiếp kiến chung thứ tư hàng tuần ngày mùng 5 tháng 6 năm 2013 Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích rằng ”nền văn hóa gạt bỏ đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với các phung phí thực phẩm. Nó lại càng đáng phiền trách hơn nữa, khi tại khắp nơi trên thế giới rất tiếc có nhiều người và nhiều gia đình phải khổ đau vì đói và thiếu dinh dưỡng.” Trong video sứ điệp gửi cho chiến dịch ”Một gia đình nhân loại, thực phẩm cho mọi người” do Caritas quốc tế phát động, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trở lại với đề tài này và nhắc cho mọi người biết rằng các hành động thường ngày của từng người trong chúng ta có ảnh hưởng trên cuộc sống của những người sống gần hay xa chúng ta đang phải chịu đói khổ trên chính thân xác họ”.

Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bải phỏng vấn Linh Mục Roberto D'Avanzo, giám đốc Caritas thánh Ambrosiana về Năm châu Âu chống nạn phung phí thực phẩm.

Hỏi: Thưa cha, tại sao lại xảy ra tình trạng ngược đời như thế: người dân các nước âu châu giầu có thì vứt bỏ và phung phí thực phẩm, trong khi có hàng tỷ người trên thế giới lại đói khát, thiếu ăn và không đủ đinh dưỡng?

Đáp: Lý do là ở chính giữa có guồng máy ác độc, vì thế nhân loại cứ luôn luôn phải lắc lư giữa các thời điểm khó khăn hơn bị ghi dấu bởi các thiếu thốn, trong đó khi gặp các tình trạng khó khăn người ta học biết bằng lòng với cái ít ỏi và biết đánh giá cao sự ít ỏi đó, và những thời gian trong đó người ta hoàn toàn quên những gì đã bỏ lại sau lưng và các điều kiện sống của đa số các dân tộc trên thế giới, bằng cách thích ứng với các kiểu sống ghi dấu bởi các thái quá, bởi sự phung phí và không có khả năng chia sẻ. Thời gian khủng hoảng hiện nay, mà chúng ta đang trải qua cũng có thể trở thành ích lợi nếu nó giúp chúng ta thảo luận kiểu sống và tương quan của chúng ta với các tài nguyên của cải mà thiên nhiên cống hiến cho chúng ta.

Hỏi: Tại sao ngày nay người ta lại vẫn phung phí thực phẩm như vậy, có các lý do nào không thưa cha?

Đáp: Chắc chắn việc phung phí thực phẩm ngày nay liên quan tới các hệ thống sản xuất và tiêu thụ của các nước giầu, của các nước khá giả hơn. Một cách mâu thuẫn chúng ta cũng nhận thấy điều đó liên quan tới các thứ bệnh do thực phẩm gây ra. Vì thế một trong những chiến dịch đã được phát động tại các nước kỹ nghệ giầu nói trên đó là chiến dịch chống lại bệnh mập phì, là bệnh có nhiều trẻ em và người lớn mắc phải ngày nay. Như vậy, một đàng chúng ta bệnh tật vì cuộc sống phong phú giầu có của mình, đàng khác chúng ta lại rơi vào tình trạng tuyệt đối tiêu cực là bệnh khước từ hoàn toàn thực phẩm, khiến cho biết bao nhiêu thanh thiếu niên phải thiệt mạng.

Hỏi: Tổ chức Caritas Ambrosiana tham gia và tái đề nghị với Caritas quốc tế việc phát động chiến dịch ”Một gia đình, thực phẩm cho mọi người”. Trong sư điệp video Đức Thánh Cha Phanxicô đã khích lệ mọi người biết ”ý thức hơn đối với các lựa chọn thực phẩm”. Đâu là các sáng kiến trực tiếp mà Caritas Ambrogiana đang làm, thưa Cha?

Đáp: Tiền đề đối với chúng tôi đó là chiến dịch này của tổ chức Caritas Quốc Tế là một dịp ngoại thường giúp toàn cộng đoàn kitô chuẩn bị cho biến cố cuộc Triển Lãm Âu Châu diễn ra tại Milano này vào năm 2015. Nhưng nhất là nó là dịp đóng góp suy tư cho một loạt các sáng kiến nảy sinh, cả một cách rất là tự phát trong các năm này. Trong các giáo xứ đã phát triển ý tưởng thành lập các kho dự trữ thực phẩm, như là kết qủa các cuộc quyên góp định kỳ trong giáo xứ, hay kết qủa của các thỏa hiệp với siêu thị của khu vực có các thực phẩm dư thừa, hay các sản phẩm vì các lý do tầm thường chẳng hạn như việc đóng gói không hoàn hảo nên không thể bán được nữa, nhưng vẫn hoàn toàn còn tốt. Óc tưởng tượng của tình bác ái của các nhân viên của chúng tôi đã huy động cả một mạng lưới phân phối. Ngoài ra, trên bình diện giáo phận, chúng tôi cũng đang huy động ý tưởng thành lập một số các điểm chiến lược trong giáo phận Milano, tức các nơi để tích chứa các thực phẩm loại này, rồi phân phát cho người nghèo. Hay chúng tôi cũng đang tiến tới một chương trình rất hay đẹp đã được thực hiện tại Roma và các vùng ngoại ô Roma từ mấy năm nay. Đó là siêu thị thực phẩm, nơi các người nghèo có thể đến ”mua thực phẩm” mà không phải trả tiền. Họ chỉ cần tiếp xúc với các trung tâm lắng nghe và nhận thẻ để có thể tới nhận các thực phẩm này tại siêu thị bác ái. Đó là các sáng kiến nhằm giảm thiểu việc phung phí thực phẩm, và làm nảy sinh ra một tình liên đới đối với những ai phải vất vả đối phó với vần đề thực phẩm để sống. Thế nhưng chúng tôi cũng muốn thảo luận một chút về mô thức kinh tế và mô thức thị trường, mà các nước kỹ nghệ giầu đang theo đuổi. Chúng ta không được chỉ bằng lòng với việc khai thác các dư thừa, cả khi mục đích của nó là điều tốt đi nữa. Chúng ta muốn cùng nhau phát triển một suy tư, để trong một cách thức nào đó chúng ta đặt ra các tiền đề giúp thay đổi hệ thống sản xuất, thay đổi kiểu khai thác các tài nguyên thực phẩm của địa cầu, và với kết qủa là làm nảy sinh ra nhiều công bằng hơn, để trành cảnh ”kẻ ăn không hết, người lần không ra.”

(RG 1-1-2014)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

Kinh Truyền Tin Với Đức Giáo Hoàng: Sống Như Người Môn Đệ Của Con Chiên Thiên Chúa

Kinh Truyền Tin Với Đức Giáo Hoàng: Sống Như Người Môn Đệ Của Con Chiên Thiên Chúa

VATICAN, Trong bài chia sẻ trước khi đọc kinh Truyền Tin diễn ra vào lúc 12h tại quảng trường Thánh Phêrô, Vatican, Đức Thánh Cha đã chia sẻ về hình ảnh “Con Chiên” mà Gioan Baotixita đã dùng khi giới thiệu về Đức Giêsu cho người khác.

Ngài nói: “Trong Chúa Nhật thứ 2 mùa Thường Niên hôm nay, đoạn Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta cảnh tượng gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Gioan Baotixita, tại sông Giordan. Thánh Sử Gioan, người đã kể lại cho chúng ta câu chuyện này là chứng nhân tận mắt. Trước khi trở thành môn đệ của Đức Giêsu, thánh nhân là môn đệ của Gioan Baotixita, cùng với anh mình là Giacobe, với Simon và Anre, tất cả đều là người Galilea, là ngư phủ. Gioan Baotixita thấy Đức Giêsu tiến tới giữa đám đông thì nhận biết Người là sứ giả của Thiên Chúa, nên đã nói về Người rằng: "Đây là Chiên thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian!" (Ga 1,29)”.

Đức Thánh Cha cũng chia sẻ rằng Đức Giêsu đến là để cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi và Người đã làm điều đó bằng tình yêu, một tình yêu hiền lành, sẵn sàng mang lấy tất cả những nỗi thống khổ của chúng ta để cứu thoát chúng ta.

Ngài nói: “…Đức Giêsu đến trong trần gian này với một sứ mạng đặc biệt: giải phóng con người khỏi sự kềm kẹp của tội lỗi. Bằng cách nào? Bằng tình yêu thương. Không có cách nào khác để chiến thắng sự dữ và tội lỗi ngoại trừ tình yêu thúc đẩy người ta đến chỗ trao ban sự sống mình cho người khác. Trong lời chứng của Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu có những dấu tích của Người Tôi Tớ Chúa, " người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta" (Is 53,4), và chết trên cây thập giá. Người đích thực là con chiên vượt qua, bị nhận chìm trong dòng sông tội lỗi của chúng ta để thanh tẩy chúng ta.”

“Gioan Baotixita nhìn thấy trước mặt mình một người đàn ông xếp hàng với những tội nhân để xin chịu phép rửa dù người ấy không cần, một người mà Thiên Chúa đã sai đến thế gian như một con chiên hiến tế. Trong Tân Ước, thuật ngữ "con chiên" được sử dụng nhiều lần và luôn ám chỉ đến Đức Giêsu. Hình ảnh con chiên này có thể khiến chúng ta ngạc nhiên; quả vậy, một con vật không phải là biểu tượng cho sức mạnh và sự cường tráng lại mang trên vai mình những gánh nặng nề. Một lượng lớn sự xấu bị xóa bỏ và bị mang đi bởi một loài yếu đuối và mỏng manh, biểu tượng của sự vâng phục, hiền lành và tình yêu bất lực, cùng với sự hiến tế chính mình Ngài. Con chiên không thống trị nhưng rất hiền lành, không gây hấn nhưng yêu hòa bình, không nhe nanh vuốt trước bất cứ đối tượng nào tấn công nó, nhưng luôn chịu đựng và phục tùng.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha gợi lên trong lòng mọi người một câu hỏi: “Là người môn đệ của Đức Giêsu, chiên thiên Chúa có nghĩa là gì đối với Giáo Hội, đối với chúng ta ngày hôm nay?”.

Và ngài đã trả lời rằng: “Có nghĩa là lấy hiền từ đối lại cái ác, lấy tình yêu thay thế sức mạnh, lấy khiêm nhường bù lại kiêu hãnh, lấy phục vụ đối lại cao danh. Là những người môn đệ của Con Chiên có nghĩa là không sống như một "thành trì bị vây hãm", nhưng như một thành phố đặt trên núi cao, mở ra, đón nhận và liên đới. Nó có nghĩa là không được có thái độ đóng lại, nhưng mang Tin Mừng đến cho tất cả, làm chứng bằng cuộc sống của chúng ta rằng bước theo Đức Giêsu giúp chúng ta tự do hơn và hoan lạc hơn”.

Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nhắc nhớ các tín hữu rằng Chúa Nhật này là ngày Quốc Tế Di Dân và Tị Nạn. Cách đây mấy tháng, Đức Thánh Cha đã cho công bố một sứ điệp của ngài về ngày này với chủ đề ““Những Người Di Dân và Tị Nạn: Hướng Đến Một Thế Giới Tốt Đẹp hơn”. Ngài khuyên mọi người đừng bao giờ đánh mất đi niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn và chúc mọi người, đặc biệt là những ai đang số trong tình cảnh di dân – tị nan, được sống trong hòa bình nơi các quốc gia mà các bạn được đón tiếp, được bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của các bạn.

Sau đó, Đức Thánh Cha đã cùng các tín hữu hành hương dâng lên Đức Mẹ lời Kinh Kính mừng để cầu nguyện cho những người tị nạn và di dân đang sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo và khó khăn.: Kính Mừng Maria…

Cuối cùng, Đức Thánh Cha gửi lời chào đến tất cả các tín hữu đến từ các giáo xứ ở Ý và các nơi khác trên thế giới, cũng như các đoàn hội và các nhóm.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến 8 ngàn nhân viên Đài Rai

Đức Thánh Cha tiếp kiến 8 ngàn nhân viên Đài Rai

VATICAN. ĐTC Phanxicô đề cao sự nghiệp thông tin, xây dựng văn hóa của Đài Phát thanh và truyền hình RAI của Italia, đồng thời ngài cũng nhắc nhở về trách nhiệm luân lý của các nhân viên của đài này.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 18-1-2014, dành cho 8 ngàn người gồm ban giám đốc, các ký giả, các nghệ sĩ và nhân viên của Đài Rai, nhân dịp kỷ niệm 90 năm buổi phát thanh đầu tiên và 60 năm các chương trình đầu tiên của đài này.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC cũng đề cao sự cộng tác của Đài Rai với các cơ quan truyền thông của Tòa Thánh như Đài phát thanh Vatican và Trung tâm truyền hình Vatican. Nhờ sự cộng tác này nhân dân Italia đã có thể theo dõi các sinh hoạt ngoại thường và bình thường của Tòa Thánh và Giáo Hội Công Giáo.

ĐTC nhận xét rằng Đài Rai, với nhiều sáng kiến khác, đã là chứng nhân của tiến trình thay đổi của xã hội Italia, trong những biến đổi mau lẹ và đã góp phần đặc biệt vào sự thống nhất ngôn ngữ và văn hóa Italia.

ĐTC nhắc nhở rằng tưởng niệm một quá khứ đầy những chinh phục như thế nhắc nhở chúng ta tái ý thức về những trách nhiệm đối với hiện tại và tương lai. Ngài nói: ”Tôi muốn nhắc nhở cho tất cả anh chị em, những người hiện diện tại đây và những người không thể tham dự cuộc gặp gỡ này, rằng nghề của anh chị em, ngoài tính chất thông tin, còn có tính chất huấn luyện, một dịch vụ công cộng, nghĩa là phục vụ cho công ích.. Trách nhiệm ấy của những người đảm nhận dịch vụ công cộng không thể từ nhiệm vì bất kỳ lý do nào. Xét cho cùng, chất lượng luân lý đạo đức của truyền thông là thành quả của những lương tâm quan tâm tôn trọng con người, tôn trọng những người là đối tượng thông tin cũng như những người đón nhận thông tin ấy. Tránh loan tin không đúng sự thật, mạ lỵ và vu khống người khác. Mỗi người trong vai trò và trách nhiệm của mình, được kêu gọi cảnh giác để giữ cho mức độ luân lý đạo đức về thông tin luôn được ở cao độ”.

Trước khi được ĐTC tiếp kiến, ban giám đốc và nhân viên đài Rai đã tham dự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô do vị Giám quản thánh đường là ĐHY Angelo Comastri cử hành (SD 18-1-2014)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Cái chết của những người di cư trong sa mạc Sahara

Cái chết của những người di cư trong sa mạc Sahara

Phỏng vấn Linh Mục Moussie Zerai, giám đốc tổ chức Habeshia cộng tác phát triển.

Trong sứ điệp Giáng Sinh trưa ngày 25 tháng 12 vừa qua Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập tới nhiều điểm nóng trên thế giới, trong đó có thảm cảnh của người di cư tị nạn và tệ nạn buôn người. Đức thánh Cha đã cầu nguyện với Chúa Hài Nhi như sau: ”Lạy Chúa của sự sống… xin ban hy vọng và an ủi cho các người di cư tị nạn, đặc biệt trong vùng Sừng Phi châu và miền đông Cộng hòa Congo. Xin cho các người di cư tìm một cuộc sống xứng đáng hơn được tiếp đón và trợ giúp. Ước gì các thảm cảnh như thảm cảnh mà chúng con đã chứng kiến trong năm nay với nhiều người chết tại đảo Lampedusa, đừng bao giờ xảy ra nữa! Ôi Hài Nhi Bếtlêhem, xin đánh động con tim của những người liên lụy trong việc buôn bán người, để họ ý thức được sự trầm trọng của tội phạm này chống lại nhân loại.”

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin chung với hơn 100,000 tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật lễ Thánh Gia Nazareth ngày 28 tháng 12 Đức Thánh Cha lại tái lên tiếng về thảm cảnh của những người di cư tị nạn. Đề cập đến sự kiện Chúa Giêsu đã cùng cha mẹ phải trốn sang Ai Cập sống kiếp tị nạn đầy âu lo, bấp bênh và khó khăn, Đức Thánh Cha nói: ”Rất tiếc ngày nay cũng có hàng triệu gia đình phải sống trong thực tại buồn thương này. Hầu như moi ngày truyền hình và báo chì đều đưa tin các người di cư trốn chạy đói khát, chiến tranh và các hiểm nguy trầm trọng khác để tìm an ninh và một cuộc sống xứng đáng hơn cho mình và cho gia đình mình. Trong các vùng đất xa xôi ấy, cả khi có tìm được công văn việc làm, các người tị nạn và di cư không luôn luôn gặp được sự tiếp đón đích thật, lòng tôn trọng và đánh giá cao các giá trị họ đem theo. Các chờ mong hợp pháp của họ thường gặp các tình trạng phức tạp và các khó khăn xem ra không thể vượt thắng nổi. Khi nhìn vào Thánh Gia Nagiarét phải bó buộc tị nạn, chúng ta nghĩ tới thảm cảnh của các người di cư tị nạn, nạn nhân của sự khước từ và khai thác bóc lột”.

Như đã biết, ngày mùng 3 tháng 10 năm 2013 một chiếc tầu chở người di cư tị nạn có lẽ khởi hành từ Libya, đã bị đắm rồi bị cháy ngoài khơi cách đảo Lampedusa 6 hải lý, khiến cho 363 người chết. Tai nạn này đã gây chấn động dư luận tại Italia và trong các nước Âu châu trước thảm cảnh của người di cư tị nạn. Kể từ khi có ”cuộc cách mạng hoa nhài” tại các nước Bắc Phi, số người di cư tị nạn tăng vọt, khiến cho Lampedusa rơi vào tình trạng khủng hoảng, vì không có đủ các cơ cấu hạ tầng để tiếp đón hàng chục ngàn người tìm cặp bến tại đây.

Ngoài cảnh di cư ti nạn bằng đường biển, cũng còn có thảm cảnh của những người di cư ti nạn bằng đường bộ, trước khi tiếp tục chặng hai bằng tầu. Hồi tháng 11 năm 2013 đã có gần 100 người di cư bị chết vì đói khát trong sa mạc Sahara bên Niger, đa số là phụ nữ và trẻ em, trong khi họ tìm cách vượt biên giới trên hai chiếc xe camion, để đến Algeria, rồi từ đó sang Âu châu. Ngoài ra trong các năm qua còn có cảnh người di cư tị nạn Phi châu bị các tổ chức buôn người bắt giữ làm con tin và đòi tiền chuộc trong bán đảo Sinai.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bải phỏng vấn Linh Mục Moussie Zerai, giám đốc tổ chức Habeshia cộng tác phát triển, về cái chết của những người di cư trong sa mạc Sahara nói trên.

Hỏi: Thưa Cha Zerai, cha nghĩ gì về thảm cảnh của những người di cư tị nạn bị chết trong sa mạc Sahara bên Niger, như báo chí đã loan tin hồi tháng 11 năm 2013?

Đáp: Đây là một hiện tượng gắn liền với hiện tượng xảy ra trong vùng Địa Trung Hải, và với các vụ đắm tầu trong thời gian qua. Người ta ít nói đến chúng, nhưng rất thường xảy ra là có hàng chục người chết trong vùng biên giới giữa hai nước Sudan và Libya, Ciad hay Niger. Nhưng rất tiếc là không có ai kể lại các biến cố thê thảm này.

Hỏi: Vả lại đây là các thi thể được tìm thấy trong tình trạng đã rữa nát, vì vậy ngoài thảm cảnh cái chết của họ, trong trường hợp này còn có tình trạng hoàn toàn bỏ mặc không chú ý gì đến và không tôn trọng các nạn nhân khốn khổ này nữa, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Rất tiếc là đúng như vậy, vì thường khi họ bị các tổ chức buôn người bỏ rơi. Cả trong qúa khứ, ít nhất là dưới chế độ của ông Gheddafi, chính các binh sĩ Libya đã đưa người di cư tị nạn rồi bỏ rơi họ tại vùng biện giới giữa hai nước, và các người di cư tị nạn này chết đói chết khát. Người sống mà người ta còn không tôn trọng, huống chi là người đã chết rồi, ai mà tôn trọng họ. Rất tiếc sự thật là như thế.

Hỏi: Đó là các cuộc ”du hành tuyệt vọng” đàng sau nó có các tổ chức tội phạm với các cơ cấu rất tinh vi tỉ mỉ và rộng rãi. Chúng tôi cũng còn biết có các tổ chức buôn người đến nhận người di cư trong các trại tị nạn, bắt họ trả các số tiền rất lớn, và hứa là sẽ đưa họ tới các nước Âu châu, có đúng thế không thưa cha?

Đáp: Vâng đúng thế. Các tổ chức này thường có được sự đồng lõa của các binh sĩ và các chính quyền địa phương, bởi vì di chuyển các nhóm người động như vậy là điều không thể làm được, nếu đã không có sự sắp đặt trước với các binh sĩ và các chính quyền kiểm soát sự di chuyển của người dân. Thế nhưng nhờ hối lộ nên các tổ chức này vượt qua được mọi chướng ngại, và các kẻ buôn người này sống trên da thịt của các nạn nhân đáng thương đó.

Hỏi: Một lần nữa thảm cảnh của những người di cư tị nạn lại khiến cho người ta nói đển một sự cộng tác quốc tế trong việc tránh cái chết cho họ. Nhưng nói đến một hánh lang nhân đạo có đủ không, theo cái nhìn của cha?

Đáp: Các hành lang nhân đạo cũng không đủ đâu, cần phải làm việc trên nhiều mặt khác nhau. Trước hết là dấn thân của cộng đồng quốc tế: đó là giải quyết các lý do thúc đẩy những người này bỏ quê hương xứ sở ra đi. Nhưng cũng có giải pháp tam thời là tìm ra các đường lối hợp pháp để tiếp nhận các người di cư này và cung cấp cho họ sự che chở thực sư mà họ đang cần có. Chẳng hạn mở cửa các tòa đại sứ để thu nhận đơn xin di cư tị nạn của họ. Có các chương trình tái hội nhập, có các dụng cụ khác nhau giúp di chuyển hợp pháp người có đơn xin từ các trại tị nạn tới các nước nhận che chở họ.

Hỏi: Thưa cha Zerai, thường thì từ phía các nước Âu châu người ta áp dụng chính sách hạn chế, nhưng cũng cần như cha nói tập trung trên các lý do gây ra các làn sóng di cư ti nạn này. Chúng ta hãy nghĩ tới Somalia nơi có nội chiến từ 20 năm nay. Đó là các quang cảnh khủng hoảng rất trềm trọng, có đúng thế không?

Đáp: Đúng thế. Nâng cao các hàng rào cản là điều vô ích. Cả trong các ngày này người ta cũng đã nói tới các biện pháp củng cố việc canh phòng các biên giới: điều này có nghĩa là gì, chúng ta củng cố các vụ đẩy lui người di cư tị nạn hay sao? Như thế chúng ta khiến cho các người này có nguy cơ chết trong sa mạc, bởi vì các nước tìm ngăn chặn các làn sóng di cư tị nạn dùng phương tiện hèn hạ bỏ rơi các anh chị em này dọc biên giới trong sa mạc. Đây là điều không thể chấp nhận được. Như vậy nếu pháo đài Âu châu hoàn toàn đóng cửa biên giới đối với việc vi phạm kiểu này, thì chính Âu châu sau cùng sẽ trở thành đồng lõa của các vi phạm ấy. Không thể làm như thế.

Như vậy hành động không chỉ là dựng cao các rào cản là đủ, mà phải làm việc và trước hết là để dập tắt các chiến tranh tại nhiều nước khác nhau. Qúy vị đã nói tới Somalia với cuộc nội chiến kéo dài từ 20 năm qua… Bên Eritrea từ 20 năm qua có chế độ độc tài tự biện minh cho sự hiện hữu của mình bằng một cuộc chiến không bao giờ đánh. Có một cuộc xung đột đã không được giải quyết từ 13 năm nay trong vùng biên giới giữa Etiopia và Eritrea. Chiến tranh bên Syria cũng thế, càng kéo dài chiến tranh loai này, thì lại càng có nhiều người di cư tị nạn thôi.

(RG 1-11-2013)

Linh Tiến Khải – Vatican Radio

CHIÊN THIÊN CHÚA

CHIÊN THIÊN CHÚA

Trong sách Samuel quyển hai, tiên tri Nathan có kể cho Vua Ðavit nghe câu chuyện sau: Hai người nọ là công dân trong cùng một thành phố. Một người thì giàu có và thế lực, người kia thì nghèo xơ, cô thân cô thế. Gã giàu nọ có một đàn chiên đông đến nỗi gã đếm không xuể, đang khi anh nghèo nọ chỉ có một chú chiên chỏ xíu.

Tuy nhiên, những đứa con của anh nghèo nọ rất thương con chiên ấy và chơi đùa với nó suốt ngày. Chúng mang nó đến cả bàn ăn và chia cho nó phần thức ân ít ỏi của mình. Nathan kể rằng lũ trẻ còn dạy cho con chiên uống nước trong tách nữa và chú chiên ta thật chả khác nào một thành viên trong gia đình.

Một ngày nọ, anh chàng giàu phải tiếp đãi một vị khách quan trọng đến thăm hắn. Hắn chẳng muốn giết bất cứ con chiên nào của mình để đãi khách cả. Vì thế hắn truyền cho đám tôi tớ chạy qua nhà anh chàng nghèo nọ, bắt con chiên của anh ta đem giết để đãi khách.

Câu chuyện gây xúc động về sự độc ác của gã giàu nọ đó là một trong những hình ảnh của Gioan Tẩy Giả mường tượng trong tâm trí khi ngài đưa ngón tay xương xẩu chỉ vào Chúa Giêsu và nói với các đệ tử của mình: “Ðó là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 29).

Câu chuyện của Nathan về con chiên cưng của anh chàng nghèo nọ chắn chắn thích hợp để áp dụng vào trường hợp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng rất được yêu thương. Và Ngài cũng bị đám người độc ác giết chết cách tàn bạo. Tuy nhiên, trong tâm trí thánh Gioan có một hình ảnh khác khi ngài đưa ngón tay chỉ vào Chúa Giêsu và nói: “Ðó là Chiên Thiên Chúa”. Hình ảnh đó là hình ảnh những con chiên bị sát tế mỗi ngày trong đền thờ. Thiên Chúa đã phán với Moisê trong sách Xuất Hành như sau: “Suốt thời gian sắp tới, mỗi ngày các ngươi hãy hiến tế trên bàn thờ hai con chiên tuổi được một năm, một con hiến tế vào buổi sáng, con kia vào buổi chiều.” (Xh 29: 38-39)

Việc hy tế trong đền thánh được thi hành từ năm này qua năm khác, ngay cả trong thời kỳ rất đói kém, là thời thực phẩm rất hiếm hoi và nhiều người dân bị chết đói. Khi chỉ vào Chúa Giêsu và nói: “Kia là Chiên Thiên Chúa, Ðấng xoá tội trần gian”, Gioan đang hình dung trong trí mình những con chiên hy tế được dâng lên mỗi sáng, mỗi đêm trong đền thờ để xoá tội cho dân. Thực ra, Gioan đang nói với các đệ tử mình: “Mỗi ngày chúng ta dâng chiên trong đền thờ vì tội lỗi chúng ta, nhưng chỉ có Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta khỏi những tội lỗi này“.

Trước Gioan Tẩy Giả rất lâu, các tiên tri đã nói về người tôi tớ kỳ nhiệm của Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên… Isaia đã mô tả cái chết đau thương của người tôi tớ này trong chương 53: 7-8 như sau: “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng vẫn khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh, Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án và bị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta“.

Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Chúa Giêsu. Trong chương 11 câu 19, Giêrêmia viết: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi“.

Vì thế tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” gợi lên hai hình ảnh sống động. Thứ nhất là hình ảnh của tình yêu và lòng trìu mến như chúng ta đã thấy trong câu chuyện của Nathan kể về gã giàu có và anh chàng nghèo nọ. Thứ hai là hình ảnh sự đau đớn và hy sinh như chúng ta thấy trong việc sát tế chiên trong đền thờ và trong trường hợp người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, Chiên Thiên Chúa còn gợi lên một hình ảnh sau cùng. Chúng ta tìm thấy hình ảnh này trong sách Khải Huyền. Tác giả này áp dụng cho Chúa Giêsu tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” không dưới hai mươi tám lần. Tác giả vẫn giữ lại những ghi chú về tình yêu, sự trìu mến cùng nỗi đau khổ và hy sinh, nhưng còn thêm vào đó những ghi chú về vinh quang và khải hoàn nữa.

Một ví dụ rất hay về điểm này nằm nơi chương 5 của sách trong đó tác giả mô tả thị kíên của mình về con chiên ngự ở trên ngai. Con chiên được muôn dân vây quanh hát ca khen ngợi bằng bài hát sau: “Ngài đã bị giết và nhờ cái chết hy tế của Ngài, Ngài đã mua chuộc họ về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi bộ lạc, mọi ngôn ngữ, mọi quốc gia và mọi chủng tộc. Ngài đã biến họ thành vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa chúng ta” (Kh 5: 9-10)

Bấy giờ các thiên sứ cùng hợp với đám người vây quanh ngai. Tác giả sách Khải Huyền viết tiếp: “Tôi lại ngước nhìn và nghe tiếng các thiên thần, số thiên thần lên tới hàng ngàn triệu! Họ đứng chung quanh ngai và hát to lên: “Con Chiên bị giết đáng được lãnh nhận… Danh dự, vinh quang và tán tụng!… Tán tụng và danh dự, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Ngài muôn đời muôn kiếp” (Kh 5: 11-13) và tất cả mọi người đứng quanh ngai hô to: “Amen”.

Tóm lại, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” gợi lên ba hình ảnh sống động: hình ảnh thứ nhất về lòng trìu mến và tình yêu đối với con chiên, hình ảnh thứ hai về nỗi khổ đau và hy sinh mà con chiên gánh chịu, hình ảnh thứ ba là vinh quang và tán tụng dành cho con chiên.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi Chúa Giêsu có rất nhiều tước hiệu như “Ánh sáng trần gian”, “Mục tử nhân lành”, “Bánh hằng sống”… mà chỉ có tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” là tước hiệu duy nhất được dùng trong Thánh lễ. Chẳng hạn, ngay trước khi rước lễ, chúng ta thường hợp ca bài “Lạy Chiên Thiên Chúa”. Giây phút rất đặc biệt ấy trong Thánh lễ tiên báo giây phút chung cục của thời gian, khi tất cả muôn dân hiệp cùng các thiên sứ hát lên khúc hát này dâng lên Chúa Giêsu, là Chiên vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Ngài đã bị giết, và nhờ cái chết hy tế của Ngài, Ngài đã chuộc về cho Chúa muôn người thuộc mọi bộ lạc, mọi ngôn ngữ, mọi quốc gia, và mọi chủng tộc. Người đã biến họ thành các vương quốc tư tế để phụng sự Thiên Chúa chúng ta… Con Chiên bị giết đáng được lãnh nhận… danh dự, vinh quang và tán tụng!… Tán tụng và danh dự, vinh quang và quyền năng đều thuộc về Ngài muôn đời muôn kiếp! Amen“.

Cha Mark Link, SJ

Thấy, Biết rồi Làm Chứng

Thấy, Biết rồi Làm Chứng

Trong cuộc sống, chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.

Gioan cũng thế, trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, hai lần ông khẳng định: “Tôi đã không biết Người” (Ga.1,31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa “biết” Ngài.

Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (Lc.1,36), dù ông đã có một số thông tin về Ngài, và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (Mt.3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.

Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ. Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá ra Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần. Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là “Đấng Thiên Chúa Tuyển Chọn”. Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông làm phép rửa. Bây giờ ông mới có thể nói: ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã “biết” sau khi ông đã “thấy”.

Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh luyện. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu. Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Ông vui khi giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ của mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga.3,26). Ông sung sướng khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật lên (Ga.3,30).

Từ cái biết nhờ thấy, Gioan đã trở nên người làm chứng cho Đức Giêsu. Hành trình chứng nhân của Gioan cũng là của bạn và tôi hôm nay: “thấy, biết rồi làm chứng”.

Biết một người là chuyện khó. Biết Đức Giêsu còn khó hơn. Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người Giêsu, Đấng đã là đích điểm giao hòa giữa trời và đất; Đấng là tạo hóa nhưng lại hòa đồng với tạo vật, và cũng là Đấng đã liên kết giữa thần linh thánh thiện và con người tội lỗi.

Để biết Đức Giêsu, ta cần thấy Ngài tỏ mình ra. Nhưng không phải ta sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những việc xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, qua những con người đơn sơ ta vẫn gặp. Ta cần tập nhìn thấy Ngài tiềm ẩn sau lớp vỏ bọc xù xì của thực tế đời thường.

Cần thường xuyên làm mới lại “cái biết” về Đức Giêsu để mối tương quan của ta với Ngài mỗi ngày trở nên thâm trầm hơn, thân mật hơn. Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, là gặp gỡ, là chia sẻ chính cuộc đời của Ngài, là để “ta sống trong Ngài và Ngài sống trong ta”, thì cái biết đó phải là nỗ lực của cả một đời người Kitô.

Và lúc này đây, mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy dành ra đôi ba phút ngắn ngủi để đi vào lòng mình; để tìm gặp khuôn mặt Giêsu: Ngài đang ở đâu, ở chỗ nào trong cuộc sống của tôi? Tôi phải làm gì để nhận ra Ngài, bắt gặp Ngài đang sống bên tôi trong cuộc đời tạm bợ này?

Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.”(Ga.1,29). Còn bạn và tôi, chúng ta sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho những người xung quanh ta hôm nay?

Lạy Chúa Giêsu!

Xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ vô nghĩa.

Xin cho con cảm nhận tình Chúa thật bao la sâu thẳm, để con luôn được sống trong tình yêu thương sâu thẳm bao la ấy.

Xin cho con biết Chúa thật nhân từ và bao dung, để mỗi khi con vấp ngã trên đường đời, con luôn biết chỗi dậy và trở về cùng Chúa.

Giêsu ơi! Xin Ngài hãy đến và cư ngụ trong lòng con luôn mãi, để không còn là con nữa, mà là chính Ngài đang sống trong con. Amen.

Veritas Radio

         Đây Chiên Thiên Chúa

Trong Thánh Lễ, ta đọc Chiên Thiên Chúa nhiều lần. Có lẽ ít người hiểu được ý nghĩa của cụm từ “Chiên Thiên Chúa”. Nhưng khi Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu cho dân Do Thái: “Đây là Chiên Thiên Chúa” thì người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ.

Trong Kinh Thánh, chiên được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.

Thế nhưng chiên còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Hằng năm, vào Lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt Chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu. Nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập.

Lễ Vượt Qua được cử hành vào đầu mùa xuân. Người Do Thái nhớ đến con chiên. Con chiên đã chết cho họ được sống. Máu chiên đã đưa họ ra khỏi mùa đông tăm tối, tiến vào mùa xuân tươi sáng. Máu chiên đã giúp giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa họ về miền Đất Hứa, sống trong tự do.

Chúa Giêsu đã chịu tử hình vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Chịu chết vào dịp Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu chính là con chiên của Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.

Chúa Giêsu là con chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại.

Bản tiếng Việt dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Từ ngữ “xóa” là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng, nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy Lạp dùng từ ‘airein’, tiếng La tinh dùng từ ‘tollit’ có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. Có lẽ nên dịch là Chiên Thiên Chúa, Đấng ‘gánh’ lấy tội nhân loại thì đúng hơn. Xóa là đứng ngoài cuộc. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Người đã nhập cuộc, gánh lấy thân phận con người, và nhất là gánh lấy tội lỗi của con người. Chính vì gánh lấy tội lỗi mà Người, Đấng hoàn toàn trong sạch, vô tội đã chịu hạ mình xếp hàng giữa những người tội lỗi xin Gioan rửa tội. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Người lui tới với những người tội lỗi, chuyện trò với họ, ăn uống đồng bàn với họ. Nhưng nhất là chính vì gánh lấy tội nhân loại mà Người phải chịu chết giữa hai tội phạm, đồng số phận với họ, đồng bản án với họ, như những người trộm cướp.

Người gánh lấy tội của ta để ta được tha thứ. Người hạ mình xuống để ta được nâng lên. Người trở nên nghèo hèn để ta được giàu có. Người làm con loài người để ta được làm con Thiên Chúa. Người trở nên yếu hèn để ta được nên mạnh mẽ. Người chịu nhục nhã để ta được vinh quang. Người nhận lấy thân phận nô lệ để ta được tự do. Người cam lòng chịu chết để trả lại cho ta sự sống.

Người tín hữu thường được gọi là “Con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại ‘chiên’ trong ngày phán xét. Được đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Được vào hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Ước mong những con chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.

Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội con, xin thương xót con.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) “Chiên Thiên Chúa” gợi lên những ý tưởng nào nơi bạn?

2) Là ‘con chiên của Chúa’ bạn phải sống thế nào cho xứng đáng danh hiệu ấy?

3) Thánh Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với tất cả ý nghĩa sâu xa của danh hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Hôm nay, nếu phải giới thiệu Chúa Giêsu cho người chung quanh, bạn sẽ dùng danh hiệu nào?

ĐTGM Ngô Quang Kiệt