Bí thư riêng của Đức Thánh Cha trở thành Tổng Giám Mục

Bí thư riêng của Đức Thánh Cha trở thành Tổng Giám Mục



VATICAN. ĐTC đã bổ nhiệm vị bí thư riêng của ngài, Đức Ông Georg Gaenswein, làm Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, đồng thời thăng làm TGM hiệu tòa Urbisaglia.

Đức Ông Gaenswein người Đức, kế nhiệm Đức TGM James Harvey, người Mỹ, mới được thăng Hồng Y và làm Giám quản Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành.

Đức tân TGM Gaenswein năm nay 56 tuổi, thuộc Tổng giáo phận Freiburg, thụ phong linh mục năm 1984, và đậu tiến sĩ giáo luật năm 1993 tại Đại Học Ludwig Maximilians ở Munich.

Sau 2 năm làm thẩm phán tại tòa án giáo phận Freiburg, năm 1995, ngài bắt đầu phục vụ tại Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích, và năm sau (1996) chuyển sang Bộ giáo lý Đức tin, sau đó làm bí thư riêng của ĐHY Tổng trưởng Joseph Ratzinger.

Sau khi ĐHY trở thành Giáo hoàng, Đức Ông Gaenswein cũng trở thành bí thư riêng của ngài.
Đức TGM Gaenswein biết 5 sinh ngữ: Đức, Ý, latinh, Pháp, Anh và Tây Ban Nha. Có thể ngài sẽ được ĐTC truyền chức GM vào ngày lễ Chúa Hiển Linh, 6-1 tới đây.

Trong nhiệm vụ Chủ tịch Phủ Giáo Hoàng, Đức TGM Georg Gaenswein sẽ sắp xếp các buổi tiếp kiến của ĐTC.
Giới báo chí nhận xét rằng Tòa Thánh không thông báo ai sẽ là bí thư riêng của ĐTC thay Đức TGM Gaenswein, nên Đức TGM sẽ tiếp tục giúp ngài cùng với Đức Ông Alfred Xuereb người Malta. (SD 7-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

 

Thiên Chúa mời gọi chúng ta đem chương trình tình yêu cứu độ của Người vào lòng thế giới

Thiên Chúa mời gọi chúng ta đem chương trình tình yêu cứu độ của Người vào lòng thế giới



Thiên Chúa mời gọi chúng ta đem chương trình tình yêu cứu độ của Người vào lòng thế giới. Mùa vọng đặt để chúng ta trước mầu nhiệm sáng láng biến cố Con Thiên Chúa đến, trước dự định tốt lành, thương xót và tình yêu, qua đó Người muốn lôi kéo chúng ta đến với Người để sống trong sự hiệp thông trọn vẹn của niềm vui và sự an bình với Người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với gần 7.000 ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại đại thính đường Phaolô VI sáng thứ tư 5 tháng 12-2012.

Trong bài huấn dụ ngài đã giải thích ý nghĩa bài thánh ca mở đầu thư thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêxô, chúc tụng chương trình tình yêu xót thương của Thiên Chúa đối với con người. Thánh Phaolô dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng này từ tận đáy con tim, bởi vì thánh nhân nhìn vào hành động của Thiên Chúa trong lịch sử đạt tột đỉnh với sự nhập thể, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu; và thánh nhân chiêm ngưỡng việc Thiên Chúa Cha đã chọn lựa chúng ta từ thuở tạo dựng thế giới, cho chúng ta trở thành nghĩa tử của Người, trong Người Con duy nhất của Người là Đức Giêsu Kitô (x. Rm 8,14 tt; Gl 4,4 tt.) Ngay từ đời đời chúng ta đã hiện hữu trong trí của Thiên Chúa, trong một chương trình, mà Thiên Chúa Cha đã giữ gìn trong chính Người và đã quyết định thực hiện và mạc khải khi đến thời viên mãn (x. Ep 1,10). Như thế thánh Phaolô làm cho chúng ta hiểu rằng toàn thụ tạo, và đặc biệt người nam và người nữ, không phải là hoa trái ngẫu nhiên, nhưng trả lời cho một dự án tốt lành trong lý lẽ vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng tạo thành thế giới với quyến năng tạo dựng và cứu độ của Lời Người. Đức Thánh Cha giải thích thêm điểm này như sau:

Khẳng định đầu tiên này nhắc cho chúng ta biết rằng ơn gọi của chúng ta không chỉ đơn thuần là sống trong thế giới, được tháp nhập vào một lịch sử, cũng không phải chỉ là các thụ tạo của Thiên Chúa; nó là cái gì cao cả hơn: đó là được Thiên Chúa tuyển chọn, trước cả khi tạo thành vũ trụ, trong Đức Giêsu Kitô Con của Người. Trong Người chúng ta hiện hữu từ luôn mãi. Thiên Chúa chiêm ngưỡng chúng ta trong Đức Kitô, như nghĩa tử. Chương trình tốt lành của Thiên Chúa, mà thánh Tông Đồ cũng định tính như là ”chương trình tình yêu” (Ep 1,5), được định nghĩa là ”mầu nhiệm” ý muốn cửa Thiên Chúa (c. 9), đã bị dấu ẩn, nhưng giờ đây được biểu lộ nơi Con Người và công trính của Đức Kitô. Sáng kiến của Thiên Chúa đi trước mọi đáp trả của con người: đó là một ơn nhưng không của tình yêu của Thiên Chúa bao bọc và biến đổi chúng ta.

Mục đích cuối cùng, trọng tâm của chương trình mầu nhiệm này là ”dẫn đưa mọi sự tới với Đức Kitô là thủ lãnh duy nhất” (c. 10). Trong các kiểu nói này chúng ta tìm thấy một trong các công thức chính yếu của Tân Ước, giúp hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa, giúp hiểu dự án tình yêu của Người đối với nhân loại, một công thức mà thánh Ireneo thành Lyon chọn như trung tâm nền Kitô học của người: “thâu tóm” toàn thực tại trong Đức Kitô. Đây là công thức Đức Giáo Hoàng Pio X đã dùng để thánh hiến thế giới cho Thánh Tâm Chúa Giêsu: ”tái lập mọi sự trong Chúa Kitô”, là kiểu nói của thánh Phaolô và cũng là khẩu hiệu của Đức Pio X. Nhưng Đức Thánh Cha minh xác thêm như sau:

Tuy nhiên, một cách chính xác hơn, thánh Tông Đồ nói tới việc thâu tóm vũ trụ nơi Đức Kitô, và điều này có nghĩa là trong chương trình của việc tạo dựng cao cả và của lịch sử, Chúa Kitô đứng lên như trung tâm toàn lộ trình của thế giới, như trục đỡ nâng tất cả, lôi kéo toàn thực tại tới với Người, để thắng vượt sự phân tán và hạn chế và dẫn đưa tất cả tới sự viên mãn như Thiên Chúa đã muốn (x. Ep 1,33).

Chương trình tốt lành này đã không ở trong sự thinh lặng của Thiên Chúa, ở trên trời cao, mà Người đã làm cho nó được biết tới, khi bước vào trong tương quan với con người, mà Thiên Chúa tự mạc khải cho. Người đã không chỉ thông truyền đơn thuần một mớ sự thật, mà tự thông truyền chính Người cho chúng ta, cho tới chỗ nhập thể làm người. Công Đồng Chung Vaticăng II đã khẳng định trong Hiến chế về Mạc Khải như sau: ”Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết bí tích Thánh Ý Ngài. Nhờ đó loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa” (s.2). Thiên Chúa vém mở chương trình tình yêu cao cả của Người bằng cách bước vào trong tương quan với con người, tới gần nó cho tới chỗ trở thành một người.

”Thiên Chúa vô hình trong chương trình tình yêu cao cả của Người nói với con người như bạn hữu (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15) và sống giữa họ (x. Br 3,38), để mời goi họ và chấp nhận họ vào sự hiệp thông với Người” (ibidem). Chỉ với trí thông minh và các khả năng của mình con người đã không thể đạt sự mạc khải sáng láng như vậy của tình yêu Thiên Chúa; chính Thiên Chúa đã mở cửa Trời và cúi xuống hướng dẫn con người trong vực thẳm tình yêu của Người.

Thánh Phaolô còn viết cho tín hữu giáo đoàn Côrintô như sau: ”Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho cho những ai mến yêu Người” (1 Cr 2,9-10). Và trong một trang chú giải nối tiếng đầu thư gửi tín hữu Êphêxô thánh Gioan Kim Khẩu mời gọi nếm hưởng vẻ đẹp của ”chương trình lòng lành” ấy của Thiên Chúa đã được mạc khải nơi Chúa Kitô, với các lời sau đây: ”Bạn thiếu cái gì? Bạn đã trở thành bất tử, bạn đã trở thành tự do, bạn đã trở thành con, bạn đã trở thành công chính, bạn đã trở thành em, bạn đã trở thành người đồng thừa tự, với Chúa Kitô bạn cai trị, với Chúa Kitô bạn được vinh hiển. Mọi sự đã được ban cho chúng ta, và như đã viết, làm sao Thiên Chúa lại sẽ không ban mọi sự cho chúng ta với Người?” (Rm 8,32. Của lễ đầu mùa của bạn (x. 1 Cr 15,20.23) được các thiên thần trang điểm… vậy bạn thiếu cái gì?” (PG 62,11).

Sự hiệp thông trong Chúa Kitô bởi Chúa Thánh Thần, được Thiên Chúa cống hiến cho tất cả mọi người với ánh sáng của sự Mạc Khải, không phải là cái gì được chồng lên trên nhân tính của chúng ta, mà là sự thành toàn các khát vọng sâu thẳm nhất, ước muốn vô tận và tràn đầy nằm sâu trong con người, và mở nó ra cho một niềm hạnh phúc không phải tạm thời và có giới hạn, nhưng vĩnh cửu. Nói về việc Thiên Chúa tự mạc khải và nói với chúng ta qua Thánh Kinh để dẫn chúng ta tới với Người thánh Bonaventura thành Bagnoregio khẳng định: ”Thánh Kinh là… cuốn sách trong đó chúng ta sẽ thấy, sẽ yêu và tất cả các ước muốn của chúng ta sẽ được thực hiện” (Breviloquium, Prol.; Opera Omnia V,201 s.). Ngoài ra, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II còn nhắc nhở rằng: ”sự Mạc Khải đặt để vào trong lịch sử một điểm tham chiếu mà con người không thể tách rời được, nếu muốn đi tới chỗ chiêm ngưỡng mầu nhiệm cuộc sống của mình; nhưng đàng khác sự hiểu biết này lại liên tục quy chiếu về mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà trí tuệ không thể làm cạn kiệt, mà chỉ có thể tiếp nhận trong đức tin” (Enc. Fides et ratio, 14).

Trong viễn tượng đó Đức Thánh Cha định nghĩa đức tin như sau:

Nó là câu trả lời của con người cho sự Mạc Khải của Thiên Chúa, là Đấng tự làm cho mình được hiểu biết, là Đấng biểu lộ chương trình lòng lành của Người đối với nhân loại. Để dùng một kiểu nói của thánh Agostino, tin là để cho mình bị nắm bắt bởi Chân Lý là Thiên Chúa, một Chân Lý là Tình Yêu. Vì thế thánh Phaolô nhấn mạnh sự vâng lời của đức tin đối với Thiên Chúa, là Đấng đã vén mở mầu nhiệm của Người (Rm 16,26; x. 1,5; 2 Cr 10,5-6). Sự vâng lời của đức tin, như Công Đồng Chung Vaticăng II nói, là thái độ qua đó con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa bằng cách tự do dâng lên Thiên Chúa mặc khải sự quy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí” (Dei Verbum, 5).

Tất cả những điều này đưa tới một sự thay đổi nền tảng và toàn diện kiểu tương quan với toàn thực tại; đây là một sự ”hoán cải” đích thực, một sự ”thay đổi tâm thức”, bởi vì Thiên Chúa, Đấng đã tự mặc khải nơi Đức Kitô và đã cho chúng ta biết chương trình tình yêu cứu độ của Người, nắm bắt chúng ta, lôi kéo chúng ta tới với Người, trở thành ý nghĩa nâng đỡ cuộc sống, đá tảng trên đó nó có thể tìm thấy sự ổn định. Trong Thánh Kinh Cựu Ước chúng ta tìm thấy một kiểu nói súc tích về đức tin, mà Thiên Chúa đã tín thác cho ngôn sứ Isaia để ông thông truyền cho Achaz, vua Giuđa. Thiên Chúa khẳng định rằng: ”Nếu các ngươi không tin, nghĩa là nếu các ngươi không trung thành với Thiên Chúa, các ngươi sẽ không đứng vững” (Is 7,9b).

Như thế có một mối dây giữa ”ở” và ”hiểu” diễn tả đúng đức tin là một tiếp nhận trong cuộc sống quan điểm của Thiên Chúa về thực tại, để cho Thiên Chúa hướng dẫn với Lời Người và các Bí Tích trong việc hiểu điều gì chúng ta phải làm, con đường nào chúng ta phải đi. Nhưng đồng thời chính là hiểu theo Thiên Chúa, theo ý muốn của Người, nhìn với đôi mắt của Người, là Đấng khiến cho cuộc sống được vững vàng, là Đấng cho phép chúng ta ”đứng vững”, không ngã.

Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Chào giới trẻ, các anh chị em đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, Đức Thánh Cha nói Mùa Vọng mới bắt đầu trong các ngày này nhận được ánh sáng từ gương sống rạng ngời của Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm. Xin Mẹ thúc đẩy các bạn trẻ trên con đường tin nơi Chúa Kitô. Xin Mẹ nâng đỡ các anh chị em đau yếu canh tân niềm hy vọng. Và xin Mẹ hướng dẫn các đôi tân hôn trong việc xây dựng gia đình.

Sau cùng ngài cất kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Linh Tiến Khải – Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7 ngàn nghệ sĩ các gánh xiệc

Đức Thánh Cha tiếp kiến 7 ngàn nghệ sĩ các gánh xiệc

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 khuyến khích các nghệ sĩ trong các gánh xiệc làm chứng về những giá trị và đức tính của nghề nghiệp, và nhất là đào sâu quan hệ với Chúa Kitô và trao tặng tha nhân tình bạn với Chúa.

Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 1 tháng 12-2012, dành cho 7 ngàn nghệ sĩ thuộc nhiều gánh xiệc tại 13 nước Âu Châu và cả Hoa Kỳ, tham dự cuộc hành hương Roma do Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và lưu động tổ chức nhân dịp Năm Đức Tin.

90 phút trước khi ĐTC đến Đại thính đường Phaolô 6, các nghệ sĩ đã có mặt và trình diễn nhiều màn nghệ thuật. Và khi ngài đến đây, ĐHY Vegliò, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ di dân và người lưu động đã đại diện mọi người chào mừng cũng như trình bày với ĐTC hoàn cảnh sống của các nghệ sĩ gánh xiệc. 3 đại diện của họ cũng trình bày chứng từ.

Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC ca ngợi hoạt động của dân xiệc, qua ngôn ngữ nghệ thuật đặc biệt, sự giải trí vui tươi và qua âm nhạc, họ khơi dậy những tâm tình thanh thản, vui tươi và hòa hợp cho tha nhân. ĐTC nói: ”Đi từ các đặc tính ấy và lối sống của mình, anh chị em được mời gọi làm chứng về những giá trị vốn thuộc về truyền thống của anh chị em, đó là lòng yêu mến gia đình, sự quan tâm ân cần đối với những người nhỏ bé, chú ý tới những người tật quyền, săn sóc bệnh nhân, đề cao giá trị của ngưới gia và gia sản kinh nghiệm của họ”.

ĐTC cũng nhắc đến ”những hy sinh, từ bỏ, kiên nhẫn, tinh thần trách nhiệm, lòng can đảm và quảng đại của những người làm nghề xiệc, những đức tính này xã hội ngày nay nhiều khi không biết quí chuộng, nhưng chúng đã góp phần hình thành bao nhiêu thế hệ trong đại gia đình của anh chị em.”

ĐTC đề cập đến những khó khăn của các tín hữu làm nghề xiệc trong việc sống đạo vì không ở một nơi nhất định, không thuộc về một cộng đồng giáo xứ một cách bền vững, cũng như không dễ dàng tham gia việc học giáo lý và phụng vụ. Ngài nói:

”Tôi cầu mong anh chị em có thể tìm thấy nơi những cộng đoàn giáo xứ nơi anh chị em dừng lại những người sẵn sàng gặp gỡ, đón tiếp và giúp đỡ anh chị em về những nhu cầu thiêng liêng. Anh chị em cũng đừng quên rằng gia đình là con đường đầu tiên để thông truyền đức tin, là Giáo Hội tại gia, được mời gọi làm cho tha nhân biết Chúa Giêsu và Tin Mừng của Chúa, cũng như giáo dục theo luật của Chúa.

ĐTC nhắc lại cho các nghệ sĩ các gánh xiệc điều ngài đã nói vào đầu triều đại giáo hoàng hồi năm 2005: ”Không có gì đẹp hơn là được Tin Mừng, được Chúa Kitô gặp gỡ và thu hút. Không có gì đẹp hơn là được biết Chúa và thông truyền cho tha nhân tình bạn với Chúa.. Chỉ trong tình bạn ấy mới thực sự nảy nở những tiềm năng lớn lao của thân phận con người. Chỉ trong tình bạn ấy chúng ta mới cảm nghiệm điều đẹp đẽ và điều giải thoát” (SD 1-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP
 

Công bố thư bổ nhiệm ĐHY đặc sứ của Đức Giáo Hoàng tại Đại hội FABC tại Xuân Lộc, Việt Nam

Công bố thư bổ nhiệm ĐHY đặc sứ của Đức Giáo Hoàng tại Đại hội FABC tại Xuân Lộc, Việt Nam

VATICAN. Hôm 1 tháng 12-2012, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố thành phần Phái đoàn Tòa Thánh tham dự Đại Hội kỳ 10 của Liên HĐGM Á châu sẽ tiến hành từ ngày 11 đến 16-12 tới đây tại Xuân Lộc, Việt Nam, và thư bổ nhiệm ĐHY Đặc Sứ.

Phái đoàn Tòa Thánh do ĐHY Đặc Sứ Gaudencio Rosales, nguyên TGM giáo phận Manila, thủ đô Philippines, hướng dẫn và có 2 vị tháp tùng là Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài, Phụ trách Đài Chân Lý Á châu với trụ sở tại Quezon City, Philippines, và LM Antonio Maralit, cha sở giáo xứ thánh Phanxicô đệ Salê, thuộc Tổng giáo phận Lipa, cũng tại Philippines.

Ngoài ra, thư ĐTC bổ nhiệm ĐHY Rosales làm đặc sứ của ngài cũng được công bố với nội dung như sau:

Mến gửi Hiền Đệ Đáng Kính Hồng Y Rosales Gaudencio,

nguyên TGM chính tòa Manila

Đề tài tái truyền giảng Tin Mừng mà Chúng Tôi muốn đề nghị với mọi tín hữu Kitô là điểm rất đặc thù trong triều đại Giáo Hoàng của Chúng Tôi và mang lại cơ hội đặc biệt cho toàn thể Giáo Hội để cứu xét cách thức chu toàn sứ mạng của mình một cách tốt đẹp hơn. Và Chúng Tôi nhận thấy các Giám Mục trên toàn thế giới đã bắt đầu làm mọi sự để kiện toàn việc loan truyền Tin Mừng và Chúng Tôi tháp tùng các hoạt động ấy bằng lời cầu nguyện.

Vì thế, với tâm tình hân hoan và biết ơn, Chúng Tôi được biết trong tháng 11 tới đây tại Việt Nam có đại hội kỳ 10 của Liên Hội Đồng Giám Mục Á châu, một tổ chức được thành lập cách đây 40 năm, trong Đại Hội đó các vị Chủ Chăn sẽ bàn về ”việc rao giảng Tin Mừng, hội nhập văn hóa, đối thoại tại Á châu”, cứu xét hành trình thiêng liêng của các dân tộc thuộc đại lục này đưới các khía cạnh khác nhau.

Vì đây là một biến cố rất quan trọng, nên các Hiền Đệ đáng kính của Chúng Tôi, Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, TGM giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh, và Hồng Y Osvald Gracias, TGM Bombay và cũng là Tổng thư ký Liên HĐGM Á châu, đã tha thiết thỉnh cầu Chúng Tôi bổ nhiệm một Hồng Y trổi vượt đến tham dự Đại Hội ấy và trình bày những huấn dụ thiêng liêng. Rất vui lòng chấp nhận những lời thỉnh cầu ấy, Chúng Tôi nghĩ đến Hiền Đệ là người con rất nổi bật của Philippines, vốn quan tâm theo dõi các vấn đề của Á châu. Và với thư này, Chúng Tôi bổ nhiệm Hiền Đệ làm Đặc Sứ của Chúng Tôi tại Đại hội kỳ 10 của Liên HĐGM Á châu, sẽ tiến hành từ ngày 11 đến 16 tháng 12 tới đây tại Trung Tâm Mục Vụ của Giáo phận Xuân Lộc và sẽ kết thúc trọng thể tại Nhà thờ chính tòa Tổng giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh.

Trong tư cách là đại diện của Chúng Tôi, Hiền Đệ hãy bày tỏ lòng thương mến của chúng tôi đối với các vị Chủ Chăn và các tín hữu quí mến của Á Châu, nhắn nhủ mọi người hãy chuyên cần hơn trong việc noi gương Chúa Kitô: bởi vì cần chứng tỏ bằng những năng lực và lòng hăng say mới mẻ lòng yêu mến đặc biệt đối với Chúa Kitô, Giáo Hội và Tin Mừng, và với đức tin nồng nhiệt, phổ biến nền văn hóa nhân bản và chuyên cần theo đuổi cuộc đối thoại giữa các dân tộc. Hiền Đệ Đáng Kính, Chúng Tôi sẽ tháp tùng Hiền Đệ bằng lời cầu nguyện trong khi Hiền Đệ thi hành sứ mạng. Sau cùng Chúng Tôi vui lòng ban Phép Lành Tòa Thánh cho Hiền Đệ như dấu chỉ lòng từ ái của Chúng Tôi đối với Hiền Đệ và bảo chứng các thiên ân, Phép Lành này Hiền Đệ chuyển lại cho mọi người tham dự Đại Hội.

Từ Điện Vatican ngày 24 tháng 10 năm 2012, Năm Thứ 8 triều đại Giáo Hoàng của Chúng Tôi.

ký tên: Biển Đức 16 Giáo Hoàng

G. Trần Đức Anh OP chuyển ý
 

Đức Thánh Cha phê bình những trào lưu làm biến thái các quyền con người

Đức Thánh Cha phê bình những trào lưu làm biến thái các quyền con người

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 phê bình những trào lưu hạ giá con người và làm biến thái các quyền con người.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong buổi tiếp kiến sáng hôm 3 tháng 12-2012, dành cho 40 tham dự viên khóa họp toàn thể của Hội đồng Tòa Thánh công lý và hòa bình đang tiến hành tại Roma từ ngày 3 đến 5-12-2012 này dưới quyền chủ tọa của ĐHY Chủ tịch Peter Turkson, người Ghana.

Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao giáo huấn xã hội của Hội Thánh như là một điều thuộc về sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội và vì thế cũng cần phải coi trọng đạo lý này đối với công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng. Ngài nói: ”Khi đón nhận Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người trong đời sống bản thân, và cả trong các quan hệ xã hội, chúng ta trở thành những người mang một nhân sinh quan cũng như quan niệm về phẩm giá, tự do, đặc tính liên chủ thể của con người, được ghi đậm với chiều kích siêu việt theo chiều ngang cũng như chiều dọc… Nền tảng và ý nghĩa của các quyền lợi của con người cũng tùy thuộc một nền nhân loại học toàn diện.”

ĐTC giải thích rằng, trong viễn tượng đó, ”các quyền lợi và nghĩa vụ của con người không phải chỉ có một nền tảng duy nhất là ý thức xã hội của các dân tộc, nhưng trước tiên chúng tùy thuộc luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm mỗi người, vì thế xét cho cùng, chúng tùy thuộc sự thật về con người và về xã hội”.

Trong bài huấn dụ, ĐTC cũng nhận xét rằng tuy việc bảo vệ các quyền con người đã đạt được những tiến bộ lớn trong thời đại ngày nay, nhưng nền văn hóa hiện thời, chịu ảnh hưởng của cá nhân chủ nghĩa duy lợi ích và một thứ chủ thuyết duy kinh tế do các chuyên gia điều khiển; chúng có xu hướng làm giảm giá trị con người. Con người được quan niệm như một hữu thể ”lỏng” (fluido), không có thực chất trường kỳ. Tuy con người chìm đắm trong một mạng vô biên các quan hệ và thông tin, nhưng điều nghịch lý là con người ngày nay là một hữu thể bị cô lập, lẻ loi, vì dửng dưng đối với quan hệ cấu thành hữu thể người, vốn là căn cội của mọi quan hệ khác, quan hệ cấu thành ấy là quan hệ với Thiên Chúa. Con người ngày nay chủ yếu chỉ được xét dưới khía cạnh sinh học hoặc như một ”tư bản nhân sự”, một ”nguồn lực” trong một hệ thống sản xuất và tài chánh đứng trên nó.”

Trong chiều hướng đó, ĐTC tố giác rằng ”Một đàng ngừơi ta tiếp tục tuyên xưng phẩm giá con người, nhưng đàng khác, các ý thức hệ mới – như ý thức hệ duy lạc thú và ích kỷ về các quyền tính dục và quyền sinh sản, hoặc ý thức hệ của một chủ thuyết duy tư bản tài chánh luật rừng, đè nặng trên chính trị và làm biến thái cơ cấu kinh tế thực sự. Chúng góp phần coi công nhân viên và lao công của họ như những thiện ích hạng nhỏ, và làm băng hoại những nền tảng tự nhiên của xã hội như gia đình”.

Sau cùng, ĐTC cổ võ lập trường đã được Đức chân phước Giáo Hoàng Gioan 23 đề ra, đề nghị thành lập một thẩm quyền quốc tế trong lãnh vực kinh tế, kiến tạo một cộng đồng thế giới, với một thẩm quyền tương ứng, được hướng dẫn nhờ tình thương yêu đối với công ích của gia đình nhân loại”.

Vấn đề này cũng là chủ đề khóa họp hiện nay của Hội Đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Trong số các tham dự viên có có 6 HY, 6 GM và 8 giáo dân thành viên của Hội đồng.

Trong ngày họp đầu tiên các tham dự viên đã nghe Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, tường trình về hoạt động của Hội đồng trong thời gian qua.

Trong những ngày kế tiếp, các tham dự viên đặc biệt bàn về đề tài quyền bính chính trị và quyền tài phán hoàn cầu trong viễn tượng kinh tế. Đây là điều các vị Giáo Hoàng gần đây vẫn cổ võ (SD 3-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

Sự Hiện Diện Của Đức Thánh Cha Trên Twitter

Sự Hiện Diện Của Đức Thánh Cha Trên Twitter

VATICAN. Vào sáng 3 tháng 12, tại Hội trường Gioan Phaolo II đã diễn ra một cuộc họp báo để minh hoạ cho sự hiện diện của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trên Twitter. Trong buổi họp báo này có sự hiện diện của Đức Giám Mục Claudio Maria Celli, Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã Hội, Đức Giám Mục Paul Tighe, thư ký của hội đồng này, Linh Mục Federico Lombardi, Dòng Tên, Giám Đốc Văn Phòng Truyền Thông Tòa Thánh, Radio Vatican và Trung Tâm Truyền Hình Vatican, và ông Gian Maria Vian, giám đốc Nhật Báo L’Osservatore Romano của Vatican.

Sự hiện diện của Đức Thánh Cha trên Twitter là một sự diễn tả cụ thể về sự xác tín của Giáo hội vào lĩnh vực kỹ thuật số. Điều này là dễ hiểu vì Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã nhiều lần phản tỉnh về tầm quan trọng của không gian văn hóa mới này. Trong sứ điệp nhân ngày Thế Giới Truyền Thông năm 2009, ĐTC đã nói về sự cần thiết của việc truyền giảng Tin Mừng trong thế giới kỹ thuật số đồng thời ngài mời gọi các bạn trẻ hãy giới thiệu vào môi trường văn hóa mới này, văn hóa truyền thông và kỹ thuật thông tin những giá trị mà chúng ta có thể xây dựng đời sống mình trên đó.

Năm 2010, trong sứ điệp của mình, ngài mời gọi các linh mục hãy xem xét những khả thể trong việc chia sẻ Lời Chúa thông qua các phương tiện truyền thông mới. Ngài nói: “Những phương tiện truyền thông hiện đại cung cấp cho họ những khả năng mục vụ vươn xa và mới mẻ luôn mãi, khích lệ họ trở thành hiện thân của sứ mạng phổ quát của Giáo Hội, để xây dựng tình bằng hữu đích thực bao la, và làm chứng rằng: trong thế giới hôm nay, một cuộc sống mới đã nảy sinh nhờ việc lắng nghe Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng là Chúa Con muôn thuở đã đến giữa chúng ta để cứu độ chúng ta.”

Trong sứ điệp năm 2011, ngài khẳng định rằng: “Trang web đóng góp vào sự phát triển của những hình thức mới mẻ và phức tạp hơn của nhận thức trí tuệ và tâm linh, của xác tín chia sẻ. Ngay cả trong phạm vi này, chúng ta được mời gọi loan báo đức tin của chúng ta rằng Chúa Kitô là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ con người và lịch sử. Đấng mà trong Ngài mọi sự tìm thấy sự thành toàn của mình (x. Êph 1, 10).” Trong Sứ điệp năm nay, Đức Thánh Cha thậm chí còn nói rõ ràng hơn: “Phải chú ý đến nhiều loại trang web, các ứng dụng và mạng xã hội khác nhau có thể giúp con người ngày nay biết sống suy tư và đặt những câu hỏi đích thực, nhưng cũng giúp họ tìm được những không gian thinh lặng, các dịp để cầu nguyện, suy niệm hay chia sẻ Lời Chúa. Với tính chất của những tin nhắn ngắn gọn, thường không dài hơn một câu Thánh Kinh, người ta có thể diễn tả những tư tưởng sâu sắc, miễn là đừng bỏ bê việc chăm sóc đời sống nội tâm mình.

Sự hiện diện của ĐTC trên Twitter có thể được xem như là sự khởi đầu của sự hiện diện của Giáo hội trên hình thức truyền thông mới này. Giáo hội đã hiện diện rất đa dạng trên các mạng truyền thông xã hội. Từ các hình thức ban đầu như các trang mạng chính thức của các tổ chức và các cộng đoàn đến các trang cá nhân như blog, các blog của các giáo xứ, các trang cá nhân của các tín hữu. Sự hiện diện của Đức Thánh Cha trên Twitter là một sự xác nhận về những nỗ lực của Giáo hội để đảm bảo Tin Mừng của Chúa Giê-su và giáo huấn của Giáo hội được thấm nhuần nơi các diễn đàn trao đổi và đối thoại diễn ra rất phong phú trên các mạng truyền thông. Sự hiện diện của ngài được xem như là một khích lệ lớn dành cho toàn thể các tổ chức Giáo hội cũng như cộng đoàn dân Chúa lưu tâm để phát triển một khuôn mặt (profile) thích hợp cho chính họ và những xác tín của họ trong thế giới kỹ thuật số. Tweets của Đức Thánh Cha luôn sẵn sàng đón nhận những chia sẻ và thảo luận của những người tin cũng như không tin. Hy vọng những thông điệp ngắn của Đức Thánh Cha, và cả những thông điệp đầy đủ hơn có thể tìm thấy trên mạng, sẽ gợi hứng cho những con người đến từ các quốc gia, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau. Đáp lại, những vấn nạn này giúp cho các Giáo hội và các tín hữu địa phương, những người ở vị trí rất thuận lợi có thể trả lời, và quan trọng hơn là để họ có thể gần gũi với những con người nêu lên vấn nạn. Tuy nhiên, giữa sự phức tạp và đa dạng của thế giới truyền thông, nhiều người thấy chính mình phải đối diện với những câu hỏi tối hậu về sự hiện hữu của con người: Tôi là ai? Tôi có thể biết gì? Tôi nên làm gì? Tôi hy vọng gì? Thật quan trọng để đón nhận những con người nêu lên những vấn nạn như thế và mở ra một khả thể cho một cuộc đối thoại sâu sắc” (Sứ điệp ngày thế giới truyền thông, 2012).

Thách đố cho giáo hội trong lĩnh vực truyền thông là làm sao để thiết lập một mạng lưới và một sự hiện diện mang tính chất dẫn dụ có thể dấn thân một cách hiệu quả vào các cuộc thảo luận, tranh luận và đối thoại vốn diễn ra thuận lợi hơn nhờ truyền thông xã hội và mang tính chất trực tiếp, cá nhân và tức thời, những cách thế trả lời vốn không dễ đạt được bởi các tổ chức tập trung. Hơn nữa, một mạng lưới xã hội và một cấu trúc mang tính dẫn dụ như thế cũng phản ánh một chân lý về Giáo hội, Giáo hội là một cộng đoàn của các cộng đoàn, vừa mang tính hoàn vũ nhưng cũng mang đậm tính chất địa phương. Sự hiện diện của Đức Thánh Cha trên Twitter sẽ tượng trưng cho tiếng nói của ngài như là một tiếng nói hiệp nhất và là tiếng nói của vị lãnh đạo của Giáo hội. Tuy nhiên, sự hiện diện này cũng được xem như một lời mời gọi mạnh mẽ dành cho mọi tín hữu diễn tả “tiếng nói” của chính mình, và cùng với những người tín hữu khác và những người bạn khác chia sẻ niềm hy vọng của Tin Mừng. Vì Tin Mừng chính là tiếng nói của tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người.

Ngoài việc dấn thân trực tiếp với những chấn vấn, những cuộc thảo luận và các cuộc tranh luận, Giáo hội cũng nhận ra tầm quan trọng của các mạng truyền thông mới như là một môi trường cho phép truyền giảng các chân lý mà Thiên Chúa đã thông truyền cho Giáo hội của Ngài. Nó cũng là môi trường thuận lợi để lắng nghe người khác, học biết về các mối quan tâm và bận tâm của họ, đồng thời hiểu họ là ai và trao ban cho họ điều mà họ đang tìm kiếm. “Khi những thông điệp và thông tin quá phong phú, thinh lặng trở nên điều thiết yếu nếu chúng ta muốn nhận ra điều gì là quan trọng giữa những điều không quan trọng và thứ yếu. Sự phản tỉnh sâu xa giúp chúng ta khám phá ra những mối liên hệ giữa các sự kiện mà mới thoạt nhìn dường như không có liên hệ gì với nhau, nhờ đó chúng ta có thể làm những lượng giá và phân tích các sứ điệp”( Sứ điệp năm 2012).

Chính vì lý do này mà Đức Thánh Cha đã quyết định hiện diện trên kênh Twitter với những câu hỏi và những câu trả lời chính thức. Sự kiện này cũng cho thấy mối quan tâm sâu xa của Giáo hội dành cho việc lắng nghe tiếng nói, các cuộc đối thoại và những khuynh hướng của thời đại. Vì đây chính là nơi diễn tả mối bận tâm và hy vọng của con người thời đại một cách bộc phát và mạnh mẽ nhất.

RadioVatican
Nguyễn Minh Triệu sj

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến Học Viện Công Giáo Anh quốc ở Roma

Đức Thánh Cha tiếp kiến Học Viện Công Giáo Anh quốc ở Roma

ROMA. Sáng 3 tháng 12-2012, ĐTC đã tiếp kiến 70 LM và chủng sinh, giáo sư và sinh viên thuộc Học viện Công Giáo Anh quốc ở Rom. Ngài khích lệ các linh mục sinh viên trường này hăng say đáp ứng khát vọng thiêng liên của dân chúng.

Hiện diện trong buổi tiếp kiến có một số GM Anh quốc, đứng đầu là ĐHY Cormac Murphy-O'Connor nguyên TGM Westinster, và Đức Cha Vincent Nichols, đương kim TGM giáo phận này.

ĐTC đặc biệt nhắc đến quá khứ oai hùng của học viện Công Giáo Anh quốc ở Roma, trong hơn 4 thế kỷ qua kể từ khi được thành lập hồi năm 1576. 44 cựu sinh viên của trường này đã chịu tử đạo trong thời ly giáo tại Anh, trong đó 41 vị đã được phong thánh hoặc chân phước. Nếu tính từ khi Học viện này là một nhà đón tiếp các khách hành hương người Anh tại Roma thì có từ 650 năm nay.

ĐTC nói với các chủng sinh và linh mục Anh quốc rằng: ”Khi tôi viếng thăm Anh quốc, tôi thấy rằng có một sự đói khát tinh thần rất mạnh nơi dân chúng. Các con hãy mang lại cho họ lương thực đến từ sự nhận biết, yêu mến và phụng sự Chúa Kitô. Hãy nói với họ về sự thật của Tin Mừng với tình yêu thương. Hãy cống hiến cho họ nước hằng sống của đức tin Kitô và chỉ cho họ thấy bánh sự sống, để sự đói khát của họ được thỏa mãn. Nhất là hãy để cho ánh sáng của Chúa Kitô chiếu tỏa qua các con bằng cách sống một đời sống thánh thiện, theo vết của nhiều vị đại thánh của Anh quốc và miền Wales, những người nam nữ thánh thiện đã làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô, đến độ hy sinh mạng sống mình” (SD 3-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP

 

LÀM CHỨNG CHO TÌNH YÊU CHÚA GIỮA LÒNG THẾ GIỚI

LÀM CHỨNG CHO TÌNH YÊU CHÚA GIỮA LÒNG THẾ GIỚI

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu trưa Chúa nhật 2 tháng -12-2012, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa và sống tình yêu thương của Ngài giữa một thế giới đầy xáo trộn và bị bao phủ bởi thái độ dửng dưng và chủ nghĩa vật chất.

Trong bầu khí thiêng liêng của Chúa Nhật I Mùa Vọng, hàng ngàn tín hữu hành hương tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài giải thích về ý nghĩa của Mùa Vọng, đó là một thái độ sẵn sàng chờ Chúa đến. Ngoài ra, ngài cũng diễn giải về ý nghĩa bài Tin Mừng Chúa nhật I Mùa vọng hôm qua. ĐTC nói:

Anh chị em thân mến!

Hôm nay Giáo Hội chính thức bước vào một Năm Phụng Vụ mới, một hành trình mới được làm giầu liên tục với Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II. Mùa đầu tiên của Năm Phụng Vụ chính là Mùa Vọng. Theo Nghi Lễ Rôma, Mùa Vọng kéo dài suốt 04 tuần trước Lễ Chúa Giáng Sinh, là mầu nhiệm Nhập Thể Con Thiên Chúa làm người. Từ ngữ “vọng” (Advent) có nghĩa là “đang đến” hoặc “hiện diện”. Trong thế giới thời cổ, tiếng “Advent” dùng để chỉ về cuộc kinh lý của vị vua hoặc vị hoàng đế đến một tỉnh, hoặc vùng nào đó trong vương quốc của mình.

Trong ngôn ngữ Kitô giáo, từ “Advent” đề cập đến việc Chúa đến, và sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới. Đó là một mầu nhiệm bao trùm toàn thể vũ trụ và lịch sử, mà cũng là một mầu nhiệm với hai khoảnh khắc nổi bật được biết đến, đó là cuộc giáng trần lần thứ nhất và cuộc quang lâm, nghĩa là cuộc ngự đến lần thứ hai của Chúa Giê-su. Cuộc ngự đến lần thứ nhất đích thực nói đến Mầu Nhiệm Nhập Thể, cuộc ngự đến lần thứ hai chính là cuộc trở lại trong vinh quang vào thời thế mạc. Hai khoảnh khắc này cách biệt nhau theo trật tự thời gian mà giữa chúng cách nhau bao lâu thì chúng ta không được biết. Tự nơi thẳm sâu hai khoảnh khắc ấy chạm vào nhau, bởi lẽ với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giê-su đã thực thi cuộc biến đổi ấy cho con người, và cho vũ trụ này. Cuộc biến đổi ấy chính là cùng đích tối hậu của tạo vật. Nhưng trước khi đạt đến điểm chung cuộc ấy, thì cần hoàn tất việc Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Đức Ki-tô (x. 1 Cr 15, 25 ; Tv 110, 1). Kế hoạch cứu độ này của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn hành động, đòi hỏi sự dấn thân vô vị lợi và sự cộng tác của con người cách liên tục. Ví như vị hôn thê của Chiên Thiên Chúa, Đấng đã bị đóng đinh và đã sống lại (x. Kh 21, 9), Giáo Hội đang sống trong nỗi nhớ Chúa và trong niềm mong chờ cuộc trở lại của Ngài, một cuộc mong chờ với niềm hy vọng tỉnh thức và hoạt động.

Tiếp theo, khi diễn giải về Lời Chúa được đọc trong Chúa Nhật I Mùa Vọng, Ngài nhắc nhở các tín hữu thái độ cần phải có trong Mùa Vọng. Ngài nói:Lời Chúa hôm nay vạch ra cho chúng ta thái độ cần phải có để sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Trong Tin Mừng Luca, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, …Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn" (Lc 21,34.36). Do đó, hãy sống tiết độ và hãy cầu nguyện luôn! Thánh Phaolô tông đồ cũng ước mong cho “tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết” để “anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì đáng chê trách” (xem 1Tx 3,12-13). Dẫu sống trong một thế giới với nhiều biến động, hay giữa những sa mạc của sự dửng dưng và chủ nghĩa vật chất, các Ki-tô hữu được mời gọi để lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa và làm chứng cho Ngài ngang qua đời sống của mình, như một thành phố xin đẹp sừng sững trên một ngọn núi cao. Như ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố: “Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ an cư lạc nghiệp. Ðây là tên người ta sẽ đặt cho thành: "Ðức Chúa là-sự-công-chính-của-chúng-ta!" (Gr 33,16). Cộng đoàn các Ki-tô hữu là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, của sự công bình vốn đã hiện diện trong dòng lịch sử dù chưa được nhận ra một cách trọn vẹn, và vì thế luôn mong chờ, cầu khẩn, tìm kiếm với lòng kiên nhẫn và can đảm.
Đức Trinh Nữ Maria chính là mẫu gương trọn hảo về việc sống tinh thần Mùa Vọng. Mẹ đã lắng nghe lời Thiên Chúa, với một khao khát sâu thẳm thực thi thánh ý Ngài và Mẹ cũng phục vụ tha nhân trong vui tươi.

Sau bài Angelus, Đức Thánh Cha cũng gửi lời thăm hỏi đến các thành phần tham dự, ngài nói:

Anh chị em thân mến!

Hôm nay, tại Kotta ở Ấn Độ, chúng ta vui mừng vì có thêm một vị Chân phước mới, anh Devasahayam Pillai, một tín hữu đã sống vào thế kỷ 18 và đã chịu tử đạo. Chúng ta cùng chia vui với Giáo hội Ấn Độ và cầu nguyện cùng vị tân chân phước này, xin ngài gìn giữ các Ki-tô hữu tại đất nước rộng lớn này.

Gửi lời đến Ngày Quốc Tế người khuyết tật diễn ra vào ngày hôm nay, ngài nói: Mỗi người, bất chấp những giới hạn về thể lý và tâm lý vẫn mang nơi mình một giá trị không thể thay thế. Tôi khích lệ các cộng đoàn Giáo hội hãy đón nhận những anh chị em này. Đồng thời tôi ước mong những nhà làm luật và các chính phủ hãy bảo vệ những anh chị em này và giúp họ tham dự một cách trọn vẹn vào đời sống cộng đồng.

Cuối cùng, trong tiếng Anh, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người cùng cầu nguyện. “Tôi đặc biệt gửi lời chúc mừng đến những người dân ở vùng Kottar đang mừng lễ phong chân phước cho anh Devasahayam Pillai hôm nay. Đời sống chứng tá của anh về Đức Ki-tô là một mẫu gương sống động nhắc nhớ chúng ta về thái độ tỉnh thức chờ Chúa, một thái độ được nhắc đến trong thánh lễ Chúa Nhật I Mùa Vọng hôm nay. Ước mong thời gian thánh này sẽ giúp chúng ta gắn bó với Đức Kitô nhiều hơn.

Nguyện xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.

Nguyễn Minh Triệu sj

 

 

 

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I khai mạc Mùa Vọng

Đức Thánh Cha chủ sự Kinh Chiều I khai mạc Mùa Vọng

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các sinh viên đại học làm chứng cho các bạn đồng môn về sự gần gũi của Thiên Chúa với con người.

Đó là nội dung bài giảng của ĐTC trong buổi hát kinh chiều I Chúa nhật thứ I mùa Vọng lúc 5 giờ rưỡi chiều thứ bẩy 1 tháng 12-2012 tại Đền thờ Thánh Phêrô với 9 ngàn sinh viên các đại học đạo và đời ở Roma, cùng với nhiều tín hữu nhân dịp khai mạc niên học mới.

Hiện diện tại buổi hát kinh cũng có ĐHY Tổng trưởng Bộ giáo dục Công Giáo Zenon Grocholewski và ĐHY Vallini Giám quản Roma, 20 HY và nhiều GM khác cũng như Bộ trưởng nghiên cứu và đại học của Italia cùng với các giáo sư viện trưởng.

Trong bài giảng sau bài đọc ngắn, ĐTC quảng diễn về lòng trung tín của Thiên Chúa với Dân Chúa, mặc dù dân này nhiều lần bất trung. ”Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi sự trở về của con người trong tự do và chú ý đến phẩm giá cũng như những mong đợi sâu xa nhất của họ. Thiên Chúa không khép mình trên Trời Cao, nhưng Ngài cúi xuống, quan tâm đến những thăng trầm của con người. Đó là một mầu nhiệm lớn lao, vượt lên trên mọi mong đợi của con người.”

Trong bối cảnh đó, ĐTC nói: ”Các bạn được tháp nhập vào một cộng đoàn đại học đông đảo ở Roma, trong đó có thể tiến bước trong kinh nguyện, trong việc nghiên cứu, đối chiếu và trong việc làm chứng cho Tin Mừng. Đó là một hồng ân quí giá cho đời sống các bạn; các bạn hãy biết coi điều đó như một dấu chỉ lòng trung tín của Thiên Chúa, Đấng ban cho các bạn những cơ hội để làm cho cuộc sống của các bạn phù hợp với cuộc sống của Chúa Kitô để cho mình được Chúa thánh hóa cho đến mức độ thiện toàn (Xc 1 Ts 5,23).

Sau kinh chiều, ảnh Đức Mẹ là Tòa Đấng Khôn Ngoan đã được đại diện các sinh viên Roma trao cho phái đoàn các sinh viên thuộc thành phố Belo Horizonte, bên Brazil, để chuẩn bị Ngày Quốc Tế giới trẻ sẽ tiến hành từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm 2013 tại thành phố Rio de Janeiro. (SD 1-12-2012)

G. Trần Đức Anh OP
– Vietvatican

Đức Thánh Cha tiếp kiến 6 tân Hồng Y và thân nhân

Đức Thánh Cha tiếp kiến 6 tân Hồng Y và thân nhân

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 tái kêu gọi các tín hữu cầu nguyện cho các tân Hồng Y và ngài cũng mời gọi các tân Hồng y cầu nguyện và trợ giúp ngài.

ĐTC đưa ra lời nhắn nhủ trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 26 tháng 11-2012 dành cho 6 tân Hồng Y, thân nhân, tín hữu của các vị. Tổng cộng khoảng 2 ngàn người tại Đại thính đường Phaolô 6 ở Nội thành Vatican.

Ngài khẳng định rằng ”Hồng y đoàn có nguồn gốc gắn liền với hàng giáo sĩ xưa kia của Giáo Hội Roma, có nhiệm vụ bầu người kế vị Thánh Phêrô và cố vấn cho Người trong những vấn đề quan trọng. Dù thi hành nhiệm vụ trong giáo triều Roma hay trong sứ vụ tại các Giáo Hội địa phương trên thế giới, các HY đều được kêu gọi đặc biệt chia sẻ với ĐGH mối quan tâm đối với Giáo Hội hoàn vũ. Màu áo đỏ của các vị theo truyền thống vẫn được coi như dấu chỉ sự quyết tâm của các HY bảo vệ đoàn chiên của Chúa Kitô kể cả đến độ đổ màu đào… Tôi tin rằng các HY sẽ được anh chị em cầu nguyện và hỗ trợ trong lúc các vị cùng với ĐGH thăng tiến khắp nơi trên thế giới sự thánh thiện, tình hiệp thông và an bình của Giáo Hội”.

Trong lời chào bằng tiếng Pháp dành cho các tín hữu Công Giáo Liban tháp tùng ĐHY Thượng Phụ Boutros Rai, ĐTC cho biết qua việc trao phẩm tước Hồng y cho Đức Thượng Phụ ngài muốn đặc biệt khích lệ cuộc sốg nvà sự hiện diện của các tín hữu Kitô tại Trung Đông, nơi mà họ phải được sống đức tin một cách tự do, và một lần nữa, tôi cũng tha thiết kêu gọi hòa bình cho vùng Trung Đông. Giáo Hội khuyến khích mọi nỗ lực để kiến tạo hòa bình trên thế giới và tại Trung Đông, một nền hòa bình chỉ thực sự hữu hiệu nếu dựa trên sự tôn trọng chân thành đối với tha nhân.”

Sau cùng, với các tân HY, ĐTC nói: ”Trong khi lập lại những lời cầu chúc nồng nhiệt nhất với mỗi người anh em, tôi tín thác nơi lời cầu nguyện nâng đỡ cũng như sự trợ giúp quí giá của anh em. Anh em hãy tín thác và can đảm tiếp tục sứ mạng thiêng liêng và tông đồ của anh em, trong khi chăm chú ngắm nhìn Chúa Kitô, và củng cố tình yêu của anh em đối với Giáo Hội của Chúa”.

Sau khi ban phép lành cho mọi người, ĐTC đã bắt tay 6 vị Hồng y với cùng với thân nhân ruột thịt gần nhất, mỗi vị được 4 hoặc 5 người. (SD 26-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Cha Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, Tân Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam

Cha Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, Tân Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam

ROMA. Cha José Rodriguéz Carballo, Bề trên tổng quyền dòng Phanxicô (OFM), đã được bầu làm tân Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam, kế nhiệm cha Pascual Chávez Villanueva, Bề trên tổng quyền dòng Don Bosco.

Cha Rodriguéz Carballo đã được bầu lên trong đại hội bán niên thứ 80 của Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam, nhóm tại Roma từ ngày 21 đến 23 tháng 11 vừa qua. Hiệp hội này có trụ sở pháp lý ở Vatican và qui tụ các Bề trên Tổng Quyền của gần 200 dòng thành viên.

Cha Rodriguéz năm nay 59 tuổi (1953), sinh trưởng tại miền Galizia Tây Ban Nha, từ 9 năm nay là Bề trên Tổng quyền dòng Anh em Hèn Mọn Phanxicô.

Lên tiếng sau khi đắc cử, Cha Rodriguéz nhận định rằng đời sống thánh hiến ngày nay phải theo đuổi các mục tiêu: để cho mình được rao giảng Tin Mừng để có thể loan báo Tin Mừng cho tha nhân, tìm kiếm Thiên Chúa trên hết mọi sự, đứng về phía người nghèo, nghiêm túc để ý đến những thách đố đang nảy sinh từ môi sinh học, bảo vệ cac quyền con người, công lý và hòa bình.

Khóa họp thứ 80 vừa qua của Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng Nam đã bàn về Thượng HĐGM thế giới mới kết thúc, với lời kêu gọi tha thiết các tu sĩ dấn thân tăng cường tình hiệp thông và canh tân chứng tá Kitô.
ĐHY João Braz de Aviz, Tổng trưởng Bộ các dòng tu, đã chủ sự thánh lễ trong ngày họp đầu tiên với các Bề trên và đã mời gọi các vị làm sao để gia tăng tình hiệp thông với nhau và trong Giáo Hội.

Trong những ngày họp, các bề trên cũng bàn về cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh, và ảnh hưởng của chúng trên hoạt động của các dòng tu (Oss. Rom 24.11.2012)

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với 6 tân Hồng Y

Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ với 6 tân Hồng Y

VATICAN. Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đã chủ sự thánh lễ đồng tế với 6 tân Hồng Y mới được ngài tấn phong và mời gọi các vị dành ưu tiên cho Thiên Chúa và Nước Chúa trước những lợi lộc trần thế.

Thánh lễ mừng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ diễn ra lúc 9.30 sáng chúa nhật 25 tháng 11-2012 tại Đền Thờ Thánh Phêrô trước sự hiện diện của 8 ngàn người, trong đó có 50 HY và 40 GM, cùng với 4 phái đoàn chính thức từ Liban, Philippines, Nigeria và Ấn độ, nhiều vị đại sứ, thân nhân, tín hữu thuộc hai Giáo Hội Công Giáo Đông phương: Maronite Liban và Siro Malankara Ấn độ cũng như từ các giáo phận của các tân Hồng Y.

18 thầy giúp lễ là các đại chủng sinh trường Truyền giáo và đặc biệt trong số các phó tế, cũng có một thầy người Việt là Giuse Nguyễn Công Khương thuộc giáo phận Thanh Hóa.

Đảm nhận phần thánh ca trong buổi lễ, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có ca đoàn Mẹ Giáo Hội (Mater Ecclesiae) gồm 80 ca viên, và Ca đoàn Học Viện Giáo Hoàng về thánh nhạc gồm 50 ca viên.

Sau khi ĐTC xông hương bàn thờ và an tọa, ĐHY James Michael Harvey người Mỹ, tân giám quản Đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành, đã đại diện các Hồng y mới cám ơn ĐTC đã bổ nhiệm các vị làm Hồng y. Ngài cũng đặc biệt cám ơn Ngài vì các hoạt động giáo huấn, từ những nghiên cứu thần học trước đây cho đến các huấn dụ gần đây. ĐHY Harvey kết luận với quyết tâm cùng với ĐGH tham gia vào công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng: ”Khi đón nhận từ tay ĐTC vinh dự của tước vị Hồng Y, chúng con quyết tâm trở thành những người kiên trì thực hiện công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng trong tinh thần trách nhiệm, với sự nâng đỡ của ơn thánh Chúa”.

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Trong bài giảng sau bài Tin Mừng, ĐTC nói:

”Lễ trọng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ kết thúc năm phụng vụ được phong phú thêm qua sự đón nhận vào Hồng y đoàn 6 thành viên mới. Theo truyền thống, tôi đã mời các vị đồng tế thánh lễ với tôi sáng hôm nay. Tôi xin gửi đến mỗi vị lời chào thân ái nhất và cám ơn ĐHY James Michael Harvey vì những lời chào mừng nhân danh tất cả.
Tiếp đến, ĐTC đã dựa vào các bài đọc của ngày lễ để giải thích ý nghĩa vương quyền của Chúa Kitô. Ngài nói: ”Khi trả lời câu chất vấn của quan Philatô ”Ông có phải là vua người Do thái không?” (Ga 18,33), Chúa Giêsu minh định bản chất Vương quốc và chính sứ mạng cứu thế của Người, không phải là quyền lực trần thế, nhưng là tình yêu thương phục vụ. Chúa khẳng định rằng không được lẫn lộn nước của Ngừơi với bất kỳ vương quốc chính trị nào. ”Nước của tôi không thuộc về thế gian này.. không thuộc trần thế” (v.36).

ĐTC nói: ”Rõ ràng là Chúa Giêsu không có một tham vọng chính trị nào. Sau khi Chúa hóa bánh ra nhiều, dân chúng phấn khởi vì phép lạ, muốn tôn Người làm vua, để lật độ quyền lực của người La Mã và thiết lập một vương quốc chính trị mới, sẽ được coi như Nước Thiên Chúa hằng được mong chờ. Nhưng Chúa Giêsu biết rằng Nước Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn, không dựa trên võ khí và bạo lực. Và chính việc hóa bánh ra nhiều, một đàng trở thành dấu chỉ sứ mạng cứu thế của Ngừơi, nhưng đàng khác là một lằn ranh trong hoạt động của Người: từ lúc đó, hành trình hướng về Thập Giá ngày càng trở nên rõ ràng hơn; tại đó trong cử chỉ yêu thương tột cùng, Nước Thiên Chúa, nước hứa, sẽ chiếu sáng rạng ngời. Nhưng đám đông dân chúng không hiểu, họ thất vọng, và Chúa Giêsu rút lên núi một mình để cầu nguyện (Xc Ga 6,1-15). Trong trình thuật về cuộc khổ nạn, chúng ta cũng thấy các môn đệ, tuy cùng chia sẻ cuộc sống với Chúa Giêsu và lắng nghe lời Người, nhưng họ nghĩ đến một vương quốc chính trị, được thiết lập nhờ võ lực. Trong vườn Giệtsimani, Phêrô đã rút gươm khỏi vỏ và bắt đầu chiến đấu, nhưng Chúa Giêsu đã chặn ông lại (Xc Ga 18,10-11). Người không muốn được bảo vệ bằng võ khí, nhưng muốn chu toàn thánh ý Chúa Cha cho đến cùng và thiết lập vương quốc của Người, không phải bằng võ khí và bạo lực, nhưng bằng vẻ yếu đuối của tình thương trao ban sự sống. Nước Thiên Chúa là nước hoàn toàn khác với các nước trần thế.

“Chính vì thế, đứng trước một người không phương thế tự vệ, yếu ớt, bị hạ nhục, như Chúa Giêsu, một người quyền lực như quan Philatô cũng ngạc nhiên; ngạc nhiên vì ông nghe nói về một nước, về những người phục vụ. Và ông đặt câu hỏi mà ông thấy có vẻ là nghịch lý: ”Vậy ông là vua sao?” Một người ở trong hoàn cảnh như thế là vua thuộc loại nào? Nhưng Chúa Giêsu trả lời khẳng định: ”Quan nói đúng: tôi là vua. Vì thế, tôi đã sinh ra và đến trần thế; để làm chứng cho sự thật. Ai bởi sự thật thì nghe tiếng tôi” (18,37). Chúa Giêsu nói về vua, về vương quốc, nhưng Người không nói đến sự thống trị, nhưng là sự thật. Quan Philatô không hiểu: có thể có quyền lực lực nào mà không đạt được với những phương thế của con người? một quyền lực không theo tiêu chuẩn thống trị và sức mạnh? Chúa Giêsu đã đến để mạc khải và mang đến một vương quyền mới, vương quyền của Thiên Chúa; Người đến để làm chứng về sự thật của một vị Thiên Chúa là tình thương (Xc 1 Ga 4,8.16) và Người muốn thiết lập một nước công chính, tình thương và an bình (Xc Kinh Tiền Tụng). Ai cởi mở đối với tình thương, thì lắng nghe chứng từ ấy và đón nhận trong niềm tin, để vào Nước Thiên Chúa”.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nhắc đến thị kiến của Ngôn Sứ Daniel nói về một nhân vật huyền bí giữa trời và đất, ngự đến trong đám mây và được trao ban quyền bính, vinh quang và vương quốc (7,13-14). ”Đó là những lời nói về một vị vua thống trị từ biển này tới biển khác, cho đến tận bờ cõi trái đất với một quyền bính tuyệt đối, không bao giờ bị hủy diệt. Thị kiến này của Ngôn Sứ, thị kiến cứu thế, sáng tỏ và được thể hiện trong Chúa Kitô: Quyền bính của Đức Messia chân chính, quyền bính không bao giờ tàn lụi và không bao giờ bị hủy diệt, không phải quyền bính của các vương quốc trần thế phát sinh rồi suy sụp, nhưng là vương quốc sự thật và tình thương.

Sau cùng, trong bài đọc thứ hai, tác giả sách Khải quyền quả quyết cả chúng ta cũng được tham dự vào vương quyền của Chúa Kitô.. Nhờ sự hy sinh của Người, Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi vào một quan hệ sâu xa với Thiên Chúa: trong Người, chúng ta trở thành dưỡng tử đích thực, như thế, chúng ta được tham dự vào vương quyền của Chúa trên thế giới. Vì vậy, là môn đệ của Chúa Giêsu có nghĩa là không để cho mình bị thu hút vì các tiêu chuẩn trần thế về quyền lực, nhưng vào thế giới ánh sáng của sự thật và tình thương của Thiên Chúa.
ĐTC nói tiếp:

”Tác giả sách Khải Huyền mở rộng cái nhìn về sự tái lâm của Chúa Giêsu để xét sử và thiết lập vĩnh viễn Nước Chúa, và nhắc nhở chúng ta rằng sự hoán cải, như lời đáp lại ơn thánh của Chúa, chính là điều kiện để thiết lập Nước Chúa (Xc 1,7). Đó là một lời mời gọi mạnh mẽ gửi đến tất cả và từng người: luôn trở về cùng Nước Thiên Chúa, chủ quyền của Thiên Chúa, Sự Thật, trong đời sống chúng ta. Chúng ta khẩn cầu hằng ngày trong kinh Lạy Chúa với câu ”Nước Cha trị đến”, có nghĩa là thưa với Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin làm cho chúng con thuộc về Chúa, xin Chúa sống trong chúng con, xin Chúa tập hợp nhân loại đang bị phân tán và đau khổ để trong Chúa tất cả đều được tùng phục Chúa Cha của lòng từ bi và tình thương.

Và ĐTC kết luận rằng: ”Hỡi các anh em hồng y quí mến, tôi đặc biệt nghĩ đến các tân hồng y mới được tấn phong hôm qua, anh em được ủy thác trách vụ cam go này, đó là làm chứng về Nước Thiên Chúa, làm chứng cho sự thật. Điều này có nghĩa là luôn dành ưu tiên cho Thiên Chúa và thánh ý Chúa trước những lợi lộc trần thế và quyền lực của nó. Anh em hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã biểu lộ vinh quang của Người trước quan Philato, trong tình trạng tủi nhục như Phúc âm mô tả: Chúa đã biểu lộ vinh quang của Người là yêu thương đến tột cùng, hiến mạng sống cho những người mình yêu. Đó là mạc khải về Nước Chúa Giêsu. Và vì thế, chúng ta hãy đồng tâm hiệp ý cầu nguyện: ”Adveniat regnum tuum”, xin cho Nước Chúa được hiển trị. Amen

Trong phần rước lễ, 120 linh mục phân phát Mình Thánh Chúa các tín hữu, và chính ĐTC cũng cho hàng chục người được rước Mình Thánh Chúa.

Thánh lễ kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ và kết thúc lúc 11 giờ rưỡi. Sau đó, đúng 12 giờ trưa, ĐTC đã xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài để đọc kinh truyền tin với lối 30 ngàn tín hữu tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô dưới bầu trời nắng thu.

Kinh Truyền tin

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ĐTC cũng giải thích về ý nghĩa lễ Chúa Kitô Vua và khẳng định rằng ”Nước Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội là mầm mống và khởi đầu của nước này. Giáo Hội có nghĩa vụ loan báo và phổ biến Nước Chúa Kitô nơi mọi dân nước, với sức mạnh của Thánh Linh. Vào cuối thời gian đã định, Chúa sẽ giao nộp cho Chúa Cha Nước Chúa và giới thiệu với Ngài tất cả những ai đã sống theo giới luật tình thương.
Các bạn thân mến, tất cả chúng ta được mời gọi nối tiếp hoạt động cứu độ của Thiên Chúa qua sự trở về cùng Tin Mừng, quyết liệt theo vị Vua không đến để được hầu hạ nhưng để phục vụ và làm chứng cho sự thật (Xc Mc 10,45; Ga 18,37). Trong viễn tượng này tôi mời gọi mọi tín hữu hãy cầu nguyện cho 6 Hồng y mới mà tôi đã bổ nhiệm hôm qua, xin Chúa Thánh Linh củng cố các vị trong đức tin và đức mến, ban cho họ được tràn đầy hồng ân Chúa, để họ sống trách nhiệm mới như một sự tận tụy hơn nữa đối với Chúa Kitô và Nước Chúa…”

”Chúng ta hãy cầu xin Đức Trinh Nữ Maria giúp tất cả chúng ta sống thời gian hiện tại trong niềm mong chờ Chúa tái lâm, tha thiết cầu xin Chúa: ”Xin cho Nước Chúa được hiển trị”, và chu toàn những công việc ánh sáng làm cho chúng ta ngày càng gần Trời Cao hơn, với ý thức rằng trong những thăng trầm trao đảo của lịch sử, Thiên Chúa tiếp tục xây dựng Nước Tình Thương của Người.

Sau khi ban phép lành cho các tín hữu, ĐTC nhắc đến lễ phong chân phước thứ bẩy 24 tháng 11-2012. Ngài nói:
”Hôm qua, tại Macas, bên Ecuador, đã có lễ phong chân phước cho chị Maria Troncatti, nữ tu dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, sinh tại Val Camonica. Chị làm y tá trong thời thế chiến thứ I, rồi đi Ecuador, tại đây chị hoàn toàn xả thân phục vụ dân chúng trong vùng rừng núi, rao giảng Tin Mừng và thăng tiến con người. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì chứng nhân quảng đại này của Ngài!”

Ngài cũng loan báo: chiều thứ bẩy, 1 tháng 12 tới đây, các sinh viên đại học Roma sẽ hành hương tại Mộ Thánh Phêrô nhân dịp Năm Đức Tin. Tôi sẽ chủ sự Kinh Chiều I Chúa nhật thứ I Mùa Vọng cho họ”.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO Từ 11-19 đến 11-25-2012

TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Từ 11-19 đến 11-25-2012

Trích từ Xuân Bích VN

 

Tân Sứ Thần Toà Thánh được thán phục ở Ái Nhĩ Lan.

Nhà lãnh đạo Bờ Biển Ngà viếng thăm Đức Thánh Cha.

Tổng thống nước Benin thăm viếng Đức Thánh Cha.

Tổng thống Haiti viếng thăm Vatican.

Sự chấp thuận an-tử đã làm tăng sự nghi ngờ bất tín của các bệnh nhân với nghề y.

-Tổng GP Boston tái cơ cấu các giáo xứ trong lẩn cắt xén thứ hai.

Các tập sự viên mục vụ tang chế thổ lộ những kinh nghiệm đầu tiên của họ.

Khánh thành trung tâm phục hồi vận động thần kinh cho các trẻ khuyết tật.

-Đông đúc dân Pháp xuống đường phản đối dự luật hôn nhân đồng tính.

Tuyên bố chung Công Giáo – Chính Thống giáo về tầm quan trọng ngày Chúa Nhật.

LM bị vạ tuyệt thông Roy Bourgeois chính thức bị khai trừ khỏi Dòng Marynoll.

-Gia đình là chủng viện đầu tiên.

BỔ NHIỆM MỚI.

-Thông báo nội bộ Vatican nhắm đẩy mạnh căn tính linh mục.

Toà phúc thẩm Pakistan huỷ bỏ vụ kiện báng bổ với Rhimsha Masih.

Tín đồ Anh giáo khủng hoảng sau cú ‘sốc” bỏ phiếu “chống” các Nữ GM.

Tân chủ tịch [phong trào] Diễu Hành Vì Sự Sống dự tính gia tăng kêu gọi giới trẻ.

Với các GM Bắc Phi, “vùng nầy đang vượt qua chuyển tiếp phức tạp và đau đớn”.

Ả Rập Xê-ut : Thiết lập một hệ thống điện tử để giám sát nữ giới.

 ( Xin xem chi tiết . . . .TUẦN TIN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO từ 11-19 đến 11-25-2012 )

VỊ VUA CHẤP NHẬN CHẾT, ĐỂ CON DÂN ĐƯỢC SỐNG

VỊ VUA CHẤP NHẬN CHẾT, ĐỂ CON DÂN ĐƯỢC SỐNG

Nói đến Vua, người ta nghĩ ngay đến quyền lực, đến sự thống trị. Có những người được tôn lên làm vua  theo kiểu cha truyền con nối “Con vua lại được làm vua”. Cũng có người do công trạng, được dân tín nhiệm. Lại cũng có người tự xưng mình là vua.  Nhưng trong lịch sử, cũng không thiếu những kẻ cướp ngôi vua dành quyền cai trị đất nước bằng cách bất chính hoặc bằng muôn hình vạn trạng quỷ kế trên trường chính trị. Có thể có những điểm khác biệt về cách làm vua, cách cai trị dân nước… nhưng có một điểm chung là không có triều đại nào, chế độ nào “muôn năm” cả.

Thử nhìn lại lịch sử thế giới, có thể thấy, ở nước nào cũng thế, hết triều đại này đến triều đại khác, hết chế độ nầy, đến chế độ khác, không có triều đại nào, không có chế độ nào bền vững- vì triều đại nào, chế độ nào, cũng đầy dẫy những bất toàn ngay ở giai đoạn đầu và có khi thối nát ở giai đoạn cuối. Ai cũng muốn cho triều đại, cho chế độ của mình “muôn năm”, nhưng đó chỉ là một ảo vọng! Hai từ muôn năm bỗng đồng nghĩa với vài chục năm trong khi cơn khát khao, nỗi thèm thuồng quyền lực vẫn còn cháy rực trong lòng. Vì thế, triều đại nào, chế độ nào cũng muốn củng cố quyền lực của mình bằng đủ mọi cách có thể, kể cả những cách vô luân thường, vô đạo lý, vô kỷ luật… không sợ mất lòng dân, chỉ sợ mất quyền cai trị, không sợ dân chết, chỉ sợ mình chết. Và khi đã đến lúc ngọn đèn sắp tắt, thì không ngại gì mà nó không phực lên để chứng tỏ cái sinh khí cuối cùng trong thân thể rệu rã của nó.

Khác với những vị vua ở trần thế, hôm nay, chúng ta Suy Tôn Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, “Người là vua trên hết các Vua, Người là Chúa trên hết các Chúa”, vì người thống trị cả vũ hoàn không phải chỉ dựa vào quyền lực toàn năng của Thiên Chúa Tạo Thành, nhưng còn nhờ Lòng Thương Xót vô cùng của Thiên Chúa Cứu Chuộc.

Ngài vâng lời Thiên Chúa Cha để đến trần gian cho trần gian được yêu thương, được cứu rỗi, được giải thoát khỏi sự chết muôn đời, được đoàn tụ trong vương quốc của Ngài đến muôn đời. Ngài được suy tôn là Vua, Ngài làm Vua, không giống cách làm vua của những vua chúa, hay những nhà cầm quyền thế gian, nhưng cách làm Vua của Ngài là “vâng lời cho đến chết” như Thánh Phaolô xác quyết:  “Chúa Kitô vì chúng ta đã vâng lời cho đến chết, và chết trên Thập Giá. Vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên muôn danh hiệu” (Phil 2, 8-9).

Câu chuyện Tin Mừng thánh Gioan hôm nay kể việc Chúa Giêsu có trát của Philato đòi. Chắc chắn có quân lính áp giải, có dùi cui, có súng ống gậy gộc, nhưng không thấy thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu bị bịt miệng, nên Ngài đã đứng trước vành móng ngựa và khẳng khái xác nhận: “Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)

Vâng, đó là thân phận và trách nhiệm của  Con Một Thiên Chúa đầy quyền năng và đầy lòng thương xót đến để  khởi đầu một Triều Đại của Thiên Chúa giữa dân Ngài, triều đại của Chân Lý: Có Thiên Chúa uy quyền và đầy lòng xót thương.  Con Thiên Chúa không đàn áp, bóc lộc dân Ngài, nhưng Ngài để dân đàn áp bóc lộc Ngài như cối chày giã nát những hạt thóc, rồi xay nghiền hạt gạo thành bột thành bánh thơm ngon. Ngài cũng không lừa đảo, cũng không quy hoạch chiếm đoạt đất đai tài sản, nhưng Ngài để dân Ngài chiếm đoạt Ngài làm gia sản muôn đời. Ngài nhường  lầu vàng gác tía, biệt thự nguy nga có then cài cổng khóa cho dân Ngài, còn  Ngài “không có nơi gối đầu qua đêm” (Lc 9,58). Ngài không bắt bớ bỏ tù dân Ngài, nhưng ngài chịu bắt bớ, chịu bỏ tù cho dân Ngài được  tự do! Và cuối cùng, Ngài không muốn cho dân Ngài phải chết để Ngài được sống, nhưng Ngài đã chết cho dân Ngài được sống, và sống muôn đời. Ngài là vị vua yêu thương và phục vụ dân đến cùng. Ngài chết cho con dân của Ngài được sống.

Đã có biết bao thể chế cũng biết tận dụng đường lối yêu thương và phục vụ “chết cho dân được sống” của Chúa Giêsu vào đường lối cai trị của mình, bằng khẩu hiệu “đầy tớ của nhân dân”, nhưng đó là khẩu hiệu mỵ dân, vì họ nói mà không làm. Họ không sống trong tinh thần sự thật. Họ còn giả vờ không biết sự thật, vì sự thật không đem lại lợi ích phàm tục nào cho họ. Câu hỏi  “sự thật là chi?” (Ga 18,38) , chẳng khác nghĩa với câu “sự thật có ích gì?”, “Thiên Chúa có ích gì?”.

Thiết tưởng, các Kitô Hữu Công Giáo Việt Nam, đặc biệt là những người đang sống trong GH tại địa phương, họ là những người được Thiên Chúa yêu thương cách riêng, như dân riêng của Chúa giữa lòng Châu Á, được sống trong một đất nước gần như là luôn luôn phải tử đạo, từ khi hạt giống đức tin được gieo trồng cho đến nay. Họ đã đọc những trang sử oai hùng của Giáo Hội thời các vua chúa quan quyền bức bách đạo, và họ cũng  đang nghe tận tai những khẩu hiệu gian dối, phĩnh lừa, họ chứng kiến tận mắt thời đại của những người vô thần cai trị đất nước. Họ có đủ chứng từ đối chiếu cách làm vua và cách cai trị của Vua thế gian và Vua Giêsu Kitô để xác nhận được Vua nào là Vua Muôn Đời, chế độ nào là muôn năm. Vì thế, không có một thế lực nào có thể lay chuyển niềm tin của họ, nếu  không phải là một thế lực “sống, học tập và làm việc theo gương Đức Giêsu Kitô, Vua vĩ đại”.

“Vâng, quan nói đúng, Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian nầy là để làm chứng cho sự thật. Ai yêu chuộng sự thật thì nghe Tôi.” (Ga 18,37)

Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội ngàn vàng để Dân Chúa, một lần nữa, sẽ khẳng định Vua Đích Thực, Vua Muôn Đời của chúng ta là ai. Chắc chắn và mãi mãi là Vua Giêsu Kitô, Người đã đến “là để làm chứng cho sự thật”. “Sự Thật” vô cùng cao quí ấy là sự thật “có Thiên Chúa”.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là tấm gương anh dũng soi chiếu cho dân Chúa tại Việt Nam về việc làm chứng cho sự thật. Vì nếu không tin nhận Thiên Chúa, không tin nhận Đức Giêsu là Vua Muôn Đời trong Nước Vinh Quang muôn đời của Ngài, thì đã chẳng có ai dám liều mình hy sinh mạng sống cách oan uổng.  Hơn nữa, tình yêu Chúa Kitô thúc bách các Ngài cùng Chúa Kitô  nói với những người không tin Thiên Chúa rằng “nước tôi không thuộc về thế gian này”.

Mừng lễ Chúa Kitô Vua, noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam Tôn Vinh Chúa Giêsu là Vua,  mọi thành phần trong giáo hội sẽ làm chứng cho sự thật:

– dứt khoát nói không với cơn cám dỗ đàn áp bóc lộc lẫn nhau, nhưng bảo bọc che chở cho nhau trong tình huynh đệ, trong chân lý;

– dứt khoát nói không với chia rẽ, tỵ hiềm, bôi nhọ để yêu thương, chân thành, hiệp nhất;

– dứt khoát nói nói không với đồng lõa, nói không với thỏa hiệp cùng gian tà để quyết tâm sống ngay chính theo đường sự thật của Chúa Giêsu;

– dứt khoát nói không với tất cả những gì chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý, sự thật, để quyết tâm sống đời sống của Thiên Chúa giữa một xã hội “không tin có Thiên Chúa” hay là chưa muốn tin một Đấng Thiêng Liêng hằng có đời đời.

Một vài nơi vẫn có lệ mời các cấp chính quyền tham dự lễ Đặt Viên Đá, lễ Giáng Sinh, lễ mở tay…. Ước gì họ được mời tham dự một thánh lễ Mừng Trọng Thể Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, để họ được biết cách làm vua, cách cai trị của một Vị Vua trên hết các Vua, một vị Vua Muôn Đời:  “Vị vua chấp nhận chết để con dân được sống”.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, Vua của lòng con, Chúa đã chấp nhận cái chết để con dân được sống. Chúng con suy tôn Chúa là Vua Muôn đời. Xin cho chúng con cũng biết chấp nhận  hy sinh mỗi ngày để làm chứng cho Nước Thiên Chúa giữa trần gian, và nhất là trên quê hương thân yêu của chúng con. A men.

PM. Cao Huy Hoàng

LỄ CHÚA KITÔ VUA

LỄ CHÚA KITÔ VUA

Vào mỗi buổi sáng sau khi cải trang thành người dân bình dị, đức vua âm thầm rời cung điện vi hành đến với người hành khất đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Trước lạ, sau quen, để rồi họ cùng tâm sự, cùng chia sẻ với nhau những vui, buồn và cả những gì mà những khách qua đường dừng chân bố thí. Ngày qua ngày đức vua và người hành khất trở thành người bạn tâm giao khi đức vua nói với người hành khất:

– Anh là người bạn tốt nhất trong những người bạn mà tôi từng gặp gỡ.

Người hành khất mỉm cười. Ông đâu biết người thường xuyên đến tâm sự với ông là đức vua, người đang cai quản vương quốc mà ông là thần dân. 

Như mọi ngày, người hành khất trông chờ người bạn. Đức vua đã đến, nhưng hôm nay trông ông hơi khác hơn, lạ hơn từ cử điệu cho đến giọng nói. Sau những lời chào hỏi, đức vua ôn tồn nói:

– Này anh bạn! Tôi nói điều này chắc anh sẽ ngạc nhiên, nhưng không sao, mãi mãi anh vẫn là người bạn thân nhất và tốt nhất của tôi.

Người hành khất sững sờ khi biết được người vẫn thường xuyên tâm sự với mình là đức vua, không những thế đức vua còn hứa rằng: nếu ông muốn gì đức vua cũng ban tặng. Sau giây phút nửa mừng, nửa lo, người hành khất cất tiếng:

– Thưa đức vua! Đối với hạ thần, không món quà nào lớn hơn món quà mà đức vua ban cho thần, đó là được làm bạn với đức vua.

Nghe người hành khất nói như thế đức vua rất cảm kích và ban tặng cho ông nhiều bổng lộc giúp ông thoát cảnh màn trời, chiếu đất.

Vâng! Một chút gì đó làm ta cảm kích cách sống, hành xử của đức vua lẫn người hành khất trong câu chuyện trên, vì để trở thành bạn với nhau, họ tạm quên danh phận, quên đi tất cả những cung vàng điện ngọc, quên đi những nhọc nhằn, tủi hổ của kiếp ăn mày. Để rồi ngày qua ngày họ cùng nhau giãi bày, tâm sự và lắng nghe nhau, chia sớt cho nhau những gì họ có….

Hôm nay, bước vào những tuần đầu của năm thánh Đức Tin, tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ 2012. Giáo Hội mời gọi ta chiêm ngắm, suy tôn một Đức Vua. Ngài là Đấng đã tác dựng nên vũ trụ, vạn vật, tác dựng nên con người nhân loại, trong đó có cả đức vua và người hành khất trong câu chuyện trên. Đức Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, Vua Tình Yêu.

Cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa Kitô Vua, ta cảm thấy phấn khích, hân hoan khi ca đoàn nơi các thánh đường cất lên giai điệu trầm bổng qua những nhạc phẩm: Ôi Giêsu (Huyền – Linh), lạy Chúa là Vua (Duy Thiên), Giêsu Vua Tình Yêu (Dominic)..Ta phấn khích, ta hân hoan đó, thế nhưng, có bao giờ ta dừng lại trong cõi lặng để suy tư, chiêm ngắm dung mạo thực của Vua Giêsu Kitô, Đấng vì một chữ yêu đã từ bỏ trời cao, bước xuống cõi phàm trần như lời quả quyết của thánh Phaolô: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl.2, 6-7).

Vâng! Đức Giêsu Kitô, Ngài là một vị Vua vô tiền khoáng hậu, một vị Vua không giống những vị vua trần thế như Ngài đã minh định: “Tôi là Vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này…” (Ga18, 33-38). Chính vì nước của Vua Giêsu Kitô không theo cách nghĩ của thế gian và không thuộc về thế gian mà Ngài đã sinh ra nơi hang đá tanh hôi giữa cái lạnh, cái thiếu thốn cơ cực; giữa những ganh ghét của người đời qua hình ảnh của Hêrôđê bạo chúa khi ông ta tìm cách sát hại Ngài sau khi được ba nhà Đạo Sỹ cho biết qua câu hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông…” (Mt.2, 1-18). Vì nước của Vua Giêsu Kitô không theo và không thuộc về thế gian, nên ngai vàng của Ngài là Thập giá, vương niệm của Ngài là mũ gai, Ngài đăng quang vào buổi chiều ngày thứ sáu trên đỉnh đồi Canvê. Quả là ngược đời!?

Điều ngược đời và khó hiểu nhất của Vua Giêsu Kitô, đó là Ngài cai quản, chăm sóc và gìn giữ thần dân của mình không bằng binh hùng, tướng mạnh, không bằng những đạo luật khắt khe, nhưng bằng một Trái Tim Nhân Ái, bằng sự hiến thân, phục vụ và cho đi. Hiến pháp và luật pháp của Ngài là “Mười Điều Răn” và “Tám Mối Phúc” đời đời không thay đổi, cả hai được gói gọn trong một từ “Yêu”. Thần dân của Vua Giêsu Kitô bao gồm tất cả con người nhân loại, không phân biệt tuổi tác, giới tính, ngôn ngữ, màu da, chủng tộc. Vương Quốc của Ngài không biên giới. Tình Yêu của Vua Giêsu Kitô dành cho thần dân qua việc Ngài hiến giá máu của Ngài để nên của lễ đền tội, Ngài hiến chính thịt máu của Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác, không chỉ một ngày, nhưng mọi ngày và mọi thời.

Quả thật! Trên thế gian này không ngôn ngữ, không ý thơ hay dòng nhạc nào có thể diễn tả một cách trọn vẹn hình ảnh và tình yêu của Đức Vua Giêsu Kitô. Hình ảnh và tình yêu của Đức Vua Giê su Ki tô là một mầu nhiệm, đã là mầu nhiệm thì ta không thể cảm và hiểu thấu bằng trí óc thấp hèn, ta chỉ có thể cảm và hiểu được dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần nơi Kinh Thánh và qua lăng kính Đức Tin. Đây là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho ta ngang qua Đức Vua Giêsu Kitô.

Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi và cho ta trở thành thần dân của Vua Giêsu Kitô, ta cảm tạ Thiên Chúa đã tuôn đổ muôn phúc lành xuống trên ta và gia đình, cộng đoàn và Giáo Hội trong suốt một năm phụng vụ; ta xin lỗi Chúa vì những thiếu xót trong bổn phận của một con dân trong Vương Quốc của Ngài; kế đến ta được mời gọi qua Giáo Hội nhìn lại cung cách tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình vào Đức Vua Giêsu Kitô, đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin.

Trên bước đường lữ hành trần thế, còn đó những ông vua thế gian: “Danh-Lợi-Thú…” luôn mời gọi, lôi kéo ta trở thành thần dân, trở thành nô lệ cho chúng bằng những lời hoa mỹ, ngọt ngào, nếu ta không tỉnh thức nhờ ơn Chúa, ta dễ dàng quên mình đã là thần dân của Vua Giêsu mà cất bước đi theo, để rồi sau khi cất bước đi theo, ta sa chân vào cõi chết. Giữa xã hội ngày hôm nay, còn đó những ông vua qua nhiều danh xưng: Tổng Thống, Chủ Tịch… “Coi Trời bằng vung”, cách hành xử và cai quản thần dân của những ông vua này theo chủ nghĩa “Sống chết mặc bay, tiền thầy đút túi”…!

Để giúp ta không sa chân vào cạm bẫy, ngã quỵ trước những lời mời gọi ngọt ngào của những ông vua “Danh-Lợi-Thú”, để có những ông vua cai quản và chăm sóc thần dân của mình theo gương Đức Vua Giêsu, trước tiên ta phải cầu nguyện cùng Đức Vua Giêsu, nhờ ơn của Ngài giúp, ta dần trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh của Đức Vua Giêsu qua cách sống đạo đức, thánh thiện, bác ái và vị tha….Qua cách sống như lòng Chúa ước mong mà nhiều người, nhất là những người chưa tin, đón nhận Đức Vua Giê su là Vua, là Cứu Chúa của mình.

 Lạy Đức Giêsu là Vua cua lòng con! Con xin chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa đã đón nhận con vào Vương Quốc của Chúa, xin uốn nắn lòng con để con thực sự trở thành thần dân của Chúa như lòng Chúa ước mong. Amen.

Antôn Lương Văn Liêm

ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CHÂN LÝ

 ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ CHÂN LÝ

Hình như đang có báo động đỏ về một trần gian đang suy thoái vì sự giả trá lan tràn. Sự giả trá từ  trong tâm hồn mỗi người, trong gia đình, rồi lan ra đến cộng đồng, kể cả cộng đoàn Công Giáo.

Ảnh hưởng của tội nguyên tổ sao mà dai dẳng thế?!? Có phải vì con người đầu tiên đã chui vào bụi rậm trốn ánh nhìn của Thiên Chúa mà bây giờ tâm hồn con cháu loài người vẫn cứ thích hướng lòng về những ém nhẹm, những giấu kín, những che đậy, ẩn nấp đâu đó từ tư tưởng đến hành động. Cả tôi, cả bạn, nếu lắng lòng sâu thẳm và thành tâm xét mình, có lẽ một ngày đời của chúng mình không biết bao nhiêu lần gian dối, bao nhiêu ý định không ngay thẳng, bao nhiêu lời nói việc làm gian tà… Cứ tưởng như là không ai có thể biết được điều ta đã giấu kín.

Biết đâu là chân lý? Con cái đã không nhìn thấy cách sống chân thành nơi cha mẹ của chúng, lại còn chứng kiến hằng ngày những gian dối trong nhà.  Ánh mắt nhìn của cha chưa hẳn là ánh mắt của thủy chung, bao dung, quảng đại. Nụ cười dịu dàng của mẹ ngày nay chưa hẳn là nụ cười của tình yêu trung tín, của hiến dâng trọn vẹn, của hy sinh ví tựa biển thái bình.

Biết đâu là chân lý? Con dân trong một  đất nước cũng chẳng biết đâu là chân lý  khi cả một khối lãnh đạo đất nước nói một đường làm một nẻo, hoặc mỗi ngày lại có thêm một bại lộ về những gian tà tham nhũng, phanh phui dần những trò nham hiểm thanh trừng lẫn nhau trên sân khấu chính trị…

Biết đâu là chân lý? Ở đâu cũng thấy bóng dáng của sự gian dối. Ở đâu người ta cũng không sống chân thành với nhau. Và khi không sống chân thành với nhau bằng tình thương của con người, thì ở đó, không có bóng dáng của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, chính khi sống gian tà là lúc chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Với các Kitô hữu cũng vậy, tuyên xưng “Tôi tin vào Thiên Chúa” mà vẫn cứ ẩn mình trong sự gian dối, thì lời tuyên xưng kia lại chính là sự nói dối lộ liễu của một con người quá thấp hèn trước Thiên Chúa uy quyền, cao cả, mà  không hề sợ hãi phép công thẳng của Ngài.

Đức Giêsu Kitô đã đến và mạc khải cho trần gian biết những sự thật quan trọng: Có Thiên Chúa là Cha toàn năng, Thiên Chúa yêu thương con người, Thiên Chúa ban Sự Sống vĩnh cửu cho con người.

Đức Giêsu Kitô đã làm chứng về những điều đã mạc khải bằng chính cuộc sống của Ngài: rao giảng Nước Thiên Chúa, loan truyền sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, và mời gọi mọi người biết yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu, như Con Thiên Chúa đã yêu: hiến mạng sống mình vì người mình yêu, để người mình yêu được sống và sống dồi dào ở đời này, phục sinh ở đời sau.

Trong khi nhân loại cứ vật vờ  trong cách sống gian dối mà Satan dạy dỗ, hướng dẫn cho cách lẩn tránh Thiên Chúa, thì chính Đức Giêsu Kitô đã khai mở một con đường mới cho nhân loại: sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Sự công chính ấy bắt nguồn từ việc: Tin vào Đức Giêsu Kitô và sống theo Lời Ngài. Câu hỏi “Biết đâu là chân lý?” đã được giải đáp thỏa đáng ngay tại tòa tổng trấn Philatô: “Ai thuộc về Chân Lý thì nghe tiếng Tôi”.

“Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi” hay nói cách khác, những người chọn Chúa Kitô làm thần tượng cho mình, chọn Lời Chúa Kitô làm kim chỉ nam cho đời mình, những người chấp nhận thuộc về Chúa Kitô, là những người đã biết được đâu là chân lý, sống trong chân lý, và làm chứng cho chân lý.

Trong cùng một Đức Giêsu Kitô, họ trở nên con dân trong Nước Thiên Chúa mà  chính Người làm Vua của họ. Một đất nước của Chân Lý, quyền bính là Tình Thương, không thuộc về thế gian này:  

"Quan nói đúng. Tôi là  Vua !”

"Nước tôi không thuộc về  thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế  gian này, thì những người của tôi đã chiến  đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng mà Nước tôi không thuộc chốn này".

Sống trong Sự Thật là sống Niềm Tin có Thiên Chúa, và sống chân thành yêu thương trước mặt Thiên Chúa. Chắc chắn chúng ta được  “Chúa Giêsu Kitô, là chứng tá trung thành, là  trưởng tử kẻ chết, là thủ lãnh các vua trần thế, là Đấng đã yêu thương ban ơn bình an và ân sủng” khi Người đã dùng máu Người mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa, Cha của Người”.

Giáo Hội kết thúc Năm Phụng Vụ  với Lễ suy tôn Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua vũ  trụ, Vua muôn loài, và là Vua của những kẻ đã Tin vào Ngài và sống theo Lời Ngài dạy. Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở mỗi chúng ta về việc mỗi tín hữu phải kết thúc hành trình đời người và hành trình Đức Tin trong Chúa Giêsu Kitô để xứng đáng hưởng phần gia nghiệp muôn đời mà Thiên Chúa đã sắm sẵn nhờ máu cứu độ của Con Ngài: Nước Thiên Chúa.

Khi kết thúc hành trình đời người, dẫu chỉ còn hai nắm tay không trước mặt Thiên Chúa, con người vẫn là một thụ tạo xinh đẹp, nếu thụ tạo ấy sống và làm chứng cho sự thật là Thiên Chúa và Tình Yêu. Và ngược lại, con người có xiêm y lụa là xinh đẹp trước mặt trần gian mà sống trong sự gian dối, bất tín thì đáng tiếc thay, họ không được niềm vui vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô Vua.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa Giêsu, biết sống tin yêu chân thành như Chúa Giêsu, để chúng con xứng đáng được kết thúc hành trình đời người trong Nước Thiên Chúa, dưới vương quyền Vua Giêsu Kitô mà suốt đời con đã kính tin, tôn thờ, yêu mến.

PM. Cao Huy Hoàng

Đức Thánh Cha chủ sự công nghị tấn phong 6 Hồng Y mới

Đức Thánh Cha chủ sự công nghị tấn phong 6 Hồng Y mới

VATICAN. Sáng thứ bẩy, 24 tháng 11-2012, 6 Hồng y mới thuộc 6 quốc gia đã được ĐTC Biển Đức 16 tấn phong trong công nghị tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Đây là lần thứ hai trong năm nay, ĐTC bổ nhiệm các Hồng Y mới. Lần đầu vào ngày 18 tháng 2, ngài tấn phong 22 hồng y mới trong đó có 10 vị thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

Trong lần bổ nhiệm này, lần đầu tiên không có vị Hồng y nào người Ý và Âu Châu. Các vị người Mỹ, Ấn độ, Philippines, Nigeria, Liban và Colombia. ĐTC đã giải thích ly nghĩa công nghị này hôm 27 tháng 10-2012, trong phiên họp cuối cùng của Thượng HĐGM thế giới kỳ thứ 13. ĐTC nói sở dĩ ngài tuyên bố triệu tập Công nghị vào ngày 24 tháng 11 năm nay để bổ nhiệm thêm 6 Hồng y mới ”là để bổ túc cho công nghị ngày 18-2 năm nay, trong bối cảnh tái truyền giảng Tin Mừng, với một cử chỉ nói lên tính chất hoàn vũ của Giáo Hội, chứng tỏ rằng Giáo Hội là Giáo Hội của mọi dân tộc, nói mọi ngôn ngữ, và luôn luôn là Giáo Hội của Lễ Hiện Xuống; không phải Giáo Hội của một đại lục, nhưng là Giáo Hội hoàn vũ.”

Trong số 9 ngàn người hiện diện trong buổi lễ tấn phong có hơn 80 Hồng y, 60 Giám Mục và đông đảo thân nhân và tín hữu của các vị tiến chức.

Có 4 phái đoàn chính thức về dự lễ: phái đoàn Liban do vị Tổng thống là Tướng Michel Sleiman, hướng dẫn, cùng với phu nhân, đoàn tùy tùng và 500 người từ Liban đến dự lễ. Phái đoàn Philippines do Phó Tổng Thống Jejomar Binay và đoàn tùy tùng hướng dẫn, không kể hàng ngàn tín hữu Philippines trong và ngoài nước. Phái đoàn Ấn độ do giáo sư Kurien, Chủ tịch Quốc hội và đoàn tùy tùng. Phái đoàn Nigeria do Thượng nghị sĩ David Mark và đoàn tùy tùng hướng dẫn.

Huấn dụ
Trong bài huấn dụ sau bài Tin Mừng, ĐTC đã đặc biệt giải thích về đặc tính Công Giáo của Giáo Hội và sứ mạng của Hội Thánh. Giáo Hội là Công Giáo vì trong sứ mạng cứu độ, Chúa Kitô ôm trọn cả nhân loại. Tuy sứ mạng của Chúa Giêsu, trong cuộc sống trần thế, giới hạn vào dân tộc Do thái, vào những con chiên lạc của Nhà Israel (Mt 15,24), nhưng sứ mạng ấy ngay từ đầu đã nhắm mang lại cho tất cả mọi dân tộc ánh sáng Tin Mừng và đưa mọi dân tộc vào trong Nước Chúa… Rồi sau đó, Chúa Giêsu sai Giáo Hội của ngài không phải đến với một nhóm, nhưng là với toàn thể nhân loại, để tập họp họ lại trong đức tin, trong một dân tộc duy nhất để cứu độ họ, như Công đồng chung Vatican 2 đã biểu lộ rất rõ ràng trong Hiến chế tín lý Lumen gentium, Ánh sáng muôn dân: ”Mọi người được kêu gọi gia nhập Dân mới của Thiên Chúa. Vì thế, dân tộc này là một và duy nhất, đồng thời phải mở rộng cho toàn thế giới, và cho mọi thế kỷ, để kế hoạch của ý Thiên Chúa được thành tựu” (n.13).
Sau khi giải thích ý nghĩa tính chất Công Giáo, đặc tính phổ quát của Giáo Hội, ĐTC áp dụng đặc tính này vào Hồng y đoàn:

”Cả Hồng y đoàn cũng được đặt trong đường hướng và viễn tượng hiệp nhất và phổ quát của Giáo Hội: Hồng y đoàn biểu lộ sự đa diện, vì diễn tả khuôn mặt của Giáo Hội phổ quát. Đặc biệt qua công nghị này, tôi muốn nêu bật rằng Giáo Hội là Giáo Hội của tất cả mọi dân tộc, vì thế Giáo Hội được biểu lộ trong các nền văn hóa khác nhau của các đại lục. Đó là Giáo Hội của Lễ Hiện Xuống, qua các tiếng nói khác nhau, cùng xướng lên bài ca hòa hợp duy nhất dâng lên Thiên Chúa hằng sống.

ĐTC chào thăm các phái đoàn chính thức của các nước, các GM, LM, tu sĩ giáo dân thuộc các cộng đoàn giáo phận và mọi người tham dự niềm vui của các tân thành viên Hồng y đoàn và ngài nói:

”Các tân Hồng y đại diện cho các giáo phận khác nhau trên thế giới, từ ngày hôm nay được liên kết với Giáo Hội Roma theo một danh nghĩa rất đặc biệt, và qua đó, củng cố các mối liên hệ tinh thần nối kết toàn thể Giáo Hội, được Chúa Kitô làm cho sống động, và được xiết chặt quanh Người Kế Vị Thánh Phêrô. Đồng thời, nghi thức hôm nay diễn tả giá trị tột đỉnh của lòng trung thành. Thực vậy, Anh em đáng kính, trong lời tuyên thệ Anh em sắp làm, có ghi những lời đầy ý nghĩa sâu xa về tinh thần và về đặc tính Giáo Hội. ”Tôi hứa và thề từ bây giờ và mãi mãi, bao lâu tôi còn sống, luôn trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, luôn vâng phục Hội Thánh Roma Tông Truyền”. Và khi nhận mũ đỏ, anh em sẽ được nhắc nhở rằng mũ này có nghĩa là ”Anh em phải sẵn sàng hành xử can đảm, đến độ đổ máu đào, để làm cho đức tin Kitô được tăng trưởng, để dân Chúa được yên hàn”. Và nghi thức trao nhẫn có kèm theo lời nhắn nhủ: ”Anh em hãy biết rằng với tình yêu mến vị Thủ lãnh các Tông Đồ, tình yêu của anh em đối với Giáo Hội được củng cố”.

Tiếp tục bài giảng, ĐTC nói với các Hồng Y rằng: ”Đó là điều mà ngày hôm nay anh em đảm nhận trong Giáo Hội, qua những cử chỉ và lời nói đi kèm ấy. Từ nay trở đi, anh em càng được liên kết chặt chẽ và thâm sâu hơn với Tòa Thánh Phêrô: các hiệu tòa nhà thờ ở Roma sẽ nhắc nhớ anh em mối liên hệ liên kết anh em, như những thành phần với danh nghĩa rất đặc biệt, với Giáo Hội Roma này, Giáo Hội chủ trì tình bác ái đại đồng. Đặc biệt qua sự cộng tác của anh em với các cơ quan trung ương Tòa Thánh, anh em sẽ là những cộng sự viên quí giá của tôi, nhất là trong sứ vụ Tông Đồ đối với toàn thể Giáo Hội Công Giáo, trong tư cách tôi là Mục Tử toàn thể đoàn chiên của Chúa Kitô và người đầu tiên đảm bảo đạo lý, kỷ luật và luân lý của Giáo Hội.” Và ĐTC kết luận rằng: ”Các bạn thân mến, chúng ta hãy chúc tụng Chúa, Đấng không ngừng làm cho Giáo Hội của Ngài rải rác khắp nơi trên thế giới được các hồng ân phong phú” (Lời nguyện) và làm cho Giáo Hội được luôn tươi trẻ. Chúng ta hãy phó thác cho Chúa công tác phục vụ mới mẻ của các anh em đáng kính này dành cho Giáo Hội, để các vị có thể can đảm làm chứng về Chúa Kitô, trong niềm tin ngày càng tăng trưởng và và trong tình yêu không ngừng hy sinh”.

Nghi thức tấn phong Hồng Y
Sau bài huấn dụ, ĐTC bắt đầu nghi thức tấn phong Hồng y mới. Ngài nói:

”Anh chị em rất thân mến, chúng tôi sắp thi hành một hành vi trọng đại và vui mừng trong thánh vụ của chúng tôi. Hành vi này có liên hệ trước tiên tới Giáo Hội tại Roma, nhưng cũng liên quan tới toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Chúng tôi sắp gọi một số người anh em gia nhập Hồng Y đoàn, để các vị được hiệp nhất với Tòa thánh Phêrô bằng một mối dây bền chặt hơn, trở nên thành phần của hàng giáo sĩ Roma, và cộng tác mật thiết hơn với sứ vụ tông đồ của chúng tôi.”

”Mang mặc phẩm phục màu đỏ, các vị Hồng Y phải là những chứng nhân can trường của Chúa Kitô và Phúc âm của ngài tại thành Roma cũng như tại những nơi xa xăm nhất. Vì vậy với quyền của Thiên Chúa toàn năng của các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và quyền của chúng tôi, chúng tôi tấn phong và long trọng tuyên bố các anh em chúng tôi sau đây là Hồng Y của Hội Thánh Roma.”

ĐTC lần lượt xướng tên 6 Hồng Y:
1. James Michael Harvey, người Mỹ, TGM hiệu tòa Menfi
2. Đức Béchara Boutros Rai, Thượng Phụ giáo chủ Công Giáo Maronite, Liban
3. Đức Baselios Cleemis Thottunkal, TGM Trưởng Trivandrum, Giáo Chủ Công Giáo Siro-Malankara, Ấn Độ
4. Đức Cha John Olorunfemi Onaiyekan, TGM giáo phận Abuja, thủ đô Nigeria
5. Đức Cha Rubén Salazar Gómez, TGM giáo phận Bogotà, thủ đô Colombia
6. Đức Cha Luis Antonio Tagle, TGM giáo phận Manila, thủ đô Philippines.

ĐTC ấn định 1 vị tân Hồng y thuộc đẳng phó tế là ĐHY James Harvey, ĐHY Béchara Rai thuộc hàng Thượng Phụ và 4 vị còn lại là Hồng y thuộc đẳng Linh Mục.

Tiếp tục nghi thức, 6 tiến chức Hồng Y đã tuyên xưng đức tin và tuyên thệ trung thành với Chúa Kitô và Tin Mừng của Chúa, luôn luôn tuân phục Tòa Thánh và Thánh Phêrô nơi bản thân ĐTC Biển Đức 16 và các đấng kế vị ngài được bầu lên hợp pháp; luôn bảo tồn bằng lời nói và hành động tình hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo; không bao giờ tiết lộ cho người nào những gì đã được ủy thác để gìn giữ, mà sự tiết lộ điều ấy có thể gây hại hoặc làm ô danh Hội Thánh; hết sức chuyên cần và trung tín thi hành các công tác được kêu gọi thi hành trong việc phục vụ Giáo Họi, theo các quy tắc luật định.

Kế đến, từng Hồng Y lần lượt tiến lên quì trước mặt ĐTC để ngài đội mũ đỏ Hồng Y, và khi trao nhẫn, ngài nói:
”Đức Hồng Y hãy nhận chiếc nhẫn từ tay của Phêrô, và Đức Hồng Y nên biết rằng do lòng yêu mến vị Thủ lãnh các thánh tông đồ mà lòng yêu mến Giáo hội được kiện cường”.

Sau cùng ĐTC trao sắc chỉ về việc phong Hồng Y cũng như việc chỉ định tước hiệu thánh đường.

Sau khi lãnh mũ và sắc phong các Tân Hồng Y trao đổi cử chỉ bình an với ĐTC các vị đến chào các Hồng Y cũ rồi lên ngồi trên 6 chiếc ghế dành cho các vị phía tay trái của ĐTC, đối diện với hàng ghế của các Hồng Y cũ.
Nghi thức tấn phong các Hồng y mới kéo dài 1 tiếng đồng hồ và kết thúc với Kinh Lạy Cha và lời nguyện của ĐTC xin cho các tôi tớ Chúa là các tân Hồng Y khi kiên trì xây dựng Giáo Hội, chiếu tỏa rạng ngời với đức tin toàn vẹn và tâm trí tinh tuyền.

Trong số 6 Hồng y mới, vị trẻ nhất là ĐHY Baselios Cleemis Thottunkal, TGM trưởng Giáo Hội Siro Malankara, 53 tuổi; vị cao niên nhất là ĐHY Béchara Boutros Rai, 72 tuổi (1940), Thượng Phụ Giáo Chủ Công Giáo Maronite, Liban.

Với việc tấn phong trên đây, Hồng y đoàn có 211 vị thuộc 66 quốc gia, gồm 117 vị người Âu, 55 vị Mỹ châu, 20 vị Á châu, 18 vị Phi châu và 1 vị Úc châu. Tổng cộng có 91 vị trên 80 tuổi và 120 dưới 80 tuổi.

G. Trần Đức Anh OP – Vietvatican
 

 

Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà giam chu toàn chức năng cải huấn

Đức Thánh Cha kêu gọi các nhà giam chu toàn chức năng cải huấn

VATICAN. ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi giới lãnh đạo các nhà tù chu toàn chức năng cải huấn tù nhân trong niềm tôn trọng phẩm giá của họ.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng 22 tháng 11-2012 dành cho 200 tham dự viên Hội nghị lần thứ 17 các vị giám đốc các trung tâm cải huấn thuộc Hội đồng Âu Châu.

ĐTC lấy làm tiếc vì tại nhiều nước, chức năng cải huấn của các nhà giam phần lớn vẫn chưa được thực hành đầy đủ. Ngài nói: ”Cần phải dấn thân một cách cụ thể, chứ không phải chỉ khẳng định trên nguyên tắc, để đạt tới sự cải huấn con người một cách hữu hiệu, theo đòi hỏi của phẩm giá con người, cũng như để giúp họ tái hội nhập vào xã hội.”

ĐTC nói thêm rằng ”Để công lý nhân trần có thể noi theo và được công lý của Chúa hướng dẫn, cần làm sao để chức năng cải huấn khi áp dụng hình phạt, không bị coi như một khía cạnh phụ thuộc trong hệ thống hình pháp, trái lại, phải coi chức năng này như cao điểm của hệ thống ấy. Nghĩa là để thi hành công lý, không phải chỉ lo áp dụng hình phạt một cách đúng đắn, nhưng cần làm tất cả những gì có thể để sửa chữa và cải tiến con người, khi trừng phạt họ. Nếu điều ấy không xảy ra, thì công lý không được thực thi đúng nghĩa. Trong mọi trường hợp, cần dấn thân để tránh cho việc giam cầm bị thất bại trong chức năng cải huấn, để rồi trở thành một hình phạt phản giáo dục, vì tình trạng này sẽ gia tăng thay vì chống lại xu hướng phạm phạm và làm cho các tù nhân ấy sau này càng nguy hiểm hơn đối với xã hội”. (SD 22-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP

Đức Thánh Cha đề cao vai trò của nghệ sĩ như chứng nhân về vẻ đẹp đức tin

Đức Thánh Cha đề cao vai trò của nghệ sĩ như chứng nhân về vẻ đẹp đức tin

ROMA. ĐTC Biển Đức 16 đề cao vai trò của nghệ sĩ trong việc làm chứng cho vẻ đẹp của đức tin.

Ngài bày tỏ lập trường trên đây trong sứ điệp gửi các tham dự viên khóa họp thường niên lần thứ 17 của các Hàn Lâm viện Tòa Thánh, nhóm họp chiều ngày 21 tháng 11-2012 tại Roma về là ”Nghệ sĩ, như Giáo Hội, chứng nhân về vẻ đẹp của đức tin”.

Sứ điệp ĐTC được ĐHY Bertone Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tuyên đọc, có khẳng định rằng ”mỗi hình thức chân chính của nghệ thuật là một con đường dẫn vào thực tại sâu xa nhất của con người và thế giới. Trong tư cách đó, nghệ thuật là một sự tiếp cận rất giá trị với chân trời đức tin, trong đó cuộc sống và các biến cố của con người tìm được một sự giải thích viên mãn.”

ĐTC cũng nhận xét rằng ”vẻ đẹp cua đức tin không bao giờ có thể là một chướng ngại cản trở sự sáng tạo mỹ thuật, vì có thể nói đức tin là nhựa sống và là chân trời tối hậu của sáng tạo nghề thuật. Nghệ sĩ chân chính – như Công đồng chung Vatican 2 đã định nghĩa, chính là người bảo quản vẻ đẹp của thế giới, nhờ sự nhạy cảm đặc biệt của họ về mỹ thuật và nhờ trực giác của mình, họ đó thể nắm bắt và lĩnh hội sâu xa hơn người khác chính vẻ đẹp của đức tin, rồi tái diễn tả nó, thông truyền nó bằng chính ngôn ngữ của mình.. Vì thế nghệ sĩ có thể là chứng nhân về vẻ đẹp của đức tin, tham gia và đóng góp một cách đặc thù cho ơn gọi và sứ mạng của Giáo Hội”.

Cuối sứ điệp, ĐTC thông báo giải thường năm nay của các Hàn lâm viện Tòa Thánh được trao tặng cho nữ điêu khắc gia Anna Gulak, 31 tuổi, người Ba Lan và cho họa sĩ David Ribes Lopez 40 tuổi, người Tây Ban Nha.
Trong khóa họp vừa nói, có phần giới thiệu Hàn lâm viện Tòa Thánh về tiếng la tinh, mới được ĐTC thành lập. ĐHY Bertone đã trao văn thư bổ nhiệm Giáo sư Ivano Dionigi, Viện trưởng Đại học Bologna, làm Chủ tịch Hàn lâm viện này, cha Roberto Spataro dòng Don Bosco làm Tổng thư ký, và 20 thành viên tiên khởi của Hàn lâm viện. (SD 21-11-2012)

G. Trần Đức Anh OP- Vietvatican

Đức tin không chống lại lý trí, nhưng cộng tác với khoa học để mưu cầu thiện ích cho con người

Đức tin không chống lại lý trí, nhưng cộng tác với khoa học để mưu cầu thiện ích cho con người

Đức tin công giáo không trái nghịch với lý trí. Trái lại nó kiếm tìm sự hiểu biết, nó được thao luyện với lý trí, nó suy tư, mời gọi suy tư và nâng đỡ khoa học để mưu cầu thiện ích của con người.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với hơn 8.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung hàng tuần sáng thứ tư 21 tháng 11-2012 trong đại thính đường Phaolô VI.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã tiếp tục khai triển đề tài giáo lý về đức tin. Ngài hy vọng Năm Đức Tin giúp mọi người tái khám phá ra niềm vui của lòng tin, và tìm lại sự hăng say thông truyền các sự thật đức tin cho tất cả mọi người. Các sự thật ấy diễn tả biến cố Thiên Chúa gặp gỡ con người, một cuộc gặp gỡ cứu độ và giải thoát thực hiện các khát vọng hòa bình, tình huynh đệ và tình yêu thương sâu thẳm nhất của con người.

Đức tin đưa con người tới chỗ khám phá ra rằng cuộc gặp gỡ của con người với Thiên Chúa trao ban giá trị, hoàn thiện và nâng cao những gì là chân thiện mỹ hiện hữu nơi con người. Trong khi Thiên Chúa tự mạc khải và để cho mình được hiểu biết, con người biết Thiên Chúa là ai, và khi hiểu biết Thiên Chúa con người khám phá ra chính mình, khám phá ra cội nguồn, vận mệnh, sự cao cả và phẩm giá cuộc sống của mình. Đức Thánh Cha giải thích thêm về đức tin như sau:

Đức Tin cho phép một sự hiểu biết đích thật lôi cuốn toàn con người: đó là một sự hiểu biết trao ban hương vị cho cuộc sống, một việc hưởng nếm mới mẻ sự hiện hữu, một kiểu sống tươi vui trong thế giới. Đức tin được diễn tả ra qua việc trao ban chính mình cho tha nhân, trong tình huynh đệ khiến cho con người liên đới với nhau, có khả năng yêu thương, chiến thắng sự cô đơn làm cho con người buồn sầu. Nhưng sự hiểu biết này về Thiên Chúa qua đức tin không phải chỉ là trí tuệ mà sống động. Đó là sự hiểu biết Thiên Chúa Tình Yêu, nhờ chính tình yêu của Người. Thế rồi tình yêu của Thiên Chúa mở mắt và cho phép hiểu biết tất cả thực tại, vượt qúa các viễn tượng trang nghiêm nhất của chủ nghĩa cá nhân và khuynh hướng chủ quan đánh lạc hướng các lương tâm. Vì thế sự hiểu biết Thiên Chúa là kinh nghiệm đức tin và đồng thời bao gồm một lộ trình trí thức và luân lý: được đánh động trong chiều sâu bởi sự hiện diện của Thần Khí Đức Giêsu nơi chúng ta, chúng ta thắng vượt các chân trời của sự ích kỷ và rộng mở cho các giá trị đích thật của cuộc sống.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích cái lý sự của niềm tin nơi Thiên Chúa. Ngay từ đầu truyền thống công giáo đã khước từ khuynh hướng duy tín, là ý muốn tin chống lại lý trí. ”Tôi tin vì nó vô lý” không phải công thức diễn tả đức tin công giáo. Thật ra Thiên Chúa không vô lý, nếu có thì là mầu nhiệm. Và mầu nhiệm thì lại không phải là vô lý, mà là sự qúa đầy tràn ý nghĩa và sự thật. Nếu khi nhìn mầu nhiệm, lý trí thấy tối đen, thì không phải vì trong mầu nhiệm không có ánh sáng, mà bởi vì nó có qúa nhiều ánh sáng. Cũng thế, khi mắt con người hướng thẳng vào mặt trời để nhìn, thì chỉ thấy bóng tối; nhưng ai nói rằng mặt trời không sáng? Đức tin cho phép nhìn ”mặt trời” của Thiên Chúa, bởi vì nó là sự tiếp nhận mạc khải của Người trong lịch sử và nhận được tất cả ánh sáng mầu nhiệm của Thiên Chúa, bằng cách nhìn nhận phép lạ vĩ đại: Thiên Chúa đã tới gần con người và tự hiến cho sự hiểu biết của nó, bằng cách hạ mình xuống mức độ lý trí thụ tạo của nó (DV 13).

Đồng thời với ơn thánh của Người Thiên Chúa soi sáng lý trí, mở nó ra cho các chân trời mới, không thể đo lường được và vô tận. Vì thế đức tin là một kích thích luôn luôn tìm kiếm, không bao giờ dừng lại và không bao giờ yên nghỉ trong sự khám phá không cạn kiệt của sự thật và thực tại. Thật là sai lầm thành kiến của vài tư tưởng gia hiện đại cho rằng các tín điều đức tin ngăn chặn lý trí con người. Nhưng sự thật lại trái ngược, như các bậc thầy của truyền thống công giáo đã chứng minh. Thánh Agostino trước khi hoán cải đã tìm kiếm chân lý với biết bao âu lo, qua mọi triết lý có sẵn, nhưng thấy tất cả đều không thể thỏa mãn. Cuộc kiếm tìm vất vả của lý trí là một sư phạm ý nghĩa đối với thánh nhân để gặp gỡ với Chân Lý của Chúa Kitô. Khi người nói ”hiểu để tin, tin để hiểu” (Discorso 43,9; PL 38,258) là như thể để kể lại kinh nghiệm cuộc sống của người. Trước Mặc khải của Thiên Chúa, trí tuệ và đức tin không xa lạ với nhau hay chống lại nhau, nhưng cả hai đều là các điều kiện giúp hiểu biết ý nghĩa và tiếp nhận sứ điệp đích thật của nó và tiến đến ngưỡng cửa của mầu nhiệm.

Cùng với biết bao nhiêu tác giả Kitô khác thánh Agustino là chứng nhân của một đức tin được tập tành với lý trí, suy tư và mời gọi suy tư. Trong cùng chiều hướng ấy thánh Anselmo sẽ nói rằng đức tin công giáo, đức tin tìm kiếm sự hiểu biết, nơi trí tuệ là hành động nội tại cho việc tin. Nhưng nhất là thánh Toma thành Aquino mới chính là người đối chiếu với lý trí của các triết gia, bằng cách cho thấy từ việc tháp nhập các nguyên lý và các sự thật đức tin kitô, phát sinh ra cho tư tưởng con người biết bao nhiêu sức sinh động mới mẻ của lý trí.

Như vậy đức tin công giáo có lý lẽ và dưỡng nuôi tin tưởng cả nơi lý trí của con người nữa. Trong Hiến chế tín lý Dei Filius Công Đồng Chung Vaticăng I đã khẳng định rằng lý trí có thể hiểu biết sự hiện hữu của Thiên Chúa một cách chắc chắn qua con đường của sự sáng tạo, trong khi khả thể hiểu biết ”một cách dễ dàng với sự chắc chắn tuyệt đối và không lầm lẫm” các sự thật liên quan tới Thiên Chúa, dưới ánh sáng của ơn thánh, (DS 3005) chỉ tùy thuộc đức tin mà thôi. Ngoài ra, sự hiểu biết của đức tin không chống lại lý trí. Trong Thông điệp ”Fides et Ratio” Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tổng hợp như sau: ”Lý trí của con người không biến thành hư không cũng không bị mất gía trị, khi đồng ý chấp nhận các nội dung đức tin; trong mọi trường hợp các nội dung đó được đạt đến với sự lựa chọn tự do và có ý thức” (s. 43). Trong ước muốn chân lý không thể cưỡng lại được chỉ có một tương quan hài hòa giữa đức tin và lý trí là con đường đúng đắn dẫn đưa tới Thiên Chúa và sự thành toàn chính mình mà thôi.

Giáo thuyết này có thể được nhận ra cách dễ dàng trong toàn Thánh Kinh Tân Ước. Khi viết thư cho tín hữu giáo đoàn Côrintô thánh Phaolô nói rằng: ”Trong khi người Do thái đòi hỏi các dấu lạ và người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi trái lại loan báo Chúa Kitô bị đóng đanh là gương mù gương xấu đối với người Do thái, và sự điên dại đối với dân ngoại” (1 Cr 1,22-23).

Thật thế, Thiên Chúa đã không cứu rỗi thế giới bằng một hành động quyền năng, nhưng qua sự nhục nhã của Con duy nhất Người: theo các thước đo của con người trần gian kiểu thực hiện bất thường của Thiên Chúa trái nghịch với các đòi hỏi của sự khôn ngoan hy lạp. Nhưng thập gía của Chúa Kitô có một lý do của nó, mà thánh Phaolô gọi là ”lời của thập giá” (1 Cr 1,18). Ở đây từ logos vừa ám chỉ lời nói vừa ám chỉ lý do, và nếu nó ám chỉ lời nói, thì bởi vì nó diễn tả bằng từ điều lý trí suy nghĩ. Như vậy, thánh Phaolô không trông thấy nơi Thập Giá một biến cố vô lý, nhưng một hành động cứu rỗi có lý lẽ riêng của nó, có thể nhận ra đưới ánh sáng đức tin. Đồng thời người tin tưởng nơi lý trí con người tới độ kinh ngạc đối với sự kiện nhiều người, cho dù trông thấy vẻ đẹp của các công trình do Thiên Chúa làm, mà vẫn cứng lòng không tin nơi Chúa. Thánh Phaolô khuyên tín hữu Roma chiêm ngưỡng các công trình tạo dựng để nhận ra quyền năng của Thiên Chúa (Rm 1,20). Còn thánh Phêrô khích lệ tín hữu thờ lậy ”Chúa Kitô trong trong tâm trí và luôn luôn sẵn sàng trả lời cho những ai hỏi lý lẽ niềm hy vọng nơi họ” (1 Pr 3,15). Đức Thánh Cha giải thích tương quan giữa khoa học và đức tin như sau:

Việc tìm tòi khoa học đưa tới sự hiểu biết sự thật luôn luôn mới mẻ về con người và vũ trụ. Thiện ích đích thật của nhân loại, có thể đạt tới trong đức tin mở rộng chân trời, trong đó con đường khám phá của nó phải di chuyển. Do đó cần khuyến khích các nghiên cứu nhằm phục vụ sự sống và tiêu diệt các bệnh tật. Các tìm tòi nhắm khám phá ra các bí mật của hành tinh chúng ta và của vũ trụ cũng quan trọng, trong ý thức rằng con người là tuyệt đỉnh của việc tạo dựng, không phải để khai thác thiên nhiên một cách vô ý thức mà để canh giữ và khiến cho nó có thể ở được.
Như vậy đức tin không xung khắc với khoa học, trái lại cộng tác với nó, bằng cách cống hiến các tiêu chuẩn nền tảng giúp thăng tiến thiện ích của tất cả mọi người, và chỉ yêu cầu khoa học khước từ các thử nghiệm trái nghịch với chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa và gây ra các hiệu qủa chống lại con người. Nếu khoa học là một đồng minh qúy báu của đức tin giúp hiểu biết chương trình của Thiên Chúa trong vũ trụ, thì đức tin cho phép tiến bộ khoa học luôn luôn hiện thực vì thiện ích và sự thật về con người, bằng cách trung thành với chính dự án ấy. Đó là lý do định đoạt để con người rộng mở cho đức tin, hiểu biết Thiên Chúa và chương trình cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô. Trong Tin Mừng khai mào một thuyết nhân bản mới, một ”văn phạm” đích thật của nhân bản và sự thật.

Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhân ngày 21 tháng 11, lễ Đức Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, là Ngày của các nữ tu dòng Kín, ngài đã bày tỏ sự gần gũi với các chị và kêu gọi mọi người hỗ trợ các chị trên bình diện vật chất cũng như tinh thần.

Sau cùng Đức Thánh Cha cất Kinh Lạy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người

Linh Tiến Khải – Vietvatican