Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

Đức Thánh Cha tái kêu gọi hòa bình cho Syria

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 tái bày tỏ tình liên đới với các tín hữu và nhân dân Syria đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế nỗ lực đưa đất nước này ra khỏi tình trạng bạo lực và khủng hoảng hiện nay.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 21-6-2012 dành cho 80 tham dự viên khóa họp của Tổ chức Roaco gồm đại diện các cơ quan bác ái Công Giáo trợ giúp các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, dưới quyền chủ tọa của ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ này. Trong số các tham dự viên có một số GM thủ lãnh các Giáo Hội Công Giáo Đông phương và 2 vị TGM Đại diện Tòa Thánh tại Thánh Địa và Syria.

ĐTC nói ”Đây là cơ hội để tôi tái bày tỏ sự gần gũi với những đau khổ lớn lao của anh chị em tại Syria, đặc biệt là những trẻ em vô tội và những người yếu thế nhất. Ước gì kinh nguyện, sự dấn thân và tình huynh đệ cụ thể của chúng ta trong Chúa Kitô, như dầu an ủi, giúp họ khỏi đánh mất ánh sáng hy vọng trong những lúc đen tối này và xin Chúa ban ơn khôn ngoan cho những ai có trách nhiệm, để chấm dứt mọi cảnh đổ máu và bạo lực chỉ gây ra đau thương và chết chóc, và thay vào đó là sự hòa giải, thuận hòa và an bình. Ước gì cộng đồng quốc tế không từ nan một cố gắng nào để đưa Syria ra khỏi tình trạng bạo lực và khủng hoảng hiện nay, vốn đã kéo dài quá lâu và có nguy cơ trở thành một cuộc xung đột lan rộng, với những hậu quả rất tiêu cực cho đất nước Syria và cho toàn vùng. Tôi cũng khẩn thiết và đau đớn kêu gọi đảm bảo sự cứu trợ nhân đạo đứng trước tình trạng cùng cực của dân chúng, cũng như trợ giúp nhiều người phải bỏ gia cư, và một số phải tị nạn sang các nước láng giềng: giá trị sinh mạng con người là một thiện ích quí giá luôn luôn phải bảo tồn”.

Cũng trong buổi tiếp kiến, ĐTC ca ngợi hoạt động của Tổ chức Roacao, biểu tượng chứng tá về điều Kinh Thánh đã nói với chúng ta 'đức tin không có việc làm thì tắt lịm và chết đi' (Xc Gc 2,17). Ngài nói: ”Anh chị em hãy luôn luôn là những dấu chỉ hùng hồn về đức bác ái phát sinh từ con tim Chúa Kitô và trình bày cho thế giới thấy Giáo Hội trong căn tính và sứ mạng chân thực nhất, phụng sự Thiên Chúa là Tình Thương”.

Trước đó, trong phần đầu của bài Huấn dụ, ĐTC cũng nhắc đến cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới, ảnh hưởng tai hại tới nhiều miền của trái đất, nhất là những vùng bị thiệt thòi, đe dọa nghiêm trọng tương lai của con người. Trung Đông, là tổ quốc của các truyền thống Kitô kỳ cựu, bị thương tổn đặc biệt trong tiến trình này, nó gây ra sự bất an và bấp bênh, trên bình diện Giáo Hội, cũng như trong lãnh vực đại kết và liên tôn”.

ĐTC nhận xét rằng ”đó là những yếu tố nuôi dưỡng những vết thương kinh niên của lịch sử và góp phần làm cho cuộc đối thoại, an bình và sự sống chung giữa các dân tộc trở nên mong manh hơn, cũng như sự tôn trọng thực sự đối với các quyền con người, cách riêng là quyền tự do tôn giáo của cá nhân và cộng đoàn. Quyền này phải được bảo vệ trong việc tuyên xưng công khai chứ không phải chỉ về phương diện phụng tự mà thôi, nhưng bao gồm cả các phương diện mục vụ, giáo dục, từ thiện và xã hội, tất cả các khía cạnh đó đều không thể thiếu được đối với việc thi hành thực sự quyền tự do tôn giáo” (SD 21-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Công bố chương trình cử hành Năm Đức Tin tại Roma

Công bố chương trình cử hành Năm Đức Tin tại Roma

VATICAN. Sáng 21-6-2012, Đức TGM Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, đã mở cuộc họp báo để giới thiệu lịch trình cử hành Năm Đức Tin tại Roma, từ ngày 11-10 năm nay đến 24-11 năm tới, 2013.

Đức TGM Fisichella đã liệt kê 21 sinh hoạt do ĐTC chủ sự trong Năm Đức Tin, trong đó có lễ khai mạc, lễ bế mạc, lễ tôn phong 6 hiển thánh tử đạo và hiển tu vào chúa nhật 21-10 năm nay, ngày 25-1 năm tới cùng tuyên xưng đức tin với các anh em Kitô khác; ngày 2-2 lễ tuyên xưng đức tin của giới thánh hiến; Chúa nhật lễ lá 24-3, ngày Quốc tế giới trẻ; Chúa nhật 28-4, ĐTC sẽ chủ sự lễ ban phép thêm sức cho một số bạn trẻ; chúa nhật 5-5 cử hành đức tin trong truyền thống đạo đức bình dân; áp lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống 18-5, được dành cho tất cả các phong trào cũ và mới của Giáo Hội, hành hương tại Mộ Thánh Phêrô;

Chúa nhật 16-6 được dành cho chứng tá Tin Mừng sự sống; Chúa nhật 7-7, kết thúc cuộc hành hương tại Roma của các chủng sinh, tập sinh nam nữ và những người đang ở trong hành trình ơn gọi; từ ngày 23 đến 28-7-2013 là Ngày Quốc Tế giới trẻ với sự hiện diện của ĐTC tại Rio de Janeiro, Brazil; ngày 29-9 được dành cho các giáo lý viên, đây cũng là dịp kỷ niệm 20 năm công bố sách giáo lý chung của hội Thánh Công Giáo.

Đức TGM Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng cũng giới thiệu cổng thông tin trên Internet với địa chỉ: www.annusfidei.va, qua đó, độc giả có thể biết chương trình các buổi lễ do ĐTC chủ sự trong Năm Đức Tin, các biến cố quan trọng của các HĐGM, các giáo phận, phong trào và hội đoàn. Mạng này bắt đầu với tiếng Ý và Anh, sau đó sẽ thêm các thứ tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Đức và Ba Lan.

Ngoài ra cũng có huy hiệu và thánh ca Năm Đức Tin. Huy hiệu Năm Đức Tin sẽ được trưng trong các sinh hoạt của Năm này có hình con thuyền, tượng trưng Giáo Hội, đang ở trên các đợt sóng. Thân cây lớn ở giữa là Thánh Giá có cánh buồn được kéo lên trên đó, có ghi chữ viết tắt IHS: Chúa Kitô Đấng Cứu Nhân. Cánh buồm có hình tròn mặt trời, gợi lại Thánh Thể.

Đầu tháng 9 tới đây sẽ có những tài liệu mục vụ giúp sống Năm Đức Tin dành cho các giáo xứ. (SD 21-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Lời cầu nguyện đem ánh sáng vào trong thế giới tối tăm

Lời cầu nguyện đem ánh sáng vào trong thế giới tối tăm

Lời cầu nguyện là kiểu làm quen ở với Thiên Chúa sinh ra các người nam nữ, được linh hoạt không phải bởi sự ích kỷ, ước muốn chiếm hữu, khát khao quyền bính, nhưng bởi sự nhưng không, bởi ước muốn yêu thương, khát khao phục vụ, nghĩa là được linh hoạt bởi Thiên Chúa. Và chỉ như thế mới có thể đem ánh sáng vào trong cái tối tăm của thế giới này.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên trong buổi tiếp kiến 8.000 tín hữu và du khách hành hương trong đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 20-6-2012.

Các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ và Âu châu; từ Á châu như Indonesia, Nhật Bản, Pakistan và Philippines; từ Úc châu như Australia; và từ châu Mỹ Latinh như Honduras, Colombia, Argentina, Chile và Mexico và Brasil.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục các bài giáo lý về lời cầu nguyện trong thư của Thánh Phaolô. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, lời cầu nguyện của chúng ta thường là lời xin trợ giúp trong các nhu cầu cần thiết. Nó cũng thường tình đối với con người, bởi vì chúng ta cần trợ giúp, cần người khác, cần Thiên Chúa. Vì thế xin Thiên Chúa điều gì đó, tìm sự trợ giúp từ Thiên Chúa thật là bình thường. Và chúng ta phải chú ý rằng Kinh Lạy Cha, lời cầu Chúa dậy chúng ta, là một lời cầu xin, qua đó Chúa dạy chúng ta biết các ưu tiên của lời cầu nguyện. Nó rửa sạch, nó thanh tẩy các ước mong của chúng ta, và như thế nó rửa sạch và thanh tẩy con tim chúng ta. Vì thế nên nếu trong lời cầu nguyện chúng ta xin điều gì đó là chuyện bình thường, thì lời cầu nguyện không được duy nhất như thế, mà cũng phải là lời tạ ơn nữa. Nếu chú ý một chút, chúng ta thấy rằng chúng ta đã nhận đưởc biết bao nhiêu điều tốt lành từ Thiên Chúa. Người tốt lành với chúng ta tới độ cần phải cảm ơn Người. Lời cầu nguyện cũng còn phải là lời chúc tụng nữa. Nếu con tim chúng ta rộng mở, thì mặc dù có tất cả mọi vấn đề chúng ta cũng thấy cả vẻ đẹp của thụ tạo và sự tốt lành trong đó nữa. Vì vậy chúng ta không được xin mà thôi, mà cũng phải chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa nữa. Chỉ như thế lời cầu nguyện của chúng ta mới đầy đủ. Trong các thư của thánh Phaolô có các lời cầu xin, nhưng cũng có các lời nguyện chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa vì những gì Người đã làm và thực hiện trong lịch sử nhân loại nữa.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích lời cầu chúc tụng mở đầu chương 1 thư gửi tín hữu Êphêxô. Nó là một bài thánh thi chúc tụng, diễn tả lời cảm ơn và niềm vui. Thánh Phaolô chúc tụng Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, vì nơi Người Ngài đã làm cho chúng ta được ”biết mầu nhiệm ý muốn của Ngài” (Ep 1,9). Mầu nhiệm ”mysterion” là từ hay gặp trong Thánh Kinh và Phụng vụ. Đối với các tín hữu ”mầu nhiệm” không phải là cái không biết, cho bằng ý muốn xỏt thương của Thiên Chúa, chương trình tình yêu được biểu lộ nơi Chúa Giêsu Kitô, và cống hiến cho chúng ta khả năng hiểu biết cùng tất cả các thánh đâu là kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình yêu của Chúa Kitô” (Ep 3,18-10). Mầu nhiệm không được biết của Thiên Chúa đã được vén mở lên: đó là Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay từ đầu, từ đời đời.

Ở đây thánh Phaolô dùng từ ”euloghein” thường dịch từ do thái ”barak” tức là chúc tụng, vinh danh cảm tạ Thiên Chúa Cha như suối nguồn các ơn ích cứu độ, như là Đấng ”đã chúc phúc cho chúng ta với mọi phúc lành tinh thần trên trời nơi Chúa Kitô”. Và thánh Phaolô kể ra các lý do thúc đẩy thánh nhân chúc tụng Thiên Chúa. Trước hết là vì ”Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ” (c. 4), rồi kêu gọi chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện. Từ đời đời chúng ta đã ở trong chương trình, trong tư tưởng của Người. Với ngôn sứ Giêrêmia chúng ta cũng có thể khẳng định rằng Chúa đã biết chúng ta trước khi tạo thành chúng ta trong dạ mẹ (Gr 1,5), và Người đã yêu thương chúng ta. Ơn gọi nên thánh, nghĩa là bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa, thuộc chương trình đời đời của Chúa, một chương trình trải dài trong lịch sử và bao gồm mọi người nam nữ trên thế giới này, vì nó là một ơn gọi đại đồng. Thiên Chúa không loại trừ ai hết, chương trình của Người chỉ là tình yêu. Thánh Gioan Kim Khẩu khẳng định rằng: ”Chính Thiên Chúa đã khiến cho chúng ta nên thánh, nhưng chúng ta được mời gọi sống thánh thiện. Người thánh là người sống trong đức tin” (Omelie sulla Lettera agi Efesini, 1,1,4).

Một lý do khác nữa của lời chúc tụng đó là ”Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta làm nghĩa tử của Người nhờ Đức Giêsu Kitô” (c.5). Thánh Phaolô nhấn mạnh sự nhưng không của chương trình tuyệt diệu Thiên Chúa có đối với nhận loại. Thiên Chúa là sự tốt lành, và Người muốn trải đài, thông truyền sự tốt lành ấy cho chúng ta để làm cho chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trung tâm lời cầu chúc tụng minh giải phương thế Thiên Chúa Cha thực hiện chương trình cứu độ nơi Đức Kitô Con yêu dấu của Người. Thánh Phaolô viết: ”Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi, theo lượng ân sủng rất phong phú của Người” (c. 7). Hiến tế thập giá của Chúa Kitô là biến cố duy nhất không thể lập lại được, qua đó Thiên Chúa Cha đã cho thấy tình yêu của Người đối với chúng ta một cách sáng ngời, không phải chỉ trong lời nói mà một cách cụ thể. Thiên Chúa cụ thể và tình yêu của Người được cụ thể hóa tới độ bước vào trong lịch sử, làm người để cảm được nó là gì, sống trong thế giới thụ tạo này ra sao, và chấp nhận con đường khổ đau của cuộc khổ nạn bằng cách chịu chết. Tình yêu của Thiên Chúa cụ thể đến độ Người không chỉ chia sẻ kiếp người, mà chia sẻ cả khổ đau và cái chết của chúng ta nữa.

Hiến tế thập giá khiến cho chúng ta trở thành sở hữu của Thiên Chúa, bởi vì máu Chúa Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi, rửa sạch chúng ta khỏi sự dữ, giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và cái chết. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta duyệt xét sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa đã biến đổi thánh nhân từ một người bách hại các kitô hữu trở thành Tông Đồ không mệt mỏi của Tin Mừng. Và không gì có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu ấy (Rm 8,31-32-38-39).

Sau cùng lời cầu chúc tụng kết thúc với việc nêu bật vai trò của Chúa Thánh Thần, đã được đổ tràn đầy trong tim chúng ta. Người là dấu ấn ”là bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa” (c. 14). Kitô hữu vẫn còn đang bước đi trên con đường hướng tới ơn cứu độ vĩnh viễn, hướng tới sự giải thoát tràn đầy của các con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ thành toàn chương trình cứu độ của Người, khi Người sẽ ”quy tụ muôn loài trong trời đất, dưới quyền thủ lãnh là Đức Kitô” (c. 10).

Đức Thánh Cha tón tắt sứ điệp thần học của bài thánh thi như sau:
Viễn tượng mà thánh Phaolô trình bầy với chúng ta trong lời cầu chúc tụng vĩ đại này đã dẫn chúng ta chiêm ngưỡng hành động của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh: Chúa Cha đã chọn chúng ta, trước khi tạo thành vũ trụ Người đã nghĩ tới và yêu thương chúng ta; Chúa Con đã cứu chuộc chúng ta qua máu của Người, và Chúa Thánh Thần là bảo chứng ơn cứu độ của chúng ta và của vinh quang tương lai. Trong lời cầu nguyện chúng ta rộng mở cho sự chiêm ngưỡng mầu nhiệm vĩ đại là chương trình tình yêu của Thiên Chúa trong lịch sử loài người, trong lịch sử cá nhân của chúng ta. Trong lời cầu nguyện liên lỉ, trong tương quan hàng ngày của chúng ta với Thiên Chúa, chúng ta cũng học biết như thánh Phaolô, nhận ra ngày càng rõ ràng hơn các dấu chỉ của chương trình và hoạt động ấy, trong vẻ đẹp của Đấng Tạo Hóa nổi bật lên từ các thụ tạo của Người…

Trong lời cầu nguyện chúng ta học biết trông thấy các dấu chỉ của chương trình thương xót ấy trên con đường của Giáo Hội, và như thế chúng ta lớn lên trong tình yêu của Thiên Chúa và rộng mở cho Thiên Chúa Ba Ngôi…

Đừc Thánh Cha đã kết thúc bài huấn dụ như sau:

Lời cầu nguyện như kiểu làm quen ở với Thiên Chúa sinh ra các người nam nữ, được linh hoạt không phải bởi sự ích kỷ, ước muốn chiếm hữu, khát khao quyền bính, nhưng bởi sự nhưng không, bởi ước muốn yêu thương, khát khao phục vụ, nghĩa là được linh hoạt bởi Thiên Chúa. Và chỉ như thế mới có thể đem ánh sáng vào trong cái tối tăm của thế giới này.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Đồ Đào Nha, Ba Lan, Croatia, Tiệp Khắc, Slovac và Hung Gia Lợi. Trong tiếng Ý ngài chào tín hữu giáo phận Saluzzo do Đức Cha Giuseppe Guerrini hướng dẫn về Roma hành hương nhân dịp mừng kỷ niện 500 thành lập giáo phận; các trẻ em mới rước lễ lần đầu của giáo phận Castellaneta; các thành viên gia đình đại kết Taddeide và cám ơn họ đã tặng ngài một qủa chuông.

Ngỏ lời với giới trẻ các người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới Đức Thánh Cha nhắc cho mọi nhớ tháng sáu là tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngài khuyến khích các bạn trẻ hãy tập yêu mến theo trường học của Thánh Tâm Chúa. Ngài xin các anh chị em đau yếu kết hiệp khổ đau của họ với khổ đau của Con Thiên Chúa, và nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới kín múc nơi suối nguồn tình yêu trong khi bắt đầu xây dựng cuộc sống chung của họ.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải
 

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt bạo lực khủng bố tại Nigeria

Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt bạo lực khủng bố tại Nigeria

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi chấm dứt khủng bố và bạo lực tại Nigeria.

Ngỏ lời với các tín hữu hành hương vào cuối buổi tiếp kiến chung sáng 20-6-2012, ĐTC nói: ”Tôi rất lo âu theo dõi các tin tức đến từ Nigeria, nơi đây vẫn tiếp tục những cuộc tấn công khủng bố, chủ yếu nhắm chống lại các tín hữu Kitô. Trong khi tôi dâng lời cầu nguyện cho các nạn nhân và những người đang chịu đau khổ, tôi kêu gọi những người trách nhiệm gây ra bạo lực, hãy ngưng tức khắc cuộc đổ máu bao nhiêu người vô tội. Ngoài ra, tôi cầu mong có sự cộng tác trọn vẹn giữa tất cả các thành phần xã hội ở Nigeria, để khỏi theo đuổi con đường trả thù, nhưng mọi công dân cộng tác vào việc xây dựng một xã hội an bình và hòa giải, trong đó quyền tự do tuyên xưng niềm tin của mình được bảo vệ trọn vẹn”.

Các vụ khủng bố mới nhất chống lại các thánh đường Kitô xảy ra hôm Chúa nhật 17-6 vừa qua, tại 3 nhà thờ Kitô giáo ở bang Kaduna, làm cho 45 người thiệt mạng và 150 người bị thương. Trong số những người bị thiệt mạng, có những người llà nạn nhân của các vụ trả đũa sau đó của các thanh niên Kitô ở miền nam Nigeria. (SD 20-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Công bố tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

Công bố tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới kỳ thứ 13

VATICAN. Sáng 19-6-2012, Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, Tổng thư ký Thượng HĐGM, đã mở cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh để giới thiệu Tài liệu làm việc của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13 sẽ tiến hành tại Roma từ ngày 7 đến 28-10 năm nay về đề tài ”Tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin”.

Tài liệu làm việc dài lối 80 trang, được ấn hành bằng các thứ tiếng la tinh, Ý, Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ đào nha và Ba Lan. Văn kiện được dùng làm căn bản cho các cuộc thảo luận tại công nghị các GM thế giới.
Hiện diện tại cuộc họp báo cũng có Đức Ông Fortunato Frezza, Phó Tổng thư ký Thượng HĐGM.

Tài liệu Làm việc được soạn thảo dựa trên các bản trả lời từ các nơi trên thế giới gửi về, theo 71 câu hỏi gợi ý trình bày trong Tài liệu Đề cương, (Lineamenta) công bố hồi tháng 2 năm ngoái.

Đức TGM Eterovic người Croát nói: ”Dưới sự hướng dẫn của ĐTC Biển Đức 16 là chủ tịch của Thượng HĐGM, các đại diện hàng GM toàn thế giới, trong một bầu không khí cầu nguyện, đối thoại và hiệp thông huynh đệ, sẽ suy tư về việc thông truyền đức tin Kitô. Đây là một trong những thách đố lớn của Giáo Hội, được đào sâu trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng. Vì thế hai khía cạnh của đề tài Thượng HĐGM có liên hệ mật thiết với nhau và bổ túc cho nhau. Mục đích việc tái truyền giảng Tin Mừng là thông truyền đức tin Kitô. Nghĩa vụ cấp thiết thông truyền cho các thế hệ trẻ Tin Mừng của Chúa Kitô – không làm gián đoạn tiến trình thông truyền đức tin – được diễn ra trong lãnh vực tái truyền giảng Tin Mừng”.

Suy tư của Thượng HĐGM được phong phú hơn nữa nhờ liên hệ với Năm Đức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11-10 năm nay, trong lúc tiến hành Thượng HĐGM, theo quyết định của ĐTC qua Tông thư Tự Sắc ”Cánh cửa đức tin” (Porte fidei), nhân dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2 và kỷ niệm 20 năm công bố sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo.
Tài liệu làm việc, là chương trình nghị sự của Thượng HĐGM, đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong việc chuẩn bị công nghị. Đây là kết quả các bản trả lời tài liệu đề cương, một văn kiện suy tư về chủ đề của Thượng HĐGM được công bố ngày 2-2-2011. Tài liệu Đề cương đó đã được gửi tới 13 Công nghị các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương tự quản, 114 HĐGM, 26 cơ quan trung ương Tòa Thánh và Hiệp hội các Bề trên tổng quyền dòng nam. Tất cả các cơ quan này đã gửi bản trả lời góp ý về Văn phòng Tổng thư ký Thượng. Văn phòng này cũng nhận được đóng góp của một số tổ chức và cá nhân tín hữu. Với sự trợ giúp của Hội đồng của Thượng HĐGM, Văn phòng Tổng thư ký cùng với một số chuyên gia đã soạn ra Tài liệu làm việc này. Đặc biệt cũng cần phải nói đến sự đóng góp của Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng.

Cấu trúc Tài Liệu Làm Việc

Trong Văn kiện này, ngoài lời tựa, nhập đề và kết luận Tài liệu được chia làm 4 chương lần lượt bàn về: Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người (I), Thời kỳ tái truyền giảng Tin Mừng (II), tiếp đến là ”Thông truyền đức tin” và chương sau cùng là ”Khơi dậy hoạt động mục vụ”.

Trong phần nhập đ có trình bày về cơ cấu Tài liệu làm việc, giải thích ý nghĩa chủ đề Thượng HĐGM kỳ thứ 13, những điểm tham chiếu và những mong đợi từ phía các Giáo Hội địa phương, theo những bản trả lời được gửi về Roma.
Qua việc ấn định Năm Đức Tin, ĐTC Biển Đức 16 nhấn mạnh tầm quan trọng của Công đồng chung Vatican 2 đối với đời sống của Giáo Hội và công việc của Công nghị GM sắp tới. Vì thế, phần nhập đề cũng nêu bật tầm quan trọng của các Văn kiện Công đồng, được coi là điểm tham chiếu cho các GM Roma trong việc áp dụng các hướng đi và chỉ dẫn trong các thập niên sau đó, và rồi được cô đọng trong Sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo.
Tài liệu làm việc thường nhắc đến Tông huấn của Đức Phaolô 6 về việc truyền giảng Tin Mừng (Evangelii nuntiandi), những giáo huấn của Chân phước Gioan Phaolô 2, và đặc biệt là Thông Điệp ”Sứ mạng Đấng Cứu Chuộc” (Redemptoris missio) và Tông thư ”Ngàn năm mới đang tới” (Novo millennio inneunte). Văn kiện cũng trích dẫn nhiều tuyên bố của ĐTC Biển Đức 16, nhất là Tông thư ”Cánh cửa đức tin” (Porta fidei) và nhấn mạnh đến sự giải thích việc cải tổ, canh tân trong sự liên tục, khi đọc và đón nhận Công đồng, về Công đồng thực sự trở thành ”Một sức mạnh lớn lao cho sự canh tân luôn luôn cần thiết của Giáo Hội” (N.14).
Qua các câu trả lời của hàng GM, người ta thấy có những mong đợi Thượng HĐGM này mang lại những nghị lực mới cho các cộng đoàn Kitô và cống hiến những câu trả lời cụ thể cho những vấn nạn về việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới ngày nay. Người ta cảm thấy cần có những phương thế mới và những kiểu diễn tả mới để làm cho Lời Chúa dễ hiểu trong các môi trường sống của con người ngày nay. Thượng HĐGM phải là cơ hội để đối chiếu và chia sẻ cũng như phân tích và trình bày những mẫu gương hoạt động để giới thiệu cho nhau, với mục đích khích lệ các vị Mục Tử và các Giáo Hội địa phương. Các bản trả lời mong ước rằng công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng giúp tái khám niềm vui đức tin và giúp tìm lại niềm hăng say phấn khỏi trong việc thông truyền đức tin.

Chương thứ I của Tài liệu làm việc mang tựa đề ”Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người”.
Đón nhận những đề nghị trong nhiều bản trả lời, Tài liệu làm việc tái khẳng định nòng cốt đức tin Kitô mà nhiều tín hữu không biết tới. Đồng thời Tài liệu trình bày Tin Mừng của Chúa Kitô cũng là Tin mừng cho con người thời nay.
Tài liệu tái khẳng định ơn gọi nền tảng của Giáo Hội là loan báo cho con người Tin Mừng đã nhận lãnh và đang sống. Đức tin Kitô trước tiên là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô Giêsu trên bình diện cá nhân và cộng đoàn, là hoạt động của Chúa Thánh Linh, biến đổi cuộc sống của các tín hữu, làm cho họ được tham gia đời sống thần linh. ”Đối với Chúa Giêsu, việc rao giảng Tin Mừng nhắm mục đích đưa con người vào trong liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh” (N.22). Việc rao giảng Tin Mừng tự nhiên dẫn con người đến kinh nghiệm hoán cải, là giai đoạn không thể thiếu được trên con đường nên thánh. ”Giáo Hội loan báo và thông truyền đức tin, bắt chước hoạt động của chính Thiên Chúa, Đấng thông ban chính mình cho nhân loại bằng cách trao ban Con của Ngài, đổ tràn Thánh Linh trên con người để tái sinh họ như con cái Thiên Chúa” (N.36)

Chương thứ hai của Tài Liệu Làm Việc bàn về thời kỳ tái truyền giảng Tin Mừng, cụ thể là những thách đố hiện nay được đề ra cho việc rao giảng Tin Mừng. Chương này cũng mô tả việc tái truyền giảng Tin Mừng.
Việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, vẫn luôn giống nhau, nhưng ngày nay đang phải đương đầu với một số hoàn cảnh xã hội mới mẻ, gọi hỏi Giáo Hội và đòi Giáo Hội những câu trả lời thích hợp để nêu rõ lý do tại sao Giáo Hội hy vọng (Xc 1 Pr 3,15). Đây là những thách đố mới mẻ đối với công cuộc rao giảng Tin Mừng trong thế giới hiện nay, được mô tả qua những bối cảnh khác nhau.

Giáo Hội được kêu gọi phân định trong những bối cảnh ấy “để biến chúng thành những nơi loan báo Tin Mừng và cảm nghiệm về Giáo Hội” (N.51). Những bối cảnh ấy đã được trình bày trong Tài liệu đề cương, Lineamenta, nhưng câu trả lời của hàng GM đã góp phần làm cho chúng được diễn tả đầy đủ hơn. Đó là những bối cảnh khác nhau về văn hóa bị tục hóa, hiện tượng di dân, kinh tế, chính trị, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật. Trong đời sống của các Giáo Hội địa phương, người ta cũng nói đến những bối cảnh về truyền thông và tôn giáo. Nhiều bản trả lời nêu bật tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt là nền văn hóa truyền thông và kỹ thuật số để phổ biến Tin Mừng. Về bối cảnh tôn giáo, người ta đào sâu cuộc đối thoại đại kết và liên tôn. Cảm tạ Chúa Quan phòng, vì có nhiều tiến bộ quan trọng trong cuộc đối thoại của Giáo Hội Công Giáo với các Giáo Hội và cộng đồng Kitô khác, nhưng người ta cũng nói đến những chướng ngại, kể cả trong thời gian gần đây trên con đường do Chúa Giêsu đề ra trong lời nguyện của Ngài ”Ước gì tất cả chúng được nên một” (Ga 17,21).. Về việc đối thoại liên tôn, Tài liệu nhấn mạnh tính chất thời sự của cuộc đối thoại với Hồi giáo và các tôn giáo lớn khác trên thế giới, nhắc đến những khía cạnh tích cực, nhưng không quên những khó khăn, nhất là tại những nước trong đó các tín hữu Kitô chỉ là thiểu số.

Thông điệp ”Sứ mạng Đấng Cứu Chuộc”, ở đoạn số 33, đã tìm cách nêu rõ đặc tính của việc tái truyền giảng Tin Mừng. Về vấn đề này, thông điệp phân biệt việc rao giảng Tin Mừng nói chung, như hoạt động trường kỳ của Giáo Hội mà thời nay phải được đổi mới và sinh động hơn; rồi thông điệp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc việc giáo cho dân ngoại, nghĩa vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô cho những ngừơi chưa nhận biết Ngài, và sau cùng Thông điệp nói về việc tái truyền giảng Tin Mừng cho những người đã được rửa tội, nhưng không được rao giảng Tin Mừng đầy đủ và cho những người xa lìa Giáo Hội, không thực hành đạo nữa. Sự phân biệt như thế được Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Phi châu Africae munus lấy lại. Việc phân biệt này cũng được nhắc đến trong Văn kiện đạo lý về một số khía cạnh của việc rao giảng Tin Mừng do Bộ giáo lý đức tin công bố ngày 3-12-2007. Cả Tài liệu làm việc này cũng lấy lại quan niệm về 3 lớp trong tiến trình duy nhất của việc truyền giảng Tin Mừng: 3 khía cạch quyện vào nhau và bổ túc cho nhau (Lời tựa NN.85-8).

Trong công trình tái truyền giảng Tin Mừng, người ta mong ước một sự canh tân mục vụ thông thường trong các Giáo Hội địa phương, đồng thời cầu mong có một sự nhạy cảm mới mẻ, đòi hỏi một tinh thần sáng tạo và táo bạo theo tinh thần Tin Mừng, đối với những người đã xa lìa Giáo Hội. Trong tiến trình này, một chỗ đứng đặc biệt được dành cho các giáo xứ, ”được coi là cánh cửa sâu rộng nhất dẫn vào đức tin Kitô và kinh nghiệm về Giáo Hội” (N.81). Giáo xứ phải trở thành trung tâm lan tỏa truyền giáo và chứng tá về kinh nghiệm Kitô, cả khả năng đón nhận những người có những nhu cầu về tinh thần và vật chất. Để thực hiện được điều này, mọi phần tử của Dân Chúa đều có trách nhiệm và nhất là các linh mục. Về vấn đề này, hầu hết các câu trả lời đều nói đến tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và đời sống thánh thiên, và yêu cầu một nền mục vụ vững mạnh về ơn gọi.

Chương thứ ba của Tài liệu làm việc bàn về việc thông truyền đức tin: Mục đích của công trình tái truyền giảng Tin Mừng là thông truyền đức tin. Giáo Hội thông truyền đức tin mà chính mình đang sống. Tất cả các tín hữu Kitô đều được kêu gọi góp phần vào công trình này.

Chương th mang tựa đề: Khơi dậy hoạt động mục vụ: Việc thông truyền đức tin trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng tái đề nghị những phương thế đã chín mùi trong Truyền thống và đặc biệt là trong việc rao giảng đầu tiên, việc khai tâm Kitô giáo và giáo dục, tìm cách thích ứng chúng với những hoàn cảnh văn hóa và xã hội ngày nay.
Trong Phần kết luận: Tài liệu làm việc khẳng định rằng việc tái truyền giảng Tin Mừng phải cổ võ một đà tiến tông đồ mới mẻ, thành quả của một Lễ Hiện Xuống mới, làm cho hoạt động truyền giảng Tin Mừng thông thường của Giáo Hội trở nên năng động hơn, có khả năng thu hút cả những người đã xa lìa Giáo Hội và mang lại một động lực mới cho việc truyền giáo cho dân ngoại.

Tài liệu tái đề cao tầm quan trọng của Thánh Linh đối với công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng. Việc truyền giáo đầu tiên đã khởi sự vào ngày Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Các Tông đồ đã nhận Thánh Linh trong lúc hội họp cầu nguyện tại Nhà Tiệc Ly với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu Kitô. Từ lúc đó, Mẹ Maria, Đấng đầy ơn phúc (Lc 1,28), hiện diện trên mọi nẻo đường truyền giáo, kể cả thời nay khi Giáo Hội cầu xin một lễ Hiện Xuống mới. Vì thế, Mẹ Thiên Chúa được kêu cầu với danh hiệu ”Ngôi Sao hướng dẫn công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng”.
Tái truyền giảng Tin Mừng không có nghĩa là ”Tin Mừng mới” vì Chúa Giêsu vẫn là một, hôm qua, hôm nay và mãi mãi (Dt 13,8) (N.164). Theo lời Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2, truyền giáo mới hay tái truyền giảng Tin Mừng có nghĩa là ”khơi dậy trong chúng ta đà tiến của thời kỳ đầu, để cho chúng ta được tràn ngập lòng nhiệt thành rao giảng của các tông đồ sau lễ Hiện Xuống” (Ngàn năm mới đang đến 40 in N.165). Tái truyền giảng Tin Mừng có nghĩa là ”nêu lý do tại sao chúng ta tin, thông truyền Lời Hy vọng cho thế giới đang khao khát ơn cứu độ” (N. 167). Trong hành trình ấy cần tái khởi hành từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mang lại hy vọng và ban an vui cho những người rao giảng Tin Mừng để, với lòng nhiệt thành, được đổi mới và không chút sợ hãi, họ loan báo cho toàn thế giới Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa” để loài người tin” (N. 169)

Một vài ý tưởng nổi bật trong Tài Liệu làm việc:

Văn kiện phác họa một khung cảnh có phần ”đen tối” vì khủng hoảng đức tin tại các nước có truyền thống Kitô kỳ cựu, tuy cũng có những dấu hiệu khích lệ cho tương lai.
Trong số các vấn đề được tài liệu nói tới có cả hiện tượng bàn giấy thái quá của Giáo Hội tại một số nơi, hiện tượng tục hóa, cử hành các nghi lễ phụng vụ vì thói quen. Chúng cản trở việc rao giảng Tin Mừng. Văn kiện chào mừng sự triển nở của các nhóm canh tân trong Thánh Linh, khuyến khích sử dụng các phương tiện truyền thông mới.
– Sự bội giáo âm thầm: nhiều tín hữu Công Giáo không thực hành đạo nữa. Đó thực là một sự ”bội giáo thầm lặng” thực sự (n.69)
– Bệnh bàn giấy: Một sự bàn giấy hóa thái quá trong các cơ cấu của Giáo hội là điều đáng trách, các cơ cấu này bị coi như xa lạ với người thường và các mối quan tâm hiện sinh của họ (69)
– Các giáo lý viên: là những chứng nhân trực tiếp, những người rao giảng Tin Mừng không thể thay thế được, họ là lực lượng căn bản của các cộng đồng Kitô. Thượng HĐGM phải đặt câu hỏi xem có thể biến công việc của giáo lý viên thành một thừa tác vụ bền vững và được thiết lập trong Giáo hội hay không (108).
– Canh tân trong Thánh Linh: trong những thập niên gần đây có sự triển nở các nhóm và phong trào dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng. Đây thực là một hồng ân của Chúa Quan Phòng cho Giáo Hội (115)
– Giáo Hội học: Hơn một Giáo Hội địa phương xin Thượng Hội đồng GM kiểm chứng xem việc truyền giảng Tin Mừng ngày nay và việc huấn giáo không có kết quả, phải chăng trước tiên đó là một vấn đề Giáo hội học và tu đức? Người ta suy tư về khả năng của Giáo Hội thiết lập cơ cấu của mình thành một cộng đồng đích thực, trong tình huynh đệ thực sự, như một thân thể chứ không phải như một xí nghiệp (39)
– Các Giáo Hội bị bách hại: chứng tá đức tin, sự kiên trì, khả năng kháng cự, niềm hy vọng vững chắc, trực giác của họ về một số phương thức mục vụ là một hồng ân cần được chia sẻ với những cộng đoàn Kitô, tuy đã có những quá khứ vinh hiển, nhưng đang sống hiện tại với nhiều khó khăn và bị phân tán (75)
– Phụng vụ: nhiều người lấy làm tiếc vì các buổi cử hành phụng vụ hình thức và những lễ nghi lập đi lập lại hầu như vì thói quen, không có cảm nghiệm tinh thần sâu xa, làm cho người ta xa lìa thay vì thu hút họ (69)
– Gương mù: ngoài sự phản chứng của một số thành phần Giáo Hội (bất trung với ơn gọi, gương xấu, ít nhạy cảm đối với các vấn đề của con người ngày nay và thế giới hiện đại, không nên coi nhẹ mầu nhiệm sự ác (mysterium iniquitatis) (69)
– Những chướng ngại bên trong cản trở việc thông truyền đức tin hầu như giống nhau tại các nơi. Đó là những chướng ngại ở bên trong Giáo Hội, trong đời sống Kitô: một đức tin được sống riêng tư và thụ động; không cảm thấy nhu cầu giáo dục chính đức tin của mình; tách biệt đức tin khỏi cuộc sống (95)
– Những chướng ngại bên ngoài: trào lưu duy tiêu thụ và duy khoái lạc; chủ thuyết hư vô về văn hóa; thái độ khép kín đối với siêu việt làm cho người ta không còn khao khát ơn cứu độ (95)
– Các LM: Văn kiện tố giác tình trạng thiếu linh mục, vì thế số ít linh mục không thể đảm nhận một cách thanh thản và hữu hiệu việc điều hành sự biến đối cách thế hiện hữu của Giáo Hội (84)…
– Giáo Phái: Một số bản trả lời yêu cầu cảnh giác để các cộng đoàn Kitô không bị ảnh hưởng do các hình thức mới về kinh nghiệm tôn giáo, lẫn lộn lối rao giảng của Kitô giáo với cám dỗ bắt chước những nhóm giáo phái chiêu dụ tín đồ một cách gây hấn.
– Tục hóa: trong những năm gần đây, không cón những hình thức công khai của các diễn văn trực tiếp và mạnh mẽ chống lại Thiên Chúa, tôn giáo và Kitô giáo, tuy rằng trong một số trường hợp, những giọng điều bài Kitô, bài tôn giáo và bài giáo sĩ vẫn còn vang vọng gần đây (52)

G. Trần Đức Anh OP
 

Công Đồng Chung Vatican II là biến cố rộng mở cho Thánh Kinh

Công Đồng Chung Vatican II là biến cố rộng mở cho Thánh Kinh

Một số nhận định của Đức Hồng Y Albert Vanhoye

Cách đây 50 năm ngày 11 tháng 10 năm 1962 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã chủ sự thánh lễ trọng thể khai mạc Công Đồng Chung Vaticăng II tại đền thờ Thánh Phêrô. Sau khi Đức Gioan XXIII qua đời, Đức Phaolô VI đã tiếp tục công viêc và chủ tế thánh lễ kềt thúc Công Đồng ngày 7 tháng 12 năm 1965.

Đã có 2.540 Nghị phụ tham dự Công Đồng, trong đó có 1.041 vị Âu châu, 956 vị Mỹ châu, 30 vị Á châu, 379 vị Phi châu. Công Đồng đã công bố 4 Hiến chế tín lý về Giáo Hội ”Lumen Gentium”; về tương quan giữa Giáo Hội và thế giới ”Gaudium et Spes”; về Mạc khải ”Dei Verbum”; về Phụng vụ ”Sacrosanctum Concilium”. Bên cạnh đó là 9 Sắc Lệnh: về các Giám Mục ”Christus Dominus”; về đời sống tu trì ”Perfectae Caritatis”; về việc đào tạo các linh mục ”Optatam Totius”; về các Giáo Hội công giáo Đông Phương ”Orientalium Ecclesiarum”; về Đại kết ”Unitatis Redintegratio”; về việc tông đồ giáo dân “Apostolicam Actuositatem”; về việc Truyền giáo ”Ad Gentes”; về đời sống Linh Mục ”Presbyterorum Ordinis”; về Truyền thông xã hội ”Inter Mirifica”. Sau cùng là ba Tuyên ngôn về Giáo Hội và các anh chị em không kitô ”Nostra Aetate”; về tự do tôn giáo “Dignitatis Humanae”; và về việc giáo dục kitô ”Gravissimum Educationis”.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Albert Vanhoye, chuyên viên chú giải thánh kinh tân ước, về một vài kỷ niệm liên quan tới biến cố này. Đức Hồng Y Vanhoye đã không phải là người trực tiếp tham dự Công Đồng, nhưng đã sống các năm họp Công Đồng như là chứng nhân.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y Vanhoye, thời khai khai mạc Công Đng Chung Vatican II cách đây 50 năm, tuy không phải là chuyên viên trực tiếp tham dự, nhưng chắc chắn Đức Hồng Y đã có nhiều kỷ niệm liên quan tới biến cố này?

Đáp: Vâng, như là các chuyên viên kinh thánh, chúng tôi đã chỉ có một âu lo duy nhất: đó là làm sao để cho Công Đồng được thành công. Trong một nghĩa nào đó, tôi đã sống trong ”trận bão” của Công Đồng, bởi vì năm 1963 tôi phải đảm nhận chức giáo sư Thánh Kinh Tân Ước thay thế cha Stanislao Lyonnet, bị cách chức không được dạy học nữa. Trong quyết định cách chức cha có sự đồng ý của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và cha Giovan Battista Janssens, Bề trên tổng quyền dòng Tên. Đó là các năm xảy ra cuộc tranh luận gay go với Đại học giáo hoàng Laterano, và đặc biệt là với Đức Ông Antonio Piolanti: họ tố cáo chúng tôi tại Học Viện Thánh Kinh Roma, cách riêng cha Lynonnet, là đã không giảng dậy đạo lý đúng đắn trong lãnh vực Thánh Kinh, và chắc hẳn là họ khó chịu vì sự kiện Học viện Thánh Kinh nổi tiếng và độc quyền trong lãnh vực Thánh Kinh hồi đó.

Hỏi: Việc loại bỏ cha Lyonnet khỏi ghế dậy thánh Kinh Tân Ước tại Học Viện Thánh Kinh có khiến cho cha Lyonnet đau kh không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Người anh em của tôi có bản chất lạc quan; cha đã xác tín rằng Công Đồng Chung sẽ mở ra các con đường mới. Tôi vẫn còn nhớ mãi điều cha nói: ”Mà, Đức Thánh Cha có biết bao nhiêu chuyện phải lo lắng với Công Đồng! Đối với tôi thì đây sẽ là dịp để nói về Công Đồng với các Giám Mục, chứ không phải với các sinh viên của Học Viện”. Tuy cha Lyonnet không phải là chuyên viên tham dự Công Đồng Chung Vatican II, nhưng ngài thường được các Nghị Phụ tham khảo ý kiến, đặc biệt là các nghị phụ người Pháp. Và cha đã sống các năm này trong tinh thần phục vụ rất cao.

Hỏi: Các lưc đồ do Ủy ban chuẩn bị cũng như các công việc của phân bộ một của Tòa Thánh đã không báo trước một Công Đồng tạo ra một sự thay đổi trong Giáo Hội, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Vâng, đúng như vậy. Thánh Bộ đã chuẩn bị các lược đồ và tất cả xem ra đã sẵn sàng, đã được chế tạo và gói sẵn. Thế rồi bài phát biểu của Đức Hồng Y Achille Lienart đã trấn an các nghị phụ, và từ đó trở đi bầu khí đã thực sự thay đổi: các lược đồ của Thánh Bộ dọn sẵn đã không được chấp thuận, và từ đó nảy sinh ra một cuộc cách mạng trao ban cho Công Đồng một khởi đầu mới. Theo tôi, đã xảy ra sự ”đụng độ” đích thật giữa các vị chủ trương canh tân và các vị mang tiếng là bảo thủ, trong phiên họp thứ nhất của Công Đồng liên quan tới đề tài các đặc sủng. Một đàng có thuyết của Đức Hồng Y Siri, cho rằng các ơn đặc sủng hiếm có trong Giáo Hội; đàng khác Đức Hồng Y Leon Joseph Suenens, Tổng Giám Mục Bruxelles, trái lại, cho rằng các đặc sủng là các ơn rất thường xảy ra trong Giáo Hội; chẳng hạn như đặc sủng thực thi bác ái đối với các bệnh nhân hay trong việc giảng dậy giáo lý. Nỗi lo lắng lớn của các nghị phụ đã là sự kiện Giáo Hội phải canh chừng việc sử dụng đúng đắn các đặc sủng. Tôi nhớ là các cuộc thảo luận đã rất là gay cấn, và dưa ra ánh sáng các kiểu giải thích kinh thánh khác biệt nhau rất lớn giữa hai khuynh hướng.

Hỏi: Trong các năm đó, cha Henri de Lubac cũng đã trọ tại Học Viện Thánh Kinh Roma. Đức Hồng Y đã có kỷ niệm gì về người?

Đáp: Tôi nhớ cha De Lubac là một người đặc biệt ngoại thường và có đức tin rất mạnh mẽ. Tôi nhớ tới biết bao nhiêu bữa ăn trưa trong nhà ăn của Học Viện Thánh Kinh, cha De Lubac nói chuyện lâu với cha Lyonnet, là bạn học của nhau ở Fourvière. Nhưng khác với cha Lynonnet, cha de Lubac rất kín đáo liên quan tới công việc của Công Đồng, rất ít kể chuyện và luôn lo lắng cho sự thành công của Công Đồng: tôi nghĩ là cha lo sợ Công Đồng bị phản bội, không đáp ứng được sự chờ mong của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI. Tính tình của ngài đôi khi cũng bi quan.

Hỏi: Nhưng mà đối với Học Viện Thánh Kinh Roma sự hiện diện của Đức Hồng Y Agostino Bea đã có ý nghĩa nào?

Đáp: Đức Hồng Y Bea đã là giáo sư của tôi tại Học Viện Thánh Kinh, và tôi phải nói rằng các tu sĩ dòng Tên chúng tôi đã rất hài lòng và hãnh diện vì vị cựu Viện trưởng của chúng tôi có vai trò quan trọng như thế trong Công Đồng Chung, và vì dấu vết người để lại trên các tài liệu như Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, và Sắc lệnh về đối thoại đại kết De Oecumenismo. Theo tôi Đức Hồng Y Bea đã là người được chuẩn bị cho vai trò đại sứ của sự hiệp nhất các tín hữu kitô và đối thoại với tín hữu Do thái, từ chính lịch sử cá nhân của người. Thật thế, người sinh ra gần vùng Blumberg thuộc bang Baden Wuertemberg, là vùng đất của Đức nơi cũng có tín hữu tin lành và tín hữu do thái sinh sống. Người qủa thật đã là con người của sự đối thoại.

Hỏi: Cũng trong cùng thời gian ấy Đức Hồng Y đã quen biết Đức Hồng Y Carlo Maria Martini. Đức Hồng Y nhớ gì về các kỷ niệm thời đó?

Đáp: Cả hai chúng tôi đều là chuyên viên kinh thánh, trong một nghĩa nào đó là những người bắt đầu vào nghề. Chúng tôi đã cùng sống các năm của Công Đồng với cùng sự rúng động, các chờ mong và niềm hy vọng là biến cố công đồng đem lại một làn gió mới trong Giáo Hội. Ngoài ra tôi lại là giáo sư của người, vì cha Martini còn thiếu tư cách pháp năng để là giáo sư dậy Thánh Kinh, nên trong một nghĩa nào đó, cha đã kết thúc tiến trình tập sự là chuyên viên kinh thánh với tôi: tôi đã tha cho cha Martini không phải theo các lớp học, bởi vì cha đã biết hết mọi sự. Và tôi đã chỉ xin cha viết một bài phê bình văn bản thôi.

Hỏi: Đối với Đức Hồng Y và các chuyên viên chú giải kinh thánh một tài liệu như Hiến chế tín lý về Lời Chúa Dei Verbum có ý nghĩa vì?

Đáp: Tôi xin phép xác định ngay một khía cạnh. Hiến Chế Dei Verbum bị coi lầm như là một tài liệu về Lời Chúa, trong khi trái lại nó liên quan tới việc mạc khải. Nhất là văn bản đã minh nhiên rằng Mặc Khải không chỉ bao gồm Thánh Kinh, mà cũng bao gồm cả việc thông truyền đức tin của Giáo Hội trong mầu nhiệm Chúa Kitô nữa. Các chuyên viên chú giải kinh thánh đánh gía rất cao sự kiện Công Đồng tiếp nhận điều Đức Giáo Hoàng Pio XII đã trình bầy trong Thông điệp ”Divino Afflante spiritu”, mà Đức Hồng Y tương lai Bea đã cộng tác vào việc soạn thảo, khi nhấn mạnh đến các văn thể. Việc nhấn mạnh ấy đã diễn tả một khúc rẽ đối với thế giới các nhà chú giải kinh thánh, bởi vì nó đã cống hiến cho họ một dụng cụ khác nữa giúp hiểu văn bản kinh thánh. Qua phương pháp đó, chuyên viên Thánh Kinh giải thích một văn bản với sự chính xác, nhưng có thể quy chiếu các văn thể để giúp hiểu ý nghĩa Lời Chúa một cách rõ ràng hơn, bằng cách lồng khung nó vào trong bối cảnh.

Hỏi: Như thế hiến chế Dei Verbum là một tài liệu có tầm quan trọng chính yếu, có đúng thế không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Vâng, đúng thế. Hiến chế này tuyên bố một cách rất rõ ràng rằng việc chú giải kinh thánh không trọn vẹn, nếu không chú ý tới toàn Mạc Khải, nếu không đọc và giải thích văn bản trong sự hiệp nhất với đức tin của Giáo Hội. Việc xác định này đã cho phép nhấn mạnh rằng các văn bản Thánh Kinh không phải là các tài liệu lịch sử trung lập, nhưng là các văn bản mang trong mình một sự Mạc Khải của Thiên Chúa, và vì thế chỉ nghiên cứu chúng như là các tài liệu của thời xa xưa không thôi, thì không đủ. Đây là một bài học và là một lời cảnh cáo rất thời sự đối với tất cả các nhà chú giải kinh thánh như chúng tôi.

Hỏi: Như thế đối với các chuyên viên kinh thánh, các tài liệu của Công Đng, đặc biệt là Hiến chế Dei Verbum, đã là một sang trang của phương pháp làm việc, có phải vậy không thưa Đức Hồng Y?

Đáp: Không thể nói tới việc sang trang. Đây đã chỉ là một xác nhận tầm quan trọng mà các nhà chú giải đã trình bày trong các nghiên cứu của họ liên quan tới phương pháp phê bình lịch sử và việc dùng các văn thể: tất cả những điều này đã cho phép nới rộng cái nhìn và chân trời nghiên cứu. Nó cũng cho phép các nhà chú giải công giáo giải thích Thánh Kinh một cách sâu xa, cặn kẽ và đầy đủ hơn. Nhưng bài học và đặc biệt là gợi ý đó là cần đi xa hơn các kết qủa của phương pháp phê bình lịch sử và đào sâu ý nghĩa tôn giáo của văn bản. Nó là một lời mời gọi không chỉ dừng lại trên các bối cảnh lịch sử và văn thể, trong đó một văn bản đã được biên soạn. Tôi tin rằng đây là di sản lớn nhất của Hiến chế Dei Verbum đối với các chuyên viên chú giải kinh thánh. Đây là điều đã được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nêu bật một cách mạnh mẽ.

Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã sống việc kết thúc Công Đng Chung như thế nào?

Đáp: Xem ra đã là việc kết thúc một biến cố rất phong phú. Công Đồng đã không thể được điễn tả trong tất cả mọi chuyện, nhưng đã cống hiến cho chúng ta các tài liệu soi sáng, sâu sắc, và kích thích. Điều mà tôi chờ mong đó là các tài liệu công đồng không chỉ được học hỏi nghiên cứu, mà cũng còn được sống nữa. Tôi xin gợi ý là việc giải thích Thánh Kinh cũng nên quy chiếu các tài liệu của Công Đồng. Năm mươi năm sau ngày khai mở Công Đồng, gia tài của Công Đồng chính là ở đây. Đây là một hướng đi được bảo đảm bởi uy tín của Công Đồng, được Chúa Thánh Thần hướng đẫn. Sau nửa thế kỷ chúng ta có thể trông thấy các hạn hẹp cũng như sự cao cả của biến cố quan phòng ấy đối với cuộc sống của Giáo Hội.

(Avvenire 12-6-2012)

Linh Tiến Khải
 

Họp báo của Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh về vụ ”Vatileaks”

Họp báo của Giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh về vụ ”Vatileaks”

VATICAN. Cha Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Tòa Thánh, cho biết người cựu giúp việc của ĐTC, Ông Paolo Gabriele, bị thẩm phán điều tra quyết định tiếp tục tạm giam để điều tra về vụ thất thoát tài liệu tại Tòa Thánh.

Trong cuộc họp báo hôm 18-6-2012, Cha Lombardi cũng cho biết tính đến ngày 16-6-2012, Ủy ban 3 Hồng y điều tra về những vụ thất thoát đã nghe 23 người, gồm cả các cấp trên lẫn nhân viên, giáo sĩ cũng như giáo dân tại Tòa Thánh, và cả những người không phải là nhân viên tại Vatican. Trong số những người đó có ông Gabriele. Bình quân, mỗi tuần Ủy ban nghe từ 4 đến 5 người.

Cha Lombardi mạnh mẽ bác bỏ tin của báo La Stampa, xuất bản tại Torino, cho rằng trong các cuộc hỏi cung hồi tuần trước, ông Gabriele đã tiết lộ tên của những người đồng phạm và những người sai ông lấy cắp tài liệu từ căn hộ của Đức Giáo Hoàng. Cha Lombardi nói: ”Đó thực là chuyện bịa đặt, giả thuyết vô căn cứ”.
Cha Lombardi tái kêu gọi giới báo chí hãy theo những sự kiện có thực của cuộc điều tra đang tiến hành và hiện giờ người ta chưa thể xác định bao giờ cuộc điều tra này sẽ chấm dứt. Thẩm phán điều tra chưa chấp nhận đơn của các luật sư xin cho ông Gabriele được quản thúc tại gia. ”Các cuộc thẩm vấn chính thức sẽ được mở lại trong thời gian tới đây”.

Mặt khác, trong cuộc phỏng vấn dành cho tuần báo Công Giáo Famiglia Cristiana ở Roma, số ra ngày 21-6-2012 nhưng một phần được báo này phổ biến trước cho giới báo chí, ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhận xét rằng trong vụ Vatileaks, một số ký giả đã theo gương tiểu thuyết gia Dan Brown (tác giả cuốn tiểu thuyết ”Bộ mật mã da Vinci” (Codice da Vinci), tưởng tượng ra những chuyện hoang đường và huyền thoại. ”Tất cả là giả tạo và sự thật là có một ý chí muốn chia rẽ đến từ ma quỉ. Sự đoàn kết chung quan ĐTC là điều căn bản, mang lại sức mạnh cho công việc của Giáo Hội”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Bertone cũng khẳng định rằng không có các Hồng y dính líu trong vụ này. Được hỏi về lời quả quyết này, cha Lombardi nói: ”Dĩ nhiên là ĐHY Quốc vụ khanh, giống như ĐGH đã làm, tái khẳng định sự tín nhiệm nơi các cộng sự viên thân cận nhất của Ngài. .. Tôi thấy trong cuộc phỏng vấn ĐHY Bertone, điều quan trọng là đào sâu quan hệ giữa tự do báo chí, tự do ngôn luận, và việc bảo vệ đời sống riêng tư của mỗi người. Nhiều khi người ta có cảm tưởng các thứ tự do ngôn luận và báo chí là quyền tự do tấn công, gây tổn thương cho người khác”.

G. Trần Đức Anh OP

Tổ chức Caritas quốc tế và cuộc chiến chống lại nạn đói trên thế giới

Tổ chức Caritas quốc tế và cuộc chiến chống lại nạn đói trên thế giới

Trong hai ngày 1-2 tháng 6 vừa qua (2012) đại hội quốc tế về nạn đói và an ninh lương thực trên thế giới đã diễn ra tại Vienne, thủ đô nước Áo. Đại hội do Caritas Quốc Tế, Caritas Áo và Caritas Âu châu cùng tổ chức, với sự tham dự của 700 người gồm các đại diện Caritas quốc gia, các tổ chức xã hội dân sự, các đại diện chính quyến và các cơ cấu quốc tế đến từ khắp nơi trên thế giới. Mục đích đại hội là tìm ra các giải pháp toàn cầu lâu bền cho 1 tỷ người trên thế giới đang phải đau khổ vì bị đói. Trong số 35 thuyết trình viên thuộc 20 quốc gia khác nhau có ông Kofi Annan, nguyên tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, hiện là đặc sứ của Liên Hiệp Quốc và Liên Minh A Rập tại Siria. Nhưng ông đã không thể tham dự đại hội và ông Tesafai Tecle, nguyên phó giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế FAO đã thuyết trình thay. Ngoài ra cũng có bài thuyết trình của Đức Hồng Y Oscar Rodriguez Maradiaga, chủ tịch Caritas Quốc Tế. Trong bài tham luận Đức Hồng Y khẳng định rằng ”Nạn đói trên thế giới không phải là một định mệnh, đó là một thảm kịch có thế tránh được”.

Sáng 14-6-2012 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tiếp kiến ông José Graziano da Silva, Tổng giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế viết tắt là FAO.

Thông cáo Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết cuộc hội kiến đã diễn ra trong tình thân hữu. Dấn thân của Tòa Thánh và Giáo Hội công giáo chống lại nạn đói và nghèo túng được đánh giá cao, nhất là tại Phi châu, và nhằm sửa chữa tình hình an ninh lương thực thế giới đang gây ra nhiều lo âu hiện nay. Hai bên cũng ghi nhận rằng mặc dù có đủ các tài nguyên để thỏa mãn các nhu cầu thực phẩm của toàn thế giới, vẫn còn có các chướng ngại thuộc trật tự quốc tế, xã hội và chính trị ngăn cản việc thỏa mãn các nhu cầu ấy. Tòa Thánh và tổ chức FAO cầu mong rằng lãnh vực nông nghiệp tái chiếm vai trò hàng đầu trong chiến lược phát triển và có được sự bảo đảm bình đẳng và hữu hiệu hơn trong việc điều hành hệ thống lương thực.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của ông Thorfinnur Omarson thuộc tổ chức Caritas Âu châu về đại hội nói trên.

Hỏi: Thưa ông Omarson, ông có thể cho biết mục đích ca đại hội do Caritas quốc tế và Caritas Áo triệu tập tại thủ đô Vienne hi đầu tháng 6 này là gì không?

Đáp: Mục đích đại hội là để thông tin tức liên quan đến nạn đói trên thế giới. Như qúy vị đã biết, hiện nay trên thế giới có 1 tỷ người phải đau khổ vì nạn đói, trong khi một phần ba thực phẩm trên thế giới này bị phung phí. Vì thế đây là một hiện tượng toàn cầu cần phải đương đầu. Đây là một trong các yếu tố nền tảng của toàn công việc làm của tổ chức Caritas quốc tế và các Caritas quốc gia: đó là chiến đầu chống lại nạn nghèo đói.

Hỏi: Thưa ông, chúng ta hay nói về cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng có lẽ chúng ta quên nạn nghèo đói trên thế giới, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy, đó là điều chúng tôi cũng kinh nghiệm. Chẳng han như tại Bruxelles này, chúng tôi có các cuộc gặp gỡ để thảo luận về cuộc khủng hoảng kinh tế, và tìm các giải pháp để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này, cũng như cải tiến việc phát triển kinh tế và các vấn đề liên hệ. Nhưng chúng tôi chắc chắn là việc gia tăng kinh tế sẽ không giải quyết được ngay lập tức vấn đề nạn đói. Còn có các xáo trộn khác cần phải đối phó, và vì thế chúng ta không được quên vấn đề nghiệm trọng này của nạn đói.

Hỏi: Thế theo ông chúng ta có thể làm gì bậy giờ?

Đáp: Qua đại hội này tổ chức Caritas đã đưa ra nhiều thỉnh cầu và đề nghị với những giới chức có nhiệm vụ phải lấy các quyết định trên bình diện toàn cầu, cũng như trên bình diện đại lục âu châu và trên bình diện quốc gia. Trước hết điều rất quan trọng là mỗi người phải thừa nhận quyền của mọi người có thực phẩm để nuôi thân. Đây là điều phải được thừa nhận và tôn trọng trên bình diện toàn cầu. Ngoài ra, cũng là điều quan trọng phải nâng đỡ sinh hoạt nông nghiệp và các gia đình nông dân. Chúng ta phải tránh việc giảm thực phẩm vì lý do khí hậu thay đổi, là vấn đề ngày càng nghiêm trọng hơn. Như vậy chúng ta phải đương đầu với rất nhiều vấn đề trong cùng một lúc.

Hỏi: Ông nghĩ gì về các lý do cơ cấu gây ra nạn nghèo đói trên thế giới này?

Đáp: Có nhiều lý do khác nhau. Tổ chức Caritas đã tiếp nhận điều tổ chức Lương Nông Quốc Tế đề ra liên quan tới các đường hướng về quyền sở hữu đất đai, để bảo đảm các quyền của người dân địa phương có đất đai và được che chở khỏi tệ nạn khai thác cho thuê đất canh tác, là tệ nạn hiện hữu tại nhiều vùng trên thế giới. Caritas yêu cầu có một cơ cấu trách nhiệm để theo dõi các vụ phản đối xảy ra trong lúc đưa ra quyết định về đất đai, làm sao để trong các trường hợp vi phạm, đất đai được giao trở lại cho các sở hữu chủ hợp pháp, theo luật lệ. Đây là một vấn đề xảy ra tại nhiều nước trên thế giới.

*** Tiếp theo đây là một số nhận định của ông Paolo Beccegato đặc trách Caritas Quốc Tế phân bộ Italia, và ông Giacomo Guerrera, chủ tịch UNICEF Italia.

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh hiện nay cũng đang gây ra nhiều khó khăn cho các tổ chức nhân đạo quốc tế kể cả Caritas, và nó đè năng trên các dân tộc nghèo đói trên thế giới. Dân chúng không thiếu lòng quảng đại, nhưng tình hình kinh tế khó khăn khiến cho các đóng góp của họ cũng giảm sút nhiều.

Hỏi: Thưa ông Beccegato, cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đang gy khó khăn cho cả các tổ chức bác ái quốc tế, có phải thế không?

Đáp: Vâng, nhìn vào tình hình thế giới và qua các trao đổi với các nhân viên Caritas khác, tôi có thể nói là đúng như thế. Lý do chính gắn liền với việc giảm tài trợ, nhất là từ phía các chính quyền và các tổ chức liên hệ. Vì thế dấu hiệu mà Caritas Quốc Tế và Caritas Âu châu nhận được trong các cuộc họp mới đây giữa hai bên là một tín hiệu gây âu lo. Bởi vì nhiều Caritas đặc biệt là của các nước Bắc Âu châu đã từng có thể bảo đảm cho việc tài trợ liên tục các dự án trên toàn thế giới, đang giảm thiểu các năng động từ nhiều năm nay của mình, vì trong lúc này các ngân qũy giảm khá nhiều. Tuy nhiên, mặt khác cũng cần nói rằng tình liên đới từ hậu tầng giữa người dân với nhau gia tăng. Có lẽ vì họ cùng sống kinh nghiệm nghèo túng gia tăng và gần gũi với thực tại nên nhiều người cũng biết liên đới với nhau hơn. Đây là một dữ kiện tích cực về phẩm chất cần được nhắc tới.

Hỏi: Vậy thì đâu là các lãnh vực bị thiệt thòi nhiều nhất, thưa ông?

Đáp: Trên bình diện kinh tế thì chắc chắn đó là sự suy giảm các khoản thu nhập bình thường. Vì thế trong các trường hợp khẩn cấp, nhờ giới truyền thông, tình liên đới không thiếu trên tất cả mọi bình diện. Nhưng các tình trạng nghèo túng bình thường tại Italia, tại Âu châu và trên thế giới, nạn nghèo túng tột độ, các cảnh nghèo túng bị lãng quên… những người sống trong hoàn cảnh như thế càng ngày càng gặp khó khăn trong việc tài trợ, so sánh với điều xảy ra cách đây vài năm, đặc biệt là hồi năm 2008.

Hỏi: Thưa ông, hiện nay có nhiều tình trạng khẩn cấp tại Italia cũng như trên thế giới, đâu là nhng vùng đáng được chú ý trợ giúp nhiều hơn?

Đáp: Tình trạng khủng hoảng tại Italia và Âu châu đang gây ra khó khăn lớn. Các đơn xin trợ giúp được gửi tới các trung tâm lắng nghe của chúng tôi, tới các Caritas giáo phận và giáo xứ, cũng như mọi cơ cấu liên hệ gia tăng nhiều và liên quan tới cả người dân Ý, kể cả giới trẻ. Hầu hết là các đơn xin việc làm. Họ là những người rất có phẩm cách, mà chúng tôi không hề quen biết, và chúng tôi tìm cách can thiệp để giúp họ. Đây không phải là các trợ giúp bình thường.

Còn trên bình diện quốc tế thì có nạn đói trong vùng Sahel bên Phi châu, đặc biệt là tại các nước như Niger, Mali, Burkina Faso. Nhưng cũng có cả một vùng rộng lớn chạy dài từ Senegal cho tới Sudan nữa, với nạn hạn hán kéo dài gây ra cảnh mất mùa đói kém liên lụy đến 13 triệu dân trong vùng. Ngoài ra còn có các mặt trận khác nữa như các cuộc chiến bị lãng quên, các tình trạng khẩn cấp bị lãng quên… ít báo chí thế giới nói đên, nhưng các lời kêu cứu được gửi tới chúng tôi hàng ngày.

*** Tiếp theo đây là một vài nhận định của ông Giacomo Guerrera, Tổng giám đốc tổ chức Lương Nông Quốc Tế.

Hỏi: Thưa ông Tng giám đốc, nghe nói tổ chức Lương Nông Quốc Tế đã phát động chiến dịch quyên góp cứu đói, có đúng thế không?

Đáp: Vâng, đúng vậy. Chúng tôi đã phát động chiến dịch có khẩu hiệu là ”Chúng tôi muốn có số dêrô”: dêrô số trẻ em bị chết yểu. Hiện nay mỗi ngày có 22.000 trẻ em bị chết vì các thứ bệnh có thể chữa được. Chúng ta có thể làm được một cái gì đó cho các em. Chúng tôi đã phát động chiến dịch vì tin tưởng nơi lòng quảng đại của người dân Italia, đã luôn luôn tích cực tham gia vào các sáng kiến của chúng tôi. Họ có thể gửi một sứ điệp SMS vào số 45505 trên điệm thoai di động hay qua điện thoại thường. Chỉ đơn sơ như vậy thôi sẽ có hàng triệu trẻ em được cứu sống. Và chúng tôi đã gặt hái thánh công. Trong một thế hệ chúng tôi đã giảm được phân nửa số trẻ em bị chết yểu vì các tật bệnh thông thường.

Hỏi: Tổ chức Nhi Đồng Thế Giới UNICEF có cảm thấy bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế không thưa ông? Và đâu là các lãnh vực được tổ chức chú ý nhất hiện nay?

Đáp: Cũng như mọi tổ chức quốc tế khác UNICEF cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng như lý do thứ nhất. Nhưng cũng có các biến cố khác nữa xảy ra như động đất. Các trợ giúp cũng được hướng tới các nạn nhân này nữa.

Các vùng gây âu lo nhất là các nơi có ”các tình trạng khẩn cấp bị che giấu”. Khi mới xảy ra thì được giới truyền thông chú ý, rồi sau đó bị bỏ quên. Tôi có ý nói tới nạn đói vùng Sừng Phi châu, tại Sahel và Haiti cũng như tại Libia, nơi chúng tôi đã thành công trong việc gửi 1,2 triệu trẻ em tới trường trở lại. Nhưng còn có rất nhiều vấn đề liên quan tới các dân tộc bị cưỡng bách di cư sang các nước láng giềng nữa.

(RG 25-5-2012; RG 1-6-2012)

Linh Tiến Khải
 

Sứ điệp Video Đức Thánh Cha gửi Đại Hội Thánh Thể quốc tế thứ 50 tại Dublin

Sứ đip Video Đức Thánh Cha gửi Đại Hội Thánh Thể quốc tế thứ 50 tại Dublin

DUBLIN. Chiều chúa nhật 17-6-2012, Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp Video cho các tham dự viên Đại Hội Thánh Thể quốc tế lần thứ 50 và loan báo Đại hội thứ 51 sẽ tiến hành tại thành phố Cebu, Philippines vào năm 2016.

Đại hội Thánh thể quốc tế lần thứ 50 đã kết thúc sau một tuần lễ tiến hành với chủ đề ”Thánh Thể: hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta với nhau”. Thánh Lễ bế mạc lúc 4 giờ chiều do ĐHY Đặc Sứ của ĐTC, Marc Ouellet, Tổng trưởng Bộ GM chủ sự, cùng với đông đảo các HY, GM và LM đến từ hơn 120 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, trước sự hiện diện của 80 ngàn tín hữu Ireland và nước ngoài.

Cuối thánh lễ, sứ điệp Video của ĐTC đã được công bố cho các tham dự viên:

Anh chị em thân mến,

Với lòng rất quí mến trong Chúa, tôi chào thăm tất cả anh chị em đang tụ họp tại Dublin dự Đại hội Thánh Thể Quốc tế thứ 50, đặc biệt là ĐHY Brady, Đức TGM Martin, hàng giáo sĩ, tu sĩ và các tín hữu Ireland, cũng như tất cả anh chị em đến từ nơi xa để hỗ trợ Giáo Hội tại Ireland bằng sự hiện diện và kinh nguyện.

Chủ đề Đại hội ”Hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta” đưa chúng ta suy tư về Giáo Hội như mầu nhiệm hiệp thông với Chúa và với tất cả các chi thể của Thân Mình Ngài. Từ thời kỳ đầu tiên, ý niệm Koinonia hoặc hiệp thông đã ở trung tâm sự hiểu biết của Giáo Hội về chính mình, ở trung tâm quan hệ của Giáo Hội với Chúa Kitô là Đấng Sáng Lập và các bí tích mà Giáo Hội cử hành, trước hết là Thánh Thể. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào cái chết của Chúa Kitô, chúng ta tái sinh trong đại gia đình các anh chị em của Chúa Giêsu Kitô; nhờ bí tích Thêm Sức, chúng ta nhận ấn tích của Chúa Thánh Thần, và khi chia sẻ Thánh Thể, chúng ta được hiệp thông với Chúa Kitô và giữa chúng ta với nhau một cách hữu hình trên trái đất này. Chúng ta cũng nhận được lời hứa đời sống vĩnh cửu mai hậu.

Ngoài ra, Đại hội diễn ra giữa lúc Giáo Hội trên toàn thế giới chuẩn bị cử hành Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng chung Vatican 2, một biến cố khơi lên sự canh tân nghi lễ Roma một cách sâu rộng chưa từng có trước đây. Dựa trên sự quí chuộng ngày càng sâu đậm hơn đối với các nguồn mạch của phụng vụ, Công đồng đã cổ võ các tín hữu tham gia trọn vẹn và tích cực vào Hy tế Thánh Thể. Ngày nay, nhìn lại từ thời các nghị phụ Công đồng mong ước canh tân phụng vụ cho đến bây giờ, và dưới ánh sáng kinh nghiệm hoàn vũ của Giáo Hội trong thời kỳ sau đó, người ta thấy rõ kết quả thật là lớn lao, nhưng cũng có nhiều sự hiểu lầm và trục trặc. Sự canh tân những hình thức bên ngoài, mà các nghị phụ mong muốn, nhắm làm cho việc đi sâu vào mầu nhiệm được dễ dàng hơn. Mục đích đích thực của sự canh tân là dẫn đưa tín hữu đến cuộc gặp gỡ bản thân với Chúa hiện diện trong Thánh Thể, và qua đó với Thiên Chúa hằng sống, đến độ nhờ sự tiếp xúc như thế với tình yêu Chúa Kitô, tình yêu thương giữa các anh chị em với nhau cũng có thể tăng trưởng. Nhưng nhiều khi việc duyệt lại các hình thức phụng vụ chỉ ở lại mức độ bên ngoài, và sự tham dự tích cực bị lu mờ với hoạt động bên ngoài như thế. Vì vậy, vẫn còn nhiều điều phải làm trên con đường canh tân đích thực về phụng vụ. Trong một thế giới đổi thay, ngày càng chú tâm tới vật chất, chúng ta phải học cách tái nhận ra sự hiện diện nhiệm mầu của Chúa Phục Sinh, là Đấng duy nhất có thể ban hơi thở và chiều sâu xa cho đời sống chúng ta.

Thánh Thể là việc phụng tự của toàn thể Giáo Hội, nhưng cũng đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn của mỗi tín hữu Kitô trong sứ mạng của Giáo Hội; Thánh Thể chứa đựng một lời kêu gọi hãy trở nên dân thánh của Thiên Chúa, nhưng cũng kêu gọi mỗi người hãy nên thánh; Thánh Thể cần phải được cử hành với niềm vui lớn lao và đơn sơ, nhưng cũng phải tha thứ cho các anh chị em; Thánh Thể liên kết chúng ta với nhau trong Thánh Thần, những cũng truyền cho chúng ta, trong cùng Thánh Thần, hãy mang Tin Mừng cứu độ cho tha nhân.

Ngoài ra, Thánh Thể là lễ tưởng niệm Hy tế của Chúa Kitô trên thập giá, Mình và Máu Ngài được dâng hiến trong giao ước mới và vĩnh cửu để tha tội và biến đổi thế giới. Ireland qua bao thế kỷ đã được hình thành nhờ Thánh Thể ở bình diện sâu xa nhất và, nhờ sức mạnh và ơn thánh của Thánh Thể, bao thế hệ các đan sĩ, các vị tử đạo và thừa sai đã sống đức tin một cách anh dũng nơi quê hương của mình và thông truyền Tin Mừng tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa vượt lên trên các biên cương của anh chị em. Anh chị em là những người thừa kế của một Giáo Hội đã từng là năng lực mạnh mẽ của sự thiện trong thế giới, và đã cống hiến cho rất nhiều người khác một tình yêu sâu xa và lâu bền đối với Chúa Kitô và Mẹ Thánh của Ngài. Các tiền nhân của anh chị em trong Giáo Hội tại Ireland đã biết cách dấn thân nên thánh và sống theo niềm tin trong đời sống bản thân, biết cách rao giảng niềm vui đến từ Tin Mừng, thăng tiến tầm quan trọng được thuộc về Giáo Hội hoàn vũ trong niềm hiệp thông với Tòa Thánh Phêrô, và họ cũng biết cách thông truyền cho các thế hệ tương lai lòng yêu mến đức tin và các nhân đức Kitô giáo. Niềm tin Công Giáo của chúng ta, được tràn đầy cảm thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa, được vẻ đẹp của thiên nhiên quanh chúng ta thu hút, và được thanh tẩy nhờ sự thống hối bản thân và ý thức về ơn tha thứ của Thiên Chúa, đó là một gia sản được kiện toàn một cách chắc chắn và được nuôi dưỡng khi được đều đặn đặt trên bàn thờ của Chúa trong Hy tế Thánh Lễ. Lòng biết ơn và niềm vui vì lịch sử tin yêu lớn lao dường ấy gần đây đã bị giao động một cách kinh khủng vì sự tỏ lộ những tội do các linh mục và những người thánh hiến đã phạm đối với những người đã được ủy thác cho họ chăm sóc. Thay vì chỉ cho các em con đường dẫn về Chúa Kitô, về Thiên Chúa, thay vì làm chứng về lòng từ nhân của Chúa, thì họ lại lạm dụng các em và làm thương tổn uy tín sứ điệp của Giáo Hội. Làm sao chúng ta có thể giải thích sự kiện những người đã thường xuyên lãnh nhận Mình Thánh Chúa và xưng thú các tội lỗi của mình trong bí tích Thống hối mà lại xúc phạm dường ấy? Đó thực là một mầu nhiệm. Nhưng hiển nhiên là đạo Kitô của họ không còn được nuôi dưỡng bằng cuộc gặp gỡ hân hoan với Chúa Giêsu Kitô: nhưng chỉ là một tập quán mà thôi. Hoạt động của Công đồng trong thực tế nhắm vượt thắng hình thức Kitô giáo như thế và tái khám phá đức tin như một quan hệ bản thân sâu xa với lòng từ nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đại Hội Thánh Thể có mục đích tương tự như vậy. Nơi đây chúng ta mong ước gặp Chúa Phục Sinh. Chúng ta hãy cầu xin Chúa đánh động trong nội tâm sâu xa của chúng ta. Ước gì Đấng đã thổi hơi trên các Tông Đồ trong ngày lễ Vượt Qua để thông truyền Thần Khí của Ngài cho họ, cũng ban cho chúng ta theo cùng một thể thức ấy hơi thở, quyền năng của Thánh Thần, và như thế giúp chúng ta trở thành những chứng nhân đích thực về tình thương của Chúa, những chứng nhân về chân lý của Ngài. Chân lý của Chúa là tình thương. Tình thương của Chúa Kitô là chân lý.

”Anh chị em thân mến, tôi cầu nguyện để Đại Hội Thánh Thể, đối với mỗi người trong anh chị em, là một kinh nghiệm tinh thần phong phú về sự hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài. Đồng thời tôi muốn mời gọi anh chị em hiệp với tôi xin Chúa chúc lành cho Đại Hội Thánh Thể quốc tế kỳ tới sẽ diễn ra vào năm 2016 tại thành phố Cebu! Tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt tới nhân dân Philippines, và cam đoan gần gũi họ qua kinh nguyện trong thời kỳ chuẩn bị cho Đại hội này của Giáo Hội. Tôi chắc chắn rằng Đại hội Thánh Thể sẽ mang lại một sự canh tân tinh thần lâu dài không những cho các tín hữu Philippines, nhưng còn cho các tham dự viên từ các nơi trên thế giới nữa. Trong khi đó, tôi phó thác mỗi tham dự viên Đại hội Thánh Thể hiện nay cho sự bảo vệ yêu thương của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và cho thánh Patrick, Đại Bổn mạng của Ireland; và như bảo chứng niềm vui và an bình trong Chúa, tôi chân thành ban Phép Lành Tòa Thánh cho anh chị em.

G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ

20 ngàn tín hữu đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha

20 ngàn tín hữu đọc Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha

VATICAN. Trưa chúa nhật 17-6-2012, dù trời nắng gắt, đã có lối 20 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô để tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin với ĐTC.

Trong số những người hiện diện đặc biệt có hàng trăm người thuộc Phong trào Tình Yêu gia đình, tham dự cuộc gặp gỡ tại Roma. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC đã quảng diễn ý nghĩa 2 dụ ngôn trong bài Tin Mừng chúa nhật 11 thường niên năm B, để khích lệ các tín hữu tin tưởng và hy vọng giữa những khó khăn, vất vả và cơ cực. Ngài nói:

Anh chị em thân mến,

Phụng vụ hôm nay đề nghị với chúng ta hai dụ ngôn ngắn của Chúa Giêsu: dụ ngôn hạt giống tự mình tăng trưởng và dụ ngôn hạt cải (Xc Mc 4,26-34). Qua những hình ảnh lấy từ nông nghiệp, Chúa trình bày mầu nhiệm Lời và Nước Thiên Chúa, và nêu lý do tại sao chúng ta hy vọng và dấn thân.

Trong dụ ngôn thứ nhất, sự chú ý được dành cho động thái của việc gieo hạt: hạt giống được gieo xuống đất, dù nông dân ngủ hay thức, hạt giống ấy nẩy mầm và tự tăng trưởng. Người gieo giống tín thác rằng công việc của mình không phải là không có kết quả. Điều nâng đỡ nông dân trong những vất vả hằng ngày chính là niềm tín thác nơi sức mạnh của hạt giống và đất tốt. Dụ ngôn này nhắc nhớ mầu nhiệm sáng tạo và cứu chuộc, công trình phong phú của Thiên Chúa trong lịch sử. Chính Ngài là Chủ Tể của Nước Chúa, con người là cộng tác viên khiêm hạ của Chúa, chiêm ngắm và vui mừng vì hoạt động sáng tạo của Chúa và kiên nhẫn chờ đợi thành quả. Phần cuối trình thuật này làm cho chúng ta nghĩ đến sự can thiệp kết thúc của Thiên Chúa trong ngày tận thế, khi Ngài sẽ thực hiện trọn vẹn Nước của Ngài. Thời gian hiện tại là thời kỳ gieo giống, việc tăng trưởng của hạt giống được Chúa bảo đảm. Vì thế mỗi Kitô hữu biết rõ mình phải làm tất cả những gì có thể, nhưng kết quả chung kết là tùy nơi Thiên Chúa: ý thức này nâng đỡ tín hữu giữa những vất vả thường nhật, nhất là trong những tình trạng khó khăn. Về vấn đề này, thánh Ignatio Loyola đã viết: ”Con hãy hành động như thể mọi sự tùy thuộc nơi con, nhưng đồng thời con cũng biết rằng trong thực tế tất cả đều tùy thuộc vào Thiên Chúa” (Xc Pedro de Ribadeneira, Vita di S. Ignazio di Loyola, Milano, 1998).

Cả dụ ngôn thứ hai cũng dùng hình ảnh việc gieo giống. Nhưng ở đây là một hạt giống đặc thù, hạt cải, được coi là nhỏ nhất trong mọi thứ hạt. Dù nhỏ như vậy, nhưng nó đầy sức sống, từ đó nảy sinh một mầm có thể chui ra khỏi đất, mọc lên dưới ánh sáng mặt trời và tăng trưởng đến độ trở thành một ”cây lớn hơn mọi cây khác trong vườn” (Xc Mc 4,32): sự yếu đuối là sức mạnh của hạt giống, sự kiện nó bị nứt vỡ ra chính là năng lực của nó. Cũng vậy đối với Nước Thiên Chúa: là một thực tại nhỏ bé xét về phương diện con người, bao gồm những người thanh bần trong tâm hồn, những người không tín thác nơi sức riêng của mình, nhưng nơi sức mạnh của tình yêu Chúa, những người không đáng kể trước mặt thế gian; nhưng chính qua họ mà sức mạnh của Chúa Kitô được biểu dương và biến đổi những gì có vẻ không phải quan trọng.

Hình ảnh hạt giống đặc biệt được Chúa Giêsu quí chuộng, vì nó biểu lộ rõ mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Trong hai dụ ngôn hôm nay, hình ảnh ấy tượng trưng sự ”tăng trưởng” và ”tương phản”: sự tăng trưởng diễn ra nhờ năng động ở trong chính hạt giống và sự tương phản hiển hiện giữa sự bé nhỏ của hạt giống và sự to lớn của những gì mà hạt giống tạo nên. Sứ điệp ở đây thật là rõ ràng: Nước Thiên Chúa, tuy đòi sự cộng tác của chúng ta, nhưng trước tiên đó là một hồng ân của Chúa, ân thánh đi trước con người và công trình loài người. Sức mạnh bé nhỏ của chúng ta, bề ngoài có vẻ là bất lực trước những vấn đề của thế giới, nhưng nếu được dìm trong sức mạnh của Thiên Chúa thì không sợ những chướng ngại, vì chiến thắng của Chúa là điều chắc chắn. Đó là phép lạ tình yêu của Thiên Chúa, làm nảy mầm và tăng trưởng mọi hạt giống được gieo vãi rộng rãi trên mặt đất. Và kinh nghiệm về phép lạ tình yêu này làm cho chúng ta lạc quan, mặc dù có những khó khăn, đau khổ và bất hạnh mà chúng ta gặp phải. Hạt giống nảy mầm và tăng trưởng, vì chính tình yêu Chúa làm cho nó lớn lên. Đức Trinh Nữ Maria, như đất tốt, đã đón nhận hạt giống Lời Chúa, xin Mẹ củng cố nơi chúng con niềm tin và niềm hy vọng này.

Chào thăm sau Phép Lành

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc nhở mọi người rằng ”Thứ tư tới đây, 20-6, là Ngày Thế Giới về người tị nạn, do LHQ đề xướng. Ngày này muốn lưu ý cộng đồng thế giới về những hoàn cảnh của bao nhiêu người, nhất là các gia đình, buộc lòng phải rời bỏ quê hương, vì bị đe dọa trước các cuộc xung đột võ trang và những hình thức bạo lực trầm trọng. Tòa Thánh cầu nguyện và liên tục quan tâm tới các anh chị em ấy, đồng thời tôi cầu mong rằng các quyền của người tị nạn luôn được tôn trọng và họ sớm có thể đoàn tụ với những người thân yêu.

ĐTC nói thêm rằng: ”Hôm nay, tại Ai Len, có lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể quốc tế, trong tuần qua Đại hội này đã biến thủ đô Dublin thành ”thành phố của Thánh Thể” nơi mà nhiều người họp nhau cầu nguyện trước sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích bàn thờ. Trong mầu nhiệm Thánh Thể, Chúa Giêsu đã muốn ở lại với chúng ta, để dẫn chúng ta vào cuộc hiệp thông với Ngài và giữa chúng ta với nhau. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ Maria Chí Thánh những thành quả được chín mùi trong những ngày suy tư và cầu nguyện này.

ĐTC không quên nhắc đến lễ phong chân phước chiều chúa nhật hôm qua 17-6 và nói rằng: ”Tôi vui mừng nhắc nhớ rằng chiều hôm nay, tại thành Nepi, trong giáo phận Civita Castellana, sẽ có lễ phong chân phước cho Cecilia Eusepi, qua đời lúc mới được 18 tuổi. Thiếu nữ này đã mong ước trở thành một nữ tu thừa sai, nhưng buộc lòng phải rời bỏ tu viện vì bệnh tật, sống với niềm tin không lay chuyển, chứng tỏ một khả năng hy sinh lớn lao để cứu vớt các linh hồn. Trong những ngày cuối đời, trong sự kết hiệp sâu xa với Chúa Kitô chịu đóng đanh, Cecilia thường lập lại: ”Thật là đẹp dường nào khi hiến thân cho Chúa Giêsu, là Đấng đã tận hiến vì chúng ta”.

ĐTC còn chào thăm các tín hữu hành hương bằng các thứ tiếng chính, kèm theo những lời nhắn nhủ dựa theo bài Tin Mừng chúa nhật. Sau cùng bằng tiếng Ý, ngài đặc biệt nhắc đến các tham dự viên cuộc gặp gỡ do Phong trào Tình Yêu gia đình tổ chức về đề tài “Kinh Lạy Cha và căn cội Kitô của gia đình và xã hội”.

G. Trần Đức Anh OP

Nhân ngày Hiền Phụ, xin gửi đến các Bạn chút giọt lệ của yêu thương!

 

BỐ TÔI, NGƯỜI LÍNH VNCH

 Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng… [Xem tiếp]
 

VÀI NÉT LỊCH SỬ VỀ NGÀY HIỀN PHỤ

VÀI NÉT LỊCH SỬ NGÀY HIỀN PHỤ

Linh Mục TRẦN QUÝ THIỆN

VÀI NÉT LỊCH SỬ NGÀY HIỀN PHỤ

Theo các nhà giáo dục, vấn đề huấn luyện trẻ em trong gia đình chỉ đạt tới mức hoàn hảo, nếu có sự phối hợp chặt chẽ giữa tính cương trực quyền uy của người cha cộng với tình thương dịu hiền của người mẹ.

Xem tiếp VÀI-NÉT-LỊCH-SỬ-NGÀY-HIỀN-PHỤ

 

Tin Công Giáo trong tuần từ 06-11 đến 06-17-2012

   TU ES PETRUS,  số 07, 06-11 – 06-17-2012

  TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Dòng Xuân Bích Việt Nam

Đức Thánh Cha “lược bỏ những cành chết” trong bộ máy quan liêu Vatican

Venezuela: “Đối thoại giữa Giáo Hội và nhà nước phải tiếp tục và được củng cố”’

Tổng thống Sri Lanca viếng thăm Vatican

Hai tin dẫn từ CWN 08/06 (Các lãnh đạo Dòng Phan Sinh hậu thuẫn LCWR  & Các linh mục người Đức thách thức luật Giáo Hội về Rước Lễ)

Tối hậu thư đưa ra chống lại các Kitô hữu ở Qusayr

Hàng trăm giáo sĩ hiệp nhất lần chuỗi mân côi cầu cho các linh mục trên thế giới

Bổ nhiệm mới

Hơn 215 triệu trẻ em lao động trên thế giới.

Hội nghị các Bề Trên Thượng Cấp : vì một căn tính mới của Giáo Hội địa phương.

Giáo phận ở Nhật phản đối vụ bắt giữ tại nhà thờ

Giáo Hội Ái Nhĩ Lan trên đường canh tân

Gia đình thấy được chúc phúc do bữa ăn trưa với Đức Giáo Hoàng.

Đức Giám Mục Blair mạnh mẽ bênh vực lời kêu gọi cải tổ LCWR

Các nhà ngoại giao Vatican phải trung thành với Đức Giáo Tông.

Vị trí và các quyền của người khuyết tật trong xã hội và trong Giáo Hội

Đánh giá về tín lý đối với LCWR

Uỷ Ban Toà Thánh – Israel

Chiến dịch tự do tôn giáo của các Giám Mục Hoa Kỳ đang hình thành.

Giáo Phẩm Vatican thăm Azerbaijan, quốc gia có 450 tín hữu Công giáo.

Tế bào gốc tiếp tục sống sau khám nghiệm tử thi.

Vatican tìm kiếm  tên miền Internet “.catholic”

Tín hữu Công giáo chống lại kế hoạch tấn phong tân giám mục bất chấp Roma

Đức Thánh Cha đưa ra lời mời cuồi cùng

Tăng gấp ba lượng gia nhập các Dòng Nữ Tu ở Liên Hiệp Anh

Hiệp ước với Lituanie (còn gọi là Litva.ND)

-Tân giám đốc Tổ Chức Nông Lương (FAO) viếng thăm Vatican

Khoa thần học thần kinh khám phá đức tin trong não bộ

Ba lan : 25 năm chầu Thánh Thể vĩnh viễn

Các nhà khảo cổ xác nhận Kinh Thánh không phải là hư cấu

 

(xem tiép . . .Tin Công Giáo trong tuần từ 06-11 đến 06-17-2012 )

VIỆC LỚN, VIỆC NHỎ

VIỆC LỚN, VIỆC NHỎ

CHÚA NHẬT XI THƯỜNG NIÊN NĂM B (17/06/2012)
[Ed 17,22-24; 2 Cr 5,6-10; Mc 4,26-34]

Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, đâu đâu cũng có những việc lớn việc nhỏ. Ai cũng thích làm việc lớn hơn là những việc nhỏ mặc dù ai cũng hiểu việc nhỏ đã không làm nổi thì đừng mong làm chuyện lớn hơn.

Nếu không có người mẹ với gánh chè xôi nho nhỏ kia, xe cháo lòng dân dã kia… nếu không có sự chắt chiu trân trọng từng đồng tiền nhỏ lẻ kia, hẳn đã không thể mọc lên một căn nhà tươm tất tương đối là mái ấm hoàn mỹ cho gia đình.

Nếu không có người cha đã rong ruổi bán từng cái bong bóng nho nhỏ, từng que cà rem nho nhỏ những năm khó khăn gian khổ kia, hẳn là không thể có những mảnh bằng đại học của con cái hôm nay.

Nếu không có những tiếng ru êm ái, những lời kinh thì thầm, những dặn dò dịu ngọt, những sửa dạy nhẹ nhàng, những nhẫn nhịn chân thành, những hy sinh đơn sơ, những gương sáng đạo đức nho nhỏ của cha mẹ, hẳn đã không thể có những đứa con ngoan ngoãn biết thờ phượng Chúa, biết yêu thương người, biết quí trọng việc làm, biết làm lành lánh dữ, biết quan tâm sẻ chia, và nhất là biết ưa chuộng việc nhỏ, yêu mến đức khiêm nhường.

Nếu không có những việc nhỏ… hẳn không thể kết tinh được những thành quả lớn hơn: một người con của Chúa, một Linh Mục, một Nữ Tu, một người tài đức, một người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh.

Trong công cuộc truyền giáo cũng vậy, ai cũng thích làm chuyện lớn lao, chuyện nổi danh cho ra ông kia bà nọ, và thường vẫn chê chối những việc nhỏ hơn, chê bai những người làm việc nhỏ, thậm chí còn dè bỉu coi thường những người có khả năng to nhưng đã tận tụy làm những việc nhỏ, những đóng góp nhỏ. Tưởng cũng nên nhắc đến việc ngay cả những người sống đời tận hiến, khi lãnh nhận bài sai phục vụ đoàn chiên của Chúa cũng đã có người phàn nàn trách móc bề trên ngay trong lễ nhận xứ rằng: “Trâu to mà sai cày ruộng nhỏ”… Bỗng trở thành câu nói “nổi tiếng” truyền đi hết nơi này đến nơi kia!

Hội Thánh lớn lên từ hạt cải bé nhỏ, từ tấm lòng khiêm nhượng: Hạt cải bé nhỏ của Đức Giêsu – Tấm lòng khiêm nhượng của Đức Giêsu – Hạt cải khiêm nhượng của những người theo gương Chúa Giêsu.

Nếu không có những đồng tiền của bà góa ở khắp năm châu, những đồng tiền nhỏ của những người hy sinh lớn, chắc gì xây nổi một Thánh Đường, một phòng Giáo Lý, hay một công trình nào đó cho Thiên Chúa.

Nếu không có những lời nguyện âm thầm của những người bệnh hoạn tật nguyền, những lời cầu nguyện nho nhỏ của những người đau khổ, thiếu thốn, đói nghèo ở khắp năm châu thì chắc gì bạn đã được bình yên, được sức khỏe, được thành đạt công việc phục vụ Chúa, phục vụ gia đình bạn, Giáo Xứ bạn và cả Hội Thánh nữa.

Thiết tưởng, mỗi chúng ta nên sống tâm tình này: “Tôi sống nhờ lời cầu nguyện nho nhỏ, nhờ lời kinh rất âm thầm của những người đau khổ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt”. Và từ suy gẫm ấy, mỗi chúng ta cũng phải trở thành người nhỏ bé khiêm nhu tận hiến cho Chúa từng việc nhỏ với lòng yêu mến đơn sơ chân thành và khiêm tốn vì “tất cả cho vinh danh Thiên Chúa”.

Ở một vài giáo xứ, khi có nhiều sinh hoạt các đoàn thể khác nhau, thường có những cái nhìn so sánh phân biệt đoàn thể này giá trị hơn đoàn thể kia, hội này to hơn hội nọ. Thực đáng buồn cho những cái nhìn phân biệt ấy. Tôi vẫn để ý tới những kinh nguyện âm thầm, những bước chân lặng lẽ của những chiến sĩ của Mẹ trong Hội Legio. Họ không làm gì nổi bật cả, cũng không được phép huyênh hoang điều gì cả, càng không được phép tiết lộ công việc của họ với người không liên quan… thế mà, có những mùa gặt Đức Tin bội thu từ những việc nho nhỏ ấy, từ một hội đoàn vẫn thường bị anh em xem thường. Có người còn nặng lời cho rằng hội ấy dành cho người bình dân, thấp bé, ít học. Thật đáng trách cho những người xem mình là lớn lao, thích làm việc to, việc nổi, mà chưa chắc đã sinh ích lợi gì cho mình và cho Hội Thánh.

Hoặc gần đây, cũng có một vài cái nhìn không mấy thiện cảm dành cho những hội viên Lòng Chúa Thương Xót vì cho rằng đó là việc đạo đức của những cụ già, của những người bệnh tật đau yếu, của những người tội lỗi… nhưng thực ra, chính họ đang khẩn cầu lòng Chúa thương xót cho họ, cho mỗi chúng ta và cho toàn thế giới. Còn có những người không chỉ bé nhỏ mà còn vô danh tiểu tốt đang âm thầm làm hạt cải của Thiên Chúa ở khắp nơi giữa chợ đời. Họ vẫn chịu nhiều khinh miệt. Họ không được viếng thăm, cũng chẳng được tiếp rước linh đình nhưng họ đang là bạn chí thân của những người đau khổ, xấu số, bất hạnh. Họ không sinh hoạt đoàn thể nào cả, vì chẳng có thời gian bỏ cái quang gánh thúng bưng, nhưng họ đang sống tốt lành trước mặt Chúa, để Đức Tin trưởng thành và gương sống công bình bác ái của họ nên lời chứng cho Thiên Chúa.

Hạt cải người đi gieo trồng với lòng tín thác vào quyền năng Chúa sẽ được Thiên Chúa cho mọc lên và phát triển. Việc nhỏ mà chúng ta thực hiện cho danh Chúa cả sáng thì chắc hẳn Thiên Chúa sẽ làm cho nên lớn lao trong công cuộc của Ngài.

Chị Marie Paul NTL, năm ấy, vì những thất bại trong cuộc đời, trong chuyện gia đình đã âm thầm tìm ra hải đảo để sinh sống. Chị đã thấy một hải đảo thiếu vắng Tin Mừng. Chị đã nguyện làm một hạt cải trong thánh ý của Thiên Chúa. Sau hơn 15 năm làm hạt cải âm thầm trên hải đảo, Chúa đã cất đi sự tủi hổ, cất đi sự thất bại của cuộc đời chị và đã làm cho hạt cải của chị lớn lên thành một cộng đoàn Giáo Họ Hải Đảo Phú Quý như hôm nay: 157 Giáo Dân trên tổng số 27 ngàn dân hải đảo, một ngôi Thánh Đường sắp mọc lên. Và chúng ta có quyền hy vọng 157 hạt cải mới kia sẽ được Thiên Chúa cho vươn lên thành một cộng đoàn lớn, một công trình cứu rỗi. Chúa đã làm nên bao việc lạ lùng trước mắt chúng ta, bắt đầu từ sự khiêm tốn của chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con biết rằng ‘quí chuộng và thực hiện việc nhỏ cho vinh danh Thiên Chúa thì có giá trị hơn là quí chuộng và thực hiện những việc lớn lao cho vinh danh mình’. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn tín thác và chấp nhận để Chúa tác động trong mỗi việc của chúng con. Amen.

PM. Cao Huy Hoàng

Đức Thánh Cha tiếp Chủ tịch Đại Hội đồng thứ 66 của LHQ

Đức Thánh Cha tiếp Chủ tịch Đại Hội đồng thứ 66 của LHQ

VATICAN. Tòa Thánh đề cao vai trò của LHQ trong việc góp phần giải quyết các xung đột trên thế giới.

Lập trường trên đây của Tòa Thánh được trình bày trong buổi tiếp kiến sáng hôm 15-6-2012, của ĐTC dành cho ông Nassir Abdulaziz Al-Nasser, Chủ Tịch Đại hội đồng thứ 66 của Liên hiệp quốc. Sau khi gặp ĐTC, ông đã gặp ĐHY Quốc vụ khanh Tòa Thánh Bertone và Đức TGM ngoại trưởng Dominique Mamberti.

Thông cáo do Phòng báo chí Tòa Thánh phổ biến cho biết đề tài chính trong cuộc đối thoại thân mật là vai trò của LHQ, đặc biệt là Đại hội đồng LHQ, trong việc giải quyết các cuộc xung đột, đặc biệt là những xung đột hiện nay tại các vùng trên thế giới, nhất là tại Phi châu và Trung Đông, và tình trạng trầm trọng từ đó gây ra cho con người.
Các vị cũng nói về đóng góp quan trọng của Giáo hội Công Giáo cho nền hòa bình và sự phát triển, cũng sự nêu bật sự cộng tác giữa các tôn giáo và các nền văn hóa (SD 15-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha sẽ di chuyển tới Castel Gandolfo từ ngày 3 tháng 7-2012

Đức Thánh Cha sẽ di chuyển tới Castel Gandolfo từ ngày 3 tháng 7-2012

VATICAN. Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh, Cha Lombardi, cho biết ĐTC sẽ di chuyển tới dinh thự mùa hè của ngài ở Castel Gandolfo từ ngày 3 tháng 7 tới đây và ngài sẽ lưu lại đây suốt mùa hè.

Cha Lombardi cũng nói rằng trong tháng 7 này sẽ không có các buổi tiếp kiến chung hằng tuần của ĐTC mỗi sáng thứ tư, và chỉ có các buổi đọc kinh truyền tin do ngài chủ sự tại Castel Gandolfo vào mỗi trưa chúa nhật.

Ngoài ra, như đã loan báo, chúa nhật 15-7-2012, ĐTC sẽ viếng thăm mục vụ tại giáo phận Frascati gần Roma, và ngài sẽ cử hành thánh lễ tại đây lúc 9 giờ rưỡi sáng. Tiếp đến có hai cuộc hòa nhạc sẽ diễn ra tại Castel Gandolfo: trước tiên vào ngày 11-7 với các bạn trẻ thuộc Ban nhạc Barenboim, và thứ hai vào tháng 8 với các nhạc sĩ từ miền Bavière, quê hương của ĐTC.

LM Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh tái khẳng định cuộc viếng thăm của ĐTC tại Liban sẽ diễn ra từ ngày 14 đến 16-9 năm nay, đồng thời nói rằng ”Không có sự bấp bênh nào trong công cuộc chuẩn bị. Cuộc viếng thăm của ĐTC đã được ấn định và đang được chuẩn bị cho những ngày được xác định. Không có sự bấp bênh nào từ phía Tòa Thánh. Sự bấp bênh là ở trong tình trạng của thế giới”.

Trong những ngày qua, một số báo chí cho rằng cuộc viếng thăm của ĐTC tại Beirut, Liban để công bố Tông Huấn Hậu Thượng HĐGM Trung Đông có thể bị hủy vào phút chót nếu xảy ra cuộc chiến tranh từ Siri tràn sang.
Theo cha Lombardi, cuộc khủng hoảng tại Siri – như chúng ta biết, dường như không thể đặt lại vấn đề cuộc viếng thăm của ĐTC, ít là cho đến lúc này.

Về vụ người cựu giúp việc của ĐTC, ông Paolo Gabriele đang bị điều tra vì tội lấy trộm và giữ tài liệu từ văn phòng ĐTC, Cha Lombardi cho biết tuần này không có cuộc thẩm vấn chính thức, tuần tới cuộc thẩm vấn sẽ được mở lại và ông tiếp tục bị tạm giam.

Thứ năm 21-6, sẽ có cuộc họp báo tại Vatican để trình bày chương trình Năm Đức Tin sẽ khai mạc từ ngày 11-10 năm nay. Tiếp đến, ngày 22-6, giới báo chí đăng ký tại Phòng báo chí Tòa Thánh sẽ viếng thăm Viện Giáo Vụ, quen gọi là Ngân Hàng Vatican để giúp họ hiểu rõ về bản chất, phương pháp hoạt động, mục đích của Viện này.
Sau cùng, cha Lombardi bác bỏ tin do một tờ báo lớn ở Italia truyền đi cho rằng ”một chuyên gia tin học” của ĐGH, một ”tin tặc” đã biến mất. Cha gọi tin này là ”vô căn cứ” và không có gì tương ứng thực tại. Tờ báo La Repubblica đã nhiều lần tung những tin thất thiệt và vị Giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh thường phải cải chính. (SD 14-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Thành lập Giáo hạt tòng nhân tại Australia

Thành lập Giáo hạt tòng nhân tại Australia

VATICAN. Hôm 15-6-2012, Bộ giáo lý đức tin đã thành lập Giáo hạt tòng nhân Đức Bà Thánh Giá miền nam (Our Lady the Southern Cross) tại Australia để đón nhận các tín hữu cựu Anh giáo gia nhập Công Giáo.

Đồng thời ĐTC cũng bổ nhiệm vị Bản quyền đầu tiên của Giáo Hạt là Cha Herry Entwistle.

Đây là giáo hạt tòng nhân thứ 3 được Tòa Thánh thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo, sau giáo hạt tại Anh quốc và Hoa Kỳ, chiếu theo Tông Hiến Anglicanorum Coetibus, Các Nhóm Anh Giáo, do ĐTC Biển Đức 16 ban hành, để đón nhận các tín hữu cựu Anh giáo, đồng thời cho phép họ được giữ gia sản linh đạo và phụng vụ của Anh giáo.

Vị Bản quyền đầu tiên của giáo hạt tại Australia, Cha Harry Entwistle năm nay 72 tuổi (31-5-1940), gốc Anh, thụ phong Mục Sư anh giáo hồi năm 1964 và từng làm tuyên úy các nhà tù. Năm 1988, cha di cư sang Australia, phục vụ tại giáo phận Perth. Năm 2006 cha gia nhập Cộng đoàn Anh giáo truyền thống và được bổ nhiệm làm GM đặc trách vùng Tây Australia đồng thời làm cha sở giáo xứ Marylands ở thành phố Perth. Sau khi gia nhập Công Giáo, thụ phong phó tế và ngài được thụ phong linh mục ngày 15-6-2012 tại Nhà thờ chính tòa giáo phận Perth. (SD 15-6-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Chuỗi Mân Côi toàn cầu, cầu nguyện cho hàng linh mục trên toàn thế giới

Chuỗi Mân Côi toàn cầu, cầu nguyện

cho hàng linh mục trên toàn thế giới

 

http://www.ubgmgiadinh.org/uploads/pictures/News/lanhatmancoi2.jpg
 
Năm 2002, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố “Ngày cầu nguyện xin ơn thánh hóa các linh mục” sẽ được cử hành hằng năm vào lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trước đó, vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh mỗi năm ngài đều gửi Thư cho các linh mục. Đến Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, ngài đã cho cử hành một Năm Linh mục từ lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2009 đến lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2010, để giúp các linh mục canh tân chiều sâu nội tâm, trở nên chứng nhân mạnh mẽ và sắc bén hơn cho Tin Mừng trong lòng thế giới hôm nay.
Năm nay lễ Thánh Tâm là ngày 15 tháng Sáu. Vào ngày này, mọi tín hữu đều được mời gọi cầu nguyện cho các linh mục. Trong các phương pháp cầu nguyện, chuỗi Mân Côi là phương pháp đơn giản, phổ biến và rất hữu hiệu.
 
Ông Thomas Mc Kenna, giám đốc điều hành Hội Ái hữu Linh mục Công giáo (Hoa Kỳ), đã chỉ rõ mối liên hệ “không thể thiếu được” giữa chuỗi Mân Côi và hàng linh mục công giáo. Ông khuyến khích tất cả mọi người công giáo nên cầu xin Đức Trinh nữ Maria cho hàng linh mục. Ông cũng ghi nhận: “Từ thánh Đa Minh đến các Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI, Giáo hội có truyền thống luôn xin các tín hữu cầu nguyện với Đức Mẹ cho hàng linh mục”.
Từ năm 2010, một chuỗi Mân Côi toàn cầu đã được phát động vào ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu để cầu nguyện cho hàng linh mục trên toàn thế giới. Năm nay, chuỗi Mân Côi toàn cầu lần thứ ba – do tổ chức World Priest (Linh mục Thế giới) bảo trợ – cũng sẽ bao trùm thế giới trong bầu khí cầu nguyện với kinh Mân Côi suốt 24 giờ.
 
Bắt đầu từ Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ vào lúc 0g (giờ GMT) ngày 15 tháng Sáu với năm mầu nhiệm Vui, chuỗi lần hạt Mân Côi sẽ đi vòng quanh trái đất, sau mỗi nửa giờ lại đến một địa điểm khác, lần lượt suy niệm các mầu nhiệm Vui–Thương–Mừng–Sáng. Cuối cùng sẽ kết thúc tại Wisconsin, Hoa Kỳ vào lúc 24g (giờ GMT) bằng năm mầu nhiệm Vui.
 
Trong số các địa điểm tham gia chuỗi Mân Côi này, có: Vatican, Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Ukraina… Nazareth, Trung Quốc, Philippines, Sri Lanka, Ấn Độ, Brunei… Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Brazil, Argentina… Australia, New Zealand v.v… Mọi người có thể hợp ý lần chuỗi với những người trực tiếp lần chuỗi tại 60 đền thờ tham gia chương trình này trên khắp thế giới, cứ mỗi nửa giờ.
 
Ngoài ý cầu nguyện chung cho các giám mục, linh mục và phó tế trong giáo phận, còn có rất nhiều ý nguyện được đề nghị trong chuỗi Mân Côi toàn cầu này, chẳng hạn xin cho các linh mục biết:
 
– lắng nghe và sống lời Chúa;
– đem Chúa Giêsu đến cho người khác;
– loan báo Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu độ;
– có lòng tin sâu xa vào các bí tích;
– chuyên cần cầu nguyện;
– kiên trì chịu đau khổ vì Chúa Kitô;
– trung tín với lời hứa linh mục;
– cảm nghiệm sức mạnh của thập giá;
– yêu mến Đức Mẹ;
– trở thành người đem lại bình an và hòa giải,
– chứng nhân của hy vọng …
 
Tại Vatican, Đức hồng y Raymond L. Burke – Chủ tịch Tối cao Pháp viện Tòa Thánh – người sẽ hướng dẫn lần chuỗi năm sự Thương, nói: “Chắc chắn vào ngày 15 tháng Sáu sắp tới tôi sẽ lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện xin ơn thánh hóa các linh mục. Thánh hóa các linh mục là ý cầu nguyện hằng ngày của tôi và vì thế tôi rất vui mừng tham gia chương trình cầu nguyện toàn cầu này”.
 
Hoàng Anh – WHĐ

Những Giọt Mực – Lê Tất Điều

Đêm thật khuya, buổi sinh hoạt của đồ vật trong phòng bắt đầu như thường lệ. Bao giờ họ cũng tán gẫu với nhau về chuyện xảy ra ban ngày, hoặc về chú bé chủ nhân của một vài vật. Chị Tranh trên tường hồi này ít nói. Trước kia chẳng ngày nào chị ta quên khoe sắc đẹp của mình và nhắc đến những đôi mắt đã chiêm ngưỡng chị…

Xem tiếp Những Giọt Mực của LÊ TẤT ĐIỀU

Lời cầu nguyện là hơi thở của linh hồn và ốc đảo hòa bình

Lời cầu nguyện là hơi thở của linh hồn và ốc đảo hòa bình

Lời cầu nguyện không chỉ là hơi thở của linh hồn, nhưng cũng còn là ốc đảo hòa bình, nơi chúng ta có th kín múc nưc dưỡng nuôi cuộc sống thiêng liêng và biến đổi sự hiện hữu của chúng ta. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hơn 8.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 13-6-2012 trong đại thính đường Phaolo VI.

Mở đầu bài huấn dụ về đề tài lời cầu nguyện trong các thư của thánh Phaolô, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, cuộc gặp gỡ hàng ngày với Chúa và việc lãnh các Bí Tích cho phép rộng mở tâm trí chúng ta cho sự hiện diện, các lời nói và hành động của Chúa. Lời cầu nguyện không chỉ là hơi thở của linh hồn, nhưng để dùng một hình ảnh, nó cũng còn là ốc đảo hòa bình, nơi chúng ta có thể kín múc nước dưỡng nuôi cuộc sống thiêng liêng và biến đổi sự hiện hữu của chúng ta. Và Thiên Chúa lôi kéo chúng ta tới với Người và làm cho chúng ta leo lên núi của sự thánh thiện, để cho chúng ta luôn luôn gần gũi Người hơn, bằng cách cống hiến cho chúng ta các ánh sáng và ủi an trên đường đời. Đây đã là kinh nghiệm sống mà thánh Phaolô kể lại trong chương 12 thư thứ II gửi tín hữu Côrintô. Trước những người phản đối sự hợp pháp trong công tác tông đồ của người thánh nhân không kể tên các cộng đoàn người đã thành lập, hay các cây số người đã rong ruổi, cũng không hạn hẹp trong viêc nhắc lại các khó khăn và các chống đối người đã phải đương đầu để loan báo Tin Mừng, nhưng chỉ cho thấy tương quan của Người với Chúa, một tương quan mạnh mẽ đến mang cả đặc thái của những lúc xuất thần, chiêm ngưỡng sâu xa nữa (x. 2 Cr 12,1). Như thế thánh Phaolô không khoe khoang những điều người đã làm, sức mạnh, các hoạt động và thành công của mình, mà khoe khoang hành động, mà Thiên Chúa đã làm nơi thánh nhân và qua thánh nhân.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: thật vậy, với sự e thẹn lớn thánh Phaolô kể lại kinh nghiệm mà loài người không thể kể lại được: đó là lúc người được sống kinh nghiệm xuất thần, được đưa lên tầng trời thứ ba, bị bắt cóc vào ”vườn” của Thiên Chúa trên thiên đàng. Thánh nhân không nhớ các nội dung của sự mạc khải, nhưng nhớ ngày tháng và các khung cảnh trong đó Chúa đã nắm bắt lấy thánh nhân một cách hoàn toàn, kéo thánh nhân đến với Chúa như đã làm trên đường đến thành Damasco, khi thánh nhân được ơn hoán cải (x. Pl 3,12).

Thánh Phaolô cho biết để không kiêu ngạo về sự cao cả của các mạc khải nhận lãnh, người mang trong mình ”một cái gai” (2 Cr 12,7), một nỗi khổ đau và người khẩn nài Chúa Phục Sinh giải thoát người khỏi cái gai đau đớn trong xác thịt, khỏi tên được Kẻ Dữ sai đến ấy. Ba lần thánh nhân đã xin Chúa cho thử thách đó xa mình, nhưng chính trong tình trạng này, khi chiêm ngưỡng sâu xa Thiên Chúa, trong đó thánh nhân nghe được ”những lời không thể nói được và không được phép nói” (c. 4), thì người nhận được câu trả lời rõ ràng của Chúa Phục Sinh: ”Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ tràn đầy trong sự yếu đuối” (c. 9).

Thánh Phaolô đã hiểu là tông đồ của Tin Mừng có nghĩa là gì, vì thế người mới kêu lên: ”Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (9b-10). Nghĩa là thánh nhân không khoe khoang các hành động của mình, mà khoe khoang sinh hoạt của Chúa Kitô hành động trong sự yếu đuối của thánh nhân… Thái độ khiêm tốn và tin tưởng sâu xa ấy trước sự biểu lộ của Thiên Chúa cũng là nền tảng đối với lời cầu nguyện và cuộc sống của chúng ta, đối với tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với các yếu đuối của chúng ta.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta không biết ”cái gai” mà thánh Phaolô nói đến là gì, nhưng thái độ của thánh nhân làm cho chúng ta hiểu rằng mọi khó khăn trong việc theo Chúa Kitô và làm chứng cho Tin Mừng có thể được thắng vượt, khi tin tưởng rộng mở cho hoạt động của Chúa. Thánh Phaolô ý thức được người là một ”đầy tớ vô dụng” (Lc 17,10). – không phải người đã làm các điều trọng đại mà là Chúa – một ”chiếc bình bằng đất” (2 Cr 4,7), mà Chúa đặt để trong đó sự phong phú và quyền năng Thánh Sủng của Ngài. Đề cập tới thái độ của thánh nhân biết sống mọi biến cố, nhất là sự khổ đau, khó khăn và bách hại như thế nào, Đức Thánh Cha nói:

Trong lúc sống kinh nghiệm sự yếu đuối của mình, thì quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ. Thiên Chúa không bỏ rơi, không để một mình, nhưng trở thành sự đỡ nâng và sức mạnh… Điều này cũng đúng đối với chúng ta. Chúa không giải thoát chúng ta khỏi các sự dữ, nhưng trợ giúp chúng ta trưởng thành trong các khổ đau, trong các khốn khó, trong các bách hại. Như thế đức tin nói với chúng ta rằng, nếu chúng ta ở trong Thiên Chúa, ”cả khi con người bên ngoài của chúng ta có suy sụp, vì có biết bao nhiêu khó khăn, nhưng con người bên trong, trái lại, được canh tân, trưởng thành từng ngày chính trong thử thách” (c.16). Thánh tông đồ thông báo cho tín hữu Côrintô và chúng ta rằng ”gánh nặng mau qua nhẹ nhàng của khốn khó đem lại cho chúng ta biết bao nhiêu vinh quang. Thật thế, một cách nhân loại mà nói gánh nặng của các khó khăn không nhẹ nhưng vô cùng nặng nề; nhưng đối với tình yêu của Thiên Chúa, đối với sự cao cả được Chúa yêu, thì nó nhẹ nhàng, vì biết bao vinh quang được hưởng. Như thế, trong mức độ sự kết hiệp của chúng ta với Chúa gia tăng và lời cầu mạnh mẽ của chúng ta cũng đi vào điều nòng cốt và hiểu rằng không phải sức mạnh của các phương tiện, các nhân đức, các khả năng của chúng ta thực hiện Nước Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa làm những điều kỳ diệu qua sự yếu đuối, qua sự không thích hợp với nhiệm vụ của chúng ta…

Chỉ đức tin, việc tín thác nơi hành động của Thiên Chúa, nơi lòng lành của Thiên Chúa là Đấng không bỏ rơi chúng ta, là bảo đảm để chúng ta không làm việc uổng công. Như thế, Thánh Sủng của Chúa đã là sức mạnh đồng hành với thánh Phaolô trong các mệt nhọc lớn lao của việc loan báo Tin Mừng, và con tim của thánh nhân đã đi vào con tim của Chúa Kitô, và có khả năng dẫn người khác đến với Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta.

Như vậy, trong lời cầu nguyện chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa để Người đến ở trong sự yếu đuối của chúng ta và biến đổi nó thành sức mạnh cho Tin Mừng. Động từ hy lạp ”episkenoo” cắm lều, mà thánh Phaolô dùng để miêu tả việc Chúa ở trong sự yếu đuối của chúng ta, có ý nghĩa rất mạnh mẽ. Chúa tiếp tục cắm lều ở trong chúng ta, ở giữa chúng ta: đó là Mầu nhiệm của sự Nhập Thể.

Đề cập tới kinh nghiệm chiêm ngưỡng Thiên Chúa của thánh Phaolô cũng như của ba môn đệ trên núi Tabor Đức Thánh Cha nói:

Chiêm ngưỡng Chúa vừa hấp dẫn vừa kinh khủng: hấp dẫn bởi vì Chúa lôi kéo chúng ta đến với Ngài, và bắt cóc con tim của chúng ta lên cao, đem nó tới nơi cao, nơi chúng ta kinh nghiệm sự bình an và vẻ đẹp của tình yêu; nhưng kinh khủng vì nó phơi trần sự yếu đuối nhân loại và sự không thích hợp của chúng ta, cái khó khăn chiến thắng Kẻ Dữ quấy phá cuộc sống chúng ta, cái gai cắm vào thịt xác chúng ta. Nhưng trong việc chiêm ngưỡng Chúa hằng ngày chúng ta nhận đựơc sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa và cảm nghiệm được lời thánh Phaolô nói với tín hữu giáo đoàn Roma: ”Tôi tin chắc rằng cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương qủy lực, hiện tại hay tương lái, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).

Trong một thế giới trong đó chúng ta có nguy cơ chỉ tin tưởng nơi sự hữu hiệu và sức mạnh của các phương thế nhân loại, trong thế giới này chúng ta được mời gọi tái khám phá ra và làm chứng cho quyền năng của Thiên Chúa được thông chuyền qua lời cầu nguyện; với nó chúng ta lớn lên mỗi ngày trong việc biến cuộc sống chúng ta đồng hình dạng với cuộc sống của Chúa Kitô…

Trong thế kỷ trước ông Albert Schweitzer, giải Nobel Hòa Bình, đã khẳng định rằng: ”Thánh Phaolô là một nhà thần bí và không gì khác hơn là một nhà thần bí”, nghĩa là một người si mê Chúa Kitô và kết hiệp với Chúa đến độ có thể nói rằng ”Chúa Kitô sống trong tôi”. Nhưng thánh Phaolô cũng là con người sống cuộc sống cụ thể mỗi ngày. Thần bí không làm cho thánh nhân xa rời thực tại, trái lại đã cho thánh nhân sức mạnh sống mỗi ngày cho Chúa Kitô và xây dựng Giáo Hội cho tới tận cùng của thế giới thời gian. Sự kết hiệp với Thiên Chúa không làm cho xa thế giới, nhưng trao ban cho chúng ta sức mạnh thực sự ở trong thế giới, và làm tất cả những gì phải làm cho thế giới.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Tiệp Khắc, Slovac và Ý. Đức Thánh Cha đặc biệt chào một nhóm linh mục Slovac mừng Ngân Khánh chịu chức. Ngài cũng chào một nhóm Linh Mục thuộc giáo phận Treviso và Tortona mừng 40 năm chịu chức. Đức Thánh Cha cầu chúc các vị được nhiều ơn thánh Chúa để trung thành với những cam kết ngày thụ phong.

Chào các bạn trẻ Đức Thánh Cha nói nhiều bạn trẻ đã bắt đầu nghỉ hè, các người khác còn đang phải thi cử. Ngài xin Chúa giúp họ sống thời gian này trong sự thanh thản và được Chúa chở che. Đức Thánh Cha khích lệ các anh chị em đau yếu tin tưởng vì Thiên Chúa tiếp tục công trình cứu độ của Người nhờ các khổ đau của họ. Ngài cầu chúc các cặp vợ chồng mới cưới khám phá ra mầu nhiệm của Thiên Chúa Đấng ban ơn cứu rỗi cho mọi người, để tình yêu của họ luôn ngày càng đích thực, lâu bền và tiếp đón rộng mở hơn.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải