Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Brazil vào tháng 7-2013

Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Brazil vào tháng 7-2013

VATICAN. Tổng thống Brazil, bà Dilma Rousseff, cho biết ĐGH Phanxicô đã xác nhận với bà là sẽ đến Rio de Janeiro vào hạ tuần tháng 7 năm nay và có ý định viếng thăm Đền thánh Đức Mẹ Aparecida của Brazil.

Bà Rousseff đã được ĐTC Phanxicô tiếp kiến tại Vatican hôm 20 tháng 3-2013, nhân dịp bà hướng dẫn phái đoàn chính phủ Brazil về Roma dự lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ngài.

Hôm chúa nhật 24 tháng 3, trong bài giảng thánh lễ Lễ Lá tại Vatican, ĐTC cũng hẹn với các bạn trẻ là sẽ gặp lại họ tại Rio de Janeiro và ngài kêu gọi họ hãy chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của mình cho biến cố này. Ngài nói:
”Tôi vui mừng nhìn về tháng bẩy tới, tại Rio de Janeiro! Tôi hẹn các bạn tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các bạn hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các bạn, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các bạn trẻ phải nói với thế giới: theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp!”.

Đức Cha Orani João Tempesta, dòng Xitô, TGM giáo phận Rio de Janeiro, đang có mặt tại Roma trong những ngày này.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican hôm 24 tháng 3-2013, Đức TGM cho biết ban tổ chức Ngày Quốc Tế giới trẻ tiếp tục công trình chuẩn bị đón tiếp đông đảo các bạn trẻ từ các nơi.

Trả lời câu hỏi về sự kiện vị Giáo Hoàng đến Rio vào hạ tuần tháng 7 tới đây sẽ là ĐGH Phanxicô, thay vì Đức Biển Đức 16, Đức TGM Tempesta cho biết ”các cuộc gặp gỡ của ĐGH với giới trẻ vẫn không thay đổi, và chỉ có thay đổi về các cuộc gặp gỡ của ĐGH với thành phố Rio và với các nhân vật. Vì thế, giáo phận và chính quyền thành phố đã đề nghị một chương trình mới để trình lên Đức tân Giáo Hoàng. Vào cuối tháng 4 đầu tháng 5, chúng tôi sẽ biết ý muốn của ĐTC”.

Đức TGM Tempesta nói thêm rằng: ”Rio là thành phố lớn, với một lịch sử dài, những sự tốt đẹp, dân chúng rất mộ đạo, nhưng cũng có những vấn đề của họ như nghèo đói, bạo lực, nhưng luôn được niềm vui nhìn thấy những người trẻ tăng trưởng. Tôi tin là Tượng Chúa Cứu Thế ở thành Rio de Janeiro diễn tả thật đẹp hình ảnh một thành phố muốn đón tiếp tất cở mọi người với vòng tay rộng mở”.

Theo chương trình đại cương của Ngày Quốc tế giới trẻ đã được công bố: ngày thứ năm 25-7-2013 các bạn trẻ sẽ chào đón ĐGH tại bãi biển Copacabana; hôm sau, thứ sáu 26-7, sẽ có buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể cũng tại bãi biển đó; tối thứ bẩy và sáng chúa nhật 28-7 sẽ có buổi canh thức cầu nguyện và thánh lễ bế mạc do ĐTC chủ sự tại cánh đồng rộng ở phía tây thành phố Rio có thể chứa được 3 triệu người.

Tháng tư tới đây, một phái đoàn của Tòa Thánh, sẽ đến Rio để xác định các chi tiết trong chương trình. Báo chí cho biết ban tổ chức địa phương đề nghị ĐGH viếng thăm một khu xóm nghèo, và tượng Chúa Cứu Thể trên đồi Corcovado cao 710 mét, hoặc một nhà thương CG giúp cai nghiện ma túy, v.v.

Mặt khác, hôm 24 tháng 3-2013, ĐHY Raymundo Damasceno Assis, TGM Aparecida, Chủ tịch HĐGM Brazil, cũng xác nhận ĐTC Phanxicô sẽ viếng Đền thánh Đức Mẹ Aparecida bổn mạng của Brazil, tuy nhiên người ta chưa rõ ngài sẽ đến Đền Thánh trước hoặc sau Ngày Quốc Tế giới trẻ tiến hành tại Rio từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm nay.

ĐHY Damasceno Assis cho biết ĐGH Phanxicô có một quan hệ đặc biệt với Đền thánh Đức Mẹ Aparecida là nơi đã diễn ra Đại hội kỳ năm của hàng GM Mỹ châu la tinh hồi tháng 5 tháng 2007.

Hồi đó trong tư cách là TGM Buenos Aires, ĐHY Bergoglio thuộc vào số các GM soạn dự thảo văn kiện chung kết của Đại Hội. Văn kiện đề cao sự chọn lựa ưu tiên của Giáo Hội dành cho người nghèo và sứ vụ truyền giảng Tin Mừng tại Mỹ châu la tinh. ĐHY đã theo sát các đường hướng đã được Đại hội thông qua tại Aparecida. (Tổng hợp 25-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành Lễ Lá đầu tiên: 24-3-2015

Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành Lễ Lá đầu tiên: 24-3-2015

VATICAN. 250 ngàn tín hữu đã tham dự Lễ Lá đầu tiên do ĐTC Phanxicô cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng chúa nhật 24 tháng 3-2013. Ngài kêu gọi các tín hữu vượt thắng sầu muộn và hẹn gặp các bạn trẻ tại Ngày Quốc Tế giới trẻ vào tháng 7 năm nay tại Rio de Janeiro, Brazil.

Buổi lễ bắt đầu với nghi thức làm phép lá diễn ra tại chân cây tháp bút ở giữa Quảng trường và cuộc rước lá tiếp đó: đi đầu là Thánh Giá nến cao, 400 bạn trẻ cầm các ngành ôliu, rồi đến đoàn 100 giám chức và LM, 50 Giám Mục và 30 Hồng Y. Hai Hồng Y phó tế phụ giúp ĐTC là ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, và ĐHY Mauro Piacenza, Tổng trưởng Bộ giáo sĩ, và 4 HY, Giám Mục đồng tế.

Các vị cũng như ĐTC cầm những cành lá được kết lại rất nghệ thuật, đi rước tiến lên bàn thờ trên thềm của Đền thờ, trong khi 2 ca đoàn gồm gần 300 người đảm nhận phần thánh ca.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng sau bài thương khó do 3 phó tế công bố, ĐTC đã lần lượt quảng diễn 3 ý tưởng chính: niềm vui, thập giá và người trẻ. Ngài nói:

1. Chúa Giêsu vào thành Jerusalem. Đám đông các tín hữu hân hoan tháp tùng ngài, họ trải áo choàng trước Ngài, người ta nói về những việc lạ lùng Ngài đã thực hiện, một tiếng kêu ngợi khen trổi lên: ”Chúc tụng đến đang đến, là vua, nhân danh Chúa. Hòa bình trên trời và vinh danh trên các tầng trời cao” (Lc 19,38).
Đám đông, hân hoan, ngợi khen, chúc tụng, an bình: đó là một bầu không khí vui mừng mà ta cảm nghiệm. Chúa Giêsu đã thức tỉnh trong tâm hồn bao nhiêu hy vọng nhất là nơi những người khiêm hạ, đơn sơ, nghèo khổ, bị lãng quên, những người không đáng kể gì trước mắt thế giới. Ngài đã biết cảm thông những lầm than của con người, đã tỏ khuôn mặt từ bi của Thiên Chúa, đã cúi mình chữa lành xác hồn.

Đó là Chúa Giêsu. Đó là con tim của Ngài nhìn đến tất cả chúng ta, nhìn những bệnh tật của chúng ta, tội lỗi của chúng ta. Đó là tình thương lớn lao của Chúa Giêsu. Và thế là ngài đi vào thành Jerusalem với tình thương ấy, và nhìn tất cả chúng ta. Đó là một cảnh tượng thật đẹp: đầy ánh sáng, ánh sáng tình thương của Chúa Giêsu, của trái tim Ngài, đầy vui mừng và hân hoan như ngày lễ hội.

Đầu thánh lễ, chúng ta cũng lập lại điều đó. Chúng ta đã vẫy các cành lá. Cả chúng ta cũng đón tiếp Chúa Giêsu: cả chúng ta cũng bày tỏ niềm vui được tháp tùng Ngài, biết Ngài gần kề, hiện diện trong và giữa chúng ta, như một người bạn, một người anh, và cũng như một vị vua, nghĩa là như ngọn đèn pha sáng ngời trong đời sống chúng ta. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã hạ mình đồng hành với chúng ta. Ở đây Ngài soi sáng cho chúng ta trên đường đi. Và đó là lời đầu tiên mà tôi muốn nói với anh chị em: đó là vui mừng! Anh chị em đừng bao giờ là những người nam nữ buồn sầu: một Kitô hữu không bao giờ có thể như vậy! Anh chị em đừng bao giờ để cho nản chí thất vọng chiếm đoạt! Niềm vui của chúng ta không phải là niềm vui phát sinh từ sự sở hữu bao nhiêu của cải, nhưng nảy sinh từ cuộc gặp gỡ một Nhân Vật là Chúa Giêsu, từ sự biết rằng với Ngài, không bao giờ chúng ta lẻ loi, cả trong những lúc khó khăn, cả khi đường đời chúng ta gặp phải những vấn đề và chướng ngại có vẻ không thể vượt qua nổi, và có bao nhiêu chướng ngại như thế! Và trong lúc này kẻ thù đến, ma quỉ đến, bao nhiêu lần nó đội lốt thiên thần, tinh quái nói với chúng ta những lời của nó. Anh chị em đừng nghe nó! Chúng ta hãy theo Chúa Giêsu! Chúng ta tháp tùng, theo Chúa Giêsu, nhưng nhất là chúng ta biết rằng Ngài tháp tùng chúng ta và vác chúng ta lên vai: đây chính là niềm vui của chúng ta, niềm hy vọng mà chúng ta phải mang vào thế giới này. Và xin anh chị em đừng để lấy mất niềm hy vọng! Đừng để niềm hy vọng bị đánh cắp! Niềm hy vọng mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta.

2. Lời thứ hai. Tại sao Chúa Giêsu vào thành Jerusalem, hay đúng hơn: Chúa Giêsu vào thành Jerusalem như thế nào? Đám đông dân chúng hoan hô Ngài như vị Vua. Và Ngài không chống lại, không bảo họ im đi (Xc Lc 19,39-40). Nhưng Chúa Giêsu là loại Vua nào? Chúng ta hãy nhìn Ngài: Ngài cưỡi một con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo, không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực. Những kẻ đón tiếp Ngài là những người dân khiêm hạ, đơn sơ, những người có cảm thức nhìn thấy nơi Chúa Giêsu một cái gì hơn nữa, họ có cảm thức đức tin, thấy rằng: Vị này là Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế, cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Ngài vào thành để chịu đánh đòn, lăng mạ và xúc phạm, như Isaia đã báo trước trong Bài đọc thứ I (Xc Is 50,6); Ngài vào để chịu mão gai, một cái gậy, một áo choàng đỏ, vương quyền của Ngài là đối tượng cho sự nhạo cười; Ngài vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá. Và đây lời thứ hai: Thập Giá.

Chúa Giêsu vào thành Jerusalem để chịu chết trên Thập Giá. Và chính tại đó, bản chất vua của Ngài theo Thiên Chúa chiếu tỏa rạng ngời: Ngai vàng của Ngài là cây gỗ Thập Giá! Tôi nghĩ đến điều ĐGH Biển Đức 16 đã nói với các Hồng Y: Anh em là những hoàng thân, nhưng là hoàng thân của một vị Vua chịu đóng đanh. Thập giá là ngai vàng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu mang lấy Thập Giá trên mình. Nhưng tại sao lại Thập Giá? Tại sao? Chúa Giêsu vác lấy trên mình sự ác, sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế, cả tội chúng ta nữa, và Ngài tẩy rửa, thanh tẩy bằng máu của Ngài, với lòng từ bi, tình thương của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn xung quanh: bao nhiêu vết thương mà sự ác gây ra cho nhân loại! Chiến tranh, bạo lực, xung đột kinh tế gây thiệt hại cho kẻ yếu thế nhất, sự khao khát tiền bạc, mà rồi không ai có thể mang theo với mình, phải để lại nó. Bà nội tôi thường nói với chúng tôi khi còn bé: khăn liệm xác không có túi. Lòng yêu mến tiền bạc, quyền hành, tham nhũng, chia rẽ, những tội ác chống lại sự sống con người và chống lại công trình sáng tạo! Và các tội lỗi cá nhân chúng ta: những thiếu sót trong việc yêu mến và kính trọng Thiên Chúa, đối với tha nhân, và với toàn thể công trình tạo dựng. Chúa Giêsu trên thập giá cảm thấy tất cả gánh nặng của sự ác và với sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Ngài chiến thắng chúng, đánh bại chúng trong cuộc phục sinh của Ngài. Thập giá Chúa Kitô được đón nhận với tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui được cứu độ, và làm một túi nhỏ, túi mà ngài đã làm trong ngày Ngài chịu chết.

3. Hôm nay tại Quảng trường này có bao nhiêu là người trẻ: từ 28 năm nay, Chúa Nhật Lễ Lá là Ngày Quốc tế giới trẻ! Và đây là lời thứ ba: Người trẻ! Các bạn trẻ thân mến, tôi đã nhìn thấy các bạn trong cuộc rước, khi các bạn đi vào; tôi tưởng tượng ra các bạn đang vui mừng quanh Chúa Giêsu, vẫy những cành ôliu: tôi mường tượng các bạn hô tên Chúa và biểu lộ niềm vui được ở với Chúa! Các bạn có một phần quan trọng trong đại lễ đức tin! Các bạn mang cho chúng tôi niềm vui đức tin và nói với chúng tôi rằng chúng ta phải sống đức tin với một tâm hồn tươi trẻ, luôn luôn, cả khi chúng ta 70, 80 tuổi! Trái tim trẻ trung! Với Chúa Kitô, trái tim không bao giờ già nua! Nhưng tất cả chúng ta biết điều đó và các bạn biết rõ rằng Vị Vua mà chúng ta đi theo và tháp tùng chúng ta là Vị rất đặc biệt: Ngài là vị Vua yêu thương đến độ chấp nhận Thập Giá và Ngài dạy chúng ta phục vụ, yêu thương. Và các bạn không xấu hổ vì Thập Giá của Chúa! Trái lại, các bạn hãy ôm lấy Thập Giá, vì các bạn hiểu rằng chính trong sự hiến thân, chính trong sự ra khỏi chính mình, mà ta được niềm vui đích thực và chính nhờ tình thương mà Thiên Chúa chiến thắng sự ác. Các bạn mang Thập Giá lữ hành qua mọi đại lục, qua những nẻo đường của Thế Giới! Hãy mang Thập Giá đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: ”Các con hãy đi và làm cho mọi dân nước thành môn đệ” (Xc Mt 28,19), như chủ đề của Ngày Quốc Tế giới trẻ năm nay. Các bạn hãy mang Thập giá để nói với tất cả mọi người rằng trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã phá đổ bức tường thù hận, phân cách con người và các dân tộc, và đã mang sự hòa giải và an bình. Các bạn thân mến cả tôi cũng lên đường với các bạn, từ hôm nay, theo vết chân phước Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16. Nay chúng ta gần giai đoạn cuối cùng của cuộc đại lữ hành của Thập Giá. Tôi vui mừng nhìn về tháng bẩy tới, tại Rio de Janeiro! Tôi hẹn các bạn tại thành phố lớn ấy ở Brazil! Các bạn hãy chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là chuẩn bị tinh thần trong các cộng đoàn của các bạn, để cuộc gặp gỡ ấy là một dấu chỉ đức tin cho toàn thế giới. Các bạn trẻ phải nói với thế giới: theo Chúa Giêsu thật là điều tốt đẹp; thật là tốt lành khi đồng hành với Chúa Giêsu; sứ điệp của Chúa Giêsu thật là tốt đẹp; thật là tốt khi ra khỏi chính mình, đi tới các khu ngoại ô của thế giới và của cuộc sống để mang Chúa Giêsu! Có ba lời là: vui mừng, thập giá, và giới trẻ.

Và ĐTC kết luận rằng: Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ dạy chúng ta niềm vui được gặp gỡ với Chúa Kitô, tình yêu mà chúng ta phải nhìn Chúa dưới chân Thập Giá, niềm hăng say của tâm hồn trẻ trung mà chúng ta phải theo Chúa trong Tuần Thánh này và trong suốt cuộc đời chúng ta. Amen

Cuối thánh lễ, ĐTC đã chủ sự kinh Truyền Tin. Trong lời huấn dụ ngắn, ngài mời gọi các tín hữu hãy khẩn cầu sự chuyển cầu của Mẹ Maria, xin Mẹ tháp tùng chúng ta trong Tuần Thánh. Xin Mẹ là Đấng đã theo Chúa Con trong niềm tin suốt con đường dẫn tới Canvê, giúp chúng ta bước theo Chúa, vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương, để đạt được niềm vui của lễ Phục Sinh. Xin Đức Mẹ sầu bi đặc biệt nâng đỡ những người đang ở trong tình cảnh khó khăn. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người đang bị bệnh lao phổi. Hôm nay là Ngày Thế Giới chống bệnh này. Và hỡi các bạn trẻ quí mến, tôi đặc biệt phó thác cho Mẹ Maria các bạn và hành trình của các bạn tiến về thành Rio de Janeiro.

ĐTC đã nói bằng nhiều thứ tiếng để cầu chúc các bạn trẻ lên đường bằng an.
Cuối kinh Truyền Tin, ĐTC đã ban phép lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.

G. Trần Đức Anh OP- Vatican Radio

NHỮNG KẺ HAI LÒNG

 NHỮNG KẺ HAI LÒNG

Chúa nhật Lễ Lá Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giê-su Ki-tô vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất Mầu nhiệm Vượt Qua. Ngày lễ hôm nay gồm 2 phần chính: Phần đầu là cuộc rước kiệu lá kính nhớ Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a và đã được “Một đám người rất đông lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.” (Mt 21, 1-10). Phần thứ hai là Thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa, và vì thế nên Chúa nhật hôm nay còn được gọi là Chúa nhật Chịu Nạn.

Trong một Chúa nhật tưởng niệm hai mặt trái ngược nhau của cuộc đời. Một cách cụ thể, CN Lễ Lá phản ánh trung thực tâm trạng dân chúng Do thái và nói chung  là của con người trần thế: Vừa mới hoan hô, chúc tụng Chúa Ki-tô rất nồng nhiệt, bằng những lời lẽ tưởng chừng như chân thành nhất (“Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” – Mt 21, 9); vậy mà chỉ mấy ngày sau, cũng chính những người hoan hô ấy lại hò reo: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Thậm chí khi Tổng trấn Phi-la-tô thấy không cứu vãn được tình thế, đã lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!", thì đám đông còn gào thét như thách thức: "Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!" (Mt 27, 24-25). Thế đấy!

Đám đông dân chúng thì như vậy, nhưng còn những môn đệ ở liền bên với Đức Ki-tô thì sao? Các ngài đi theo Đức Ki-tô vì tin tưởng Người chính là vị cứu tinh cho cuộc đời của mình và các ngài luôn sẵn sàng tuyên xưng niềm tin ấy. Cụ thể như Phê-rô khi nghe Đức Ki-tô hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?", thì tuyên xưng liền: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16, 16) và khi nghe Thầy tiên báo sẽ chối Thầy, thì ngay lập tức khẳng định chắc nịch: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Thực ra, cũng không chỉ có một mình Phê-rô đâu, mà "Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy" (Mt 26, 35). Như vậy thì chẳng phải là ca tụng, tung hô đó sao? Nhưng đến khi Thầy gặp nạn thì "Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết" (Mt 26, 56), còn Phê-rô thì lẽo đẽo theo sau và chỉ cần một tớ gái nhà Cai-pha vặn hỏi đã vội vàng "Tôi thề là không biết người ấy" (Mt 26, 74) tới 3 lần. Ấy là chưa kể Giu-đa It-ca-ri-ốt đã bán Thầy cho quân dữ để lấy 30 đồng bạc. Bán Thầy, bỏ trốn hết, chối Thầy như vậy thì có khác gì đả đảo?

Thánh Phê-rô tuy có chối Thầy 3 lần trong một đêm, nhưng khi “sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: "Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần." Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.” (Mt 26, 75). Còn Giu-đa It-ca-ri-ôt thì sao? Cùng ở trong nhóm 12 với các môn đệ được coi là thân tín nhất của Đức Giê-su, thì hẳn nhiên Giu-đa cũng tin tưởng và tung hô Thầy như các môn đệ khác (“Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: "Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” – Lc 19, 37-38). Ngay cả khi Đức Giê-su tiên báo có môn đệ sẽ nộp Người cho quân dữ, các môn đệ xôn xao thắc mắc không biết đó là ai, thì Giu-đa cũng vẫn thản nhiên hỏi: "Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?" Cho đến lúc "Đức Giê-su trả lời: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy." Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. Y vừa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y." (Ga 13, 26-27), và thế là Giu-đa trở thành công cụ của Xa-tan bán Thầy lấy 30 đồng bạc! Cuối cùng lại phạm thêm một tội tày trời: Huỷ diệt công trình tạo dựng của Thiên Chúa (thắt cổ tự tử).

Thánh Phê-rô và Giu-đa chỉ là 2 nhân vật nổi cộm nêu bật hai chiều kích mâu thuẫn, đối nghịch nhau trong cùng một con người. Đến như đám đông người Do thái khi đón tiếp Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem (kể cả những người đồng hương với Chúa khi đón tiếp Người về thăm Na-da-ret) còn tệ hại hơn nhiều. Ngày xưa thì như thế, còn ngày nay hẳn là còn hơn thế nữa là cái chắc. Ở Việt Nam tuy có gần 130.000 người chấp nhận cái chết chớ không chịu đả đảo Ki-tô (bước qua, đạp lên thánh giá, bỏ đạo), nhưng con số người sẵn sàng đạp lên thánh giá (chớ đừng nói chỉ bước qua), sẵn sàng gỡ bỏ bàn thờ để chưng hình lãnh tụ (đả đảo Giê-su, hoan hô lãnh tụ), sẵn sàng ghi vào sơ yếu lý lịch là "không tôn giáo"… thì không hiểu còn đông gấp bao nhiêu lần?

Thời gian trước 1975, ở Việt Nam đã có biệt danh "kẻ  hai lòng" tặng những kẻ "ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản". Ngu mỗ vẫn chưa quên sau 1975, những nhà "cách-mạng-30" – cách mạng giờ thứ 25 – đã khai vào lý lịch: "ngoài miệng thì hoan hô quốc gia, nhưng trong lòng thì cộng-sản-thấy-mồ!" Với những kẻ thay lòng đổi dạ nhanh như chớp ấy, ngu mỗ đã làm một bài thơ vịnh, xin được viết lại để anh em bè bạn gần xa nhàn lãm:

VỊNH NHỮNG KẺ HAI LÒNG
Những kẻ hai lòng cứ vểnh râu
Thay đen đổi trắng thật là mau
Khi thì trắng xoá như vôi vữa
Lúc lại đen thui tựa mực tàu
Lẻo mép hoan hô chưa dứt tiếng
Quai mồm đả đảo tiếp liền sau
Than ôi! "Tứ hải giai huynh đệ"
Chữ nghĩa thánh hiền cất ở  đâu?!


“Tình đời đổi trắng thay đen” như thay áo ấy chẳng khác gì cảnh “lật mặt như trở bàn tay”. Ôi chao! "Còn bạc còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi." (xc "Thế thái nhân tình" – Nguyễn Bỉnh Khiêm); "Suy ra cho kỹ, chi hơn nữa. Bạc quá vôi, mà mỏng quá mây" (xc Nguyễn Công Trứ  trong cùng tiêu đề thơ vịnh "Thế thái nhân tình"). Thế thì đám người vừa mới “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, thì ngay lập tức “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4, 28-30); hôm trước "Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.", hôm sau đã "Đóng đinh nó vào thập giá! … Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!", nào có khác chi những "kẻ hai lòng". Thật đúng là "Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao!" ("Kiều" – Nguyễn Du).

Đã có phản biện: Ngày xưa vì Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người – là một nhân vật bằng xương bằng thịt như bao người khác – nên mới có vụ hoan hô, đả đảo. Còn ngày nay thì đâu có một ông Giê-su Na-da-ret để mà hoan hô, đả đảo, đóng đinh vào thập giá. Vì thế, xin nhấn mạnh ở đây vấn đề đả đảo, đóng đinh Chúa, không nhất thiết là cứ phải thật sự trực tiếp bắt trói Chúa, cầm búa đóng đinh vào tay chân Chúa đâu. Ngày nay cũng chẳng có cái vụ bắt bước qua hoặc đạp lên thánh giá, mà hình thức bách đạo còn tinh vi khủng khiếp hơn nhiều. Ngay đến cả những người bề ngoài thì rất siêng năng đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, nhưng chỉ cần một người nghèo khó (một hành khất chẳng hạn) đến "quấy rầy" thì ngay lập tức "Không có gì hết! Cút đi chỗ khác!" Than ôi! "Ngày xưa Ta khát…, Ta đói…, Ta trần truồng… " thì ngươi đã đối xử như vậy đó! Vậy thì ai hoan hô, ai đả đảo? Hoan hô và đả đảo ai vậy? Cứ thử gẫm suy cho thấu đáo mà xem, có đúng là chúng ta gây chia rẽ bất hoà với anh em nhiều hơn là xây dựng, đoàn kết nhau không? Có phải là chúng ta đố kỵ ghen ghét nhiều hơn là yêu thương đùm bọc nhau không? Những cái mà chúng ta cư xử với anh em như vậy chẳng phải là chúng ta đã làm cho Chúa đấy sao? Đấy, vấn đề là ở chỗ đó.

Đối với con người thì chuyện thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen chỉ là "chuyện thường ngày ở huyện". Vấn đề đặt ra là khi được ơn soi sáng thì có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi. Nếu chỉ là hối hận thì Giu-đa It-ca-ri-ốt và đám đông người Do-thái đã biểu hiện ("Bấy giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận… ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ." – Mt 27, 3-5; "Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Người này đích thực là người công chính!" Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về." – Lc 23, 47-48).

Đến như thánh Phê-rô mới là thực lòng ăn năn hối cải (Từ nguyên – Hối: cảm thấy tiếc và băn khoăn, day dứt vì đã trót làm điều lầm lỗi; Cải: đổi khác đi). Vì thế, nên cần phải biết ăn năn hối cải, mà muốn được như vậy thì cần phải cầu nguyện xin Thần Khí soi sáng, hướng dẫn và thêm sức mạnh cho. Hoá cho nên “sám hối" không thôi thì chưa đủ, mà còn cần “canh tân" nữa, và đó cũng chính là chủ đích của mùa Chay Thánh. Vâng, “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo" (Rm 12, 20), “anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em" (Ep 4, 23).

Xin hãy noi gương tảng đá góc tường Phê-rô khi nhìn lại mình đã thực sự ăn năn hối cải để rồi cùng với các Tông đồ tiên khởi hiệp ý cùng Mẹ Maria khẩn thiết cầu nguyện (“Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su. ” – Cv 1, 13-14).

Người Ki-tô hữu hãy cầu nguyện xin ơn soi sáng để nhìn thấy nơi người anh em mình hình ảnh Đức Giê-su Thiên Chúa, từ đó sống với nhau trong một sự hiệp thông liên kết như chi thể của cùng một thân mình. Nói cách khác, hãy coi “tha nhân thuộc về tôi, cuộc sống, phần rỗi của họ liên hệ tới cuộc sống và phần rỗi của tôi” (Sđ Mùa Chay 2012, số 2). Và chỉ có kết hiệp với nhau nên một trong Chúa Ki-tô, đồng tâm nhất trí cầu nguyện mới thực sự được Chúa ban Thần Khí như xưa Người đã ban trong ngày Lễ Ngũ Tuần.

Tóm lại, “Trong Mùa Chay này, chúng ta chuẩn bị cử hành biến cố Thập Giá và Phục Sinh, trong đó tình yêu của Thiên Chúa đã cứu chuộc thế gian và chiếu ánh sáng của mình trên lịch sử, tôi cầu chúc tất cả anh chị em sống thời gian quý báu này bằng cách làm tái sinh đức tin của anh chị em trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô, để cùng Người bước vào cuộc hành trình tình yêu đối với Chúa Cha và tất cả anh chị em mà chúng ta gặp trong cuộc đời mình.” (Sđ Mùa Chay 2013, phần kết luận). Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khi soi sáng cho con để con nhìn thấy tỏ tường Chúa nơi người anh em của con, đồng thời giúp con đủ dũng khí đổi mới con người của mình từ một "kẻ 2 lòng" trở nên người "một lòng một dạ" yêu thương và trung thành với Chúa, thương yêu anh em như chính bản thân mình, cho đến trọn đời.

Ôi! "Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen" (Lời nguỵên nhập lễ Lễ Lá).

JM. Lam Thy ĐVD.

Chúc tụng

Chúc tụng

Trong nghi thức của Chúa nhật lễ Lá hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe lại bài Tin Mừng theo thánh Luca tường thuật lại việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Messia. Hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên mình lừa khiến người ta nhớ lại lời sấm ngôn nói về Đấng Messia được ghi lại trong sách Giacaria: “Nào thiếu nữ Sion hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy vui sướng reo hò, vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Người là Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa vẫn còn theo mẹ”.

Hình ảnh dân chúng hò reo tung hô Chúa Giêsu cũng được nhắc đến trong sách Các Vua quyển I. Qua việc công khai vào thành cách long trọng như thế, Chúa Giêsu khẳng định Người là Đấng Messia và là vua của dân Israel. Tuy nhiên, Người không xây dựng vương quốc mà họ muốn đánh nam dẹp bắc, hoặc bằng cách phát triển các sức mạnh kinh tế mà bằng cách tuân hành theo thánh ý Thiên Chúa Cha, một vai trò tôi tớ trung thành đã được ngôn sứ Isaia miêu tả trong bốn bài ca của ông.

Cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem chỉ là bước khởi đầu cho cuộc thương khó mà Chúa Giêsu phải trải qua để chiến thắng sự dữ và sự chết, mở ra cho loài người lối đi đến cõi phúc bất diệt bên Thiên Chúa Cha.

Phụng vụ thánh lễ nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong Chúa nhật hôm nay được ngôn sứ Isaia viết về người tôi tớ đau khổ trung thành của Thiên Chúa phải chịu: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc xỉ nhục”.

Kế đó là bài trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Philipphê nói về sự từ bỏ và cái chết tủi nhục mà Chúa Giêsu sẽ đón nhận để mang lại ơn cứu độ cho con người. Chúa Giêsu Kitô không nghĩ mình là Thiên Chúa, không nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với Chúa Cha, Ngài đã trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống như phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại luôn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự.

Cao điểm của phần Phụng vụ Lời Chúa là bài thương khó Chúa Giêsu được thuật lại trong Tin Mừng theo thánh Luca. Bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta tham dự vào những giờ phút linh thiêng cuối cùng trong sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu. Chúng ta không nghe đọc bài thương khó như nghe một câu chuyện bi hùng đã xảy ra trong lịch sử, nhưng chúng ta nghe và đồng thời cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó của Ngài. Chúng ta có mặt bên cạnh Chúa Giêsu ở mọi diễn tiến đau thương đang xảy ra. Lịch sử cứu độ đã xảy dài đến chúng ta và chúng ta đón nhận Tin Mừng ấy ngay tại đây và ngay lúc này. Chúng ta không là người chứng kiến lịch sử cứu độ, nhưng chúng ta là người sống và lãnh nhận hiệu quả của ơn cứu độ.

Con đường cứu thế mà Chúa Giêsu đi qua là một con đường dài, khởi đi từ biến cố Nhập thể, ấp ủ và hình thành trong 30 năm sống ẩn dật được thực hiện từng bước trong ba năm rao giảng để tiến đến cao điểm của cuộc khổ nạn và hoàn tất bằng cái chết tủi nhục và việc sống lại hiển vinh. Đó là một con đường hẹp và đầy gian nan, con đường này không giành cho những ai lười biếng hoặc nhát đảm, nhưng giành cho những ai kiên tâm và dám dấn thân.

Hằng năm, Giáo Hội tạo cơ hội cho ta sống 40 ngày Mùa Chay để giúp chúng ta vượt qua những ươn lười và hèn yếu của mình, nhờ chuyên tâm cầu nguyện chúng ta có dịp rà xét lại con người của mình, nhận ra những lỗi phạm và thiếu sót của mình để sửa đổi và bổ khuyết. Chúng ta cũng có dịp xem lại những tương quan của mình với Thiên Chúa, với anh em và với chính bản thân chúng ta. Chúng ta thấy được mình đã xây dựng những mối tương quan đó như thế nào, chặt chẽ hay lỏng lẻo, chân tình hay giả dối.

Nhờ thực hành các việc hy sinh hãm mình chúng ta tập tự chủ, tập chế ngự các thói quen nuông chiều bản thân, tập chế ngự các thói hư tật xấu của mình. Qua đó chúng ta cũng có dịp thông cảm với những yếu đuối của người khác, tập bao dung tha thứ cho những lỗi lầm mà người khác xúc phạm đến chúng ta. Tập nâng đỡ người khác vượt qua được những thói hư tật xấu của họ. Nhờ rộng tay giúp đỡ những người nghèo khổ vật chất và tinh thần, chúng ta nhận ra rằng mình cũng là người nghèo khổ cần được Thiên Chúa và anh chị em ra tay giúp đỡ. Chúng ta cũng cần phải nhận ra gía trị đích thực của những người khác, dù họ là những con người cần sự trợ giúp của chúng ta. Chúng ta học được giá trị của sự chia sẻ qua lại, chúng ta cung cấp cho người khác những cái chúng ta có và nhận lại từ họ những cái chúng ta còn thiếu.

Bốn mươi ngày tập luyện đã qua đi nhưng chặng đường trước mắt chúng ta vẫn còn dài. Hết 40 ngày Mùa Chay không có nghĩa là chúng ta được quyền nghỉ ngơi để bù lại những ngày gian khổ hy sinh. Cuộc chiến đấu để vượt thắng bản thân và sự dữ vẫn kéo dài đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta.

Tuần Thánh mà chúng ta sắp bước vào nói lên những quyết liệt của cuộc chiến này. Chúng ta hãy bước vào Tuần Thánh với những gì chúng ta đã tập tành được trong 40 ngày Mùa Chay. Hãy theo Chúa Giêsu để Người tiếp tục dạy ta cách sống thế nào cho phù hợp thánh ý Chúa Cha. Hãy theo Chúa Giêsu để Người dạy ta cách từ bỏ bản thân, chết đi trong tinh thần vâng phục và sống lại nhờ tín thác hoàn toàn vào niềm tin của Chúa Kitô Phục sinh mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin qua kinh Tin Kính.

Rước Lá: Lc 19,28-40

Rước Lá: Lc 19,28-40

Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người.

Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tong trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”

Thưa anh chị em,

Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba mà thôi.

Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.

Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.

Anh chị em thân mến,

Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta.

Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.

Bài Thương Khó: Lc 22,14-23,56.

ĐÁM ĐÔNG DƯỚI CHÂN THẬP GIÁ

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “ba thập giá”.

Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.

Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).

Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá…

Thưa anh chị em,

Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000 năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.

Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…

Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn…

Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

ĐỨC PHANXICÔ GẶP ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI KÉO DÀI 45 PHÚT

ĐỨC PHANXICÔ GẶP ĐỨC BÊNÊĐÍCTÔ XVI KÉO DÀI 45 PHÚT

Hôm thứ Bảy 23 tháng 03-2013, ở Castel Gandolfo, hai vị Giáo Hoàng, đã gặp gỡ nhau. Trong một bầu khí huynh đệ và đơn sơ, các ngài đã trao đổi suốt 45 phút.

Sáng thứ Bảy, các vị hữu trách về lễ tân của Vatican đã thừa nhận sự bối rối của mình: làm sao dàn xếp cuộc gặp gỡ hoàn toàn mới mẻ giưa hai vị Giáo Hoàng này? Chắc chắn các ngài đã nói chuyện với nhau qua điện thoại, và chính Đức Tân Giáo Hoàng Phanxicô đã đích thân báo tin cho Đức Bênêđíctô XVI về việc mình được chọn vào tối 13 tháng 03, rồi ngày 19 tháng 03, chính Đức Phanxicô đã chúc mừng lễ bổn mạng của Đức Bênêđíctô XVI.

Pope Francis and Benedict-XVI

Cuối cùng, vấn đề về lễ tân đã không được đặt ra. Khi máy bay trực thăng của Đức Phanxicô đáp xuống Castel Gandolfo lúc 12g15, thì Cha Lombarrdi đã mô tả, từ 13g40, sự rất mực đơn sơ của cuộc gặp gỡ mới mẻ này.

Pope Francis and Benedict-XVI cùng cầu nguyện

Không có sự xuất hiện công chúng nào của hai vị Giáo Hoàng đã xảy ra, ngoại trừ ba lần : đón tiếp ở  bãi đáp máy bay trực thăng, cầu nguyện chung và bắt đầu cuộc gặp gỡ riêng. Những hình ảnh mới lạ chưa bao giờ thấy: hai vị Giáo Hoàng cầu nguyện và làm việc chung.

Pope Francis and Benedict 16 bàn chuyện

 

Đức Bênêđíctô XVI mặc áo trắng, không có tấm choàng vai và không có đai thắt lưng. Hai vị dùng bữa với nhau trước sự hiện diện của hai vị thư ký (Đức Cha Gänswein và Đức Cha Xuereb). Sau bữa ăn, Đức Bênêđíctô đã đưa Đức Phanxicô ra sân bay. Một cử chỉ trân trọng của Đức Phanxicô dành cho Đức Bênêđíctô là thay vì đến ghế quỳ dành riêng cho Giáo Hoàng, ngài đã cùng quỳ với Đức Bênêđíctô trên cùng một ghế băng để cầu nguyện.

Tý Linh – Xuân Bích VN

Tình yêu đáp lại hận thù

Tình yêu đáp lại hận thù

Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và  của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập tức quay lại la ó  kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
 
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến tột  đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn bình an thanh thản, thái  độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
 
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về cùng Cha.
 
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không kháng cự. Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự, tế  nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
 
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
 
Trên đường lên Núi Sọ, dù  vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
 
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
 
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ  cho những sĩ quan, những binh lính đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
 
Tình yêu thương của Người là  làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
 
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
 
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
  2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào qua cuộc thương khó của Chúa?
  3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?

  ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh

VATICAN. Sáng ngày 22 tháng 3-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh đến chúc mừng ngài. Ngài mời gọi các dân nước tham gia cuộc chiến đấu chống nghèo đói vật chất cũng như tinh thần; xây dựng hòa bình và bắc những nhịp cầu giữa con người và các dân tộc.

Hiện diện tại buổi tiếp kiến có các đại diện của 179 quốc gia và tổ chức quốc tế có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh. Tân niên trưởng ngoại giao đoàn là Đại sứ Jean Claude Michel của tiểu vương quốc Monaco, đã đại diện mọi người chúc mừng ĐTC. Lên tiếng trong dịp này, ngài nói:

Quí vị Đại Sứ, quí bà và quí ông!

Tôi chân thành cám ơn vị niên trưởng của quí vị, Đại Sứ Jean Claude Michel vì những lời tốt đẹp ông đã bày tỏ với tôi nhân danh tất cả mọi người và tôi vui mừng đón tiếp quí vị trong buổi trao đổi lời chào này, đơn sơ nhưng đồng thời cũng nồng nhiệt, muốn là một vòng tay tinh thần của Giáo Hoàng đón nhận toàn thế giới. Thực vậy, qua quí vị, tôi được gặp các dân tộc của quí vị, và như thế, có thể nói, tôi đi đến với mỗi người đồng hương của quí vị, với những vui mừng, thảm trạng, những mong đợi và ước muốn của họ”.

”Sự hiện diện đông đảo của quí vị cũng là một dấu chỉ cho thấy quan hệ của đất nước quí vị với Tòa Thánh thật là phong phú, và thực là một cơ hội phúc lợi cho nhân loại. Thực vậy, điều mà Tòa Thánh vẫn đặc biệt quan tâm đó là thiện ích của mỗi người trên trái đất này! Và chính với ý thức đó mà Giám Mục Roma bắt đầu sứ vụ của mình, biết rõ ràng mình có thể cậy dựa vào tình bạn và lòng quí mến của các quốc gia mà quí vị đại diện, và với xác tín rằng quí vị cũng chia sẻ chủ ý đó. Đồng thời tôi hy vọng đây cũng là cơ hội để bắt đầu một hành trình với những nước chưa có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, một vài nước đã hiện diện tại thánh lễ khai mạc sứ vụ của tôi hoặc đã gửi sứ điệp như một cử chỉ gần gũi. Tôi chân thành cám ơn các nước ấy”.

”Như quí vị biết, có những lý do khác nhau khiến tôi chọn tên của tôi khi nghĩ đến thánh Phanxicô Assisi, một nhân vật được biết đến nhiều, vượt ra ngoài ranh giới của Italia và Âu Châu và cả nơi những người không tuyên xưng đức tin Công Giáo. Một trong những lý do đầu tiên là lòng yêu mến của thánh Phanxicô đối với người nghèo. Vẫn còn bao nhiêu người nghèo trên thế giới này! Và bao nhiêu đau khổ mà những người ấy gặp phải! Theo gương thánh Phanxicô Assisi, Giáo Hội vẫn luôn tìm cách chăm sóc, gìn giữ những người đang khổ vì nghèo túng ở mọi góc trên trái đất, và tôi nghĩ rằng tại nhiều quốc gia của quí vị, quí vị có thể nhận thấy hoạt động quảng đại của các tín hữu Kitô đang xả thân để giúp đỡ các bệnh nhân, cô nhi, những người vô gia cư và tất cả những người bị gạt ra ngoài lề, và qua đó họ đang làm việc để xây dựng một xã hội nhân bản và công bằng hơn”.

”Nhưng cũng có một thứ nghèo đói khác! Đó là sự nghèo đói tinh thần của thời đại ngày nay, liên quan trầm trọng tới cả những nước được coi là giầu có. Đó là điều mà vị Tiền Nhiệm của tôi, Đức Biển Đức 16 quí mến và đáng kính, vẫn gọi là ”chế độ độc tài của chủ thuyết duy tương đối”, khiến cho mỗi người trở thành tiêu chuẩn của chính mình và gây nguy hiểm cho sự sống chung giữa con người với nhau. Và thế là tôi tiến đến lý do thứ hai của việc chọn tên tôi. Thánh Phanxicô Assisi nói với chúng ta: ”Các bạn hãy làm việc để xây dựng hòa bình! Nhưng không có hòa bình đích thực nếu không có chân lý! Không thể có hòa bình thực sự nếu mỗi người là tiêu chuẩn cho chính mình, nếu mỗi người có thể luôn luôn chỉ đòi hỏi quyền của mình, mà không đồng thời quan tâm đến thiện ích của người khác, của tất cả mọi người, bắt đầu từ bản tính mà mỗi người trên trái đất này đều có chung.

Một trong những tước hiệu của Giám Mục Roma là Pontefice, nghĩa là người bắc cầu, với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Tôi mong ước rằng cuộc đối thoại giữa chúng ta giúp bắc những nhịp cầu giữa mọi người, nhờ đó mỗi người có thể tìm thấy nơi tha nhân không phải một kẻ thù, không phải như người cạnh tranh, nhưng như một người anh em cần được đón tiếp và ôm chào! Và rồi chính lai lịch của tôi cũng thúc đẩy tôi làm việc để bắc cầu. Thực vậy, như quí vị đã biết, gia đình tôi gốc Italia, và như thế trong tôi luôn có một cuộc đối thoại sinh động ấy giữa các nơi chốn và các nền văn hóa ở xa nhau, giữa một nơi xa xăm trên thế giới với nơi khác, nhưng ngày càng gần gũi nhau, lệ thuộc nhau, cần được gặp nhau và kiến tạo những không gian thực sự cho tình huynh đệ chân chính.

Trong hoạt động này, vai trò của tôn giáo cũng có đặc tính cơ bản. Thực vậy ta không thể kiến tạo những nhịp cầu giữa con người mới nhau mà lại quên lãng Thiên Chúa. Nhưng điều trái ngược lại cũng có giá trị: ta không thể sống những liên hệ đích thực với Thiên Chúa mà lại cố tình không biết đến tha nhân. Vì thế, điều quan trọng là tăng cường đối thoại giữa các tôn giáo khác nhau, tôi nghĩ đến trước tiên là Hồi giáo và tôi rất đánh giá cao sự hiện diện của bao nhiêu vị lãnh đạo dân sự và tôn giáo trong thế giới Hồi giáo tại thánh lễ khai mạc sứ vụ của tôi. Và một điều cũng quan trọng đó là tăng cường cuộc trao đổi với những người không tín ngưỡng, để không bao giờ có sự trổi vượt của những dị biệt gây chia rẽ và tổn thương, nhưng chính trong sự khác biệt, có sự chiến thắng của ước muốn thiết lập những mối liên hệ thân hữu đích thực giữa mọi dân tộc.

Chiến đấu chống nghèo đói vật chất cũng như tinh thần; xây dựng hòa bình và bắc những nhịp cầu. Đó là những điểm tham chiếu của một hành trình mà tôi muốn mời gọi mỗi quốc gia mà quí vị đại diện tham gia vào. Đó là một hành trình khó khăn nếu chúng ta không học cách ngày càng yêu mến trái đất chúng ta. Cả trong trường hợp này, tôi cũng cảm thấy được trợ lực khi nghĩ đến tên thánh Phanxicô, Đấng đã dạy phải tôn trọng sâu xa đối với toàn thể công trình tạo dựng, bảo tồn môi sinh của chúng ta, mà đáng tiếc là quá nhiều khi chúng ta không sử dụng cho thiện ích, và chỉ khai thác một cách ham hố gây hại cho nhau.

Quí vị đại sứ, quí bà quí ông thân mến,

Một lần nữa xin cám ơn vì công việc mà quí vị đang thực hiện, cùng với Phủ Quốc vụ khanh, để xây dựng hòa bình và bắc những nhịp cầu thân hữu và huynh đệ. Qua quí vị, tôi muốn lập lại lời cám ơn các chính phủ của quí vị vì đã tham dự các buổi lễ nhân dịp tôi được bầu, với mong ước có một hoạt động chung nhiều thành quả. Xin Chúa Toàn Năng đổ tràn hồng ân trên mỗi người trong quí vị, gia đình quí vị và các dân tộc mà quí vị đại diện. Xin cám ơn!
Sau bài diễn văn ngắn trên đây, ĐTC đã dành cả tiếng đồng hồ đứng bắt tay các vị đại sứ và phu nhân hoặc phu quân của họ.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha tiếp kiến các phái đoàn Kitô và tôn giáo bạn

Đức Thánh Cha tiếp kiến các phái đoàn Kitô và tôn giáo bạn

VATICAN. ĐTC Phanxicô tái bày tỏ quyết tâm của Giáo Hội Công Giáo theo đuổi con đường đại kết với các Giáo Hội Kitô và tăng cường tình thân hữu với các tôn giáo bạn.

Ngài bày tỏ trên đây trong buổi tiếp kiến trưa 20 tháng 3-2013 dành cho 33 phái đoàn thuộc các Giáo Hội và Cộng đồng Kitô và các tôn giáo khác về Roma dự lễ khai mạc sứ vụ của ngài hôm 19 tháng 3 vừa qua.

Trong số các vị đại diện, có 10 phái đoàn thuộc các Giáo Hội Chính Thống Bizantine, 5 thuộc các Giáo Hội Chính Thống Đông phương, trong đó có Giáo Hội Arméni Tông Truyền, Chính Thống Copte Ai Cập, và Chính Thống Siriac. Về phía các Giáo Hội Kitô tây phương, có phái đoàn của Liên hiệp Anh giáo, Công Giáo Cũ, Liên hiệp Tin Lành Luther, Methodist, Cải Cách, Baptist, Mennonite, Đạo binh cứu độ, Pentecostal, v.v.. Cả thầy Alois Loeser, tu viện trưởng Đại kết Taizé cũng có mặt. Ngoài ra có các đại diện của Do thái, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn giáo, đạo Sikh và Jaina.

Lên tiếng sau lời chào mừng của Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople, và cũng là vị Thượng Phụ danh dự chung của Chính Thống giáo, ĐTC nhắc đến Năm Đức Tin do vị tiền nhiệm của ngài, Biển Đức 16, đề xướng cho Giáo Hội Công Giáo, ngài muốn tiếp tục sáng kiến này đồng thời hy vọng đó là một khích lệ cho hành trình đức tin của mọi người.

ĐTC nói thêm rằng: ”Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô, tất cả chúng ta đều cảm thấy gắn bó sâu xa với lời nguyện của Chúa Cứu Thế trong Bữa Tiệc Ly, lời cầu xin của Chúa ”Ứơc gì tất cả chúng được nên một”. Chúng ta hãy xin Chúa Cha từ bi cho chúng ta được sống trọn vẹn niềm tin chúng ta đã nhận lãnh như hồng ân trong ngày chúng ta chịu phép rửa và có thể làm chứng trong tự do, vui tươi và can đảm. Đó sẽ là việc phục vụ tốt nhất của chúng ta cho chính nghĩa hiệp nhất giữa các tín hữu Kitô, một việc phục vụ hy vọng cho một thế giới còn bị chia rẽ, đố kỵ và cạnh tranh. Hễ chúng ta càng trung thành với thánh ý Chúa, trong tư tưởng, lời nói, và hoạt động, thì chúng ta càng thực sự tiến tới hiệp nhất”.

ĐTC cho biết: ”Về phần tôi, tôi muốn đoan chắc rằng, theo vết các vị tiền nhiệm của tôi, tôi quyết tâm theo đuổi con đường đối thoại đại kết… và tôi cũng xin anh chị em chuyển lời chào thân ái và sự tưởng nhớ của tôi trong Chúa Giêsu Kitô tới các Giáo Hội và Cộng đồng Giáo Hội mà anh chị em đại diện”.

ĐTC chào thăm các đại diện của Do thái giáo và Hồi giáo cũng như các tôn giáo khác. Ngài nhấn mạnh đến mối liên hệ tinh thần giữa Giáo Hội Công Giáo và dân tộc Do thái. Và ngài nói thêm rằng: ”Giáo Hội Công Giáo ý thức về tầm quan trọng của việc thăng tiến tình bạn và sự tôn trọng giữa những người nam nữ thuộc các truyền thống khác nhau. Tôi xin lập lại, ”thăng tiến tình thân hữu và sự tôn trọng giữa những người thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau”.

Sau bài diễn văn, ĐTC đã lần lượt bắt tay chào hỏi mọi đại diện của các Giáo Hội Kitô và các tôn giáo bạn.
Trước khi gặp chung các phái đoàn thuộc các Đại biểu Anh em thuộc các Giáo Hội và cộng đoàn Giáo Hội Kitô, ĐTC đã tiếp riêng Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, kế đến là là Đức TGM Hilarion, Chủ tịch Hội đồng ngoại vụ thuộc Tòa Thượng Phụ Chính Thống Mascơva.

Ngoài ra, ĐTC cũng tiếp bà Tổng thống Brazil, Dilma Rousseff. Cha Lombardi giám đốc Phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, trong cuộc gặp gỡ, bà đã lập lại lời mời ĐTC đến Brazil nhân Ngày Quốc Tế giới trẻ vào tháng 7 năm tại tại Rio de Janeiro (SD 20-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Dây Pallium

Dây Pallium

Dây Pallium

Dây Pallium

Ngày lễ khai mạc sứ vụ mục tử Phêrô, còn gọi là lễ đăng quang, Đức tân giáo hoàng nhận choàng lên vai dây Pallium, và chiếc nhẫn ngư phủ được trao xỏ vào ngón tay.

Hai biểu tượng này diễn tả chức vị cùng quyền hành của Đức giáo hoàng Công giáo Roma.

Nhưng đâu là ý nghĩa dây Pallium?

1. Nguồn gốc lịch sử dây Pallium

Dây Pallium là biểu hiểu chức vị của Đức Giáo Hoàng Công giáo. Dây Pallium cũng được trao ban cho các vị Tổng giám mục đứng đầu các Tổng giáo phận Công giáo trên thế giới.

Dây Pallium cũng là chiếc dây Các Phép (Stola), mà linh mục mang đeo khi cử hành các Bí Tích. Dây Pallium ngày nay có hình thể như chữ Y, phía trên quấn thành hình tròn choàng qua hai bên vai, và phía dưới dài xuống trước ngực, chiều ngang rộng từ 5 đến 15 centimét. Trên dây Pallium có thêu các hình Thánh gía mầu đen. Riêng dây Pallium của Đức giáo hoàng thêu hình Thánh gía mầu đỏ.

Tới thế kỷ thứ 3. dây Pallium là một phần áo mão của các Nghị sĩ quan thượng viện Roma. Sau khi đạo Công giáo được chính thức công nhận là tôn giáo trong toàn thể đế quốc Roma năm 380, dây Pallium được trao cho các Giáo sĩ chức sắc cao cấp.

Bên Đông Phương dây Pallium thuộc về phẩm phục của các Đức Giám mục.

Từ thế kỷ thứ 7. Đức Giáo Hoàng bên Phương tây trao dây Pallium cho các vị Tổng giám mục.

Dây Pallium được Đức Giáo Hoàng cũng như các Vị Tổng giám mục mang đeo trên vai, không chỉ mang ý nghĩa là biểu tượng của chức vị cùng quyền bính. Nhưng còn hơn thế nữa. Dây Pallium có một ý nghĩa thâm sâu về đạo đức thần học, nhất là trách nhiệm là mục tử của người được mang đeo dây này.

2. Ý nghĩa đạo đức thần học

Biểu tượng đầu tiên là dây Pallium, được dệt bằng len thuần túy, sẽ được đặt lên đôi vai tôi. Dấu chỉ xa xưa này các Giám mục Rôma đã quàng từ thế kỷ IV có thể xem là hình ảnh gánh nặng của Đức Kitô mà vị Giám mục của thành này, Tôi Tớ của các Tôi Tớ Chúa, mang lên vai ngài. Ách của Thiên Chúa là thánh ý Chúa mà chúng ta nhận lấy. Và thánh ý này không đè nặng lên chúng ta, đè bẹp chúng ta và lấy đi tự do của chúng ta. Niềm vui của dân Do Thái, đặc ân lớn nhất của dân tộc này là biết điều gì Chúa muốn, là biết nơi đâu có thể tìm ra con đường dẫn đến sự sống. Đó cũng là niềm vui của chúng ta: Thánh ý Chúa không tha hóa ta, nhưng thanh tẩy chúng ta – cho dù điều này có thể là đau thương – và do đó dẫn ta quay về với chính mình. Như thế, chúng ta không phụng sự một mình Ngài nhưng còn phụng sự ơn cứu độ của toàn thế giới, của toàn bộ lịch sử.

Biểu tượng của dây Pallium còn cụ thể hơn nữa: len chiên nhằm tiêu biểu cho những con chiên lạc lối, yếu đau mà vị mục tử vác lên vai ngài và đem đến những nguồn nước sự sống. Đối với các Nghị Phụ của Giáo Hội, dụ ngôn con chiên đi lạc mà vị mục tử tìm kiếm trong sa mạc, là một hình ảnh của mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Nhân loại – mỗi một người trong chúng ta – là con chiên lạc trong sa mạc không còn biết lối về. Con Thiên Chúa sẽ không thể để điều này xảy ra; Ngài không thể bỏ mặc con người trong điều kiện thê thảm như vậy. Ngài nhảy trên đôi chân mình và từ bỏ vinh quang thiên quốc để tìm kiếm con chiên này và theo nó đến tận cùng của Thánh Giá. Ngài mang nó lên vai và gách vác nhân loại; Ngài gách vác tất cả chúng ta – Ngài là mục tử nhân lành đã thí mạng vì đàn chiên. Điều dây Pallium này chỉ ra đầu tiên và trên hết là tất cả chúng ta được gánh vác bởi Đức Kitô. Nhưng đồng thời nó cũng mời gọi chúng ta gánh vác lẫn nhau.

Do đó, dây Pallium trở thành một biểu tượng cho sứ vụ mục tử mà Bài Đọc thứ Hai và Bài Phúc Âm đề cập đến. Người mục tử phải được linh hứng bởi lòng nhiệt thành thánh thiện của Đức Kitô: với Ngài không thể có chuyện thờ ơ trước cảnh quá nhiều người đang sống trong sa mạc. Và có quá nhiều loại sa mạc. Có những sa mạc của nghèo đói, sa mạc của đói khát, sa mạc của bỏ rơi, của cô đơn, của tình yêu bị huỷ diệt. Có những sa mạc của đêm đen Thiên Chúa, sự trống rỗng của các linh hồn không còn nhận thức được phẩm giá và mục đích đời người. Những sa mạc bên ngoài thế giới đang lớn dần vì những sa mạc bên trong đã trở thành quá mênh mông.

Do đó, những kho tàng dưới thế không còn để kiến tạo vườn của Thiên Chúa cho tất cả mọi người sống chung nhưng chúng được dùng để phục vụ những quyền lực bóc lột và hủy diệt. Giáo Hội như một tổng thể và tất cả các Mục Tử, giống như Đức Kitô, cần phải tiến bước để dẫn dắt dân ra khỏi sa mạc, tiến về cung điện cuộc sống, tiến đến tình bạn với Con Thiên Chúa, tiến đến Đấng đã ban cho chúng ta sự sống, và sự sống dồi dào.

Biểu tượng của con chiên cũng có một ý nghĩa sâu xa hơn. Trong vùng Cận Đông Cổ, các vua chúa có thói quen xem mình là các mục tử của dân họ. Đây là một hình ảnh tiêu biểu cho quyền lực của họ, một hình ảnh coi thường người khác: với họ đối tượng của mình chỉ như bầy cừu mà mục tử có thể khử bỏ tùy thích. Khi mục tử của toàn thể nhân loại, Thiên Chúa hằng sống, chính Ngài trở nên con chiên, Ngài đứng bên những con chiên, đứng bên những ai bị áp bức và giết hại. Đây là cách thức Ngài tự mạc khải mình là vị mục tử chân chính: Đức Giêsu nói về chính Ngài: "Ta là Mục Tử Tốt Lành … Ta thí mạng sống mình vì đàn chiên" (Ga 10:14). Không phải là quyền lực nhưng chính là tình yêu cứu chuộc chúng ta! Đây là dấu chỉ của Thiên Chúa: chính Ngài là tình yêu.

Biết bao lần chúng ta mong Thiên Chúa tỏ mình ra mạnh mẽ hơn, muốn Ngài ra oai quyết liệt, đánh gục sự dữ và kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn. Tất cả các ý thức hệ về quyền lực biện minh cho chúng bằng đúng đường lối này, chúng biện minh cho sự hủy hoại bất cứ thứ gì chắn lối trên con đường của tiến bộ và giải phóng nhân loại. Chúng ta đau khổ vì sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta lại cần đến sự nhẫn nại của Ngài. Thiên Chúa, Đấng đã trở nên chiên con bảo với chúng ta rằng thế giới được cứu rỗi bởi Đấng Chịu Đóng Đinh, chứ không phải bởi những kẻ đóng đinh Ngài. Thế giới được cứu chuộc bởi sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Nó bị phá hủy bởi sự thiếu kiên nhẫn của con người.

Một trong những tính cách căn bản của một mục tử phải là yêu thương dân được trao phó cho mình như yêu mến Đức Kitô Đấng ngài phụng sự. Chúa Kitô nói với Thánh Phêrô: "Hãy chăm sóc các chiên ta", và giờ đây, trong giây phút này, Ngài cũng nói với tôi điều đó. Chăm sóc nghĩa là yêu thương, và yêu thương cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu đau khổ. Yêu thương nghĩa là trao ban cho đàn chiên những gì là thực sự lương hảo, dưỡng chất chân lý Thiên Chúa, lời Chúa, dưỡng chất sự hiện diện của Ngài, được ban cho chúng ta qua các Bí Tích Hồng Phúc. Các bạn thân mến- trong giờ phút này, tôi chỉ có thể nói: hãy cầu nguyện cho tôi, để tôi có thể học biết yêu Chúa càng ngày càng nhiều hơn. Hãy cầu nguyện cho tôi để tôi có thể học biết yêu đàn chiên của Ngài càng ngày càng nhiều hơn – nói cách khác, các bạn, Giáo Hội thánh thiện, mỗi người trong các bạn và tất cả các bạn hợp lại. Xin cầu cho tôi, để tôi đừng trốn chạy vì sợ sói dữ. Hãy cầu nguyện cho nhau xin Thiên Chúa gánh vác chúng ta và chúng ta sẽ học biết cách gánh vác lẫn nhau.“ ( Đức Giáo hoàng Benedicto XVI., bài giảng lễ khai mạc sứ vụ mục tử Phero, Vatican 24.04.2005

3. Chiếc dây Pallium được làm phép thánh hiến

Dây Pallium được làm bện bằng lông của con chiên, và vào ngày lễ kính Thánh nữ Agnes, 21.01. hằng năm do Đức Giáo Hoàng làm phép thánh hiến.

Lông các con chiên được thu thập đưa về nhà Dòng Santa Cecilia kín bên Ý Trastevere bện dệt thành dây Pallium.

Chiều trước ngày lễ kính hai Thánh Tông đồ Phero và Phaolo, những chiếc dây Pallien được đưa đến bàn thờ trước mộ Thánh Phero nằm bên dưới bàn thờ chính của đền thờ Thánh Phero bên Vatican. Những dây Pallien mới này được giữ cẩn thận trong hộp ngay sát cạnh di tích Xương Thánh của Thánh Phero. Như thế dây Pallium được đụng chạm với di tích Xương Thánh của vị Tông Đồ cả của Chúa Giesu, Thánh Phêrô.

Dây Pallium được Đức Giáo Hoàng trao ban cho các Vị Tổng giám mục mới được bổ nhiệm đứng đầu các Tổng giáo phận vào ngày lễ kính hai Thánh Tông đồ Phero và Phaolô, 29.06. hằng năm ở đền thờ Thánh Phero bên Vatican, trong buổi lễ đại trào long trọng.

Việc trao dây Pallium từ tay Đức giáo hoàng cho các vị Tổng giám mục mới được bổ nhiệm gắn liền với lời tuyên thệ trung thành với Đức Gíao hoàng Roma đương nhiệm và những vị kế nhiệm ngài.

Các vị Tổng giám mục chỉ được mang đeo dây Pallium khi dâng thánh lễ trong Tổng giáo phận của ngài, và trong những Giáo phận thuộc về vùng tổng giáo phận của mình.

Chỉ một mình Đức Gíao Hoàng Roma được mang dây Pallium khắp nơi, chỗ nào ngài tới dâng thánh lễ.

Dây Pallium chỉ trao ban cá nhân cho vị Tổng giám mục. Nên vị đó không được trao truyền tiếp cho ai. Khi vị đó qua đời, dây Pallium cũng được quàng vào chôn theo vị đó.

Một vị Tổng giám mục đã được trao dây Pallium cho một tổng giáo phận, và rồi một thời gian sau lại được bổ nhiệm sang làm việc ở một Tổng giáo phận khác, vị đó lại cần dây Pallium mới.

Đức Giáo Hoàng được mang dây Pallium

Hôm 19 tháng  03-2013 Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô đã được Đức Hồng Y đẳng Phó Tế Tauran, trao choàng dây Pallium có thêu 6 hình cây Thánh gía mầu đỏ trong lễ khai mạc sứ vụ mục tử Phêrô.

Tuy không trực tiếp như vị tiền nhiệm Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêdictô XVI. trong lễ khai mạc sứ vụ mục tử đã có suy tư nói về ý nghĩa dây Pallium. Nhưng Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô trong bài giảng, đã nói lên khía cạnh gánh nặng trách nhiệm phục vụ canh giữ những gì Thiên Chúa đã tạo dựng ban cho con người:

”Nhưng ơn gọi của người canh giữ không phải chỉ liên hệ đến các tín hữu Kitô chúng ta mà thôi, nhưng còn có một chiều kích đi trước và nhân bản, liên hệ tới tất cả mọi người.

Đó là việc bảo tồn toàn thể thiên nhiên, vẻ đẹp của công trình tạo dựng, như được trình bày cho chúng ta trong Sách Sáng Thế và như thánh Phanxicô Assisi đã chỉ cho chúng ta; đó là tôn trọng đối với mỗi thụ tạo của Thiên Chúa và môi trường trong đó chúng ta sinh sống.

Đó là giữ gìn con người, chăm sóc tất cả mọi người, mỗi người, với tình yêu thương, đặc biệt là các trẻ em, người già, những người yếu đuối hơn và thường ở ngoài lề tâm hồn chúng ta.

Đó là chăm sóc lẫn nhau trong gia đình: vợ chồng gìn giữ nhau, và trong tư cách là cha mẹ, họ chăm sóc con cái, rồi với thời gian cả con cái cũng trở thành những người gìn giữ cha mẹ.

Đó là sống những tình bạn chân thành, là một sự gìn giữ nhau trong sự tín nhiệm, trong sự tôn trọng và trong thiện ích. Xét cho cùng, tất cả đều được ủy thác cho sự gìn giữ của con người, và đó là một trách nhiệm liên hệ tới tất cả chúng ta. Anh chị em hãy trở thành những người gìn giữ hồng ân của Thiên Chúa.

”Và khi con người thiếu sót trách nhiệm của mình, khi chúng ta không chăm sóc công trình tạo dựng và các anh chị em chúng ta, thì khi ấy xảy ra sự tàn phá và con tim trở nên chai đá. Rất tiếc là trong mỗi thời đại, đều có những ”vua Hêrôđê” đề ra những mưu đồ chết chóc, hủy hoại và bóp méo khuôn mặt của con người nam nữ. (Đức giáo hoàng Phanxicô, Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ mục tử, 19.03.2013)

Đức tân Gíáo Hoàng Phanxicô từ khi được bầu chọn là Giáo Hoàng đã và đang chiếm giữ được cảm tình lòng qúi mến của mọi người. Người ta nghe, nhìn thấy cùng cảm nhận n được lòng khiêm nhượng, sự chân thành đơn giản trong cung cách cũng như lời nói của ngài phát chiếu tỏa ra.

Nhiều người đã nói lên tâm tư tin là làn gió mới Đức Chúa Thánh Thần đang thổi vào trong Giáo Hội.

Đức Giáo Hoàng với dây Pallium

*********************

Làn gió mới Đức Chúa Thánh Thần thổi vào đời sống Giáo Hội là làn gió thiêng liêng đạo đức, làn gió mang đến sự tươi mát đem đến sức sống sự phấn khởi cho con người, mà các vị Giáo Hoàng cũ cũng như mới đều nhấn mạnh đến:

1. Đức nguyên Gíáo Hoàng Bênêđictô XVI. trong buổi triểu yết cuối cùng ngày 27.02.2013 đã cảnh gíac nguy cơ coi biến Gíao Hội tựa như một „Tổ hợp cho mục tiêu tôn giáo hay mục tiêu nhân bản lo việc phúc lợi“

Đức tân Gíáo Hoàng Phanxicô trong bài giảng đầu tiên ở nhà nguyện Sixtine với các Vị Hồng Y đã nói lên tâm tư quyết liệt chống lại hình ảnh một Giáo Hội như „Chúng ta có thể tiến bước theo ý muốn của mình, chúng ta có thể xây dựng rất nhiều điều, nhưng nếu chúng ta không tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, thì có ích gì? Chúng ta sẽ trở thành một tổ chức phi chính phủ (NGO) đáng thương, chứ không phải là Giáo Hội, không phải là Hiền Thê của Chúa“ ( 14.03.2013.)

2. Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. khi từ gĩa lui về nghỉ hưu đã kêu gọi cùng xây dựng Giáo hội trong „ hòa hợp hài hòa“.

Đức tân Gíáo Hoàng Phanxicô cũng nhìn thấy mục tiêu của Giáo Hội „không phải đều giống như nhau, nhưng trong sự hòa hợp hài hòa.“

3. Đức nguyên Gíao hoàng Bênêđictô XVI. đã nói lên Giáo Hội cần phải đừng để bị tục hóa. Nhưng ưu tiên cho người nghèo.

Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô luôn nhấn mạnh đến khía cạnh sống dấn thân cùng đồng hành với người nghèo.

Mỗi Vị Giáo Hoàng được Chúa gửi đến cho Giáo Hội vào mỗi thời điểm khác nhau, mà đời sống con thuyền Giáo Hội cần.

Như thế có thể nói được:

Đức cố Gíáo Hoàng Phaolo II., bây giờ là Á Thánh, đã giữ con thuyền đời sống Giáo Hội cho vững vàng trở lại trong cơn sóng gió bão táp.

Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. đã bắt đầu làm nhiệm vụ thanh tẩy rửa con thuyền Giáo Hội bị dơ bẩn, và lèo lái cho đi trở lại đúng đường, đúng hướng.

Và Đức tân Giáo Hoàng Phanxicô bây giờ làm nhiệm vụ cho dàn máy bên trong thuyền hoạt động nổ chạy, để con thuyền Giáo Hội có khả năng vượt đại dương.

Khí hậu mùa Xuân đang về với đất trời, với con người và với Gíao Hội Chúa ở trần gian.

 

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Trích từ Đạo Binh Đức Mẹ

Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma

Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của Đức Thánh Cha Phanxicô, Giám Mục Roma

Pope Francis installation mass

Video Lễ Nhậm Chức của Đức Thánh Cha Francis ngày 19 tháng 3 2013 (dài 4 giờ)

VATICAN. 200 ngàn tín hữu cùng với đại diện chính quyền 132 quốc gia cũng như nhiều phái đoàn các Giáo Hội Kitô và liên tôn đã tham dự thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô của ĐTC Phanxicô từ lúc 9.30 sáng ngày 19 tháng 3-2013 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Lúc 8 giờ 45, ĐTC Phanxicô đã đi trên chiếc xe díp màu trắng, mui trần, không có kiếng chắn đạn, tiến ra Quảng trường thánh Phêrô. Ngài tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, reo vui, vẫy cờ quốc gia của họ. Có một lúc ĐTC truyền dừng xe lại, ngài xuống xe ôm hôn một người khuyết tật, và những lúc khác, ngài ôm hôn các em bé do các nhân viên an ninh bế lên ngài.

Trước thánh lễ, lúc 9 giờ 20 phút, ĐTC đã xuống hầm dưới bàn thờ chính của Đền Thờ Thánh Phêrô và đến trước mộ của Thánh Tông Đồ trưởng. Tại đây, cùng với 10 thủ lãnh các Giáo hội Công Giáo nghi lễ Đông Phương, trong đó có 4 vị Thượng Phụ Giáo Chủ, 4 vị Tổng Giám Mục trưởng, trong số này 4 vị là Hồng Y, ngài cầu nguyện và xông hương trên mộ Thánh Nhân. Từ mộ thánh Phêrô, hai thầy Phó tế đã lấy hai chiếc đĩa: một đựng dây Pallium và một đựng nhẫn Ngư Phủ của ĐTC, để tháp tùng ngài trong đoàn rước tiến ra lễ đài trên thềm đền thờ thánh Phêrô.

Thành phần tham dự

Đi trước ĐTC trong đoàn rước là 180 vị đồng tế, hầu hết là các Hồng Y, trong phẩm phục màu trắng vàng, trong khi ca đoàn Sistina của Tòa Thánh hát kinh cầu các Thánh xin các vị phù giúp Đức tân Giáo Hoàng.

Trong đoàn đồng tế, đặc biệt cũng có 2 LM đó là Cha José Rodriguez Carballo người Mêhicô, và Cha Aldolfo Nicolás Pachón, người Tây Ban Nha, Bề trên Tổng quyền dòng Tên. Hai vị được mời đồng tế trong tư cách là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hiệp Hội các Bề trên Tổng quyền dòng nam.

Việc giúp lễ do 15 tu sĩ Phanxicô thuộc Đền thánh La Verna ở miền trung Italia, nơi thánh Phanxicô Assisi nhận 5 dấu thánh, đảm trách với sự phụ giúp của 4 thầy thuộc dòng Phanxicô Viện Tu ở Roma. Phần thánh ca trong buổi lễ do Ca đoàn Sistina của Tòa Thánh gồm 65 ca viên do Nhạc trưởng là Đức ông Massimo Palombella điều khiển, cộng thêm với Ca đoàn tổng hợp gồm 80 ca viên.

Bên trái bàn thờ là 200 GM và 33 phái đoàn của các Giáo Hội Kitô anh em, đứng đầu là Đức Thượng Phụ Bartolomaios I, Giáo Chủ Chính Thống Constantinople bên Thổ Nhĩ Kỳ, và cũng được coi là vị thủ lãnh danh dự chung của toàn Chính Thống giáo. Các vị lãnh đạo các Giáo Hội Tin Lành, Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô, và cả thầy Alois Loeser, tu viện trưởng tu viện Đại kết Taizé bên Pháp.

Cũng ở bên trái nhưng xuống phía trước bàn thờ là phái đoàn của các tôn giáo bạn, từ Do thái giáo, Phật giáo, Hồi giáo, đạo Sikh, Jaina và Ấn Giáo. Sau đó là 1.200 LM và chủng sinh.

Bên hông phải bàn thờ là chỗ dành cho 132 phái đoàn chính thức của các nước, đứng đầu là Tổng thống Cộng hòa Italia, ông Giorgio Napolitano, Bà Tổng thống Cristina Fernández de Kirchner của Argentina, 6 vị vua, 32 vị Tổng thống, 3 thái tử, phần còn lại là các thủ tướng chính phủ, phu nhân Tổng thống, hoặc Phó tổng thống, trong đó có Ông Joseph Biden của Hoa Kỳ.

Chính quyền thành Roma đã bố trí một số màn hình khổng lồ tại khu vực quảng trường Thánh Phêrô và đường Hòa Giải để dân chúng có thể tham dự thánh lễ.

ĐTC tiến ra lễ đài trước sự vỗ tay vang dội của mọi người. Nhiều lá cờ quốc gia cũng được các tín hữu phất lên, dưới bầu trời đẹp.

Nghi thức nhận Pallium và nhẫn Ngư Ph

Nghi thức khai mạc sứ vụ Phêrô, theo qui định của ĐTC Biển Đức 16, nay được cử hành liền trước thánh lễ, vì không phải là bí tích. Nghi thức này gồm phần trao dây Pallium Giáo Hoàng và trao nhẫn Ngư Phủ.

Dây Pallium được trao cho ĐTC là dây làm bằng lông chiên màu trắng, có 6 hình Thánh Giá màu đỏ, khi được đeo vào cổ, có một phần dài ở phía trước ngực và một phần dài ở sau lưng. Đây là biểu hiệu cổ kính nhất của Giám Mục. Simeon thành Tessalonica viết: ”Dây Pallium chỉ Chúa Cứu Thế khi gặp chúng ta như chiên lạc đàn, Ngài vác lên vai, và khi nhận lấy nhân tính con người trong cuộc nhập thể, Ngài thần hóa nhân tính ấy bằng cái chết của Ngài trên Thánh Giá, Ngài dâng chúng ta cho Chúa Cha, và qua cuộc phục sinh, Ngài nâng chúng ta lên cao”.
Vì thế dây Pallium nhắc nhớ vị Mục Tử nhân lành (cf Ga 10,11), vác trên vai con chiên lạc (cf Lc 15,4-7), và 3 câu trả lời yêu mến đáp lại 3 câu Chúa Giêsu Phục Sinh hỏi thánh Phêrô, và Chúa dạy thánh nhân hãy chăn các con chiên con và chiên mẹ của Ngài (cf Ga 21,15-17).

3 vị Hồng Y là Angelo Sodano, niên trưởng HY đoàn, trưởng đẳng GM, ĐHY Godfried Danneels, nguyên TGM Bruxelles bên Bỉ, trưởng đẳng HY Linh Mục, và ĐHY Jean Louis Tauran, người Pháp, trưởng đẳng HY Phó tế lần lượt tiến lên trước mặt ĐTC. ĐHY Tauran cầu xin Thiên Chúa của hòa bình ban cho ĐGH dây Pallium đã lấy từ bàn thờ tuyên xưng đức tin của Thánh Phêrô Tông Đồ, là Đấng mà Mục Tử nhân lành đã truyền chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài, và ngày hôm nay ĐTC kế vị thánh nhân. Xin Thánh Thần Chân Lý ban ơn soi sáng và phân định cho sứ vụ của ĐTC củng cố các anh em trong đức tin duy nhất.

Rồi ĐHY trưởng đẳng Phó tế tiến lên đeo dây Pallium vào cổ Đức tân Giáo Hoàng, tiếp đến ĐHY trưởng đẳng LM Danneels kết thúc với lời nguyện: ”xin Thiên Chúa chúc lành và củng cố ơn Thánh Linh để sứ vụ của Đức tân Giáo Hoàng tương ứng với sự cao cả của đoàn sủng mà Chúa đã ban cho Người.”

Sau đó là nghi thức trao nhẫn Ngư Phủ. Ngay từ ngàn năm thứ I, nhẫn là biểu hiệu riêng của Giám Mục. Chiếc nhẫn Ngư Phủ được trao cho ĐTC Phanxiô bằng bạc có hình thánh Phêrô đang cầm chìa khóa, có nghĩa đó là nhẫn chứng thực thực đức tin và nói lên nghĩa vụ được ủy thác cho thánh Phêrô là củng cố các anh em mình (cf Luca 22,32). Nhẫn này được gọi là Nhẫn Ngư Phủ vì thánh Phêrô là Tông Đồ Ngư Phủ (cf Mathêu 4,18-19). Sau khi tin vào lời Chúa Giêsu (cf Luca 5,5), thánh nhân đã thả lưới và kéo vào bờ mẻ cá lạ lùng (cf Gioan 21,3-14).

ĐHY Angelo Sodano, trưởng đẳng GM, nói: ”Kính thưa Đức Thánh Cha, chính Chúa Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, là Mục tử và là Giám mục của các linh hồn chúng ta, Đấng đã xây dựng Giáo Hội trên đá tảng, ban cho ĐTC Nhẫn này, ấn tín của Thánh Phêrô Ngư Phủ, Người đã sống niềm hy vọng trên biển Tiberiade và Chúa đã trao cho Người chìa khóa nước trời. Ngày hôm nay, ĐTC kế vị Thánh Phêrô trong Giám mục đoàn của Giáo Hội này, làm đầu trong tình hiệp thông hiệp nhất theo giáo huấn của Thánh Phaolô Tông Đồ. Xin Thánh Thần tình yêu được phú vào tâm hồn chúng ta làm cho ĐTC được tràn đầy sức mạnh và sự dịu dàng để giữ gìn các tín hữu Chúa Kitô, qua sứ vụ của ĐTC, trong sự hiệp thông duy nhất”.

Rồi ĐHY Sodano trao Nhẫn Ngư Phủ cho ĐTC, giữa tiếng vỗ tay vang dội của cộng đoàn.

Tiếp đến là nghi thức tuân phục. Hồi ĐGH Biển Đức 16 khai mạc sứ vụ, ngoài các Hồng y còn có các đại diện LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân, tổng cộng là 12 người, nhưng lần này chỉ có 6 HY đại diện, mỗi đẳng GM, LM và Phó tế 2 vị. Hai vị đứng đầu là ĐHY Giovanni Battista Re và ĐHY Bertone.

Trong nghi thức này không có đại diện LM, tu sĩ nam nữ và giáo dân vì họ sẽ cử hành nghi thức tuân phục trong buổi lễ ĐTC Phanxicô sẽ cử hành trong mùa Phục Sinh khi đến nhận Nhà thờ chính tòa giáo phận Roma của ngài là Đền thờ thánh Gioan Laterano.

Thánh lễ kính Thánh Giuse với kinh nguyện và các bài đọc đi kèm bắt đầu sau nghi thức nhận Pallium và nhẫn Ngư Phủ của ĐTC.

Bài Tin Mừng được hát bằng tiếng Hy Lạp kể lại sự tích thánh Giuse sau khi thấy Đức Maria có thai, thì toan tính âm thầm bỏ rơi Người, nhưng đã được Sứ thần Chúa hiện ra trong giấc mộng và dạy hãy đón nhận Đức Maria về nhà mình.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng tiếp đó bằng tiếng Ý, ĐTC nói:

Anh chị em thân mến,

Tôi cảm tạ Chúa vì được cử hành Thánh Lễ này, khai mạc sứ vụ Phêrô trong ngày lễ trọng kính Thánh Giuse, Hôn Phu của Đức Trinh Nữ Maria, và là Bổn Mạng của Giáo Hội: đây là một dịp trùng hợp đầy ý nghĩa và cũng là lễ bổn mạng của Vị Tiền Nhiệm Đáng Kính của tôi: chúng ta gần gũi ngài trong kinh nguyện, đầy lòng quí mến và biết ơn (vỗ tay).

Tôi thân ái chào các anh em Hồng y và Giám Mục, các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và tất cả anh chị em giáo dân. Tôi cám ơn các đại diện của các Giáo Hội và Cộng đoàn Giáo Hội khác hiện diện nơi đây cũng như các đại diện của cộng đồng Do thái và các cộng đồng tôn giáo khác. Tôi gửi lời chào nồng nhiệt đến các vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ, các phái đoàn chính thức của bao nhiêu nước trên thế giới và ngoại giao đoàn.

Chúng ta đã nghe trong Tin Mừng rằng ”Giuse làm như Thiên Thần Chúa đã truyền và đón nhận hiền thê của mình” (Mt 1,24). Trong những lời này có gồm tóm sứ mạng mà Thiên Chúa ủy thác cho Giuse, sứ mạng làm người canh giữ. Nhưng canh giữ ai? Thưa là canh giữ Mẹ Maria và Chúa Giêsu, nhưng đó là một sự canh giữ được nới rộng cho toàn thể Giáo Hội, như Chân phước Gioan Phaolô 2 đã nhấn mạnh: ”Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Đức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Đức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).

Thánh Giuse thi hành công việc canh giữ ấy như thế nào? Thưa một cách kín đáo, khiêm tốn, trong thinh lặng, nhưng với một sự hiện diện liên lỷ và trung tín hoàn toàn, cả khi Ngài không hiểu. Từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Đền thờ Jerusalem, Ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của Ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Đền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nazareth, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu.

Thánh Giuse đã sống ơn gọi gìn giữ Mẹ Maria, Chúa Giêsu và Giáo Hội như thế nào? Thưa trong sự luôn quan tâm để ý tới Thiên Chúa, cởi mở đối với những dấu hiệu của Chúa, sẵn sàng đối với dự phóng của Chúa, không phải tới điều riêng của mình, nhưng điều mà Thiên Chúa yêu cầu Vua Davít, như chúng ta đã nghe trong bài đọc thứ I; Thiên Chúa không mong ước một nhà do con người làm ra, nhưng Chúa muốn lòng trung thành với Lời Ngài, với kế hoạch của Ngài; và chính Thiên Chúa xây dựng căn nhà, nhưng bằng những viên đá sống động nhờ Thánh Thần của Ngài. Và thánh Giuse là người ”canh giữ”, vì Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân càng nhạy cảm hơn đối với những người được ủy thác cho Ngài, biết đọc các biến cố một cách thực tế, chú ý đến những gì ở chung quanh và biết đưa ra những quyết định khôn ngoan hơn. Các bạn thân mến, chúng ta thấy thánh Giuse đáp ứng ơn gọi của Chúa như thế nào, với thái độ sẵn sàng, mau mắn, nhưng chúng ta cũng thấy đâu là trung tâm điểm ơn gọi Kitô, là chính Chúa Kitô! Chúng ta hãy gìn giữ Chúa Kitô trong đời sống chúng ta, để giữ gìn những người khác, để giữ gìn thiên nhiên, công trình sáng tạo.

”Nhưng ơn gọi của người canh giữ không phải chỉ liên hệ đến các tín hữu Kitô chúng ta mà thôi, nhưng còn có một chiều kích đi trước và nhân bản, liên hệ tới tất cả mọi người. Đó là việc bảo tồn toàn thể thiên nhiên, vẻ đẹp của công trình tạo dựng, như được trình bày cho chúng ta trong Sách Sáng Thế và như thánh Phanxicô Assisi đã chỉ cho chúng ta; đó là tôn trọng đối với mỗi thụ tạo của Thiên Chúa và môi trường trong đó chúng ta sinh sống. Đó là giữ gìn con người, chăm sóc tất cả mọi người, mỗi người, với tình yêu thương, đặc biệt là các trẻ em, người già, những người yếu đuối hơn và thường ở ngoài lề tâm hồn chúng ta. Đó là chăm sóc lẫn nhau trong gia đình: vợ chồng gìn giữ nhau, và trong tư cách là cha mẹ, họ chăm sóc con cái, rồi với thời gian cả con cái cũng trở thành những người gìn giữ cha mẹ. Đó là sống những tình bạn chân thành, là một sự gìn giữ nhau trong sự tín nhiệm, trong sự tôn trọng và trong thiện ích. Xét cho cùng, tất cả đều được ủy thác cho sự gìn giữ của con người, và đó là một trách nhiệm liên hệ tới tất cả chúng ta. Anh chị em hãy trở thành những người gìn giữ hồng ân của Thiên Chúa.

”Và khi con người thiếu sót trách nhiệm của mình, khi chúng ta không chăm sóc công trình tạo dựng và các anh chị em chúng ta, thì khi ấy xảy ra sự tàn phá và con tim trở nên chai đá. Rất tiếc là trong mỗi thời đại, đều có những ”vua Hêrôđê” đề ra những mưu đồ chết chóc, hủy hoại và bóp méo khuôn mặt của con người nam nữ.
Tôi muốn xin tất cả những người đang nắm giữ các vai trò trách nhiệm trong lãnh vực kinh tế, chính trị hoặc xã hội, tất cả những người thiện chí: ”Chúng ta hãy trở thành những người gìn giữ công trình tạo dựng, gìn giữ kế hoạch của Thiên Chúa được ghi khắc trong thiên nhiên, giữ gìn tha nhân, môi sinh; chúng ta đừng để cho những dấu hiệu tàn phá và chết chóc tháp tùng hành trình của thế giới chúng ta! Nhưng để ”gìn giữ” thì chúng ta cũng phải chăm sóc chính mình! Chúng ta hãy nhớ rằng oán ghét, ghen tương, kiêu ngạo làm cho cuộc sống bị nhơ bẩn! Gìn giữ có nghĩa là canh chừng những tâm tình chúng ta, con tim chúng ta, vì chính từ đó nảy sinh những ý hướng tốt hay xấu: những ý hướng xây dựng và những ý hướng hủy hoại! Chúng ta không được sợ sự tốt lành, và cũng đừng sợ sự dịu dàng!

”Và ở đây, tôi muốn ghi nhận thêm điều này: chăm sóc, giữ gìn, đòi phải có sự tốt lành, đòi phải được sống với sự dịu dàng. Trong các sách Phúc Âm, thánh Giuse xuất hiện như một người mạnh mẽ, can đảm, chuyên cần làm việc, nhưng trong tâm hồn Ngài trổi vượt một sự rất dịu dàng, đây không phải là đức tính của kẻ yếu, trái lại, nó chứng tỏ một tâm hồn mạnh mẽ và có khả năng chú ý, cảm thương, thực sự cởi mở đối với tha nhân, yêu thương. Chúng ta không được sợ sự tốt lành và dịu dàng!

”Ngày nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân GM Roma, người Kế Vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm một quyền bính. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì thế? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có 3 lời mời gọi: hãy chăn các chiên con, hãy chăn giắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin, của thánh Giuse và như thánh nhân, mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Mathêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức bác ái: những người đói, khát, ngoại kiều, người trần trụi, bệnh nhân, tù nhân (Xc Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết giữ gìn!

Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô nói về Abraham, người ”đã tin, kiêm vững trong niềm hy vọng bất chấp mọi nghịch cảnh” (Rm 4.18). Kiên vững trong niềm hy vọng, bất chấp mọi nghịch cảnh! Cả ngày nay, đứng trước bao nhiêu chân trời đen xám, chúng ta cần thấy ánh sáng hy vọng và chính chúng ta trao ban hy vọng. Giữ gìn công trình tạo dựng, mỗi người nam nữ, với cái nhìn dịu dàng và yêu thương, đó chính là mở rộng chân trời hy vọng, là mở ra một luồng sáng giữa bao nhiêu mây mù, là mang sức nóng hy vọng! Và đối với tín hữu, đối với các tín hữu Kitô chúng ta, như Abraham, như thánh Giuse, niềm hy vọng mà chúng ta mang có chân trời của Thiên Chúa được mở rộng cho chúng ta trong Chúa Kitô, được xây dựng trên đá tảng là Thiên Chúa.

”Giữ gìn Chúa Giêsu với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến điều Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!

”Tôi cầu khẩn sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, của Thánh Giuse, của thánh Phêrô và Phaolô, thánh Phanxicô, xin Chúa Thánh Linh tháp tùng sứ vụ của tôi, và tôi nói với tất cả anh chị em rằng: xin cầu nguyện cho tôi! Amen

Các ý nguyện

Bài giảng của ĐTC bị ngắt quãng nhiều lần vì những tiếng vỗ tay của các tín hữu, lần đầu khi ngài chúc mừng lễ Bổn mạng của Vị Tiền nhiệm và mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho Người.

Trong phần lời nguyện phổ quát, đã có 5 ý nguyện được xướng lên là tiếng Nga, Pháp, Arap, Swahili bên Phi châu và tiếng Hoa, lần lượt cầu cho Giáo Hội: Xin Thiên Chúa toàn năng nâng đỡ mọi người, các mục tử và tín hữu, sống tuân phục vô điều kiện đối với Tin Mừng; xin Chúa gìn giữ ĐGH Phanxicô trong việc thi hành sứ vụ của Người Kế Nhiệm Thánh Phêrô và Chủ Chăn của toàn thể Giáo hội; cầu cho các người cầm quyền: xin Chúa soi sáng tâm trí và hướng dẫn họ trong việc xây dựng nền văn minh tình thương; cầu cho những người nghèo khổ trên trái đất: xin Chúa bồi dưỡng, an ủi và ban cho họ niềm hy vọng nhờ lòng bác ái của các tín hữu Kitô; sau cùng là cầu cho gia đình của Thiên Chúa đang tụ họp trong thánh lễ: xin Chúa biến đổi cuộc sống của tất cả các tín hữu nên giống Chúa Giêsu.

Để rút ngắn thời gian buổi lễ, không có phần tiến dâng lễ vật, và ĐTC cũng không đích thân cho rước lễ, nhưng một thầy Phó tế đã làm thay. Trong khi đó có 500 LM mang Mình Thánh Chúa phân phát cho các tín hữu tại khu vực hành lễ. Sau thánh lễ, ở bên trong Đền thờ Thánh Thánh Phêrô, ĐTC đã chào thăm các vị thủ lãnh của 132 phái đoàn chính thức do chính phủ các nước gửi đến dự lễ. Bắt đầu là bà tổng thống Cristina Kirchner của Argentina và tổng thống Giorgio Napolitano của Italia.

Lễ khai mạc sứ vụ của ĐTC kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ và được nhiều tín hữu trên thế giới theo dõi qua truyền hình.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tiểu Sử Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Tiểu Sử Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hôm nay, trong ngày lễ Kính thánh Giuse, ngày 19 tháng 03 năm 2013, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ cử hành thánh lễ để khai mạc triều đại Giáo hoàng của mình. Nhận dịp này, chúng tôi xin gửi đến quý vị tiểu sử của vị Giáo hoàng thứ 266 của Giáo Hội Công Giáo. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ tân thế giới, và cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên xuất thân từ Dòng tên.
Thiếu thời
Đức Giáo Hoàng Phanxicô tên thật là Jorge Mario Bergoglio sinh ngày 17 tháng 12 năm 1936, tại Buenos Aires, nước Argentina, trong một gia đình di dân người Ý có năm người con. Cha của ngài, một công nhân đường sắt, là Maria Jose Bergoglio, mẹ ngài là Regina Maria Sivori, một người nội trợ. Từ năm 20 tuổi, sau cuộc giải phẫu vì bị nhiễm trùng đường hô hấp, ngài chỉ còn một lá phổi. Tuy đã nhận bằng thạc sĩ hóa học, ngài đã quyết định không gắn bó với chuyên môn này mà muốn trở thành một linh mục.
Linh Mục Dòng tên
Sau khi học tại chủng viện Villa Devoto, ngài vào nhà tập Dòng Tên ở Cordoba ngày 11 tháng Ba năm 1958 và khấn lần đầu trong Dòng hai năm sau – ngày 12 tháng Ba năm 1960. Sau đó, thầy Bergoglio học nhân văn và triết học, và đã hoàn thành chương trình cử nhân triết học tại Đại Học Maximo San José ở San Miguel năm 1963. Theo chương trình huấn luyện của Dòng, sau thời gian học triết, thầy Bergoglio đã làm hai năm thực tập tông đồ tại hai trường Inmaculada ở Santa Fe và Salvador ở Buenos Aires. Tại đây, thầy giảng dạy văn học và tâm lý học. Sau thời gian thực tập tông đồ, thầy đã học Thần học tại chủng viện San Miguel, từ năm 1967 đến năm 1970. Hoàn tất chương trình thần học, thầy Bergoglio được Đức Tổng Giám Mục José Ramón Castellano phong chức linh mục vào ngày 13 tháng 12 năm 1969.
Sau khi chịu chức, cũng theo chương trình huấn luyện của Dòng, cha Bergoglio đã làm nhà Tập năm ba tại Tây Ban Nha từ năm 1970 đến 1971 trước khi khấn trọng ngày 22 tháng 4 năm 1973. Sau khi hoàn thành chương trình nhà tập năm ba, từ năm 1971 đến 1973, cha Bergoglio đã được đặt làm Giám tập, trong thời gian này, cha cũng là giáo sư thần học tại học viện Maximo. Năm 1972 ngài cũng được đặt làm cố vấn của tỉnh Dòng tên Argentina. Với danh tiếng về tài lãnh đạo của mình, linh mục trẻ Bergoglio được Cha Bề Trên Cả Dòng tên đặt làm giám tỉnh khi mới 36 tuổi. Ngài giữ chức vụ này trong vòng 6 năm, từ năm 1973 đến năm 1979.
Sau đó, vào năm 1980, cha Bergoglio đã trở thành Viện trưởng của chủng viện San Miguel, nơi cha đã được đào tạo. Cha Bergoglio phục vụ trong cương vị đó cho đến năm 1986 trước khi sang Đức tiếp tục chương trình thần học của mình. Sau đó, cha Bergoglio đã trở về quê hương của mình để phục vụ như là cha giải tội và linh hướng tại Córdoba.
Giám Mục và Hồng Y
Sau thời gian hoạt động tích cực trong vai trò linh mục cũng như giáo sư thần học, vào ngày 27 tháng 6 năm
1992, cha Bergoglio được bổ nhiệm làm tổng giám mục phó giáo phận Buenos Aires với quyền kế vị, hiệu tòa Auca.
Vào ngày 28 tháng 2 năm 1998, ngài thay Đức Hồng Y Quarracino vào ngày 28 tháng 2 năm 1998 trong chức vụ Tổng Giám Mục Buenos Aires. Trong cương vị tổng giám mục, ngài còn làm chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Argentina hai nhiệm kỳ từ ngày 08 tháng 11 năm 2005 đến ngày 08 tháng 11 năm 2011. Ngoài ra ngài còn là thành viên của Liên Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh và đồng thời cũng là Đấng Bản Quyền cho người Công Giáo Đông Phương ở Argentina. Trong Thượng HĐGM thế giới kỳ 10 hồi tháng 10 năm 2001, ngài được bổ nhiệm làm Tổng tường trình viên.
Trong một công nghị diễn ra ngày 21 tháng 02 năm 2001, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tấn phong Hồng Y cho ngài với Hiệu Tòa là nhà thờ Robert Bellarmino. Trong cương vị Hồng Y, ngài cũng được bổ nhiệm vào một số vị trí trong Giáo Triều Rôma như Thánh Bộ Giáo sĩ, Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Thánh Bộ Đời Sống Tận Hiến và các Tu Hội Tông Đồ. Ngài cũng là một thành viên của Ủy ban châu Mỹ La tinh và Hội đồng gia đình.
Đức Hồng Y Bergoglio nổi tiếng về sự khiêm tốn, mạnh mẽ bảo vệ các học thuyết Giáo Hội và dấn thân cho công bằng xã hội.
Khi làm TGM giáo phận Buenos Aires, ngài nổi tiếng là người gần gũi với dân chúng. Người ta vẫn thường thấy hình ảnh một vị Giám mục đi lại bằng xe bus giữa những con chiên của mình. Ngài thường viếng thăm người nghèo khổ và đặc biệt là những người bệnh tật. Dù là Hồng y, Ngài sống trong một căn nhà nhỏ, chứ không phải tại nơi cư trú nguy nga của giám mục, và tự nấu ăn. Đối với nhiều người dân Buenos Aires, ngài thường được gọi bằng danh hiệu đơn sơ là “Cha Jorge”. Trong tư cách là Tổng Giám Mục, ngài đã nhắn nhủ với các giám mục rằng: “Đức Giê-su dạy chúng ta một cách khác: hãy ra đi và làm chứng, hãy ra đi và gần gũi với anh chị em của chúng ta, hãy ra đi và chia sẻ… Hãy trở thành lời trong thân thể cũng như trong tinh thần”. Không chỉ khuyên nhủ bằng lời, chính ngài đã hành động và đã nêu gương cho các anh em linh mục của ngài. Thật vậy, sau khi nhận mũ áo hồng y, vào thứ năm Tuần thánh 2001, ĐHY Jorge Mario Bergoglio đã hôn và rửa chân cho 12 người bị nhiễm HIV.
Trong tư cách là mục tử, ngài mạnh mẽ bảo vệ các học thuyết của Giáo hội đặc biệt là các vấn đề luân lý và bảo vệ sự sống. Ngài đã nhiều lần công khai lên án nạn hôn nhân đồng tính, tình trạng phá thai và ngừa thai nhân tạo. Hồi năm 2010, khi Argentina trở thành quốc gia Nam Mỹ đầu tiên ban hành luật công nhận hôn nhân đồng phái, ĐHY khuyến khích các linh mục toàn quốc kêu gọi các tín hữu Công Giáo chống lại luật này vì nó làm thương tổn ý nghĩa đời sống gia đình cách trầm trọng. Trước đó năm 2006, ngài cũng phê bình dự luật cho phá thai.
Khi còn là một linh mục, Đức Hồng y nổi tiếng với tài lãnh đạo. Khi làm Giám Mục và Hồng Y, ngài đã thiết lập các giáo xứ mới, chỉnh đốn các văn phòng hành chánh, hướng dẫn các sáng kiến bảo vệ sự sống và bắt đầu các chương trình mục vụ mới, như thành lập một Ủy ban về những người ly dị.
Đức Hồng Y Bergoglio cũng rất quan tâm đến việc đối thoại giữa các tôn giáo. Khi còn là tổng giám mục, ngài quan tâm đến vấn đề đối thoại với Do thái giáo. Ngài và giáo sĩ Do thái giáo Abraham Skorka là đồng tác giả Sobre el cielo y la tierra (Về trời và đất).

Giáo Hoàng Phanxicô
Sau cái chết của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Bergoglio, đã được nhiều người coi là một ứng viên sáng giá cho ngôi Giáo Hoàng vào năm 2005. Ngài là Hồng Y nhiếp chính điều hành cùng với Hồng Y Đoàn điều hành Tòa Thánh và Giáo Hội Công Giáo Roma trong thời gian trống tòa năm 2005. Đức Hồng Y Bergoglio được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13 tháng 3 năm 2013, trong ngày thứ hai của Mật nghị năm 2013. Ngài là vị giáo hoàng thứ 266 của Giáo Hội Công Giáo. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đến từ tân thế giới, đầu tiên xuất thân từ dòng Tên, và là vị Giáo Hoàng đầu tiên lấy danh hiệu là Phanxicô.

Nguyễn Minh Triệu sj- Vatican Radio

THÁNH GIUSE – ĐƯỜNG NÊN THÁNH

 THÁNH GIUSE  – ĐƯỜNG NÊN THÁNH

Saint Joseph 2

Trong các loài hoa, có  một loài không những thân luôn mọc về phía ánh sáng mà hoa còn luôn quay về phía mặt trời. Đó là Hoa hướng dương.Hoa hướng dương luôn hướng về  phía mặt trời với cánh hoa mở rộng đón nhận  ánh sáng và sức sống để toả hương khoe sắc.

Thánh Giuse như hoa hướng dương luôn hướng về Thánh Ý Thiên Chúa.Ngài hằng hướng mắt, hướng lòng về Thiên Chúa để nhận ra và  làm tròn Thiên Ý.Thánh Giuse được sách Tin mừng gọi là “người công chính”. Theo Kinh thánh, “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4; Rm 1,17; Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính, là hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người công chính, nói đơn giản là người tốt, ngay thẳng, trung tín, có trách nhiệm. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.

Thánh Giuse tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa. Ngài đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào,hễ biết là Ý Chúa, Thánh Giuse vui lòng lãnh nhận và mau mắn thi hành.
 
-Thấy Maria có thai,Giuse phải đau khổ lắm.Người Hôn thê đạo hạnh mà Ngài rất mực yêu thương lại mang thai trước khi về nhà  chồng. Bối rối và khó xử nhưng Ngài vẫn tiếp tục tin tưởng Maria trong sạch vẹn tuyền. Không một lời phàn nàn, ca thán, trách móc, Giuse không hề hạch sách hay tra hỏi Maria một lời nào, Ngài âm thầm ôm lấy nổi đau riêng mình với một quyết định : “Đào vi thượng sách”. Giuse không còn chọn lựa nào khác “ vì là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” ( Mt 1,19).Thế nhưng, Thiên Thần đã hiện ra với Giuse trong giấc mộng giải thích cho Ngài biết “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20);rồi Thiên Thần khuyên Giuse “Chớ sợ rước Maria về nhà mình”(Mt1,20). Nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa “ Giuse đã làm như lời Thiên Thần Chúa truyền và ông đã rước bà về”(Mt 1,24).

– Cuộc sống đang bình yên tại Bêlem thì  chính lúc đó Chúa lại bảo ông chỗi dậy đi ngay giữa đêm khuya, không hành trang, không tiền bạc sang Aicập sống kiếp lưu đày.Trước mắt là gian truân vất vả,đường dài vạn dặm mà vợ yếu con thơ, nhưng Giuse luôn tín thác vâng phục “Chỗi dậy, ông đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Aicập ngay giữa đêm khuya” (Mt 2,14).

– Khi đã ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người với một cơ ngơi bé  nhỏ mà Giuse đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng.Vậy mà một lần nữa Chúa lại bảo ông phải bỏ  lại tất cả để ra đi.Thật mau mắn trước Thiên  Ý “Giuse chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người về đất Israel”(Mt2,21).
 
Trước Thánh Ý Thiên Chúa, Giuse vâng phục và chu toàn.Từ Nazareth qua Bêlem, từ Bêlem đi Aicập, từ Aicập về Israel, Chúa bảo ông đi là ông đi, bảo ông về là ông về, bảo ông làm thế nào là ông làm thế ấy,đúng thời gian,đúng địa điểm mà không thắc mắc,không hoài nghi, không cự nự.Tất cả mọi lần Giuse đều thưa như Đức Maria “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”(Lc1,38).

Thánh Ý Thiên Chúa bao giờ cũng hoàn hảo, không những cho cá nhân mà còn cho toàn thể nhân loại. Thánh Giuse người công chính đã thực hiện lời mời gọi “nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo” (Mt 5, 48) bằng cách thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Công đồng Vatican II dạy: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tuỳ theo con đường của mỗi người” (GH 11,3).

Nên thánh theo con đường của Thánh Giuse là một con đường cho nhiều người.Không quan trọng mình là ai, địa vị nào trong xã hội, làm việc cao quý hay tầm thường. Trước nhan Thiên Chúa, mọi địa vị và công việc đều có giá trị. Điều quan trọng là hãy thực thi thánh ý Chúa, đáp lại tiếng Người mời gọi trong cuộc sống. Địa vị và công việc lao động chân tay của Thánh Giuse chỉ ở mức tầm thường; thế nhưng, ngài vẫn có khả năng biến đổi nó trở thành phi thường. Cái phi thường ở trong cái tầm thường của mỗi con người là một viên ngọc quý tiềm ẩn. Những người đồng thời nói về Thánh Giuse rất trìu mến là “bác thợ mộc”. Một tên gọi rất thường nhưng lại bao hàm lòng yêu mến con người thợ mộc ấy. Dĩ nhiên, phải có điều gì đó nơi người thợ mộc kia đã tạo được thiện cảm và lòng yêu mến của nhiều người. Ngày nay có bao nhiêu người chức nọ, quyền kia, có học vị, có địa vị, rất giàu có; nhưng khi nói về họ, nhiều người rủa thầm: tên này, tên nọ, thằng này, thằng kia, tay này, tay nọ… Để được tôn trọng, trước tiên người đó cần có lòng tự trọng. Công việc mỗi ngày bộc lộ tính tự trọng trong đó, người có lòng tự trọng sẽ làm công việc cẩn thận, có trách nhiệm, liêm khiết, công bằng, hợp tác, thân tình… Thánh Giuse là một con người “đầy tinh thần trách nhiệm”, một con người nhiều sáng kiến trong bất cứ công việc gì được trao phó. Thánh Giuse nên thánh trong nghề nghiệp của mình nên Ngài là Thánh bổn mạng của những người lao động.

Theo gương thánh Giuse, sống đạo là tin tưởng, cậy trông, yêu mến Thiên Chúa. Tin với tâm hồn thờ phượng, tạ ơn, với lòng phó thác nguyện cầu và sống theo Ý Chúa.

Hoa hướng dương là  hình ảnh Thánh Giuse. Nhìn một đoá hoa hướng dương khoe sắc ta nghĩ đến Thánh Giuse. Nhìn cả vườn hoa hướng dương đang rực rỡ trong nắng ấm ta ước mong mỗi người Kitô hữu là một bông hoa nhỏ luôn hướng tâm hồn về Thiên Chúa, mở rộng lòng đón nhận sự sống,tình yêu, niềm vui để rồi toả hương khoe sắc cho cuộc đời.
 
Thánh Giuse mãi mãi là tấm gương cho tất cả chúng ta soi.Tấm gương của một con người luôn thao thức lắng nghe tiếng Chúa và khi đã nghe thì  mau mắn đáp lại không thắc mắc cho dù phải trả  giá.Tấm gương của một con người luôn hướng tâm hồn về Chúa, xin vâng trước Thiên Ý, luôn phó thác để Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi của Người.Tấm gương về người quản gia trung tín chăm sóc hai kho tàng quý giá nhất trần gian là Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria.

Thánh Giuse là con người thầm lặng, ít nói, khiêm tốn, sống theo Ý Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Gioan Tẩy Giả chân thành “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Giuse đã sống điều đó mà không nói một lời. Chính cuộc sống ấy đã làm nên một con đường tu đức hướng đến trọn lành. Thánh Giuse là bậc thầy dạy con người sống an vui và nên thánh trong địa vị của mình. Thánh Giuse là mẫu gương cho mọi người nên thánh trong cuộc sống thường ngày.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG THÁNH GIUSE

SỐNG ĐỨC TIN THEO GƯƠNG THÁNH GIUSE

saint joseph3

Thánh Giuse được Tin mừng hôm nay công khai tuyên dương là “người công chính”. Công chính là gì?

Theo luân lý, công chính là trả cho người khác cái thuộc về họ. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu cũng có lần nói: “Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Việc thánh Giuse muốn kín đáo bỏ trốn được giải thích nhiều cách khác nhau. Nhưng cách giải thích chính xác nhất là của thánh Bênađô. Ngài nói:

“Lý do Giuse muốn rời bỏ Maria cũng là lý do mà Phêrô đã xin Chúa tránh xa ông: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! " (Lc 5:8). Đó cũng là lý do viên đại đội trưởng không dám mời Đức Giêsu vào nhà : “Thưa thầy tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi” (Lc 7:6). Như vậy, vì tự coi mình không xứng đáng và là người tội lỗi, nên Giuse tự nhủ rằng mình chẳng là gì hết để có thể sống chung với một con người vĩ đại như Đức Maria… Phêrô đã sợ hãi sự cao cả của quyền năng, viên đại đội trưởng đã e sợ sự hiện diện uy nghi, Giuse cũng thế, ông sợ hãi trước sự mới lạ, trước chiều sâu của một mầu nhiệm lớn lao, nên muốn rời bỏ bà cách kín đáo.. . Lý do khiến Giuse muốn rời bỏ Maria là thế đó”.

Thánh Giuse công chính không dám nhận những gì không phải của mình. Ngài muốn trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa. Bào thai trong lòng Đức Mẹ là quyền năng của Thiên Chúa. Thánh Giuse không dám lãnh nhận địa vị cao cả đó.

Đặc biệt hơn, công chính là sống đức tin. Đó chính là điều thánh Phaolô quả quyết khi nói về tổ phụ Abraham trong thư Rôma 4, 3.18-22 mà chúng ta nghe một phần trong bài sách thánh thứ hai: “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính….Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin…, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế ông được kể là người công chính”.

Quả thật Abraham luôn tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì tin tưởng nên ông mau mắn vâng lời, thi hành mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy. Thiên Chúa truyền cho ông bỏ quê hương xứ sở, lập tức ông lên đường. Thiên Chúa truyền dòng dõi ông sẽ đông như sao trên trời, như cát dưới biển, dù lớn tuổi, ông vẫn tin. Khi Isaac, con trai ông, đứa con của lời hứa, được mười hai tuổi, Thiên Chúa truyền ông sát tế dâng cho Người, ông lập tức thi hành.

Cũng trong thư Rôma, thánh Phaolô nhắc lại lời tiên tri Habacuc: “Người công chính sống bởi đức tin” (Hab 2,4// Rm 1,17// Gal 3,11). Sống đức tin là sống công chính. Vì ai tin vào Lời Chúa, thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa là trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả. Ta chẳng là gì. Mọi sự là của Thiên Chúa. Ta chẳng có gì. Vì thế tuyệt đối vâng lệnh Thiên Chúa và mau mắn thi hành mệnh lệnh của Người là điều hợp lý.

Thánh Giuse là người công chính vì thánh nhân tuyệt đối tin tưởng lời Thiên Chúa, dù lời Thiên Chúa nói với thánh nhân trong giấc ngủ. Thánh nhân tin vào lời Thiên Chúa, trong những sự việc bình thường và hợp lý. Như khi truyền cho thánh nhân đem Chúa Giêsu và Đức Mẹ trốn sang Ai cập và sau đó trở về. Thánh nhân còn tuyệt đối tin tưởng ngay cả trong những trường hợp bất thường và lý trí không giải thích được. Như khi thánh nhân định trốn đi, nhưng Thiên Chúa truyền cho thánh nhân ở lại để nhận Đức Mẹ về làm bạn. Không những tuyệt đối tin tưởng, thánh nhân còn mau mắn thi hành không chút chậm trễ. Đức tin của thánh nhân thật lớn lao. Và vì thế sự công chính của thánh nhân thật trổi vượt, xứng đáng được Tin Mừng chính thức ca tụng.

Chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin. Nhưng xem ra chúng ta còn thiếu đức tin. Nếu “người công chính sống bởi đức tin” thì ta chưa sống bởi đức tin. Vì ta còn thiếu công chính. Ta chưa trả cho người khác những gì thuộc về họ. Bất công lớn lao đang tràn lan khắp nơi. Ta chiếm đoạt những gì không phải của mình. Từ chiếm đoạt vật chất của cải, đến chiếm đoạt danh dự, phẩm giá của người khác. Từ chiếm đoạt quyền lợi, đến chiếm đoạt cả tự do. Từ chiếm đoạt uy tín, đến chiếm đoạt cả tiếng nói, cả ý kiến của người khác. Nhất là khi sự chiếm đoạt bât công được thể chế hóa qua guồng máy có tổ chức, được hợp thức hóa qua luật lệ. Tiếm quyền, tiếm danh, tiếm ngôn đang được thực hiện khắp nơi. Nhưng trên hết con người đang chiếm đoạt quyền lợi, và vị trí của Thiên Chúa.

Cần sửa chữa những tệ nạn này bằng một đời sống công chính. Đó là điều mà Hội đồng Giám mục Việt nam đã thể hiện qua bản góp ý để sửa đổi Hiến pháp nước Việt nam. Hãy trả cho từ ngữ đúng ý nghĩa của nó. Hãy trả cho người dân đúng quyền lợi của họ. Hãy trả cho đảng phái đúng vị trí của nó. Và hãy trả cho các cơ quan chính quyền đúng chức năng của nó.

Hôm nay chúng ta vui mừng hiệp thông với toàn thể Giáo hội trong ngày lễ đăng quang của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đức Thánh Cha là người thao thức với đời sống đức tin thể hiện qua sự công chính. Vì thế suốt đời mục tử ngài quan tâm tới đoàn chiên nghèo khổ. Đòi công bằng cho người nghèo được nghe rao giảng Tin mừng, ngài đã nói với các linh mục: "Chúa Giêsu dậy chúng ta một phương cách khác: Hãy đi. Hãy đi chia xẻ chứng tá của các bạn, hãy đi mà giao dịch với các anh chị em, hãy đi và chia xẻ, đi và thăm hỏi. Hãy trở thành Lời Chúa bằng cả thân xác lẫn tinh thần.”

Đòi công bằng cho người nghèo được quan tâm nên Ngài đã lên án các đồng sự lãnh đạo giáo hội là đạo đức giả vì đã quên rằng Chúa Giêsu Kitô đã làm cho người phong cùi được sạch và ăn uống với phụ nữ làng chơi. Để chia sẻ với người nghèo, bản thân ngài thường đi xe buýt đến sở làm, tự nấu ăn lấy và thường xuyên thăm viếng các khu xóm nghèo nàn xung quanh thủ đô nước Argentina.

Cũng vì luôn đứng về phía người nghèo và luôn bảo vệ công lý, chống lại bất công, bất bình đẳng trong xã hội, Ngài không ngại lên tiếng chỉ trích những điều bất công, phi lý. Mark Rice-Oxley trên nhật báo The Guardian tại Anh, hôm 13/03, năm 2009, cho biết Ngài đã chỉ trích chính phủ của Tổng thống Ernesto Kirchner, chồng của Tổng thống hiện tại của Argentina là Cristina Fernández de Kirchner, là xấu xa và bất chính khi để bất bình đẳng tại nước này gia tăng. Theo báo La Croix, Ngài đấu tranh chống nghèo đói vì Ngài coi nghèo đói là một sự vi phạm nhân quyền. Cũng theo bài viết này, trong một đất nước mà đối lập hầu như không tồn tại, Ngài thực sự là tiếng nói duy nhất dám đương đầu với vợ chồng Tổng thống Kirchner – người mà Ngài không ngừng chỉ trích là độc đoán, chuyên quyền.

Tạ ơn Chúa đã ban cho thời đại chúng ta một vị Giáo hoàng sống đức tin mãnh liệt trong đức công chính lớn lao. Chúng ta hãy đồng hành với ngài và noi gương ngài sống đức tin trong Năm Đức Tin này bằng đời sống công chính.

Lạy Thánh Cả Giuse là Đấng Công Chính, xin nâng đỡ Đức Thánh Cha Phanxicô.

 
 ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Công bố huy hiệu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Công bố huy hiệu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Logos Vatican

VATICAN. Hôm 18 tháng 3-2013, Phòng báo chí Tòa Thánh đã công bố huy hiệu của ĐGH Phanxicô.
Nòng cốt huy hiệu này giống huy hiệu Tổng Giám Mục của ngài.

Huy hiệu gồm có mũ Giám Mục có 3 nấc, với hai giải mầu đỏ, cùng với hai chìa khóa: một vàng một trắng được nối với nhau bằng một giây màu đó. Ở giữa là phần huy hiệu GM cũ của ĐTC gồm một thuẫn nền xanh da trời, ở giữa là hình mặt trời chiếu sáng ở trung tâm có hình thánh giá với 3 chữ viết tắt IHS, nghĩa là Chúa Giêsu Đấng Cứu Nhân. Đây cũng là biểu hiệu dòng Tên, xuất xứ của ĐTC. Dưới 3 chữ đó là 3 cái đinh màu đen. Bên dưới có hình ngôi sao và một bông hoa hương cam tùng (nardo). Ngôi sao tượng trưng Đức Mẹ Maria Mẹ Chúa Kitô và Giáo Hội; bông hoa hương cam tùng chỉ thánh Giuse bổn mạng Giáo Hội hoàn vũ, vì theo truyền thống hình ảnh Tây Ban Nha, thánh Giuse được tượng trưng bằng một nhành cây hoa hương cam tùng. Qua các biểu hiệu này, ĐTC muốn biểu lộ lòng sùng mộ đặc biệt đối với Mẹ Maria và Thánh Giuse.

Khẩu hiệu

Dưới các biểu hiệu đó là khẩu hiệu của ĐTC cũng là khẩu hiệu GM của ngài: Miserando atque Eligendo (Cảm thương và chọn), rút từ bài giảng của thánh Bêđa, chú giải sự tích Phúc Âm Chúa nhìn thấy Mathêu người biệt phái, ngài cảm thương và gọi ông theo Ngài. Thánh nhân viên. Câu đó là: ”Vidit ergo Jesus publicanum et quia miserando atque eligendo vidit, ait illi Sequere me” (Chúa Giêsu thấy một người thu thuế và ngài nhìn ông với tâm tình yêu thương và chọn ông, Ngài nói: Hãy theo Ta”.

Bài giảng này là một lời ca ngợi lòng từ bi Chúa và được diễn lại trong Phụng vụ các giờ kinh lễ thánh Mathêu. Bài giảng ấy có một ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đời và hành trình thiêng liêng của ĐGH. Thực vậy vào lễ thánh Mathêu năm 1953, thanh niên Jorge Bergoglio, 17 tuổi, đặc biệt cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong đời mình. Sau khi xưng tội, anh cảm thấy con tim được đánh động và cảm thấy lòng từ bi Chúa xuống trên anh, với cái nhìn yêu thương dịu hiền, Ngài gọi anh đi vào đời sống tu trì, theo gương thánh Ignatio Loyola.

Sau khi được chọn làm Giám Mục, Đức Cha Bergoglio nhớ lại biến cố ấy đã đánh dấu khởi sự cuộc tận hiến cho Chúa trong Giáo Hội, nên đã quyết định chọn câu nói của thánh Bêđa ”miserando atque eligendo”, như khẩu hiệu và chương trình sống của mình, và ĐTC muốn diễn tả lại cả trong huy hiệu Giáo Hoàng của Người. (SD 18-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong buổi tiếp kiến Hồng Y Đoàn lần đầu tiên

Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong buổi tiếp kiến Hồng Y Đoàn lần đầu tiên

Pope Francis Diễn văn đầu tiên

Anh em thân mến,
Thời gian Mật Nghị Hồng Y đầy ý nghĩa không những đối với Hồng Y Đoàn mà còn đối với tất cả các tín hữu. Trong những ngày này, chúng ta cảm nghiệm cách rõ ràng mối thân tình và tình liên đới của Giáo hội hoàn vũ, cũng như sự quan tâm của nhiều người, dù không cùng tôn giáo với chúng ta nhưng vẫn hướng về Giáo hội và Tòa thánh với niềm kính trọng và ngưỡng mộ.

Khắp nơi trên địa cầu, một bản hợp ca của lời cầu nguyện tha thiết được các dân Kitô giáo cất lên dành cho vị Giáo hoàng mới, và lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với cộng đoàn chật kín cả quảng trường thánh Phêrô là một bản hợp ca đầy cảm xúc. Với hình ảnh ấn tượng của một đám đông cầu nguyện và vui mừng như thế vẫn còn in dấu trong tâm trí tôi, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các giám mục, linh mục, những người tận hiến, các gia đình, người trẻ và người cao tuổi về sự gần gũi thiêng liêng của họ, là điều rất chân thành và đầy cảm kích.

Tôi cảm thấy cần phải nói lên lòng biết ơn sâu xa đối với tất cả anh em, những Hồng Y khả kính và thân thiết, vì anh em đã cộng tác để điều hành Giáo hội trong thời gian trống tòa. Trước hết, tôi xin chào Đức Hồng Y Angelo, Niên Trưởng Hồng T Đoàn và xin cảm ơn ngài về lời chào mừng mà ngài đã dành cho tôi nhân danh anh em. Cùng với ngài, tôi xin cảm ơn Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, vị Nhiếp chính của Tòa Thánh, về công việc tốt đẹp của ngài trong giai đoạn chuyển giao khó khăn này, và Đức Hồng Y Giovanni Battista Re, người điều hành Mật NghịHồngY. Với lòng biết ơn, tôi đặc biệt nghĩ đến các vị Hồng Y khả kính, vì tuổi tác và bệnh tật, vẫn đồng hành với chúng ta và yêu mến Giáo hội bằng những hy sinh và lời cầu nguyện. Và tôi muốn báo tin cho các ngài rằng, ngày hôm kia, Đức Hồng Y Mejia đã trải qua một cơn đau tim và đang ở trong bệnh viện. Tôi tin rằng ngài đã ổn định và ngài gửi đến chúng ta lời chào mừng.

Tôi không quên cám ơn tất cả những ai, bằng nhiều cách, đã chuẩn bị cho Mật Nghị Hồng Y, bảo đảm an toàn và yên tĩnh cho các Hồng Y trong thời gian rất quan trọng này của đời sống Giáo hội.
 
Với tất cả lòng biết ơn, tôi đặc biệt nghĩ đến vị tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đức Bênêđictô XVI, người mà trong những năm qua đã làm phong phú và tiếp thêm sinh lực cho Giáo hội bằng giáo huấn, lòng nhân từ, sự hướng dẫn, đức tin, sự khiêm hạ và ôn hòa của ngài; những điều này sẽ tồn tại như di sản thiêng liêng. Ngài đã cống hiến hết mình cho sứ vụ thánh Phêrô bằng cách diễn tả khôn ngoan và khiêm hạ, với cái nhìn luôn hướng về Đức Kitô, Đấng Phục sinh, hiện diện và sống động trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta luôn nhớ đến ngài bằng lời cầu nguyện nhiệt tâm và lòng biết ơn chân thành. Tôi cảm thấy rằng Đức Bênêđictô XVI đã thắp lên một ngọn lửa trong sâu thẳm tâm hồn chúng ta; ngọn lửa sẽ tiếp tục bừng cháy vì nó được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện mà ngài vẫn dành cho Giáo hội trong cuộc lữ hành thiêng liêng và sứ mạng của mình.

Anh em thân mến,

Buổi gặp gỡ của chúng ta nhằm tiếp nối tình hiệp thông Giáo hội sâu sắc mà chúng ta đã cảm nghiệm trong thời gian qua. Được thúc đẩy bởi tinh thần trách nhiệm sâu xa và được nâng đỡ bởi tình yêu lớn lao đối với Đức Kitô và Giáo hội, chúng ta cùng cầu nguyện, chia sẻ cho nhau những cảm nhận, kinh nghiệm và suy tư của mình trong tình huynh đệ. Trong chính bầu khí thân mật này, sự hiểu biết lẫn nhau và cởi mở cho nhau được lớn lên. Và đó là điều tốt bởi vì chúng ta là anh em. Như có một vị đã nói với tôi: các Hồng Y là những linh mục của Đức Thánh Cha. Chúng ta là cộng đoàn thân mật và gần gũi như thế, điều đó sẽ giúp ích cho mỗi người trong chúng ta. Sự cởi mở và hiểu biết lẫn nhau giúp chúng ta mở ra cho tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng Phù Trợ, là tác nhân tối cao của mọi sáng kiến và biểu lộ của đức tin. Điều này rất thú vị và mời gọi tôi suy nghĩ. Đấng Phù Trợ tạo nên mọi khác biệt trong Giáo hội và giống như vị tông đồ của tháp Babel. Mặt khác, Đấng Phù Trợ lại kết hợp tất cả những khác biệt này – không phải làm cho chúng như nhau – mà là hài hòa với nhau. Tôi nhớ đến một giáo phụ đã mô tả Thánh Thần là chính sự hài hòa: “Ipse harmonia est”. Đấng Phù Trợ ban cho mỗi người chúng ta đặc sủng khác nhau, và liên kết chúng ta nên một trong cộng đoàn Giáo hội, để thờ phượng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Bắt đầu từ chính tình liên kết đích thực của Hồng Y Đoàn, tôi muốn bày tỏ ước mong phục vụ Tin mừng với tình yêu mới mẻ, giúp cho Giáo hội ngày càng sống trong Đức Kitô và với Đức Kitô. Được thôi thúc bởi Năm Đức Tin, tất cả chúng ta, mục tử và giáo dân, chúng ta sẽ cố gắng trung thành thực thi sứ mạng thường hằng: sứ mạng mang Chúa Giêsu Kitô cho con người, và dẫn đưa con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, Đấng hiện diện thật sự trong Giáo hội và đồng thời hiện diện trong mỗi tâm hồn. Cuộc gặp gỡ này làm cho chúng ta nên con người mới trong huyền nhiệm Ân sủng, khơi lên trong lòng chúng ta niềm vui của người Kitô hữu, đó là cái lợi “gấp trăm” mà Đức Kitô ban tặng cho những ai đón nhận Ngài.

Như Đức Bênêđictô XVI nhắc nhở chúng ta nhiều lần trong giáo huấn của ngài, và cuối cùng với cử chỉ khiêm tốn và can đảm, rằng chính Đức Kitô dẫn dắt Giáo hội qua Thánh Thần của Người. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội, với ân ban sự sống và sức mạnh hiệp nhất. Người làm cho tất cả nên một trong Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Chúng ta đừng bao giờ chiều theo tinh thần bi quan và chua chát mà ma quỉ bày ra trước mặt chúng ta mỗi ngày; đừng bi quan và thất vọng. Chúng ta tin chắc rằng Chúa Thánh Thần, với hơi thở quyền năng, ban cho Giáo hội lòng can đảm để kiên trì tìm kiếm những phương cách mới để loan báo Tin Mừng, nhằm mang Tin Mừng đến tận cùng cõi đất. Chân lý Kitô giáo có sức thu hút và thuyết phục vì nó đáp ứng nhu cầu sâu xa của con người, loan báo một cách thuyết phục rằng Đức Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất trọn vẹn của con người và tất cả nhân loại. Việc loan báo này ngày nay vẫn còn giá trị như thời sơ khai của Kitô giáo, khi Giáo hội thực thi sứ vụ truyền bá Tin Mừng.

Anh em thân mến,

Hãy can đảm lên! Một nửa trong chúng ta đã già: Tôi thích nghĩ về tuổi già như ngai tòa của sự khôn ngoan. Người già thường khôn ngoan vì họ đã bước đi trên đời, như ông Simeon và bà Anna trong Đền thờ. Chính sự khôn ngoan đã giúp họ nhận ra Chúa Giêsu. Chúng ta hãy trao ban sự khôn ngoan này cho người trẻ: như rượu ngon được tăng triển theo thời gian, chúng ta hãy ban tặng sự khôn ngoan này của cuộc sống cho người trẻ. Tôi nhớ đến một thi sĩ người Đức viết về tuổi già rằng: “Es ist ruhig, das Alter, und fromm” – tuổi già là thời của bình an và cầu nguyện. Chúng ta cần trao ban cho người trẻ sự khôn ngoan này.

Anh em sẽ trở về giáo phận để tiếp tục sứ vụ của mình, được tiếp thêm sinh lực qua những ngày tràn đầy tình hiệp thông và lòng tin này. Kinh nghiệm độc đáo không gì sánh bằng này cho phép chúng ta hiểu được tất cả vẻ đẹp của Giáo hội, là điều phản ánh sự sáng của Đức Kitô Phục sinh: sẽ có ngày chúng ta chiêm ngưỡng khuôn mặt đẹp đẽ của Đấng Phục sinh.

Tôi xin phó thác sứ vụ của tôi và của anh em cho sự chuyển cầu đầy quyền thế của Đức Maria, Mẹ chúng ta, Mẹ Giáo hội. Dưới cái nhìn từ mẫu của Người, ước gì mỗi người chúng ta bước đi và lắng nghe tiếng của Con chí thánh của Mẹ, gia tăng sự hiệp nhất, kiên trì cầu nguyện và làm chứng cho đức tin chân thực trong sự hiện diện của Chúa. Tôi chân thành ban phép lành Tòa Thánh cho anh em, cho cộng sự viên của anh em và cho những người anh em phục vụ. 
 

Lm. Quang Long chuyển ngữ

 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô: Lòng Thương Xót Có Sức Biến Đổi Thế Giới

Đức Thánh Cha Phanxicô: Lòng Thương Xót Có Sức Biến Đổi Thế Giới

VATICAN. Hơn 150 ngàn người đã tham dự buổi đọc kinh Truyền Tin đầu tiên trong triều đại Giáo Hoàng của ĐTC Phanxicô trưa Chúa Nhật ngày 17 tháng 03 năm 2013. Từ sáng sớm rất nhiều tín hữu và khách hành hương đã tuôn về Quảng trường Thánh Phêrô để tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin và gặp gỡ vị Giáo Hoàng thứ 266 của Giáo Hội Công Giáo. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến từ tân thế giới và là người đầu tiên lấy danh hiệu Phanxicô.

Các con đường dẫn vào Roma đều bị phong tỏa, rất nhiều nhân viên an ninh và tình nguyện viên đã được huy động để hướng dẫn và giúp đỡ các tín hữu và khách hành hương. Ngoài ra còn có 300 tình nguyện viên sẵn sàng giúp những người khuyết tật mong muốn gặp gỡ Đức Thánh Cha. Vì số lượng người tham dự quá đông, ban tổ chức đã bố trí 4 màn hình khổng lồ để những người ở xa cũng thấy được ĐTC. Dân chúng đứng tràn ra tới đường Hòa Giải.

Đúng 12 giờ trưa, ĐTC Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của ngài trông xuống quảng trường, giữa tiếng reo vui mừng của các tín hữu. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, sau lời chào, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đến lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. ĐTC nói:

“Sau cuộc gặp vào thứ 4 tuần trước, hôm nay một lần nữa tôi lại có cơ hội để gặp gỡ anh chị em. Tôi hạnh phúc vì chúng ta gặp gỡ nhau trong ngày Chúa Nhật, ngày của Thiên Chúa. Điều này thật đẹp và quan trọng đối với mỗi người Kitô hữu chúng ta. Chúa Nhật là ngày chúng ta gặp gỡ, chào hỏi, và chia sẻ cho nhau, điều mà chúng ta đang làm tại quảng trường này.

Trong Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay, Lời Chúa trình bày cho chúng ta câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình được Chúa cứu khỏi án tử hình. Chiêm ngắm thái độ của Đức Giê-su, chúng ta không nghe thấy những lời trách mắng, những lời kết án, nhưng là lời của tình yêu, lời thương xót mời gọi chúng ta hoán cải.
Anh chị em thân mến, gương mặt của Thiên Chúa là gương mặt của người cha đầy lòng thương xót, Ngài luôn kiên nhẫn với chúng ta. Anh chị em hãy nghĩ về sự kiên nhẫn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, không phải Thiên Chúa luôn kiên nhẫn với mỗi người chúng ta sao? Vâng, đây chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn để hiểu, chờ đợi và không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta biết quay lại với Ngài với tất cả con tim. Như lời Thánh vịnh có chép rằng: “Lòng thương xót của Thiên Chúa vĩ đại dường bao”.

Tiếp đến Đức Thánh Cha nói rằng, trong những ngày này Ngài đã đọc một tác phẩm của thần học gia Kasper. Và chính tác phẩm đã gợi hứng cho ngài về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài nói:

“Đức Hồng Y Kasper nói về việc lắng nghe lòng thương xót, và lời này có thể biến đổi tất cả. Lòng thương xót có thể làm cho thế giới trở nên ấm áp hơn và công bằng hơn. Do đó, chúng ta cần hiểu lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài là một người cha đầy lòng thương xót đối với mỗi người chúng ta. Hãy nhớ lại lời của ngôn sứ Isaia: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18). Lòng thương xót đẹp biết bao!”

Sau đó ngài kể lại một câu chuyện trong kinh nghiệm mục vụ của ngài. Ngài nói:

“Tôi nhớ, vào năm 1992, khi còn là Giám mục, tôi đi dâng lễ tại một nhà thờ cho các bệnh nhân. Trong thánh lễ này tôi cũng giải tội cho một số người. Cuối thánh lễ, tôi đứng dậy vì tôi phải ban bí tích thêm sức. Lúc đó, có một người phụ nữ lớn tuổi tới gần tôi, bà rất khiêm nhường. Tôi nhìn người phụ này và nói với bà:
“Thưa bà, bà có muốn xưng tội không?”
Bà đáp: “Thưa có.”
“Nhưng nếu bà không có tội…”.
Và bà trả lời tôi rằng: “Tất cả chúng ta đều có tội”.
“Nhưng có lẽ Thiên Chúa sẽ không tha thứ cho chúng ta”, Tôi nói.
Bà đáp lại: “Chắc chắn Thiên Chúa tha thứ tất cả”.
“Nhưng làm sao bà biết, thưa bà?” Tôi hỏi lại.
“Vì nếu Thiên Chúa không tha thứ cho chúng ta, thế giới này sẽ không tồn tại”. Nghe những lời đó, tôi định hỏi bà rằng: “Bà ơi, nói cho tôi biết, phải chăng bà học ở trường đại học Gregoriana.” Bởi vì đây chính là sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Một sự khôn ngoan nội tâm về lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ quên lời này: Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ cho chúng ta, không bào giờ! Và vấn đề của chúng ta là gì? Thưa, vấn đề là chúng ta chán nản, chúng ta không muốn, chúng ta không mong muốn sự tha thứ. Ngài không bao giờ bỏ cuộc, không bao giờ! Thiên Chúa là người cha yêu thương luôn tha thứ. Ngài có một trái tim đầy lòng thương xót dành cho tất cả chúng ta. Và chúng ta cũng cần học và thương xót người khác. Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ Chúng ta, vì chính ngang qua mẹ, lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thực thi giữa con người.”

Tiếp đến, Đức Thánh Cha cảm ơn mọi người và ngài cũng xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho Ngài. Ngài nói:

“Tôi xin gửi lời chào đến tất cả khách hành hương, cảm ơn các bạn vì đã tiếp đón và cầu nguyện cho tôi. Hãy cầu nguyện cho tôi, tôi xin anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi cảm ơn các tín hữu tại Roma và toàn thể anh chị em đến từ nhiều nơi trên thế giới cũng như những ai theo dõi qua các phương tiện truyền thông. Tôi chọn Thánh Phanxicô làm Đấng bảo trợ cho triều đại giáo Hoàng của tôi vì ngài là một người Ý. Tôi muốn có một sự gắn bó thiêng liêng với vùng đất này, là nguồn gốc của tôi. Thế nhưng, Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta trở thành thành viên của một gia đình mới, gia đình của Thiên Chúa, để chúng ta cùng bước đi trên con đường Tin Mừng. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em, và đừng bao giờ quên rằng, Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi trao ban sự tha thứ.”

Cuối cùng Đức Thánh Cha ban phép lành cho tất cả những người hiện diện.

Nguyễn Minh Triệu sj – Vatican Radio

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến giới truyền thông

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến giới truyền thông

VATICAN. Sáng ngày 16 tháng 3-2013, ĐTC Phanxicô đã tiếp kiến hàng ngàn người thuộc giới truyền thông. Ngài kêu gọi họ hãy để ý tới bản chất đặc biệt của Giáo Hội khi thông tin về các hoạt động của Hội Thánh, và kể lại lý do tại sao ngài chọn tên Phanxicô.

Hiện diện tại Đại thính đường Phaolô 6 trong buổi tiếp kiến từ lúc 11 giờ có lối 2,500 người, họ đại diện cho khoảng 6 ngàn người thuộc 81 quốc gia có mặt tại Roma để thông tin về các hoạt động của Tòa Thánh, từ sau khi Đức Biển Đức 16 từ nhiệm, cho tới việc bầu Giáo Hoàng mới và các hoạt động đầu tiên của ngài.

Đức TGM Claudio Maria Celli, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh truyền thông xã hội, đã đại diện mọi người chào mừng ĐTC và giới thiệu với ngài các thành phần chính trong giới truyền thông hiện diện.

Lên tiếng trong dịp này, ĐTC đã cám ơn những người thuộc giới truyền thông đã hoạt động rất nhiều trong những ngày này; ngài đề cao vai trò ngày càng quan trọng của các phương tiện truyền thông và nói thêm rằng: ”Tôi đặc biệt cám ơn những người đã biết quan sát và trình bày những biến cố này trong lịch sử Giáo Hội, để ý đến viễn tượng đúng đắn nhất trong đó cần phải đọc các biến cố ấy, viễn tượng đức tin… Các biến cố Giáo Hội chắc chắn là không phức tạp hơn các biến cố chính trị hoặc kinh tế! Nhưng chúng có một đặc tính đặc thù sâu xa: đó là đáp ứng một tiêu chuẩn chủ yếu không thuộc các biến cố trần thế, và chính vì thế không dễ giải thích và thông truyền cho một công chúng rất rộng lớn và khác biệt. Thực vậy Giáo Hội tuy là một tổ chức con người và lịch sử, với tất cả những yếu tố đi kèm, nhưng Giáo Hội không có một bản chất chính trị, trái lại Giáo Hội nòng cốt là tinh thần: là Dân Thiên Chúa. Dân Thánh của Thiên Chúa đang tiến bước về cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô. Chỉ khi nào đặt mình trong viễn tượng ấy ta mới có thể hoàn toàn giải thích được những gì Giáo Hội thực hiện”.

ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”Chính chúa Kitô là vị Mục Tử của Giáo Hội, nhưng sự hiện diện của Chúa trong lịch sử, tiến qua tự do của con người, trong đó một người được chọn để phục vụ như Đại Diện của Chúa, là Người Kế nhiệm thánh Phêrô Tông Đồ, nhưng Chúa Kitô là trung tâm chứ không phải là Phêrô”.

Tại sao chọn danh hiệu Phanxicô

ĐTC ứng khẩu giải thích cho giới truyền thông lý do tại sao ngài chọn tên hiệu là Phanxicô. Ngài nói:

”Một số người không biết tại sao GM Roma đã muốn được gọi là Phanxicô. Một số người nghĩ đến Phanxicô Xavie, Phanxicô đệ Salê, và Phanxicô Assisi. Tôi kể cho các bạn lịch sử. Trong cuộc bầu phiếu, ở bên cạnh tôi có Đức TGM hồi hưu của giáo phận São Paulo, và nguyên là Tổng trưởng Bộ giáo sĩ, đó là ĐHY Claudio Hummes (OFM): một người bạn rất thân! Khi sự việc trở nên nguy hiểm hơn, ĐHY khích lệ tôi. Và khi số phiếu lên đến 2 phần 3, thì cộng đoàn vỗ tay như thói quen vì đã bầu được Giáo Hoàng. ĐHY Hummes ôm lấy tôi và nói: ”Bạn đừng quên người nghèo nhé!”. Và lời ấy đã đi vào tâm trí tôi: người nghèo, người nghèo!. Rồi ngay lúc ấy cùng với người nghèo tôi đã nghĩ đến thánh Phanxicô Assisi. Rồi tôi cũng nghĩ đến các cuộc chiến tranh, trong khi cuộc khui phiếu tiếp tục, cho đến tất cả các phiếu. Thánh Phanxicô là người hòa bình. Và thế là tên Phanxicô đi vào tâm hồn tôi: Phanxicô Assisi. Người khó nghèo, người hòa bình, người yêu mến và bảo tồn thiên nhiên, trong lúc này chúng ta đang có một quan hệ không tốt lắm đối với Đấng Tạo Hóa. Đó là vị mang lại cho chúng ta tinh thần hòa bình, con người thanh bần. A, tôi mong ước một Giáo Hội thanh bần và cho người nghèo dường nào! Sau đó một vài hồng y đã nói đùa với tôi: ”Lẽ ra bạn phải được gọi là Adriano, vì ĐGH Adriano VI là một nhà cải cách, cần phải cải tổ…”. Một vị khác nói: ”Không, không, tên của bạn phải là Clemente”. Nhưng tại sao? ”Clemente XV: như thế bạn trả đũa được ĐGH Clemente XIV là người đã giải tán dòng Tên!”. Đó là những câu nói đùa thôi…”

Giới truyền thông hiện diện đã nồng nhiệt vỗ tay vì những tiết lộ trên đây của ĐTC. Cuối buổi tiếp kiến, ngài đã bắt tay chào thăm hàng chục đại diện của giới báo chí và truyền thanh truyền hình. (SD 16-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Đức Thánh Cha yêu cầu các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh tiếp tục công việc

Đức Thánh Cha yêu cầu các vị lãnh đạo tại Tòa Thánh tiếp tục công việc

VATICAN. Hôm 16 tháng 3-2013, ĐTC Phanxicô đã bày tỏ mong muốn rằng các vị thủ lãnh và thành viên các cơ quan Tòa Thánh, cũng như các vị Tổng thư ký, và Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Quốc Gia Thành Vatican tạm thời tiếp tục trách vụ của mình cho đến khi ngài định liệu cách khác.

Thực vậy, Đức Thánh Cha muốn dành một số thời gian để suy tư, cầu nguyện và đối thoại, trước khi bổ nhiệm hoặc tái khẳng định chung kết.

Theo giáo luật, khi Tòa Thánh trống vị, tất cả các vị Tổng trưởng và Chủ tịch các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ngoại trừ ĐHY Chánh tòa Ân giải tối cao và ĐHY nhiếp chính, đều ngưng chức.

Sau khi đắc cử, Đức tân Giáo Hoàng thường yêu cầu các vị ấy tạm thời tiếp tục công việc cho đến khi ngài định liệu cách khác: bổ nhiệm người khác thay thế hoặc tái bổ nhiệm các vị ấy (SD 16-3-2013)

G. Trần Đức Anh OP – Vatican Radio

Tha thứ trong thinh lặng

Tha thứ trong thinh lặng

Phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình diễn ra khi Chúa Giêsu bắt đầu bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không nói rõ nội dung của bài giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào khởi đầu của bài giảng của Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn đã muốn nêu bật một cung cách rất đặc biệt trong sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài. Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Từ hàng bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung của những lời Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Ngài.

Cử chỉ không lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà Ngài muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy rằng những gì Ngài làm còn quan trọng hơn là những lời Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ ngôn. Có những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ ngôn bằng hành động. Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó Ngài muốn nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.

Chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng và nghe được tiếng nói của Chúa trong lương tâm. Đây là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy. Người ta ồn ào và hung hãn bao nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình hơn. Trước đó, người ta càng mạnh bạo để kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.

Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Có thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người khác. Có thể đó là bài học mà đám đông dân chúng đã tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình ngày hôm đó.

Mọi người đều rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Họ rút lui trong thinh lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông dân chúng ra về trong thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung của bài giảng ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa Giêsu không chỉ tha thứ và giải cứu cho người đàn bà ngoại tình. Ngài cũng đã loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài cũng bị điệu ra trước tòa án để xét xử. Nhưng như Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong phiên tòa xử người đàn bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài. Và tuyệt đỉnh của sự thinh lặng ấy là cử chỉ tha thứ của Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh lặng. Không phải chỉ có ấn phẩm mới đáng kể, im lặng cũng là nói lên một cách phát biểu, đó là im lặng của cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh tâm, im lặng của quá trình tăng trưởng, im lặng của thận trọng và nhất là im lặng của tha thứ.

Ngày nay, có quá nhiều những lời nói suông. Trong nền văn minh tràn đầy những ấn phẩm và trào ứa thông tin, những thứ tiếng ồn ào phát ra từ các phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại và chính trị. Ngay cả tình yêu cũng được diễn tả bằng những lời nói suông.

Trong những ngày này, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng của cõi lòng và lắng nghe sự thinh lặng của Chúa Giêsu trên thập giá. Từ trên thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.

Trích trong Mỗi Ngày Một Tin Vui